Những điều cần biết khi lắp ráp máy vi tính

doc 138 trang phuongnguyen 4910
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Những điều cần biết khi lắp ráp máy vi tính", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docnhung_dieu_can_biet_khi_lap_rap_may_vi_tinh.doc

Nội dung text: Những điều cần biết khi lắp ráp máy vi tính

  1. Những điều cần biết khi lắp ráp máy vi tính = 1 =
  2. Bạn đã vắt tay lên đùi, vắt chân lên trán nghiền ngẫm nhiều ngày liền và đi đến quyết định cuối cùng: Ta sẽ tự mình lắp ráp máy tính cho xứng danh hào kiệt! Xin thành kính hoan hô bạn! Và xin được mạn phép cố vấn cho bạn những thứ cần chuẩn bị trước khi ra tay "hành hiệp": Chuẩn bị về "phần mềm" Tính kiên nhẫn: _ Trước khi lắp ráp máy, đương nhiên bạn phải đi mua linh kiện. Mà bạn đã biết rồi đó, cửa = 2 =
  3. hàng linh kiện máy tính bây giờ nhiều như nấm. Thêm nữa, phương châm bây giờ người bán hàng là “Thượng đế”. Vì vậy, bạn phải tập cho mình tính kiên nhẫn cao độ để chiều lòng “Thượng đế”, mong sao “Ngài” giúp cho bạn mua hàng đúng chất lượng, đúng giá cả. _Rồi trong khi lắp ráp, bạn cũng cần phải kiên nhẫn, để lỡ có lắp trật thì mở ra làm lại. Chứ chẳng lẽ bỏ (uổng tiền!), hay nhờ người khác làm dùm (quá quê!). Tính cẩn thận: _Đa số các linh kiện máy tính đều thuộc loại nhỏ xíu anh thương, có cái thuộc dạng bé tẻo tèo teo (như jumper), nên bạn cần phải hết sức chú ý, cẩn thận lúc lắp ráp, chứ nếu bạn vũ phu thì em hổng chịu đâu à nha! (Kinh nghiệm thực tế cho biết có người khi lắp ráp máy đã nuốt nhầm linh kiện vô bụng!!!). Lúc làm, đồ nghề, linh kiện để đâu ra đó, trật tự ngăn nắp để khỏi quậy tung lên khi cần tìm một cái gì đó. Sự bình tĩnh: _Kinh nghiệm cho thấy bạn càng run thì càng dễ làm sai, hoặc làm hư (bẻ gãy vài cái cẳng con CPU chẳng hạn!), vì vậy hãy tỉnh queo khi lắp ráp. Cho dù bạn mới lắp ráp cái máy tính đầu tiên trong đời mình thì cũng đừng coi như mối tình đầu mà hãy xem như mối tình thứ vài ba chục, bạn sẽ yên tâm làm việc. Cứ coi như đang chơi game ấy, cùng lắm là Game Over thôi mà! Sự vệ sinh: _Không phải để phòng ngừa bệnh SARS. Mà bởi vì linh kiện máy tính là những linh kiện điện tử, nhạy cảm với bụi, ẩm. Vì thế, nơi làm việc phải sạch sẽ, khô ráo, còn riêng bản thân bạn, nên đi tắm trước khi lắp ráp máy tính. Đừng lắp ráp máy khi vừa đá banh về, mồ hôi là một trong những thứ rất kỵ với linh kiện máy tính đấy, bạn ạ! Chuẩn bị về phần cứng Bộ đồ nghề công nghệ không dây: _Bộ đồ nghề hiện đại này gồm có: một tournevis (vít pa-ke, nếu là vít có từ tính thì càng tốt, nếu cẩn thận thì thêm một vít dẹp), một cái kéo, một cái kềm mỏ nhọn (chủ yếu dùng để gắp), băng keo trong (để dán dây nối - dán định vị hoặc dán đầu nối). Nếu bạn thấy bộ đồ nghề này "hiện đại" quá, thì bạn có thể đơn giản hóa đến mức tối thiểu trang thiết bị cho dây chuyền công nghệ trong phân xưởng lắp ráp máy tính của mình gồm hai món: tournevis và kéo. Theo kinh nghiệm cá nhân, tui thấy vậy cũng quá đủ! Dụng cụ y tế: Gồm bông gòn, băng, cồn, i-ốt, Phòng ngừa bạn làm ăn hậu đậu quá bị chảy máu. Cẩn tắc vô áy náy mà. Kỳ I: Lắp ráp và thiết lập thông số cơ bản trong BIOS Hãy đọc thật kỹ từng câu để làm theo, và xin chú ý những điều e-CHÍP cảnh báo bạn để tránh những “sự cố” ngoài ý muốn, đặc biệt với trường hợp lần đầu tiên bạn tập làm “vọc sĩ” trong chuyện này. Vạn lời chúc bạn thành công, để mong nghe tin vui bạn vượt qua những trục trặc thường gặp khi lắp ráp cái máy tính tự ên! LẮP RÁP = 3 =
  4. Dụng cụ cần thiết: Một vít chữ thập. Trước khi lắp ráp, để an toàn cho thiết bị, bạn cần khử tĩnh điện trên người bằng cách đeo vòng khử tĩnh điện có nối đất. Nếu không có, bạn hãy sờ tay vào thùng máy, nền đất để “xả điện” trước khi làm việc. Đầu tiên, bạn đọc sách hướng dẫn đi kèm theo mainboard (user manual) để biết vị trí các jumper trên main và thiết lập theo đúng thông số đã chỉ dẫn (với các mainboard đời mới, bạn rất ít phải đụng đến phần này vì tất cả các thiết lập được xác định trong BIOS). Gắn CPU vào đế cắm (socket) Bạn cần mở socket ra trước khi gắn CPU vào. Để làm điều này, hãy kéo thanh nhựa (hay kim loại) nằm bên cạnh socket lên góc 900. Cần chú ý trên bề mặt CPU tại một trong bốn góc, có một vạch hình tam giác, đó là vạch chuẩn dùng định vị, ở trên socket, phần lỗ để cắm CPU vào có một góc cũng bị vát đi, bạn căn cứ vào đấy để gắn sao cho góc vát của CPU trùng với góc định vị của socket, sau đó nhẹ nhàng thả CPU ra cho tụt xuống socket - nhớ đừng có ấn nếu bạn thấy hiện tượng kênh vì sẽ làm cong/gãy chân của CPU. Một tay đè giữ CPU, tay kia kéo thanh khoá xuống gài vào mấu trên socket. Bôi kem giải nhiệt lên phiến giải nhiệt ở bề mặt trên cùng của CPU, sau đó gắn quạt giải nhiệt lên. Nhớ cắm điện cho quạt, kiểm tra xem quạt giải nhiệt có bị kênh lên hay không - nếu có, hãy tháo ra làm lại. Cắm RAM vào khe cắm (slot) của bộ nhớ Hãy chú ý kỹ thanh RAM ở phần dưới, giữa các vạch nhỏ màu vàng có một chỗ lõm vào (hoặc hai chỗ, tùy loại RAM). Trên slot cắm RAM của mainboard cũng có một hoặc hai khấc nhô lên, bạn hãy so cho đúng vị trí rồi hãy kéo hai thanh cài ở hai đầu slot ra, sau đó cắm RAM vào slot. Nếu bạn cắm đúng, tự động hai thanh cài này sẽ bật ngược lại vị trí ban đầu, kẹp chặt vào khe hình vòng cung hai bên thanh RAM. Thường có từ hai-ba khe cắm RAM, có đánh số slot hoặc không có đánh số, bạn có thể cắm vào khe nào cũng được. Một số mainboard đòi hỏi phải cắm theo thứ tự quy định của nhà = 4 =
  5. sản xuất, việc này có ghi rõ trong sách hướng dẫn. Trong một số sách hướng dẫn của mainboard cũng có hướng dẫn những phần này, bạn hãy tham khảo nếu gặp trục trặc khi lắp ráp. Tiếp theo, bạn mở nắp bên hông nếu thùng máy (case) đứng, hay nắp trên nếu là case nằm, rồi đặt nằm ngang, phần mở ra hướng lên trên, ướm thử mainboard vào các vị trí bắt ốc trên case, nạy các miếng kim loại đằng sau case (che các cổng PS/2, serial, parallel) để có thể ướm vừa mainboard vào trong case. Bạn chọn ốc đệm (thường có hình lục giác, màu vàng) gắn vào các vị trí mà sau này sẽ bắt ốc cố định mainboard vào case. Thông thường, kèm theo case có một bịch ốc các loại, dây điện nguồn cho PSU (Power Supply Unit) và một miếng che mặt sau của case. Mở sách hướng dẫn xem để biết chỗ cắm các dây đèn và tín hiệu. Dây reset, dây mở máy (Power On) không cần cắm đúng chiều nhưng dây đèn báo nguồn (Power led), dây đèn ổ cứng (HDD) và dây loa (Speaker) phải cắm đúng chiều. Dây có màu (dây dương) cắm vào chân có dấu + (điện dương), dây màu đen hay trắng cắm vào chân còn lại. Tiến hành cắm đúng theo chỉ dẫn trong sách. Các case sau này có thêm cổng USB nằm ở mặt trước case, bạn xem trong sách vị trí cắm dây USB (dây này một đầu đã gắn sẵn vào cổng phía trước, đầu còn lại gắn vào mainboard). Thường thì một đầu cắm trên mainboard dùng cho hai cổng USB, đầu cắm này được đánh dấu ở chân số 1 để định vị (được đánh vị trí từ 1 trở đi). Trên jack cắm của dây cũng có một vị trí đặc biệt - vị trí này thường không có lỗ để cắm vào. Bạn nhớ xem kỹ thứ tự lỗ và dấu hiệu định vị để cắm cho đúng. Tham khảo thêm trong sách hướng dẫn. Gắn cáp dữ liệu Cáp dữ liệu có ba đầu cắm, các đầu này bố trí không cân xứng, phần hai đầu cắm (chính - master, phụ - slaver) nằm gần nhau để cắm vào ổ đĩa cứng/ổ đĩa quang, phần nằm xa thì cắm vào khe IDE trên mainboard. Bạn cắm đầu cáp dữ liệu (cáp ATA cho ổ đĩa cứng và cho ổ đĩa quang) vào khe IDE (thường được bố trí dọc theo cạnh của mainboard). Có hai khe IDE được đánh số IDE 1 và IDE 2 (IDE 0 và IDE 1). Khe IDE1 là khe chính (Primary) thường dùng để cắm cáp ổ cứng (để có thể khởi động được), khe IDE2 là khe phụ (Secondary) dành cho các ổ đĩa quang (Optical drive). Để đạt hiệu năng cao nhất, bạn không nên gắn ổ quang chung cáp với ổ cứng hay gắn chung hai ổ đĩa cứng có tốc độ chênh lệch quá lớn. Nếu dùng thêm FDD (ổ dĩa mềm), bạn gắn thêm cáp dĩa mềm. Cáp ổ dĩa mềm khác với cáp HDD ở chỗ một đầu cáp bị bắt chéo, đầu cắm sát chỗ bắt chéo đó cắm vào FDD, đầu kia cắm vào mainboard. Khi cắm cáp, ở giữa phần đầu cắm có một “lẫy” nhựa nhỏ nhô ra làm mốc, ổ cắm trên mainboard có chỗ lõm xuống tương ứng, bạn cắm sao cho hai phần này khớp nhau là đúng. Đặt mainboard vào case = 5 =
  6. Tiến hành bắt ốc cố định mainboard (bạn cần từ sáu đến tám con ốc là đủ, tùy loại mainboard). Tiếp đến, bạn cắm dây nguồn (20 sợi) vào khe Power (ATX Power Connector) trên mainboard, thường nằm gần CPU - chú ý có một góc vát định hướng cắm. Một số mainboard (thường là P4, gần đây là một số mainboard socket A) cần thêm dây nguồn 12V bổ sung, loại này có bốn sợi - hai vàng và hai đen. Cũng tiến hành cắm như trên vào khe 12V Connector (hình vuông) nằm gần khe ATX Power Connector. Lắp card màn hình AGP Trước khi gắn card màn hình, bạn hãy kiểm tra lại xem card màn hình của mình dùng điện thế bao nhiêu volt (nếu cắm nhầm, có thể làm cháy mainboard). Loại card AGP 1x/2x thường dùng điện thế 3,3V, còn loại 4x/8x dùng điện thế 1,5V. Tuy nhiên, đa số các loại mainboard hiện nay đều hỗ trợ 1x/2x/4x (tự động nhận biết card 1,5V hoặc 3,3V) hoặc mới nhất là 4x/8x (loại này chỉ hỗ trợ card 1,5V). Mặt sau của case, tương ứng với mỗi slot (khe cắm card) có một khung hình chữ nhật, nhớ nạy ra trước khi gắn card vào slot. Tiếp đến, bạn kéo lẫy cài ra, cắm card AGP vào, nhớ cắm dây nguồn cho quạt giải nhiệt trên card nếu có. Một số card đời mới hiện nay còn dùng thêm nguồn riêng, ví dụ ATI R9700 Pro, nên khi mua case, nhớ chọn loại có nhiều dây cấp nguồn để dễ nâng cấp sau này. Lắp card Sound Tương tự như trên, sau đó nhớ cắm dây tín hiệu analog của ổ đĩa quang (CD, DVD) vào jack cắm trên Sound. Card sound cắm trên khe PCI (màu trắng) thường có từ ba khe trở lên, bạn có thể cắm vào khe nào cũng được. Nếu bạn dùng mainboard với Sound và VGA onboard tích hợp sẵn thì khỏi cần công đoạn này. Tương tự cho modem, card mạng, v.v Lắp đặt Optical Drive (ổ đĩa quang) Gỡ miếng nhựa ở mặt trước case ra, thiết lập jumper cho ổ đĩa quang là Slaver nếu cắm chung cáp với HDD (đã được thiết lập là Master), hay Master nếu cắm cáp riêng. Để thiết lập jumper cho ổ đĩa quang, bạn xem các vị trí thiết lập được khắc ở mặt trên phía sau ổ đĩa. Gỡ cầu nối (vỏ nhựa nhỏ màu đen hoặc trắng, hoặc xanh) ra và gắn vào vị trí thích hợp đã ghi trên ổ đĩa: MA là Master, SL là Slaver, CS là Cable Select (tự động thiết lập Master/Slaver cho thiết bị theo vị trí gắn trên sợi cáp, vị trí này được gắn nhãn ghi rõ là Master hoặc Slaver). Mặc định là vị trí Slaver. Đẩy từ từ ổ đĩa vào, cắm cáp data vào khe IDE trên ổ đĩa, dây điện nguồn (bạn chỉ có thể cắm vào theo một chiều vì có hai góc vát), bắt ốc vào hai bên hông. Lặp đặt ổ đĩa mềm (FDD) Tương tự như trên nhưng nhớ chú ý và cẩn thận khi cắm dây điện nguồn vì rất dễ cắm lệch vị trí chân (cắm sai đầu điện nguồn có thể làm cháy thiết bị). Lắp đặt ổ đĩa cứng (HDD) cũng tương tự Thiết lập jumper, cắm cáp data, dây nguồn và bắt ốc cố định vào khoang = 6 =
  7. 3,5-inch. Bạn có thể gắn thêm một quạt giải nhiệt vào mặt dưới của HDD nếu muốn HDD mát hơn trong quá trình hoạt động. Đến đây, bạn đã hoàn tất cơ bản phần lắp ráp rồi đấy, nhưng đừng vội đóng nắp case lại. Bạn hãy bật máy tính lên để kiểm tra xem có hoạt động bình thường hay không. Sau đó, trong quá trình khởi động, bạn vào BIOS của mainboard bằng cách nhấn nút Del hoặc F1 tuỳ loại BIOS (có mainboard hiển thị thông báo cho biết bấm nút gì để vào BIOS) để chỉnh lại các thông số lưu trong BIOS. Chú ý: Có mainboard PIII và mainboard cho AMD AthlonXP cũng dùng nguồn như mainboard P4 (ATX), tuy nhiên dây +12V Connector sẽ thừa ra, không sử dụng. Cảnh giác: Một số trục trặc dễ phát sinh khi lắp ráp! - Khi bạn bắt ốc vào hai bên hông của ổ đĩa quang, nếu thấy khay đĩa mở ra khó khăn, hoặc có trường hợp thiết kế tồi, khay đĩa sẽ không đẩy ra: Bạn hãy nới lỏng ốc ra một chút, tốt nhất là chỉ nên bắt hai ốc dưới. - Sau khi bạn bật máy tính lên, đèn Power (thường là màu xanh) không sáng, đèn HDD (thường là màu đỏ) không sáng, hoặc loa không kêu bíp lúc khởi động: Hãy đảo lại jack cắm của dây Power/HDD/ Speaker, tùy dây nào bị tình trạng này. - Bạn thấy báo lỗi FDD “Floppy disk(s) fail (40)”và yêu cầu nhấn F1 để tiếp tục: Bạn kiểm tra lại đầu nối cáp data của FDD, và nhớ là trong BIOS phải cho hiệu lực thiết bị FDD (chọn 1.44MB 3.5in và trong phần Super IO Device => On-board FDC Controller là Enable) - Nếu bật máy lên mà không thấy quạt CPU quay (dù đã cắm dây nguồn cho quạt): Bạn hãy xem lại jack cắm Power trên main có cắm đúng vào vị trí Power hay chưa (một số mainboard phải cắm dọc theo chiều dài của panel, một số mainboard lại cắm ngang). Tham khảo sách hướng dẫn để biết chắc mình đã cắm đúng. - Trường hợp bật máy lên, bạn nghe nhiều tiếng bíp (thường là ba tiếng bíp ngắn liên tục, tín hiệu bíp này tùy loại lỗi mà có số nhịp khác nhau): Xem lại RAM đã gắn chặt chưa, hay là card màn hình gắn còn lỏng. - Nếu bật máy chạy sau một thời gian mà hay bị Restart: Hãy kiểm tra lại xem bộ nguồn của bạn có đủ công suất để cung cấp điện cho các thiết bị hay không. Để kiểm tra ở mức độ tương đối, bạn vào BIOS, phần PC Health Status kiểm tra lại điện thế các đường +3,3V, +5V và +12V xem có bị sụt giảm hay không? Cũng có thể xem ngay trong Windows thông qua một chương trình của hãng thứ ba như Sisoft Sandard hoặc là phần mềm kiểm tra được cung cấp kèm theo mainboard. - Trong trường hợp bật máy lên, bạn hoàn toàn không thấy quạt quay, đèn sáng, không tiếng bíp của loa: Xem lại CPU và các thiết bị khác, nếu một thiết bị bị mát (chạm mạch) thì sẽ gây ra hiện tượng trên. - THIẾT LẬP CẤU HÌNH CƠ BẢN TRONG BIOS - Khi bạn bắt ốc vào hai bên hông của ổ đĩa quang, nếu thấy khay đĩa mở ra khó khăn, hoặc có trường hợp thiết kế tồi, khay đĩa sẽ không đẩy ra: Bạn hãy nới lỏng ốc ra một chút, tốt nhất là chỉ nên bắt hai ốc dưới. - Sau khi bạn bật máy tính lên, đèn Power (thường là màu xanh) không sáng, đèn HDD (thường là màu đỏ) không sáng, hoặc loa không kêu bíp lúc khởi động: Hãy đảo lại jack cắm của dây Power/HDD/ Speaker, tùy dây nào bị tình trạng này. = 7 =
