Nhập môn về Báo cáo tài chính

pdf 23 trang phuongnguyen 7010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nhập môn về Báo cáo tài chính", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnhap_mon_ve_bao_cao_tai_chinh.pdf

Nội dung text: Nhập môn về Báo cáo tài chính

  1. NHẬP MÔN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH Lấy từ "Tài chính và kế toán giành cho các nhà quản lý không chuyên về tài chính” của William G.Drams tái bản. Bản quyền năm 1989 - Nhà xuất bản Addison - Wesley • Các mục tiêu của kế toán tài chính • Ý kiến của người kiểm toán • Các báo cáo tài chính cơ bản • Giá trị kế toán của các chứng khoán • Báo cáo thu nhập • Báo cáo về sự thay đổi tình hình tài chính Các mục tiêu của kế toán tài chính Kế toán tài chính chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính. Trong phạm vi của các hướng dẫn dựa trên những nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP - Generally Accepted Accounting Principles), mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty cho các cổ đông hoặc những người cho vay hiện tại và tương lai, cho các nhà phân tích thị trường chứng khoán và cho các đối tượng khác có quan tâm. Các báo cáo tài chính thường được các kế toán viên công (CPAs - Certified Public Accountants) độc lập chứng thực sau khi nó được kiểm tra bằng cách dùng các tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận và (trong phần lớn các trường hợp) được dùng để trình bày một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty theo các nguyên tắc kế toán được thừa nhận Thuật ngữ “Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận” có thể gây ra ít nhiều tranh luận trong lĩnh vực kế toán tài chính. Mặc dù thuật ngữ này đã được dùng phổ biến trên 3 thập kỷ qua, nhưng dường như đó vẫn chưa phải là cách định nghĩa duy nhất hoặc liệt kê đầy đủ mọi nguyên tắc có khả năng được các nhà lý thuyết và thực hành nhất trí thừa nhận. Với tư cách là một định nghĩa để làm việc, chúng ta có thể sử dụng cách nói sau đây về GAAP: GAAP: là một hệ thống các mục tiêu, quy ước và nguyên tắc, được đúc kết qua nhiều năm, chi phối quá trình chuẩn bị và trình bày các báo cáo tài chính. Các nguyên tắc này áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính, tách biệt với các lĩnh vực khác của kế toán như kế toán thuế, kế toán quản lý và kế toán chi phí. Do lĩnh vực kế toán tài chính được coi như là một khoa học xã hội chứ không phải là khoa học
  2. vật lý, nên điều quan trọng cần chú ý là định nghĩa trên nhấn mạnh tới tính chất tiến hoá của các quy tắc và các quy chế kế toán. GAAP còn tuỳ thuộc vào nhiều cách giải thích và áp dụng khác nhau, và rất có thể trong cùng một ngành, hai công ty khác nhau có thể tiến hành hạch toán cùng một hoạt động giao dịch theo những cách khác nhau tuy cả hai đều nhằm trong phạm vi hướng dẫn do GAAP đưa ra. Chẳng hạn, trong phạm vi của lĩnh vực kế toán khấu hao, một công ty có thể hạch toán hao mòn các thiết bị tư bản của nó trên cơ sở tuyến tính, trong khi công ty khác trong cùng ngành lại hạch toán theo phương pháp khấu hao nhanh. Bản thân khấu hao là một chủ đề tương đối phức tạp và phần này sẽ được giải quyết chi tiết hơn trong chương 5. Hiện tại, ta chỉ cần nhận xét rằng kế toán khấu hao th ực ra chỉ là những phương tiện để phân bổ phần hao phí của các tài sản lâu bền theo một số kỳ hạch toán có sử dụng tài sản đó. Hiện có một số nguồn thông tin đáng tin cậy cho chúng ta những hướng dẫn chi tiết để xây dựng một phương pháp kế toán chấp nhận được. Các nguyên tắc này có thể tạm coi là hệ thống các “quy tắc” chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính. Phần chủ yếu trong số các quy tắc này là do Viện đào tạo các k ế toán viên công (AICPA - American Institute of Certified Public Accountants) xây dựng 51 chuyên san nghiên cứu kế toán (ARBs - Accounting Research Bullentins) do AICPA phát hành và 31 luận đề trong các bảng nguyên tắc kế toán của AICPA (APB - Accounting Principles Board) là một bộ tài liệu chi tiết về quan điểm của Viện trên một phạm vi rất rộng lớn các vấn đề về kế toán. Mỗi luận đề của APB đề cập tới một chủ đề chuyên môn hóa và đưa ra hướng dẫn chi tiết về lĩnh vực này. Chẳng hạn, luận đề số 15 của APB đề cập tới cách tính toán và trình bày về mức tiền lãi ban đầu. Theo hướng tương tự, ủy ban chứng khoán và hối đoái (SEC - Securities and Exchange Commission) đã đưa ra khá nhiều chỉ dẫn dưới hình thức những giải đáp tuần tự về kế toán (Accounting Series Release). Mới đây nhất, bảng các tiêu chuẩn kế toán tài chính (FASB - Financial Accounting Standards Board) thay thế cho APB vào năm 1973 đã đưa ra một loạt luận đề về FASB đáp ứng cho yêu cầu liên tiếp của các nhà kế toán và phân tích tài chính cần làm sáng tỏ đầy đủ tình hình tài chính của mỗi công ty. Một số luận đề đầu tiên của FASB như luận đề FASB số 8 đề cập tới vấn đề lỗ lãi ngoại tệ và FASB số 13 đề cập tới vấn đề kế toán cho thuê đã có ảnh hưởng lớn tới cách báo cáo và diễn giải các thông tin tài chính công ty. Một danh mục tóm tắt tiện lợi nhưng tất nhiên không phải là đầy đủ tất cả các nguồn thông tin về các “quy tắc” kế toán là:
  3. • Những giải đáp tuần tự về kế toán của SEC (SEC Accounting Series Release); • Các chuyên gia nghiên cứu kế toán của AICPA (AICPA Accounting Research Bulletins - ARB); • Bảng các nguyên tắc kế toán của AICPA (AICPA Accounting Principles Board-APB); • Bảng các tiêu chuẩn kế toán tài chính (Financial Accounting Standards Boards - FASB). Cuối cùng, nhận xét về định nghĩa của GAAP, chúng tôi muốn lưu ý rằng GAAP chí áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính chứ không d ù ng cho các lĩnh vực kế toán chủ yếu khác như kế toán thuế, quản lý và chi phí. Các lĩnh vực kế toán này có những mục tiêu khác và do đó không nên hi vọng là chúng có thể thích hợp với hệ thống các nguyên tắc thiết kế nhằm đáp ứng những nhu cầu của kế toán tài chính. Nói một cách nôm na thì mục tiêu của kế toán thuế là nhằm cực tiểu hóa nghĩa vụ đóng thuế của công ty trong phạm vi những giới hạn của các luật thuế thu nhập hiện hành. Trong khi mục tiêu của kế toán quản lý là để thu thập, báo cáo và giải thích những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định quản lý. Còn trong kế toán chi phí, mục tiêu chủ yếu là xác định và phân bố các