Nhập môn phương pháp luận của khoa học và nghiên cứu

doc 116 trang phuongnguyen 3020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nhập môn phương pháp luận của khoa học và nghiên cứu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docnhap_mon_phuong_phap_luan_cua_khoa_hoc_va_nghien_cuu.doc

Nội dung text: Nhập môn phương pháp luận của khoa học và nghiên cứu

  1. NHẬP MÔN PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU GS.TS Bernhard Muszynski (ĐHTH Potsdam), TS. Nguyễn Thị Phương Hoa (ĐHQG Hà Nội)
  2. Xin chào các bạn trước khi chúng ta bước vào tìm hiểu các cơ sở phương pháp luận của khoa học và nghiên cứu. Đây không phải là đề tài dễ dàng gì. Trước hết, tôi hi vọng rằng chúng ta sẽ hoàn toàn có thể hiểu nhau về mặt ngôn ngữ. Người quan trọng nhất, bà TS Hoa, sẽ giúp các bạn hiểu tôi và tôi hiểu các câu hỏi, các nhận xét và các kết quả làm việc của các bạn. Tôi rất vui và rất biết ơn người đồng nghiệp của tôi, bà TS Hoa, khi bà nói sẵn sàng đảm trách nhiệm vụ nặng nề này. Chúng tôi đã thường xuyên cộng tác làm việc, và với tư cách là một người nghiên cứu Giáo dục học, viết luận án tiến sĩ tại trường ĐHTH của chúng tôi, bà TS Hoa không chỉ nói rất tốt tiếng Đức mà còn có hiểu biết tốt về các vấn đề mà chúng ta sẽ cũng nhau nghiên cứu trong 6 ngày tới đây. Trước tiên, xin cho phép tôi được tự giới thiệu đôi lời. Tôi sinh ra và lớn lên ở Berlin và đã học Chính trị học, Xã hội học, Lịch sử và Kinh tế tại các trường đại học ở Berlin và Hamburg. Sau thời gian lần lượt làm giáo viên ở một trường dạy nghề ở Hamburg, làm giảng viên đại học và làm cán bộ phụ trách một cơ sở khoa học kĩ thuật ở Berlin, từ năm 1990 tôi chuyển về công tác tại ĐHTH Potsdam. Tại đây, tôi giữ cương vị là giáo sư Xã hội học chính trị và là giám đốc Trung tâm đào tạo bồi dưỡng. Lĩnh vực chủ yếu trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học của tôi là Chính sách giáo dục, trong đó có bao hàm tất cả các vấn đề liên quan đến việc đào tạo giáo viên. Cũng vì thế mà đầu năm 2002 tôi đến Việt Nam với tư cách là chuyên gia tư vấn quốc tế cho một dự án của Ngân hàng phát triển Châu Á về cải cách đào tạo giáo viên trung học cơ sở ở Việt Nam. Cho đến nay, mỗi năm tôi đã có mặt ở đất nước các bạn từ 3 đến 4 lần. Và bởi vì tôi tự nguyện đến đây nên các bạn có thể thấy rằng tôi yêu quí đất nước các bạn và rất muốn có mặt tại đây. Nay tôi đến đây theo lời mời của trường đại học của các bạn để tham gia chương trình đào tạo thạc sĩ, một công việc có ý nghĩa đặc biệt và là vinh dự lớn đối với tôi. Tôi đã giữ lại những phần trong bài giảng của tôi tại đây từ năm 2003. Ý kiến đánh giá
  3. từ phía sinh viên, công việc mà chúng ta cũng sẽ tiến hành lần này, cho thấy một kết quả khả quan. Từ đây, các bạn có thể thấy được rằng các phương pháp dạy - học hiện đại, mà chúng ta cũng sẽ làm việc với chúng, có thể được thực hiện rất thành công. Tôi muốn nói đôi lời về các phương pháp dạy - học có lẽ là mới đối với các bạn. Như các bạn đã biết, tất cả các nghiên cứu về hoạt động học tập và nhất là về những gì mà chúng ta lưu lại trong trí nhớ, cho thấy ít nhất về mặt trung hạn thì kết quả sẽ như sau: Chúng ta giữ lại trong trí nhớ khoảng 10% những gì chúng ta nghe thấy Chúng ta giữ lại trong trí nhớ khoảng 20% những gì chúng ta đọc được Chúng ta giữ lại trong trí nhớ tới 80% và nhiều hơn những gì chúng ta học được bằng cách tự làm Bây giờ các bạn sẽ thấy là tôi sẽ không làm mệt mỏi các bạn bằng bài giảng kéo dài những 5 giờ đồng hồ mỗi ngày, bởi vì tất cả chúng ta đã biết trước rằng các bạn sẽ nhanh chóng quên đi hầu hết những điều nghe được. Đề nghị của tôi, đã được Ban lãnh đạo trường các bạn chấp nhận, là như sau: Mỗi buổi sáng tôi sẽ trình bày bài giảng của mình khoảng 1 tiếng rưỡi đồng hồ, sau đó tôi mời các bạn đưa ra các câu hỏi về kiến thức. Vào các buổi chiều, trong khoảng thời gian 1 tiếng rưỡi đồng hồ, các bạn sẽ làm việc theo nhóm để xử lí các câu hỏi mà tôi đặt ra cho các bạn. Bà Hoa và tôi sẽ đi đến các nhóm để hỗ trợ các bạn. Cuối cùng, chúng ta sẽ tập hợp lại và đại diện của mỗi nhóm sẽ báo cáo kết quả làm việc của nhóm mình. Bởi chúng ta rất đông người nên các báo cáo cần tập trung vào những điểm trọng yếu và kéo dài chỉ trong một vài phút. Các bạn hãy nghĩ đến việc tất cả các báo cáo cũng còn phải được dịch nữa. Tôi biết rằng, khi kết thúc khóa học, các bạn sẽ phải viết bài kiểm tra về những gì các bạn đã học. Thời gian của bài kiểm tra sẽ kéo dài 2 giờ đồng hồ, sau khi kết thúc làm việc theo nhóm vào ngày thứ 7 tới.
