Phương pháp khử chất ô nhiễm nguy hiểm trong nước

pdf 57 trang phuongnguyen 3920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Phương pháp khử chất ô nhiễm nguy hiểm trong nước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphuong_phap_khu_chat_o_nhiem_nguy_hiem_trong_nuoc.pdf

Nội dung text: Phương pháp khử chất ô nhiễm nguy hiểm trong nước

  1. Phương pháp khử chất ô nhiễm nguy hiểm trong nước
  2. Phương pháp khử chất ô nhiễm nguy hiểm trong nước Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, Đại học Washington ở St.Louis đã phát hiện một phương pháp mới khử chất ô nhiễm nguy hiểm trong nguồn nước một cách có hiệu quả, đó là chất Ete butylic metyl bậc 3 (MTBE) có trong các nguồn nước đô thị có nồng độ thấp Biswas, Giáo sư về Khoa học Môi trường cho biết, một hợp chất có cấu trúc nano gọi là titan dioxit làm cho MTBE phản ứng với oxy tan trong nước để tạo ra khí cacbon dioxit không độc. Phản ứng này xảy ra bằng con đường oxy hoá MTBE trên bề mặt của titan dioxit tạo thành một sản phẩm có hại. Sau đó, Biswas chế tạo chất xúc tác cấu trúc nano để làm suy giảm chất ô nhiễm này. Biswas cho biết: “Các chất quang xúc tác được cấp điện từ một nguồn ánh sáng nhân tạo hoặc nguồn năng lượng mặt trời để vận hành ”. Công trình nghiên cứu của Biswas được giới thiệu tại Hội nghị hàng năm của Hội hoá học Hoa Kỳ tổ chức ở Philadelphia. Biswas đã triển khai lắp một bóng đèn cực nhỏ (corona) phát ra môt ánh sáng mờ khi có dòng điện chạy qua. Hệ thống này còn tạo ra lượng ôzôn thích hợp để tăng tốc độ oxy hoá MTBE thành cacbon dioxit. Biswas cho rằng điều quan trọng là tìm ra một phương pháp khử chất ô nhiễm này vì đây là “chất độc gây ung thư”, có trong nước, làm cho nước có mùi khó chịu. Vấn đề nan giải do thùng chứa nước rò rỉ Từ năm 1979, Hoa Kỳ đã sử dụng MTBE làm nhiên liệu, thậm chí những năm gần đây, ở California, MTBE được sử dụng làm chất thay thế cho các phụ gia chì chứa nhiều octan (hợp chất hydrocacbon của xăng) vì nó giúp cho xăng cháy hết. Vì vậy, MTBE có tác dụng làm giảm các sản phẩm phụ có hại đối với môi trường, xăng không chì khi không cháy hết hoàn toàn. Một hạn chế là MTBE cũng có thể gây nguy hiểm đối với sức khoẻ con người do tiếp xúc với các nguồn nước ngầm. Khi xăng rò rỉ, thì MTBE rất dễ hoà tan trong nước và thậm chí rò rỉ ở một địa điểm chỉ trong một thời gian rất ngắn cũng làm cho MTBE lan ra rất nhanh. Biswas đã thiết kế thành công một thiết bị gọn nhẹ để khử MTBE . Thiết bị ban đầu kích thước chỉ bằng 18x6 inch, chứa được 3-4 galông nước. Chất phản ứng khử được hết MTBE trong vài giờ. Các công ty như Salt Lake City ở Ceramatec đã cộng tác với ông để nâng cấp thiết bị lọc nước. Baswas tin rằng công nghệ của ông có thể được sử dụng trên phạm vi toàn quốc để khử MTBE trong nước. Sau khi Đạo Luật không khí sạch 1990 được ban hành, thì quy định các mức phát tán khí thải nguy hiểm của ô tô giảm đi, nhưng các mức MTBE trong xăng lại bắt đầu tăng lên.
  3. MTBE vẫn được coi là chất thay thế cho đến khi phát hiện được các mức MTBE khá cao trong nước giếng ở Santa Monica, California vào năm 1996, lúc đó mọi người mới bắt đầu chú ý tới chất ô nhiễm này. Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA) cho biết: nếu các mức ô nhiễm dưới 20-40 phần tỷ (ppb) thì được xem như không độc, tuy nhiên là nước có chứa các độc tố ở mức thấp hơn thì mùi của nước vẫn bị hôi. Biswas phát hiện ra rằng, titan dioxit là chất xúc tác trong quá trình oxy hoá MTBE. Titan dioxit được coi như một hợp chất kích thích vì nó còn oxy hoá cả bụi và các lớp bẩn, đồng thời cũng là một thành phần hoạt tính trong các sản phẩm, giống như các viên gạch ốp lát trong buồng tắm “tự sạch”. Đây là một “hoá chất kỳ diệu” được ứng dụng nhiều trong các công nghệ môi trường. Các hạt nano cũng là một lĩnh vực đang được tích cực nghiên cứu. Việc ứng dụng các hạt nano sẽ mang lại nhiều lợi ích, chẳng hạn việc sản xuất thuốc dưới dạng bơm xịt và các vật liệu mới – công trình nghiên cứu này đang được tiến hành dưới sự bảo trợ của Trung tâm đổi mới vật liệu ở Đại học Washington. Các hạt nano cũng có thể gây rủi ro đối với sức khoẻ con người. Biswas cho biết: “Cần giải quyết vấn đề rủi ro ngay từ đầu còn hơn là sau đó mới phát hiện. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tạo ra những hạt nano an toàn”. Nguồn: Washington University ib St Louis, 1/2005 Công nghệ tái sử dụng nước thải công nghiệp, thân thiện về mặt sinh thái Ngành công nghiệp dệt ở Tamil Nadu đóng vai trò quan trọng trong việc mang lại nguồn thu nhập cao từ xuất khẩu cho Ấn Độ, đặc biệt ở Tiruppur, Erode và Karur. Cùng với việc xả nước thải và tích trữ chất thải hóa học (dạng bùn) sau những công đoạn khác nhau và tẩy trắng trong công nghiệp dệt, thì nguồn nước ngầm cũng đang trở nên ô nhiễm. Trong thời đại thị trường tự do toàn cầu, người ta cho rằng, trong tương lai gần, ngành thương mại dệt sẽ phải đa dạng hóa các loại sản phẩm. Sự phát triển đó sẽ gây ô nhiễm nhiều hơn. Một tổ chức tình nguyện cùng với các nhà máy dệt đã triển khai công nghệ thân thiện về sinh thái để tái sử dụng nước thải từ các công đoạn dệt và tẩy trắng. Ông Prabhakar, Kỹ sư lâu năm về công nghệ xử lý nước thải cho biết: “Đây là hệ thống hoạt động của vòi phun, dùng hơi nước để làm bốc hơi nước thải hoặc dung dịch muối. Dung dịch này được cô đặc, sau khi đạt đến nồng độ đặc biệt, muối sẽ được thu lại. Nếu đó là nước thải, các chất thải rắn thì có thể được xử lý được hoàn toàn”. Ông Manivannan, nhà thiết kế hệ thống công nghệ xử lý nước thải được triển khai mới đây cho biết: “Hệ thống này có thể được ứng dụng trong ngành công nghiệp có quy mô nhỏ, đồng thời, công nghệ này cũng được ứng dụng cho các ngành công
  4. nghiệp gây ô nhiễm khác. Với công nghệ này, 1kg hơi nước sẽ xử lý được gần 3 - 3,2 kg nước thải”. Theo ước tính, khoảng 30 tấn bùn thải, các chất thải hóa học hàng ngày được xử lý đổ vào các sông, kênh rạch và các bể chứa gây ô nhiễm nguồn nước. Tình trạng này có thể đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe người dân ở khu vực Tiruppur, nơi tập trung nhiều ngành công nghiệp dệt. Các chất thải đã ảnh hưởng lớn đến độ mầu mỡ của đất canh tác trong khu vực. Nhìn chung, ngành công nghiệp dệt đòi hỏi nhiều nước, hơn nữa nước chỉ được sử dụng một lần vì nước thải ra có chứa hoá chất độc hại. Với công nghệ được triển khai mới đây, có thể giảm được ô nhiễm trong một phạm vi lớn và loại bỏ hoàn toàn quá trình tạo bùn, 90% nước thải có thể được tái sử dụng trong các quy trình xử lý tương tự và đạt được mục tiêu tẩy trắng, đây là một công nghệ thân thiện về mặt sinh thái. Nguồn: Webindia, 1/2005. Xử lý ô nhiễm nước bằng vi khuẩn amôni Phương pháp sinh học xử lý ô nhiễm amôni trong nước cấp có nhiều ưu điểm, với hiệu suất ổn định, không sinh ra các sản phẩm phụ và ít tốn kém để hoàn nguyên vật liệu như phương pháp trao đổi ion nếu áp dụng ở điều kiện Việt Nam. + Tình trạng ô nhiễm amôni (NH4 ) trong nước cấp, đặc biệt trong nguồn nước ngầm ở Hà Nội là khá phổ biến với nồng độ cao, có thể tới 10-20mg/l hoặc hơn. Xử lý loại bỏ amôni là yêu cầu cần thiết, tránh hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe người dân. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng, phương pháp xử lý amôni trong nước không chỉ yêu cầu đảm bảo hiệu quả xử lý mà chi phí phải phù hợp. Trên cơ sở những yêu cầu này, TS. Nguyễn Việt Anh và các đồng sự ở Trung tâm kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp (CEETIA) - Đại học xây dựng Hà Nội đã chọn phương pháp xử lý amôni sinh học, kết hợp nitrat hóa và khử nitrat với giá thể vi sinh là sợi acrylic để nghiên cứu. Theo phương pháp này, amôni trước hết bị ôxy hóa thành các nitrit nhờ các vi khuẩn Nitrosomonas, Nitrosospire, Nitrosococcus Nilrosolobus. Sau đó, các ion nitrit bị ôxy hóa thành nitrat nhờ các vi khuẩn Nitrobacter, Nitrospina, Nitrococcus. Các vi khuẩn nitrat hóa Nitrosomonas và Nitrobacter thuộc loại vi khuẩn tự dưỡng hóa năng. Năng lượng sinh ra từ phản ứng nitrat hóa được vi khuẩn sử dụng trong quá trình tổng hợp tế bào. Nguồn cacbon để sinh tổng hợp các tế bào vi khuẩn mới là cacbon vô cơ. Ngoài ra, chúng tiêu thụ mạnh ôxy. Quá trình trên thường được thực hiện trong bể phản ứng sinh học với lớp màng vi sinh (bùn) dính bám trên các vật liệu mang (giá thể vi sinh). Việc tạo màng sinh vật trên bề mặt vật liệu mang sẽ làm tăng tốc độ phản ứng sinh hóa, đồng thời tăng tuổi thọ của bùn hoạt tính.
  5. Để loại bỏ nitrat trong nước, sau công đoạn nitrat hóa amôni là khâu khử nitrat sinh hóa nhờ các vi sinh vật dị dạng trong điều kiện hiếm khí (anoxic). Nitrit và nitrat sẽ chuyển thành dạng khí nitơ (N2). Để thực hiện phương pháp này, người ta cho nước qua bể lọc kỵ khí với vật liệu lọc, nơi dính bám và sinh trưởng của vi sinh vật khử nitrat. Quá trình này đòi hỏi phải có nguồn cơ chất - chất cho điện tử. Chúng có thể là chất hữu cơ, sunfua hydro H2S Nếu trong nước không có ôxy nhưng có mặt các hợp chất hữu cơ mà vi sinh hấp thụ được, trong môi trường anoxic, khi đó vi khuẩn dị - dưỡng sẽ sử dụng các ion nitrat NO3 như nguồn ôxy để ôxy hóa chất hữu cơ (chất - nhường điện tử), còn NO3 (chất nhận điện tử) sẽ bị khử thành khí nitơ. Một mô hình thí nghiệm xử lý amôni trong nước ngầm với các thiết bị, vật liệu cần thiết đã được Trung tâm CEETLA thiết kế và cho vận hành liên tục trong hai năm 2003 và 2004 ở điều kiện hoạt động tiêu chuẩn về nhiệt độ, ánh sáng Kết quả cho thấy, sau hai quá trình nitrat hóa và khử nitrat, hàm lượng amôni trong nước thí nghiệm từ khoảng 20mg/l đã giảm xuống chỉ còn xấp xỉ 0-0,7mg/l, đạt hiệu suất từ 93,2 - 99,9%. Thí nghiệm cũng cho thấy, với hàm lượng amôni trong nước dưới 10mg/l, có thể chỉ cần thực hiện một quá trình nitrat hóa là đạt được yêu cầu chất lượng nước cấp cho sinh hoạt hiện nay của Bộ Y tế là 15mg/1. Với hàm lượng amôni trong nước lớn hơn, cần thực hiện cả hai quá trình: nitrat hóa và khử nitrat để đạt yêu cầu chất lượng nước - + - với cả chỉ tiêu NO3 vì NH4 được chuyển hóa thành NO3 ). Vật liệu mang acrylic rất phù hợp để làm giá thể dính bám vi sinh trong xử lý sinh học. So với các vật liệu có nguồn gốc tự nhiên như các loại đá khoáng xốp, vật liệu này có các chỉ tiêu vượt trội hơn hẳn về độ sạch, diện tích tiếp xúc bề mặt, độ rỗng, độ bền, nhẹ, lại không bị tắc và sức cản dòng chảy nhỏ. Còn so với các vật liệu nhân tạo khác, acrylic cũng có nhiều ưu điểm như độ dính bám tốt, nhẹ và giá thành rẻ. Qua thí nghiệm cho thấy hiệu quả xử lý của cả hai quá trình nitrat hóa và khử nitrat đạt khá cao và ổn định. Điều đó chứng tỏ công nghệ xử lý amôni trong nước ngầm bằng phương pháp sinh học trên là rất khả thi, có thể triển khai ứng dụng trong thực tế. So với các công nghệ xử lý amôni theo phương pháp sục clo/nước javen hay phương pháp trao đổi ion vốn tốn kém và chỉ áp dụng được cho các trạm cấp nước quy mô nhỏ, phương pháp sinh học không chỉ rẻ tiền hơn mà còn cho phép triển khai xử lý amôni trong nước ở quy mô vừa và lớn. Nguồn: Nhân dân, 07/01/2005 Công ty Fujitsu và Toray phát triển loại chất dẻo đầu tiên từ thực vật dùng cho máy tính cá nhân
  6. Công ty Fujitsu Limited, Fujitsu Laboratories và Toray Industries đã thông báo về việc liên doanh sản xuất vỏ máy tính xách tay cỡ lớn đầu tiên trên thế giới bằng chất dẻo từ thực vật. Chất dẻo mới thân thiện với môi trường này được sử dụng cho loại máy tính xách tay FMV-BIBLO model mùa xuân 2005 của Futjitsu. Ba công ty này có kế hoạch mở rộng các ứng dụng khác nhau đối với chất dẻo này, góp phần giảm gánh nặng về môi trường cũng như giảm mức tiêu thụ tài nguyên dầu mỏ. Trong những năm gần đây, các vấn đề môi trường như suy giảm tầng ôzôn, ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường và sự gia tăng nhanh chóng của chất thải công nghiệp và chất thải độc hại đã diễn ra trên toàn thế giới. Để giải quyết các vấn đề này, cần phải phát triển xã hội “tái chế”. Hiện nay, các luật và các quy định về môi trường khác nhau đang được xây dựng trên phạm vi toàn cầu. Ngành công nghiệp Công nghệ Thông tin (IT) cũng không nằm ngoài các xu hướng này, ở Nhật Bản, nhận thức về môi trường đang được nâng cao với việc thông qua nhiều luật liên quan tới môi trường như Luật Khuyến khích Mua bán Xanh, Luật Khuyến khích Sử dụng hiệu quả Tài nguyên và Luật Phát thải Chất ô nhiễm và Đăng ký Chuyển nhượng (PRTR). Sử dụng các nhiên liệu hoá thạch như dầu mỏ và than đá làm tăng CO2 trong khí quyển và gây hiệu ứng nhà kính, do vậy, giảm các phát tán CO2 là đòi hỏi cấp bách. Căn cứ vào các sự kiện này, cần quan tâm nhiều hơn tới việc ứng dụng các chất dẻo được sản xuất bằng nguyên liệu từ thực vật để thay thế cho chất dẻo từ nguồn tài nguyên có hạn là dầu lửa. Tháng 6/2002, sử dụng polylactic chiết suất từ cây ngũ cốc và từ các loại cây khác, Fujitsu và Fujitsu Laboratories đã phát triển công nghệ chất dẻo từ thực vật đầu tiên trên thế giới. Chất dẻo này có thể được dùng làm linh kiện vỏ máy tính xách tay cỡ nhỏ. Công nghệ được ứng dụng làm vỏ máy tính xách tay FMV-BIBLO của Fujitsu. Công ty Toray xác định polylactic là nguyên liệu ưu việt, thân thiện môi trường và công ty đang phát triển các thị trường sợi, dệt may, chất dẻo và màng ở chi nhánh mang tên Ecodear, đồng thời vẫn đang tiến hành nghiên cứu về các biện pháp để đạt hiệu suất sử dụng axít polylactic cao hơn. Để mở rộng ứng dụng chất dẻo từ thực vật, ba công ty này đang nâng cao khả năng chịu nhiệt và các đặc tính làm chậm cháy của nguyên liệu. Trước đây, nguyên liệu mới này không đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng loạt và sử dụng cho vỏ máy cỡ lớn, do axít polylactic có nhiệt độ chuyển hoá thuỷ tinh thấp, gây khó khăn cho quá trình đúc khuôn. Các công ty này hiện đang phát triển một loại chất dẻo mới sử dụng công nghệ hợp kim polyme trộn lẫn với axít polylactic và với một chất dẻo không kết tinh có nhiệt độ chuyển hoá thuỷ tinh cao, cũng như là công nghệ làm chậm cháy. Các tiến bộ này đã tạo ra nguyên liệu chịu nhiệt và làm chậm cháy cho màn hình cỡ lớn của các thiết bị IT, thích hợp với việc sản xuất hàng loạt.