chi phí thích hợp trong tổ chức kinh doanh. Những mục tiêu khác nhau này rõ ràng là khá đa dạng và người ta cần phải tìm ra nhiều biện pháp kỹ thuật khác biệt cho các lĩnh vực khác nhau. Như vậy, rất dễ hiểu đối với hiện tượng này là cùng một hoạt động giao dịch nhưng lại được kế toán theo những cách khác nhau. Một lần nữa, lại có thể thấy ví dụ rõ nhất về tính đa dạng này là trong lĩnh vực kế toán khấu hao. Một điều rất phổ biến là các công ty thường sử dụng phương pháp khấu hao tuyến tính trong các báo cáo tài chính của họ nhằm trình bày rõ ràng các kết quả hoạt động trong năm cho các cổ đông, trong khi đồng thời lại báo cáo dưới dạng khấu hao nhanh cho Sở thuế vụ để cực tiểu hóa nghĩa vụ đóng thuế hiện tại của công ty. Tất nhiên, cách khấu hao nhanh không cho phép công ty lẩn tránh được việc nộp thuế nhưng nó cho phép hoãn nghĩa vụ nộp thuế sang một thời kỳ tương lai và cung cấp thêm nguồn quỹ cho việc tái đầu tư hiện tại - nói tóm lại, thời gian là tiền bạc. Ở đây, ta càng thấy rõ ràng một lĩnh vực dường như hoàn toàn chính xác là kế toán lại phụ thuộc vào mức tự do diễn giải nào đó. Điều này tự nhiên làm cho người ta phải suy xét tới tầm quan trọng của sự hiểu biết về “bản chất của con mồi” trước khi tiến hành thảo luận về những loại hình báo cáo tài chính khác nhau hoặc khai
  4. thác những phương pháp - kỹ thuật kế toán máy móc. Do đó, bây giờ, chúng ta hãy tập trung sự chú ý vào ý nghĩa và tầm quan trọng trong ý kiến của một nhà kiểm toán và nghệ thuật tinh tế trong việc đọc lời chú thích. Ý kiến của người kiểm toán Cách tốt nhất để bắt đầu thảo luận về ý kiến của nhà kiểm toán là xem xét cái gọi là “một ý kiến rõ ràng”. Minh họa 3.1 thể hiện một ý rõ ràng (chỗ nhấn mạnh là do tác giả thực hiện). Ít nhất thì việc ghi nhận xem điều gì không được nói tới trong minh hoạ 3.1 cũng quan trọng như việc ghi nhận điều được nói đến. Nó không nói rằng tất cả các hoạt động giao dịch đều được kiểm toán, nó không chứng thực độ chính xác của các báo cáo, nó không nói rằng công ty được quản lý tốt và rằng các cổ đông không phải lo ngại về khoản đầu tư của họ. Nó không nói rằng những người kiểm toán tin tưởng là không thể có một diễn giải sai hoặc một sự gian lận nào. Thậm chí nó cũng không cho biết, liệu công ty có khả năng sinh lợi hay không. Không có một điểm nào trong số các quan sát này có ý nghĩa là sự phê phán của các kiểm toán viên - chẳng qua họ chỉ phản ánh bản chất của kiểm toán và tình trạng của các đối tượng trong kế toán. Vì có những vấn đề phức tạp trong thế giới kinh doanh hiện đại và những giới hạn của thời gian và nguồn lực trong quá trình kiểm toán, những ý kiến mà các kiểm toán viên nêu ra là rất đầy đủ. Trừ trường hợp người ta sẵn sàng chấp nhận lùi thời hạn sau một năm hoặc hơn nữa giữa lúc chuẩn bị báo cáo tài chính và lúc hoàn thành việc kiểm toán, còn nếu không thì phải đánh giá là các mục tiêu của quá trình kiểm toán có lẽ là quá tham vọng. Những điều được nêu trong báo cáo của minh họa 3.1 rất có ý nghĩa cho những người sử dụng các báo cáo tài chính. Đoạn đầu tiên được gọi là phạm vi, chỉ rõ những báo cáo nào đã được kiểm toán và thông báo cho người đọc các tiêu chuẩn được thừa nhận về kiểm toán đã được tuân thủ, và rằng những biện pháp kiểm định được người kiểm toán xem là cần thiết đã được thực hiện. Cần thấy rõ rằng không thể thực hiện được việc kiểm toán hoàn hảo đối với mọi hoạt động giao dịch đơn lẻ ở một công ty lớn, trong phạm vi thời gian và kinh phí có hạn. Do đó, người ta phải bằng lòng với việc tuân theo các chỉ tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận và với việc hoàn thành những biện pháp kiểm định “cần thiết”. Tương tự, trong đoạn thứ hai được gọi là phần ý kiến, người ta phải bằng lòng với ý kiến (chứ không phải là lời xác nhận) rằng các báo cáo “trình bày rõ” tình hình tài chính của công ty, phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận.
  5. Minh họa 3.1 Kính gửi: Các cổ đông và Ban giám đốc công ty XYZ. Chúng tôi đã xem xét báo cáo tình hình tài chính của công ty XYZ và các chi nhánh hợp nhất cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1983 và năm 1982 cùng các báo cáo có liên quan tới số tiền lãi vãng lai, còn lại và những thay đổi về tình hình tài chính vào lúc kết thúc của các năm. Việc xem xét của chúng tôi đã được tiến hành theo các tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận, bao gồm kiểm định về các hồ sơ kế toán và những thủ tục kiểm toán khác mà chúng tôi cho là cần thiết trong trường hợp này. Theo ý kiến của chúng tôi, các báo cáo tài chính nói trên trình bày rõ tình hình tài chính của công ty XYZ và các chi nhánh hợp nhất cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1983 và 31 tháng 12 năm 1982 cùng các kết quả hoạt động của họ cũng như những thay đổi về tình hình tài chính vào cuối các năm, phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận được áp dụng trên một cơ sở phù hợp. Các kế toán công Credit và Debit, Inc Một loại ý kiến khác với các “ý kiến rõ ràng” được gọi là “ý kiến dè dặt” và thường chỉ ra rằng có sự nghi ngờ nào đó là trên thực tế không biết báo cáo tài chính đã được kiểm tra có trình bày rõ về tình hình tài chính của công ty hay không? Nếu ý kiến dè dặt này được nêu ra thì một điều quan trọng đối với những người sử dụng báo cáo tài chính này là họ phải có sự phán xét độc lập về ý nghĩa của nhận xét dè dặt có liên quan tới tình trạng của công ty không. Việc đọc cẩn thận nhận xét này có ý nghĩa quan trọng để biết chắc rằng, người đọc hiểu rõ sự cấp bách của vấn đề. Đoạn trích sau đây rút ra từ một ý kiến dè dặt về bản báo cáo hàng năm của một công ty với tổng số tài sản xấp xỉ 9,5 triệu $, là một thí dụ tốt về nhận xét dè dặt. “Khi xem xét đầy đủ hơn điểm lưu ý thứ hai của báo cáo tài chính ngày 31/10/19 , các phiếu nợ và lãi cộng dồn của công ty Manufacturing Corporations tổng cộng đã lên tới xấp xỉ 800.000 $. Việc thu hồi phần tài sản này phụ thuộc vào giá trị thuần túy có thể thực hiện được của phần tài sản bị cầm cố như đồ ký gửi hoặc phụ thuộc vào thành tích hoạt động trong tương lai của Manufacturing Corporations”. Nói cách khác, trong số tổng tài sản 9,5 triệu $ được tuyên bố của công ty thì gần 800.000 $ hay 8,5 % là do khoản cho vay phải thu nhưng có lẽ không thể thu