  4. Tương thích với phương pháp định hướng vấn đề mà các bạn sẽ làm quen trong bài giảng của tôi, các bạn sẽ không tiến hành kiểm tra theo kiểu trắc nghiệm mà tôi sẽ yêu cầu các bạn trả lời chi tiết một vài câu hỏi của tôi. Đây sẽ không phải là bài trắc nghiệm trí nhớ của các bạn. Các bạn sẽ có thể sử dụng những phần ghi chép của mình. Các vấn đề mà các bạn cần phải giải quyết sẽ tạo điều kiện giúp các bạn hiểu rõ nội dung của bài giảng và vận dụng được chúng. Xin các bạn đừng lo, các bạn sẽ được chuẩn bị tốt, trước hết là thông qua làm việc theo nhóm. Việc học tập tại trường đại học của các bạn xem ra khá nhọc nhằn: tôi nghe nói, ngoài ra các bạn còn phải viết một bài tập về nhà dài khoảng 5 trang. Để làm việc này, các bạn cũng sẽ nhận được từ tôi một số câu hỏi. Tôi sẽ giới thiệu vắn tắt tổng quan về các nội dung mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong những ngày tới đây. Có một số lưu ý cần thiết trước khi bắt đầu. Rồi các bạn sẽ thấy rõ cái „phông“ văn hóa của tôi, mà ở một vài điểm chắc chắn sẽ khác với của các bạn. Bởi thế, tôi muốn giới thiệu với các bạn một vài vấn đề cơ bản về tri thức nói chung và về tri thức khoa học nói riêng. Ở bước tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu xem chúng ta đạt được tri thức như thế nào và chúng ta có thể mô tả cấu trúc cơ bản của nó như thế nào. Sau đó, tôi sẽ giới thiệu cho các bạn một lí thuyết đang rất có ảnh hưởng trên trường quốc tế, lí thuyết giải thích sự phát triển của khoa học diễn ra như thế nào. Tiếp nữa, chúng ta sẽ làm quen với 2 loại tri thức mà sẽ dẫn chúng ta đến trực tiếp với hai loại nghiên cứu chủ yếu: nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính. Từ đó sẽ giới thiệu một vài đặc trưng của khoa học xã hội nói chung và khoa học giáo dục nói riêng. Cuối cùng sẽ đi đến thực hành nghiên cứu: người ta lập kế hoạch cho một dự định nghiên cứu như thế nào, thực hiện nó trên thực tế ra sao và đi đến các kiến giải có giá trị về mặt khoa học như thế nào? Chúng ta kết thúc với các câu hỏi có sức lôi
  5. cuốn nhất: thực sự thì mối tương quan giữa Khoa học và Chân lí là cái gì, việc nghiên cứu có thể thực hiện được những yêu cầu nào về giá trị? Vì chúng ta sẽ làm việc tích cực cả một tuần liền với những câu hỏi này, các bạn cũng phải biết được mục đích học tập của bài giảng này là gì. Tất nhiên là tôi cũng biết các bạn, những học viên cao học, cũng đã có những kinh nghiệm đáng kể về thực hành khoa học. Điều mà tôi có thể cung cấp cho các bạn chính là một các nhìn có lẽ là mới, một cách xem xét tổng thể mang tính hệ thống và một sự nhận thức mới nhất định nào đó. Nhất định là cuối cùng các bạn sẽ hiểu sâu về tri thức, khoa học, các luận điểm nghiên cứu và các chiến lược nghiên cứu. Từ việc nhận thấy nhiều mối liên hệ quan trọng, các bạn sẽ rõ hơn về chuẩn mực cao cần thiết của khoa học và nghiên cứu. Từ việc tiếp cận một cách tích cực với các vấn đề nghiên cứu trong khi làm việc theo nhóm, các bạn sẽ tăng cường được cho mình năng lực phát triển các vấn đề nghiên cứu cũng như các chiến lược nghiên cứu một cách chính xác. Chưa hết, các bạn sẽ tìm hiểu các giới hạn của nhận thức khoa học thu nhận được từ việc nghiên cứu. Trước khi bắt đầu, tôi rất muốn có một số thông tin về thành phần các học viên. Chúng ta cùng ngồi ở đây để nói về khoa học và tất cả các bạn đều là những nhà khoa học. Các bạn hãy cho tôi biết, các bạn có mặt trong hội trường này thuộc về những chuyên ngành khoa học nào. Trong số các học viên trong phòng này, những ai là các nhà khoa học tự nhiên hay kĩ thuật. những ai là các nhà khoa học xã hội, khoa học nhân văn? Giờ tôi biết rõ hơn là tôi đang ở môi trường khoa học nào và các bạn sẽ thấy rằng câu hỏi này được đặt ra không phải chỉ vì sự tò mò. 1. Khoa học và Văn hóa Luận điểm đầu tiên của tôi sẽ làm cho các bạn bối rối. Trước hết, khoa học – trong một mối quan hệ rộng lớn hơn – là một hiện tượng văn hóa như nghệ thuật, luật pháp, ngôn ngữ, được con người làm ra, được con
  6. người trao đổi với nhau và mang tất cả các nét đặc thù của con người. Điều này thể hiện trước hết ở chỗ, mỗi con người, mà quan tâm một cách tích cực đến khoa học, rốt cuộc lại có một sự hiểu biết riêng về khoa học. Anh ta chia sẻ sự hiểu biết đó với những người khác và từ đó chắc chắn rút ra được một sự hiểu biết khoa học chung xuất sắc hơn nữa. Chậm nhất là trong cuộc thảo luận về vấn đề này cũng sẽ chỉ ra sự khác biệt quan điểm, cũng như thể nào cũng có sự khác biệt lớn giữa các cá nhân về phương thức tiến hành khoa học như thế nào. Tiếp nữa, việc con người suy nghĩ và hành động như thế nào về cơ bản chịu dấu ấn của môi trường xã hội, trong đó nó lớn lên, trong đó nó vận động và trong đó nó nỗ lực cố gắng cho một cuộc sống ngày càng tốt hơn. Bởi thế, chỉ có một định nghĩa rất khái quát về khoa học, trong đó có thể tìm thấy (hầu hết) tất cả các quan niệm các khác nhau về khoa học. Khoa học là một hoạt động có tính chất hệ thống, thông qua việc nghiên cứu, nhằm tìm kiếm ra những kiến giải mang tính khái quát, chính xác và khách quan hóa được về hiện thực. Nghiên cứu khoa học tạo ra những kiến giải khoa học, là mối quan tâm chính của các nhà khoa học. Bên cạnh đó, họ còn phải giảng dạy, trao đổi kết quả nghiên cứu của họ với các đối tác ngoài khoa học, phải tổ chức và quản lí. Về bản chất, người ta hiểu “hoạt động khoa học” chính là nghiên cứu. Bởi thế, tiếp theo đây tôi sẽ sử dụng “khoa học” và “nghiên cứu” như khái niệm đồng nghĩa. Ngay cả khi chúng ta trong tiến trình bài giảng cũng sẽ đi đến một định nghĩa cụ thể hơn nghiều thì chúng ta cũng vẫn sẽ khẳng định rằng việc xếp khoa học, cho dù có được người ta định nghĩa thế nào, vào văn hóa (không thể khác được, tôi có lí lẽ thuyết phục để chứng minh) luôn luôn có nghĩa rằng khoa học - có thể thay đổi mang tính/theo lịch sử - mang dấu ấn của các nền văn hóa
