Phát triển tư duy kỹ thuật cho sinh viên thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển tư duy kỹ thuật cho sinh viên thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
phat_trien_tu_duy_ky_thuat_cho_sinh_vien_thong_qua_hoat_dong.pdf
Nội dung text: Phát triển tư duy kỹ thuật cho sinh viên thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học
- PHÁT TRIỂN TƯ DUY KỸ THUẬT CHO SINH VIÊN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC DEVELOPING TECHNICAL THINKING FOR STUDENTS THROUGH SCIENCE – RESEARCHING ACTIVITIES Trần Minh Nhật Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp.HCM TÓM TẮT Phát triển tư duy kỹ thuật là một trong những vấn đề rất quan trọng trong quá trình học tập của sinh viên khối ngành kỹ thuật. Xuất phát từ kết quả phân tích mối quan hệ giữa hoạt động nghiên cứu khoa học với phát triển tư duy kỹ thuật của sinh viên, bài viết đã đề xuất các giải pháp phát triển tư duy thông qua một số hoạt động nghiên cứu khoa học, kết hợp một số hoạt động kỹ thuật tiêu biểu khác. Từ khoá: Tư duy kỹ thuật, hoạt động kỹ thuật, nghiên cứu khoa học ABSTRACT Developing technical thinking is one of extremely important issues during a period of time of students’ studying in techniques. From the result of clarification of the relationship between a science – researching activity and a development of students’ technical thinking, the writing proposes some solutions of developing thinking through some activities of researching sciences, combining with some other major technical activities. Key words: Technical thinking, technical activity, scientific research. 1. MỞ ĐẦU Hoạt động nghiên cứu khoa học cũng không còn là hoạt động mới mẻ, nhưng hoạt động này vẫn chưa thực sự trở thành nhu cầu thiết yếu của sinh viên. Để nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của sinh viên, cần phải phát triển tư duy kỹ thuật (TDKT). Qua đó, giúp cho SV phát hiện những vấn đề nghiên cứu. Phát triển tư duy kỹ thuật (TDKT) cho học sinh (HS) trên cơ sở vận dụng phương pháp (PP) dự án vào dạy học sửa chữa ô tô của Dương Đình Vinh đã được
- triển khai tại trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật Vinh. Tác giả đã phát triển TDKT cho HS thông qua PPDH dự án trong DH ô tô để phát triển hứng thú và tư duy của người học [1] . Bên cạnh đó, theo Vũ Đỗ Hồng Nhung thì tư duy được phát triển theo từng giai đoạn phát triển của con người [2] . Năm 1988, Klahr và Dunbar mô tả TDKT giống như là một vấn đề trong hai không gian: một là không gian giả thuyết, hai là không gian thực nghiệm trong bài báo “Scientific Thinking and its Development” [3]. TDKT giúp con người giải quyết được các câu hỏi và lý giải được tại sao có các câu hỏi đó. (Gamble, 2001; Lehmann, 2007; Willis 1974) [4] . Phát triển tư duy kỹ thuật thông qua hoạt động NCKH giúp cho sinh viên tư duy khái niệm, tư duy hình ảnh, tư duy thao tác và nắm bắt phương pháp, nội dung, hoạt động kỹ thuật. Từ đó, sẽ giúp cho SV xác định được các vấn đề cần nghiên cứu trong quá trình học tập. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Một số khái niệm liên quan 2.1.1. Khái niệm về tư duy kỹ thuật Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư duy kỹ thuật nhưng vẫn chưa đi đến một định nghĩa thống nhất về nó hoặc chưa quan tâm đến việc định nghĩa về nó “TDKT được định nghĩa là năng khiếu, sự khéo léo, sự ưu tư cho việc giải quyết vấn đề thực tế thông qua những kinh nghiệm” (Autio, Hansen, 2002) [4] . Theo T.V.Kudriasep – tác giả cuốn “Tâm lí học tư duy kỹ thuật” cũng chỉ xem “các vấn đề về tư duy kỹ thuật như là một dạng đặc biệt của hoạt động trí óc của con người”. N.Z.Bogozop, I.G. Gozman, G.V Xakharop thì xem “Tư duy kỹ thuật như là hoạt động định hướng vào sự soạn thảo độc lập và giải các bài toán kỹ thuật” [5] “Tư duy nói chung là quá trình tâm lí (quá trình nhận thức) nhằm phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan.