  7. Về mặt môi trường, chất dẻo này chứa khoảng 50% sản phẩm tự nhiên (trong đó có các nguyên liệu từ thực vật), làm giảm sử dụng tài nguyên dầu lửa. Khi chất dẻo được sử dụng để sản xuất máy tính xách tay, các phát tán CO2 trong toàn bộ vòng đời của sản phẩm này sẽ giảm khoảng 15%, từ đó giảm được nhiều hơn các tác động của môi trường. Fujitsu, Fujitsu Laboratories và Toray dự kiến sẽ mở rộng phạm vi sử dụng nguyên liệu mới này như là một biện pháp để giảm gánh nặng về môi trường và mức tiêu thụ dầu lửa trong ngành công nghiệp IT. Nguồn: Earthvision, 1/2005 Sandia bắt đầu thử nghiệm các công nghệ khử asen mới Các nhà nghiên cứu của Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia thuộc Cơ quan An ninh Hạt nhân Quốc gia, Hoa Kỳ sẽ tiến hành thử nghiệm các phương pháp mới để xử lý nước nhiễm asen nhằm giảm chi phí đáp ứng được tiêu chuẩn mới về asen do Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA) đề ra cho các chính quyền thành phố. Thử nghiệm này sẽ được Công ty Công nghệ Khử Nước nhiễm Asen (AWTP) tài trợ. Malcolm Siegel, Giám đốc Dự án Chứng minh Công nghệ Xử lý Asen Sandia cho biết: “Mục tiêu của chương trình là phát triển, trình diễn và phổ biến thông tin về các công nghệ xử lý nước chi phí - hiệu quả nhằm giúp các cộng đồng nhỏ ở Tây Nam và ở các nơi khác của nước này tuân theo tiêu chuẩn mới của EPA”. Thử nghiệm này được tiến hành tại một suối nước nóng, sử dụng làm nước uống cho vùng Socorro, New Mexico, Hoa Kỳ, một thị trấn có khoảng 9000 dân nằm cách miền Nam Albuquerque 80 dặm. Việc lắp đặt thiết bị thử nghiệm sẽ được hoàn thành vào tháng 12/2005 do Sandians Randy Everett và Brian Dwyer tiến hành Các thành viên của AWTP gồm có Sandia, Tổ chức Nghiên cứu Awwa (AwwaRF), và WERC, Tổ chức liên kết Giáo dục Môi trường và Phát triển Công nghệ. Tổ chức Awwa đang quản lý các chương trình nghiên cứu dài hạn. Sandia sẽ tiến hành chương trình trình diễn, còn WERC sẽ đánh giá tính khả thi về kinh tế của các công nghệ nghiên cứu và tiến hành các hoạt động chuyển giao công nghệ. Sự hỗ trợ của Quốc hội Hoa Kỳ và thiết kế của Công ty Công nghệ khử Nước nhiễm Asen được triển khai dưới sự lãnh đạo của Sen. Pete Domenici, Hoa Kỳ nhằm giúp các cộng đồng nhỏ tuân theo tiêu chuẩn mới về nước uống nhiễm Asen của EPA. Quy định mới này sẽ có hiệu lực vào tháng 1/2006, làm giảm Chất ô nhiễm ở mức cao nhất (MCL) từ 50 microgam/lít (µg/L) xuống còn 10 µg/L và nhằm làm giảm tỷ lệ mắc bệnh về bàng quang và ung thư phổi do tiếp xúc với asen.
  8. Ở miền Đông Nam Hoa Kỳ, các mức asen tự nhiên xuất hiện thường vượt quá MCL mới. Các yêu cầu tiêu chuẩn mới sẽ tác động tới các cộng đồng nhỏ ở vùng thiếu cơ sở hạ tầng xử lý thích hợp và kinh phí giảm thiểu asen tới mức yêu cầu. Thử nghiệm thí điểm ở Socorro sẽ so sánh 5 công nghệ mới do các trường đại học, các doanh nghiệp nhỏ và các công ty lớn xử lý nước ở các giếng lớn kéo dài khoảng 9 tháng. Các quy trình xử lý này được lựa chọn từ 20 công nghệ. Nhóm chuyên gia kỹ thuật đã xem xét các công nghệ này tại Diễn đàn các chuyên gia công nghệ xử lý asen do Sandia tổ chức. Sandia đang triển khai các kế hoạch thử nghiệm tương lai trong các cộng đồng dân cư ở Hoa Kỳ, tại New Mexico cũng như các vùng khác của nước này. Các địa điểm này sẽ được lựa chọn thông qua tư vấn của nhiều cơ quan như Bộ môi trường của New Mexico, EPA, Sở y tế bang India, EPA của Navajo, và Hội đồng quản lý công nghệ giữa các tiểu bang. Ngoài ra, AWTP sẽ đưa vào ứng dụng một website, nơi các cộng đồng có thể chất vấn về thử nghiệm công nghệ. Các nội dung trình bày sẽ bao gồm các công nghệ bổ sung được xem xét tại các diễn đàn chuyên gia cũng như các công nghệ khác được phát triển từ các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm do AwwaRF quản lý. Các diễn đàn giáo dục sẽ được WERC tổ chức ngay từ lúc bắt đầu trình diễn thử nghiệm để giới thiệu với các thành viên cộng đồng về chương trình và sau khi thử nghiệm được hoàn thành nhằm giới thiệu các kết quả thử nghiệm. . Nguồn: Science daily, 1/2005 Nguồn cung cấp nước uống từ nước mặn và nhiệt chất thải Mỗi ngày, có khoảng 10350 nhà máy khử mặn trên thế giới sản xuất hơn 8,3 tỷ galông (1 galông = 3,78 lít) nước uống đáp ứng nhu cầu dân số đang gia tăng. Các nhà máy làm được điều này nhờ phương pháp chuyển nước mặn thành nước ngọt bằng các kỹ thuật rẻ hơn rất nhiều. Hiện nay, hai giáo sư thuộc Đại học Của Florida, Hoa Kỳ đã cải tiến công nghệ nhiều hơn với một ý tưởng mới. Trong khi các nhà máy điện cần có nước để đáp ứng các mục đích làm mát còn các nhà máy khử mặn lại cần có nhiệt, vậy tại sao không kết hợp hai nhu cầu này lại? Theo tính toán của giáo sư James Klausner và Renwei Mei, quy trình này sẽ làm giảm 1/6 chi phí so với công nghệ hiệu quả nhất hiện nay. Barbara Carney, người quản lý dự án khử mặn, Phòng thí nghiệm Công nghệ Năng lượng Quốc gia cho biết: “Nước là yếu tố quan trọng để sản xuất điện, còn điện lại đòi hỏi khối lượng nước lớn. Thay vì chỉ sử dụng nước, các nhà máy điện có thể sẽ là nơi sản xuất nước”. Hiện nay, phần lớn các nhà máy khử mặn đều nằm ở Trung Đông, sử dụng một trong hai quy trình để chuyển nước mặn thành nước ngọt. Quy trình thứ nhất là đun sôi nước mặn và ngưng tụ hơi nước để tạo ra nước ngọt, đó là quy trình chưng cất. Quy trình thứ hai là sử dụng bơm cao áp để đẩy nước mặn qua các bộ lọc nhỏ, bộ lọc sẽ giữ nước mặn và khử muối và muối khoáng có trong nước mặn, quy trình này được gọi là
  9. quy trình thẩm thấu ngược. Cả hai công nghệ này đều cần tới nhiều năng lượng và không phải là công nghệ chi phí - hiệu quả trên quy mô lớn, ngoại trừ ở các khu vực như Saudi Arabia nơi thiếu nước và giá năng lượng rẻ. Kỹ thuật mới khử mặn theo kiểu khuếch tán (DDD) sử dụng nhiệt thải của các nhà máy điện. Vì nhiệt không đủ để làm sôi nước mặn, Giáo sư Klausner và Mei đơn giản chỉ sử dụng nhiệt để đun nước. Sau đó, nước được bơm lên đỉnh tháp khuếch tán, đó là một tháp chưng cất trong có khuôn tạo thành thác nước chảy chậm. Đồng thời, không khí nóng được bơm lên từ đáy tháp. Khi nước mặn chảy nhỏ giọt gặp không khí nóng, lúc đó quá trình bốc hơi nước diễn ra. Nước bốc hơi và không mặn được thu hồi. Theo bà Carney, “Thay vì giải phóng nước bốc hơi, ta có thể làm ngưng tụ để sản xuất ra nước ngọt”. Ở Hoa Kỳ, các nhà máy nhiệt điện tiêu thụ khoảng 39% khối lượng nước chỉ đứng sau ngành nông nghiệp, phần lớn lượng nước được sử dụng để làm mát đều ngưng tụ hơi nước. Để sản xuất một KW giờ điện cần tới 25 galông nước. Như vậy, người dân Hoa Kỳ sẽ sử dụng chừng đó nước khi họ thắp sáng và vận hành đồ gia dụng nhiều như là khi họ tắm và tưới nước cho bãi cỏ. Cho tới nay, đã có một nhà máy đầu tiên áp dụng DDD, mỗi ngày đang sản xuất khoảng 500 galông nước ngọt. Klausner và Mei tính toán, nhà máy DDD “rút” nhiệt từ chất thải của nhà máy điện với công suất trung bình 100 MW có thể tạo ra 1,5 triệu galông nước ngọt mỗi ngày. Chi phí theo ước tính là 2,50 USD cho sản xuất 1000 galông nước ngọt, trong khi đó đối với quy trình chưng cất thường là 10 USD/1000 galông và 3 USD/1000 galông đối với quy trình thẩm thấu ngược. Mặc dù các nhà máy DDD được thiết kế sản xuất hơn 5 triệu galông nước ngọt mỗi ngày là hợp lý, nhưng Klausner cho biết: “các nghiên cứu thị trường cho thấy chúng ta có ít rào cản xâm nhập thị trường khi sử dụng các thiết bị có công suất nhỏ hơn”. Theo đánh giá, chi phí sản xuất một thiết bị sản xuất 1 triệu galông nước mỗi ngày sẽ khoảng 2 triệu USD. Những cơ sở có thể xây dựng các nhà máy DDD sản xuất nước ngọt nằm gần các nhà máy điện và tận dụng được nhiệt thải. Các cơ sở công nghiệp khác tạo ra nhiệt thải và sử dụng nhiều nước ngọt như nhà máy lọc dầu, nhà máy giấy và bột giấy, nhà máy hoá chất và nhà máy chế biến thực phẩm cũng có thể xây dựng các nhà máy DDD của riêng để cung cấp nước cho chính mình. Klausner cho biết: “Chúng tôi rất quan tâm tới việc đưa công nghệ này vào lĩnh vực thương mại”. Để đưa công nghệ này vào thị trường, trường Đại học của Florida đang phối hợp với Công ty Công nghệ về Nước toàn cầu (GWT), công ty lọc nước ở Golden, Colo., sẽ cấp đăng ký công nghệ này cho các công ty khác. Theo George Kast, Trưởng ban điều hành công ty, GWT mong muốn tham gia xây dựng một nhà máy trình diễn quy mô lớn vào năm 2005. Nhà máy thương mại lớn hơn có thể sẽ ra đời vào năm 2006.
  10. Nguồn: Csmonitor, 2/2005 Clo lọc sạch nước nhưng lại làm bẩn không khí Mối liên kết giữa ô nhiễm thuỷ ngân với ngành công nghiệp chuyên sản xuất những chất cơ bản cho tất cả mọi thứ chẳng hạn như chất tẩy trắng giấy đã đươc chú ý, nhưng dường như vẫn còn thiếu quan tâm đặc biệt. Trong khi công chúng chủ yếu tập trung vào các nhà máy điện đốt than phát thải thuỷ ngân vào không khí, thì chỉ riêng 9 nhà máy cũ sản xuất clo ở Hoa Kỳ cũng đang làm rò rỉ vào môi trường khối lượng thuỷ ngân tương tự. Theo thông báo, có từ 5-7,7 tấn thủy ngân “phát thải” vào môi trường, mỗi năm khối lượng thuỷ ngân còn lớn hơn nhiều đã sử dụng trong quá trình sản xuất clo. Các nhà máy cũ cũng sử dụng thuỷ ngân để sản xuất clo. Dawn Winalski, giám đốc dự án về ô nhiễm của Oceana, một nhóm môi trường Washington đã đưa ra một báo cáo phê phán gay gắt vấn đề phát tán thuỷ ngân của ngành công nghiệp clo, cho biết: Nhiều người không biết đây là nguồn thuỷ ngân nữa xuất hiện trong môi trường. Hàng năm, khoảng 13-14 triệu tấn clo sản xuất ở Hoa Kỳ được dùng để lọc sạch nước, tẩy trắng giấy và tạo ra vô số sản phẩm từ chắn bùn của xe ô tô cho tới áo gi lê chống đạn. Mặc dù ngành công nghiệp này đã giảm đáng kể lượng thuỷ ngân thất thoát, song không ai dám chắc hoá chất này nằm ở đâu. Chẳng hạn năm 2000, các nhà máy sản xuất clo báo cáo đã tiêu thụ 79 tấn thuỷ ngân. Trong đó 14 tấn thuỷ ngân đã phát tán hay thải vào môi trường; số còn lại là 65 tấn được Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) xem là “bị thất thoát”. Con số này làm cho các nhà môi trường choáng váng, ngược lại thì cũng vào năm đó, 497 nhà máy điện của Hoa Kỳ đã thải 49 tấn thuỷ ngân, chất độc hại này vào không khí. Jon Devine, luật sư của Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên thiên nhiên (NRDC) cho biết: 65 tấn thuỷ ngân là quá nhiều. Nếu khối lượng lớn hoá chất này phát tán vào trong khí quyển, như vậy, các nhà máy này có thể cạnh tranh với các nhà máy điện về mức độ gây phát tán thuỷ ngân ở Hoa Kỳ. Các quan chức của ngành công nghiệp sản xuất clo cho rằng hầu hết khối lượng lớn thuỷ ngân vẫn tồn lưu tại địa điểm xây dựng nhà máy, bên trong thiết bị và các đường ống dẫn nước của nhà máy. Bà Tracy Cullen, phát ngôn viên của Viện Clo ở Arlington, Va. cho biết: Trong bản kiểm kê thuỷ ngân, ngành công nghiệp clo có thể chiếm tới 99% thuỷ ngân, thế nhưng không phải là quá nhiều. Chúng tôi đã cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm. Và hiện chúng tôi đang phối hợp với EPA nghiên cứu về các phương pháp mới tiên tiến hơn để quan trắc các phát tán “nhất thời”vào không khí. Theo EPA, cho tới nay thông tin khả dĩ nhất đó là không tính toán được lượng thuỷ ngân không phát thải vào không khí. Hơn nữa. khối lượng thuỷ ngân mà ngành công nghiệp clo tiêu thụ đã giảm từ mức trung bình năm khoảng 160 tấn vào những năm 1990 xuống còn 30 tấn năm 2002, giảm tới 81%.