  7. - chịu ảnh hưởng của các quan điểm và sở thích cá nhân Điều đó có nghĩa là, một khoa học tốt trong một nền văn hóa khác, ở một thế kỉ khác và dưới những điều kiện cá nhân khác có thể đưa ra những câu trả lời rất khác nhau cho cùng một câu hỏi. Ví dụ, các bạn hãy xem xét những câu hỏi cơ bản về sự tồn tại của con người: con người xuất hiện từ đâu, tại sao họ ở trên thế giới này và còn định tiến đến đâu nữa? Các câu trả lời cho các câu hỏi này là hoàn toàn khác nhau trong lịch sử và giữa các nền văn hóa khác nhau. Và không hiếm khi việc đưa ra một câu trả lời không thông dụng đã làm nguy hiểm đến tính mạng người có liên quan. Các ví dụ như thế có thể tìm thấy cho tất cả các vấn đề lớn của khoa học tự nhiên. Nếu ngày nay, dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, chúng ta có các câu trả lời khác thì điều đó tất nhiên không có nghĩa rằng các nhà triết học hay vật lí học hiện đại là những nhà khoa học giỏi hơn. Chỉ vì họ sống và làm việc trong một môi trường hoàn toàn khác. Tất cả các nền văn hóa viết của chúng ta các thời kì cổ đại đều có rất nhiều bằng chứng của các nhà tư tưởng đã mất từ lâu. Có thể chúng ta không đồng ý với các kết quả của họ, nhưng chắc chắn họ không phải là những nhà khoa học tồi. Hay các bạn hãy xem xét một thực tế thường xảy ra là, hai nhà khoa học cùng thời và có uy tín của cùng một nền văn hóa có những quan điểm khác nhau về cùng một đề tài trong lĩnh vực khoa học của họ. Vậy các bạn có đi đến kết luận rằng một trong hai nhà khoa học đó là nhà khoa học tồi hơn không? Chắc chắn là không rồi. Vậy chúng ta cần phải lấy ở đâu ra tinh thần lạc quan rằng với khoa học, như chúng ta biết nó, những sự thay đổi thường xuyên của nó rồi cũng sẽ kết thúc? Những dấu ấn văn hóa của tư duy khoa học tất nhiên là có ảnh hưởng đến tận thời chúng ta và khắc họa nên những nền văn hóa khoa học riêng. Các nhà khoa học con đẻ của nền văn hóa châu Âu hầu hết từ lâu, trước khi họ bắt đầu suy nghĩ và làm việc, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa xuất xứ từ phương Tây:
  8. - Họ một mặt chịu ảnh hưởng bởi cách quan sát và giải thích thế giới một cách hệ thống như đã xuất hiện trong thời Hy - La Cổ đại ở Nam Âu trong thời kì giữa 500 năm trước Công nguyên và 200 năm sau Công nguyên. - Đồng thời, họ là con đẻ của các cuộc cách mạnh tinh thần đánh dấu sự chấm dứt của thời kì Trung cổ châu Âu, thời gian khoảng từ năm 1450, thời mà trước hết được gọi là “Thời kì Phục hưng” (sự hồi sinh của các tư tưởng thời cổ đại), sau đó, từ cuối thế kỉ 17, dẫn đến Thời kì Khai sáng ở châu Âu. Không có những tư tưởng của họ (lý trí, sự tiến bộ, nhân quyền, quyền tự do, lòng khoan dung) hoàn toàn không thể nghĩ tới nền khoa học hiện đại. Sau đây là những hiểu biết sơ bộ của tôi về khoa học: - Khoa học mang tính duy lí, có nghĩa là, trong các suy nghĩ và đánh giá của mình tôi đều xuất phát từ lí trí và chống lại các đòi hỏi về mang tính chất tôn giáo và hệ tư tưởng mà tôi xem là không hợp lí. Đó cũng chính là nguyên lí cơ bản của Thời kì Khai sáng ở châu Âu, như nó được Immanuel Kant (1724 – 1804) diễn đạt: “Hãy dám tư duy, hãy sử dụng lí trí của chính bạn”; - Khoa học mang tính bình đẳng, có nghĩa là, tôi tin rằng con người sẽ phải trưởng thành, chịu trách nhiệm cho những gì mình làm và sơ xuất, tự do đưa ra các quyết định của mình trong chừng mực không làm cho người khác bị tổn thương; - Cuối cùng, khoa học có định hướng tiến bộ, có nghĩa là, điều đáng làm là phải đặt ra các mục tiêu đạo đức, bởi nhìn chung, có sự phát triển tiến bộ, từ từ, hay có những bước cản, của xã hội và của nhân loại. Ở đây, khoa học hiện đại có một phần đóng góp rất lớn. Tương tự, đa số người châu Âu và những người đến từ những nền văn hóa có gốc rễ từ châu Âu đều có khuynh hướng tư duy và hành động theo những qui tắc chặt chẽ và duy lí. Họ muốn có thể phân biệt được rạch ròi
  9. giữa cái đúng và cái sai, họ thích những tổ chức được xây dựng trên cơ sở lí trí, họ tin vào những quan điểm của riêng mình và họ không tin cậy các nhân vật có uy tín. Tôi công nhận rằng đây là một sự khái quát hóa đáng nghi ngờ, như tất cả các khái quát hóa về mặt xã hội, nhưng khi các bạn làm việc với người châu Âu, các bạn sẽ biết tôi muốn nói gì. Tính độc đáo văn hóa này vừa có ưu điểm vừa có nhược điểm. Trước hết, người dân ở châu Âu không hạnh phúc hơn người dân ở bất kì nơi nào khác trên thế giới. Thứ hai, nhiều nước, cả Việt Nam, đã phải trải qua những kinh nghiệm phần nào đau buồn về tác động của nền văn hóa phương Tây đó. Nó chính là: Yếu tố cơ bản của một chương trình phát triển có tính chất bành trướng, toàn cầu, chí ít là thành công nhất về mặt xã hội và kinh tế Chương trình phát triển này được gọi là chủ nghĩa tư bản, xã hội tự do, chủ nghĩa đa nguyên, hoặc như cách mà người ta luôn muốn gọi nó. Trong mọi truờng hợp, hiệu quả kinh tế cao (tích cực và tiêu cực) của con đường phát triển mang dấu ấn châu Âu và khoa học hiện đại liên quan chặt chẽ với nhau. Các bạn hãy để tôi diễn đạt tóm tắt lại như thế này: động lực lớn nhất của xã hội phương Tây cũng luôn là sự áp dụng những tri thức khoa học. Nói một cách đơn giản: sự thật là Coca Cola cũng rất được ưa chuộng ở những góc xa xôi nhất của trái đất, có liên quan với các khoa học ứng dụng hiện đại: Hóa học, Kinh tế, Tâm lí học, Lôgic học, Thiết kế, 2. Khoa học trước tiên là kiến thức: kiến thức là gì, thông tin là gì, các tính chất chủ yếu và các kiểu mẫu cơ bản của chúng là gì và định nghĩa đầu tiên về khoa học có thể là như thế nào? 2.1 Kiến thức là gì? Kiến thức là khả năng trực giác và lí trí để: 1. Hình thành cái Tôi về mặt tâm lí (ý thức cá nhân, với khả năng tự suy nghĩ về chính bản thân mình),