- Tư duy kỹ thuật là sự phản ánh khái quát các nguyên lí kỹ thuật, các quá trình kỹ thuật, hệ thống kỹ thuật, nhằm giải quyết một nhiệm vụ trong thực tiễn liên quan đến nghề kỹ thuật” [6] . Một số giáo trình tâm lí, giáo dục về kỹ thuật và dạy nghề ở nước ta cũng chỉ đưa ra ý kiến ở dạng tổng quát: “Tư duy kỹ thuật là sự phản ánh khái quát các nguyên lí kỹ thuật, các quá trình kỹ thuật, các thiết bị kỹ thuật dưới dạng mô hình và kết cấu kỹ thuật nhằm giải quyết những nhiệm vụ đặt ra trong thực tế sản xuất. Qua những kết quả nghiên cứu một số quan niệm về tư duy kỹ thuật, nghiên cứu các đặc điểm, cấu trúc, con đường hình thành và phát triển tư duy kỹ thuật trong các tài liệu trong và ngoài nước, có thể coi rằng: Tư duy kỹ thuật là một loại tư duy của con người khi cần giải quyết hay tìm một cách giải mới cho một vấn đề trong lĩnh vực kỹ thuật 2.1.2. Khái niệm nghiên cứu khoa học Là hoạt động khám phá, tìm kiếm, điều tra, hoặc thử nghiệm để phát hiện ra những điều mà khoa học chưa biết, những cái mới về bản chất sự vật và các quy luật vận động của thế giới, thế giới tự nhiên và xã hội để phát triển nhận thức chân lý khoa học về thế giới. Từ đó, sáng tạo các phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, để làm biến đổi sự vật có giá trị hơn, nhằm phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người. Nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức chân lí khoa học, khám phá những thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan nhằm phát triển nhận thức khoa học về thế giới. Một hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm kiếm, chỉ ra một cách chính xác những điều mà con người chưa biết đến nhằm cải tạo hiện thực tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới có giá trị mới về mặt nhận thức hoặc phương pháp. Hoạt động là quá trình diễn ra giữa con người với giới tự nhiên, với những hành động của mình con người đã là một bộ phận trung gian có vai trò điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa con người và môi trường. [7]
- Nghiên cứu khoa học là “sự phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người” [8] . Theo Tâm lý học, hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới để tạo ra sản phẩm cho cả đôi bên. Cho nên Hoạt động NCKH của sinh viên là quá trình diễn ra giữa sinh viên với sản phẩm như là một bản thiết kế, sản phẩm khoa học, hay đồ án tốt nghiệp Những sản phẩm này có sự tác động qua lại với sinh viên trong quá trình NCKH. Vì vậy, theo bài báo này NCKH được hiểu là “NCKH là con người đang tuân theo quy luật tự nhiên, đồng thời, con người đã tư duy và vận dụng những kiến thức đã có để phát hiện những cái mới mà khoa học chưa biết, giúp cho khoa học ngày càng phát triển” 2.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học 2.2.1. Đặc điểm hoạt động NCKH Cũng chính vì thế, mà hoạt động NCKH của SV có những đặc điểm như sau - Tính đối tượng: Vì hoạt động bao giờ cũng nhắm đến một đối tượng nào đó, tiếp nhận nó, chuyển nó vào tâm trí của mình và hình thành những năng lực mới. - Tính chủ thể: Chủ thể thông qua các hoạt động làm biến đổi đối tượng theo mục đích của mình. - Tính mục đích: Mục đích là biểu tượng của sản phẩm hoạt động, có khả năng làm thoả mãn nhu cầu nào đó của chủ thể. Mục đích điều khiển và điều chỉnh hoạt động của con người. - Tính khách quan: chủ thể quan sát đối tượng cần nghiên cứu, sau đó, chủ thể sẽ đưa ra nhận định và các hướng giải quyết vấn đề nghiên cứu. [9] 2.2.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên SV tham gia rất nhiều hoạt động NCKH như là đồ án tốt nghiệp, đề tài NCKH cấp SV các cuộc thi khoa học như cuộc thi robocon, phần mềm lập trình .