  6. hồi được! Khi thẩm tra đôi chút, người ta có thể nhận ra qua điểm lưu ý thứ hai của báo cáo tài chính là công ty Manufacturing Corporations đã bị lưu ý về các khoản nợ, nó đang hoạt động thua lỗ với tài khoản cổ phần của các cổ đông bị thâm hụt và hiện nay đang tiến hành thương lượng để tái lập các thỏa thuận về nợ. Như vậy, bằng cách phân tích tình trạng nợ của công ty, có lẽ khôn ngoan là nên tính tổng giá trị tài sản của công ty là 8.700.000 $ chứ không phải là 9.500.000 $. Tinh thần của câu chuyện ngắn này là cần phải thận trọng khi đọc tới diễn giải ý kiến của người kiểm toán. Cũng cần phải thận trọng khi đọc các chú thích trong các báo cáo tài chính. Các chú thích là một bộ phận không tách rời được của các báo cáo tài chính và cho ta một tóm tắt quan trọng và hữu ích về các chính sách kế toán của công ty. Ngay cả khi đối với một người không phải là nhà phân tích tài chính chuyên môn thì việc đọc qua các chú thích dẫu chỉ để có một cảm nghĩ vắn tắt về các chính sách kế toán của công ty cũng sẽ có nhiều ý nghĩa. Khi đã nắm được những thông tin này, người ta có thể sẵn sàng tiến hành việc xem xét kỹ tất cả các báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính cơ bản Minh họa 3.2 đưa ra một bảng cân đối kế toán điển hình của một công ty chế tạo. Có thể hình dung bảng cân đối kế toán là một “bức ảnh chụp nhanh” về tình trạng tài chính của công ty vào thời điểm đang xét. Theo ngôn ngữ của nhà kinh tế, bảng cân đối kế toán là một báo cáo hàng tồn trữ do nó thể hiện lượng tồn trữ của các khoản có, khoản nợ và các cổ phần vào các thời điểm xem xét - trong trường hợp này là ngày 31/12/1983 và năm 1982. Bảng cân đối kế toán có ba phần chính: các tài sản được liệt kê ở phía trái; các khoản nợ được liệt kê ở phía phải; và các cổ phần cũng được liệt kê ở phía phải. Hai phía đó của bảng cân đối kế toán phải bằng nhau - đó là logic căn bản của cách thể hiện bảng cân đối kế toán. Các tài sản của bảng cân đối liệt kê tổng các nguồn lực của công ty dưới dạng dollar. Ở đây, ta thấy các khoản mục như tiền mặt, các khoản phải thu, nhà máy và thiết bị, tài sản dưới dạng các khoản cho thuê vốn và các nguồn lực kinh doanh khác. Phía phải của bảng cân đối liệt kê những yêu cầu đặt ra đối với bên tài sản. Các khoản nợ như các khoản nợ phải trả, các phiếu nợ phải trả, nghĩa vụ trả nợ các hợp đồng thuê vốn và các khoản nợ dài hạn thể hiện những yêu cầu đòi nợ của những người cho vay khác nhau đối với các loại tài sản này. Phần trội hơn của các tài sản so với những yêu cầu đòi nợ của những người cho vay thể hiện phần giá trị thuần túy thuộc về những người sở hữu công ty. Giá trị thuần túy này được biểu thị trong phần vốn cổ phần của bảng cân đối. Như vậy, nhìn toàn cục, bảng cân đối cho ta một bản liệt kê chi tiết các tài khoản cấu thành của cái gọi là phương trình kế toán cơ bản sau đây:
  7. Các tài sản = Các khoản nợ + Các cổ phần hay là: Tổng các nguồn lực của doanh nghiệp = Quyền của những người cho vay + Quyền của những người sở hữu. Như vậy, ta có thể thấy từ minh họa 3.2, bảng cân đối - hay bản báo cáo tình trạng tài chính, như người ta thường gọi, được phân loại theo cơ cấu logic tổ chức. Phần tài sản lưu động bao gồm khoản tiền mặt và các loại tài sản khác, thường có thể chuyển đổi được thành tiền mặt trong vòng một năm hoặc một chu kỳ hoạt động nào đó. ở đây ta có thể liệt kê các loại tài sản như các chứng khoán bán trên thị trường, các khoản phải thu và các khoản dự trữ. Các chứng khoán bán được trên thị trường là các khoản đầu tư tiền mặt ngắn hạn với độ cơ động cao, có các loại chứng khoán ít rủi ro như các chứng khoán Mỹ hoặc các trái phiếu chính phủ. Các khoản đầu tư vào các chứng khoán bán được trên thị trường thường ghi trên bảng cân đối kèm theo một khoản chi và với giá trị trên thị trường của những chứng khoán đó được liệt kê trong phần chú thích của các báo cáo tài chính. Minh họa 3.2 Liên hiệp các nhà sản xuất công nghiệp HOYA, INC Báo cáo tình hình tài chính 31 - 12 1983 ($) 1983 ($) Các tài sản Tiền mặt 315.000 297.000 Các chứng khoán bán được 57.000 25.000 Các tài khoản sẽ nhận được 2.594.000 2.117.000 Dự trữ 2.257.000 1.986.000 Tổng tài sản lưu động 5.223.000 4.485.000 Nhà máy và thiết bị 3.621.000 3.231.000 Các tài sản khác 526.000 609.000 Tổng tài sản cố định 4.147.000 3.840.000 Tổng tài sản 9.370.000 8.325.000 Nợ và cổ phần
  8. Các khoản phải trả 696.000 874.000 Các phiếu nợ phải trả 1.645.000 965.000 Chi cộng dồn phải trả 628.000 553.000 Thuế cộng dồn phải trả 340.000 308.000 Tổng nợ ngắn hạn 3.309.000 2.700.000 Nợ dài hạn 1.695.000 1.429.000 Tổng số nợ 5.004.000 1.429.000 Cổ phần của các cổ đông Cổ phần ưu đãi (ngang giá100$,6%) 425.000 579.000 Cổ phần thường (ngang giá 5 $ ) 520.000 510.000 Thặng dư vốn góp 420.000 405.000 Lãi còn giữ lại 3.001.000 2.684.000 Tổng cổ phần của cổ đông 4.336.000 4.196.000 Tổng số nợ và cổ phần 9.370.000 8.325.000 Các khoản phải thu là các khoản tiền người ta nợ công ty, do hàng hoá đã được chuyển giao (hoặc các dịch vụ đã được thực hiện) nhưng công ty vẫn còn chưa được trả tiền về các khoản đó. Con số về các khoản phải thu được liệt kê trên bảng cân đối sau khi trừ đi khoản khất nợ. Khoản khất nợ thể hiện sự ước tính của công ty, dựa trên kinh nghiệm trước đây về tổng số tiền phải thu mà sẽ không thu được. Tổng số khoản khất nợ này thường được ghi trong phần chú thích. Cho tới giờ, chúng ta thấy các tài sản lưu động được liệt kê theo thứ tự của mức cơ động gần hay xa so với tiền mặt. Khoản kém cơ động nhất của tài sản lưu động là các khoản dự trữ được liệt kê sau cùng trong phần này. Đối với một nhà sản xuất công nghiệp, các khoản dự trữ gồm ba bộ phận - đó là nguyên vật liệu thô, sản phẩm dở dang và thành phẩm: Để tính toán chi phí nhằm đánh giá lượng dự trữ, cần phải phân bổ sản xuất và các phí tổn khác cho các khoản dự trữ khi các khoản đó chuyển từ giai đoạn nguyên liệu thô sang giai đoạn thành phẩm. Kế toán dự trữ là một chủ đề khá phức tạp và sẽ được đề cập chi tiết hơn ở chương 5. Còn ở đây chúng ta chỉ cần biết rằng, nói chung dự trữ được đánh giá theo giá thị trường hoặc theo chi phí tuỳ theo mức giá nào thấp hơn. Các chi tiết về phương pháp đánh giá dự trữ mà mỗi công ty cụ thể sử dụng, nói chung đều được ghi cho các chú thích ở các báo cáo tài chính của công ty.