  8. - Bạn thấy báo lỗi FDD “Floppy disk(s) fail (40)”và yêu cầu nhấn F1 để tiếp tục: Bạn kiểm tra lại đầu nối cáp data của FDD, và nhớ là trong BIOS phải cho hiệu lực thiết bị FDD (chọn 1.44MB 3.5in và trong phần Super IO Device => On-board FDC Controller là Enable) - Nếu bật máy lên mà không thấy quạt CPU quay (dù đã cắm dây nguồn cho quạt): Bạn hãy xem lại jack cắm Power trên main có cắm đúng vào vị trí Power hay chưa (một số mainboard phải cắm dọc theo chiều dài của panel, một số mainboard lại cắm ngang). Tham khảo sách hướng dẫn để biết chắc mình đã cắm đúng. - Trường hợp bật máy lên, bạn nghe nhiều tiếng bíp (thường là ba tiếng bíp ngắn liên tục, tín hiệu bíp này tùy loại lỗi mà có số nhịp khác nhau): Xem lại RAM đã gắn chặt chưa, hay là card màn hình gắn còn lỏng. - Nếu bật máy chạy sau một thời gian mà hay bị Restart: Hãy kiểm tra lại xem bộ nguồn của bạn có đủ công suất để cung cấp điện cho các thiết bị hay không. Để kiểm tra ở mức độ tương đối, bạn vào BIOS, phần PC Health Status kiểm tra lại điện thế các đường +3,3V, +5V và +12V xem có bị sụt giảm hay không? Cũng có thể xem ngay trong Windows thông qua một chương trình của hãng thứ ba như Sisoft Sandard hoặc là phần mềm kiểm tra được cung cấp kèm theo mainboard. Trong trường hợp bật máy lên, bạn hoàn toàn không thấy quạt quay, đèn sáng, không tiếng bíp của loa: Xem lại CPU và các thiết bị khác, nếu một thiết bị bị mát (chạm mạch) thì sẽ gây ra hiện tượng trên. kú ii : cµi ®Æt phÇn mÒm Sau khi lắp ráp, chiếc máy tính của bạn giờ đã hoàn thành 50% rồi đấy. Để máy có thể hoạt động, bạn cần cài phần mềm vào đĩa cứng. Lần này, xin mách bạn cài hệ điều hành. Bạn cần chuẩn bị: Một đĩa cài hệ điều hành (Win 98/ ME hoặc Win2K/XP hay Linux), tuỳ bạn thích dùng hệ điều hành (HĐH) nào. Bài này hướng dẫn bạn cài HĐH của Microsoft Windows vì nó khá thông dụng. Bạn cần viết số CDKEY của bản Windows sẽ cài ra giấy để dùng khi cần. Tiến hành phân vùng và định dạng đĩa cứng Trước khi tiến hành cài đặt HĐH, bạn phải phân vùng và định dạng đĩa cứng để có thể chép dữ liệu lên đó. Đưa đĩa mềm khởi động (tạo bằng Win9X, bằng cách dùng lệnh “format a:/s”) vào ổ dĩa mềm (ổ A) đánh lệnh “FDISK” và ấn Enter. Chọn “Y” nếu muốn sử dụng FAT32 cho ổ đĩa cứng (HDD) có dung lượng lớn hơn 512MB (hoạt động hiệu quả hơn FAT16). Các tuỳ chọn (Options) sẽ hiện ra: = 8 =
  9. 1. Create DOS partition or Logical DOS drive. 2. Set active partition. 3. Delete partition or Logical DOS drive. 4. Display partition information - Mục 1 dùng khởi tạo phân vùng chính (Partition Primary), phân vùng mở rộng (Partition Extended) và phân vùng Logic. Một HDD thường có một phân vùng chính và một phân vùng mở rộng, trong phân vùng mở rộng được chia thành nhiều phân vùng logic. Ví dụ: HDD của bạn chia thành ba ổ dĩa, C, D và E thì ổ C là phân vùng chính, phân vùng phụ có hai phân vùng logic là D và E. Trong mục nầy còn có các mục con sau: a. Create Primary DOS Partition b. Create Extended DOS Partition c. Create Logical DOS Drive(s) in the Extended DOS Partition - Ðầu tiên, bạn phải tiến hành mục a - tạo Partition DOS thứ nhất (primary). Vùng này có đặc điểm là chỉ chứa một ổ đĩa duy nhất có dung lượng chiếm toàn bộ không gian vùng và chỉ ổ đĩa này được phép khởi động. Nếu bạn không chia nhỏ ổ đĩa cứng vật lý thì bạn cho vùng này chiếm toàn bộ ổ đĩa vật lý và quá trình fdisk kể như hoàn tất, DOS sẽ tự động chỉ định cho ổ đĩa này là ổ khởi động. Nếu muốn chia nhỏ ổ đĩa, bạn chỉ định kích thước cụ thể cho vùng này rồi tiến hành mục b. - Mục b tạo vùng đĩa mở rộng (extended) dành cho DOS. Dung lượng là không gian còn lại của ổ đĩa vật lý, hay chỉ một phần nếu bạn muốn dự trữ một vùng riêng ngoài tầm kiểm soát của DOS (dành cho hệ điều hành khác) gọi là vùng Non DOS. Vùng DOS mở rộng này sẽ chứa tất cả các ổ đĩa Logic mà bạn muốn tạo và bạn tiến hành tạo chúng bằng mục c. - Khi tạo ổ đĩa Logic, đừng nên tạo quá nhiều (tốt nhất là hai hoặc ba) vì dung lượng còn trống sẽ bị phân tán trên từng ổ đĩa Logic, khiến cho việc cài đặt các chương trình lớn trở nên khó khăn. Ngoài ra, nếu có nhiều ổ đĩa vật lý, bạn cần chú ý cách gán tên ổ đĩa Logic của Dos như sau: DOS đặt tên theo thứ tự ABC và gán cho vùng Pri trên mỗi ổ đĩa vật lý trước (theo thứ tự ổ đĩa vật lý) sau đó mới đến các ổ đĩa Logic trên vùng Ext của từng ổ đĩa theo thứ tự. Thí dụ: Có hai ổ đĩa vật lý, trên ổ đĩa master (1) chia 1 Pri, 2 Logic, trên ổ đĩa Slave (2) chia như ổ 1. Chúng sẽ được gán tên như sau: ổ 1 có C (Pri), E, F (Logic). ổ 2 có D (Pri), G, H (Logic). Thứ tự gán tên rất quan trọng, nếu sơ ý sẽ dẫn đến việc format sai ổ đĩa. Tuy nhiên, bạn cần chú ý là thứ tự này còn bị chi phối bởi loại BIOS của mainboard. - Mục 2 dùng để thiết đặt phân vùng khởi động đầu tiên (được đánh dấu là chữ A - active), Fdisk chỉ cho phép bạn chọn phân vùng chính trên mỗi HDD làm phân vùng khởi động. - Mục 3 dùng để xóa phân vùng đã khởi tạo, thứ tự xóa phải ngược lại với thứ tự tạo, nghĩa là cái gì tạo sau phải được xoá trước. - Mục 4 dùng xem thông tin của HDD (Dung lượng, các phân vùng, tên nhãn đĩa, hệ thống dùng FAT32 hay NTFS, v.v ). = 9 =
  10. Bạn có thể đọc tiếp theo các hướng dẫn trong quá trình phân vùng để làm tiếp. Chú ý: Khi bạn fdisk trên ổ đĩa cứng nào (logic hay vật lý) toàn bộ dữ liệu trên ổ đĩa đó sẽ bị xoá. Fdisk chỉ dùng cho ổ đĩa cứng, bạn không thể fdisk ổ đĩa mềm. Sau khi phân vùng xong, bạn khởi động lại máy. Bước tiếp theo là định dạng tất cả các phân vùng đã được khởi tạo bằng lệnh “format . Ví dụ : A:\>format C. Bạn có thể dùng lệnh Format c: /s để vừa định dạng, vừa làm cho ổ đĩa C khởi động được. Với tất cả công đoạn “khổ sở” này, bạn có thể dùng chương trình Disk Manager (đi kèm theo HDD, hoặc tải trên internet) để làm, chỉ 2-3 phút là xong. cµi ®Æt hÖ ®iÒu hµnh 1. Cài đặt Win9x/ME: _Đưa CD-ROM cài đặt vào, tại thư mục gốc bạn đánh lệnh Setup và ấn Enter. Ấn Enter tiếp tục, trình cài đặt sẽ kiểm tra HDD bằng ScanDisk (nếu HDD có vấn đề, bạn phải sửa trước khi trình cài đặt có thể tiếp tục). Nếu không có gì, thì bạn nhấn Exit để thoát khỏi ScanDisk. Màn hình cài đặt Win9X hiện ra, bạn ấn vào nút Continue, và chọn thư mục để cài Windows (mặc định là C:\Windows). _Tiếp theo là thông báo lựa chọn các kiểu cài đặt. Để cho dễ nhất, bạn cứ chọn Typical. Nếu thích tự mình lựa chọn những thành phần theo ý riêng của mình, bạn chọn Custom. Trong lần đầu cài đặt, bạn hãy chọn Typical => Install the most common components (Recommended). _Cửa sổ Identification hiện ra, bạn hãy nhập thông tin về tên máy tính, nhóm làm việc, và những lời chú thích cho máy tính của bạn (Computer description). _Bước tiếp theo, bạn cần xác định vùng (hoặc nước) bạn đang dùng chiếc máy tính này. Hãy chọn vùng là Vietnam => Next. Trình cài đặt sẽ hỏi bạn có muốn tạo dĩa khởi động hay không (Startup Disk - trong trường hợp Windows bị hư, bạn có thể dùng nó để khởi động máy). Bấm Next nếu bạn muốn tạo, đặt dĩa mềm vào ổ A, còn không thì chọn nút Cancel. Ấn nút Next để bắt đầu sao chép các file của HĐH. Nếu muốn quay lại giai đoạn trước, bạn có thể bấm nút Back. _Sau khi ấn Next, trình cài đặt tiến hành sao chép file vào đường dẫn bạn đã chọn (ví dụ C:\Windows), bên trái có dự đoán thời gian hoàn tất. Thời gian cài đặt nhanh hay chậm tùy thuộc vào tốc độ máy tính của bạn. = 10 =
  11. _Khi sao chép xong tất cả các file, máy tính sẽ tự khởi động lại để vào màn hình khởi động cho lần đầu tiên xuất hiện (Getting ready to run Windows for the first time). _Tiếp theo là bước nhập thông tin cá nhân của người sử dụng (User information). Bạn hãy nhập vào tên mình và tên công ty (không bắt buộc nhập chính xác), sau đó bấm “Next”, bạn chọn I accept the Agreement và bấm “Next”. _Đến đây, Windows buộc bạn phải nhập CDKEY mới cho phép cài tiếp, bạn hãy nhập 15 ký tự vào các ô trống (5 ký tự/ô). Khi nhập đủ, nút “Next” có hiệu lực để bạn bấm vào. Nếu nhập đúng, bạn chỉ cần bấm vô nút Finish là xong, quá trình cài đặt chuyển qua bước cuối cùng: Thiết lập phần cứng và hoàn tất cài đặt (ở giai đoạn này, Windows sẽ tự động phát hiện các thiết bị và cài trình điều khiển thích hợp nhất mà Windows có trong bộ cài đặt cho các thiết bị nó nhận diện được). Ở bước này, máy tính có thể tự khởi động lại. _Tiếp theo, bạn nhập thông số về ngày/giờ và múi giờ tại nơi bạn sống. Nhấn “OK” để chấp nhận. _Sau lần khởi động tiếp theo này, HĐH bước đầu đã được cài đặt vào máy tính của bạn. Nếu muốn thiết lập mật khẩu cho mỗi người dùng, bạn nhập vào ô password, nếu không thì đừng nhập vào, bấm “OK” (khi đó, mỗi lần đăng nhập bạn không thấy cửa sổ đăng nhập nữa). _Màn hình “Welcome to Windows 9x” xuất hiện. Nếu không muốn thấy màn hình này mỗi khi khởi động vào Windows, bạn bấm chuột để bỏ dấu chọn ô “Show this screen each time Windows 9x Starts”. Bấm nút “Close” để đóng lại. _Vậy là bạn đã cài đặt xong rồi đấy! 2. Cài đặt Win2K/XP: Bạn vào BIOS thiết lập chế độ khởi động First Boot là CD-ROM, sau đó đặt CD WinXP vào ổ CD-ROM rồi khởi động lại máy tính. Ấn tiếp phím bất kỳ để boot từ CD-ROM. Màn hình Windows setup hiện ra, nếu bạn muốn cài HĐH lên hệ thống HDD chạy RAID hoặc SCSI thì ấn phím F6 (chú ý dưới màn hình luôn hiện dòng chữ hướng dẫn bạn trong quá trình cài đặt). Sau khi tải các driver cần thiết, trình cài đặt cho bạn ba chọn lựa: - Cài đặt HĐH: Bạn bấm phím Enter - Để sửa chữa bản cài đặt của lần cài đặt trước: Bấm phím R. - Thoát khỏi trình cài đặt: Bấm phím F3. Sau khi bấm Enter, màn hình License xuất hiện, bạn bấm F8 (đồng ý). Tiếp theo, bạn hãy chọn ổ đĩa muốn cài đặt và bấm Enter. Trong trường hợp bạn đã có một HĐH khác đã cài rồi, thông tin về HĐH đó nằm trên phân vùng nào sẽ được hiển thị rõ, bạn hãy chọn phân vùng khác (cài đặt nhiều HĐH trên cùng một ổ đĩa cứng). Bước tiếp theo, bạn có thể tự phân vùng HDD, định dạng lại đĩa cứng (theo NTFS/FAT32). Đối với các HDD có dung lượng lớn và đảm bảo dữ liệu ít bị mất khi có sự cố, bạn nên chọn hệ thống file NTFS. Chú ý: Nếu muốn chạy Windows = 11 =
  12. 2000/XP cùng với Windows 9x/Me bạn nên dùng FAT32 vì Windows 9x/Me không làm việc được với NTFS. Chọn định dạng theo hệ thống NTFS bằng cách ấn phím F, trình cài đặt sẽ tiến hành định dạng lại (hoặc mới) ổ đĩa của bạn theo hệ thống file NTFS. Sau khi format xong, trình cài đặt sẽ sao chép các file cần thiết cho quá trình cài đặt HĐH lên ổ đĩa cứng của bạn. Sau khi sao chép xong, chương trình sẽ tự khởi động lại và tiếp tục cài đặt tự động (trong khi chờ đợi, bạn có thể đọc các thông tin giới thiệu thêm về HĐH này trên màn hình cài đặt). Trong lúc cài đặt, bạn sẽ được hỏi về vùng/địa phương bạn ở, ngôn ngữ bạn dùng (Regional and Language Options). Để thay đổi, bạn chọn Customize. Để xem chi tiết những gì đã chọn, bấm Details, bấm Next để nhập vào tên của bạn, tên công ty/tổ chức của bạn làm việc, bấm Next. Lúc này, cửa sổ nhập CDKEY xuất hiện (nếu bạn dùng đĩa mua ngoài các cửa hàng đã được “sửa sang” lại, công đoạn này sẽ không có do setup tự động nhập CDKEY). Bạn nhìn bên thùng máy tính của bạn có tờ giấy in mã vạch (dưới dòng chữ Certificate of Authenticity) nếu mua “máy hiệu” để tìm CDKEY, hoặc tìm trên bộ đĩa cài đặt của bạn. Nếu nhập đúng, bước tiếp theo bạn điền thông tin về tên máy tính và mật mã của Admin (người quản trị cao nhất trên máy bạn). Tiếp theo, bạn nhập vào ngày/giờ. Trong khi chờ máy hoàn tất phần còn lại, bạn có thể đọc thêm thông tin về HĐH này trên màn hình cài đặt. Khi thanh tiến trình xử lý đạt 100% thì máy sẽ restart, bạn có thể gặp thông báo cho biết là Windows sẽ thay đổi độ phân giải của màn hình/card màn hình, bạn cứ ấn OK để tiếp tục. Màn hình chào mừng đến với Windows xuất hiện, bạn bấm Next để thiết lập tài khoản cho người sử dụng. Bạn nhập vào tài khoản cho mình và cho người khác nếu có nhiều người dùng chung một máy tính. Bấm Finish để hoàn tất và đăng nhập vào tài khoản bạn vừa tạo. Sau khi đăng nhập, bạn phải đăng ký với Microsoft bản Windows của bạn (xuất hiện ở system tray thông báo: “30 days left for activation”) bằng cách bấm vào biểu tượng xuất hiện câu thông báo trên (hình chiếc chìa khóa) và thực hiện theo hướng dẫn. Nếu bạn dùng bản bẻ khóa thì không thấy thông báo này! Kỳ III: Cài đặt driver cho các thiết bị và các phần mềm ứng dụng Cho đến kỳ này, sau khi cài đặt driver cho các thiết bị và các phần mềm ứng dụng, bạn đã có thể chạy thử nghiệm cái máy tính “made in tự tui”! Nếu hệ điều hành (HĐH) có sẵn trình điều khiển (driver) cho các thiết bị, bạn có thể không cần cài thêm các driver đi kèm. (Tuy nhiên, theo khuyến cáo của các nhà sản xuất, bạn nên cài driver mới nhất, bản chính thức, để đạt được hiệu quả tối ưu). Trong trường hợp HĐH của bạn không tự nhận ra được một vài thiết bị trong máy, để sử dụng chúng, bạn cần phải cài các driver thích hợp. Để biết thiết bị nào chưa được cài driver (hay là hoạt động chưa ổn định, còn bị xung đột với thiết bị/chương trình khác), bạn bấm chuột phải vào My Computer, chọn Properties, chọn thẻ Hardware, chọn Device Manager. Khung cửa sổ xuất hiện cho bạn biết những thiết bị nào trong máy tính của bạn hoạt động tốt (nếu bấm chuột phải vào tên thiết bị nào và chọn Properties, trong ô Device status có thông báo This device is working properly) và thiết bị nào còn chưa được HĐH nhận diện, chưa hoạt động tốt được (xuất hiện các dấu chấm than trước tên thiết bị). Thông thường, bạn cần cài các driver cho = 12 =
  13. card màn hình, card âm thanh, modem hay các card chuyên dùng gắn thêm. Chú ý: Nếu bạn dùng card rời mà không dùng loại tích hợp có sẵn trên bo mạch chủ (video, sound, ) thì nên vào BIOS vô hiệu hoá (disable) các card on-board này đi, như thế sẽ tránh tranh chấp và giải phóng tài nguyên cho máy tính. Win98/ME: Đây là HĐH ít tự động nhận biết thiết bị (do bản thân nó là “đồ cổ” nên không có các driver cho các thiết bị mới ra sau nó). Để cài driver, bạn đặt đĩa driver đi kèm vào, trình cài đặt sẽ tự động chạy. Khi đó, thường thì bạn chỉ cần ấn Next hoặc OK. Còn nếu không tự động, bạn buộc phải làm theo cách thủ công. Bạn vào Control Panel => System Properties, chọn thẻ Device Manager, bạn muốn cài driver cho thiết bị nào, hãy bấm kép chuột lên tên thiết bị đó, ở thẻ General bấm nút Reinstall driver, hoặc vào thẻ Driver, bấm nút Update Driver. Cửa sổ Update Device xuất hiện, bạn hãy làm theo các bước được hướng dẫn. Để dễ dàng, bạn hãy chọn Search for a better driver cho máy tự tìm. Nếu bạn biết rõ mình định cài driver cho thiết bị nào, hãy chọn Display a list of all the driver, chọn thiết bị cần cài đặt, bấm Have disk và chỉ đường dẫn tới thư mục chứa driver trên dĩa CD driver đi kèm thiết bị. Thường thì file driver có tên là *.inf. Sau khi cài xong, bạn phải khởi động lại máy tính để các thay đổi có hiệu lực. Chú ý: Driver cho các thiết bị tích hợp sẵn trên mainboard (như Sound/ VGA) nằm trong CD kèm theo mainboard. Win2K/XP: Đây là hai HĐH ra sau này, nên tích hợp khá nhiều driver cho các thiết bị (nhất là Windows XP Professional) thường thì ít phải cài đặt thêm driver nữa, trừ một số thiết bị đặc biệt khác. (Theo một số người dùng Windows XP thì nó hơi bị kén modem gắn trong, ngay cả khi cài chính driver cho WinXP được cung cấp kèm theo.) Một số còn không có driver cho WinXP, bạn có thể dùng tạm driver của Win2K thay cho WinXP (có thể sẽ không ổn định). Cài driver trong Win2K/XP cũng tương tự như Win9X: Bạn vào Start => Control Panel => System => Hardware => Device Manager. Trong cửa sổ liệt kê thiết bị, bạn bấm phím phải chuột vào thiết bị cần cài driver rồi chọn Update Driver. Bạn có thể chọn phương thức cài đặt tự động (Install the sofware automaticcally) hay tự chỉ định driver cho Windows (Install from a list or specific location) cài đặt. Trong trường hợp cần kiểm tra lại tình trạng hoạt động của thiết bị trước khi cài driver, bạn gỡ bỏ driver đang báo lỗi bằng cách bấm phím phải chuột vào thiết bị cần cài driver rồi chọn Uninstall, sau đó bấm phím phải chuột vào thiết bị bất kỳ rồi chọn lệnh Scan for hardware changed để Windows dò tìm lại. Nếu thiết bị hoạt động tốt, Windows sẽ phát hiện được thiết bị và bạn tiến hành cài driver như bình thường. Nếu Windows không phát hiện ra thiết bị, bạn cần tắt máy để kiểm tra lại thiết bị. Chú ý: Bạn có thể tìm các driver mới nhất cho các thiết bị tại trang chủ của hãng sản xuất hay tại các website chuyên cung cấp driver các loại như: Cài đặt các phần mềm ứng dụng của bạn Thêm một phần mềm (chương trình) nào đó vào máy tính, đó là cài đặt chương trình. Trước tiên, bạn cần phân biệt giữa sao chép (Copy) và cài đặt (Install hay Setup). _Với một số phần mềm nhỏ, khi chạy chỉ cần một vài file và chạy độc lập không “quan hệ” với các phần mềm khác. Ta chỉ cần có một bản sao của nó, đem về đổ vào đĩa cứng của ta = 13 =
  14. (cũng copy) là có thể sử dụng được bằng cách cho thi hành một trong các file .exe của phần mềm đó. _Nhưng đối với các phần mềm lớn, khi chạy cần nhiều file và có “nhờ vả” đến các phần mềm khác: Muốn sử dụng được, trước hết bạn cần có bản gốc trên đĩa mềm hay trên CD-ROM, sau đó phải cài đặt phần mềm vào đĩa cứng bằng cách cho thi hành một trong các file Install.exe hay Setup.exe (tùy theo phần mềm). Chương trình cài đặt sẽ làm công việc giải nén các file vào đĩa cứng, xếp đặt chúng vào các thư mục con, tạo vùng môi trường và đăng ký các thông số cần thiết vào các file hệ thống của Windows, sao cho phần mềm có thể chạy được tốt nhất mà không cần sự can thiệp của chúng ta. Nếu bạn không biết cách cài đặt, có thể phần mềm không thể chạy được hay thường xuyên bị lỗi. _Để tránh gặp rắc rối trong việc cài đặt và sử dụng chương trình, bạn nên tìm đọc các file *.txt, *.doc, *.pdf, có trong mỗi chương trình, đặc biệt là file Readme.txt, các file này luôn chứa những thông tin cần thiết và mới nhất (giờ chót) về chính chương trình đó. _Trong quá trình cài đặt, bạn sẽ được hỏi một đôi điều như: Bạn muốn cài phần mềm vào ổ đĩa, thư mục nào? Bạn chọn cài đầy đủ, tối thiểu hay để bạn chọn lựa? Bạn muốn cài thường trú hay chỉ khi nào bạn cần sử dụng mới kích hoạt nó? Bạn có cần tạo đĩa mềm khởi động không? Có cần đặt các biểu tượng liên kết ở Desktop hay Quick Launch (để dễ tìm khi cần chạy chương trình) hay không, nơi lưu file cấu hình, Nếu hiểu rõ thì bạn sẽ chọn được những tùy chọn thích hợp, còn không thì bạn cứ nhấn Enter chấp nhận những mặc nhiên do chương trình cài đặt đề nghị. _Nếu sau khi cài đặt, bạn không có nhu cầu sử dụng nữa, bạn có thể gỡ bỏ cài đặt (uninstall) bằng cách chọn Uninstall trong menu của chương trình; hoặc có thể vào Control Panel => Add or Remove Programs để chọn chương trình cần gỡ bỏ. Đối với các chương trình đơn giản không cần cài đặt, bạn chỉ cần chạy Windows Explorer xoá thư mục của chúng là xong. _Còn nếu muốn thêm các phần khác của chương trình mà trước đây chưa cài, bạn cũng làm như trên nhưng đừng chọn Remove mà chọn Change. _Chú ý: Khi bạn đã cài đặt phần mềm xuống đĩa cứng, bạn không được di chuyển hay đổi tên thư mục chứa phần mềm này vì khi cài đặt các thông tin về địa chỉ ban đầu của chúng đã được lưu trữ trong phần quản lý hệ thống và môi trường làm việc của Windows. Tốt nhất là nên gỡ bỏ rồi cài đặt lại nếu muốn thay đổi địa chỉ. _Ví dụ: Cài đặt bộ Microsoft Office XP. _Bạn đưa đĩa nguồn vào, nếu trình cài đặt không tự động chạy, bạn chạy file SETUPPLS.EXE đặt ở thư mục gốc của đĩa nguồn. Nhập CDKEY vào và bấm Next. Cửa số End-user license agreement xuất hiện, bạn chọn “I accept the terms in the License Agreement “ và bấm Next. Bạn có ba chọn lựa: - Install now: Cài đặt ở mức thông dụng (mặc định) - Complete: Cài toàn bộ vào dĩa cứng - Custom: Lựa chọn các thành phần cần cài đặt theo ý riêng. _Dưới cùng có nút Browse, bạn muốn cài vào thư mục nào thì dẫn đến thư mục đó, không nhất thiết phải cài như đường dẫn mặc định. Bấm Next. _Cửa sổ thông báo các lựa chọn của bạn xuất hiện để bạn kiểm tra lại những phần đã chọn (ở đây là chọn hết, chạy trực tiếp trên HDD không cần CD) và dung lượng yêu cầu, dung lượng dĩa cứng còn trống. Bấm Install để bắt đầu cài đặt. Sau khi cài xong, nếu HĐH là Win9X, bạn = 14 =
  15. phải khởi động lại máy mới có thể dùng được, còn Win2K/XP thì không cần, có thể dùng ngay được. Chạy thử nghiệm Sau khi cài đặt thành công tất cả các phần mềm lên máy tính, bạn hãy cho chạy tất cả các ứng dụng trong máy bạn, nếu được hãy chạy thật nhiều ứng dụng cùng lúc, và để chạy càng lâu càng tốt (thông thường 24-48 tiếng). Song song với việc chạy ứng dụng, bạn cũng nên chạy chương trình theo dõi tình trạng hoạt động của máy tính để bạn biết được nhiệt độ, lượng tài nguyên CPU/RAM/đĩa cứng, v.v mà máy tính dùng trong quá trình hoạt động. Thông qua đó, bạn có thể thay đổi các thông số giúp máy tính hoạt động hiệu quả hơn, mát hơn và ổn định hơn. Ngoài ra, bạn cũng có thể dùng thêm: - Các chương trình test CPU/ RAM/Card màn hình, để đảm bảo các thiết bị chạy ổn định không bị lỗi. Một số chương trình thông dụng như: Prime 95, Sisoft Sandard, AIDA 32, - Các chương trình Benchmark để kiểm tra lại “khả năng” của chính bạn, lắp ráp và cài đặt máy thế nào để đạt được hiệu suất tối ưu nhất có thể. Để benchmark card màn hình, bạn dùng chương trình 3DMark 2001SE hoặc mới nhất là 3DMark 2003 (tải về tại www.futuremark.com) và Sisoftware Sandard cho benchmark CPU/RAM (tải về tại www.sisoftware.net). - Về cách sử dụng các chương trình này, sẽ có những bài viết nhỏ hướng dẫn bạn một cách cụ thể. - Các chương trình benchmark/ test trong bài này bạn có thể tìm trên internet hoặc tìm mua đĩa CD-ROM có các chương trình này tại các cửa hàng dịch vụ tin học (vừa nhanh vừa rẻ). Khi công đoạn cuối cùng này hoàn tất, chiếc máy tính của bạn đã sẵn sàng làm việc được rồi đấy. Chúc bạn thành công và có được một máy tính vừa ý! CÁC PHẦN MỀM NÊN CÓ TRONG MÁY MỚI LẮP RÁP 1. Hệ điều hành Windows 9x hay 2000 hay XP. 2. UniKey 5.x: gõ tiếng Việt trong các ứng dụng. 3. Font tiếng Việt: Nên cài đặt một font thông dụng cho mỗi bảng mã tiếng Việt (kể cả 1 byte và 2 byte) như: Bách khoa, Vni, Vietware, ABC, VPS, Nên sử dụng font Unicode làm mặc định nếu chạy Windows 2000/XP (có sẵn trong Windows). 4. Office 2000/XP: Thực hiện các công việc văn phòng và gia đình. 5. Windows Commander (hay Total Commander): Quản lý thư mục/file, nén và giải nén 6. Lạc Việt từ điển MTD2002: Tra cứu nhanh Anh / Việt khi cần thiết. 7. Một trong các chương trình thường trú chống Virus như D32, BKAV, McAfee Virus Scan, Norton Anti Virus KỲ IV: Chọn CASE, MUA "NHÀ" CHO MÁY TÍNH CÁ NHÂN _Khi đi mua máy tính cá nhân (PC), mọi người thường quan tâm đến chọn CPU nào, main gì, card màn hình chipset gì, bao nhiêu RAM, màn hình phẳng mấy inch, v.v Nhưng ít người chú ý đến cái case (thùng máy) vốn chiếm phần quan trọng không kém. Ngoài việc đóng vai = 15 =
  16. trò như ngôi nhà cho các thành phần kể trên “trú ngụ”, case còn là “anh nuôi” tận tụy, cung cấp nguồn năng lượng cho tất cả hoạt động của máy tính. _Để chọn được case tốt, có nhiều yếu tố cần được xem xét nên tôi sẽ không hướng dẫn một cách cứng nhắc rằng bạn phải chọn thế này hay thế kia. Bạn nên tự hiểu và chọn cho vừa ý mình Bộ nguồn Bộ nguồn (Power Supply Unit - PSU) rất quan trọng, thậm chí còn quan trọng hơn cả cái ổn áp mà bạn dùng cho PC “yêu dấu” của mình. PSU cung cấp năng lượng cho toàn bộ các hoạt động của hệ thống. Bạn nên chú ý: Nếu điện vào bộ nguồn ổn định song điện một chiều (DC) ra từ PSU, cung cấp trực tiếp cho hoạt động của máy mà “cà giựt” lên xuống thất thường thì cũng chẳng ích gì. Công dụng chính của PSU là chuyển điện AC ra thành DC, được phân thành nhiều đường nhưng ba đường +12v, +5v, +3,3v là quan trọng nhất. Với một bộ nguồn “ốm yếu” thì khi bạn chạy nhiều ứng dụng hoặc CPU chạy hết công suất sẽ dẫn tới tình trạng tự khởi động lại thất thường. Nếu dùng lâu dài, nó chính là một trong những nguyên nhân làm giảm tuổi thọ của các linh kiện bên trong thùng máy. Vậy đơn giản quá, ta cứ chọn bộ nguồn nào có công suất lớn là “OK”? Không sai, nhưng cũng chưa phải là đúng! Bộ nguồn 350W chưa chắc là ngon hơn 250W, vì công suất chưa phải là yếu tố quyết định. Vậy cái gì quyết định đây? PSU tốt phải đảm bảo các điện thế ra đúng như thiết kế, hoặc trong phạm vi sai số cho phép khi sử dụng hết công suất của bộ nguồn. Muốn vậy, bộ nguồn phải có thiết kế mạch chính xác, kỹ lưỡng và linh kiện lắp ráp phải có chất lượng cao. Trên thực tế, một số bộ nguồn có ampe cao vẫn bị sụt áp, trong khi một số PSU có ampe không cao nhưng lại duy trì ổn định dòng ra. Bạn nên "dzuyệt" những loại thiết kế nào? 1. Cứng cáp: Case phải được làm từ thép tốt, không “ọp ẹp”. Những case tốt thường sử dụng thép dày nên nặng. Được phủ sơn tĩnh điện tốt để không bị rò rỉ điện ra bên ngoài (vì lý do này, nhiều case được phủ bên ngoài một lớp nhựa, nhưng điều này chưa hẳn tốt vì có thể làm hạn chế khả năng tỏa nhiệt của case). Trước khi mua, bạn nên đề nghị tháo hai tấm kim loại bên hông case để xem khung được chế tạo kiểu nào. Đa số được liên kết theo kiểu tán rivet, mà như vậy thì không được chắc chắn lắm. Hãy thử “vặn vẹo” cái khung một tí xem, loại nào quá “ọp ẹp” thì đừng chọn, và nhớ kiểm tra cả khoang gắn ổ đĩa cứng (HDD) nữa, vì nó thường được làm rất chi là ẩu. Nên kiểm tra nhất là vách kim loại nơi bạn sẽ gắn mainboard vào: Vách phải chắc chắn, không rung như răng bà lão khi quạt giải nhiệt (fan) CPU chạy! Có một số mainboard chỉ = 16 =