- Thực hiện đồ án tốt nghiệp là một hoạt động NCKH rất hữu ích cho SV trước khi tốt nghiệp ra trường. Đây cũng là cơ hội cho SV thể hiện sự hiểu biết của mình về môn học đó, vận dụng những kiến thức được học để hoàn thành đồ án dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tuỳ thuộc vào mỗi chuyên ngành cụ thể mà SV phải thực hiện những đồ án khác nhau, lúc này SV là người chủ động lựa chọn đề tài, sau đó nhờ sự tư vấn của người hướng dẫn để SV có được hướng đi đúng trong hoạt động nghiên cứu. Để thực hiện tốt đồ án tốt nghiệp thì kĩ năng tổng hợp kiến thức là rất cần thiết. Ngoài ra, chủ thể phải suy nghĩ tư duy rất nhiều vào đồ án của mình. Từ đó, chủ thể sẽ có các mục tiêu rõ ràng và từng bước hoàn thành các mục tiêu đã định. Cuối cùng, chủ thể sẽ hoàn tất sản phẩm của mình bằng con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. Cuộc thi Dancing Robot, đua lập trình MCR, các hoạt động robocon từ lâu đã là những hoạt động sôi nổi của rất nhiều trường đại học về chuyên ngành kỹ thuật. Đây là cơ hội cho SV tập quen với một đề tài nghiên cứu nhỏ, sẽ tiếp cận với những vấn đề cụ thể, có ý thức đào sâu suy nghĩ và tập cách tư duy để nghiên cứu giải quyết một vấn đề. Trong quá trình hoạt động NCKH, tất nhiên sẽ nảy sinh nhiều hướng giải quyết khác nhau. Quá trình này sẽ giúp SV rèn luyện tư duy độc lập và bảo vệ lập trường khoa học của mình [10]. Trong quá trình tổng hợp kiến thức SV sẽ rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu là cách học tập suốt đời mà SV cần phải tự trang bị cho mình. Khi có khá đầy đủ kiến thức về vấn đề mà người học đang nghiên cứu thì họ sẽ đưa ra đa dạng giải pháp mà họ đang quan tâm. Người học sẽ có cái nhìn tổng quan vấn đề, sau đó, SV sẽ lựa chọn phương pháp nghiên cứu, những kỹ thuật tư duy. Từ đó người học sẽ thiết lập cho mình một kế hoạch nghiên cứu hiệu quả nhất, rút ngắn thời gian nghiên cứu và cho ra kết quả tốt nhất [11] . Vì khi tham gia nhiều hoạt động cũng rèn luyện cho các em tính tự tin rất tốt cũng như trao đổi thông tin với hàm lượng kiến thức rất cao và đây cũng chính là nền tản cho SV học tiếp các bậc học cao hơn sau này. Hơn nữa, kiến thức khoa học luôn thay đổi theo từng ngày từng giờ, kiến thức hôm nay đã lạc hậu so với ngày mai. Chính vì vậy, mà chúng ta không chỉ dạy cho SV những kiến thức theo sách vở mà còn dạy cho SV học tập chủ động, rèn tính tự học, tư duy kỹ thuật trong quá trình học
- tập và NCKH. Có như vậy, SV sẽ tự củng cố và cập nhật tri thức, tích luỹ kinh nghiệm trong thời gian học tập tại trường, để sẳn sàng đáp ứng rất nhiều yêu cầu công việc bên ngoài xã hội và phát triển nghề nghiệp trong tương lai. Ứng với mỗi ngành nghề sẽ có có những nghề nghiệp cụ thể mà mỗi SV cần phải trang bị cho chính bản thân mình những kỹ năng, phong cách làm việc khoa học, khả năng tư duy và nhận xét vấn đề một cách khoa học để có thể hoà nhập với sự phát triển kỹ thuật công nghệ trong nước và thế giới. 2.3. Tư duy kỹ thuật 2.3.1 Đặc điểm tư duy kỹ thuật [5] a) Tư duy kỹ thuật có tính chất lí thuyết và thực hành Nếu dạy cho sinh viên quá nhiều lý thuyết mà lại không kết hợp với thực hành, làm cho sinh viên có cảm giác môn học này có quá nhiều lý thuyết, làm cho các giờ học trở nên nhàm chán, không khí lớp học rất nặng nề, rất khó phát huy tính STKT. Giờ học lý thuyết và thực hành xen kẽ với nhau giúp cho sinh viên áp dụng ngay các bài tập lý thuyết vào