  9. Phần cuối cùng ở phía tài sản của bảng cân đối k ế toán liệt kê phần đầu tư của công ty vào các tài sản sử dụng lâu dài như đồ đạc, nhà máy và thiết bị. Các tài sản này kém cơ động nhất khi so sánh với các tài sản lưu động và được công ty sử dụng qua một thời gian dài. Phương pháp được thừa nhận để đánh giá tài sản cố định là liệt kê các tài sản này theo giá trị lịch sử rồi trừ đi các khoản khấu hao tích luỹ cho tới ngày lập bảng cân đối. Khoản khấu hao tích luỹ, đã được “khấu trừ đi” khỏi giá trị lịch sử để còn lại cơ sở tài sản cố định hiện tại của công ty. Các chi tiết có liên quan tới chính sách khấu hao của công ty được nêu trong phần chú thích ở các báo cáo của công ty. Phía phải của bảng cân đối, tức là các khoản nợ và các cổ phần cũng thực hiện theo một khuôn khổ tổ chức có logic chặt chẽ. Các khoản nợ ngắn hạn tức là các khoản nợ sẽ phải trả trong vòng một năm hoặc trong vòng một chu kỳ hoạt động, sẽ được liệt kê đầu tiên. Các khoản nợ này, bao gồm các khoản mục như các khoản phải trả cho những cơ sở cung ứng cho công ty, các phiếu nợ ngắn hạn phải thanh toán, phần nợ đã đến lúc phải trả ở bất kỳ khoản nợ dài hạn nào và các khoản chi tiêu khác nhau dồn lại. Các khoản chi tiêu dồn lại nói chung là các khoản chi tiêu đã diễn ra cho tới ngày lập bản cân đối nhưng vẫn còn chưa được thanh toán bằng tiền mặt. Các khoản mục như tiền lương và tiền công phải trả cho công nhân, tiền trả lãi đi vay nợ, các khoản chi tiêu công cộng tính dồn và các khoản mục tương tự sẽ được ghi vào phần chi tiêu này. Một yếu tố hết sức quan trọng của bảng cân đối là mối quan hệ của các tài sản lưu động . Các tài sản lưu động là các tài sản có khả năng biến thành tiền mặt trong vòng một năm còn các khoản nợ ngắn hạn là những nghĩa vụ trả nợ cần phải trả bằng tiền mặt trong vòng một năm. Khá rõ ràng là mối quan hệ này có tầm quan trọng trong việc phán xét về tính cơ động tài chính ngắn hạn của công ty (tính cơ động ngắn hạn về tài chính là khả năng của công ty trong việc đáp ứng nghĩa vụ trả nợ hiện tại khi chúng tới hạn phải trả). Phần trội hơn của tài sản lưu động so với nợ ngắn hạn được gọi là vốn lưu động ròng của công ty. Đối với phần lớn các công ty, theo kinh nghiệm thường là phần tài sản lưu động cần phải gần gấp đôi so với phần nợ ngắn hạn . Dễ thấy tại sao nên có mối liên hệ như vậy. Trước hết cần phải thấy rằng, vốn hoạt động thể hiện “vốn chu chuyển ” của một công ty kinh doanh. Các chứng khoán có thể bán được trên thị trường, các khoản phải thu và các khoản dự trữ được tiếp tục chuyển thành tiền mặt trong tiến trình hoạt động kinh doanh bình thường. Số tiền mặt này sau đó được dùng để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đã đến hạn
  10. hoặc được tái đầu tư vào các khoản dự trữ mới, vào các khoản phải thu và với tư cách là khoản cân đối tiền mặt còn dư được tích luỹ lại dưới dạng các chứng khoán có thể bán được trên thị trường . Đồng thời, các khoản nợ ngắn hạn mới xuất hiện khi tăng cường kinh doanh và khi đầu tư bổ sung vào các tài khoản vãng lai, cụ thể các khoản phải trả thường được coi như phần trạng thái tài chính tự phát vì chúng xuất hiện một cách tự phát cùng với các khoản mua dự trữ thường được ghi trên các tài khoản mở. Khi biết trước rằng có những độ trễ khác nhau trong khi chuyển các tài khoản dự trữ thành các khoản phải thu và sau đó thành tiền mặt và khi đã biết sự cần thiết phải thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đến hạn thì cách giải quyết khôn ngoan là nên duy trì một lề an toàn của các tài sản lưu động so với các khoản nợ ngắn hạn. Một lề an toàn thứ hai là do chính bản chất của bản thân các tài sản lưu động : Các chứng khoán có khả năng bán được trên thị trường có thể bị giảm giá trị thị trường một cách tạm thời hoặc thậm chí vĩnh viễn. Các khoản phải thu cũng có xác suất tổn thất do phần khất nợ không thể thu hồi. Cuối cùng, các khoản dự trữ có thể hư hỏng về mặt vật lý, không thể bán được và giảm giá trị thị trường. Nhằm để cân đối những phần giảm bớt giá trị tài sản có thể nảy sinh, trong khi yêu cầu trả nợ đầy đủ theo kỳ hạn vẫn không đổi đòi hỏi phải có một lề an toàn của tài sản so với số nợ. Những yêu cầu với lề an toàn này, cùng với yêu cầu về lề an toàn đã nói ở trên, đòi hỏi các tài sản lưu động phải vượt hơn các khoản nợ ngắn hạ n. Kinh nghiệm cho thấy rằng tỷ lệ hay là lề (margin) 2 trên 1 là thích hợp cho nhiều loại hình công ty. Nói tóm lại: Vốn lưu động ròng = Vốn luân chuyển = Tài sản lưu động - nợ ngắn hạn Vốn hoạt động của liên hiệp các nhà chế tạo - Công nghiệp Hoya (năm 1983) = 5.223.000$ - 3.309.000$ = 1.914.000$ Bộ phận thứ hai trong phía nợ và cổ phần trên bảng cân đối là các khoản nợ dài hạn. Bộ phận này ghi nhận bất kỳ một khoản nợ dài hạn nào đối với các ngân hàng hoặc các chủ nợ khác và bất kì nghĩa vụ trả nợ nào theo các hợp đồng thuê vốn. Những thông tin chi tiết về các đặc điểm cụ thể của các khoản nợ dài hạn được ghi trong các chú thích của các báo cáo tài chính. Phần cuối cùng trong bảng cân đối là cổ phần của các cổ đông hay vẫn thường gọi là giá trị thuần tuý của công ty. Qua đây, người ta biết được quyền lợi của các chủ sở hữu công ty được biểu hiện qua các loại cổ phần hay cổ phiếu khác nhau. Cổ phiếu ưu đãi được ưu tiên hơn so với các cổ phần hay cổ phiếu khác. Hầu hết các cổ