  11. Tuy nhiên, những gì diễn ra với sự thất thoát thuỷ ngân và số phận của toàn bộ lượng thuỷ ngân tiêu thụ tại các nhà máy sản xuất clo-kiềm vẫn là điều bí ẩn. Cynthia Bergman, phát ngôn viên của EPA cho biết: EPA đã tiến hành nghiên cứu chi tiết về thuỷ ngân. Lượng thuỷ ngân thất thoát từ các nhà máy clo-kiềm sử dụng buồng ngăn thuỷ ngân là vấn đề rất quan trọng đối với EPA. Các nhà môi trường nhất trí rằng trong khi thuỷ ngân có thể chứa trong các bể chứa của những nhà máy sản xuất clo-kiềm cũ, có thể sẽ bay hơi vào trong khí quyển qua những cánh cửa sổ hoặc rò rỉ xuống dưới đất và nước ở xung quanh các nhà máy này. Clo được phát hiện vào năm 1774, loại khí nhà kính có màu vàng lục này dễ phản ứng tới mức nó xuất hiện trên Trái đất chỉ dưới dạng kết hợp với các nguyên tố khác đặc biệt là Natri để tạo thành muối. Dưới đây là một số ứng dụng của clo: ♦ Lọc nước. Trên toàn thế giới, clo được dùng để lọc nước uống và làm sạch bể bơi. ♦ Chất dẻo: ống dẫn làm bằng polyvinyclorua hay PVC là loại ống dẫn nước và nước thải được yêu thích vì không bị gỉ. ♦ Chất tẩy trắng: Ngoài những ứng dụng đa dạng trong gia đình, hợp chất clo còn được dùng để tẩy trắng bột giấy để sản xuất giấy. ♦ Khí độc: Gây hại do nồng độ cao, clo trở thành vũ khí thời kỳ Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Linda Greer, nhà khoa học ở NRDC cho biết: EPA cho rằng cần phải có biện pháp hữu hiệu hơn để phát hiện thuỷ ngân thất thoát từ các nhà máy sản xuất clo để bảo vệ sức khoẻ của con người. Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn là phải ngăn chặn các nhà máy này không tiếp tục dùng thuỷ ngân để sản xuất clo. Quả thực, đến nay trong số 43 nhà máy sản xuất clo-kiềm ở Hoa Kỳ thì phần lớn đều áp dụng các quy trình sản xuất sạch không sử dụng thuỷ ngân. Song, 9 nhà máy ở Hoa Kỳ và 52 nhà máy cũ hơn ở châu Âu vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu “buồng thuỷ ngân”, đòi hỏi số lượng lớn thuỷ ngân để tiến hành công việc tương tự. Quy trình sản xuất kiểu buồng thuỷ ngân bao gồm: bơm nước mặn qua các bể hay các “ bể” chứa thuỷ ngân. Mỗi bể có thể dài hơn 50 fít (1 fít = 0,3048 m), rộng 5 fít và chứa gần 8000 pao (1pao = 0,454 kg) thuỷ ngân. Dòng điện chạy qua bể này sẽ tạo phản ứng sản xuất clo và natri hydroxit, còn gọi là dung dịch kiềm. Mặc dù hầu hết các nhà máy đã chuyển sang các công nghệ không có thuỷ ngân, nhưng Viện Nghiên cứu Clo lại không ủng hộ việc cắt giảm sử dụng thuỷ ngân. Culle cho biết: “Không có lý do chính đáng để làm giảm việc làm ở Hoa Kỳ do phải đóng cửa các nhà máy đang hoạt động an toàn và lại đáp ứng được tất cả các tiêu chuẩn của bang và liên bang”.
  12. Không rõ là liệu các nhà quản lý có ép buộc sự thay đổi này không. Dù có áp lực lớn nhằm tăng cường kiểm soát các phát tán thuỷ ngân thì luật “Bầu trời trong sạch” được ban hành vào tháng 2/2005 vẫn chủ yếu tập trung vào các nhà máy điện. Tuy nhiên, các nhà môi trường vẫn hy vọng những thay đổi trong quy định mới khác của liên bang hiện đang được EPA thẩm định, sẽ nhằm vào mục tiêu kiểm soát thất thoát thuỷ ngân của các nhà máy sản xuất clo-kiềm. Châu Âu đang đi đầu trong việc cắt giảm thuỷ ngân ở các nhà máy sản xuất clo- kiềm vào 2007. Năm 2000, các nhà máy sản xuất clo bằng công nghệ buồng thuỷ ngân của 15 nước thành viên của Cộng đồng châu Âu báo cáo đã sử dụng 104 tấn, trong đó 96 tấn đã bị thất thoát. Tuy vậy, bên cạnh việc cắt giảm thuỷ ngân cũng nảy sinh một vấn đề nan giải là cần phải làm gì với hàng trăm tấn thuỷ ngân đang nằm trong các nhà máy cũ kỹ này. Ở Maine, sau khi nhà máy sản xuất clo bằng công nghệ buồng thuỷ ngân đóng cửa, thuỷ ngân được bán cho một môi giới, nhà môi giới này dự kiến sẽ bán hơn 100 tấn thuỷ ngân ra nước ngoài. Một cuộc bán đấu giá thuỷ ngân giữa các nhóm môi trường đã mang khối lượng thuỷ ngân 20 tấn sắp chuyển cho Ấn Độ lại quay trở về Hoa Kỳ. Các nhà môi trường cho biết: hiện nay, số lượng lớn thuỷ ngân còn nằm trong các thùng lưu giữ ở Wisconsin. Nguồn: Csmonitor, 2/2005 Công ty EBay và Intel đưa ra sáng kiến tái chế các đồ dùng điện tử đã sử dụng Hai công ty Ebay và Intel vừa đưa ra chương trình tái chế nhằm khuyến khích người dân Hoa Kỳ xử lý an toàn một khối lượng lớn các linh kiện điện tử và máy tính đã sử dụng. Theo nghiên cứu của Công ty Gartner, mỗi ngày người tiêu dùng Hoa Kỳ không sử dụng đến hoặc thay thế gần 133 000 máy tính cá nhân. Ebay thống kê, mỗi năm khoản tiền được dành để mua máy tính mới và máy tính đã qua sử dụng trị giá 2,5 tỷ USD và mua các đồ điện tử như điện thoại mạng, thiết bị trò chơi và máy tính xách tay là 2,5 tỷ USD. Tuy nhiên, vì có rất ít người muốn trả tiền tái chế, nhiều người lại không muốn vứt bỏ các ổ cứng trong đó chứa các dữ liệu cá nhân, nên các máy tính thường được xếp trong các tầng hầm, gara và các phòng ngủ. Các máy tính cá nhân (PC) có thể làm rò rỉ nhiều chất độc vào môi trường như chì, catmi, crôm và thuỷ ngân khi vứt bỏ bừa bãi. Giám đốc điều hành công ty EBay, Meg Whitman đưa ra sáng kiến “Rethink” tại triển lãm quốc tế hàng năm về các thiết bị điện tử tiêu dùng, trong lúc người ta không muốn thải bỏ chúng đi và cũng không biết xử lý như thế nào. Trong nhiều trường hợp, các công ty Hoa Kỳ sẽ giúp phân phối các PC cũ cho các địa điểm tập kết vật liệu điện tử phế thải hoặc các trung tâm tái chế của EBay.
  13. Theo nghiên cứu của San Jose thuộc Liên minh về chất độc của Thung lũng Silicon ở California, gần một nửa tổng số hộ dân Hoa Kỳ đang sử dụng những sản phẩm điên tử chưa bao giờ họ được sử dụng. Đến năm 2010, khoảng 400 triệu thiết bị điện tử lớn nhỏ sẽ được vứt bỏ. EBay sẽ kết nối các chủ sở hữu với các tổ chức từ thiện như các tổ chức giáo dục phi lợi nhuận để phân phối các PC cũ cho các cộng đồng nghèo. Hoặc người tiêu dùng có thể xử lý đơn giản các sản phẩm tại các trung tâm tái chế gần, ở các trung tâm này người ta lập danh mục sản phẩm tái chế và đưa lên mạng. Rethink sẽ liên kết với các cơ sở tái chế, cam kết không thải các thiết bị vào các bãi thải ở các nước đang phát triển - nguồn chất thải độc hại đối với môi trường đang ngày càng tăng ở Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á. Nguồn: Technologyreview, 1/2005 Fujitsu sử dụng 100% các vật liệu phân huỷ sinh học để bao gói linh kiện vi mạch Công ty trách nhiệm hữu hạn Fujitsu thông báo, họ sẽ chuyển đổi hoàn toàn sang sử dụng các vật liệu thực vật có khả năng phân huỷ sinh học để sản xuất bao gói linh kiện vi mạch, đó là băng mang dập nổi. Băng mang dập nổi chứa chip vi mạch là một vật liệu được dùng để bao gói các chip tích hợp cỡ lớn (LSI), bảo vệ các bán dẫn tránh được va đập và tĩnh điện khi các bán dẫn được vận chuyển thành từng cuộn lớn trong các phân xưởng sản xuất bán dẫn và các phân xưởng sản xuất bảng mạch. Fujitsu tin chắc rằng thay vì sử dụng polystyren, công ty sẽ dùng các vật liệu thực vật phân huỷ sinh học để sản xuất các băng mang dập nổi sẽ giảm 11% các phát tán cacbon dioxit. Công ty Fujitsu và các Phòng thí nghiệm của họ đã tập trung sản xuất băng mang dập nổi bằng thực vật phân huỷ sinh học và năm 2000, Fujitsu đã trở thành công ty đầu tiên trên thế giới sử dụng băng mang dập nổi để đóng gói các sản phẩm LSI dùng cho điện thoại di động. Đồng thời, băng mang dập nổi làm bằng thực vật phân huỷ sinh học do Fujitsu sáng chế là một loại vật liệu mới đã tạo được uy tín đối với khách hàng như độ bền, bảo vệ tránh rò rỉ tĩnh điện và có thể bảo đảm giữ được kích thước chính xác. Băng mang dập nổi dùng đóng gói các linh kiện vi mạch được sản xuất bằng axit polylactic từ ngô dùng cho các sản phẩm LSI khi vận chuyển bằng tàu biển. Băng mang dập nổi là loại vật liệu thân thiện môi trường, vừa phân huỷ nhanh, vừa không phát tán khí độc hại khi đốt cháy. Fujitsu hiện đang sử dụng khoảng 20% băng mang dập nổi để đóng gói hàng. Fujitsu sẽ tăng tỷ lệ sử dụng loại băng này lên tới 100% và như vậy, loại băng mang này sẽ được dùng để bao gói toàn bộ sản phẩm LSI. Do sử dụng axit polylactic trong thực vật để sản xuất băng mang gói linh kiện vi mạch của Fujitsu, nên so với loại chất dẻo thường được sử dụng trước đây thì có thể giảm khoảng 18% năng lượng cần thiết để sản xuất.
  14. Nguồn: Earthvision, 2/2005 Công nghệ sản xuất chất thay thế hoá chất độc hại metyl bromit Theo các nhà khoa học thuộc Cơ quan nghiên cứu nông nghiệp hàng đầu thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, một dạng che phủ mới bằng ni lông có thể giúp ngăn chặn các hoá chất xông khói từ đất phát tán vào không khí, có thể cung cấp kịp thời cho nông dân một chất thay thế trong lúc họ đang phải đối mặt với lệnh cấm sử dụng hoá chất metyl bromit. Các nhà khoa học thuộc Cơ quan nghiên cứu nông nghiệp (ARC) ở Gainesville, Fla đang nghiên cứu các tấm ni lông để che phủ trên các nền đất trồng rau và dâu tây. Các chất xông khói từ đất được tấm ni lông này giữ lại, làm hạn chế các vật hại dưới mặt đất trồng. Một loại che phủ ni lông còn gọi là màng không thấm nước (VIF), gồm một lớp ở giữa không thấm khí được cấu tạo để ngăn không cho chất xông khói trong đất thoát vào không khí. ARS đang nghiên cứu các chất thay thế an toàn đối với môi trường, đó là metyl bromit, chất xông khói đất. Theo các nhà nghiên cứu, riêng VIF không nằm trong mục địch sử dụng để thay thế metyl bromit, song nó có thể giúp nông dân sử dụng các chất xông khói ở mức độ thấp hơn, thích hợp với môi trường so với sử dụng metyl bromit. Hartwell Allen, một nhà thổ nhưỡng học, Trung tâm Y học, nông nghiệp, thú y về côn trùng thuộc ARS, đơn vị chuyên nghiên cứu về di truyền cây trồng và môi trường ở Gainesville và các cộng tác viên ở Đại học Florida đã chứng minh, VIF có thể ngăn chặn các chất xông khói đất thay thế có nồng độ cao hơn trong thời gian lâu hơn so với màng polyetylen theo tiêu chuẩn về độ dày hiện đang được dùng trong sản xuất rau và dâu tây. Một chất xông khói thay thế nữa được các nhà nghiên cứu thử nghiệm là chất diezen sinh học (1,3-D). Allen và Joseph Vu, chuyên gia về thực vật của ARS cùng các nhà nghiên cứu ở Đại học John Thomas là Li – Tse Ou và Donald Dickson đã tiến hành một số thử nghiệm tại hiện trường trong đất cát ở Gainesville để so sánh với màng polyetylen VIF phủ trên các lớp đất trồng. Các nhà nghiên cứu thấy rằng VIF giữ được các hợp chất xông khói hoạt tính trong một thời gian dài hơn, đảm bảo phân bố 1,3D đồng đều hơn và làm chậm các phát tán từ chất xông khói lên mặt đất một cách hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cần phải tiếp tục nghiên cứu thêm công nghệ VIF nhằm hoàn thiện tốc độ ứng dụng và độ tin cậy của công nghệ này. Nguồn: ARS, 1/2005
  15. Chế tạo bê-tông từ rác thải Sau hai năm nghiên cứu, PGS.,TS. Nguyễn Ngọc Châu thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã biến rác thải sinh hoạt thành bê-tông từ chất thải rắn (CTR) vô cơ. Thành công này góp phần bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế. Trước thực trạng phần lớn rác thải sinh hoạt ở Việt Nam được chôn lấp, vừa lãng phí, vừa gây ô nhiễm môi trường, TS Châu đã tận dụng CTR vô cơ (chủ yếu là cát, sỏi, đá, gạch vụn, nylon, gỗ) để sản xuất vật liệu xây dựng. Tìm tới Nhà máy xử lý rác Cầu Diễn (công suất 150 tấn/ngày) năm 2003, được biết chung quanh nhà máy đổ đầy CTR vô cơ loại này, ông đã bàn bạc với Ban Giám đốc nhà máy sàng lọc tiếp để chọn ra loại CTR vô cơ thích hợp (có kích thước 1,5-20 mm). Có nguyên liệu rồi, khó khăn lớn nhất là tìm kiếm chất kết dính cho CTR vô cơ. Sau khi làm đi làm lại nhiều mẫu thí nghiệm với keo chống thấm, nhựa đường, xi- măng, nhũ tương,v.v , TS. Châu đã quyết định chọn xi-măng poolăng PCB 30 vì tính dính kết cao và rẻ tiền hơn cả. Sau hai năm miệt mài nghiên cứu, hỗn hợp bê-tông CTR vô cơ ra đời, gồm cát, đá dăm, nước, xi-măng và CTR vô cơ từ rác thải sinh hoạt. Trong đó, CTR vô cơ chiếm tỷ lệ vượt trội các thành phần khác. Theo TS Châu, có thể sử dụng loại bê-tông trên làm móng đường giao thông trong thành phố. Trên thực tế, ông đã phối hợp với Nhà máy Xử lý rác Cầu Diễn xây dựng một con đường dài vài chục mét tại đó. Bê-tông còn được dùng để đúc gạch lát vỉa hè đường phố. Sản phẩm đã được chứng nhận là có khả năng chịu lực theo tiêu chuẩn nhà nước, không còn mùi vị, do vậy không ảnh hưởng tới môi trường đất, nước. Ngoài ra, có thể dùng bêtông CTR vô cơ đúc thành khối nặng vài tấn đắp đê, tạo ra mặt bằng mới cho nông dân nuôi trồng thủy sản. TS. Châu cho biết: ''Xây dựng làng kinh tế sinh thái trên biển theo mô hình này có thể xoá đói nghèo nhanh hơn cho nông dân vùng ven biển. Đồng thời đê còn chống được gió bão, là nơi để tàu thuyền neo đậu và chống sụt lở dọc bờ biển một số tỉnh miền Trung”. Theo TS. Châu, Việt Nam nên thành lập ngành công nghiệp tái chế chất thải sinh hoạt ngay từ bây giờ. Nếu có nhiều dây chuyền tái chế rác thì nhân dân vùng ngoại thành của các đô thị không còn lo ngại chính quyền đô thị vận chuyển rác đến đổ bên cạnh nhà họ. Về lâu dài, chúng ta cần phân loại rác sinh hoạt ngay từ hộ gia đình để giảm chi phí xử lý như hiện nay. Với tiềm năng phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, cụ thể là giảm lượng rác thải sinh hoạt được chôn lấp, cuối năm 2004, Hội đồng khoa học của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã cho nghiệm thu đề tài nghiên cứu này của TS. Châu và đã được đánh giá là xuất sắc. Nguồn: VNN, 02/03/2005 Xử lý rác thải bằng công nghệ hiện đại ở Thừa Thiên-Huế