  17. gắn một đầu vào khung theo kiểu nẹp cài mà không bắt ốc, như vậy khó giảm được độ rung khi bạn dùng fan CPU có tốc độ cao (4.800 vòng/phút); ngoài ra bạn sẽ bị tra tấn vì tiếng ồn của máy (không phải do tốc độ quạt, mà do máy rung!). 2. Hợp lý và tiện nghi: Case phải được sơn tĩnh điện, song những loại sơn dỏm thường rất dễ tróc ra. Bạn thử gõ vài cái vào case xem nào. Chưa hết, hãy còn lớp xi trước mặt case sau một thời gian rất dễ bị tróc ra, vì vậy nên mua loại có mặt nạ bằng nhựa, đỡ bị “phai tàn nhan sắc” theo thời gian! - Ổ đĩa cứng (HDD): Với lượng dữ liệu khổng lồ hiện nay, sẽ có lúc bạn phải mua thêm cái đĩa cứng thứ hai, thứ ba, hay thậm chí nếu bạn biên tập video thì bốn cái HDD cũng là chuyện thường. Bạn sẽ gắn chúng vào đâu khi mà đa số các case hiện nay đều thiết kế để gắn tối đa chỉ có ba cái HDD? Do đó, bạn nên tìm cho mình loại case nào có khoang gắn nhiều HDD, và có chỗ để gắn thêm quạt nếu bạn thấy HDD chạy quá nóng. Những loại case này, tại Việt Nam cũng đã bắt đầu có bán rồi. - Ổ đĩa quang (Optical Drive): Thông thường, case có ít nhất ba khoang chứa. Tuy vậy, bạn nên chọn loại case càng dài càng tốt. Vì sao vậy? Nếu bạn dùng mainboard có kích thước loại ATX lớn, khi bạn gắn ổ đĩa quang vào khe thứ ba trở xuống, nó sẽ nhô ra phía trước mặt case một đoạn do mặt sau ổ đĩa quang chạm vào mainboard (chính xác là tụ điện hoặc khe cắm RAM chẳng hạn). Tuy một số nhà sản xuất ổ đĩa quang sản xuất ổ đĩa có kích thước ngắn lại một chút cho phù hợp (ví dụ ổ DVD-ROM của hãng LiteOn), nhưng không phải nhà sản xuất nào cũng làm vậy. 3. Rộng rãi, lưu thông không khí tốt, thoáng mát: Thông thường, case được đục lỗ hai bên hông và mặt sau để lưu thông không khí. Case càng to và càng cao, sự lưu thông không khí càng tốt. Case to thường được thiết kế để bạn có thể gắn thêm hai quạt: quạt phía trước hút không khí lạnh vào, và quạt phía sau để thổi không khí nóng ra. Do đó, mặt sau và mặt trước case thường đục lỗ trong phạm vi 80x80mm để gắn quạt. Điều trớ trêu là quạt ở mặt trước lại khó có gió để hút vào vì bị cái mặt nạ bằng nhựa che hết cả (!). Tốt nhất là bạn nên chọn loại có lỗ thông gió ở mặt nạ đằng trước và vị trí lỗ ở hai bên hông, mặt sau phù hợp với việc đối lưu không khí (không khí nóng đi từ dưới lên và không khí lạnh đi từ trên xuống). 4. Khả năng mở rộng: Hiện nay, phổ biến là loại case có bốn đầu cấp điện (không kể đầu cấp điện cho FDD và hai đầu cấp điện thiết kế riêng cho mainboard dùng CPU Intel P4). Nếu cần bạn có thể mua thêm loại đầu nối chia một ra hai để bổ sung. Bạn nên cẩn thận khi gắn hay rút các đầu cắm vì đa số các bộ nguồn hiện nay trên thị trường toàn là các đầu cắm chất lượng thấp, cắm vào HDD hoặc ổ đĩa quang thì được nhưng khi muốn gỡ ra là phải “đánh vật”(!) với nó, thậm chí còn làm mẻ nhựa trên HDD và ổ đĩa quang (nhiều cửa hàng không nhận bảo hành chỉ vì cái HDD bị mẻ một góc nhựa!). = 17 =
  18. Cũng nên chọn case có các cổng USB ở mặt trước để tiện sử dụng, không phải lò dò ra đằng sau case cắm vào, không khéo thành “người điện quang” thì nguy to! (các thiết bị dùng USB đã rất phổ biến như chuột/bàn phím/ổ cứng USB di động/ d i g i c a m . . . ) Ngoài ra, nếu có thêm cổng cắm Loa/ Headphone/ Micro đằng trước cũng rất tiện lợi. Chú ý là có một số case chỉ có các lỗ cổng phía trước mà không có cáp thật sự! Các phụ kiện đi kèm Đi kèm theo case luôn có các túi chứa ốc các loại, loa (speaker), dây nguồn, bộ dây tín hiệu (đèn led và speaker). Một số case không dùng ốc bắt các thiết bị rời như ổ đĩa quang, card PCI mà dùng các thanh kim loại (hoặc thanh nhựa) để cài vào card gắn trên mainboard hoặc kẹp hai bên hông ổ đĩa quang, HDD để bạn chỉ cần bắt hai thanh này vào ổ dĩa và đẩy vào khoang cần thiết trong case. Tính năng này thường gặp trong các case ngoại nhập (rất tiện lợi), và một số case thấy bán tại Việt Nam cũng đã được sản xuất tương tự. Bạn cần kiểm tra xem các phụ kiện kể trên có đủ không. Với loại ốc đệm để gắn mainboard vào case, nên chọn ốc kim loại hình lục giác (thường có màu vàng). Đừng chọn loại ốc nhựa, hoặc các miếng kim loại hình lập phương gài vào case vì chúng không được chắc lắm. Thường thì phải có đủ ba loại ốc: loại có mũ tròn, răng nhỏ, dùng cho ổ đĩa quang và FDD; loại mũ lớn răng to hơn một chút, dùng cho mainboard và HDD; và loại ốc lớn dùng cho case. Phần cuối cùng là mẫu mã của case. Do ý thích riêng của mỗi người, nên phần này tùy vào ý định của bạn. Chúc bạn khéo chọn case và hài lòng vì sự chọn lựa ấy! l¾p r¸p vµ sö dông æ cøng Lắp ráp Máy tính cá nhân (PC) hiện nay cho phép bạn sử dụng bốn ổ đĩa cứng có giao tiếp IDE/ EIDE cùng lúc. Để phân biệt các ổ đĩa trên cùng một cáp tín hiệu, chúng ta phải xác lập bằng cách nối tắt các chân cắm được quy định cụ thể trên từng ổ đĩa (set jumper). Nhà sản xuất luôn cung cấp sơ đồ set jumper kèm theo ổ đĩa của mình vì nếu thiếu, chỉ có cách là set “mò” hay dựa trên ổ đĩa khác. (Chú ý: ổ đĩa CD-ROM theo chuẩn giao tiếp IDE cũng được tính vào tổng số này.) Nếu muốn sử dụng trên bốn ổ đĩa trong một máy, bạn có thể mua card Ultra ATA gắn vào Slot PCI còn trống trên mainboard. Mỗi card Ultra ATA cho phép gắn thêm bốn ổ đĩa cứng và mainboard sẽ quản lý các ổ đĩa này tương tự các ổ đĩa SCSI. Chú ý: Bạn phải cài driver dành cho từng phiên bản Windows của nhà sản xuất cung cấp kèm theo card. Các quy ước khi lắp ráp, kết hợp ổ đĩa: - Dây cáp: Cáp tín hiệu của ổ đĩa cứng IDE/EIDE (40 dây) có ba đầu nối giống y nhau. Một đầu để gắn vào đầu nối EIDE trên mainboard, hai đầu còn lại để gắn vào đầu nối trên hai ổ đĩa cứng. Khi cắm dây, chú ý cắm sao cho vạch màu ở cạnh cáp nối với chân số 1 của đầu = 18 =
  19. nối. Thường chân số 1 được quy ước trên mainboard là cạnh có ghi số 1 hay có dấu chấm tròn, hoặc dấu tam giác. Trên ổ đĩa là cạnh có ghi số 1, hay cạnh nằm sát dây cắm nguồn. Có hãng sản xuất đã ngừa trường hợp cắm ngược cáp bằng cách bỏ bớt một chân ở đầu nối trên mainboard, và bít một lỗ tương ứng ở đầu nối trên cáp. Khi nối cáp, cố gắng xoay trở đầu cáp sao cho đoạn dây đi từ mainboard đến ổ đĩa cứng là ngắn nhất. Thậm chí, bạn có thể nối đầu giữa lên Mainboard, hai đầu bìa lên ổ đĩa cứng. Chú ý: Đối với cáp Ultra ATA (80 dây) ta phải cắm đúng quy định của nhà sản xuất (thường các đầu cắm phân biệt bằng màu sắc). Giữa hai nhóm ổ đĩa 1, 2 và 3, 4 phân biệt bởi hai dây cáp gắn vào hai đầu nối Pri (thứ nhất 1, 2) hay Sec (thứ nhì 3, 4). Giữa ổ đĩa 1, 2 hay 3, 4 phân biệt bằng cách set Jumper trên mỗi ổ đĩa là Master (1, 3) hay Slave (2, 4). - Trên ổ đĩa có các set sau: Master (single): Ổ đĩa chính duy nhất. Master (dual): Ổ đĩa chính nhưng có kết hợp với ổ khác. Slave: Ổ đĩa phụ. Cable Select: Xác lập master hay slave bằng vị trí đầu cáp. Có một số mainboard bắt buộc ổ đĩa khởi động phải được set là Master và được gắn vào cáp Pri (1). Có một số mainboard đời mới cho phép bạn vào BIOS xác lập khởi động bằng ổ đĩa nào cũng được hay tự động dò tìm ổ đĩa khởi động theo thứ tự do bạn quy định trong BIOS (ổ mềm, CD ROM, SCSI, ổ cứng C hay D, E, F ). Có trường hợp hai ổ đĩa không chịu chạy chung với nhau khi gắn cùng một cáp. Bạn phải sử dụng hai cáp cho hai ổ đĩa này. Sử dụng Để sử dụng được ổ đĩa cứng với hệ điều hành DOS/Win, bạn phải tiến hành các thủ tục sau: Fdisk: Phân vùng đĩa. Format: Định dạng đĩa. Trong trường hợp bạn mới ráp máy hay làm lại ổ đĩa, bạn phải khởi động bằng đĩa mềm rồi dùng chương trình chứa trên đĩa mềm tiến hành thao tác với ổ đĩa cứng. Cách làm đĩa mềm khởi động như sau: * Đưa đĩa mềm vào ổ đĩa A, đánh lịnh Format A: /S * Chép tối thiểu các file sau lên đĩa mềm: Fdisk, Format, Sys. Bạn có thể chép thêm NC, các chương trình chống Virus, các chương trình tiện ích tuỳ theo nhu cầu và dung lượng đĩa mềm còn trống. FDISK Khi bạn đánh lệnh Fdisk, màn hình đầu tiên sẽ hỏi bạn có sử dụng FAT32 hay không (DOS 7 hỗ trợ FAT32) rồi đến màn hình có các mục dưới đây: 1. Create DOS partition or Logical DOS Drive 2. Set active partition 3. Delete partition or Logical DOS Drive 4. Display partition information 5. Change current fixed disk drive Giải thích: * Create DOS partition or Logical DOS Drive: Tạo khu vực trên đĩa (có thể là một phần, có thể là toàn bộ) và tạo ổ đĩa Logic Dos. Trong mục nầy còn có các mục con: a. Create Primary DOS Partition b. Create Extended DOS Partition c. Create Logical DOS Drive(s) in the Extended DOS Partition = 19 =
  20. * Đầu tiên, bạn phải tiến hành mục a tức là tạo Partition DOS thứ nhất. Vùng nầy có đặc điểm là chỉ chứa một ổ đĩa duy nhất có dung lượng chiếm toàn bộ không gian vùng và chỉ ổ đĩa nầy được phép khởi động. Nếu bạn không chia nhỏ ổ đĩa cứng vật lý thì bạn cho vùng nầy chiếm toàn bộ và quá trình fdisk kể như hoàn tất, Fdisk sẽ tự động chỉ định cho ổ đĩa nầy là ổ khởi động. Nếu bạn muốn chia nhỏ ổ đĩa, bạn chỉ định kích thước cụ thể cho vùng này rồi tiến hành mục b. * Mục b tạo vùng đĩa mở rộng dành cho DOS. Dung lượng là không gian còn lại của ổ đĩa vật lý hay chỉ một phần nếu bạn muốn dự trữ một vùng riêng ngoài tầm kiểm soát của DOS (dành cho hệ điều hành khác) gọi là vùng Non DOS. Vùng DOS mở rộng nầy sẽ chứa tất cả các ổ đĩa Logic mà bạn muốn tạo và bạn tiến hành tạo chúng bằng mục c. 2. Set active partition: Chỉ định ổ đĩa được phép khởi động. Theo quy định của DOS, chỉ có ổ đĩa nằm trong Pri Partition mới được phép active (ổ đĩa C). Mục này chỉ dùng khi bạn không cho vùng Pri chiếm toàn bộ dung lượng ổ đĩa vật lý. 3. Delete partition or Logical DOS Drive: Xoá bỏ những gì bạn tạo trong mục 1. Theo quy định của DOS, quá trình xóa phải ngược lại với quá trình tạo, nghĩa là cái gì tạo đầu tiên phải được xoá sau cùng và ngược lại. Trong mục nầy có các mục con: a. Delete Primary DOS Partition b. Delete Extended DOS Partition c. Delete Logical DOS Drive(s) in the Extended DOS Partition d. Delete Non-DOS Partition Trong mục nầy, bạn phải tiến hành ngược từ dưới lên trên tức là tiến hành theo thứ tự 4,3,2,1. 4. Display partition information: Hiển thị tình trạng hiện tại của ổ đĩa cứng. Mục này bạn nên chọn đầu tiên để tránh tình trạng thao tác lộn ổ đĩa. 5. Change current fixed disk drive: Chọn ổ đĩa vật lý để thao tác. Chú ý: Khi bạn Fdisk trên ổ đĩa cứng nào (logic hay vật lý) toàn bộ dữ liệu trên ổ đĩa đó sẽ bị xoá. Fdisk chỉ dùng cho ổ đĩa cứng, bạn không thể Fdisk ổ đĩa mềm. FORMAT Format được dùng cho đĩa cứng lẫn đĩa mềm và gần như là chương trình thông dụng khi sử dụng máy tính. Nhưng Format có hai tính năng chưa được đánh giá đúng mức là format triệt để (/u): quá trình kiểm tra đĩa kỹ lưỡng nhất, và format /q (format nhanh): cách xoá đĩa có nhiều file nhanh nhất. Công dụng chính của Format /u là xóa mọi dữ liệu cũ, định dạng lại ổ đĩa giống như khi mới mua. Trong quá trình định dạng lại nó còn kiểm tra đánh dấu các vị trí xấu không sử dụng được. Công dụng của Format /q là không làm gì ảnh hưởng đến dữ liệu hiện có trong ổ cứng, nó chỉ làm một việc đơn giản là xoá các thông tin dùng để quản lý dữ liệu. Khi nào cần ghi dữ liệu mới thì dữ liệu cũ bị xoá đi. Do đó, nếu format /q, bạn vẫn có thể phục hồi dữ liệu lại được nếu chưa ghi dữ liệu mới đè lên. Ký tự cho ổ đĩa Trên máy có từ hai ổ cứng trở lên mà mỗi ổ cứng lại chia thành nhiều phân vùng (partition) thì việc đặt tên đĩa của DOS dễ làm bạn “rối” vì chúng được gán theo một thứ tự “kỳ cục”: DOS chỉ định ký tự ổ đĩa cho các phân vùng chính (pri) trước rồi mới đến các phân vùng = 20 =