  10. 2. Có thể tự đặt mình vào vị trí của những cá nhân khác, 3. Có được những giải thích về bản chất bên trong và bên ngoài của con người, 4. Có thể ghi nhớ và truyền đạt các giải thích, 5. Phát triển tiếp tục một cách trừu tượng các kiến thức đã có. Trước hết, chúng ta biết: a. Về sự tồn tại của các vật thể và các tình huống; b. Về các tính chất của các vật thể/các tình huống, dù chúng là thực hay ảo; c. Chúng có quan hệ, liên quan với nhau như thế nào và tác động lẫn nhau như thế nào? d. Vì sao các vật thể/các tình huống lại như vậy và phát triển như vậy, chúng thực hiện quá trình đó bằng cách nào? e. Các vật thể/các tình huống phải như thế nào khi nó cần phải trở thành như chúng ta muốn? f. Vì thế, các vật thể/các tình huống nào và trong những điều kiện nào không (thể) tồn tại? g. Chúng ta biết đôi chút về những gì mà chúng ta chưa biết. Chúng ta biết có thể nói là rất nhiều, bởi vì chúng ta đã luôn tạo ra những tri thức ngay khi chúng ta bắt đầu suy nghĩ. Trong quá trình này, trước hết không quan trọng xem tri thức đó là đúng hay sai, cho đến chừng nào còn chưa làm rõ tiêu chí cho cái đúng và cái sai. Không có những mối tương quan như vậy thì tất cả các tri thức về cơ bản đều có thể là đúng mà cũng có thể lại sai. Trong mọi trường hợp, khả năng hiểu biết là một công cụ đắc lực của ý thức chúng ta, thông qua đó mà phát triển một quan niệm rất phức hợp xem một thế giới thực có thể là thế nào. Sau khi mô tả các chức năng chính của tri thức, tôi đề cập đến hai câu hỏi: 2.2 Các đặc trưng quan trọng nhất của kiến thức là gì?
  11. Kiến thức là một hiện tượng đặc biệt, luôn độc lập với thế giới thực. Sau này chúng ta sẽ thấy nó được tạo thành trong quá trình tiếp xúc thường xuyên với những sự việc thực. Dẫu sao sao kiến thức thuần túy cũng chỉ tồn tại trong ý thức của chúng ta. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi làm rõ những đặc trưng quan trọng nhất của kiến thức. a. Kiến thức luôn có tính tượng trưng, vì vậy nó rất linh hoạt (linh hoạt theo địa điểm, thời gian, tình huống và hiện thực); b. Kiến thức phi vật chất và tương đối ổn định (về mặt vật lí nó chỉ có thể bị hủy diệt khi các tài liệu lưu giữ chúng bị phá hủy hoặc cuối cùng là khi giết đi người mang kiến thức đó). Sự phủ nhận các sự vật hiện tượng, mà ai đó đã biết, thường hay gây ra tác động ngược lại: làm tăng cường thêm kiến thức. Sự lãng quên những điều đã biết cũng thường hay xảy ra nhưng thực ra đó là điều khó có thể tác động. c. Kiến thức hướng đến sự hoàn hảo. Ngay khi người ta suy nghĩ một cách tích cực hơn, thậm chí cả khi người ta tranh luận với người khác về những điều mà người ta biết, người ta muốn biết về điều đó một cách kĩ lưỡng hơn, đầy đủ hơn và trong những mối quan hệ bao trùm hơn; d. Kiến thức có đặc trưng là của cải chung. Người ta không thể tước đoạt nó. Nếu có chia sẻ nó ra thì người ta cũng vẫn bảo tồn được nó. Kiến thức có thể được nhân rộng một cách dễ dàng và nó cũng có thể được tiếp thu một cách dễ dàng, bằng cách ví dụ như tôi đem ứng dụng những điều tôi biết vào trong những mối quan hệ hoàn toàn khác đối với tôi. e. Không thể kiểm soát được sự nhân rộng của kiến thức. Không thể giới hạn sự tiếp thu kiến thức bởi vì con người ta ai cũng rất tò mò. Sự gia tăng của kiến thức cũng rất khó kiểm soát. Tuy nhiên người ta có thể cản trở không cho con người tiếp cận các nguồn tri thức, ví dụ như các trường phổ thông hay đại học, nhưng điều đó không có nghĩa là những người này hoàn toàn không biết gì. Họ sẽ tiếp thu tri thức từ nhiều thế giới kinh nghiệm khác, bằng cách họ vận động. Hơn nữa, hoàn toàn không thể cản
  12. trở một cách lâu dài sự nhân rộng không ngừng của những điều mà ta đã biết. Các bạn hãy nghĩ đến những công nghệ thông tin truyền thống và hiện đại, từ sách, điện thoại đến Internet. Tôi cũng phải thừa nhận rằng, tất nhiên chúng ta quên đi rất nhiều và “bộ máy” tâm lí của chúng ta thậm chí còn có cơ chế tự vệ giúp chúng ta quên đi hoàn toàn hay một phần các sự kiện đặc biệt khủng khiếp. Nhưng nếu tinh thần của chúng ta vẫn còn sáng suốt, thì chúng ta không còn có cách nào khác là thường xuyên tích lũy thêm những kiến thức mới. Cùng với tuổi tác, tuy phương thức chúng ta thu lượm kiến thức sẽ thay đổi, nhưng ngay cả những người già nhất thì ít nhất cũng vẫn còn có thể khám phá ra những kinh nghiệm mới, những kinh nghiệm hoàn toàn mới lạ trong cuộc đời họ: thậm chí là cả việc mình đang trở nên quá già, với tất cả các đặc điểm, những mệt nhọc và những thời khắc đẹp. Cho tới đây, chúng ta mới chỉ bàn trước tiên về kiến thức trong ý thức cá nhân của chúng ta. Giờ chúng ta hãy chuyển sang tìm hiểu chức năng giao tiếp của kiến thức. 2.3 Các thông tin như dạng quan trọng nhất để trao đổi kiến thức Khi kiến thức định hướng theo các mục tiêu, được tiêu chuẩn hóa, được tập hợp và sắp xếp trong các hệ thống phức hợp, thì trong Xã hội học giao tiếp người ta nói về các thông tin. Có một số các định nghĩa khác về thông tin, nhưng ở đây chúng ta không đề cập tới. Thông tin là sự lựa chọn và sắp xếp kiến thức định hướng theo mục đích. Với khái niệm này, thông tin hầu như luôn luôn là sự trao đổi kiến thức giữa các cá nhân/các nhóm nguời cụ thể. Xét một cách rất đơn giản, mỗi thông tin đề được thực hiện theo sơ đồ sau: Một người gửi truyền cho một người nhận một tin tức (thông tin)