  16. Ngày 31/3/2005, Công ty Cổ phần Kỹ nghệ ASC ở tỉnh Thừa Thiên-Huế đã đưa vào hoạt động Nhà máy xử lý và chế biến rác thải bằng công nghệ tiên tiến có công suất khoảng 160 tấn/ngày. Đây là cơ sở xử lý, chế biến rác thải hoàn chỉnh nhất hiện nay, do Trung tâm Nghiên cứu Rác thải Việt Nam thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ chuyển giao công nghệ và ứng dụng. Nhà máy được xây dựng tại xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế, trên diện tích rộng 17.000 m2. Hệ thống xử lý rác thải của nhà máy phải theo 4 công đoạn gồm phân loại rác và xử lý hỗn hợp hữu cơ; tách tuyển mùn hữu cơ và sản xuất phân vi sinh; tinh chế và sản xuất nhựa dẻo tái chế; và hoạt động của phân xưởng cơ điện và cơ giới. Nhà máy xử lý chế biến rác Thủy Phương nhận thu gom, xử lý rác thải cho thành phố Huế và các vùng phụ cận; nhất là giảm thiểu sự quá tải trong vấn đề xử lý, chế biến rác thải cho thành phố Huế, một vấn đề nan giải tồn tại trong nhiều năm nay. Nguồn: TTXVN, 1/4/2005 Chế tạo thành công tàu vớt rác trên sông Các kỹ sư Công ty Cấp Thoát nước và Công trình Đô thị Cà Mau đã chế tạo thành công tàu vớt rác trên sông, tăng hiệu quả công việc thu gom rác thải trôi nổi và giảm bớt sức lao động cho công nhân vệ sinh. Tàu vớt rác với công suất thiết kế 1.600 m2/giờ, vớt khoảng 70 - 80% lượng rác trên sông rạch và có thể hoạt động liên tục mỗi ngày. Tàu có hệ thống bơm thủy lực, rỗ lưới chắn rác và toàn bộ quy trình vận hành, điều khiển hoạt động khép kín, gọn nhẹ, hợp vệ sinh. Ưu thế của tàu này là ngoài việc vớt rác trôi nổi trên mặt nước còn thu gom được lượng rác chìm dưới sông rạch mà trước đây không thể vớt bằng phương tiện xuồng chèo hay sử dụng vợt, lưới. Mặt khác, tàu giúp công nhân vệ sinh tránh tiếp xúc thường xuyên với nước, rác thải, giảm bớt độ độc hại, tạo mỹ quan cho đô thị trong công tác vệ sinh môi trường. Ngoài ra, cùng một công suất vớt rác, hiệu quả hoạt động như nhau nhưng giá thành của tàu tự chế của Công ty Cấp Thoát nước và Công trình Đô thị Cà Mau vào khoảng 140 triệu đồng so với giá bán một số loại tàu khác trên thị trường hiện nay là hơn 260 triệu đồng. Nguồn: Tin tức, 28/03/2005
  17. Nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt theo công nghệ Seraphin tại thành phố Vinh, Nghệ An chính thức đưa vào vận hành Ngày 19/5/2005, Nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt Đông Vinh tại Khu Công nghiệp Bắc Vinh (Thành phố Vinh, Nghệ An) có dây chuyền công nghệ hiện đại theo công nghệ Seraphin bắt đầu tiếp nhận và xử lý 100% rác thải sinh hoạt hàng ngày. Thành phố Vinh sẽ trở thành đô thị đầu tiên trên cả nước không còn rác thải sinh hoạt phải chôn lấp. Bãi rác Đông Vinh tại xã Hưng Đông, TP.Vinh, Nghệ An sẽ có ngày càng nhỏ dần và có thể không còn tồn tại trong vòng 3 năm nữa do Công ty Cổ phần Công nghệ Môi trường Xanh đã đưa nhà máy xử lý rác Đông Vinh vào hoạt động thử nghiệm từ tháng 6/2004, vừa chính thức khánh thành tháng 4/2005 với công suất xử lý là 200 tấn/ngày. Nhà máy có diện tích nhà xưởng 1,4 hecta được xây dựng ngay trên bãi rác Đông Vinh với tổng diện tích mặt bằng 3,5 hecta. Thời gian qua, bãi rác này là nỗi kinh hoàng của người dân khu vực 2 xã Nghi Kim và Hưng Đông, đầy ruồi muỗi và mùi xú uế. Đến nay, người ta không có cảm giác ở cạnh bãi rác nữa, bởi toàn bộ rác tươi với khối lượng 150 tấn/ngày đã được Nhà máy xử lý ngay, rác khô đang chôn lấp tại đây cũng được xử lý dần bằng một dây truyền công suất 70 tấn/ngày với công nghệ xử lý rác đang được sử dụng là công nghệ Seraphin, một công nghệ hoàn toàn do Việt Nam thiết kế và chế tạo (đã được cấp Bằng Sở hữu trí tuệ). Những ưu việt nổi bật của công nghệ này là: đơn giản, dễ ứng dụng và đặc biệt phù hợp với điều kiện và cơ cấu thành phần rác thải sinh hoạt ở Việt Nam. Nó có khả năng làm giảm thiểu triệt để ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt gây ra, vì được xử lý ngay trong ngày, không còn chôn lấp rác tươi nên không còn mùi hôi và tuyệt đối không còn nước rỉ rác gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Mức đầu tư cho nhà máy xử lý rác theo công nghệ Seraphin thấp, thời gian đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động ngắn, máy móc được chế tạo tại Việt Nam nên bảo hành, bảo trì thuận lợi và ít tốn kém về kinh phí, thời gian. Hiệu quả tái chế, xử lý rác cao (đến 90%), tiết kiệm đất chôn lấp rác. Sản phẩm tái chế từ rác thải theo công nghệ Seraphin như ống thoát nước, tấm cốt pha,v.v đã được kiểm định cả tính năng, công dụng và vệ sinh môi trường, giá cả thấp. Có thể nói, trong bối cảnh thực trạng xử lý rác thải có nhiều bất cập hiện nay ở Việt Nam (công nghệ có giá thành cao, chủ yếu là chôn lấp, mà cũng chỉ có 13/64 tỉnh, thành có bãi rác chôn lấp hợp vệ sinh) thì việc xử lý rác thải bằng công nghệ Seraphin như trên là bước đột phá trong lĩnh vực xử lý môi trường nói chung và xử lý rác thải sinh hoạt nói riêng. Với tổng mức đầu tư 36 tỷ đồng, chỉ trong 8 tháng Nhà máy xử lý rác thải Đông Vinh đã chính thức đưa vào hoạt động so với dự án DANIDA của Đan Mạch đang được tiến hành tại Nghị Yên, huyện Nghi Lộc, Nghệ An (Ngoài vốn đối ứng, cần có vốn vay 9 triệu USD, mà theo kế hoạch phải đến năm 2008 mới đi vào hoạt động và vẫn phải chôn lấp là chủ yếu), Nhà máy xử lý rác thải Đông Vinh có thể coi là một mô hình đầu tư hiệu quả, cần được nhân rộng. Theo Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Môi trường Xanh, đến ngày 19/5/2005, nhà máy sẽ tiếp nhận và xử lý 100% rác thải sinh hoạt hàng ngày phát sinh. Thành phố Vinh sẽ trở thành đô thị đầu tiên trên cả nước không còn rác thải sinh họat phải chôn lấp. Sau 3 đến 4 năm, toàn bộ
  18. bãi rác chôn lấp tại xã Hưng Đông cũng sẽ được xử lý xong, trả lại đất cho mục đích hữu dụng khác. Phát biểu trong buổi lễ khánh thành nhà máy, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Hồng Quân khẳng định: đây là một mô hình xã hội hoá xử lý chất thải rắn đô thị, trên cơ sở công nghệ xử lý thích hợp với điều kiện thực tế ở các đô thị Việt Nam, cả về đặc điểm rác thải, về điều kiện kỹ thuật và khả năng đầu tư của các doanh nghiệp. Việc tự nghiên cứu, thiết kế và chế tạo những dây chuyền xử lý chất thải rắn đô thị của các đơn vị trong nước như Công ty Cổ phần Phát triển Môi trường Xanh cần được ủng hộ và ưu tiên đầu tư, đặc biệt là sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương. Một số tỉnh, thành phố khác như Hải Phòng, Hà Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Nam Định, Thanh Hoá cũng đang xem xét triển khai xây dựng nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt sử dụng công nghệ Seraphin như nhà máyĐông Vinh tại địa phương mình. Hy vọng các nhà máy xử lý rác theo công nghệ Seraphin ra đời ngày một nhiều sẽ đem lại nhiều lợi ích to lớn là làm mất dần đi các bãi rác đang có nguy cơ ngày càng nhiều lên. Nguồn: Báo Đại đoàn kết, 6/5/2005 Chế biến nilông phế thải thành tấm vật liệu và côppha Mỗi năm, các thành phố lớn tại Việt Nam thải ra khoảng 200.000 tấn nhựa, trong đó túi nilông và bao bì nhựa là 150.000 tấn. Phần lớn chúng được chôn lấp, gây ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên đất. Hiện nay, TS. Mai Ngọc Tâm cùng các cộng sự đã sản xuất thành công tấm vật liệu từ bao nilông phế thải. Lâu nay việc tái chế rác nilông còn ở trình độ thấp, do tư nhân tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh thực hiện. Họ chỉ nhặt và tái chế những màng PE dày, to; bỏ qua phần lớn túi nilông mỏng. Mô hình của TS. Mai Ngọc Tâm và các cộng sự được thực hiện theo một quy trình khép kín. Sau các bước sơ chế như phân loại rác, làm sạch, cắt nhỏ, sấy khô và pha trộn với các chất phụ gia là bột đá và xơ dừa hay sợi thủy tinh, nguyên liệu hỗn hợp trên được đưa vào máy ép để tạo thành tấm vật liệu. Qua sử dụng thí điểm, với ưu điểm về khả năng chịu ẩm, mặt nhẵn không dính bêtông và độ bền cao, không tác động xấu đến sức khỏe con người,v.v loại côppha làm từ nilông của TS. Mai Ngọc Tâm đã bộc lộ sự vượt trội so với các loại côppha gỗ (tuổi thọ ngắn), côppha sắt (hay bị gỉ, nặng nề) hoặc côppha nhựa (giá đắt). Những tấm vật liệu làm từ nilông này còn có thể được dùng để sản xuất đồ gia dụng như bàn ghế, tủ,v.v Từ năm 2003, Công ty Đầu tư Phát triển Nhà số 6 - Hà Nội đã sử dụng thử ván nhựa làm côppha xây dựng và đánh giá cao. Tiếp theo, nhiều đơn vị khác đã đề nghị chuyển giao công nghệ. Công ty Sản xuất Vật liệu Composite Nam Định đặt làm ván đóng thuyền, Công ty Phát triển Nhà An Giang đặt làm vật liệu bao che cho nhà ngập lũ, Hội Xây dựng TP. Hồ Chí Minh đặt làm ống thoát nước. Đến nay, viện đã sản xuất 400-500 m2 tấm vật liệu từ rác thải nilông. Dự kiến trong năm nay, nhóm nghiên cứu sẽ trình Bộ Khoa học và Công nghệ một dự án thử nghiệm nhằm sớm hoàn thiện công nghệ để chuyển giao.
  19. TS. Mai Ngọc Tâm cho biết, giá bán “côppha từ nilông” sẽ rẻ hơn côppha gỗ sắt hoặc nhựa. “Chúng tôi đang phối hợp với Công ty Hòa Phát đưa sản phẩm ra thị trường một cách rộng rãi hơn. Theo tính toán, để làm ra 1 m2 tấm vật liệu (dày 1 cm) cần tới 9-10 kg nilông. Do đó, chúng tôi mong muốn được phối hợp với các dự án xử lý rác để có nguồn nguyên liệu cho tái chế”. Nguồn: Tuổi trẻ, ND, 4/5/2005 Hệ thống xử lý nước cấp nhiễm phèn sắt Nước cấp nhiễm phèn sắt là một bài toán nan giải ở ĐBSCL, vừa chua, vừa ngang, rất khó sử dụng. Công ty TNHH Môi trường Việt Nam Xanh đã chế tạo thành công hệ thống xử lý loại nước này, cấp nước ở quy mô lớn. Theo công nghệ này, nước ngầm từ giếng khoan được bơm vào bể phản ứng, pha hóa chất rồi đưa lên tháp oxy hóa để loại bỏ khí CO2 và nâng độ pH của nước về giá trị trung hòa. Không khí được cấp vào tháp oxy hóa nhờ quạt thổi khí, chuyển hóa Fe2+ thành Fe3+ và tạo thành các bông cặn lơ lửng trong nước. Nước chảy ra khỏi tháp oxy hóa được dẫn vào bể lắng để lắng các bông cặn tạo ra trong quá trình keo tụ. Cặn lắng định kỳ được xả ra nhờ van xả bùn tự động ở đáy bể. Sau khi qua bể lắng, nước tự chảy vào bể lọc nổi theo chiều từ dưới lên trên, qua lớp vật liệu nổi là các hạt polystyren. Tiếp đó, nước đi vào bồn lọc áp lực để loại bỏ hoàn toàn các cặn lơ lửng nhỏ còn sót lại trước khi đem đi sử dụng. Nước sau xử lý đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế cho ăn uống và sinh hoạt. Giá thành xử lý 1 m3 nước cấp từ 1.000 -1.200 đồng. Công nghệ này ưu điểm ở chỗ, các thiết bị lọc được chế tạo bằng thép và lắp ráp lại thành cụm, khi cần di dời thì chỉ cần tháo các ống nối, thời gian xây dựng lắp đặt nhanh. Mặt trong thiết bị được phủ epoxy chống ăn mòn, tăng thời gian sử dụng. Hệ thống được điều khiển hoàn toàn tự động, chiếm mặt bằng chỉ khoảng 50% so với công nghệ truyền thống là bể xây xi măng. Chu kỳ vận hành (lọc) không lâu hơn công nghệ truyền thống do ít bị tắc nghẽn. Hệ thống còn có thiết bị kiểm tra, giám sát áp lực hệ thống để xác định chu kỳ lọc. Nguồn: VnExpress, 13/4/2005