  21. mở rộng (ext). Thí dụ: Có ba ổ đĩa, mỗi ổ đĩa chia hai phân vùng thì tên của chúng được gán là C cho phân vùng pri của ổ 1, D cho phân vùng pri của ổ 2, E cho phân vùng pri của ổ 3, F cho phân vùng ext của ổ 1, G cho phân vùng ext của ổ 2, H cho phân vùng ext của ổ 3. Ðối với những người sử dụng máy tính ít kinh nghiệm, họ khó mà biết ký tự ổ đĩa được gán thuộc về ổ cứng nào (trừ ổ C). Bạn có thể tránh được rắc rối này bằng cách chỉ chia phân vùng ext cho các ổ cứng từ ổ thứ hai trở đi. Khi đó, DOS sẽ gán ký tự ổ đĩa theo đúng trật tự vật lý của chúng, nghĩa là lần lượt từ ổ thứ nhất đến ổ cuối cùng (vì chỉ có một phân vùng pri trên ổ 1). Biện pháp này có một nhược điểm là tất cả các ổ đĩa không có phân vùng pri sẽ không khởi động được và không thể dùng làm ổ C nếu mang sang các máy tính khác. Nếu đang sử dụng Windows 98 trên máy Pentium MMX trở lên, bạn có thể áp dụng cách đơn giản sau: Không khai báo ổ cứng thứ nhì trở đi trong BIOS. Khi vào Windows, hệ điều hành nầy tự phát hiện ra các ổ cứng đó và sẽ quản lý với các ký tự ổ đĩa được sắp xếp tiếp theo ổ cứng thứ nhất (thí dụ: C là phân vùng pri trên ổ 1; D là phân vùng ext trên ổ 1; E là phân vùng pri trên ổ 2; F là phân vùng ext trên ổ 2). Biện pháp này có nhược điểm là không sử dụng được ổ cứng thứ hai khi khởi động với DOS, nhưng có ưu điểm là bạn vẫn chia ổ đĩa như bình thường (có thể dùng làm ổ C để khởi động khi chạy trên máy khác). Nếu chạy Windows NT/2000/XP, bạn có thể vào Computer Manager/Disk Management và thay đổi ký tự ổ đĩa tuỳ ý. Format cấp thấp đĩa cứng (low level format) Thông thường, nhà sản xuất đã format cấp thấp cho ổ đĩa trước khi xuất xưởng, format cấp thấp đĩa cứng (low level format) sẽ ghi lại thông tin định dạng lên từng sector đĩa cứng về mặt vật lý phù hợp với trạng thái đầu từ ghi/đọc lúc đó và “loại bỏ” các sector hư hỏng (nếu có) khỏi danh sách quản lý của mạch điều khiển (tránh trường hợp ghi vào đây làm mất dữ liệu). Sau thời gian sử dụng, có thể có một số sector bị hư hỏng hay tình trạng đầu từ đọc/ghi bị thay đổi (do các chi tiết cơ khí bị mài mòn), chúng ta nên format cấp thấp lại để cập nhật “tình trạng vật lý” mới cho ổ đĩa. Ảnh hưởng của nó tương đương với một lần ghi dữ liệu và không hề làm giảm tốc độ hay tuổi thọ của ổ cứng, tuy nhiên chúng ta cần chú ý các vấn đề sau: - Format cấp thấp đĩa cứng sẽ phát hiện các sector hỏng và sẽ giấu chúng về mặt vật lý (mạch điều khiển ổ đĩa) để tất cả các chương trình (kể cả hệ điều hành) không bao giờ dùng được các sector này, do đó mỗi lần format cấp thấp lại, có thể dung lượng đĩa hữu dụng sẽ bị giảm (nếu có thêm sector hỏng mới). - Trong một số mainboard, BIOS có chức năng format cấp thấp và quá trình thực hiện việc format này rất chậm. - Có một số phần mềm chuyên dùng để format cấp thấp của các hãng sản xuất ổ cứng chạy rất nhanh và có thể sử dụng cho nhiều loại ổ khác nhau. Tuy nhiên, chức năng giấu sector hỏng không được hoàn hảo lắm (khi được, khi không ). - Quá trình format cấp thấp là một quá trình ghi đọc đĩa toàn diện và trên toàn bộ bề mặt vật lý của đĩa cho nên có thể nói đây cũng là một quá trình kiểm tra tình trạng hoạt động khá nặng nề đối với các ổ đĩa cũ (ổ nào quá “yếu” thì có thể “tắt thở” luôn do không chịu nổi thử thách). Do đó, không nên format ở mức Low Level nhiều lần, mà chỉ thực hiện khi thật cần thiết. = 21 =
  22. phÇn mÒm cho æ cøng BeClean Đây là một tiện ích không thể thiếu cho máy tính của bạn, giúp dọn dẹp, làm sạch máy tính của bạn bằng cách xóa bớt những thành phần không cần thiết. Nhờ vậy, máy tính của bạn sẽ chạy trơn tru và ít bị lỗi hơn. BeClean có những tính năng sau: Registry Cleaner (dọn dẹp registry); Internet Cleaner (xóa internet cache); History Cleaner (dọn dẹp history); Temporary Files Cleaner (xóa những file tạm); Start Menu Cleaner; Desktop Cleaner (xóa những liên kết không hợp lệ trong menu Start và trên Desktop); Empty Recycle Bin (làm sạch thùng rác). Ngoài ra, bạn còn có thể chỉ định để chương trình dọn dẹp một thư mục, một khóa registry theo ý bạn. BeClean là phần mềm miễn phí, phiên bản 1.3 có dung lượng 1,78 MB, bạn có thể tải xuống từ địa chỉ: Active@ File Recovery Chương trình cho phép phục hồi lại các file bị mất hoặc đã bị xóa đi trước đó. Phần mềm sẽ quét ổ đĩa trong vài phút và sẽ hiển thị tất cả các file được phục hồi. Chương trình có thể phục hồi dữ liệu trên đĩa cứng cũng như đĩa mềm và hỗ trợ hầu hết các hệ thống file như: FAT12, FAT16, FAT32, NTFS, NTFS5. Hơn nữa, nó còn phục hồi được cả tên file dài (long file names). Active@ File Recovery có thể dò tìm và phục hồi dữ liệu trên ổ đĩa có kích thước lớn (trên 8GB) một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, phiên bản dùng thử chỉ cho phép phục hồi những file có dung lượng nhỏ hơn 32KB, nếu bạn sử dụng phiên bản đã đăng ký thì sẽ không bị giới hạn về kích thước file được phục hồi. Phần mềm tương thích với hệ điều hành Windows 9x/ME/ NT/2000/XP. Phiên bản 2.0 có dung lượng 321 KB, địa chỉ tải: 6 “bÝ Èn” cña æ ®Üa cøng Giới hạn 32GB của FAT32 trong Windows 2000 Theo lý thuyết, kích thước của phân vùng (partition) đĩa đối với FAT32 trong Windows 2000 là 2 TB (Terabytes) - tức khoảng 2000GB. Tuy nhiên, trên thực tế kích thước lớn nhất của một phân vùng (cũng là kích thước của một ổ đĩa logic) khi sử dụng FAT32 là 32GB. Lưu ý: Khi cố gắng định dạng một phân vùng đĩa FAT32 lớn hơn 32GB, việc định dạng sẽ kết thúc thất bại ở gần cuối quá trình với thông báo lỗi sau đây: Logical Disk Manager: Volume size too big. Như vậy, nếu bạn có một đĩa cứng từ 40GB trở lên, bạn nên chia thành nhiều phân vùng, mỗi phân vùng có kích thước tối đa là 32GB, nếu bạn quyết định sử dụng hệ thống tập tin FAT32. Thiếu sót vùng đĩa trống (Free Space Flaw) của FAT32 Hiện tượng Free Space Flaw (thiếu sót vùng đĩa trống) là một sơ sót nhỏ đối với hệ thống = 22 =
  23. FAT32, khiến cho Windows thỉnh thoảng không báo đúng dung lượng đĩa còn trống (ví dụ “nó” báo chỉ còn vài chục MB đĩa trống, trong khi thực tế là hơn 500 MB), đặc biệt là khi máy tính của bạn bị “treo” hay tắt máy “không đúng thủ tục” (do cúp điện chẳng hạn). Tình trạng này không có gì nguy hiểm. Tất cả những gì bạn cần làm để sửa chữa là chạy tiện ích Scandisk (scandskw.exe trong Windows, scandisk.exe trong DOS). Nên nhớ rằng Scandisk chỉ giải quyết nhất thời, vấn đề này vẫn có thể xảy ra sau đó mỗi khi máy của bạn bị “treo” hay bạn tắt máy không đúng cách. Lưu ý: * Windows 95 OSR 2.x và các Windows 9x sau này được cài đặt chế độ tự động chạy Scandisk mỗi khi hệ thống của bạn bị tắt không đúng “thủ tục”. * Thiếu sót này chỉ ảnh hưởng đến vùng đĩa trống do Windows tính toán chứ không phải là nguồn gốc của việc mất dữ liệu. Hỗ trợ DMA? Tương tự như ổ CD (xem bài “DMA và những vấn đề liên quan đến ổ CD và CD R/W” ở e- CHÍP số 4), khi thiết lập đặc tính hỗ trợ DMA cho ổ đĩa cứng, bạn có thể làm cho hệ thống của mình chạy nhanh hơn nếu hệ thống đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật (loại chipset trên bo mạch chủ hỗ trợ Bus Mastering DMA, trình điều khiển thiết bị thích hợp, ổ cứng hỗ trợ DMA). Ngược lại, bạn cũng có thể gặp nhiều rắc rối với nó. Có một điều lạc quan là hiện nay tất cả các bo mạch chủ và ổ cứng có mặt trên thị trường trong thời gian gần đây đều hỗ trợ (Ultra) DMA. Ổ đĩa cứng quá nóng? Nói chung, nhiệt độ trong máy khi tăng lên quá cao (do quạt thoát nhiệt bị hư hay hệ thống thoát nhiệt không hiệu quả) sẽ có thể gây ra nhiều sự cố đau đầu nếu bạn chưa có kinh nghiệm về chuyện này. Riêng về đĩa cứng, nếu nhiệt độ trong môi trường gần nó tăng cao có thể gây ra lỗi khi ghi đĩa (disk write error). Nếu bạn để ý thấy khi máy mới chạy thì không có gì xảy ra, nhưng khi chạy được một thời gian (khoảng 30 phút) máy bắt đầu báo lỗi thì bạn có thể nghi ngờ hệ thống thoát nhiệt của bạn có vấn đề. Nhiệt độ ảnh hưởng đến ổ đĩa cứng như thế nào? Khi được xuất xưởng, mỗi ổ đĩa cứng đã được định dạng cấp thấp (lowlevel format). Sau khi được định dạng cấp thấp, mỗi cung từ (sector) được định vị rõ ràng nhờ những thông tin ở phần đầu (sector header) và ở phần cuối (sector trailer). Nhờ đó, đầu từ có thể định vị chính xác được cung từ cần truy cập. Trong các tác vụ đọc/ghi thông thường, chỉ có 512 byte dữ liệu cộng với các byte CRC (Cyclic Redundancy Check) ở phần cuối được ghi vào cung từ. Sau một thời gian hoạt động kể từ lúc bắt đầu bật máy, nhiệt độ đĩa cứng nóng dần lên, dẫn tới hiện tượng giãn nở các phiến đĩa (thường bằng nhôm) do tác dụng nhiệt. Như vậy, mỗi track (tập hợp của các cung từ theo trục đứng tạo thành một hình trụ tưởng tượng) sẽ dịch chuyển ra phía ngoài với một khoảng cách xấp xỉ 1,25 phần ngàn (1,25‰) inch. Phần lớn các ổ đĩa cứng kích cỡ 5 ¼-inch có mật độ track giữa 500 đến 1000 TPI (track per inch – track trên một inch), như vậy khoảng cách giữa các track liền kề nhau chỉ vào khoảng 1-2 phần ngàn (‰) inch. Hậu quả là sự giãn nở nhiệt của các phiến đĩa cứng 5 ¼-inch có thể làm cho các tracks “di dời” từ ½ đến hơn một khoảng cách track (so với vị trí nguyên thủy của track đó) dưới đầu từ. Nếu cơ chế dịch chuyển đầu từ của ổ đĩa không bổ trợ bù trừ đối = 23 =
  24. với hiện tượng giãn nở nhiệt trong các phiến đĩa sẽ gây ra sự sai lệch track nghiêm trọng. Khi xảy ra sự sai lệch track do hiệu ứng nhiệt, bạn có thể thấy thông báo lỗi giống như thế này: Sector not found reading drive C: Abort, Retry, Ignore, Fail? May mắn là các ổ đĩa mới hiện nay đều có cơ chế phụ để theo đúng track (track-following servo): khi track bị “di dời” do nhiệt, bộ phận định vị của đầu từ tự động bù trừ để định vị đúng track cần truy cập. Nhiều ổ cứng loại này trải qua một sự bù trừ nhiệt dễ nhận biết sau mỗi 5 phút hay sau 30 phút đầu tiên kể từ lúc bật máy, và thường là sau mỗi 30 phút sau đó. Trong quá trình bù trừ nhiệt này, nếu chú ý bạn có thể nghe tiếng đầu từ dịch chuyển tới, lui khi chúng ước lượng và bù trừ sự thay đổi vì nhiệt của các phiến đĩa. Tuy nhiên, khi ổ đĩa bị quá nóng (do không giải nhiệt tốt) thì sự thay đổi vì nhiệt xảy ra nghiêm trọng đến mức cơ chế bù trừ nhiệt của đầu từ không theo kịp; do đó cũng có thể dẫn đến lỗi như đã nói ở trên. Như vậy, để tránh những sự cố do nhiệt đối với ổ cứng, bạn nên duy trì cho nhiệt độ môi trường chung quanh đĩa cứng và trong đĩa cứng đừng tăng quá cao và tương đối ổn định bằng cách lưu ý đến việc giải nhiệt cho toàn hệ thống. Có một số đĩa cứng được tăng cường làm mát bằng cách gắn thêm quạt ở mặt dưới của đĩa (phần gắn bo mạch). Tuy nhiên, nếu quạt có chất lượng “dỏm” thì sau một thời gian quạt bị trục trặc (chạy chậm, “giật cục” hay không khởi động nổi), có thể gây ảnh hưởng đến đĩa cứng, thậm chí có thể làm hư đĩa cứng. Nếu bạn cảm thấy máy của mình đặt ở nơi thoáng mát, hoặc trong phòng lạnh thì bạn có thể không cần sử dụng quạt làm mát này bằng cách ngắt nguồn cấp điện cho quạt, hoặc thay bằng một quạt đảm bảo chất lượng cao để bảo vệ ổ đĩa cứng. Những thông số “biết nói” Khi mua đĩa cứng, thường bạn chỉ quan tâm đến dung lượng đĩa cứng, tốc độ ATA, tốc độ quay (5400, 7200 RPM ) chứ ít khi quan tâm đến những thông số khác. Thực ra, đĩa cứng còn nhiều thông số “biết nói” khác giúp bạn dễ dàng nhận định chất lượng của đĩa cứng; hoặc khi nghe quảng cáo về một đĩa cứng mới bạn cũng không cảm thấy “ù ù, cạc cạc”: = 24 =
  25. Nhận diện những ổ đĩa cứng trên thị trường Việt Nam Hai loại HDD UltraATA và SerialATA có hình dạng như nhau, đều cỡ 3,5- inch, chỉ khác nhau giao diện kết nối với mainboard. Giao diện SerialATA chưa thấy có, mặc dù đã có nhiều loại mainboard hỗ trợ nó. * Trên thị trường Việt Nam hiện chỉ phổ biến HDD chuẩn UltraATA/100 và một số ít UltraATA/133 (hầu hết là hàng Maxtor). * Sau khi Maxtor mua hãng sản xuất HDD nổi tiếng Quantum hồi cuối năm 2000, tới nửa cuối năm 2002, thêm Hitachi thâu tóm bộ phận sản xuất HDD của IBM. Hiện nay, Quantum đã hết hàng và IBM cũng bắt đầu hiếm. Hàng có chỉ là tồn kho hay hàng bảo hành. = 25 =
