Những trào lưu triết học giáo dục chủ yếu ở phương Tây thế kỷ XX và ảnh hưởng của nó đối với giáo dục Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem tài liệu "Những trào lưu triết học giáo dục chủ yếu ở phương Tây thế kỷ XX và ảnh hưởng của nó đối với giáo dục Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
nhung_trao_luu_triet_hoc_giao_duc_chu_yeu_o_phuong_tay_the_k.pdf
Nội dung text: Những trào lưu triết học giáo dục chủ yếu ở phương Tây thế kỷ XX và ảnh hưởng của nó đối với giáo dục Việt Nam hiện nay
- NHỮNG TRÀO LƯU TRIẾT HỌC GIÁO DỤC CHỦ YẾU Ở PHƯƠNG TÂY THẾ KỶ XX VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY THE MAIN TRENDS OF THE WESTERN PHILOSOPHICAL EDUCATION IN TWENTIETH CENTURY AND ITS IMPACT ON EDUCATION IN VIETNAM TODAY (1)Hà Ly {2)Học viện chính trị khu vực 2 TÓM TẮT Bài báo này trình bày Triết học giáo dục là cơ sở để xây dựng hay đổi mới giáo dục của một quốc gia. Bài viết điểm lại lịch sử hình thành phát triển của giáo dục học và triết học giáo dục trên thế giới. Qua đó rút ra được những vấn đề đáng suy ngẫm trong quá trình thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện và căn bản giáo dục Việt Nam. Từ khóa: Triết học giáo dục, đổi mới giáo dục. ABSTRACT This article presents In order to renew education fundamentally and comprehensively, first we have to renew awareness, educational thinking. Education of the countries are developing rapidly and strongly basing on the advent of educational philosophy. Keyword: Philosophy of education, renew education. I. GIỚI THIỆU Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, giáo dục Việt Nam đã có nhiều bước tiến vượt bực, đã đạt được những thành tựu to lớn trong lịch sử. Tuy nhiên, gần đây giáo dục Việt Nam đã có những biểu hiện trì trệ, không những so với các nước trên thế giới mà ngay cả các nước ở Đông Nam Á. Do đó đổi mới giáo dục là mệnh lệnh tất yếu của thời đại. Nghị quyết 29 khóa XI của Đảng đã chỉ rõ cần phải : ” Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết”.1 1 Nghị quyết TW 29, khóa XI 1
- Muốn đổi mới giáo dục một cách căn bản và toàn diện thì trước hết phải đổi mới về nhận thức, về tư duy giáo dục. Giáo dục của các nước trên thế giới tiến nhanh tiến mạnh là nhờ ở sự ra đời của Triết học giáo dục (philosophy of education). II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra, người nghiên cứu đã sử dụng một số phương pháp như: phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp nghiên cứu thực tiễn . III. GIÁO DỤC VÀ TRIẾT HỌC GIÁO DỤC Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến giáo dục, xem giáo dục là quốc sách. Do đó, giáo dục Việt Nam đã có bước tiến dài cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên, giáo dục Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu phát triển. Yêu cầu đổi mới, cải cách giáo dục ngày càng cấp thiết. Muốn đổi mới giáo dục trước hết phải trả lời những câu hỏi do bản thân giáo dục đặt ra. Chẳng hạn như học cái gì? Dạy cái gì? Dạy những cái nhà trường cần dạy hay dạy những cái mà người học cần học? Học để làm gì (mục đích) và học như thế nào? (phương pháp) Theo từ điển mở Wikipedia, Triết học giáo dục là suy tư triết học về những vấn đề giáo dục bằng phương pháp, ngôn ngữ triết học. Gần đây, ở Việt Nam cũng đã xuất hiện một vài công trình nghiên cứu nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục. Chẳng hạn các công trình nghiên cứu: Triết lý giáo dục Việt Nam (Đề tài khoa học cấp Bộ do Phạm Minh Hạc chủ nhiệm, 2012); Triết học giáo dục Việt Nam (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2007 của Thái Duy Tuyên); Cơ sở triết học của tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh (Đề tài khoa học cấp Bộ, do Thái Duy Tuyên chủ nhiệm) Những công trình trên đã làm rõ tính cấp thiết của môn khoa học giáp ranh này, nhưng chưa đề cập và chưa làm rõ ảnh hưởng của triết học giáo dục đối với giáo dục học. Dẫu sao đó cũng là những viên gạch đầu tiên để xây nên ngôi nhà triết học giáo dục của Việt Nam. Mới nhìn qua, đã có thể thấy các công trình này có tên gọi khác nhau. “Triết học giáo dục” hay “Triết lý giáo dục”? Gọi như thế nào cũng có lý của nó, nhưng cần lưu ý rằng “Triết học giáo dục” là bộ môn khoa học ra đời từ đầu thế kỷ XIX, đã có tên gọi thống nhất. Tóm lại: Triết học là thuật ngữ được người Nhật tên là Anaximé dịch từ tiếng Anh “Philosophy”, sau đó được Tôn Trung Sơn sử dụng vào ngôn ngữ Trung Quốc, dần dần về sau được sử dụng rộng rãi. Như vậy là thuật ngữ Philosophy từ thời Platon ở Hy Lạp cổ đại được dịch là “triết học” mới xuất hiện ở đầu thế kỷ XX. 2
- Triết lý: thuật ngữ “triết lý” xuất hiện đầu tiên trong sách Luận hành, thiên Loạn Long của Vương Sung đời nhà Đông Hán. Thuật ngữ “Triết lý” đã xuất hiện trong văn tự cổ của Trung Quốc cách đây hai nghìn năm. “Triết lý” là đạo lý, là lý luận có tính triết học. IV. CÁC VẤN ĐỀ CỦA GIÁO DỤC ĐƯỢC BA TRÀO LƯU TRIẾT HỌC GIÁO DỤC Ở PHƯƠNG TÂY THẾ KỶ XX ĐỀ CẬP ĐẾN. Các trào lưu triết học giáo dục hiện đại đề cập nhiều vấn đề về giáo dục. Tuy nhiên có ba vấn đề quan trọng mà bất cứ trường phái triết học nào cũng không thể không quan tâm, đó là bản chất, mục đích và giá trị của giáo dục. Chủ nghĩa thực dụng là một trong những trào lưu triết học ảnh hưởng nhiều nhất ở Mỹ và Âu châu, do đó nếu như làm rõ quan điểm triết học giáo dục của chủ nghĩa thực dụng, đồng thời qua đó đối chiếu với các trào lưu triết học khác thì có thể có cái nhìn sơ bộ, tổng quan về triết học giáo dục phương Tây thời kỳ hiện đại. Chủ nghĩa thực dụng ra đời ở Mỹ vào năm 1870. Những đại biểu chủ yếu là Charles Sanders Pierce (1839 - 1914), William James (1842 - 1910) và John Dewey (1859 - 1952). Nếu Pierce và James đặt cơ sở lý luận, thì Dewey là người xây dựng toàn bộ ngôi nhà của chủ nghĩa thực dụng. Chủ nghĩa thực dụng có nguồn gốc xa xưa từ triết học “Sophiste” thời cổ đại Hy Lạp, nhưng trực tiếp nhất là chịu ảnh hưởng của Berkeley, Hume, Auguste Comte và Schaupenhauer. Chủ nghĩa thực dụng trong tiếng Anh là Pragmatism, Pragma có nghĩa là “hành động”. Về triết học, đa nguyên luận và tương đối luận là bản thể luận và nhận thức luận của chủ nghĩa thực dụng. John Dewey là nhà triết học đồng thời cũng là nhà triết học giáo dục nổi tiếng của Mỹ (Ông đã viết 36 cuốn sách, hơn 300 bài nghiên cứu về các lĩnh vực như triết học, triết học giáo dục, văn hóa, xã hội ). Nước Mỹ không bị ràng buộc bởi xã hội phong kiến cho nên khẩu hiệu “dân chủ”, “công bằng” được hô to hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Đó cũng là một trong những đặc điểm của triết học giáo dục của Dewey cũng như của trường phái thực dụng (John Dewey, 2008). Khi bàn về quan hệ “thầy-trò”, bàn về vấn đề trung tâm của giáo dục, Dewey cho rằng trung tâm của giáo dục không phải là “thầy” mà là “trò”. Thầy là bạn của trò, thầy xưng hô với trò là “I” (tôi) và “You” (bạn) chứ không phải “I” và “thing”. Thầy không xem trò như đồ vật, như cái