  11. tức của cổ phiếu ưu đãi đều là cộng dồn, tức là nếu không trả cố tức vào một năm nào đó thì cổ tức đó được coi là nợ còn khất lại và phải trả hết trước khi có thể trả cổ tức cho cổ phiếu thường. Trong trường hợp, liên hiệp các nhà công nghiệp chế tạo Hoya, loại cổ phiếu ưu đãi mệnh giá $ 100 và 6% nghĩa là cổ phiếu đó được bán với giá 100$ một cổ phần và có cổ tức là 6% hay 6 $ một năm. Công ty luôn phải trả cổ tức ưu đãi này trước khi trả bất kỳ cổ tức cổ phiếu thường nào. Ba tiểu mục sau trong phần cổ phần là quyền lợi của các cổ đông thường trong công ty. Khác với cổ phiếu ưu đãi, mệnh giá của cổ phiếu thường không có ý nghĩa kinh tế cụ thể mà chỉ đơn thuần là kết quả cần cho sổ sách kế toán. Khi bán cổ phiếu thường thì phải ghi vào sổ sách công ty theo một giá trị “hợp pháp” hay thường được gọi là mệnh giá hay giá trị định sẵn của nó. Tuy vậy, số tiền bỏ ra để mua cổ phiếu lại do những đánh giá tổng thể về giá trị công ty của các nhà đầu tư quyết định chứ không phải là theo yêu cầu sổ sách của công ty. Vì ở hầu hết các bang, luật pháp qui định các công ty không được bán cổ phiếu dưới mệnh giá của nó nên các công ty thường đặt mệnh giá cổ phiếu thường của họ khá thấp. Khoản chênh lệch giữa giá bán cổ phiếu và mệnh giá được gọi là thặng dư vốn góp hay thặng dư vốn. Vì thuật ngữ thặng dư thường làm người ta hiểu nhầm nên ở trong hầu hết các báo cáo tài chính, nó thường được thay bằng một cụm từ “số góp vượt quá mệnh giá”. Với công ty liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya, các con số trong bảng cân đối cho chúng ta biết rằng có dư ra 104.000 cổ phiếu (trị giá 520.000$ chia cho mệnh giá $ 5 cho mỗi cổ phần) và những cổ phần này được công ty bán ra với số tiền tổng cộng là $940.000 ($520.000 mệnh giá + $420.000 thặng dư vốn góp). Khoản cổ phần của cổ đông thường cuối cùng là lợi nhuận còn giữ lại. Con số này thể hiện thu nhập công ty dùng để tái đầu tư mà không chi trả dưới dạng cổ tức theo thời gian. Những khoản thu nhập này hoàn toàn thuộc về cổ đông thường và thể hiện mức gia tăng lãi cổ phẩn của họ theo thời gian. Điều quan trọng cần phải ghi nhớ là sự khác biệt rất lớn ở đây giữa cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường. Cổ phiếu ưu đãi có quyền ưu tiên được yêu cầu lấy $ 6 cổ tức hàng năm của mình và được ưu tiên nhận phần chia giá trị tài sản khi có thanh lý. Bù lại phần ưu tiên của mình, cổ phiếu ưu đãi phải từ bỏ quyền đòi hỏi hưởng số thu nhập vượt quá số $ 6 cho mỗi cổ phần mà nó lẽ ra được hưởng. Những khoản thu nhập bổ sung này được chuyển thành các khoản lợi tức của các cổ đông thường. Để có được phần lợi này, cổ đông thường phải chấp nhận rủi ro do giá trị cổ phiếu thay đổi. Nếu thu nhập còn lại sau khi chi trả mọi chi phí và cổ tức của cổ phần ưu đãi không đủ để trả cho các cổ đông thường, thì không có cổ tức nào của cổ phiếu thường được chi trả cả. Tương tự như vậy, nếu một công ty bị thua lỗ trong một năm nào đó, số tiền thua lỗ này được
  12. khấu trừ từ khoản thu nhập còn giữ lại và cổ phần của cổ đông thường giảm xuống. Như vậy, cổ phần của các cổ đông thường đôi khi được gọi là “nệm cổ phần” của công ty. Một chi tiết cần chú ý: kết luận trong mục cổ phần của các chủ sở hữu trong bảng cân đối là hình thái tổ chức của doanh nghiệp. Hình thái tổ chức của doanh nghiệp được phản ánh trong cách trình bày cổ phần của những người sở hữu. Các báo cáo tài chính của Liên hiệp các nhà sản xuất công nghiệp Hoya minh hoạ hình thái tổ chức phổ biến nhất: đó là công ty liên hiệp. Có hai hình thái khác cũng có thể đáng quan tâm: quyền sở hữu duy nhất (chủ nhân duy nhất) và hợp doanh. Nói chung, các hình thái sở hữu này được phản ánh bằng một phương pháp trình bày đơn giản hơn trong cổ phần. Trong trường hợp quyền sở hữu duy nhất, toàn bộ phần cổ phần có thể trình bày như cổ phần của người sở hữu duy nhất trong doanh nghiệp. Do đó, nếu Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya - Joseph Hoya sở hữu thì lãi cổ phần của ông ta vào cuối năm 1983 sẽ có thể được thể hiện như sau: Joseph Hoya, vốn 4.366.000 $ Nếu liên hiệp này được tổ chức như một hợp doanh có quyền sở hữu chung và Joseph Hoya và Jennifer Saxa là đối tác bình đẳng như nhau thì phần cổ phần của người sở hữu sẽ có dạng như sau:> Joseph Hoya, vốn 2.183.000 $ Jennifer Saxa, vốn 2.183.000 $ hhhhhhhhbbbhhhhhhhhh ___ hhhhhhhhhhbb hh 4.366.000 $ Tất nhiên, một tổ chức doanh nghiệp với quy mô như Hoya hầu như sẽ được tổ chức một cách bất biến như một công ty Liên hiệp do có những lợi thế về thuế và trách nhiệm pháp lý hữu hạn. Quyền sở hữu duy nhất và hợp doanh thường được thấy trong các công ty kinh doanh nhỏ và trong các tổ chức chuyên môn như các công ty luật, các công ty kế toán công chứng (CPA) và các công ty tương tự. Giá trị kế toán của các chứng khoán Một khoản mục đáng quan tâm cuối cùng trong bảng cân đối kế toán là giá trị kế toán thuần túy hoặc giá trị tài sản thuần túy các chứng khoán của công ty. Giá trị kế toán thuần túy hoặc giá trị tài sản thuần túy của một trái phiếu, một cổ phần ưu
  13. đãi hoặc một cổ phần thường là những giá trị tài sản của công ty mà theo đó, mỗi loại chứng khoán có quyền đòi hỏi thanh toán dựa trên giá trị kế toán của các tài sản này. Giá trị kế toán thể hiện giá trị một tài sản được ghi nhận trên bản cân đối (“trên sổ sách kế toán”) của công ty. Nói một cách khác, giả sử rằng tất cả các tài sản đều có thể bán được theo giá trị kế toán và toàn bộ khoản nợ ngắn hạn đều được thanh toán. Khi đó giá trị tài sản thuần túy hoặc giá trị kế toán thuần túy là giá trị tính bằng dollar của các tài sản còn lại để sẵn sàng trả cho mỗi loại chứng khoán xét theo thứ tự ưu tiên của nó trong thanh toán - trước hết là các trái phiếu sau đó đến các cổ phần ưu đãi và tiếp đó đến các cổ phần thường. Có lẽ cách tốt nhất để hiểu về giá trị kế toán là thông qua một ví dụ. Giả sử rằng, khoản nợ dài hạn 1.695.000 $ của Hoya bao gồm 1695 trái phiếu với mỗi trái phiếu có giá trị phát hành 1000 $, khi đó, giá trị tài sản thuần túy tính cho mỗi trái phiếu được xác định như sau: Giá trị tài sản thuần túy cho một trái phiếu: Tổng tài sản 9.370.000 $ Trừ đi: nợ ngắn hạn (3.309.000 $) Tài sản thuần túy sẵn sàng đáp ứng yêu cầu đòi 6.061.000 $ nợ của những người có trái phiếu 6.061.000 $ / 1695 = 3578 Giá trị tài sản thuần túy cho một trái phiếu là $. Do các trái phiếu được ưu tiên hàng đầu trong thanh toán cho nên chúng sẽ có mức an toàn cao nhất. Như đã thấy trong ví dụ trên, có 3576 $ giá trị tài sản thuần túy dành để đáp ứng yêu cầu trả nợ cho mỗi trái phiếu có giá trị phát hành 1000 $ căn cứ vào giá trị kế toán của tài sản công ty. Cổ phần ưu đãi có thứ tự ưu tiên sau trái phiếu trong thanh toán. Giá trị tài sản thuần túy cho mỗi cổ phần được tính như sau: Giá trị tài sản thuần túy cho mỗi cổ phần ưu đãi (4250 cổ phần) Tổng tài sản 9.370.000 $ Trừ đi: nợ ngắn hạn (3.309.000 $) Nợ dài hạn (1.695.000 $) Các tài sản thuần túy sẵn có để đáp ứng 4.366.000 $ cho yêu cầu đòi nợ ưu tiên