giờ học thực hành, điều này tạo sự hứng thú rất nhiều cho sinh viên. Đây là sự kích thích, khởi nguồn cho tính sáng tạo, sinh viên cảm thấy đam mê việc học, vì những gì họ được học lý thuyết được áp dụng ngay tại xưởng thực tập. Người học có khả năng tư duy trong hoạt động NCKH, nhưng sự tư duy kỹ thuật này chỉ thật sự có giá trị khi được kiểm chứng bằng thực tiễn. Chính vì thế, mà tính chất lí thuyết và thực hành luôn gắn kết chặt chẽ trong quá trình tư duy kỹ thuật. b) Tư duy kỹ thuật có mối liên hệ chặt chẽ giữa các khái niệm và hình ảnh Điều quan trọng trong tư kỹ thuật là phải nắm vững và cụ thể hoá các khái niệm, có khả năng hình thành được khái niệm vấn đề cho bản thân. Bên cạnh đó, SV rèn luyện khả năng tư duy hình ảnh qua các bản vẽ, sơ đồ, phương tiện kỹ thuật trực quan . Từ đó SV sẽ có mối liên hệ giữa các khái niệm và hình ảnh trực quan, dẫn đến sự tổng hoà cho khả năng tư duy không gian trong tư duy kỹ thuật. Ngoài ra, sáng tạo kỹ thuật cũng mang tính chất nghề nghiệp. Hiện nay, giáo dục nghề nghiệp kỹ thuật luôn áp dụng có những phương pháp dạy học hiện đại, chất lượng giáo viên, cơ sở vật chất nhằm hướng đến cái đích là phát triển tính STKT. Khi
- được học tập tại trường việc tích luỹ kinh nghiệm và sự nhạy bén nghề nghiệp giúp cho những người làm công tác kỹ thuật tiếp cận với những khái niệm kỹ thuật hay đối tượng kỹ thuật nhanh hơn, giải quyết các bài toán kỹ thuật tốt hơn. c) Tư duy kỹ thuật có tính thiết thực và linh hoạt cao Khi gặp những sự cố kỹ thuật, SV đã quen với tính tư duy ở mức độ cao, nhìn nhận vấn đề một cách khái quát và đưa ra những quyết chính xác, giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và hợp lí. Trong quá trình lao động sản xuất, con người thường những gặp những bài toán, vấn đề, tình huống phức tạp khác nhau và bất ngờ. Đòi hỏi con người phải tư duy kỹ thuật rất nhiều. Đây chính là tính thiết thực và linh hoạt rất cao mà quá trình tư duy kỹ thuật đã mang lại cho SV khi giải quyết một vấn đề nào đó trong học tập và trong sản xuất. Ngoài ra, sáng tạo kỹ thuật cũng mang tính chất nghề nghiệp. Hiện nay, giáo dục nghề nghiệp kỹ thuật luôn áp dụng có những phương pháp dạy học hiện đại, chất lượng giáo viên, cơ sở vật chất nhằm hướng đến cái đích là phát triển tính STKT. Khi được học tập tại trường việc tích luỹ kinh nghiệm và sự nhạy bén nghề nghiệp giúp cho những người làm công tác kỹ thuật tiếp cận với những khái niệm kỹ thuật hay đối tượng kỹ thuật nhanh hơn, giải quyết các bài toán kỹ thuật tốt hơn. 2.3.2. Mối quan hệ giữa hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển tư duy kỹ thuật Khi nắm vững phần lý thuyết, SV cần phải thực hành trên thực tế như làm việc với bản vẽ, sơ đồ, thiết kế sản phẩm và sử dụng các phương tiện kỹ thuật trực quan. Trong quá trình thực hành SV sẽ lĩnh hội đầy đủ các tri thức lí thuyết, tạo điều kiện dễ dàng cho quá trình nắm vững lý thuyết và chi tiết vấn đề. Khi kết hợp giữa lý thuyết và thực hành một cách thuần thục SV(chủ thể) sẽ có cách nhìn các đối tượng một cách khách quan khi họ muốn thay đổi đối tượng. Từ đó, hình thành hình ảnh đối tượng vào đầu. Lâu dần, hình thành những năng lực tư duy đa chiều khi quan sát đối tượng và phát triển tư duy kỹ thuật trong hoạt động NCKH cũng như giải các BTKT, giúp cho SV có năng lực giải quyết cùng một lúc nhiều vấn đề; kĩ năng xử lí những vấn đề nảy sinh bất ngờ trong quá trình làm khoa học. Khi đứng trước những tình huống khó, SV có thể hệ thống được kiến thức của mình để giải quyết tình huống một cách hiệu quả