  26. * Trên thị trường Việt Nam hiện nay chủ yếu chỉ còn HDD của hai hãng Seagate và Maxtor được sản xuất ở Singapore và Trung Quốc. * Thỉnh thoảng có thêm nguồn hàng của hãng IBM sản xuất ở Thái Lan hay Samsung (Made in Korea). Gần đây, lại có thêm sản phẩm của Western Digital tham gia thị trường Việt Nam. * Các HDD của Seagate, Maxtor, IBM có hai loại: bình thường (tốc độ vòng quay 5.400 rpm) và IBM Plus, Maxtor Plus hay Seagate Barracuda (7.200 rpm). * Vì HDD là một bộ phận cực kỳ quan trọng, để chứa hệ điều hành, các ứng dụng và dữ liệu, bạn nên mua HDD của các hãng lớn, có tên tuổi. Mua của đại lý chính hãng để được hưởng chế độ bảo hành chính thức. Tốt nhất là có dán tem bảo đảm và bảo hành của tổng đại lý. * Kể từ ngay 1/10/2002, sau phát pháo mở hàng của Maxtor, rồi kéo theo hai hãng Seagate và Western Digital, thời gian bảo hành của các loại ổ đĩa cứng desktop từ ba năm bị giảm xuống còn một năm. Các ổ cứng mua trước đó vẫn tiếp tục được hưởng chế độ bảo hành ba năm. Chế độ này áp dụng trên toàn thế giới. Hướng dẫn cách gắn các ổ đĩa cho máy tính GẮN Ổ ĐĨA CỨNG Hiện nay các ổ đĩa cứng (HDD) và ổ đĩa quang (như CDROM, CD-RW ) dành cho máy tính để bàn phổ thông có hai giao diện IDE và SerialATA (SATA). Các hệ thống từ Pentium 4 Socket 775 trở đi đã chính thức hỗ trợ giao diện SATA. Giá các ổ đĩa SATA cũng đã giảm mạnh, chênh lệch không là bao so với giao diện IDE. Bạn còn nhớ chứ, khi xài ổ đĩa IDE, bạn bắt buộc phải biết cách gắn jumper để cấu hình nó hoạt động ở vị trí Master hay Slave. Nếu ổ đĩa bị cấu hình sai, hệ thống sẽ xảy ra xung đột giữa Master và Slave. Còn với công nghệ SerialATA, ổ đĩa chẳng có jumper nào và bạn cũng không còn phải bận tâm về chuyện Master hay Slave nữa. Cáp dữ liệu SATA nhỏ dẹp giúp bên trong thùng máy đỡ rối rắm và sẽ thông thoáng hơn so với khi dùng cáp dẹt IDE bản bự (40 hay 80 chân). Nhưng điều gây ấn tượng nhất là băng thông của giao diện SATA hơn hẳn IDE và đang được phát triển cao hơn nữa. Hiện nay, với phiên bản đầu tiên, SATA có băng thông dữ liệu 150MB/s, trong khi của IDE tối đa cũng chỉ 133MB/s. = 26 =
  27. Vì thế, ở đây chúng ta sẽ cùng nhau gắn ổ đĩa SATA. Cách gắn các ổ đĩa cứng và ổ đĩa quang đều giống nhau về cơ bản. GIAO DIỆN SATA CÓ CÁP DỮ LIỆU VÀ CÁP ĐIỆN KHÁC HẲN IDE. CHÚNG “MINHON” HƠN, DẸP HƠN. CÁP SATA CÓ HAI ĐẦU GIỐNG HỆT NHAU. BẠN NHỚ GỠ BỎ NẮP ĐẬY TRƯỚC KHI GẮN CÁP VÀO MAINBOARD VÀ Ổ ĐĨA. CÁP DỮ LIÊU SATA (BÊN PHẢI) VÀ CÁP IDE. BẠN HÃY QUAN SÁT HAI ĐẦU CÁP VÀ HAI CHÂN CẮM CỦA CÁP DỮ LIÊU (NHỎ HƠN, BÊN TRÁI TRONG HÌNH) VÀ CÁP ĐIỆN. = 27 =
  28. KHI CẦM Ổ ĐĨA CỨNG, BẠN NHỚ CHỈ ĐƯỢC CẦM Ở CÁC CẠNH CỦA NÓ. KHÔNG CHẠM TAY LÊN MẶT KIM LOẠI VÌ CÓ THỂ DẪN TỚI HIỆN TƯỢNG SỐC TĨNH ĐIỆN. ĐẶC BIÊT, CHỈ CẦN BẠN CHẠM LÊN ĐÓ LÀ DẤU TAY CỦA BẠN SẼ IN HẰN LÊN BỀ MẶT KIM LOẠI. NẾU TAY BẠN THUỘC LOẠI NHIỀU MỒ HÔI THÌ DẤU VÂN TAY SẼ KHÔNG THỂ CHÙI SẠCH ĐƯỢC ĐÂU. MỒ HÔI TRÊN DẤU VÂN TAY LÂU NGÀY SẼ GÂY NHỮNG PHẢN ỨNG HÓA HỌC BẤT LỢI VỚI LỚP KIM LOẠI MẶT Ổ ĐĨA. BẠN PHẢI GẮN Ổ ĐĨA CỨNG VÀO KHOANG 3.5-INCH TRONG THÙNG MÁY TRƯỚC KHI GẮN BẤT CỨ CÁP NÀO. KHI ĐƯA Ổ ĐĨA VÀO THÙNG MÁY, BẠN PHẢI LỰA THẾ VÀ CẨN THẬN ĐỂ KHÔNG GÂY ĐỤNG CHẠM, LÀM TỔN THƯƠNG CÁC CHIP VÀ LINH KIÊN KHÁC TRÊN MAINBOARD. SAU KHI BẮT ỐC CỐ ĐỊNH Ổ ĐĨA, BẠN MỚI TIẾN HÀNH GẮN CÁC CÁP DỮ LIÊU VÀ CÁP ĐIÊN VÀO CHÂN CẮM TƯƠNG ỨNG TRÊN Ổ ĐĨA VÀ TRÊN MAINBOARD. BẠN HÃY KIỂM TRA KỸ LƯỠNG ĐỂ CÁC ĐẦU CÁP DỮ LIỆU VÀ CÁP ĐIỆN ĐƯỢC GẮN THẬT CHẶT VÀ THẬT KHÍT HOÀN TOÀN VỚI CÁC CHÂN CẮM. TUYỆT ĐỐI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ BẤT CỨ KHE HỞ NÀO GIỮA ĐẦU CẮM VÀ CHÂN CẮM. = 28 =
  29. CÁP ĐIỆN CỦA SATA HIỆN NAY ĐƯỢC THIẾT KẾ ĐỂ SỬ DỤNG VỚI CÁC BỘ NGUỒN ĐANG THÔNG DỤNG. NÓ GỒM MỘT ĐẦU ĐÚNG CHUẨN SATA (MÀU ĐEN) ĐỂ GẮN VÀO CHÂN CẮM NGUỒN TRÊN Ổ ĐĨA, VÀ MỘT ĐẦU NỐI 4 CHÂN (MÀU TRẮNG) ĐỂ BẠN NỐI VỚI MỘT ĐẦU CÁP ĐIỆN IDE 4 CHÂN CỦA BỘ NGUỒN. TRÊN MAINBOARD CÓ THIẾT KẾ CÁC CHÂN CẮM SATA (CÓ GHI KÝ HIỆU VÀ THỨ TỰ CỤ THỂ). ĐỜI TRƯỚC CHỈ CÓ 2 CHÂN CẮM, NHƯNG TỪ HỆ THỐNG CHIPSET INTEL 915 VÀ 925 TRỞ ĐI, MAINBOARD CÓ TỚI 4 HAY 8 CHÂN CẮM SATA. TẤT CẢ CÁC CHÂN CẮM SATA NÀY ĐƯỢC CẤP ĐIÊN TỪ CHÍP CẦU NAM INTEL ICH6R SOUTHBRIDGE. VIỆC GẮN CÁP DỮ LIỆU RẤT ĐƠN GIẢN. BẠN CHỈ VIỆC GẮN ĐẦU CÒN LẠI CỦA SỢI CÁP SATA VÀO MỘT CHÂN CẮM SATA TRÊN MAINBOARD. NẾU CHỈ CÓ MỘT Ổ ĐĨA SATA, BẠN GẮN VÀO CHÂN CẮM SỐ 1 (SATA 1). CHỈ CẦN BẠN CHÚ Ý XOAY CHIỀU ĐẦU CÁP CHO KHỚP VỚI CHÂN CẮM. THẬT RA CŨNG DỄ THÔI VÌ CHÂN CẮM VÀ ĐẦU CẮM ĐỀU ĐƯỢC THIẾT KẾ CÓ KHỚP ĐỊNH VỊ ĐỂ GIÚP BẠN KHÔNG THỂ GẮN LỘN CHIỀU. BẠN PHẢI GẮN ĐẦU CÁP SATA THẬT KHÍT HOÀN TOÀN VỚI CHÂN CẮM. = 29 =
  30. NẾU CÓ BAO NHIÊU Ổ ĐĨA SATA, BẠN GẮN BẤY NHIÊU ĐẦU CÁP VÀO CÁC CHÂN CẮM TRÊN MAINBOARD THEO THỨ TỰ TỪ SATA ĐẦU TIÊN. GẮN Ổ ĐĨA QUANG OPTICAL DRIVE Trong quy trình lắp ráp máy tính mới, sau khi ổ đĩa cứng đã được bạn cho “yên bề gia thất”, bạn tiến hành việc gắn ổ đĩa quang (nếu có). Ở đây, chúng ta vẫn còn xài ổ đĩa quang có giao diện IDE. CÔNG VIỆC ĐẦU TIÊN BẠN PHẢI LÀM TRƯỚC KHI GẮN Ổ ĐĨA VÀO KHOANG LÀ KIỂM TRA VÀ NẾU CẦN THÌ CẤU HÌNH LẠI JUMPER XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ HOẠT ĐỘNG CỦA Ổ LÀ MASTER HAY SLAVE. CÁC Ổ ĐĨA QUANG TỐC ĐỘ CAO HIỆN NAY ĐỀU ĐƯỢC NHÀ SẢN XUẤT GẮN SẴN JUMPER Ở VỊ TRÍ MASTER. DO CHÚNG TA GẮN Ổ ĐĨA QUANG Ở MỘT CÁP TÍN HIÊU RIÊNG BIỆT VỚI Ổ ĐĨA CỨNG (HDD Ở CÁP PRIMARY IDE, CÒN Ổ ĐĨA QUANG SẼ Ở CÁP SECONDARY IDE), NÊN NẾU CHỈ CÓ MỘT Ổ ĐĨA QUANG, BẠN CỨ VIỆC ĐỂ JUMPER DEFAULT Ở MASTER. TRONG TRƯỜNG HỢP CÓ 2 Ổ ĐĨA QUANG (NHƯ Ổ DVDROM VÀ CD-RW), BẠN PHẢI CẤU HÌNH MỘT Ổ Ở MASTER VÀ Ổ KIA Ở SLAVE. TRÊN CÁC Ổ ĐĨA QUANG CÓ GHI SẴN KÝ HIỆU VỊ TRÍ CỦA CHÂN CẮM JUMPER, PHỔ BIẾN LÀ MA (MASTER) VÀ SL (SLAVE). THƯỜNG THÌ MASTER NẰM NGAY SÁT CHÂN GẮN CÁP TÍN HIỆU. BÂY GIỜ, BẠN BẮT ĐẦU GẮN Ổ ĐĨA QUANG VÀO MỘT KHOANG 5,25- INCH CỦA THÙNG MÁY. BẠN MỞ NẮP NHỰA CHE MỘT KHOANG 5,25-INCH. THƯỜNG LÀ PHẢI BẺ LUÔN CẢ MIẾNG CHE BẰNG KIM LOẠI PHÍA TRONG KHOANG. KHÁC VỚI Ổ ĐĨA CỨNG PHẢI GẮN TỪ BÊN TRONG THÙNG MÁY VÀ TỪ SAU ĐẨY RA TRƯỚC, Ổ ĐĨA QUANG ĐƯỢC GẮN TỪ PHÍA TRƯỚC KHOANG ĐẨY VÀO TRONG. = 30 =
  31. BẮT CÁC ỐC VÍT (THƯỜNG LÀ LOẠI NHỎ, KÈM THEO Ổ) ĐỂ CỐ ĐỊNH Ổ VÀO THÂN THÙNG MÁY. KHÔNG DÙNG LOẠI ỐC LỚN CÓ THỂ LÀM TUÔN RĂNG CỦA LỖ BẮT ỐC TRÊN THÂN Ổ ĐĨA. CỐ ĐỊNH XONG Ổ ĐĨA, BẠN BẮT ĐẦU GẮN CÁC CÁP CHO NÓ. ĐẦU TIÊN LÀ CÁP ÂM THANH. BẠN CẮM ĐẦU CÁP THEO ĐÚNG CHIỀU (CÓ NGÀM SẴN) VÀO CHÂN CẮM AUDIO OUTPUT Ở PHÍA SAU Ổ ĐĨA. CHÂN CẮM TÍN HIỆU ANALOG THƯỜNG NẰM SÁT VỊ TRÍ CÁC JUMPER. RỒI GẮN ĐẦU BÊN KIA CỦA CÁP TÍN HIỆU ÂM THANH VÀO CHÂN CẮM CD- IN TRÊN MAINBOARD (NẾU DÙNG ÂM THANH TÍCH HỢP ON-BOARD) HAY VÀO CHÂN CẮM CD-IN CỦA SOUND CARD. = 31 =
  32. GẮN MỘT ĐẦU CÁP DỮ LIỆU (ĐẦU Ở PHẦN CÁP DÀI NHẤT) VÀO CHÂN CẮM IDE (NẾU CÓ MỘT Ổ HDD IDE, BẠN CHỌN CHÂN CẮM SECONDARY IDE CHO Ổ ĐĨA QUANG) CẨN THẬN GẮN CHO ĐÚNG CHIỀU ĐẦU CẮM CÁP. NHÀ SẢN XUẤT ĐÃ THIẾT KẾ SẴN MẤU ĐỊNH VỊ TRÊN MỘT CẠNH ĐẦU CÁP KHỚP VỚI KHE CẮT ĐỊNH VỊ TRÊN CHÂN CẮM. KIỂM TRA LẠI XEM CÁP DỮ LIỆU ĐÃ ĐƯỢC GẮN CHÍNH XÁC KHÔNG (LỌT HOÀN TOÀN VÀO CHÂN CẮM). GẮN ĐẦU KIA CỦA CÁP DỮ LIÊU VÀO Ổ ĐĨA QUANG. CHÚ Ý CHIỀU CÁP. CẠNH CÁP CÓ ĐÁNH DẤU (SỌC ĐEN HAY ĐỎ HAY TRẮNG) PHẢI GẮN VÀO CHÂN SỐ 1 (PIN 1) CỦA Ổ CHÂN CẮM CÁP DỮ LIỆU TRÊN Ổ ĐĨA QUANG (NẰM SÁT BÊN Ổ CHÂN CẮM ĐIỆN IDE 4 CHÂN).GẮN MỘT ĐẦU CÁP CẤP ĐIỆN IDE 4 CHÂN CỦA BỘ NGUỒN VÀO Ổ CHÂN CẮM ĐIỆN CỦA Ổ ĐĨA QUANG. CHÚ Ý GẮN ĐÚNG CHIỀU (HAI CẠNH ĐƯỢC VẠT GÓC CỦA ĐẦU CẮM KHỚP VỚI HAI GÓC XÉO CỦA Ổ CHÂN CẮM). MẸO NHỎ: HAI DÂY CÁP ĐIỆN MÀU VÀNG CỦA ĐẦU CÁP LUÔN NẰM Ở PHÍA NGOÀI, SÁT CẠNH CỦA Ổ ĐĨA QUANG. = 32 =
  33. KHI CẦN PHẢI GỠ CÁP DỮ LIỆU RA KHỎI Ổ ĐĨA QUANG, BẠN TUYỆT ĐỐI KHÔNG ĐƯỢC NẮM SỢI CÁP GIẬT MẠNH RA MÀ PHẢI CẦM Ở ĐẦU CÁP BẰNG NHỰA LẮC NHẸ SANG HAI BÊN ĐỂ GỠ CÁP RA. (MỘT SỐ HÃNG MAINBOARD NHƯ GIGABYTE CẨN THẬN ĐÃ GẮN THÊM MỘT MẨU GIẤY NHỰA ĐỂ GIÚP GỠ CÁP DỄ DÀNG HƠN). SỞ DĨ PHẢI CẨN THẬN VÌ VIÊC GIẬT MẠNH TRỰC TIẾP SỢI CÁP CÓ THỂ LÀM TỔN THƯƠNG HAY ĐỨT CÁC SỢI CÁP PHÍA BÊN TRONG, TUY Ổ ĐĨA VẪN HOẠT ĐỘNG ĐƯỢC, NHƯNG DỄ XẢY RA CÁC SỰ CỐ TRUYỀN DỮ LIỆU (ĐẶC BIỆT NGUY HIỂM ĐỐI VỚI Ổ GHI ĐĨA). Việc gắn các ổ đĩa cứng giao diện IDE cũng tương tự như vậy. Chỉ khác là không có cáp âm thanh mà thôi. Bạn chú ý là khi đưa ổ HDD vào khoang, cần phải thật cẩn thận để không làm tổn thương các chíp, chân cắm, trên mainboard. GẮN Ổ ĐĨA MỀM Ổ đĩa mềm (Floppy Disk Drive, FDD) bây giờ không còn thông dụng nữa rồi. Để boot máy, người ta đã chuyển sang đĩa CD (híc, giờ còn rẻ hơn đĩa mềm). Còn để chép dữ liệu thì đã có các ổ FlashDrive. Nhưng nói vậy chứ không phải ta đã có thể “cắt đứt dây chuông” tuyệt đối với FDD. Chẳng hạn khi sử dụng chức năng RAID như một đĩa boot, bạn vẫn cần phải có một ổ FDD trong hệ thống. Nói đâu xa, trong quá trình cài đặt Windows, nếu mainboard có hỗ trợ RAID hay thậm chí với một số mainboard xài chíp điều khiển SerialATA riêng (nhất là khi không dùng chipset Intel có hỗ trợ sẵn SATA), bạn phải bổ sung thêm driver của RAID hay SATA từ nguồn duy nhất là đĩa mềm kèm theo mainboard. = 33 =
  34. Hiện nay, hầu như các thùng máy (case) đều thiết kế sẵn khe nạp đĩa mềm cố định ở panel phía trước (bạn không còn phải mất công gỡ miếng che nhựa phía trước thùng máy ra). Để gắn FDD, bạn đưa ổ đĩa từ phía trong thùng máy đẩy ra phía trước khoang 3,5-inch. Do FDD nằm lọt tuốt phía trong khoang, bạn cần phải gắn các cáp cho nó trước khi bắt vít. Cả ổ chân cắm dữ liệu lẫn cáp dữ liệu của FDD đều khác hẳn IDE. Cáp dữ liệu FDD có 34 chân. Cắm một đầu cáp dữ liệu FDD vào ổ chân cắm trên FDD. Nếu sợi cáp có một đầu chẻ ra và xoắn chéo thì bạn nhớ gắn phần đầu cáp đó vào ổ FDD. Chú ý cho đúng chiều: cạnh sọc màu (thường là màu đỏ) trên sợi cáp phải khớp với chân số 1 (chân dưới bên trái). Nếu gắn không đúng chiều, FDD sẽ không đọc được dữ liệu (chỉ việc tắt máy và đảo chiều cáp là xong). Gắn cáp điện là việc khó khăn và nguy hiểm. Vì nếu gắn không chính xác, chệch chân, có thể gây chạm điện làm cháy không chỉ ổ FDD mà cả mainboard nữa. Cũng may là hầu hết các nhà sản xuất FDD sau này đã rút kinh nghiệm thiết kế thêm ngàm định vị ở vị trí các chân cắm điện. Bạn cắm đầu cáp điện FDD (4 chân) của bộ nguồn vào các chân cắm điện trên FDD. Chú ý các ngàm định vị và dây màu đỏ nằm ở mép ngoài, sát của ổ FDD. Bắt tạm hai ốc vít cố định ổ FDD vào thùng máy. Kiểm tra xem việc nạp đĩa có tốt không bằng cách đẩy ổ FDD sát ra phía trước và dùng một đĩa mềm 1.44MB nạp vào rồi nhấn phím đẩy (eject) xem chiếc đĩa có được ổ “tống” ra không. Nếu hoàn hảo, bạn siết chặt các ốc vít. Bây giờ mới tới lúc gắn đầu cáp dữ liệu vào ổ chân cắm FDD trên mainboard. Nếu cáp có một đầu xoắn thì bạn phải gắn đầu không bị xoắn vào mainboard. Cũng chú ý để cạnh có sọc đánh dấu của cáp khớp với chân số 1 của ổ chân cắm. Tuy vậy, = 34 =
  35. bạn yên tâm vì nhà sản xuất ngày nay đã thiết kế sẵn các chấu và khe định vị giúp người dùng gắn cáp chính xác. Điều này đặc biệt cần thiết khi dùng cáp thế hệ mới là cáp tròn (rounded cable) thay cho cáp dẹt (flat cable). Vậy là bạn đã hoàn tất việc gắn ổ FDD. Gắn bộ nhớ cho máy tính Sau khi gắn xong CPU và quạt, bạn bắt đầu việc gắn các thanh bộ nhớ hệ thống vào các slot DIMM trên mainboard. Trên mainboard của Gigabyte và một số hãng khác, các khe DIMM được phân biệt bằng màu sắc khác nhau giúp bạn dễ dàng cấu hình Dual Channel (bộ nhớ kênh đôi) hơn. Cần nhớ là tùy mỗi hãng mà có mã màu khác nhau. Thí dụ, có mainboard dùng một màu cho mỗi kênh. Có mainboard dùng màu để đánh dấu các khe DIMM tương ứng trong hai kênh để cấu hình Dual. Mainboard Gigabyte thuộc loại thứ hai này đó. Vì thế, để cấu hình Dual, bạn chỉ việc gắn hai thanh DDR vào hai slot DIMM có cùng màu với nhau. Cũng giống như hầu hết mainboard khác dựa trên hai bộ chipset Intel 915G Express và Intel 915P Express, Gigabyte GA-8GPNXP Duo hỗ trợ cả hai loại bộ nhớ DDR (2,5V) và DDR2 (1,8V). Tuy nhiên, bạn chỉ được phép dùng một trong hai loại, hổng được “chung chạ” à nghen. Cụ thể là bạn có thể tận dụng DDR400 đang có hay tậu mới DDR2-533. Mainboard có tới 6 slot DIMM, trong đó có hai slot màu vàng nhạt dành cho DDR2. Để bảo đảm được tính tương thích và sự ổn định tốt nhất cho bộ nhớ, bạn cần tuân thủ nguyên tắc sau đây: Các cặp DDR phải cùng một hãng sản xuất; cùng một = 35 =
  36. dung lượng (như thanh 256MB, 512MB, ); cùng tốc độ (như DDR333, DDR400, ); cùng số lượng con chip bộ nhớ trên thanh RAM và cùng số mặt (như loại một mặt singlesided, hay hai mặt double-sided). - Lý tưởng nhất là mua hai thanh DDR, chạy cặp này cùng một lúc với nhau để bảo đảm chúng cùng được gắn các con chíp nhớ có cùng một lô sản xuất. Nếu mua được hai thanh DDR trong bộ kit Dual do hãng sản xuất bộ nhớ cung cấp sẵn, tính tương thích và ổn định là tối ưu. BỘ KIT 2 THANH DDR2-533 CỦA MUSHKIN. Tóm lại, lý tưởng nhất là khi muốn gắn thêm một cặp DDR nữa vào mainboard, bạn nên tìm mua loại cùng nhãn hiệu, tốc độ và số mặt (DDR một mặt hay hai mặt) như cặp DDR đang có sẵn. MAINBOARD GIGABYTE GA- 8GPNXP DUO CÓ TỚI 6 SLOT DIMM. HAI CẶP CHO DDR400 2,5V (MÀU CAM VÀ MÀU TÍM) VÀ MỘT CẶP CHO DDR2-533 1,8V (MÀU VÀNG NHẠT). HÃY CHÚ Ý CÁC VỊ TRÍ KHÁC NHAU CỦA CÁC KHẤC ĐÁNH DẤU (NOTCH) CHO CÁC LOẠI DDR VÀ DDR2. TRONG ẢNH, KHE DIMM MÀU VÀNG NHẠT LÀ DÀNH CHO DDR2. HAI SLOT DIMM MÀU CAM VÀ TÍM LÀ CHO DDR. = 36 =