  20. Đốt đồng thời - biện pháp đơn giản để giảm phát tán khí nhà kính Tổ chức Các nguồn Năng lượng xanh, Hoa Kỳ, đã cho biết giảm phát tán thủy ngân có thể giải quyết được thông qua biện pháp đốt đồng thời. Đốt đồng thời là một biện pháp thân thiện với môi trường, không cần đầu tư nhiều kinh phí, đây là phương pháp đốt hỗn hợp sinh khối gỗ với than đá nhằm giảm phát thải khí nhà kính. Clo xuất hiện tự nhiên trong gỗ, làm trung hòa (hay oxy hóa) thủy ngân. Đốt cháy đồng thời là một biện pháp đã làm giảm được sunfur, oxít nitơ và cácbon, là những loại khí nhà kính chủ yếu. Cơ quan thông tin năng lượng Hoa Kỳ (EIA) đã xác nhận, biện pháp đốt đồng thời hầu như không gây tốn kém cho ngành công nghiệp. Quyết định của Trung Quốc tăng gấp đôi sản lượng than cho sản xuất năng lượng (1,1 tỷ tấn) và thông báo của Đức về cắt giảm năng lượng hạt nhân là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy biện pháp đốt đồng thời có vai trò chủ đạo trong lĩnh vực năng lượng. Nước Anh đã đầu tư đáng kể vào thử nghiệm biện pháp đốt đồng thời, đặc biệt là các nhà máy điện ở Aberthaw, Wales. Hoa Kỳ hiện nay cũng có 7 nhà máy điện áp dụng biện pháp đốt đồng thời, trong đó riêng Florida có 3 nhà máy. Tổ chức Các nguồn năng lượng xanh ước tính, tiềm năng thị trường năng lượng sinh khối đốt đồng thời là 250 tỷ tấn, tương đương với 12,5 tỷ USD/năm, chưa kể đến điezen sinh học, khí hóa, hyđrô, đốt trực tiếp và ứng dụng etanol từ sinh khối gỗ. Theo Cơ quan thông tin năng lượng Hoa Kỳ, sinh khối gỗ là nguồn nhiên liệu lớn thứ 4 trên thế giới, gấp 30 lần năng lượng gió và năng lượng mặt trời gộp lại. Trước khi diễn ra Hội nghị G7 tại Hoa Kỳ, Cơ quan tài nguyên năng lượng xanh đã yêu cầu 7 quốc gia công khai xác nhận các loại năng lượng thay thế. Cơ quan Các nguồn năng lượng xanh - nhà cung cấp sinh khối từ gỗ đã cấp chứng nhận gỗ cung cấp cho ngành công nghiệp năng lượng thân thiện với môi trường – đang cố gắng nắm giữ 100% thị phần công nghiệp sinh khối của Hoa Kỳ. Nguồn: ENN, 4/2004
  21. Tây Ban Nha phát triển công nghệ môi trường làm giảm phát tán CO2 Công ty dịch vụ công cộng ENDESA, Tây Ban Nha phối hợp với công ty công nghệ Inerco áp dụng các giải pháp công nghệ mới nhằm giảm tác động môi trường và tiết kiệm năng lượng cho các nhà máy điện của công ty. Theo ước tính, dự án có vốn đầu tư 13 triệu euro này sẽ giảm phát tán CO2 cho công ty là hơn 300000 tấn/năm và cắt giảm một nửa phát tán NOx. Công nghệ này gọi là ABACO (Tăng cường tự động hoá hoạt động của nồi hơi đảm bảo đốt cháy tối ưu), đây là hệ thống do Inerco phát triển và được cấp bằng sáng chế. Hệ thống này được chế tạo nhằm giúp ENDESA tối ưu hóa điều khiển việc đốt cháy trong các nhà máy điện giảm phát tán NOx đồng thời nâng cao hiệu suất năng lượng của các nồi hơi và lò đốt công nghiệp, do vậy làm giảm phát tán CO2. ABACO là hệ thống điều khiển tiên tiến thực hiện điều khiển các điều kiện đốt cháy cục bộ trong mạch kín dựa vào khả năng quan trắc và điều chỉnh. Năm 2004, Chính phủ Tây Ban Nha đã đưa ra các giới hạn phát tán lần lượt cho từng nhà máy theo kế hoạch mở rộng nhằm đạt được các cam kết của Liên minh châu Âu theo Nghị định thư Kyoto về khí nhà kính. Các đề xuất này kêu gọi cắt giảm 21% các phát tán của các nhà máy điện đốt than từ năm 2005 đến 2007, kế hoạch mà nhiều người cho là sẽ gây thiệt hại cho ENDESA, công ty sản xuất nhiệt điện hàng đầu của Tây Ban Nha. Thỏa thuận tháng 5/2005 là một nội dung trong chiến lược của ENDESA nhằm giảm tác động môi trường của các nhà máy nhiệt điện và để chúng họat động hiệu quả hơn. Công nghệ ABACO sẽ được lắp đặt ở các nhà máy nhiệt điện Compostilla, Los Barrios và Teruel trong giai đoạn đầu. Sau đó, bắt đầu từ năm 2006, công nghệ này sẽ được mở rộng áp dụng cho 11 nhà máy nhiệt điện của ENDESA ở Tây Ban Nha. Theo các nhà phát triển công nghệ, tính hiệu quả của hệ thống ABACO đã được chứng minh trong hơn 25 nhà máy điện ở Tây Ban Nha và châu Âu đã tăng thêm 2% hiệu suất hoạt động, giảm phát tán NOx tới 50%. Hơn nữa, ABACO còn cho phép giảm phát tán CO2 mà nhóm các nhà máy nhiệt điện buộc phải cắt giảm mỗi năm là hơn 300000 tấn. Để tuân thủ Nghị định thư Kyoto, hệ thống này hiện nay đang được xem xét cấp giấy chứng nhận về áp dụng cơ chế phát triển sạch (CDM) ở các nước đang phát triển nhằm giảm phát tán khí nhà kính. Nguồn: Earthvision, 5/2005 Biogas góp phần làm giảm hàng trăm ngàn tấn CO2 Mười hai địa phương trong cả nước sẽ hòan thành trên 18.000 công trình biogas trong thời gian tới. Nhờ vậy, góp phần giảm hàng trăm ngàn tấn CO2 mỗi năm Ngày 14/6, tại Lễ mừng hoàn thành 12.000 công trình khí sinh học trong "Dự án hỗ trợ chương trình khí sinh học cho ngành chăn nuôi ở một số tỉnh Việt Nam" do Chính phủ Hà Lan tài trợ, ông Lê Hưng Quốc, Cục trưởng Cục Nông nghiệp (Bộ NN- PTNT), Giám đốc dự án cho biết, từ khi triển khai vào năm 2003 đến nay, dự án đã
  22. xây dựng vượt mức 2.000 công trình. Ban đầu, mục tiêu của dự án chỉ xây dựng 10.000 công trình, tại 10 địa phương là Hải Dương, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Hòa Bình, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Bình Định, Đăk Lăk, Đồng Nai và Tiền Giang. Nhưng sau đó, dự án đã chấp nhận thêm 2 địa phương là Hà Nội và Thái Nguyên và nâng tổng số công trình lên 12.000. Nhờ có các công trình biogas, trung bình mỗi tháng, các gia đình tiết kiệm được 70.000-80.000 đồng chi phí chất đốt. Phần bã thải sau khi phân huỷ ở bể còn được dùng thay thế phân hoá học phục vụ nông nghiệp, góp phần giảm chi phí sản xuất. Trước tình hình triển khai khả quan của dự án, Chính phủ Hà Lan đã đồng ý tiếp tục hỗ trợ thực hiện giai đoạn 2 của Dự án. Dự kiến, đến hết năm 2005, sẽ hoàn thành thêm ít nhất là 6.000 công trình biogas. "Dự án hỗ trợ chương trình khí sinh học cho ngành chăn nuôi ở một số tỉnh Việt Nam" được Chính phủ Hà Lan tài trợ 2 triệu USD. Theo tính toán của chuyên gia, việc hoàn thành mục tiêu 12.000 công trình khí sinh học và 6.000 công trình trong thời gian tới sẽ làm giảm được 77.500-143.000 tấn CO2 một năm. Nguồn: VietNamNet, 14/6/2005 Chế tạo dây chuyền xử lý rác thành dầu mỡ bôi trơn Một doanh nghiệp tư nhân, Công ty Hoàng Đạt ở Hải Phòng đã chế tạo, lắp đặt và thử nghiệm thành công dây chuyền xử lý chất thải rắn (cao su, nhựa phế thải) thành xăng, dầu, mỡ bôi trơn, nhựa đường, dầu FO, trên cơ sở nghiên cứu và áp dụng công nghệ của các nước phát triển.Công ty đã áp dụng phương pháp hoá dầu từ cao su và nhựa phế thải gồm 10 công đoạn với nguyên liệu lấy từ bãi rác được phân loại, ép đóng thành bánh, làm vệ sinh, sấy khô, nghiền nhỏ, trộn phụ gia, đưa vào lò - cấp nhiệt - làm ngưng và ra thành phẩm. Toàn bộ quá trình được tự động hóa hoàn toàn. Ngoài tác dụng hoá dầu từ cao su và nhựa phế thải, dây chuyền công nghệ này còn được sử dụng vào việc chưng cất tận dụng dầu phế thải công nghiệp, dầu FO. Đáng chú ý là dây chuyền công nghệ hóa dầu được chế tạo bằng các nguyên liệu trong nước nên rất thuận lợi việc sản xuất, giá thành đầu tư thấp, phù hợp với điều kiện và khả năng của các doanh nghiệp và cá nhân. Mặt khác, nguồn nguyên liệu dồi dào, tại chỗ bảo đảm dây chuyền hoạt động liên tục, hiệu quả kinh tế cao. Mỗi ngày thành phố Hải Phòng phải thu gom, xử lý từ 1.500 đến 2.000m3 rác thải sinh hoạt và công nghiệp bằng phương pháp chôn lấp, chưa có cơ sở chế biến rác thải thành chất hữu ích. Thành công bước đầu của công ty Hoàng Đạt không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn có ý nghĩa góp phần làm trong sạch môi trường của thành phố. Nguồn: TTXVN, 21/6/2005 Chế tạo thành công lò đốt rác y tế nhỏ
  23. Hiện nay ở Việt Nam thường sử dụng lò đốt rác y tế có công suất từ 30 kg/h trở lên, chỉ thích hợp cho các bệnh viện lớn cấp tỉnh, thành phố mà không phù hợp cho các bệnh viện cấp huyện, trạm xá Viện Công nghệ hoá học đã cho ra đời loại đốt rác cỡ rất nhỏ, đáp ứng yêu cầu này. Chất thải rắn y tế bao gồm các ống tiêm, kim, băng thấm dịch hoặc máu, các loại thuốc quá hạn, mô và cơ quan người Rác y tế gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, vì chứa không chỉ hóa chất nguy hại mà gần như toàn bộ các loại vi trùng độc hại. Để khắc phục tình trạng này, phương pháp xử lý hiệu quả là phương pháp đốt. Các lò đốt rác y tế ở Việt Nam hiện nay thường có công suất trên 30 kg/h. Tuy nhiên, loại lò này chỉ thích hợp cho các bệnh viện lớn như Bệnh viện đa khoa; Trung tâm y tế quận, huyện Còn các trạm y tế xã, công ty, phòng khám tư nhân chỉ có từ 2 đến 3 kg rác mỗi ngày. Với nhóm này, nhu cầu thực sự là các lò đốt rác nhỏ. Từ thực tế trên, nhóm nghiên cứu của Viện Công nghệ Hoá học (TP Hồ Chí Minh), thuộc Viện khoa học công nghệ Việt Nam đã thiết kế và chế tạo lò đốt chất thải y tế với hai loại công suất: Công suất nhỏ (3 kg/h và 8 kg/h) phục vụ các đơn vị y tế cấp huyện; Công suất rất nhỏ (loại 0,3 kg/h và 0,7 kg/h) nhằm phục vụ trạm y tế xã và các cơ sở có nhu cầu tương đương. Để nâng cao hiệu quả xử lý, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những điểm mới như: Công nghệ nhiệt phân cục bộ (chỉ đạt trên 1.000 độ C ở ngay vị trí đốt, làm phân hủy triệt để chất thải, trong khi nhiệt độ chung của cả buồng không cao mà chỉ vào khoảng 300 độ C). Nhờ quá trình trao đổi nhiệt và chất trực tiếp nên quá trình nhiệt phân xảy ra nhanh và triệt để mặc dù nhiệt độ của không khí trong buồng có thể không cao, dẫn đến chi phí năng lượng thấp. Kết cấu lò đốt cũng được cải tiến. Kết cấu lò đốt thông dụng ở Việt nam thường bao gồm 2 buồng sơ cấp và thứ cấp rời nhau hình trụ. Với kích thước lớn, kết cấu kiểu này cho phép chế tạo và bảo trì dễ dàng. Tuy nhiên kết cấu này không phù hợp với công suất nhỏ do chi phí chế tạo cao, tổn thất nhiệt ra môi trường lớn. Nhóm nghiên cứu đã khắc phục nhược điểm trên bằng cách thiết kế lò đốt gồm 2 buồng sơ cấp và thứ cấp dạng hình chữ nhật chồng lên nhau, giúp giảm chi phí vật tư và công chế tạo, đồng thời công nghệ chế tạo đơn giản. Cũng có thể thay đổi thiết kế lò để phù hợp với từng loại rác của các bệnh viện khác nhau. Mặc khác, do được chế tạo tại Việt Nam nên công tác bảo trì cũng thuận lợi hơn nhiều so với máy nhập ngoại. Thử nghiệm thực tế cho thấy chất thải rắn được xử lý triệt để và an toàn, tro còn lại sau khi xử lý không còn “sống” (lượng hữu cơ dưới 0,5%), khí thải ra từ hệ thống sau khi xử lý đạt TCVN 6560:1999. Nhóm nghiên cứu cũng khẳng định kinh phí đầu tư cho loại lò nhỏ này thấp, có thể sử dụng lâu dài, phù hợp với trình độ người sử dụng không có chuyên môn cao. Đến nay, Viện đã lắp đặt loại lò công suất 0,3 kg/h cho Trung tâm cai nghiện số V tại Sơn Tây của Sở lao động thương binh và xã hội Hà Nội, Trường cao đẳng Thực
  24. phẩm (TP HCM), lắp đặt lò công suất 3kg/h cho Trường giáo dục & giải quyết việc làm số 6 (Lực lượng thanh niên xung phong TP HCM ở Dắkrlấp - Đắc Lắc), Trung tâm y tế huyện Dắkrlấp – Đắc Lắc. Nguồn: VnExpress, 20/6/2005 Mô hình thu trữ nước mưa trên đồi cát ở tỉnh Quỹ Môi trường toàn cầu (UNDP-GEF/SPG) đã chọn xã Hồng Phong, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận để triển khai dự án nhằm trữ nước trên đồi cát, chống sa mạc hóa. Theo đó, ở xã Hồng Phong sẽ thực hiện 2 mô hình trình diễn bằng các biện pháp tổng hợp như cải tạo hồ Bàu Cà, lắp đặt máy bơm điện cấp nước vào bể lọc chứa và máng nước cạnh hồ phục vụ cho sinh hoạt, chăn nuôi; Thu trữ nước mưa trên đồi cát và xây dựng mô hình kinh tế sinh thái. Tuy nhiên, mô hình thu trữ nước mưa có tính khả thi và tốn ít chi phí hơn cả nên được thử nghiệm trước. Ở mô hình này, việc thu trữ nước mưa truyền thống sẽ được cải tiến bằng cách ứng dụng công nghệ thu nước mưa trên sườn đồi cát. Sau đó, nước mưa được trữ vào các túi đặt chìm trên sườn đồi để sử dụng trong mùa khô. Từ việc trữ nước sẽ xây dựng các mô hình kinh tế sinh thái theo phương thức nông - lâm kết hợp với cơ cấu cây trồng, vật nuôi chịu hạn áp dụng công nghệ bán thủ công. Xã Hồng Phong có nguy cơ sa mạc hóa cao hơn so với các vùng khác vì khí hậu nơi đây khắc nghiệt, ít mưa, gần biển, toàn cát và không có mạch nước ngầm, sông, suối. Để ngăn ngừa và hạn chế sa mạc hóa ở các vùng thiếu nước trong tỉnh Bình Thuận, Quỹ Môi trường toàn cầu sẽ phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh tiến hành nhân rộng các mô hình trình diễn chống sa mạc hóa thông qua dự án trên. Thời gian thực hiện dự án là 3 năm, từ 2005-2008. Nguồn: TTXVN 8/6/ 2005 Giải pháp giảm sử dụng nhiên liệu gây ô nhiễm, đắt tiền để thắp sáng trong thế giới đang phát triển Theo nhà khoa học thuộc Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley, Cơ quan năng lượng Hoa Kỳ, sử dụng đèn ống hai cực phát ánh sáng trắng (WLED) với chi phí - hiệu quả, hiệu suất cao thay cho đèn dầu hoả gây ô nhiễm mà hiệu suất lại thấp được sử dụng phổ biến ở thế giới đang phát triển, mỗi năm có khả năng tiết kiệm cho thế giới 10 tỷ USD. Evan Mills, thuộc Ban công nghệ năng lượng môi trường, Phòng thí nghiệm Berkeley cho biết, hơn 1,6 tỷ người không được sử dụng điện và nhiều người khác không được sử dụng điện thường xuyên. Do vậy, lúc trời tối họ thắp sáng bằng đèn dầu, diezen, propan hay các nhiên liệu từ sinh khối.