  13. Tất nhiên, quá trình giao tiếp thực chứa đựng một số biến số, đặc trưng cho kết quả của sự trao đổi thông tin. Có thể tóm tắt những biến số quan trọng nhất trong câu hỏi sau: Ai (người cung cấp thông tin) nói gì (thông tin) với ý định gì, trong những điều kiện nào, nói với ai, người đó có thái độ tiếp nhận như thế nào (người nhận thông tin), và với những tác động trực tiếp và gián tiếp nào? Trong phần lớn các trường hợp, các tác động của thông tin lại có tác động ngược trở lại người cung cấp thông tin, người này lại nói một điều gì đó mới, lại chịu một tác động liên quan đến qui tắc vòng tròn khá là phức tạp, trong đó có thể liên quan đến tất cả các tính chất, các ý định và các tác động của hành động của con người. Trên thực tế thì sự thu nhận kiến thức và thái độ của chúng ta đối với thông tin thường được cấu trúc trước một cách đa dạng, thế nhưng chúng ta vẫn thực hiện tốt sự trao đổi thông tin phức tạp đến mức hầu hết chúng ta chỉ ý thức được nó khi mà kết quả trao đổi thông tin có tính chất tiêu cực, ví dụ như có những điều người ta thực sự nghĩ thì lại bị hiểu trái ngược hoàn toàn. Đối với các mối liên hệ của chúng ta thì chỉ có điều quan trọng là các loại thông tin nhất định đối với cả ba thành tố (Người gửi – Thông tin - Người nhận) đều có những mối liên hệ riêng. Đây luôn luôn là trường hợp khi các thông tin chuyên biệt cần được trao đổi. Sau đó Người gửi và Người nhận phải được thông báo trước thông qua các tin tức gián tiếp để có thể hoàn toàn hiểu được nhau và có thể phản ứng phù hợp, kịp thời. Chúng ta lấy một con vịt quay ngon làm ví dụ. Trong sự hiểu biết thường nhật thì việc trò chuyện về nó chắc chắn là không có vấn đề gì. Thế nhưng, một người nghệ sĩ định vẽ hoặc chụp ảnh con vịt định trao đổi thông tin với một nhà hóa thực phẩm, người nhìn con vịt ở góc độ sinh lí thực phẩm, sẽ gặp phải những khó khăn về sự thông hiểu (đồng cảm) đối với cùng một đối tượng (con vịt). Những khó khăn này có thể tránh được khi tối thiểu
  14. là một trong hai phía có những hiểu biết sơ bộ về cách thức nhìn nhận và ý định của phía kia.Như vậy, để xác định khái niệm còn rất khái quát của chúng ta về „Khoa học“, chúng ta đã làm rõ thành tố thứ ba của khoa học mà lúc trước đã giới thiệu (hai thành tố đầu là “Khả năng khái quát hóa” và “Tính chính xác”): khả năng có thể khách quan hóa ra bên ngoài của kiến thức không phải gì khác là khả năng sản sinh ra kiến thức sao cho quá trình sản sinh này và các kết quả của nó càng có nhiều người, mà cũng bằng cách đó đã có những hiểu biết sơ bộ về khoa học, có thể hiểu được, chiêm nghiệm được và kiểm tra được. Chính điều này diễn ra ở trong các mối liên hệ thông tin – giao tiếp đặc thù. Bởi vậy, chúng ta đã luôn biết rằng tại sao không phải bất cứ ai cũng có thể làm khoa học, nếu như những nhà khoa học khác, cũng như những công chúng hiểu biết sơ bộ về khoa học, quan tâm đến ông ta một cách nghiêm túc. 3. Chúng ta tiếp thu những kiến thức có tính chính xác và khái quát như thế nào và chúng được cấu trúc như thế nào? Chúng ta hãy tìm hiểu cả hai thành tố đầu tiên trong định nghĩa lúc đầu của chúng ta về khoa học. Trước hết, hiểu biết thường nhật nói với chúng ta rằng tất cả chỉ là tương đối. Thực ra tôi muốn nói thêm một chút về sự hiểu biết thường nhật: sự hiểu biết cho thấy (không xuất phát từ mối liên hệ thông tin) ranh giới giữa “chính xác” và “có thể khái quát hóa được”, giữa “không chính xác” và “không thể khái quát hóa được” là không rõ rệt. Ranh giới này thường chỉ liên quan tới – cũng không ít hơn - một mức độ cao hơn của tính chính xác và tính có thể khái quát hóa được. Sau đây các bạn sẽ thấy rằng sự hiểu biết là có thứ bậc, tuy được tôi phân chia nhưng không phải là tùy ý. Nếu như chúng ta hoàn toàn không có các tiêu chí rõ ràng cho tính “chính xác” và “khả năng khái quát hóa được” thì việc cố gắng định nghĩa của
  15. chúng ta, như ban đầu, còn rất khái quát, là không thực hiện được – vì định nghĩa liên quan đến cả hai thành tố này. Các định nghĩa chỉ có ý nghĩa khi chúng phân biệt được điều cần định nghĩa, bằng những đặc điểm thật rõ ràng, với những điều được định nghĩa khác. Liệu từ bản chất của kiến thức có những đặc điểm chí ít cũng nói cho chúng ta biết có những phát biểu nhất định rõ ràng là không thể khái quát hóa được và không chính xác? Những đặc điểm này là có và chúng phát triển từ cấu trúc của “bộ máy tư duy” bẩm sinh của chúng ta và bộ máy này có giá trị đối với tất cả mọi người. 3.1 Kiến thức và lôgic, các chiến lược nhận thức theo phương pháp suy diễn Khả năng tư duy lôgic là phương thức tư duy bẩm sinh hoặc xuất hiện trong quá trình phát triển tuổi ấu thơ của từng người. Đây là cách tư duy đã bao gồm trong nó tất cả các nền tảng cho sự tư duy và hành động một cách hệ thống. Không phải lúc nào chúng ta cũng tư duy và hành động một cách hệ thống, nhưng khi định tiếp cận một vấn đề nào đó bằng lí trí, chúng ta không còn cách nào khác ngoài tư duy lôgic. Theo tinh thần của „lôgic trực tiếp“, về nguyên tắc thì khả năng hiểu của con người liên quan với sự tư duy theo các qui tắc lôgic. „Về nguyên tắc“ có nghĩa trước hết là các qui tắc tư duy không phụ thuộc vào kinh nghiệm Các nguyên lí nêu dưới đây, trong môi trường văn hóa châu Âu, phần nào đã đuợc Aristot (thế kỉ thứ 3 trước CN) trình bày, tất nhiên đã được biết đến từ trước đó rất lâu, ngay từ thời kì đầu của nhân loại: a. Qui luật không mâu thuẫn: cái gì mà đang tồn tại không thể trong cùng một điều kiện và vào cùng một thời điểm đồng thời vừa là thế này, vừa là thế khác; b. Qui luật đồng nhất: cái gì tồn tại thì đồng nhất với chính nó (ngoài ra đây cũng là hệ quả của định lí phản đối);