  14. Giá trị tài sản thuần túy tính cho một cổ 4.366.000$/4250 = phần ưu đãi là 1027 Cuối cùng, giá trị kế toán thuần túy tính cho mỗi cổ phần chung được tính bằng cách xác định số tiền dựa trên các giá trị kế toán mà mỗi cổ phần thường sẽ nhận được nếu như công ty bị thanh lý. Trong trường hợp của liên hiệp Hoya, giá trị kế toán thuần tùy cho mỗi cổ phần thường bằng 37,89 $ và được tính như sau: Giá trị kế toán thuần túy cho một cổ phần thường (104.000 cổ phần) Tổng tài sản 9.370.000 $ Trừ đi: nợ ngắn hạn (3.309.000 $) Nợ dài hạn (1.695.000 $) Cổ phần ưu đãi (425.000 $) Các tài sản thuần túy sẵn có để đáp ứng cho yêu cầu đòi nợ của một cổ phần 3.941.000 $ thường 3.941.000$ /104.000 = Giá trị kế toán cho mỗi cổ phần thường là 37,89 $ Bằng cách khác (và tương đương) ta có thể tính giá trị kế toán thuần túy cho mỗi cổ phần thường như sau: Giá trị kế toán thuần túy cho mỗi cổ phần thường (với 104.000 cổ phần) Cổ phần thường (mệnh giá 5$) 520.000 $ Số thặng dư vốn góp 420.000 $ Thu nhập còn giữ lại 30.000 $ Tổng số cổ phần của những người có cổ phần 3.941.000 $ thường Giá trị kế toán cho mỗi cổ phần thường là 37, 89 $ Tất nhiên, cả hai cách tính đều cho kết quả như nhau vì theo định nghĩa cổ phần của những người có cổ phần thường bằng tổng tài sản trừ đi mọi khoản nợ và cổ phần ưu đãi.
  15. Không nên hiểu sai cách tính giá trị kế toán, đặc biệt là các giá trị tính toán trong phần cổ phần thường. Trước hết, trong hầu hết các trường hợp, điều hợp lý là nên giả thiết về cái mà các nhà kế toán gọi là “mối quan tâm lo lắng hiện có”. Người ta có thể cho rằng, không có nguy cơ phá sản sắp xảy ra và do đó, giá trị thanh lý của công ty sẽ không phải là một biến số thích hợp để xác định giá trị các chứng khoán. Thứ hai là ta cần nhớ rằng việc tính toán giá trị kế toán ngầm định rằng toàn bộ tài sản có thể bán được theo giá trị kế toán để thỏa mãn các yêu cầu đòi nợ khác nhau. Tùy theo từng hoàn cảnh, điều này có thể đúng hoặc sai. Nếu việc thanh lý xảy ra, trên thực tế các tài sản có thể bán với giá cao hơn hoặc thấp hơn so với giá trị kế toán. Cuối cùng, người ta có thể thấy rằng các giá trị thị trường của các chứng khoán được quy định bởi các lực lượng thị trường mà chúng có thể chỉ có liên hệ với các giá trị kế toán khi xét theo giá trị giới hạn. Đối với các trái phiếu và cổ phần ưu đãi, giá trị thị trường chủ yếu được xác định bởi tỷ lệ tín dụng của công ty và lãi suất hiện hành. Đối với các cổ phần thường, phần lãi của công ty và viễn cảnh kinh tế tương lai là điểm cốt yếu cho việc định giá trị. Báo cáo thu nhập Minh họa 3.3 trình bày hình thái phổ biến của một báo cáo thu nhập. Nếu ta có thể coi bảng cân đối kế toán như là một báo cáo dưới dạng “bức ảnh chụp nhanh” hoặc báo cáo về “dự trù”, khi ấy có thể hình dung báo cáo thu nhập như một “bức tranh chuyển động” hoặc nội dung báo cáo về “luồng”. Báo cáo thu nhập trình bày về “luồng” các nguồn thu, các chi phí và các chi tiêu trong toàn công ty vào một năm đã biết. Có thể hình dung mối liên hệ giữa báo cáo thu nhập với bảng cân đối như sau: Sơ đồ này thể hiện một cách rõ ràng sự khác biệt chủ yếu và mối liên hệ then chốt giữa bảng cân đối với báo cáo thu nhập. Bảng cân đối trình bày tình hình tài chính của công ty tại thời điểm đang xét, trong khi báo cáo thu nhập miêu tả các kết quả hoạt động trong một khoảng thời gian nào đó. Theo ví dụ ở đây, hai bảng cân
  16. đối cho ta thấy tình hình của công ty vào 31/12/1982 và 31/12/1983 trong khi báo cáo thu nhập cung cấp các thông tin có liên quan tới vấn đề là công ty chuyển dịch như thế nào từ trạng thái hiện có vào cuối năm 1982 tới trạng thái vào cuối năm 1983. Nửa trên của báo cáo về phần thu nhập vãng lai và còn giữ lại trong minh họa 3.3 cho thấy doanh thu trong năm của công ty, các loại chi phí và chi tiêu khác nhau, thu nhập thuần túy trước và sau thuế và thu nhập tính cho một cổ phần thường. Doanh số thể hiện tổng doanh thu của công ty trong vòng một năm chưa tính, số thực lãi trong mọi hoạt động kinh doanh hoặc các khoản chiết khấu được phép. Chi phí cho các sản phẩm bán ra gồm các khoản mục như chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động trực tiếp trong nhà máy và các chi phí chung (tổng phí) trong nhà máy. Phần khấu hao biểu thị tiền khấu hao nhà máy và thiết bị trong năm tính theo dollar, trong khi chi phí bán hàng và quản lý biểu thị toàn bộ các loại chi phí hoạt động khác. Trừ tổng chi phí hoạt động ra khỏi doanh số ta được số lợi nhuận hoạt động hoặc lãi gộp thu được từ các hoạt động thông thường của công ty. Khoản thu nhập khác, thường là các phần thu nhập linh tinh từ các nguồn khác nằm ngoài hoạt động bình thường như phần lãi thu được trên các phiếu nợ phải thu do công ty giữ, trên các phần lãi và lỗ của vốn đầu tư và các khoản mục tương tự. Tiếp theo là khoản chi phí trả lãi vay nợ. Thông thường, các khoản mục này được liệt kê riêng do nó biểu thị một khoản chi tiêu tài chính, đó là chi tiêu do quyết định của công ty trong vấn đề là trang trải tài chính bằng cách nào (vay nợ hay bán cổ phần) chứ không phải là chỉ tiêu sinh ra do các hoạt động bình thường của công ty. Cuối cùng, việc trừ chi phí trả lãi sẽ cho ta phần thu nhập trước thuế của công ty. Khấu trừ thuế ta sẽ được “dòng cuối cùng” - đó là thu nhập thuần túy trong vòng một năm. Minh họa 3.3 Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya báo cáo về các khoản thu nhập vãng lai và còn giữ lại 1983 ($) 1983 ($) Doanh thu 13.413.000 11.575.000 Các chi phí hoạt động Giá vốn hàng bán 7.467.000 7.194.000