  25. Theo Mills, các nước đang phát triển sẽ phải lựa chọn biện pháp thắp sáng để giảm chi phí, đảm bảo sạch, hiệu quả cho người dân. Khi các nước này hiện đại hoá, họ có thể lựa chọn các công nghệ tốt hơn và vượt qua các mức hiệu suất riêng của một nước công nghiệp hoá. Cải tiến mới nhất là đèn ống hai cực phát ánh sáng trắng ở trạng thái bình thường. Các hệ thống WLED rất phù hợp với các nước đang phát triển - hệ thống này phát sáng mạnh, dễ di chuyển, sử dụng dòng điện một chiều, thời gian sử dụng dài và vận hành nhờ loại pin “AA” rất phổ biến. Mills cho biết: “Đánh giá tổng chi phí mua và vận hành, hệ thống WLED là giải pháp chi phí - hiệu quả nhất đối với các sử dụng ngoài mạng lưới điện”. Theo đánh giá của Mills, hệ thống WLED sử dụng năng lượng mặt trời có thể xuất hiện trên thị trường với giá bán là 25 USD mà không cần tới khoản trợ cấp nào. Tiền tiết kiệm sử dụng nhiên liệu hàng năm của mỗi chiếc đèn bằng thu nhập trong một tháng của 1 tỷ người nghèo nhất thế giới có mức sống dưới mức 1 USD/ngày. Vấn đề thắp sáng bằng nhiên liệu vẫn chưa nhận được sự quan tâm của Hội chính sách năng lượng. Các bước đánh giá quan trọng tiếp theo bao gồm đánh giá sâu hơn về cơ hội, thiết kế và các hệ thống hiệu suất cao có đủ điều kiện để thử nghiệm tại hiện trường đối với các ứng dụng khác nhau (ví dụ đọc sách, trong các ngành thủ công, trường học và hoạt động giao tiếp phổ biến trong xã hội), tăng các chương trình thí điểm và triển khai các mô hình kinh doanh khả thi nhằm với tới các thị trường mục tiêu. Các nghiên cứu chứng minh rằng thắp sáng là một trong những dịch vụ năng lượng quan trọng đem lại nhiều lợi ích mà xã hội đang đòi hỏi. Đối với người dân ở các nước công nghiệp hoá dịch vụ này có giá trị về hiệu suất năng lượng gấp 1000 lần so với người nghèo ở thế giới đang phát triển không được sử dụng nguồn điện. Mỗi năm, trên toàn thế giới, thắp sáng bằng nhiên liệu tiêu thụ 77 tỷ lít nhiên liệu với tổng chi phí là 38 tỷ USD/năm hay 77 USD/hộ gia đình, tương đương với 1,3 triệu thùng dầu/ngày, xấp xỉ bằng tổng sản lượng dầu của Inđônêxia, Libya, hoặc của Qatar, hoặc bằng một nửa tổng sản lượng dầu trước cuộc chiến ở Irắc. Chỉ cần sử dụng duy nhất một đèn thắp sáng bằng nhiên liệu trong 4 giờ/ ngày, mỗi năm đã phát thải hơn 100 kg cacbon dioxit vào khí quyển. Theo tính toán của Mills, thắp sáng bằng nhiên liệu tạo ra khoảng 190000 triệu tấn cacbon dioxit trong vòng một năm, bằng 1/3 tổng phát tán của Anh. Thắp sáng bằng dầu hoả và nhiên liệu khác chiếm 17% chi phí năng lượng thắp sáng toàn cầu, song chỉ có 0,1% dịch vụ năng lượng thắp sáng được đánh giá theo khái niệm lumen-giờ. Chi phí cho một đơn vị thắp sáng bằng dầu hoả cao hơn khoảng 150 lần chi phí thắp sáng bằng đèn huỳnh quang có hiệu suất cao nhất. Hệ thống LEDs hiệu suất cao tạo ra ánh sáng trắng, và công nghệ đang được hoàn thiện vì các nhà sản xuất tạo ra các sản phẩm có tín hiệu ánh sáng và hiệu suất năng lượng cao hơn và chi phí cho mỗi đơn vị đầu ra thấp hơn. Hiệu suất chỉ là 5 lumen/Wat vào giữa những năm 1990 đang tăng lên tới 100 lumen/W (trong khi đó đèn thắp sáng bằng ngọn lửa là 0,1 lumen/W). Về mặt thương mại, để tạo ra được 1
  26. W bằng WLED cần nguồn năng lượng thấp hơn đèn huỳnh quang có hiệu suất năng lượng nhỏ nhất là 80% và có thể vận hành nhờ loại pin có thể nạp lại bằng bộ pin mặt trời. Thậm chí, trên thực tế, hệ thống LEDs có thể tạo ra nhiều ánh sáng hơn bóng đèn sợi đốt công suất 100 W. Nguồn: lbl.gov, 5/2005 Bao bì nhựa tự phân hủy đã được sản xuất tại Việt Nam Công ty ALTA tại TP.HCM đã sản xuất được bao bì nhựa tự hủy theo công nghệ nước ngoài. Công nghệ sản xuất bao bì nhựa tự hủy tương tự như công nghệ sản xuất bao bì thường, nhưng trong quá trình sản xuất có thêm chất phụ gia để bao bì nhựa có thể tự phân hủy. Quá trình sản xuất vẫn cho phép in ấn lên bao bì sản phẩm như các lọai bao bì nhựa bình thường. Thời gian để một bao bì nhựa phân hủy là từ 3 tháng trở lên, Sau thời gian trên, bao bì nhựa tự phân hủy, tơi ra thành một lọai bột mịn. Trong môi trường yếm khí như bãi rác, bao bì nhựa tự hủy càng phân hủy nhanh. Từ đầu năm 2003 đến nay, công ty ALTA đã sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này qua các nước Italia, Đức, Anh, Pháp theo đơn đặt hàng của khách hàng. Trong 6 tháng đầu năm 2005, công ty ALTA đã xuất khẩu được 30 tấn bao bì nhựa tự hủy. Tuy nhiên, giá thành của bao bì nhựa tự hủy cao hơn bao bì nhựa thường từ 15- 20%. Do đó, lọai bao bì nhựa tự hủy này chưa được các khách hàng trong nước chuộng. Hiện Công ty ALTA (thông qua một nhà phân phối) đã làm việc với Thương xá TAX và Sở Y tế TP.HCM để đưa bao bì nhựa tự hủy vào sử dụng trong cuộc sống. Trước mắt, Thương xá TAX đã đặt hàng 16 tấn bao bì nhựa tự hủy để đưa vào sử dụng trong siêu thị. Công ty ALTA cũng đã làm việc với Sở Khoa học - Công nghệ TP.Hồ Chí Minh để kiến nghị các biện pháp đưa bao bì nhựa tự phân hủy vào tiêu thụ ở thị trường trong nước. Sở Khoa học - Công nghệ TP.Hồ Chí Minh cũng đã kiến nghị với UBND cho phép cùng với công ty ALTA lựa chọn một đơn vị hay một khu dân cư để sử dụng thử bao bì nhựa tự hủy. Nguồn: VietNamNet, 15/6/2005
  27. Thiết bị xử lý nước thải cho các làng nghề Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội vừa chế tạo thành công thiết bị xử lý nước thải đa năng chuyên dùng cho các làng nghề. Làng nghề nước ta bao gồm năm loại hình chính là dệt - nhuộm - giấy, chế biến thực phẩm, kim loại, hỗn hợp, hầu hết đều đang rơi vào tình trạng ô nhiễm môi trường hết sức nghiêm trọng. Ô nhiễm đã ở mức "đỏ" Theo thống kê, hiện cả nước có 1.450 làng nghề, trong đó có hơn 300 làng nghề truyền thống. Trên thực tế hầu hết các cơ sở sản xuất nhỏ của làng nghề vẫn nằm xen lẫn khu dân cư hoặc tập trung thành cụm, nhưng không có ranh giới rõ rệt giữa khu sản xuất và khu sinh hoạt tại cơ sở, công nghệ thì lạc hậu, thủ công, thiết bị cũ chắp vá, thiếu đồng bộ. Từ các tồn tại trên dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm rất yếu kém, đặc biệt do các cơ sở sản xuất còn hoạt động theo hướng phân tán, tự phát, quy mô nhỏ đã dẫn đến khó khăn trong việc tổ chức quản lý chất thải (xử lý thu gom) để giảm thiểu ô nhiễm môi trường Hiện trạng môi trường chủ yếu đang diễn ra dưới dạng ô nhiễm tập trung trên phạm vi một khu vực (thôn, xã). Khu vực này tập hợp nhiều hình thái ô nhiễm dạng điểm (cơ sở sản xuất nhỏ) ảnh hưởng trực tiếp không gian liền kề là khu sinh hoạt dân cư. Theo kết quả điều tra, khảo sát mới đây nhất mà Bộ Khoa học - Công nghệ công bố cho thấy 100% mẫu nước thải, thậm chí cả nước mặt, nước ngầm ở các làng nghề đều vượt các tiêu chuẩn cho phép. Môi trường không khí bị ô nhiễm có tính cục bộ tại nơi trực tiếp sản xuất, nhất là ô nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép và ô nhiễm do sử dụng nhiên liệu là than, củi. Hầu hết điều kiện lao động ở các làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn như độ ồn, ánh sáng, độ rung, độ ẩm, nhiệt độ cao. Tỷ lệ người dân làng nghề mắc bệnh cao hơn ở các làng thuần nông, thường gặp ở các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh đường ruột, bệnh ngoài da. Tại một số làng nghề đặc thù, xuất hiện các bệnh nguy hiểm như ung thư, quái thai, nhiễm độc kim loại nặng. Nhiều dòng sông chảy qua các làng nghề hiện nay đang bị ô nhiễm nặng; nhiều ruộng lúa cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm không khí từ làng nghề. Thiết bị xử lý hiệu quả Trước thực trạng này, các nhà khoa học thuộc Bộ môn Công nghệ hóa học, Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội đã nghiên cứu ra một hệ thống xử lý nước thải đa năng có tính đồng bộ. Thiết bị xử lý này thực chất là việc sử dụng các chất keo tụ, trợ keo tụ, các chất hấp thụ (tự chế tạo) để tiến hành xử lý sơ cấp nhằm loại bỏ tất cả các chất lơ lửng, cặn, bụi xuống còn dưới 50%. Sau đó, hệ thống tiếp tục hoạt động để xử lý thứ cấp bằng
  28. bùn hoạt tính hoặc lọc sinh học kết hợp các chất phụ gia, bước này có thể xử lý được 30% lượng chất độc hại có trong nước. Bước tiếp theo, nước thải sẽ được xử lý bằng AOB (ô xy hóa tăng cường), biện pháp này cho phép xử lý tới 90% các hợp chất độc hại. Nếu muốn xử lý tái sinh, có thể xử lý thêm khâu hấp phụ nước để loại bỏ hoàn toàn các chất thải, nước sẽ đạt tiêu chuẩn loại A. Thiết bị xử lý nước thải đa năng ở làng nghề nói trên có thể áp dụng cho nhiều loại đối tượng như nước thải dệt, nhuộm, làm giấy, công nghiệp thực phẩm, nước thải sinh hoạt với quy mô xử lý từ 5 đến 1.500m3/ngày đêm; giá thành xử lý rẻ (1.200 - 3.500 đồng/m3 nước thải). Tuy nhiên hiện có một khó khăn trong việc áp dụng thiết bị này cho các làng nghề là do các cơ sở còn nằm rải rác, không tập trung nên phạm vi xử lý chưa rộng. Theo kế hoạch, ngay sau khi kết thúc việc xử lý nước thải ở Vạn Phúc, thiết bị trên sẽ được đưa tới chạy thử nghiệm ở làng nghề sản xuất giấy Phong Khê (Bắc Ninh). Và đến năm 2010, hệ thống thiết bị trên sẽ được đưa vào sử dụng cho tất cả các làng nghề trong cả nước, hướng tới một môi trường làng nghệ trong sạch, bền vững. Nguồn: Nông thôn ngày nay, 7/08/2005 Tái chế đồ điện tử làm ảnh hưởng tới người tiêu dùng ở bang New England Bắt đầu từ hè năm 2004 hàng tấn thiết bị máy tính không sử dụng của công ty điện tử Staples, Hoa Kỳ đã được đưa đi tái chế, Đây là nội dung trong Chương trình thí điểm được phối hợp giữa Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA), Công ty Staples và Viện quản lý sản phẩm.Cơ quan liên bang, tiểu thương và tổ chức phi chính phủ đã cùng hợp tác thực hiện thành công chương trình này. Chương trình cố gắng xác định xem liệu một tiểu thương có quy mô lớn như Staples có thể cung cấp các dịch vụ tái chế thiết bị điện tử cũ như chất thải điện tử cho các khách hàng bán buôn, bán lẻ trong cơ sở hạ tầng phân phối hiện có của công ty không. Dự án đã tiến hành thu gom thiết bị điện tử cũ do công ty Staples bán như máy tính xách tay, thiết bị xử lý của máy tính, màn hình, máy in, máy fax và thiết bị ngoại vi nhỏ từ cả khách hàng bán buôn, bán lẻ. Dự án cũng cung cấp các dịch vụ tái chế sử dụng giải pháp “cung ứng dịch vụ ngược” nhờ xe tải giao hàng của Staples và mạng lưới phân phối sản phẩm hiện có của công ty. Theo Robert Varney, chánh văn phòng New England thuộc EPA, Chương trình thí điểm tái chế thành công cho thấy, nếu tạo cơ hội tái chế đồ điện tử, thì người tiêu dùng và các doanh nghiệp sẽ hưởng ứng. Bằng cách tái sử dụng và tái chế các thiết bị như máy tính cũ, màn hình và máy in, chúng ta có thể sẽ không phải chôn lấp chúng. Chương trình thí điểm được tiến hành nhờ khoản trợ cấp của EPA trị giá 46000 USD. Phân tích chương trình này cho thấy tái chế mang lại hiệu quả chi phí và được người tiêu dùng và Công ty Staples hưởng ứng. Viện Quản lý sản phẩm (PSI) ở Boston, tổ chức phi lợi nhuận quốc gia đẩy mạnh sử dụng bền vững tài nguyên, quản
  29. lý khoản trợ cấp này. PSI xây dựng và thực hiện dự án cùng với Staples để thử nghiệm xem liệu tái chế máy tính có thể phù hợp với mô hình kinh doanh của Staples không. Scott Cassel, Giám đốc điều hành hành PSI cho biết: "Dự án thí điểm này chứng minh rằng tiểu thương và nhà sản xuất có thể phối hợp với khách hàng để tái chế thiết bị máy tính một cách có trách nhiệm đối với môi trường và với chi phí hiệu quả. Đây là mô hình tiết kiệm tài nguyên và còn có thể được mở rộng tới các phạm vi khác của sản phẩm”. Các đối tác đã thừa nhận, tiểu thương sẽ bắt người sử dụng chịu chi phí không đáng kể để bù vào chi phí thu gom và tái chế. Chi phí vận chuyển cao là một trong những trở ngại cho các dịch vụ tái chế có hiệu quả - chi phí. Các chương trình thí điểm đã thu gom và tái chế tổng số 57 tấn chất thải điện tử trong quá trình thực hiện dự án. Trong một chương trình, Staples đã thu gom thiết bị điện tử từ những khách hàng tại 27 cửa hàng bán lẻ của Staples thuộc 5 bang Maine, Massachusetts, New Hampshire, Connecticut, và Rhode Island trong thời gian 6 tuần. Trong chương trình thứ hai, Staples đã thu gom thiết bị điện tử từ 14 khách hàng lớn hiện có ở 3 bang Massachusetts, Maine và New Hampshire, là khách hàng đặc biệt nhận sản phẩm trực tiếp tại điểm kinh doanh của họ. Chương trình thí điểm này đã thử nghiệm mô hình vận chuyển theo giải pháp “cung ứng dịch vụ ngược” sử dụng các mạng lưới phân phối sản phẩm của Staples. Thiết bị thu gom chuyển hàng về bằng xe vận tải hai chiều, được tập trung tại các trung tâm phân phối, sau đó chuyển tới Envirocycle, điểm tái chế đồ điện tử đặt tại Hallstead thuộc bang Pennsylvania. Các chương trình thí điểm này thể hiện nhu cầu ngày càng lớn và cơ hội mở rộng thu gom chất thải điện tử cả ở các cửa hàng bán lẻ cũng như các địa điểm mua sắm khác ở bang New England và trên toàn quốc. EPA đang tiếp tục khuyến khích hợp tác trong lĩnh vực công cộng và tư nhân theo chương trình khởi động tái chế đẩy mạnh việc chia sẻ trách nhiệm tái chế an toàn đồ điện tử. Từ năm 2003, chương trình này đã thu hút 21 đối tác từ các khu vực sản xuất và buôn bán nhỏ và 26 đối tác thuộc các cơ quan trung ương và địa phương. Ngoài ra, Công ty Staples còn có các đối tác là Apple Computers, Best Buy, Dell Computers, Office Depot và Sony. Trong 2 năm đầu thực hiện Chương trình, hơn 45 triệu pao (1pao = 0,454 kg) đồ điện tử cũ đã được tái chế. Nguồn: ENS, 7/2005 Làm sạch nước hồ ô nhiễm bằng bèo lục bình Các ô bèo lục bình đã góp phần "cứu sống" hồ Thạc Gián - Vĩnh Trung ở Đà Nẵng Từ một nơi ô nhiễm nghiêm trọng, hồ Thạc Gián - Vĩnh Trung đang trở nên có sức hấp dẫn nhờ môi trường đã được cải thiện tích cực. Đây là kết quả của công trình