  16. c. Qui luật loại trừ cái thứ ba: Giữa cái tồn tại và cái không tồn tại của cùng một vật thể không có một trạng thái nào khác; d. Qui luật lí do đầy đủ: tất cả những gì tồn tại đều phải có nguyên nhân để tồn tại (không có tác động nào mà không có nguyên nhân) Trên cơ sở của „lôgic trực tiếp“ này, người ta đã xây dựng toàn bộ các hệ thống của lôgic hình thức, trong số đó những hệ thống được phát triển xa nhất là những hệ thống toán học. Như vậy, lôgic cho chúng ta một phương pháp tư duy rất chặt chẽ, cho biết khi nào các kết luận có thể là đúng hay sai. Nó chặt chẽ đến mức chúng ta hoàn toàn không thể tư duy một cách thực sự phi lôgic. Tuy chúng ta có thể mắc sai lầm về mặt lôgic, nhưng sau đó chúng ta phải nhanh chóng sửa chữa sai lầm dựa vào các qui luật của lôgic và tiếp tục tư duy một cách lôgic. Lôgic là phương thức tư duy không thể thay thế được của chúng ta, tuy về nguyên tắc chúng ta có thể phát biểu những điều không lôgic, nhưng không thể lấy chúng làm cơ sở cho tư duy. Các bạn hãy tự thử xem sao: thử tự suy nghĩ, ví dụ như một sự việc, trong cùng những điều kiện như nhau, có thể đồng thời vừa tồn tại lại vừa không tồn tại. Các bạn có thể tiếp tục tiến một cách tương tự, nếu các bạn thử suy nghĩ trái ngược lại những nguyên tắc lôgic được nêu ra ở đây. Các bạn sẽ không tiến xa thêm được với cách tư duy như vậy. Trong các nguyên lí trên có sự hấp dẫn đặc biệt về mặt chính xác, phạm vi giá trị, và khả năng có thể thẩm tra lại được. Nếu người ta thành công trong việc miêu tả hiện thực trong hệ thống nghiêm ngặt của các qui tắc tư duy thì hẳn đó sẽ là sự kết thúc của nhiều sự nghi ngờ, mà có thể là của tất cả mọi sự nghi ngờ. Và trong thực tế, lịch sử khoa học cận đại biết đến nhiều sự cố gắng của con người với mục đích xây dựng tất cả mọi kiến thức có thể có dựa trên các nguyên tắc này. Nói chung, người ta nêu lên chiến lược suy diễn như sau:
  17. Suy diễn là sự suy ra những lời phát biểu từ những lời phát biểu khác theo những qui luật của lôgic. Một ví dụ rất chung cho một kết luận có giá trị suy diễn là: Ban đêm tất cả các con mèo đều màu xám. Con mèo của tôi tên là Tôm. Ban đêm con mèo của tôi màu xám. Hai câu đầu là điều kiện và câu thứ ba là kết luận. Điều gì mà ở đây còn rất đơn giản thì trong các hệ thống toán học, với tính kết luận suy diễn rất sâu, tất nhiên còn phức tạp hơn nhiều. Các khoa học mà có sử dụng nhiều đến toán học, như các khoa học tự nhiên, người ta làm việc rất nhiều với các chiến lược suy diễn. Nhưng ví dụ như cả âm nhạc cũng dựa trên các suy diễn trong những hệ thống các âm thanh khác nhau. Cuối cùng thì những kết luận suy diễn đều luôn dẫn đến các phát biểu sai hoặc đúng. Đây cũng chính là lí do vì sao những môn khoa học kĩ thuật và khoa học tự nhiên chịu tác động mạnh bởi toán học lại được coi là các khoa học “cứng”. Nếu thực hiện các suy diễn toán học, người ta có thể tin chắc là không mắc sai lầm tính toán nào: kết quả chắc chắn phải như vậy và không thể khác được. Nhưng phải thận trọng vì ngay cả trong các khoa học “chính xác” cũng rất khó bác bỏ những khẳng định có vẻ như hoàn toàn vô lí. Ví dụ, trong những năm 20 của thế kỉ trước, một người Mĩ yêu thích thiên văn học đã quả quyết rằng trên mặt trời có thể có sự sống. Tuy nhiên không phải trên bề mặt của mặt trời mà là trong một cõi lạnh, được bảo vệ bởi bầu khí quyển dày đặc. Ông ta đưa ra một lí thuyết toàn vẹn về quan điểm này, lí thuyết định hướng triệt để theo những nguyên tắc của khoa học hiện đại. Để thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học chuyên môn đối với khẳng định của mình, ông treo giải thưởng với một khoản tiền lớn cho ai bác bỏ được khẳng định của ông. Vậy mà mãi sau khi ông chết, vào những năm
  18. 60 của thế kỉ, giải thưởng đó mới được trao, khi có nhà Vật lí đã bác bỏ ý tưởng đó một cách thuyết phục bằng những tính toán toán học. Điều chúng ta cần khẳng định như một thông điệp là: kiến thức tiếp thu được nhờ suy diễn vừa có thể khái quát hóa được, vừa chính xác. Hệ quả rút ra là kiến thức đáng tin cậy cũng luôn phải dựa trên các kết luận suy diễn. Tại sao lại “cũng” sẽ được chúng ta tìm hiểu tiếp theo dưới đây. 3.3 Kiến thức và kinh nghiệm, các chiến lược nhận thức theo phương pháp qui nạp Giờ chúng ta thấy lôgic có thể dẫn đến mọi kết luận có thể đúng, nhưng phát biểu của các kết luận này không nhất thiết phải đúng. Ví dụ câu nói: Tất cả cá suy nghĩ về khoa học đều buồn tẻ, bài giảng này là một sự suy nghĩ về lí thuyết khoa học, do đó các bạn phải thấy buồn tẻ. là một câu nói mà về mặt lôgic bắt buộc sẽ hình thành. Tôi chỉ hi vọng là kết luận tuy đúng về mặt suy diễn nhưng câu phát biểu đó lại không đúng. Điều gì khiến tôi có hi vọng như vậy? Rất đơn giản, vì kinh nghiệm của tôi cho thấy lời khẳng định ban đầu “Tất cả các suy nghĩ về khoa học đều buồn tẻ” là sai. Lí thuyết khoa học có thể là vấn đề rất hấp dẫn và việc tìm hiểu nó cũng có thể gây hứng thú cho các sinh viên. Tôi không đi đến nhận thức này thông qua sự suy diễn. Như vậy, chúng ta đã đến với thành tố cấu trúc thứ hai, đó là kiến thức của chúng ta được sắp xếp từ trước: nhận thức theo kinh nghiệm cần được định nghĩa như sau: Nhận thức theo kinh nghiệm là sự nhận thức thông qua 5 giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác, khứu giác cho chúng ta kiến thức. Tất nhiên, bên cạnh đó còn có những nhận thức không theo kinh nghiệm, hoàn toàn không được đánh giá thấp nó, là những nhận thức không được hình thành thông qua cảm nhận của các giác quan hoặc chỉ được hình thành rất xa cảm nhận của các giác quan: trong số đó, trước tiên là những