- và thích hợp. Tư duy kỹ thuật giúp cho SV lựa chọn các phương pháp giải quyết tình huống một cách hợp lí và tối ưu nhất. Trong hoạt động suy nghĩ của SV, họ phải hình thành những khái niệm kỹ thuật mới kết hợp với những khái niệm đã biết, trên cơ sở này, SV sẽ hệ thống được kiến thức. Khi nắm vững cái khái niệm, SV phải kết hợp chặt chẻ với hình ảnh tư duy, để hình thành tư duy không gian nhắm đến mục đích của sản phẩm. Khi nhắm đến mục đích của sản phẩm SV luôn suy nghĩ đến sản phẩm của mình đang làm, từ đó SV có những tư duy kỹ thuật tích cực tìm ra nhiều giải pháp tối ưu cho sản phẩm là mục đích của mình. Trong quá trình suy nghĩ, tư duy kỹ thuật là một quá trình phản ánh một cách khái quát và gián tiếp với hiện thực khách quan. Tính thiết thực và linh hoạt trong tư duy kỹ thuật giúp cho SV giải quyết được vấn đề rất nhanh và loại bỏ những giai đoạn không cần thiết khi làm công tác khoa học. Cũng chính vì thế, mà SV nên thông hiểu tính mục đích trong hoạt động NCKH, chính là phải biết nguyên tắc tính mục đích. Mục đích sẽ thay đổi những hoạt động của chủ thể mà chủ thể cũng có thể thay đổi mục đích thông qua các công cụ trực quan hay ngôn ngữ Khi biết được tính hai chiều của mục đích, chủ thể sẽ có cách nhìn vấn đề với nhiều khía cạnh rất khác nhau. Từ đó, SV có những ý tưởng sáng tạo tốt và giải quyết những BTKT một cách tối ưu hơn. 2.4. Đề xuất giải pháp 2.4.1 Nâng cao thái độ và nhận thức của SV đối với hoạt động NCKH Độ tuổi của sinh viên vào thời kỳ 18 – 25 tuổi, được gọi là thanh niên trưởng thành. Giai đoạn này sinh viên quan tâm đến rất nhiều lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực bên ngoài lĩnh vực học tập. Vốn hiểu biết của sinh viên rất phong phú và sâu sắc. Tính độc lập, chủ động, sáng tạo trong nhận thức là phẩm chất tâm lý đặc trưng của sinh viên. Năng lực nhận thức của sinh viên cũng phát triển ở mức độ cao và đa dạng Sự phát triển về trí tuệ trừu tượng đã phát triển rất cao, do phải làm việc với lượng lớn tri thức và tài liệu học tập nên các em phát triển nhanh về khả năng phân tích, trừu tượng hoá, khái quát hoá và tổng hợp tài liệu. Sinh viên có thể độc lập giải thích
- nguyên nhân, chứng minh hoặc bác bỏ giả thuyết và đưa ra ý kiến của bản thân về một vấn đề khoa học. Vì vậy, đề cao các thành tích của các SV thành công trong nhiều lĩnh vực, giáo viên lập thành tích làm gương cho SV tham gia nghiên cứu, cũng như có những phần thưởng của những cuộc thi như giải thưởng cuộc thi sáng chế, giải thưởng SV NCKH eureka sẽ nâng cao tinh thần, thái độ, nhận thức cho SV trong hoạt động nghiên cứu. Từ đó, SV sẽ có thái độ tự nguyện mà không cần sự thúc dục hô hào của nhà trường, các em tham gia khoa học mà không đưa nên đưa lợi ích cá nhân lên đầu, các em nên có thái độ nhiệt tình yêu khoa học khi tham gia, tránh thái độ tham gia chỉ vì điểm cộng vào đồ án tốt nghiệp. 