  30. làm sạch hồ, xử lý ô nhiễm môi trường trong lòng hồ do Công ty Môi trường đô thị Đà Nẵng thực hiện trong thời gian qua. Tuy đang trong mùa nắng nóng gay gắt nhưng khác với những năm trước, quang cảnh chung quanh hồ Thạc Gián - Vĩnh Trung hiện khá nhộn nhịp. Người đi qua đây không còn phải lấy tay bịt mũi, nhăn mặt như trước. Thậm chí sáng, chiều đều có đông người đến hóng mát, dạo chơi, câu cá, tập thể dục Nằm giữa hai phường Thạc Gián và Vĩnh Trung, hồ này với diện tích hơn 29.000m2 có dung lượng nước chứa từ 40.000 - 52.000m3. Đây là nơi tập trung nước thải của cả khu vực dân cư rộng khoảng 50ha, mật độ từ 200 - 300 người/ha. Ngoài ra, hồ Thạc Gián - Vĩnh Trung còn làm nhiệm vụ điều hoà nước vào mua mưa để giảm ngập lụt cho các tuyến đường Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hoàng, Hàm Nghi, khu dân cư các phường Nam Dương, Vĩnh Trung, Thạc Gián Tuy nhiên do công tác quản lý những năm qua còn nhiều bất cập, hệ thống nước thải từ các khu dân cư thoát vào hồ còn bất hợp lý, ý thức bảo vệ môi trường của người dân chưa cao, việc nạo vét không được tiến hành thường xuyên nên lượng rác tồn đọng trong lòng hồ ngày càng lớn, các cửa xả bị tắc nghẽn, không được khắc phục kịp thời khiến hồ Thạc Gián - Vĩnh Trung từng bị ô nhiễm nghiêm trọng, thậm chí đã có đề xuất san lấp hồ này sau nhiều nỗ lực cải tạo không thành công Hiện nay, môi trường của hồ đã được cải thiện rất tích cực, mùi xú uế hầu như được tẩy sạch. Đây là kết quả của công trình làm sạch hồ, xử lý ô nhiễm môi trường trong lòng hồ do Công ty Môi trường đô thị Đà Nẵng thực hiện trong thời gian qua. Trước hết, công ty phối hợp với Sở Tài nguyên - Môi trường Đà Nẵng tiến hành các hạng mục nạo vét bùn rác với gần 3.000 tấn bùn, chất thải rắn trong hồ đã được xử lý, lắp đặt hệ thống lưới chắn rác, xây dựng và sửa chữa các cửa xả, đập để thoát nước. Vì vậy, khả năng thoát nước vào mùa mưa đã được cải thiện, hiện tượng úng ngập giảm hẳn. Đồng thời, sử dụng khoảng 15.000 lít chế phẩm sinh học để xử lý mùi hôi trong lòng hồ, giúp giảm hơn 90% các mùi ô nhiễm tại đây. Công ty Môi trường đô thị Đà Nẵng cũng đã thiết kế các ô chứa lục bình giữa hồ, bố trí thành các hình hoa văn để vừa có tính thẩm mỹ, vừa xử lý được mùi hôi do tác dụng của lục bình, tạo sự thông thoáng cho mặt hồ. Việc thay loại bèo thường bằng loại bèo lục bình (Eichhorina crassipes) là loại thuỷ sinh có khả năng hấp thụ mạnh các chất dinh dưỡng, phân giải và đồng hoá các chất bẩn trong môi trường nước nhờ vi sinh vật bám trên thân và rễ của chúng đã có hiệu quả rất tốt. Kết quả qua 6 tháng triển khai dự án xử lý mùi tanh do tảo chết, hồ đã trong sạch hơn hẳn. Công ty Môi trường đô thị Đà Nẵng bố trí 3 công nhân thường xuyên làm vệ sinh quanh hồ. Việc nạo vét các cống dẫn vào hồ được tiến hành với tần suất 3 tháng/lần đã bảo đảm thoát nước thông suốt. Kết quả đo quan trắc của các cơ quan khoa học về mức độ ô nhiễm hồ Thạc Gián - Vĩnh Trung cho thấy, các thông số về nhiệt độ, độ pH, DO đều bằng hoặc thấp hơn quy định. Nhờ sự cải thiện môi trường tích cực này mà các phường Vĩnh Trung, Thạc Gián đang xúc tiến kế hoạch khai thác diện tích chung quanh khu vực hồ để làm dịch vụ, tạo
  31. công ăn việc làm cho người dân. Ông Hồ Thành, Chủ tịch UBND phường Vĩnh Trung nhấn mạnh: “Việc giữ gìn vệ sinh, đảm bảo môi trường cho hồ Thạc Gián - Vĩnh Trung, ngoài những nỗ lực của Công ty Môi trường đô thị Đà Nẵng, còn cần đến ý thức tự giác của mỗi người dân sống chung quanh khu vực hồ, các hộ kinh doanh dịch vụ và khách đến đây nghỉ ngơi, ăn uống Chúng tôi sẽ tăng cường tuyên truyền, vận động và các có biện pháp xử lý để nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của hồ, cũng là bảo vệ nguồn thu nhập cho địa phương và nhiều hộ dân sống quanh đó”. Nguồn: tuoitre, 07/08/2005 Tái chế hộp giấy đựng đồ uống bằng máy nghiền thủy lực Sau hơn hai tháng thí điểm Chương trình thu gom để tái chế hộp giấy đựng thức uống, từ 12/4 - 27/6, chương trình đã thu gom khoảng 6 tấn tương đương với 750.000 vỏ hộp sữa, nước trái cây ở 21 trường tiểu học ở các quận Phú Nhuận, quận 3, quận 1, và quận Bình Thạnh. Hiện Chương trình đang được tiếp tục Tại mỗi trường tiểu học, công ty Tetra Pak đã hỗ trợ đặt 2 thùng rác có dung tích 500l/thùng. 6 tấn hộp sữa nói trên đã được nhà máy giấy Thuận An, tỉnh Bình Dương thu mua với giá 1.000đồng/kg. Cách đây hơn một năm, các vỏ hộp giấy này được xem là rác thải vì cho rằng rất khó tách nhôm, và nilon ra khỏi sợi giấy. Để tái chế hộp giấy đựng thức uống, nhà máy giấy cần có máy nghiền thủy lực để tách giấy ra khỏi hỗn hợp nhôm - nilon, mà không cần dùng hóa chất. Máy nghiền thủy lực có cơ chế hoạt động gần giống như một máy xay sinh tố. Trong bồn chứa của máy nghiền, có một motor quay, ngoài ra, bên dưới đáy bồn có các lỗ nhỏ để thu hồi bột giấy. Còn phần nhôm và nilon có kích cỡ thô hơn sẽ được giữ lại. Khoảng 650kg bột giấy được thu hồi từ khoảng 1 tấn hộp giấy. Đây là sợi giấy nguyên thủy, sớ sợi dài - dai được sản xuất ở Bắc Âu, bền hơn những loại sợi từ các hộp carton thông thường. Đồng thời hỗn hợp nhôm và nilon cũng được thu gom lại để sản xuất ra các tấm kết dính dùng trong vật liệu xây dựng, có tính cách nhiệt, cách âm và chống thấm. Sản phẩm có nhiều hình dáng khác nhau và cấu trúc bề mặt độc đáo. Hơn nữa, từ phần lớp nilon, các hạt nhựa tái chế được sản xuất, trở thành nguyên liệu cho nhiều sản phẩm nhựa khác. Nếu trung bình mỗi học sinh uống một hộp sữa mỗi ngày, tính riêng tại 21 trường đang thực hiện chương trình thí điểm phân loại và thu gom hộp giấy, năm học có 15 tấn vỏ hộp sữa đã qua sử dụng sẽ được thu gom. Trong khi đó, trên địa bàn TP. HCM, có hơn 400 trường tiểu học, thì lượng vỏ hộp có khả năng tái chế sẽ tăng lên rất nhiều. Đại diện Công ty Tetra Park cho biết, việc thu gom và tái chế hộp giấy đựng thức uống không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ môi trường. Công ty Tetra Pak (Thụy Điển) bắt đầu hoạt động tại vào đầu những năm 1950, là một trong những công ty đầu tiên về đóng gói bao bì cho thực phẩm dạng lỏng. Công ty có 58 công ty con trên khắp thế giới với doanh số trong năm 2004 là 7.500 Euro. Thành lập vào năm 1994 tại Việt Nam, Tetra Pak trở thành nhà cung cấp bao bì,
  32. qui trình chế biến và đóng gói cho nhiều nhà máy sữa, nhà máy chế biến nước trái cây và nước giải khát ở VN. Nguồn: VietNamNet, 24/07/2005 Sản xuất điện từ rác thải Lần đầu tiên Công ty Môi trường Đô thị Thành phố Hồ Chí Minh đã phát 125.000 kW điện sản xuất từ rác ở bãi rác thải Gò Cát, thành phố Hồ Chí Minh lên lưới điện quốc gia. Đây là kết quả của Dự án nâng cấp công trường xử lý rác Gò Cát, có tổng vốn đầu tư khoảng 260 tỷ đồng, trong đó 60% là tiền viện trợ của Chính phủ Hà Lan và 40% là vốn đối ứng của thành phố. Theo Công ty Môi trường Đô thị, rác ở đây được chôn trong các ô có lót vật liệu chống thấm HDPE - một loại nhựa mật độ cao, có độ bền trên 50 năm. Rác phân hủy trong ô sẽ tạo ra khí gas và lượng gas này sẽ được một hệ thống ống ngầm trong ô dẫn ra đến trạm thu gas. Gas sạch sẽ được nén lại và dẫn đến trạm điện để chạy động cơ phát điện. Phần nước tách ra từ gas sẽ được xử lý sạch và xả ra sông, kênh, rạch. Lợi nhuận thu được từ việc bán điện chưa nhiều bởi giá bán chỉ hơn 600 đồng/kW, song điều lớn nhất mà thành phố thu được từ việc này là môi trường trong khu vực được cải thiện tốt hơn. Toàn bộ lượng rác được ủ kín sẽ hạn chế được mùi hôi và nước rỉ thoát ra bên ngoài. Rác sau khi phân hủy hoàn toàn, dự kiến trong vòng 12- 15 năm, sẽ được dùng làm phân bón. Mặt bằng bãi rác Gò Cát có thể được thu hồi và sử dụng làm việc khác khi phân rác được chuyển đến các vùng nông nghiệp. Hiện bãi rác Gò Cát mới tiếp nhận khoảng 2,7 triệu tấn rác, đạt khoảng 2/3 khả năng tiếp nhận và mới chỉ có ô số 4, 5 đầy rác và được ủ nên lượng gas thu được chưa nhiều, chỉ đủ để chạy khoảng 80% công suất của 1 máy phát công suất 750 kW. Hai tổ hợp máy còn lại của Trạm phát điện Gò Cát công suất 750 kW và 920 kW sẽ lần lượt được đưa vào sử dụng vào giữa và cuối năm 2006 khi khí gas thu được ở Gò Cát đủ vận hành. Dự kiến sau bãi rác Gò Cát, bãi rác Phước Hiệp ở huyện Củ Chi có diện tích khoảng 822ha cũng sẽ được chôn lấp hợp vệ sinh, tương tự như ở bãi rác Gò Cát. Công ty Môi trường Đô thị thành phố cho biết hiện không chỉ có doanh nghiệp trong nước mà một số doanh nghiệp của Nhật, Hà Lan, Canađa đã đặt vấn đề hợp tác với Sở Tài nguyên- Môi trường trong lĩnh vực này. Nguồn: TTXVN, 01/08/2005
  33. Xây dựng hệ thống giám sát môi trường qua vệ tinh Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cho biết từ tháng 8, Bộ sẽ triển khai dự án "Xây dựng hệ thống giám sát tài nguyên thiên nhiên và môi trường Việt Nam" trên cơ sở tiếp nhận và xử lý những bức ảnh về môi trường được thu qua vệ tinh. Hiện nay, Bộ đã ký hợp đồng thương mại với Công ty Truyền tin và xử lý ảnh (DCS) của châu Âu để triển khai dự án. DCS sẽ cung cấp cho Việt Nam một trạm tiếp nhận hình ảnh từ các vệ tinh quan sát trái đất SPOT của Pháp và ENVISAT của Cơ quan vũ trụ châu Âu. Đây sẽ là hệ thống thu ảnh vệ tinh kỹ thuật đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Trên cơ sở những tấm ảnh đã được xử lý, các cơ quan khai thác ứng dụng như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, Uỷ Ban quốc gia Tìm kiếm cứu nạn có thể theo dõi, giám sát được môi trường, nguy cơ cháy rừng, diễn biến tài nguyên biển, nước, địa chất, khoáng sản, dầu mỏ và các hoạt động tìm kiếm cứu nạn khẩn cấp, để có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Hiện nay, do không có trạm thu ảnh vệ tinh kỹ thuật, nên các Bộ, ngành chức năng thường phải đặt mua ảnh vệ tinh từ các công ty khai thác vệ tinh nước ngoài. Dự án có tổng vốn đầu tư 20 triệu Euro, do Chính phủ Pháp tài trợ và dự kiến được thực hiện trong 3 năm. Nguồn: TTXVN,25/07/2005 Sản xuất phân hữu cơ vi sinh tại gia đình Từ các loại rác thải, phụ phế phẩm nông nghiệp, mới đây một nhóm các cán bộ ở Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng nông thôn (Hội Làm vườn Việt Nam) đã sản xuất thành công loại phân bón hữu cơ vi sinh đa chủng mới, quy mô hộ gia đình. Nguyên liệu để sản xuất loại phân trên chủ yếu là rác thải hữu cơ, phân gia súc, gia cầm, rơm rạ, bèo tây hay thân các cây ngô, sắn,v.v Quy trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh được tiến hành theo các bước sau: lấy nguyên liệu từ phân gia súc hoặc các phế phẩm khác đem trộn đều theo hai bước: phối trộn khô và phối trộn ướt. Trộn xong, cho phân vào ủ kị khí không hoàn toàn (ở các gia đình có sử dụng hầm biogas thì cho phân qua hầm sau đó mới ủ). Trong quá trình ủ, luôn giữ cho nhiệt độ ở dưới 500C và đảo đều liên tục. Sau khi ủ xong, tiến hành pha trộn phân với chế phẩm sinh học BIOVAC (là một tập hợp các chủng vi sinh vật hữu ích có tác dụng phân hủy nhanh các phụ phế phẩm nông nghiệp), đem pha trộn đều để tạo thành phân hữu cơ vi sinh. Theo TS. Phạm Văn Thành - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng nông thôn cho biết: "Thông thường để tạo phân chuồng hoại mục, bà con nông dân hay sử dụng biện pháp ủ phân bằng cách đắp bùn hoặc dùng bao xác rắn để che đậy, cách này vừa mất thời gian (5-6 tháng mới được một mẻ), vừa tốn công sức, "chất lượng" phân cũng không cao. Với quy trình mới trên, toàn bộ quá trình sản xuất chỉ hết
  34. khoảng 45 ngày". Đối với các loại rơm, rạ, thân cây, trước khi trộn cần chặt ngắn thành từng đoạn dài 10-15 cm, đem phơi tái, trộn đều rồi ủ cùng phân gia súc, gia cầm. Về tác dụng của loại phân này, TS. Thành cho biết: "Nếu bón bằng phân tươi, cây trồng sẽ không hấp thụ được ngay, còn bón bằng phân hữu cơ không những cây trồng có thể hấp thụ hết phân, mà còn phục hồi và duy trì độ phì nhiêu của đất canh tác, tăng hiệu quả hấp thụ ni-tơ khi bón urê, giảm lượng phân hóa học phải sử dụng từ 30-40%, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật 30-35%". Từ những thành công ban đầu, năm 2002 Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng nông thôn bắt đầu đưa công nghệ sản xuất trên đến cho các hộ chuyên trồng hoa hồng ở xã Tiền Phong, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc). Một hộ nông dân được thụ hưởng dự án này cho biết: "Lần đầu tiên tôi sản xuất phân theo kiểu này thu được hiệu quả rất cao, chẳng như trước kia, nào phải đắp bùn, rồi dồn phân vào bao vất vả lắm, mà phải mất đến cả nửa năm trời, phân mới hoại mục". Ngay trong vụ đầu tiên, gia đình ông đã sản xuất được 5 tấn phân bảo đảm đủ sản xuất cho hơn 1 mẫu hoa hồng. Theo tính toán, chi phí để sản xuất 1 tấn phân hữu cơ vi sinh rất thấp, trung bình chỉ hết 50.000-60.000 đồng so với giá 200.000 đồng khi sản xuất 1 tấn phân thông thường, trong khi đó lại tận dụng được hết các nguồn nguyên liệu đang bị bỏ phí. Cho đến nay, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng nông thôn đã phát triển công nghệ này đến hàng loạt các hộ dân ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, Thanh Hóa, Nam Định,v.v với trên 600 hộ đã được hưởng lợi trực tiếp. Hầu hết các hộ đều rất say sưa với công nghệ này, bởi kỹ thuật sản xuất rất đơn giản, chỉ cần hướng dẫn cũng có thể làm được. Theo nhận xét của rất nhiều hộ gia đình đã sử dụng phân để bón cho các loại cây trồng, độ tơi xốp của đất tăng lên rõ rệt vì phân có độ mùn tương đối cao (trên l5%), sâu bệnh hại ít hơn, năng suất cây trồng tăng đều từ 15-20% trong giai đoạn đầu, nhất là đối với các loại cây lúa, khoai sọ, hành tây. Với đề tài nghiên cứu này, các cán bộ ở Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng nông thôn đã đoạt giải nhất tại hội thi Ngày sáng tạo môi trường do Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam và Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức vào tháng 6 năm 2005. Nguồn: Nông thôn ngày nay, 21/7/2005 Bao rác tự phân hủy sắp đưa ra thị trường ở Việt Nam Dự kiến tháng 10 /2005, Công ty Cổ phần Văn hoá Tân Bình (ALTA), TP Hồ Chí Minh sẽ đưa bao nilon có khả năng tự phân huỷ sau 2-3 năm sử dụng ra thị trường. Sản phẩm có giá đắt hơn khoảng 20% so với bao bì thông thường, song đem lại lợi ích lớn cho môi trường.