  19. nhận thức xuất hiện chỉ bởi tư duy thuần túy hay do sự tưởng tượng thuần túy. Nhưng chúng ta không bàn đến những nhận thức này ở đây. Tất cả chúng ta đều thường xuyên có những nhận thức theo kinh nghiệm và có ngay từ khi mới ra đời (từ khi các giác quan trong thai nhi bắt đầu phát triển). Sơ đồ cơ bản cũng rất đơn giản: năm giác quan của chúng ta ghi nhận các tín hiệu thu được và trí nhớ của chúng ta lưu giữ tần số xuất hiện. Từ sự thường xuyên lặp lại chúng ta suy ra xác suất xảy ra sự kiện. Bởi chúng ta muốn gặp thường xuyên như có thể những sự kiện dễ chịu và gặp ít như có thể các sự kiện khó chịu nên chúng ta không đơn giản thụ động ngồi chờ những gì năm giác quan sẽ báo hiệu cho chúng ta, mà hơn thế, chúng ta tác động vào môi trường xung quanh của mình để thay đổi chúng theo cách chúng ta mong muốn. Bản thân các giác quan của chúng ta chỉ có khả năng nhận biết một cách hạn chế. Các vật quá lớn hay quá nhỏ khiến chúng ta không thể nhìn thấy chúng, các âm thanh phát ra trong phạm vi tần số chúng ta không nghe thấy, các đồ vật, ví dụ như có thể quá nóng, khiến chúng ta không thể sờ tay, Để mở rộng khả năng nhận thức của mình, con người đã phát triển những công cụ và dụng cụ. Những công cụ và dụng cụ đó khiến cho ngày nay chúng ta chỉ còn có thể nhận biết trực tiếp được một phần nhỏ những hiện tượng đã quen thuộc về mặt kinh nghiệm. Ngay chính cuộc sống hàng ngày của chúng ta cũng diễn ra một phần ở phía bên kia những gì chúng ta có thể nhận thức trực tiếp (điện, đài, vô tuyến, điện thoại di động, ). Mặc dầu vậy, chúng ta vẫn có thể tác động đến những sự vật nằm ngoài nhận thức trực tiếp của chúng ta, nếu không thì những thành quả đã nêu không còn có tác dụng hoạt động nữa. Chiến lược nhận biết suy ra từ đó người ta gọi là: Qui nạp Khi việc quan sát một lượng lớn tối đa có thể được các phần tử trong những điều kiện khác nhau mà dẫn đến phát hiện ra tất cả các phần tử
  20. trong lượng được quan sát này đều có cùng một tính chất thì có thể suy ra là tất cả các phần tử loại này đều có cùng tính chất đó, kể cả những phần tử không được quan sát. Sự khác biệt cơ bản đối với suy diễn là các điều kiện cho kết luận được rút ra từ kinh nghiệm. Sự khác biệt được làm rõ qua ví dụ sau: Tất cả mọi người rồi sẽ phải chết, tôi là một con người, vì vậy tôi sẽ chết. Đây là một câu suy diễn lôgic. Chỉ có câu sau là có thể có tính qui nạp: Tất cả các quan sát từ trước đến nay đều cho thấy rằng tất cả mọi người đều chết, tôi là một con người, vì vậy xác suất rất cao là tôi sẽ chết Ở đây có một sự khác biệt, về mặt hậu quả có thể không quan trọng, đối với câu suy diễn, vì tôi cũng cho rằng tôi sẽ chết. Nhưng đó là một sự khác biệt lớn trong phương pháp: những kết luận mang tính qui nạp gắn các điều kiện vào những xác suất mang tính kinh nghiệm. Nhờ vậy, các kết luận kết nối mô hình tư duy lôgic với những điều mà các giác quan của chúng ta truyền lại cho chúng ta. Ngoài ra, điều này còn lôi cuốn người ta cố gắng tăng thêm xác suất về những chuyện dễ chịu và làm giảm thiểu đi xác suất về những chuyện khó chịu. Đương nhiên là khó có thể chấp nhận cái chết của tôi. Ở đây chúng ta đang bàn về sự suy xét qui nạp dạng đặc biệt mà đáng tiếc là có lí do rất rõ ràng để có thể cho rằng không chỉ tất cả các quan sát từ trước đến nay đều chứng minh sự không bất tử của con người, mà đó cũng là một phần của thuộc tính của toàn bộ thiên nhiên sống động: tất cả các sinh vật đều sẽ phải chết. Như vậy, ở đây chúng ta xuất phát từ một tình trạng luôn xảy ra và có tính bao quát. Tình trạng này cho phép chúng ta, với hạn chế
  21. rất nhỏ cho tới nay và nói chung được quan sát về mặt thực nghiệm, nói về một qui luật tự nhiên (Sinh học). Tương tự như vậy đối với định luật hấp dẫn, các định luật nhiệt động, Các qui luật khoa học được phát hiện bằng phương pháp qui nạp phải thỏa mãn ba điều kiện: 1. Việc khái quát hóa phải dựa trên một số lượng lớn các quan sát; 2. Các quan sát phải được lặp lại dưới nhiều điều kiện khác nhau; 3. Không có hiện tượng được quan sát nào được phép mâu thuẫn với tình trạng xảy ra đều đặn đã được quan sát thấy. Bởi đây luôn là các trường hợp quan sát – chỉ khi người ta tham gia vào nó một cách tích cực-, mà luôn phức hợp một cách tùy ý (các bạn hãy nghĩ đến các khoa học tinh thần và khoa học xã hội, là những khoa học không xuất hiện từ những định luật tự nhiên), cho nên luôn có những qui tắc nghiêm ngặt đối với độ giá trị, độ tin cậy của các phát biểu mang tính qui nạp: - Số lượng các quan sát phải có thể được đánh giá trong mối tương quan với tổng thể, - Các điều kiện quan sát phải được mô tả một cách bao quát, - Phạm vi phân bố các quan sát phải được đo, - Các kết luận rút ra từ các quan sát phải tập trung một cách chặt chẽ vào số lượng các quan sát và các điều kiện quan sát, Gần đây, trong một tạp chí tuần của Đức, tôi đã đọc được một ví dụ về một phát biểu không nghiêm túc theo tinh thần trên. Ở đấy có một bài báo viết về những tiến bộ trong các nỗ lực cải cách của Việt Nam và đưa ra ví dụ là lượng xe ô tô con Mercedes được bán ra đã tăng 48% trong thời gian từ 2001 đến 2002 (ở Đức, xe Mercedes cũng là một loại xe đắt tiền). Độc giả người Đức có thể suy ra từ bài báo trên là sự phồn vinh ở Việt Nam đã tăng mạnh. Nhưng tình cờ trước đó tôi đọc trên tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam thấy nói rằng hãng Mercedes cả năm 2004 đã bán được trên