2.4.2 Tạo sân chơi cho SV tham gia hoạt động NCKH kỹ thuật Các cuộc thi robocon, phần mềm lập trình là sân chơi giúp cho các nhà khoa học trẻ giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Thông qua các cuộc thi này sẽ giúp các em có sự trưởng thành, tự tin trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Đây là cơ hội tranh tài giúp các em khẳng định bản thân, qua đó, các em thấy được ưu và nhược điểm thành quả của chính mình. Đây vừa là một sân chơi vừa là một môi trường học tập năng động sáng tạo. Môi trường học tập này giúp các SV thể hiện tất cả năng lực học tập thông qua các sản phẩm của mình. Khi tham gia cuộc thi các em có cơ hội so sánh sản phẩm lẩn nhau, lúc này các em sẽ đưa ra nhiều ý tưởng và giải pháp kỹ thuật mới cho chính sản phẩm của mình mà trước đây các em chưa nghĩ đến. Thông qua cuộc thi, phần thưởng hay các suất học bổng sẽ khích lệ tinh thần cho các em rất nhiều, là mục tiêu giúp các em phấn đấu. Qua các cuộc thi, các em cũng thấy được năng lực của bản thân và cố gắng nhiều hơn nữa trong học tập. Các cuộc thi NCKH kỹ thuật là một môi trường học vô cùng lý tưởng mà nhà trường nên tổ chức thường xuyên giúp cho SV phát huy tính sáng tạo kỹ thuật và tìm kiếm nhiều ý tường mới lạ. 2.4.3 Tổ chức các hoạt động NCKH có chu kỳ và đưa vào hoạt động chính khoá Các hoạt động NCKH còn hoạt động phong trào, tuyên truyền rất nhiều, tính liên tục thấp, kết quả nghiên cứu lại không giúp ích cho các môn học mà SV đang theo đuổi. Cho nên, nhà trường cần phải đưa các hoạt động phòng trào trở thành hoạt động
- chính khoá hay thành một môn học bắt buộc các em phải hoàn thành. Hiện nay, chỉ có những SV khá giỏi mới được tham gia các hoạt động NCKH, khi trở thành một môn học chính thức, bắt buộc tất cả các SV phải tham gia. Có như vậy, các hoạt động NCKH sẽ trở nên sôi nổi và các hoạt động sẽ trở nên linh hoạt và thiết thực hơn. Hiện nay, có rất nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu trong lĩnh vực kỹ thuật, cho nên các thầy cô nên định hướng cho SV có hướng đi đúng trong lĩnh vực nghiên cứu, tránh sự lan mang mất phương hướng trong quá trình học tập nghiên cứu. Bên cạnh đó, nhà trường phải có sự quan tâm đầu tư hợp lý các dự án cấp trường, các dự án gây được tiếng vang và xây dựng sự uy tín của nhà trường. Ngoài ra, việc đưa các hoạt động này thành các hoạt động chính khoá và rèn luyện cho SV có thói quen thường xuyên tham gia nhiều các hoạt động. Khi hoàn thành các hoạt động hay dự án NCKH việc cho điểm cộng vào đồ án tốt nghiệp cho SV là điều cần thiết. Vì các SV này vừa tham gia NCKH vừa hoàn thành các môn học cùng lúc, nên việc cho điểm cộng cũng là điều khuyến khích rất nhiều cho các em. Việc GV kết hợp với SV làm các dự án NCKH giúp cho các em có thêm sự tự tin, khả năng làm việc nhóm, khả năng giải quyết vấn đề và khả năng tư duy khoa học trong lĩnh vực kỹ thuật, một lĩnh vực rất khó so với các lĩnh vực khác. Chính vì rất khó, nên sự hướng dẫn góp ý của GV rất cần thiết cho những SV mới chập chửng bắt đầu làm khoa học. Sự khuyến khích và động viên tinh thần cho các em lúc này rất có lợi giúp các em vượt qua giai đoạn đầu của dự án. 2.4.4 Kết hợp chặt chẽ lý thuyết và thực hành Trong học tập kỹ thuật cần phải kết hợp chặt chẽ lý thuyết và thực hành một cách hợp lý - ứng dụng những lý thuyết đã học một cách nhanh chóng tại xưởng thực hành. Nhưng GV không nên có những hướng dẫn ngay từ đầu mà hãy để các em tự xử lý tình huống khi gặp vấn đề. Mặc dù ban đầu giờ học có thể sẽ lâu ổn định, nhưng đây chính là cách thứ thách nâng cao khả năng xử lý tình huống, giúp nâng cao tính STKT của SV. Hãy đề các sv tự bản thân họ tìm ra cho mình một cách xử lý thông minh, sáng tạo và hiệu quả nhất. Đây cũng là sự hứng thú trong học tập mà thầy cô đã thổi một làn gió mới cho SV trong cách dạy của mình.