  35. Công ty ALTA, cho biết, loại bao rác này được sản xuất theo công nghệ của Canada, quy trình tương tự như bao bì thường. Khả năng tự phân rã của sản phẩm nhờ vào kỹ thuật phối trộn 2 chất liệu cơ bản là hạt nhựa CaCO3 và hạt nhựa Alta với các loại phụ gia. Trong đó, CaC03 có thể thay thế 10-15% nhựa nguyên sinh trong sản phẩm. Còn Alta (Alta Masterbatches) là nguyên liệu thay thế bột màu. Khác với các loại nilon thông thường, hạt nhựa CaCO3 và hạt nhựa Alta khi kết hợp với nhau hoặc trong quá trình phân rã, đều không gây tác hại tới môi trường. Bao rác sẽ phân huỷ theo định kỳ 3 tháng trở lên, tùy vào việc sử dụng phụ gia. Chúng sẽ tan thành những mảnh nhỏ rồi thành bột mịn, bắt đầu từ vị trí có mực in và rã nhanh hơn trong môi trường có nước đọng, khí CO2. Bột có thể tái sinh để sử dụng tiếp. Tuy nhiên, vì loại bao rác này không phân huỷ đến cùng, mà chỉ dừng lại ở dạng bột rồi phân tán vào môi trường, nên chúng được gọi là bao rác tự phân rã, chứ không phải là tự phân hủy. Giá thành bao rác tự phân hủy cao là do chi phí cho phụ gia đặc dụng. Bao bì chậm phân rã rẻ hơn bao bì phân rã nhanh. Đợt hàng đầu tiên nhằm mục đích thăm dò thị trường nên ALTA tung ra loại bao rác có tuổi thọ tương đối lâu. Hy vọng sản phẩm sẽ chiếm lĩnh được thị phần. Vì so với bao rác thông thường, loại bao này tiết kiệm đáng kể các khoản đầu tư cho thu gom, xử lý, tái chế chất thải. ALTA cũng mới sản xuất được hạt nhựa CaCO3, Alta và bước đầu vẫn xuất khẩu là chính. Trong đó, hạt nhựa CaCO3 được xuất trở lại Singapore, nơi mà ALTA từng nhập sản phẩm này. ALTA hiện là đơn vị duy nhất sản xuất bao bì tự phân rã ở TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Theo Phòng Quản lý Công nghệ, Sở Khoa học Công nghệ TP.Hồ Chí Minh, nếu Việt Nam có chế tài mạnh hơn để bảo vệ môi trường thì sản phẩm sẽ thu hút được đông đảo người tiêu dùng trong nước. Nguồn: VnExpress, 19/7/2005 Hệ thống xử lý nước thải y tế Nước thải từ các cơ sở y tế chủ yếu có nguồn gốc hữu cơ, chứa nhiều vi trùng rất nguy hiểm, có thể lây lan thành dịch bệnh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nước thải bệnh viện bắt buộc phải xử lý làm sạch trước khi đưa ra môi trường bên ngoài. Do đặc điểm nguồn nước, nên phương án xử lý thông dụng hiện nay là kết hợp phân hủy sinh học (PHSH) với hóa lý và khử trùng. Sau nhiều năm nghiên cứu, Viện Công nghệ Hóa học (ICT) đã hoàn thành hệ thống xử lý nước thải y tế. Công đoạn xử lý bằng phân hủy sinh học là khâu chủ yếu trong việc khử bỏ chất ô nhiễm hữu cơ và tiến hành lần lượt qua các gia đoạn: lên men yếm khí, lên men hiếu khí. Hiệu suất của quá trình phân hủy sinh học được tăng lên đáng kể nhờ sử dụng giá thể đặc chủng VHK-01 do ICT nghiên cứu và sản xuất. Đây là vật liệu gốm xốp tổng hợp có tác dụng xúc tiến sự phát triển của vi sinh vật. Nhờ các giá thể này, tốc độ phân hủy yếm khí tăng 3-4 lần, quá trình phân hủy hiếu khí tăng 2-3 lần. Sau khi loại bỏ được phần lớn tạp chất độc hại (BOD), nước thải qua công đoạn lắng nhằm tách nốt các tạp chất lơ lửng và hòa tan. Tại đây, keo tụ đặc
  36. chủng PACM2 do ICT sản xuất làm sạch các tạp chất còn lại. Cuối cùng, nước thải qua công đoạn khử trùng trước khi ra ngoài đã được loại bỏ vi khuẩn, bảo đảm an toàn cho nguồn tiếp nhận phía sau. Hệ thống xử lý nước thải y tế liên hoàn đã được ứng dụng tại nhiều nơi như: TP Hồ Chí Minh, Long An và cho kết quả khả quan. Hệ thống có thể được thiết kế theo công suất nước thải ra từ các bệnh viện Nguồn: HNM, 16/07/2005 Xử lý nước lũ thành nước sạch nhờ bột PPAC Nhằm giúp người dân vùng lũ có nước sạch phục vụ sinh hoạt và ngăn ngừa dịch bệnh, viện Kỹ Thuật Tài Nguyên Nước và Môi Trường đã nghiên cứu và chế tạo thành công vật liệu làm trong nước, có nguồn gốc từ khoáng thiên nhiên có sẵn tại Việt Nam. Trong lĩnh vực xử lý nước, keo tụ lắng là một công nghệ được ứng dụng rộng rãi nhằm loại bỏ cặn bẩn không tan ra khỏi nước. Bản chất của phương pháp là đưa vào nước cần xử lý một số chất keo tụ. Khi hoà tan trong nước, chất này tạo thành hạt keo liên kết với cặn bẩn và trở thành bông cặn lớn hơn và tự lắng. Hiệu quả của phương pháp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như bản chất của chất keo tụ và chế độ công nghệ của quá trình keo tụ lắng. Hiện chất keo tụ được dùng nhiều nhất là phèn nhôm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp không có hiệu quả, ngoài ra lượng nhôm dư thừa trong nước có thể gây ra các triệu chứng như chóng mặt, hay quên,v.v Các nhà khoa học tại viện Kỹ Thuật Tài Nguyên Nước và Môi Trường đã chế tạo ra một loại chất keo tụ mới có nguồn gốc từ khoáng vô cơ là PPAC (Polypoly Aluminium Hydroxyl Cloride). Kết quả thử nghiệm cho thấy dùng PPAC tiết kiệm hơn lượng phèn thông thường mà có hiệu quả xử lý cao hơn. Chất keo tụ này ít làm thay đổi độ pH, có tác dụng khử màu cao, có tốc độ lắng cặn nhanh và còn dễ bảo quản. Chất keo tụ PPAC đã được đưa vào thử nghiệm trên nước kênh rạch Đồng Tháp Mười tại các tỉnh Long An, Tiền Giang và cho kết quả là nước có tính chất lý hoá tổng quát bình thường, sử dụng được cho sinh hoạt, ngoài ra không có vi khuẩn gây bệnh. Ông Vương Đình Đức, Viện phó Viện Kỹ Thuật Tài Nguyên Nước và Môi Trường, cho biết trong năm qua, hàng trăm tấn PPAC đã được chuyển giao cho vùng Đồng Bằng sông Cửu Long và các tỉnh phía nam. Chất keo tụ ở dạng bột PPAC được đóng trong bao nilon có trọng lượng 250 gram. Mỗi kg bột PPAC có thể xử lý được 8-10 m3 nước, bảo quản trong 12 tháng. Khi sử dụng bột PPAC để xử lý nước, cần cho vào mỗi một m3 nước cần xử lý khoảng 100-150 gram bột keo tụ PPAC (8-12 thìa cà phê), khuấy tan cho đều và để lắng sau 5- 10 phút, nước sẽ trong và sử dụng được cho sinh hoạt. Nguồn: VnExpress, 15/8/2005
  37. Vật liệu cách nhiệt, chống cháy và thiết bị phân ly dầu nước Vật liệu cách nhiệt, chống cháy và thiết bị phân ly dầu nước là kết quả nghiên cứu của TS. Phạm Văn Trung, Giám đốc Xí nghiệp tập thể Bình An. Theo TS. Trung, ở ngoài khơi, tàu hoạt động độc lập trong một phạm vi hẹp, khi xảy ra hoả hoạn, không ai dại dột bơm nước biển lên vì nước sẽ làm chìm tàu, hư hỏng các thiết bị. Vật liệu cách nhiệt, chống cháy là một phần không thể thiếu của kết cấu tàu, giúp cho mỗi con tàu và thủy thủ bình an giữa sóng gió đại dương. Thực tế của ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam, phần lớn các thiết bị và vật liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, rất ít sản phẩm nội địa đạt tiêu chuẩn các công ước quốc tế và quy phạm đóng tàu. Để đáp ứng yêu cầu khắt khe của công ước quốc tế và quy phạm đóng tàu, TS. Trung vẫn tiếp tục cải tiến vật liệu và đặc biệt là chế tạo thiết bị thử nghiệm. Đây là trạm thử nghiệm đầu tiên và duy nhất ở nước ta về lĩnh vực này. Mất tới 10 năm ròng từ khi chế tạo thành công vật liệu chống cháy đến thiết bị thử nghiệm, công trình được áp dụng thử trên một số tàu nước ngoài sản xuất tại Việt Nam, được các chủ tàu chấp nhận. Theo số liệu của Đăng kiểm Việt Nam, hiện nay, 85% số tàu chạy tuyến quốc tế đóng mới tại Việt Nam treo cờ Việt Nam hoặc do Đăng kiểm Việt Nam giám sát, phân cấp đã áp dụng kết quả nghiên cứu của Bình An. Công nghệ sáng chế vật liệu cách nhiệt, chống cháy trên tàu thủy, Xí nghiệp tập thể Bình An là nhà sản xuất độc quyền ở Việt Nam năm 2003. Máy phân ly dầu nước Thiết bị phân ly dầu nước cũng là một thành quả quả nữa của TS.Phạm Văn Trung. Theo Công ước quốc tế và Quy phạm đóng tàu, khi xả nước từ tàu ra biển, nước phải đạt hàm lượng dầu nhỏ hơn 15 phần triệu, tàu sức chở hơn 400 tấn trở lên bắt buộc phải lắp đặt và sử dụng thiết bị này. Sau một năm nghiên cứu, năm 2004, thiết bị này tung ra thị trường, được Đăng kiểm Việt Nam kiểm tra, cấp chứng chỉ thoả mãn tiêu chuẩn quốc tế. Không chỉ ứng dụng trên tàu thủy mà các cơ sở công nghiệp, phân xưởng cơ khí đều có thể sử dụng thiết bị phân ly dầu nước để ngăn ngừa nước thải bị nhiễm dầu. Bình An hiện là nhà sản xuất duy nhất thiết bị này với giá rẻ hơn nhiều so với giá nhập khẩu. Năm 2004, Công trình đã được tặng giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ Việt Nam và ngay lập tức nhận được nhiều đơn đặt hàng từ các chủ tàu. Nguồn: Nhân dân, 2/08/2005 Biến nước thải thành Hyđrô: Thị trường mới cho các nhà máy xử lý nước thải Các chuyên gia cho biết, hệ thống lọc sinh học mới có thể cách mạng hoá phương pháp xử lý nước thải bằng việc tạo ra hyđrô trong khi làm sạch nước thải. Đây là phương pháp xử lý theo phương pháp kỵ khí, sử dụng dòng điện từ pin nhiên liệu vi khuẩn (MFC) do các nhà nghiên cứu thuộc Trường đại học bang Penn (University Park, Pa.) và Liên hiệp sản xuất điện Ion (New Castle, Del.) triển khai. Hệ thống này
  38. cho phép vi khuẩn trực tiếp lấy hyđrô ra khỏi sinh khối nhiều hơn gấp 4 lần so với khả năng sinh ra do quá trình tự lên men. Bruce Logan, Giám đốc, nhà phát triển công nghệ thuộc Trung tâm năng lượng hyđrô của bang Penn. cho biết: "Cũng giống như quá trình điện phân nước – dùng điện để điện phân nước thành hyđrô và ôxy – ngoài ra, về bản chất vi khuẩn điện phân chất hữu cơ, chúng thu proton và đẩy electron ra khỏi chất hữu cơ, nhưng không thể tách được hyđrô vì không đủ điện thế. Tuy nhiên, bằng cách tăng thêm một chút điện thế và sử dụng điện thế do vi khuẩn phát ra, hệ thống sẽ tạo ra hyđrô hiệu quả hơn các hệ thống lọc sinh học tương tự, đồng hoá được tất cả chất hữu cơ dễ bị phân huỷ bởi các vi sinh vật, gồm chất thải sinh hoạt, chất thải nông nghiệp hay nước thải công nghiệp. Ông Logan cho biết; giống như ác quy, pin nhiên liệu truyền thống tạo ra điện bằng phản ứng hoá học, nhưng nó nhận được nguồn nhiên liệu không thay đổi do quá trình phát ra liên tục của các electron. Đặc trưng của pin nhiên liệu là tiêu thụ hyđrô, nhưng đối với pin nhiên liệu vi khuẩn thì vi khuẩn giải phóng hyđrô khi chúng chuyển hoá thức ăn như chất hữu cơ trong nước thải. Trong nghiên cứu gần đây, Logan và các đồng nghiệp của ông đã thay đổi hoàn toàn quy trình. Thay vì cho hyđrô kết hợp oxy để tạo ra điện, các nhà khoa học đã chuyển pin thành nguồn hyđrô bằng cách sử dụng pin nhiên liệu vi khuẩn tương tự, giữ ôxy ở bên ngoài và tăng một chút dòng điện vào hệ thống. Ông Logan và đồng nghiệp của mình gọi pin nhiên liệu vi khuẩn tạo ra hyđrô là “lò phản ứng vi khuẩn” được hỗ trợ bởi quá trình điện hoá sinh (BEAMR). Cho đến thời điểm này thì thiết bị mới chỉ được trình diễn trong phòng thí nghiệm, nhưng nếu thử nghiệm thành công, hệ thống này có thể thay thế các hệ thống xử lý bằng bùn hoạt tính, máy lọc chảy nhỏ giọt và các quá trình xử lý sinh học khác. Rào cản trong quá trình lên men Trong tạp chí Environmental Science & Technology, các nhà khoa học đã giải thích rằng: Quá trình sản xuất Hydro bằng phương pháp lên men vi khuẩn hiện nay đang bị hạn chế bởi “Rào cản quá trình lên men”, thực tế không có tăng năng lượng, vi khuẩn chỉ có thể biến đổi các hyđrát-cácbon thành hyđrô với khối lượng hạn chế. Hầu hết chất hữu cơ còn lại bị thải đi do hỗn hợp các sản phẩm lên men như axit axetic và axit butyric ở trong “tình trạng chết”. Tuy nhiên, việc vi khuẩn làm tăng dòng điện, khoảng 0,25 V cho phép chúng vượt qua rào cản quá trình lên men và biến đổi các sản phẩm lên men đang trong tình trạng bế tắc thành điôxit cácbon và hyđrô, với hơn 90% electron được thu hồi dưới dạng khí hyđrô. Lars Angenent, kỹ sư môi trường thuộc Đại học Washington (St.Louis), đang nghiên cứu về pin nhiên liệu vi khuẩn cho biết: "Đây là giải pháp rất thông minh để khắc phục những nhược điểm của nhiệt động, đặc trưng cho quá trình sản xuất hyđrô từ chất hữu cơ và làm tăng lượng hyđrô có thể tạo ra". Serge Guiot, trưởng nhóm nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Công nghệ Sinh học Canada đã thừa nhận; "Đây thực sự là một sự đột phá". Từ lâu, con người đã
  39. nghiên cứu sản xuất hyđrô bằng qúa trình lên men kỵ khí truyền thống, sử dụng sinh khối, nhưng phương pháp này hết sức khó khăn bởi vì lượng hyđrô quá thấp. Bằng phương pháp nghiên cứu mới có thể khắc phục nhược điểm của quá trình hoá sinh." Mặc dù, công trình nghiên cứu tập trung vào tăng tốc độ sản xuất điện năng và chuyển chất hữu cơ thành điện và hyđrô, Logan và đồng nghiệp của ông cũng đã quan trắc những biến đổi nhu cầu oxy hoá sinh (BOD) trong phạm vi từ 60% đến 95%, phụ thuộc vào hệ thống và thời gian tích giữ. Logan cho biết; Chúng tôi hy vọng quy trình này sẽ hoạt động hiệu quả giống như bộ lọc nhỏ giọt, loại bỏ hầu hết BOD hoà tan, nhưng nhu cầu xử lý nước thải chắc chắn sẽ cao hơn để đáp ứng những quy định nghiêm ngặt về xả thải. Nguồn hyđrô tái tạo Logan nhấn mạnh, hiện nay hyđrô ở dạng tinh khiết được bán với giá 6 USD/kg, so với mêtan bán với giá là 0,43 USD/kg. Do đó, đây là sản phẩm có giá trị cao, hơn nữa, nó có thể thay đổi quy trình xử lý nước thải từ phương pháp sử dụng tốn kém năng lượng gây thiệt hại kinh tế thành một ngành công nghiệp có khả năng sinh lợi." Những thách thức lớn Cần có nhiều quy trình sản xuất các pin nhiên liệu vi khuẩn phát điện hoặc hyđrô thì mới có giá trị thương mại. Logan lưu ý, trước hết là phải mở rộng từ quy mô triển lãm đến các hệ thống thử nghiệm ở quy mô lớn. Tốc độ sản xuất điện năng cũng phải tăng. Theo Rittmann: “Để có thể phát triển được pin nhiên liệu vi khuẩn để thương mại, chúng ta phải tăng tốc độ sản xuất ít nhất 100 lần so với hiện nay". Hơn nữa, phải tạo ra được hợp đồng sản xuất pin nhiên liệu vi khuẩn và cần có kế hoạch hoạt động một cách ổn định và liên tục trong dài hạn. Các nhà nghiên cứu cho rằng, những thách thức này có thể khắc phục được. Nếu pin nhiên liệu vi khuẩn trở thành lĩnh vực thương mại thì cuộc cách mạng hoá về xử lý chất thải và sản xuất năng lượng sẽ diễn ra trên toàn thế giới. Logan cho biết: "Bằng sự phát triển của công nghệ này, chúng ta không chỉ đưa ra các công nghệ xử lý hiệu quả hơn ở từng quốc gia mà thậm chí còn cung cấp mô hình công nghệ bền vững cho các quốc gia khác." Nguồn: Fuelcelltoday.com, 8/2005 Chế tạo thiết bị xử lý nước thải cho các làng nghề Khoa Hóa trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội đã thành công trong việc chế tạo một hệ thống dây chuyền xử lý nước thải đa năng phục vụ cho các làng nghề. Đây là đề tài do làng nghề dệt nhuộm Vạn Phúc (Hà Tây) đặt hàng. Hệ thống dây chuyền được thử nghiệm tại làng nghề nói trên từ tháng 4/2005 đến nay và cho kết quả tốt.