  17. Khấu hao 376.000 334.000 Chi phí bán và quản lý 4.575.000 3.092.000 Tổng chi phí 12.418.000 10.620.000 Lợi nhuận hoạt động 995.000 955.000 Thu nhập khác 186.000 184.000 Tổng thu nhập 1.181.000 1.139.000 Chi trả lãi (180.000) (184.000) Thu nhập trước thuế 1.001.000 955.000 Đóng thuế thu nhập (382.000) (371.000) Thu nhập thuần túy 619.000 584.000 Cổ phần thường hiện có 104.000 102.000 Thu nhập thuần túy trên một cổ phần thường 5,71 5,38 Báo cáo về lãi tích lũy còn giữ lại Thu nhập còn giữ lại vào 1/1 2.684.000 2.390.000 Thu nhập thuần túy trong năm 619.000 584.000 Tổng số 3.303.000 2.974.000 Trừ đi cổ tức trả cho: hhhhh- Cổ phần ưu đãi 25.500 35.000 hhhhh- Cổ phần thường 276.000 255.000 Thu nhập còn giữ lại vào 31/12 3.001.000 2.684.000 Do những người sở hữu công ty thường quan tâm nhất đến số thu nhập tính cho mỗi cổ phần thường cho nên dòng cuối cùng được biểu thị trên cơ sở tính cho mỗi cổ phần. Con số này được tính bằng cách lấy thu nhập thuần túy trừ đi mọi khoản cổ tức ưu đãi rồi chia cho số cổ phần thường trung bình trong năm. Cần phải trừ đi số cổ tức ưu đãi, bởi vì khác với số trả lãi cho những người giữ trái phiếu, số lãi này không phải là được miễn trừ thuế kinh doanh. Cũng y như cổ phần thường, cổ phần ưu là một loại chứng khoán về quyền sở hữu và mọi khoản cổ tức đã trả sẽ được coi như khoản đóng góp lợi nhuận cho những người chủ hợp pháp của công ty. Trong trường hợp của liên hiệp Hoya, lãi cho mỗi cổ phần được tính như sau: 1983 ($) 1983 ($)
  18. Thu nhập thuần túy 619.000 584.000 Trừ đi cổ tức ưu đãi (25.500) (35.000) Thu nhập dành cho những người có cổ phần thường 593.500 549.000 Số cổ phần thường hiện có 104.000 1.020.000 Thu nhập trên một cổ phần thường 5,71 5,38 Phần dưới cùng của minh họa 3.3 là báo cáo về thu nhập tích lũy và còn giữ lại, nó minh họa cho mối liên hệ chủ yếu giữa bảng cân đối và báo cáo thu nhập. Số thu nhập còn giữ lại cho một năm đang khóa sổ (năm đang xét) cần phải bằng với số thu nhập tại đầu năm đó (hoặc số thu nhập còn lại của đầu năm trước), cộng với thu nhập thuần túy trong năm đang xét (hoặc trừ đi số lỗ thuần túy) trừ đi mọi khoản phân bố thu nhập thuần túy (thường là cổ tức). Đôi khi, những khoản phân bố cho các thua lỗ, chẳng hạn như giải quyết lần cuối cùng về chi phí tố tụng hoặc thuế thu nhập của năm trước, có thể khấu trừ vào tài khoản thu nhập còn giữ lại. Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya minh họa cho trường hợp điển hình nhất (chú ý rằng số thu nhập còn giữ lại vào 31/12/1982 đúng bằng số thu nhập còn lại vào 1/1/1983): Sau khi đã xem xét báo cáo thu nhập, bây giờ chúng ta hãy chú ý đến phạm trù quan trọng thứ hai về các báo cáo về luồng tài chính, đó là báo cáo về sự thay đổi tình hình tài chính. Báo cáo về sự thay đổi tình hình tài chính Minh họa 3.4 trình bày báo cáo của các liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya về sự thay đổi tình hình tài chính đối với năm 1983. Khi nhớ lại định nghĩa trước đây của chúng ta về vốn lưu động ròng là tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn và phần thảo luận về tầm quan trọng của vốn hoạt động thì không có gì đáng ngạc nhiên về sự tồn tại của một báo cáo tách biệt về luồng tài chính, trong đó trình bày sự thay đổi về tình hình vốn hoạt động của công ty qua một năm. Đó là mục đích của báo cáo về những thay đổi của tình hình tài chính hay cũng còn thường được gọi là báo cáo về các nguồn và các cách sử dụng ngân quỹ, hoặc báo cáo về luồng ngân quỹ. Thuật ngữ “ngân quỹ” thường gây sự hiểu lầm cho những người bình thường bởi vì đối với các kế toán giỏi và các nhà phân tích tài chính nó có ý nghĩa tương đối chuyên sâu vào chuyên môn khác với nghĩa sử dụng thông thường của thuật ngữ này khi đề cập tới tiền mặt, thuật ngữ ngân quỹ trong kế toán và tài chính nói về vốn
  19. hoạt động thuần tuý, còn báo cáo về luồng ngân quỹ nói về những thay đổi của vốn hoạt động qua suốt thời kỳ kế toán: Ngân quỹ bằng = vốn lưu động ròng = tài sản lưu động - nợ ngắn hạn Minh họa 3.4 Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp hoya, inc Báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính 1983 Các nguồn quỹ Từ các hoạt động: hhhhhThu nhập thuần túy 619.000 $ hhhhhKhấu hao 376.000$ Tổng nguồn thu từ các hoạt động 995.000 $ Sử dụng các tài khoản khác 83.000$ Vay thêm nợ dài hạn 26.000$ Bán các cổ phần thường 25.000$ Tổng các nguồn quỹ sử dụng quỹ 1.369.000$ Đầu tư thêm vào nhà máy và thiết bị 766.000$ Tái đầu tư vốn cổ phần ưu đãi 172.000$ Trả cổ tức cho cổ phần ưu 255.000$ Trả cổ tức cho cổ phần thường 276.500$ Tổng sử dụng quỹ 1.240.000$