- Đồng thời, lúc này, GV nên kết hợp những bài tập này có phần nội dung liên quan đến các thiết bị máy móc tại xưởng thực tập giúp cho SV có sự trải nghiệm thực sự tại khu vực nhà xưởng. Khi kết hợp hai việc này, giúp cho SV cải thiện khả năng quan sát kỹ thuật thiết bị máy móc. Trong điều kiện này, sẽ thay đổi sự nhận thức trong từng SV, họ sẽ có xu hướng nghĩ ra những cái mới và kết hợp các phần lý thuyết đã học. Chính lúc này, tính chất tư duy thiết kế sẽ bùng nổ và tất nhiên họ cần có một sự thay đổi một sự cải tiến kỹ thuật khi quan sát các thiết bị máy móc và sự hoạt động của các thiết bị tại đây. Chính họ, sẽ đặt ra những câu hỏi, tại sao chúng lại không hoạt động như vậy ? hay là, Tại sao chúng không chạy ngược lại ?, Tạo sao cái máy chạy ồn quá ? Có cách nào làm cho chúng chạy nhanh hơn không ? Rất nhiều câu hỏi sẽ được đặt ra, khích thích sự tìm tòi và sáng tạo của các SV. Lúc này, SV đã đưa đưa ra rất nhiều ý tưởng và có rất nhiều giải pháp được đưa ra. Để thành công với nhiều ý tưởng và lựa chọn các giải pháp một cách hợp lý SV cần phải trang bị thêm cho mình kiến thức về “Các thủ thuật” khi giải quyết các BTKT 3. KẾT LUẬN Hoạt động nghiên cứu khoa học của SV trong các trường đại học, cao đẳng đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của ngành giáo dục và nền khoa học kỹ thuật nước nhà. Nhiều sáng kiến, phát minh được áp dụng vào thực tế, nhiều kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào các lĩnh vực đã tạo ra hiệu quả nhất định trong đời sống kinh tế- xã hội . Song, với sự phát triển nhanh chóng của đất nước như hiện nay thì có thể đánh giá một cách thẳng thắn là lực lượng SV tại các trường đại học, cao đẳng thực sự chưa đáp ứng được yêu cầu (cả về số lượng và chất lượng) để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. SV cần phải có những sản phẩm có giá trị khoa học cao, mức độ ứng dụng rộng rãi. Từ đó, cũng cho thấy phát triển TDKT là rất cần thiết cho SV trong hoạt động NCKH.
- TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] 123doc.vn [2] tailieu.vn [3] [4] [5] Nguyễn Trọng Khanh, Phát Triển Năng Lực Và Tư Duy Kỹ Thuật, Tr 58, NXB Đại Học Sư Phạm, 2011 [6] Nguyễn Văn Tuấn, Phương Pháp Dạy Học Chuyên Ngành Kỹ Thuật, Tr 33, NXB ĐH Quốc Gia TP.HCM, 2012. [7] Phan Trọng Ngọ, Tâm Lý Học Hoạt Động và Khả Năng Ứng Dụng Vào Lĩnh Vực Dạy Học, Tr 205, NXB ĐHQG Hà Nội, 2000. [8] Vũ Cao Đàm, Phương Pháp Luận Nghiên Cứu Khoa Học, Tr 35, NXB GDVN, 2014. [9] Trần Hữu Luyến, Lý Thuyết Hoạt Động Lời Nói Với Dạy Học Ngoại Ngữ, Tr 289, NXB Giáo Dục , 1999 [10] [11] Nguyễn Cảnh Toàn(Chủ biên), Khơi Dậy Tiềm Năng Sáng Tạo, Tr 302, NXB Giáo Dục, 2005.
- BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.