thùng muốn nhét cái gì thì cứ nhét. Chủ trương này tuy cũng có tính hợp lý, nhưng trong thực tế đã xảy ra tình trạng thầy lơ là trách nhiệm của mình, còn trò giảm lòng tin vào thầy. Nhiều trường phái triết học giáo dục khác đã phản đối chủ nghĩa thực dụng ở điều này. Chủ nghĩa thực dụng xem hành động (pragma) có tầm quan trọng bậc nhất cho nên quan niệm rằng học tập là để hành động, để “làm”, do đó học và làm là thống nhất. Dewey cho rằng: “Giáo dục là cuộc sống”, “Nhà trường là xã hội”, cuộc sống và xã hội luôn thay đổi cho nên không thể có “chân lý” hay “tri 3
- thức” nào nhất thời mà có thể sử dụng suốt đời được. Cho nên “giáo dục là một quá trình”, “giáo dục là sự sinh trưởng”. Dewey chú trọng đến hiệu quả, đến thực tiễn, khuyến khích tính năng động, sáng tạo, tránh tình trạng xơ cứng giáo điều. Tuy nhiên chủ nghĩa thực dụng có phần xem nhẹ trang bị cho người học tri thức, văn hóa mà nhân loại đã dày công tích lũy. Do đó chủ nghĩa yếu tố đã lên tiếng phản đối chủ trương này và cho rằng muốn học gì thì học nhưng không thể không học những tri thức văn hóa cơ bản mà nhân loại đã tích lũy. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở Đức vào những năm 1920. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa hiện sinh ảnh hưởng nhiều ở Pháp và các nước Tây Âu. Những năm 1960 ảnh hưởng nhiều ở Mỹ. Những nhà triết học tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh như Martin Hetdegger (1889 - 1976), Karl Jaspers (1883 - 1969), Jean Paul Sartre (1905 - 1980), Rollo May (1909 - 1994) cho rằng đối tượng của triết học là con người và ngoài con người ra không có gì đáng bàn. Con người và cuộc sống không thể dùng lý tính để nhận thức được, cho nên triết học của chủ nghĩa hiện sinh là triết học phi lý tính (Irrationalism)(1). Chủ nghĩa hiện sinh không quan niệm bản tính là cái vốn có như Mạnh Tử, Tuân Tử, mà cho rằng “tồn tại có trước bản chất” (L`existence precede l`essence). Con người trong quá trình tồn tại tự mình tạo ra bản chất của mình. Do đó về giáo dục, chủ nghĩa hiện sinh kêu gọi cần phải quan tâm đến tính ưu việt của cá nhân, cá tính. Trên đây chỉ là những nét chủ yếu của triết học giáo dục phương Tây thời kỳ hiện đại. Trong đó có những nhân tố hợp lý cũng như chưa hợp lý. Dẫu sao đó cũng là thành quả tư tưởng triết học giáo dục của nhân loại, mà triết học giáo dục Việt Nam cần phải kế thừa và suy ngẫm. V. KẾT LUẬN Triết học giáo dục Việt Nam hiện nay có cơ sở vững chắc là truyền thống xem trọng giáo dục của dân tộc, đồng thời có thể tiếp thu những nhân tố hợp lý của triết học giáo dục thế giới. Và việc xây dựng triết học giáo dục ở Việt Nam là cơ sở tất yếu để đổi mới giáo dục, để giáo dục Việt Nam phát triển theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. 4
- TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2014), Lí luận dạy học hiện đại – Cơ sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, NXB Đại học Sư phạm. [2] John Dewey (Phạm Anh Tuấn dịch). 2008. Dân chủ và giáo dục. Hà Nội. Nxb. Tri thức. [3] Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo, Từ điển giáo dục học, NXB Từ điển bách khoa. Thông tin liên hệ tác giả chính Họ và tên: Hà Ly Đơn vị: Học viện Chính trị khu vực II Điện thoại: 0902.363.569 Email: lyha@hcma2.edu.vn XÁC NHẬN VÀ ĐỀ XUẤT CHO ĐĂNG BÀI CỦA HỌC VIÊN THỰC HIỆN GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN PGS.TS Phùng Rân Hà Ly 5
- BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.