  37. TRONG BÀI NÀY, CHÚNG TÔI SỬ DỤNG HAI THANH DDR2- 533 VALUERAM (KVR533D2N4/ 512) 512MB CỦA HÃNG KINGSTON. TRƯỚC TIÊN, BẠN BẬT HAI NGÀM KHÓA (MÀU TRẮNG) Ở HAI ĐẦU SLOT DIMM RA PHÍA NGOÀI. TƯƠNG TỰ NHƯ KHI GẮN HẦU HẾT CÁC LOẠI RAM KHÁC, BẠN PHẢI GIỮ THANH DDR BẰNG CẢ HAI TAY VÀ ẤN THEO CHIỀU THẲNG ĐỨNG NÓ VÀO KHE DIMM. BẠN PHẢI LUÔN LUÔN CHẮC CHẮN RẰNG KHE CẮT LÕM TRÊN CẠNH CHÂN THANH DDR NẰM CHÍNH XÁC VỚI VỊ TRÍ KHẤC ĐÁNH DẤU TRÊN KHE CẮM. KHẤC NÀY ĐƯỢC THIẾT KẾ ĐỂ BẢO ĐẢM BẠN CHỈ CÓ THỂ ẤN THANH DDR VÀO THEO MỘT HƯỚNG. NÓ CŨNG GIÚP PHÒNG TRÁNH VIÊC GẮN NHẦM THANH DDR2 VÀO BẤT CỨ KHE DDR NÀO. = 37 =
  38. ĐỂ GẮN DDR, BẠN ẤN THẲNG ĐỨNG THANH DDR XUỐNG KHE CHO TỚI KHI NÀO HAI NGÀM KHÓA (MÀU TRẮNG) Ở HAI ĐẦU SLOT BẬT VÀO KHỚP VỚI CÁC KHE CẮT Ở HAI ĐẦU THANH DDR. THƯỜNG LÀ BẠN SẼ NGHE CÓ MỘT TIẾNG “CLICK” NHỎ BÁO NGÀM ĐÃ KHÓA ĐƯỢC THANH DDR. ĐỂ TRÁNH SỰ CỐ ĐÁNG TIẾC LÀ THANH DDR KHÔNG ĐƯỢC GẮN HOÀN TOÀN VÀO KHE (CÓ THỂ GÂY CHẠM ĐIÊN VÀ CHÁY), BẠN CẦN KIỂM TRA CHẮC CHẮN CÁC NGÀM KHÓA ĐÃ TRỞ VỀ VỊ TRÍ THẲNG ĐỨNG VỚI THANH DDR. TỚI KHI MUỐN GỠ THANH RAM RA, BẠN BẬT HAI NGÀM MÀU TRẮNG Ở HAI ĐẦU KHE DIMM RA PHÍA NGOÀI ĐỂ BẨY THANH RAM LÊN. CŨNG NHẤC THANH RAM LÊN THEO PHƯƠNG THẲNG ĐỨNG = 38 =
  39. Khắc phục những sự cố thông thường của ổ đĩa quang Dấu hiệu Lý do có thể Chẩn đoán và khắc phục - Kiểm tra dây cấp điện nguồn của ổ đĩa có nối với cáp điện bộ nguồn PSU chưa? - Tất cả cáp cấp điện đều bảo đảm đấu Mất nguồn Không thể nối tốt? bật nguồn - Kiểm tra PSU có hoạt động không, quạt cho máy tính nguồn có quay không? Kiểm tra lại cáp IDE xem có cắm chính Các thiết bị IDE xung đột xác không? và set jumper chính xác. Thử nghe xem có tiếng đĩa quay không? Nếu đĩa quay mà vẫn không đọc được, Không thể đọc được đĩa thử với đĩa khác tốt hơn. Nếu vẫn không đọc được, có thể mắt đọc hoặc motor có Ổ đĩa không vấn đề. có dấu hiệu hoạt động Đèn LED phía trước sáng liên tục trong quá trình boot, vẫn có thể Flash lại FlashROM bị hư do cập firmware mới. Tải đúng phiên bản từ nhật firmware không đúng Website chính thức của nhà sản xuất và cẩn thận làm chính xác theo hướng dẫn. Mất nguồn Kiểm tra nguồn cấp điện đằng sau ổ đĩa. Nút Eject bị trục trặc hoặc Kiểm tra lại nút Eject còn nhạy không? dây curoa giãn thay dây curoa nếu cần. Không thể FlashROM bị hư Tải firmware mới về để flash lại. đóng khay Bị tác động của ngoại lực trong quá trình đĩa hoặc Khay đĩa không ngay đóng/mở khay. Thông thường sẽ không khay đĩa ngắn được bảo hành trong trường hợp như không đẩy ra vậy được Đĩa bị vỡ trong khi đang quay, các mảnh vụn gây kẹt. Dùng cây kim chọt vào lỗ Đĩa bị bể, vỡ nhỏ ở mặt trước đĩa để đẩy khay đĩa ra. Dọn sạch mảnh vỡ trước khi đóng vào. Do các bánh răng truyền động giữa Ổ đĩa gây Tiếng ồn khi đóng/mở motor và khay đĩa, các ổ đĩa dùng dây tiếng ồn khay đĩa curoa sẽ êm hơn. = 39 =
  40. Hệ thống cân bằng tự động cho motor khi quay, để giảm sự rung và tiếng ồn khi hoạt động ở tốc độ cao. Cơ chế chính Tiếng ồn phát ra từ phần nằm ở vòng tròn chứa các viên bi kim nào đó ở bên trong của ổ loại có thể di chuyển tự do và lực ly tâm đĩa khi hoạt động sẽ khiến đĩa trở nên cân bằng hơn. Khi không quay, những viên bi này lăn tự do sẽ tạo nên một số tiếng ồn nhỏ trong ổ đĩa. Tiếng hú khi bắt đầu cho Tiếng ồn là do các viên bi di chuyển giữa đĩa vào các vị trí để tái tạo sự cân bằng. Vì nhiều lý do, tốc độ quay của motor trong khi đọc thường xuyên được thay Tiếng hú trong quá trình đổi. Trong suốt quá trình này, các viên bi đọc đĩa sẽ được sắp xếp lại để đảm bảo sự cân bằng. Khi đĩa bắt đầu quay, trước khi motor chuyển sang trạng thái quay cân bằng bình thường có thể có tiếng ồn không Tiếng ồn không đều đều là do đĩa không thật sự đồng đều về độ phẳng, có thể hơi bị cong, đây là điều bình thường. Bất cứ tiếng kêu phát ra do va chạm đều Tiếng ồn dị thường không bình thường. Hãy mang đến dịch vụ bảo hành để kiểm tra. - Kiểm tra lại cáp IDE ở mặt sau xem có gắn chính xác hay không? BIOS không thể nhận ra ổ - Kiểm tra jumper xem có bị trùng lặp? đĩa Lưu ý chỉ có một Master và một Slaver Máy tính trên cùng một kênh IDE không thể Không thấy ổ đĩa trong Tải driver dùng trong môi trường DOS về nhận diện môi trường DOS và nhớ nạp nó lúc khởi động. được ổ đĩa Kiểm tra lại “IDE BUS controller” trong Không thấy ổ đĩa trong BIOS mainboard để chắc chắn rằng cả môi trường Windows hai kênh IDE đều đã được bật lên (enable). Lau lại bề mặt đĩa bằng loại vật liệu mềm Bề mặt đĩa có thể bị dơ như dạ để tránh làm trầy xước. Lau từ trong ra ngoài, không lau theo vòng tròn. Không thể Ổ đĩa không thể đọc được đĩa bị hỏng do đọc đĩa Đĩa bị hỏng, trầy xước ghi không đúng hoặc bị trầy xước quá nhiều. Hãy giữ gìn đĩa của bạn cẩn thận. Hãy chắc chắn rằng ổ đĩa của bạn cũng Không đúng định dạng hỗ trợ định dạng được ghi trên CD. = 40 =
  41. Kết nối trên kênh IDE có Kiểm tra lại cáp kết nối với kênh IDE. vấn đề Chơi nhạc Kiểm tra cáp audio có cắm đúng vị trí ở Cáp Audio không bình trên ổ đĩa và trên sound card. thường Kiểm tra card âm thanh, speaker có được Card âm thanh hoặc loa thiết lập đúng và các chức năng hoạt động bình thường hay không. Ổ đĩa dùng công nghệ CAV để đọc đĩa, do vậy tốc độ truyền dữ liệu chỉ đạt Đĩa ghi không đầy maximum ở vị trí ngoài cùng (từ vị trí phút 70 trở đi). Tốc độ truyền tối đa chỉ đạt ở những track ngoài cùng của đĩa. Kiểm tra trong môi trường Tiện ích kiểm tra phải test cả track ngoài Tốc độ không thích hợp truyền thấp cùng, và đĩa phải được ghi đúng chuẩn hơn thiết kế test. Chế độ DMA/UDMA có bật hay không? Thiết lập trong Windows Nếu không, hãy bật nó lên (vào Control chưa tối ưu panel). Chất lượng đĩa không tốt Cất giữ đĩa cẩn thận, tránh làm dơ, trầy (do nhà sản xuất hay do xước hoặc gần nguồn nhiệt, ánh sáng bảo quản) mặt trời chiếu trực tiếp. Kiểm tra lại model ổ đĩa đang dùng và Không thể Firmware mới không phù phiên bản firmware đã tải về. Hãy cập nhật hợp với model hiện đang download từ Website chính thức của nhà firmware mới dùng sản xuất. Quá trình Flash Firmware có thể bị gián Bị gián đoạn trong khi đoạn bởi điện yếu hoặc hệ thống Sự cố sau Flash Firmware shutdown bất ngờ. Hãy thực hiện lại. Nếu khi cập nhật không được, gửi đến dịch vụ bảo hành. firmware Đọc lại và làm theo hướng dẫn Flash Cập nhật không đúng Firmware của chính nhà sản xuất loại ổ đĩa bạn dùng. (Theo tài liệu của hãng LiteOn – sản xuất thiết bị Optical Drive dạng OEM cho Compaq, Sony, Gigabyte, TDK, v.v ). Vận chuyển ổ đĩa cứng cho an toàn Cách cầm nắm một ổ đĩa cứng Board mạch của ổ đĩa cứng (HDD) do các linh kiện rất nhỏ tạo thành. Các linh kiện này rất mỏng manh. Khi cầm HDD không đúng cách, ta có thể làm chúng bể hoặc = 41 =
  42. nứt, cũng như trầy sướt các chân mà mắt thường khó phát hiện được, gây ra hiện tượng HDD không còn được máy tính “nhìn thấy” (không detect được). Cách cầm nắm một HDD đúng cách là cầm vào hai bên cạnh của ổ đĩa, không được chạm tay vào board mạch, cũng như hạn chế tối đa việc tiếp xúc trực tiếp với ổ đĩa. Bảo vệ chống hiện tượng tĩnh điện Cơ thể chúng ta có thể sản xuất ra tĩnh điện bất cứ lúc nào, cho nên khi tiếp xúc với HDD, ta cần phải có dụng cụ bảo vệ hiện tượng tĩnh điện như : bao tay và thiết bị chống tĩnh điện. Nếu không có dụng cụ bảo vệ thì nên chạm tay vào thùng máy (để khử tĩnh điện) trước khi tiếp xúc với HDD. Nếu hiện tượng tĩnh điện xảy ra, dễ gây ra hiện tượng nổ chíp và hư đầu đọc. Bảo vệ chống hiện tượng phóng điện Vì board mạch được thu gọn lại rất nhỏ, khi tiếp xúc với board mạch, chúng ta có thể vô tình làm các hoa chất và mồ hôi dính lên board khiến cho hiện tượng dẫn điện xảy ra gây chạm mạch (nổ chip). Cáp nguồn lỏng lẻo sẽ gây nẹt tia lửa điện và cũng gây ra hiện tượng nổ chíp. Sử dụng, bảo quản và vận chuyển đúng cách Khi sử dụng phải nhẹ nhàng, gắn ổ cứng vào máy tính một cách cố định. Khi gắn cáp tín hiệu và cáp nguồn phải gắn nhẹ nhàng, ngay thẳng để khỏi bể miếng nhựa và gãy chân trên board mạch. Đừng bao giờ dựng đứng một ổ cứng vì dễ bị ngã và phải hạn chế tiếp xúc nhiều với nó. Khi vận chuyển một ổ cứng phải bỏ vào bao chống tĩnh điện do nhà sản xuất cung cấp khi mua. Khi vận chuyển nhiều ổ cứng, chúng ta nên đặt chúng vào thùng có mốp bảo vệ, để tránh sự va chạm có thể xảy ra. Khi lấy ra chỉ được cầm vào cạnh của ổ cứng. Tuyệt đối không nên bỏ ổ cứng trong giỏ xe hay kẹp vào gác-ba-ga của xe. = 42 =
  43. Không được rung, lắc hay lấy ổ cứng ra khỏi máy khi nó đang hoạt động. Chỉ sau khi HDD dừng hoạt động khoảng mười giây mới được tiếp xúc và phải có dụng cụ bảo vệ khử tĩnh điện. Sau khi tắt máy, ta phải đợi chừng 30 giây sau mới khởi động lại. 11 biện pháp giữ an toàn cho HDD Khi mang ổ cứng đi bảo hành, ta nên xem như mình đang cầm trên tay một ổ cứng mới. Nên tuân thủ đúng cách cầm nắm cũng như vận chuyển và đóng gói. Nếu làm sai, nơi bán và nhà sản xuất có thể từ chối bảo hành. 1. Hạn chế số lần cầm nắm, tháo ráp, cũng như vận chuyển càng ít càng tốt. 2. Đừng bao giờ vận chuyển ổ cứng mà không đặt chúng trong bao chống tĩnh điện. 3. Hãy nghĩ rằng ổ cứng của chúng ta rất mỏng manh, hãy sử dụng cẩn thận. 4. Phải bảo vệ HDD khỏi hiện tượng sốc tĩnh điện và phóng điện. 5. Không chồng các ổ cứng lên nhau. 6. Sau khi máy tính ngưng hoạt động ít nhất mười giây, chúng ta mới tháo ổ cứng ra. 7. Hạn chế sự va chạm mạnh đối với ổ cứng. 8. Đừng bao giờ sờ vào mặt ngang ổ cứng mà chưa có sự bảo vệ tĩnh điện. 9. Đừng dựng đứng ổ cứng, mà nên đặt nằm. 10. Không bao giờ lấy ổ cứng ra khi nó đang hoạt động. 11. Khi gắn ổ cứng vào máy tính, bạn nên đặt nó vào nhẹ nhàng, cắm cáp tín hiệu và cáp nguồn ngay thẳng, nếu không sẽ gây ra hiện tượng gãy chân nguồn và bể miếng nhựa. (Theo tài liệu hướng dẫn về ổ cứng Maxtor của Công ty AceCom Indochine) Phân biệt RAM SINGLE-SIDED VÀ DOUBLE-SIDED: RAM (chủ yếu là SDRAM và DDR) được đóng gói với hai hình thức chỉ gắn các chíp bộ nhớ lên một mặt thanh bo mạch (gọi là RAM một mặt, Single-sided) hay gắn trên cả hai mặt bo mạch (RAM hai mặt, Double-sided). Nhưng không phải nhà sản xuất muốn gắn một hay hai mặt tùy ý, mà phải tùy theo cấu trúc của module = 43 =
  44. RAM. LONG DIMM VÀ SODIMM: Các thanh RAM dành cho máy tính để bàn có nguyên khổ nên gọi là LONG DIMM. Còn loại xài cho máy tính xách tay có kích thước ngắn hơn gọi là SODIMM (Small Outline DIMM, DIMM có viền ngoài nhỏ). SDRAM SODIMM có 144 chân, trong khi DDR SODIMM và DDR2 SODIMM có 200 chân. BGA VÀ TSOP: Đây là cách gắn các con chíp bộ nhớ lên thanh bo mạch. BGA (Ball Grip Array) là công nghệ dán chíp lên bo mạch, được giới thiệu là ưu việt hơn, tản nhiệt tốt hơn, nhiệt độ thấp hơn và có khả năng đạt tốc độ cao hơn, cũng như với kích thước nhỏ hơn. Còn TSOP (Thin Small Outline Packages) là công nghệ cũ hàn các con chíp lên bo mạch ( t r ô n g giống như những con bọ với vô số chân tua tủa các bên mép). SDRAM: SDRAM (Synchronous DRAM) là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động đồng bộ). Đây là thế hệ bộ nhớ chủ yếu của Pentium III trở về trước. Gia đình chipset Pentium 4 đầu tiên của Intel là i845 cũng hỗ trợ bộ nhớ này, nhưng phải là SDRAM 133MHz hay còn gọi là PC133 – đây cũng chính là tốc độ cao nhất của SDRAM được chính thức hỗ trợ. RAMBUS: Chính xác phải gọi là RDRAM (Rambus Dynamic Random Access Memory, bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động Rambus) hay DRDRAM (Ditrect RamBus). Như tên gọi của mình, Rambus là một dạng bộ nhớ khác hẳn các loại RAM bình thường. Nói cho chính xác, đây là một hệ thống phụ về bộ nhớ (memory subsystem). Nó bao gồm bộ nhớ RAM, bộ điều khiển RAM, và bus nối RAM với CPU và các thiết bị trong máy tính sử dụng Rambus. Tuy chạy nhanh, khỏe, nhưng quá mắc (do hãng Rambus thu tiền bản quyền sáng chế), nên Rambus “chết yểu”. Tốc độ cao nhất được bán trên thị trường là 800MHz (PC800). Intel chỉ đưa ra hai chipset máy để bàn hỗ trợ Rambus là i820 và i850. Vì thế, RDRAM PC1066 là tốc độ cuối cùng của Rambus, nhưng chỉ có vài hãng sản xuất và “ngậm” luôn làm kỷ niệm. Vì tốc độ quá nhanh nên nhiệt độ rất cao, Rambus phải được trang bị thêm một miếng nhôm tản nhiệt. Rambus có hai loại RDRAM (16-bit, gồm PC-600, PC- 800, PC-1066) có 184 chân và RIMM (32-bit, gồm RIMM 3200, RIMM 4200) có 232 chân. DDR SDRAM: Double Data Rate SDRAM hay DDRAM (bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động đồng bộ = 44 =