  20. Tăng thuần túy trong vốn hoạt động 129.000$ Phân tích những thay đổi về vốn hoạt động năm 1977 Tiền mặt và chứng khoán bán được 50.000 $ Các khoản sẽ phải thu 417.000$ Dự trữ 271.000$ Các khoản phải trả 178.000$ Các phiếu nợ phải trả (680.000)$ Chỉ tiêu cộng dồn phải trả (75.000)$ Thuế cộng dồn phải trả (32.000)$ Số tăng thuần túy vốn hoạt động 129.000$ Mục đích của báo cáo về những thay đổi trong tình hình tài chính có hai mặt. Thứ nhất là, nó chỉ ra các nguồn và cách sử dụng các nguồn qũy trong năm và sự thay đổi phát sinh trong tình hình vốn lưu động ròng của công ty. Thứ hai là, nó cho thấy những thay đổi trong các tài khoản vốn hoạt động riêng lẻ gây ra sự thay đổi toàn cục trong vốn lưu động ròng. Khi căn cứ vào định nghĩa, vốn lưu động ròng là tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn , ta có thể thấy số tăng trong tài sản luu động phản ánh sự đóng góp vào số gia tăng vốn hoạt động, trong khi sự gia tăng số nợ ngắn hạn phản ánh sự góp phần làm giảm vốn hoạt động. Ngược lại, sự giảm tài sản lưu động thể hiện việc góp phần làm giảm vốn lưu động ròng và sự giảm số nợ ngắn hạn thể hiện việc góp phần làm tăng vốn lưu động ròng. Tóm lại: Sự tăng vốn lưu động ròng: hhhhhhhSự tăng tài sản lưu động hhhhhhhSự giảm nợ ngắn hạn Sự giảm vốn lưu động ròng: hhhhhhhSự giảm tài sản lưu động
  21. hhhhhhhSự tăng nợ ngắn hạn Việc xây dựng báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính là một nhiệm vụ tương đối phức tạp và tốt nhất là giao cho các nhà kế toán chuyên nghiệp. Tuy nhiên, việc hiểu rõ báo cáo rõ ràng là cần thiết và rất quan trọng cho những người sử dụng báo cáo tài chính. Về căn bản, báo cáo cung cấp những thông tin có liên quan tới tổng nguồn lực tài chính sẵn có cho công ty trong năm đã qua và cho việc phân bố các nguồn lực này. Trong trường hợp của liên hiệp Hoya, chúng ta nhận thấy sự thay đổi toàn cục về vốn lưu động ròng trong năm lịch 1983 như sau: Vốn lưu động ròng -1982 = 4.485.000 $ - 2.700.000$ = 1.785.000 $ Vốn lưu động ròng -1983 = 5.223.000 $ - 3.309.000 $ = 1.914.000 $ Thay đổi thuần túy trong vốn lưu động ròng -1983 bằng 129.000$. Khi chú ý vào phần cuối của minh họa 3.4- phần phân tích những thay đổi vốn lưu động ròng trong năm 1983, chúng ta thấy rằng số tăng trong toàn bộ tài sản lưu động (tiền mặt, chứng khoán bán được trên thị trường, các khoản phải thu và các khoản dự trữ) và số giảm nợ ngắn hạn (các khoản phải trả) đã góp phần làm tăng số vốn lưu động ròng của công ty. Số tăng này bù trừ lại phần nào cho số tăng các khoản nợ ngắn hạn còn lại (các phiếu nợ phải trả, các chi phí dồn lại phải trả, các khoản thuế dồn lại phải trả). Tất nhiên, kết quả thuần túy cho số tăng là 129.000 $: Số tăng vốn lưu động hhhhhTăng tài sản lưu động 738.000 $ hhhhhGiảm nợ ngắn hạn 178.000 $ Tổng số tăng vốn lưu động ròng 916.000 $ Sự giảm vốn lưu động ròng hhhhhTăng nợ ngắn hạn (787.000) Số tăng thuần túy trong vốn lưu động 129.000 $ ròng
  22. Phần trên của minh họa 3.4 cho thấy các nguồn và cách sử dụng quỹ trong năm làm tăng vốn lưu động ròng là $ 129.000. Hầu hết phần các nguồn quỹ luôn luôn được bắt đầu với các nguồn quỹ do các hoạt động trong năm đem lại. Con số này bao gồm thu nhập thuần túy như đã báo cáo trong báo cáo thu nhập cộng với mọi thay đổi không phải là tiền mặt như chi phí khấu hao. Do phần khấu hao thể hiện phần phân bổ chi phí của các khoản đầu tư của công ty trong quá khứ cho nên chi phí khấu hao được khấu trừ đi trong báo cáo thu nhập không đòi hỏi phải chi dùng quỹ hiện tại và do đó cần phải được cộng lại vào thu nhập khi xác định nguồn tổng cộng do các hoạt động tạo ra. Bên cạnh toàn bộ nguồn qũy do các hoạt động tạo ra còn có các nguồn quỹ khác không phải do hoạt động đem lại như bán các tài sản cố định, vay nợ dài hạn mới, bán cổ phiếu và các khoản tương tự. Tổng các khoản này cộng với nguồn quỹ do hoạt động đem lại thể hiên toàn bộ nguồn quỹ mà công ty có trong năm. Phần sử dụng đã được thể hiện khá rõ ràng, ở đây, ta có thể thấy danh mục sử dụng quỹ của công ty trong năm. Trong trường hợp của Liên hiệp Hoya, quỹ đã được sử dụng để mua nhà máy và thiết bị mới, để mua lại một số cổ phần ưu đãi và để trả cổ tức. Tất nhiên, kết quả thuần túy của tất cả các hoạt động này cần phải bằng tổng số đã xác định trước đây là 129.000 $. Nguồn quỹ có được từ hoạt động 995.000 $ Nguồn quỹ có được từ các nguồn ngoài 374.000 $ hoạt động 1.369.000 Tổng các nguồn quỹ $ Phần sử dụng quỹ (1.240.000) Số tăng thuần túy trong vốn hoạt động 129.000 $ Như vậy, chúng ta thấy rằng báo cáo về luồng ngân quỹ cho ta thông tin quan trọng về sự quản lý của công ty đối với các nguồn lực của các cổ đông và cho ta một bức tranh hữu ích về luồng các nguồn quỹ trong toàn công ty. Sau khi đã xem xét toàn bộ các phạm trù chính của báo cáo tài chính, bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang chương về cấu trúc của hệ thống thông tin tài chính, nhằm cho phép thu thập, báo cáo và giải thích một cách thông minh về thông tin tài chính. Tóm tắt
  23. Mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày rõ ràng về tình hình tài chính của một tổ chức kinh doanh. Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP) đưa ra những hướng dẫn cho cách trình bày các báo cáo tài chính. GAAP chỉ áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính và không áp dụng cho các lĩnh vực kế toán chủ yếu khác như kế toán thuế, quản lý và chi phí. Các kế toán gia công chứng kiểm toán các báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến là liệu các báo cáo có trình bày rõ ràng về tình hình tài chính của một công ty hay không. Một ý kiến dè dặt thường chỉ ra một điểm nào đó chưa phù hợp với GAAP. Bản cân đối cho ta một “bức ảnh chụp nhanh” về tình tài chính của một công ty vào một ngày tháng đã định, danh mục các tài sản, các khoản nợ, và các cổ phần của công ty. Theo định nghĩa, các tài sản cần phải bằng tổng các khoản nợ và các cổ phần. Báo cáo thu nhập có thể được coi là một “bức tranh chuyển động” biểu thị các luồng doanh thu, chi phí, chi tiêu trong toàn công ty trong vòng một năm hoặc một thời kỳ kế toán đã cho. Báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính cho thấy, các nguồn và các cách sử dụng quỹ trong một năm và kết quả thay đổi trong tình hình vốn lưu động ròng của công ty. Nó cũng cho thấy những thay đổi trong các tài khoản vốn lưu động riêng lẻ đã tạo ra sự thay đổi toàn cục trong vốn lưu