  45. tốc độ dữ liệu gấp đôi) là thế hệ bộ nhớ mới đang thịnh hành và là bộ nhớ chính của các hệ thống Pentium 4. DDR hay DDR SDRAM thế hệ đầu có tốc độ tối đa là 400MHz/ PC-3200 (200MHz/PC-1600, 266MHz/PC-2100, 333MHz/PC- 2700) và thanh DDR có 184 chân. DDR2 hay DDR SDRAM thế hệ thứ hai hiện có hai tốc độ chính 400MHz (DDR2- 400/PC2-3200) và 533MHz (DDR2-533/PC2- 4300). Một số hãng cũng đã đưa ra loại 667MHz (DDR2-667/PC2- 5300). Thanh DDR2 có 240 chân. DIMM, Module và CHIP, RAM, ROM, DRAM, SRAM, SDRAM DIMM: Viết tắt từ thuật ngữ tiếng Anh Dual-In-line Memory Modules (đơn vị bộ nhớ trực tuyến đôi), DIMM thường dùng trong tên gọi của những khe cắm (slot) bộ nhớ trên bo mạch chủ. Đó là hai thanh nhựa chạy song song kẹp phía giữa là hai hàng tiếp điểm bằng kim loại dạng lò xo để tiếp xúc với chân cắm thanh RAM. Số tiếp điểm tương ứng với số chân trên thanh RAM. Bạn thử tham khảo cách người ta mô tả việc gắn bộ nhớ như sau: gắn DDR Module vào DIMM Slot (gắn thanh DDR vào khe cắm DIMM). SODIMM (Small Outline DIMM, DIMM có viền ngoài nhỏ) là dạng DIMM ngắn dùng trong máy tính xách tay. MODULE VÀ CHIP: Khi nói về bộ nhớ RAM, người ta phân biệt rõ module (thanh nhựa, hay gọi là bo mạch, có gắn các con chip) và chip (miếng silicon chứa mạch điện tử siêu nhỏ gắn trên thanh nhựa). Như vậy, DDR Module là thanh bộ nhớ DDR hoàn chỉnh, còn DDR chip là con chip bộ nhớ DDR. Việc xử lý dữ liệu nằm ở các con chip, còn các bo mạch (board) chỉ đơn thuần là giao diện kết nối và tiếp xúc. RAM: Random Access Memory (bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên) là nơi máy tính sử dụng để = 45 =
  46. lưu trữ tạm thời dữ liệu cho các chương trình đang chạy, hay các file đang mở để giúp CPU xử lý tốt nhất. RAM dùng để chỉ bộ nhớ chính của hệ thống. Thuật ngữ RAM còn được hiểu là Read-And-write Memory (bộ nhớ có thể đọc và ghi). Nghĩa là bạn có thể ghi dữ liệu vào RAM và đọc dữ liệu từ RAM. RAM phải được nuôi bằng nguồn điện. Khi máy tính tắt, các dữ liệu trong RAM cũng tiêu đời nhà ma. Nó trái ngược với bộ nhớ ROM. ROM: Đúng như tên cúng cơm của mình, Read Only Memory, ROM là dạng bộ nhớ chỉ có thể đọc dữ liệu chứa sẵn trong nó. Để nạp dữ liệu vào ROM, người ta cần phải dùng thiết bị chuyên dùng, gọi nôm na là “nạp ROM”. Nhờ vậy mà dữ liệu chứa trong ROM không bị mất đi dù cho máy tính ngưng hoạt động. Đây chính là dạng bộ nhớ dùng cho BIOS của bo mạch chủ. Các máy tính luôn có một lượng nhỏ ROM lưu giữ các lệnh cho việc khởi động hệ thống. DRAM: DRAM (đọc là đi-ram) viết tắt từ Dynamic Random Access Memory (bộ nhớ truy xuất ngẫu nhiên động). Đây là dạng RAM phải được phục hồi (hay còn gọi là làm tươi, refresh) thường xuyên theo các định kỳ. SRAM: Khác với DRAM, SRAM (Static Random Access Memory, đọc là éts-ram, bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên tĩnh) là một dạng bộ nhớ nhanh hơn và có độ tin cậy cao hơn DRAM nói chung. Thuật ngữ “tĩnh” là để chỉ việc bộ nhớ SRAM không cần phải được làm tươi (refresh) như DRAM. Vì sao nhanh hơn? Trong khi DRAM hỗ trợ thời gian truy cập khoảng 60 nanoseconds (ns), SRAM có thể cho phép truy cập với thời gian thấp chỉ 10ns. Thời gian chu kỳ (cycle time) của SRAM cũng ngắn hơn rất nhiều so với DRAM vì nó không cần phải “xả hơi” (pause) giữa các lần truy cập. Ngặt một nỗi là chi phí sản xuất SRAM đắt hơn DRAM rất nhiều nên nó chỉ được dùng làm bộ nhớ đệm (cache). SDRAM: Viết tắt từ Synchronous DRAM, SDRAM là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động đồng bộ. Đây là một dạng DRAM có thể chạy với các tốc độ xung nhịp (clock speed) cao hơn nhiều so với bộ nhớ thường. Chẳng hạn, SDRAM 133MHz có tốc độ nhanh hơn 3 lần FPM RAM cơ bản, hơn 2 lần so với EDO RAM và BEDO RAM. Gọi là đồng bộ vì SDRAM thật sự đồng bộ chính nó với bus của CPU. Một số kinh nghiệm cài đặt phần cứng = 46 =
  47. Phần cứng (hardware) nói chung là những thiết bị được gắn vào máy ví dụ như card màn hình, card âm thanh, modem, máy in, máy scan, webcam Để phần cứng hoạt động được chính xác, bạn cần phải cài đặt trình điều khiển thiết bị (driver) cho nó. Có những phần cứng không cần driver như ổ đĩa cứng (HDD), ổ đĩa mềm (HDD), ổ đĩa CD, Ram do BIOS của mainboard có thể tự nhận biết được. Để gắn thiết bị vào máy tính, chỉ cần trình độ trung bình là có thể gắn được. Có những thiết bị được gắn vào máy tính phía bên ngoài mà không cần mở thùng máy, tùy theo đầu cắm của thiết bị mà ta chọn cổng cắm thích hợp, là COM, LPT hoặc USB, không sợ nhầm vì các cổng này kích thước khác nhau. Có những thiết bị phải mở thùng máy mới gắn được, nhưng cũng không phức tạp lắm, chỉ cần chọn khe thích hợp với card phần cứng đó, và bạn cũng không sợ cắm lộn vì kích cỡ các khe này cũng khác nhau. Thông dụng có 3 loại khe cắm là ISA – màu đen, PCI – màu trắng và AGP – màu nâu (AGP chỉ dùng cho card màn hình, bạn phải xem tài liệu của mainboard để biết nó hỗ trợ 2X hoặc 4X, 8X). Khi gắn thiết bị vào hệ thống máy, bạn phải tắt máy, tắt nguồn điện và yêu cầu cắm chặt, cắm sát, bắt vít lại để cố định nó. Muốn xem các thiết bị phần cứng nào đã được cài đặt vào trong hệ thống thì bấm phím phải chuột vào My Computer trên Desktop, chọn lệnh Properties để mở cửa sổ System Properties, chọn thẻ Device Manager. Để các thiết bị phần cứng hoạt động chính xác, bạn cần cài đặt driver cho nó bằng một trong các cách sau: - Thông dụng nhất là đưa đĩa driver của phần cứng đó vào ổ CD, màn hình cài đặt sẽ tự động hiện lên. - Vào Start\ Settings\ Control Panel\ Add New Hardware, theo các bước hướng dẫn để cài đặt. - Trong hộp thoại System Properties, chọn thẻ Device Manager, chọn đối tượng phần cứng không thích hợp (là các đối tượng có dấu hiệu màu đỏ hoặc vàng phía trước, hoặc các đối tượng đã bị gỡ bỏ nhưng vẫn còn sót lại driver – đa phần là modem hay card màn hình), chọn lệnh Remove, rồi bấm lệnh Refresh, sẽ xuất hiện các bước hướng dẫn để bạn cài đặt. Bạn sẽ thấy cửa sổ cài đặt sau: = 47 =
  48. Điều chính yếu là bạn phải chọn đúng nhãn hiệu, đời của thiết bị phần cứng và chọn đúng driver cho bản Windows đang cài trên máy bạn. Ví dụ HP hay Epson? Nếu là HP thì HP nào, Laser hay Deskjet? 5L, 6L, 1100 hay 1200 ? Bạn đang dùng Windows nào? Win 95, 98, NT, Me, 2000 hay XP? Nguyên tắc chung như đã trình bày ở trên, nhưng đối với card màn hình và máy in thì có các bước cài đặt dễ dàng hơn. Với card màn hình, bạn bấm phím phải chuột vào Desktop, chọn lệnh Properties. Cửa sổ Display Properties xuất hiện, chọn thẻ Settings, bấm chọn Advanced , chọn thẻ Adapter, bấm Change, bạn sẽ thấy các cửa sổ cài đặt quen thuộc hiện ra. Với máy in, bạn vào Start\ Settings\ Printers, bấm đúp chuột vào Add Printer, bấm chọn Have Disk, chọn ổ đĩa chứa Driver của máy in đó. KHẮC PHỤC SỰ CỐ CỦA MÀN HÌNH VÀ CARD MÀN HÌNH Khi bật máy lên màn hình không chịu làm việc (màn hình trống với một màu đen thui, không có con trỏ) hoặc có hoạt động nhưng màu sắc bị sai lệch, có nhiều thứ bạn cần phải kiểm tra như: - Kiểm tra xem đầu cắm nguồn có bị lỏng lẻo không (cả đầu cắm với nguồn điện nhà hay với bộ nguồn của máy tính và đầu cắm vào màn hình). - Kiểm tra xem ổ điện nhà có tốt không (cắm đèn vào ổ xem có sáng lên không). - Kiểm tra đầu cắm cáp dữ liệu của màn hình xem có chân nào bị cong hay bị đẩy thụt vào bên trong không. Có thể có một số chân bị bỏ trống, điều đó cũng bình thường chứ không phải đầu cáp bị hư. Màn hình không sử dụng hết tất cả các chân trong một đầu cắm DB15. Nếu có chân nào bị cong, bạn có thể sử dụng một cây nhíp nhỏ để uốn thẳng lại. Phải thật thận trọng, chúng rất dễ bị gãy. = 48 =
  49. - Kiểm tra cáp màn hình để đảm bảo nó được gắn chặt và đảm bảo nó được siết ốc đủ chặt. Lắc lắc cả hai đầu mút của sợi cáp để kiểm tra xem cáp có bị “gãy ngầm” ở bên trong không. - Bạn cũng có thể dùng tay vỗ lên màn hình (nhưng đừng mạnh tay quá) để xem có bộ phận nào ở bên trong bị lỏng hay bị hở mạch không. Nên thận trọng vì nếu bạn vỗ mạnh có thể làm “tiêu” bóng đèn hình đó! - Một vấn đề thường gặp đối với màn hình là sự cố của chức năng tiết kiệm năng lượng mà nó thường được điều khiển bằng một rờ le (bạn có thể nghe được tiếng đóng mở khi nó hay mạch điện tử hỗ trợ của nó bị hư). Hầu hết các màn hình tiết kiệm năng lượng đều có một đèn LED, đèn sẽ chuyển sang màu xanh khi chúng nhận được tín hiệu từ máy tính và màu cam hay một màu khác khi chúng không nhận được tín hiệu từ máy tính. Một số sẽ hiển thị dòng chữ “No Signal” (không có tín hiệu) hay cái gì đó tương tự khi chúng được bật lên nhưng lại không phát hiện được tín hiệu từ máy tính. Thông thường, bạn có thể làm cho màn hình kết nối lại tín hiệu với máy tính bằng cách bật tắt công tắc nguồn của màn hình (nằm ở phía trước màn hình) lặp đi lặp lại vài lần hay nhấn và giữ nó một lát rồi thả ra và nhấn lại. - Vấn đề cũng có thể là do máy tính. Thử với một màn hình khác để xác định liệu vấn đề là do máy tính hay do chính màn hình. Hoặc thử màn hình của bạn với một máy tính khác. - Bạn cũng nên thử tháo vỏ máy ra và cắm lại card màn hình. Nếu bạn có một card màn hình AGP, bạn hãy dời bất kỳ card mở rộng nào khác (card âm thanh, card mạng, card modem ) trong khe cắm PCI bên cạnh khe cắm AGP sang một khe cắm PCI khác. Khe cắm đó thường dùng chung một đường ngắt (interrupt) với khe cắm AGP. - Thử một card màn hình khác. - Thông thường nếu card màn hình hay màn hình bị hư thì bạn sẽ nghe các mã hiệu báo lỗi bằng các tiếng bíp. Nếu màn hình không có tín hiệu từ máy tính và bạn cũng không nghe được tiếng bíp, bạn nên kiểm tra và cắm lại các thanh RAM. - Thử khởi động máy với cấu hình tối thiểu: bo mạch chủ (có nối với loa máy để có thể nghe được tiếng bíp nếu có lỗi ở card màn hình hay màn hình), CPU, bộ nhớ RAM và card màn hình. - Tham khảo các Website của hãng sản xuất card màn hình, bo mạch chủ, và màn hình để biết các vấn đề có liên quan và cách giải quyết. - Cuối cùng, nếu đã cố tới mức này mà không giải quyết được vấn đề, bạn nên nhờ đến các chuyên viên có tay nghề kiểm tra và sửa chữa giùm bạn. Tạo thêm một phân vùng mới trên ổ đĩa hiện có mà = 49 =
  50. không làm mất dữ liệu Trong bài viết này, tôi giới thiệu với các bạn cách tạo phân vùng mới trên ổ đĩa mà không ảnh hưởng gì tới dữ liệu hiện có của bạn bằng Paragon Partition Manager 5.5 nằm trên đĩa Hiren Boot CD 5.0 (để an toàn, bạn nên sao lưu dữ liệu trước khi thực hành). Nguyên lý làm việc: Giảm bớt size (dung lượng) của phân vùng được chọn và lấy phần thừa ra để tạo một phân vùng mới. Bước 1: Cho đĩa Hiren Boot vào ổ và khởi động bằng đĩa CD-ROM này. Ở menu chính, chọn Disk Partition Tools -> Paragon Partition Manager rồi đợi một lúc cho chương trình nạp vào bộ nhớ. - Chọn ổ đĩa vật lý bạn muốn chia trong khung Hard Disk (được đánh số thứ tự từ 0), ở đây tôi chọn ổ DISK 0 có dung lượng 9.766MB. - Chọn phân vùng trong bảng bên dưới. Chương trình sẽ liệt kê tất cả các phân vùng có trên ổ cứng bạn chọn với các thông tin: tên, định dạng, kích thước, dung lượng còn trống, dung lượng đã sử dụng, chế độ ẩn hiện và nhãn đĩa. Tôi chọn ổ D. Bước 2: Nhấp nút Ressize, trong bảng Ressize Partition chọn kích thước của ổ đĩa cần tạo thêm bằng cách kéo thanh trượt về phía trái. Phần phía bên phải chính là phần thừa ra để chuẩn bị tạo một phân vùng mới. Lưu ý: bạn chỉ giảm kích thước phân vùng xuống ngang bằng với dung lượng dữ liệu đang có. Sau khi chọn xong, nhấn OK và đợi chương trình hoàn tất công việc. Bước 3: Chọn phần thừa ra ở bước 2. Nhấn nút Create tạo phân vùng mới, nhấn Format để định dạng phân vùng. Điền đầy đủ các thông tin mà chương trình yêu cầu sau đó OK. Partition Magic 8.0 - Phân vùng đĩa cứng mà không làm mất dữ liệu = 50 =
  51. Partition Magic (PM) là một chương trình chuyên dùng để phân chia đĩa nổi tiếng (trước đây là của công ty PowerQuest nhưng đã sáp nhập vào công ty Symantec ngày 8-12-2003), rất được giới kỹ thuật viên máy tính và các “vọc sĩ” ưa chuộng vì tương thích với Windows XP Home/XP Pro/2000 Pro/NT WS/Me/98/ 95 và có khả năng phân chia lại đĩa mà không làm mất dữ liệu đang có . PM có các tính năng chính như sau: - Sao chép (copy), di chuyển (move), thay đổi kích thước (resize), chia tách (split) hay sáp nhập (merge) phân vùng (partition) mà không làm mất dữ liệu. - Hướng dẫn người dùng từng bước thao tác trong quá trình thực hiện. - Làm việc được với cả phân vùng của Windows và Linux để chuyển giao dữ liệu. - Cho phép tạo và điều chỉnh phân vùng trên 300GB. - Hỗ trợ ổ cứng rời kết nối qua USB 2.0/ 1.1 và FireWire (IEEE1394). - Hỗ trợ định dạng FAT, FAT32, NTFS, Ext2 và Ext3. - Chuyển đổi định dạng FAT, FAT32 và NTFS (không mất dữ liệu). - Thay đổi kích thước phân vùng NTFS mà không cần khởi động máy lại (đòi hỏi phải có 256MB RAM nếu phân vùng trên 120GB). Bạn có thể tìm mua PM (phiên bản mới nhất hiện nay là 8.05) trên đĩa CDROM ở các cửa hàng dịch vụ tin học. Sau khi cài vào Windows, bạn sẽ được hai chương trình: một chạy trong DOS (chương trình chính) và một chạy trong Windows. Nếu bạn muốn dùng PM để phân chia đĩa trong môi trường DOS (khi mua đĩa mới, khi điều chỉnh kích thước phân vùng khởi độ ng ), bạn chỉ cần chép các file cần thiết để chạy trong DOS gồ m: Mouse.com, Pqdata.002, PQMagic.exe, PQMagic.ovl, PQMagic.pqg, PQPB.rtc, Pmhelp.dat (dung lượng tổng cộng khoảng 1MB) từ các máy đã cài PM, rồi ghi chúng lên đĩa mềm hay đĩa CD khởi động. = 51 =