  22. toàn Việt Nam chỉ hơn 200 chiếc. Như vậy, lượng xe bán ra được chỉ tăng 100 chiếc. Một con số nực cười, nếu tác giả bài báo nêu ra thì sẽ có tác dụng ngược lại với tuyên bố của ông ta, tức nó sẽ chỉ ra rằng Việt Nam là một nước rất nghèo, trong đó gần 100% dân chúng có những mối quan tâm hoàn toàn khác với việc đi xe ô tô Mercedes. Lần sau, khi các bạn đọc các con số thông kê, các bạn hãy nhớ đến ví dụ này. Nếu thống kê đó không chứa đựng các thông tin về 4 tiêu chí vừa nêu đối với những phát biểu mang tính kinh nghiệm có độ tin cậy thì các bạn hãy nghi ngờ. Đồng thời, đối với các đề cương nghiên cứu thực nghiệm của mình, các bạn phải đặt ra nguyên tắc là chỉ đưa ra các ý kiến có độ tin cậy mà không được đưa ra những điều điều tưởng tượng và những tô vẽ màu mè cho các ý kiến. Tính chính xác và khả năng có thể khái quát hóa được phải được đưa lên trước hết. Giờ tôi đề cập đến các điều kiện quan trọng tiếp theo đối với việc tạo ra những kiến thức kinh nghiệm có độ tin cậy: Giữa các chủ thể đang quan sát / đang tiến hành thí nghiệm (tức là con người) và các khách thể tương ứng đang được nghiên cứu (tức là các sự việc hay các cá nhân hoặc các nhóm được quan sát) phải có sự độc lập càng lớn càng tốt. Khi mối quan hệ Chủ thể - Khách thể còn chưa được làm sáng tỏ, ngay lập tức nảy sinh vấn đề là người quan sát chỉ còn có thể tiến hành các quan sát một cách chủ quan. Có nghĩa là, khi đối tượng quan sát bị thay đổi thông qua sự quan sát của cá nhân người nghiên cứu thì các kết quả cũng vậy, sẽ mang tính chủ quan. Những quan sát này có thể rất thú vị đối với người quan sát thì đối với người khác chúng như những kiến thức kinh nghiệm mang tính chính xác nhưng lại tương đối vô dụng. Dựa vào ý nghĩa của các nguyên tắc do nhà triết học người Pháp René Descartes (1596 – 1650) đưa ra, lát nữa tôi sẽ còn trở lại đề cập về lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội.
  23. Các qui luật tư duy lôgic và tính lặp đi lặp lại thường xuyên, đều đặn thu được từ kinh nghiệm cũng tạo thành kiểu mẫu cơ bản mà theo đó chúng ta tạo ra sự nhận thức dựa trên lí trí và các thông tin chính xác. Bao giờ cũng là như vậy chừng nào chúng ta tiếp cận các vấn đề bằng lí trí. Những điều chúng ta thích làm đương nhiên là „tạm nghỉ tư duy theo lí trí“ để chơi đùa với các yếu tố phi lôgic và khó có thể xảy ra. Trò chơi với „điều không thể có mà lại có căn cứ“ ngay bên cạnh lôgic và xác suất xảy ra theo kinh nghiệm là một nguồn tư liệu phong phú cho sự hài hước, gây sợ hãi, bực tức và sự tự vệ. Thật may mà có điều đó, thế nhưng nó không thuộc về phạm vi kiến thức chính xác. Như các bạn nhận thấy, dần dần đã bắt đầu khó hơn. Thế nhưng, để đạt được kiến thức chính xác thông qua thực tế phức tạp bất kì, đòi hỏi phải có những chiến lược nhận thức phù hợp. Nếu bây giờ tôi hỏi các bạn, tại sao lại khó, thì có lẽ các bạn sẽ trả lời ngay: “vì điều đó quá mang tính lí thuyết“. Điểm tới đây tôi sẽ đề cập đến vấn đề này. 3.3 Không có những tri thức đáng tin cậy nào mà lại không có những lí thuyết Chúng ta thường hay gặp những người chỉ quan tâm nhiều hơn đến các sự thực. Họ xuất phát từ quan điểm là cần phải biết các sự vật quan hệ với nhau như thế nào và họ tránh những suy xét lí luận về chuyện là sự việc họ nhìn thấy có đúng thế không hay có lẽ lại hoàn toàn khác hẳn. Đó là những người theo chủ nghĩa thực dụng, họ tin tưởng chắc chắn rằng họ biết cái gì là tốt nhất và họ luôn sẵn sàng hành động. Thật tốt là có người như vậy và chúng ta không nên trách gì họ. Suy cho cùng, người ta không bao giờ có thể suy nghĩ đủ hết tất cả. Nhưng trong mối tương quan với vấn đề chúng ta đang bàn thì niềm tin vào những sự thực thuần khiết, những điều mà tự nói lên tất cả về mình, là điều hoàn toàn vô lí: Biển của “sự thật” là biển lặng
  24. Những sự thật riêng rẽ đứng cạnh nhau mà không được liên kết với nhau thì sẽ vô nghĩa. Tất cả chúng ta suy nghĩ và giao tiếp trong các mối liên hệ, trong khi đó các sự vật như nhau sẽ có ý nghĩa khác nhau khi nằm trong các mối liên hệ khác nhau. Như vậy, những ấn tượng không có liên quan với nhau sẽ chỉ tạo ra những kiến thức (có thể được hiểu và được truyền đạt tiếp) khi mà người ta giải thích được các mối liên hệ. Phân tích kĩ hơn, điều này có nghĩa là: - Những giải thích sơ bộ theo cách định nghĩa phải làm rõ được nội hàm của các khái niệm quan trọng nhất là gì? - Việc đặt giả thiết về các mối quan hệ: các hiện tượng này có mối quan hệ như thế nào đối với nhau? - Ý nghĩa và mục đích của việc nêu vấn đề trong phạm vi của giả thiết này là gì? - Phải sắp xếp các kết quả như thế nào? CÁC LÝ THUYẾT Theo tinh thần cơ bản này, các lý thuyết là những kiểu mẫu mà căn cứ vào đó chúng ta sắp xếp và giảng giải những sự việc chúng ta nhận biết. Nếu như vậy, trong tất cả các tình huống suy nghĩ và tình huống giao tiếp có ý nghĩa, tất cả chúng ta ai cũng là những nhà lí luận. Bởi vì chúng ta có thể thâu tóm các định nghĩa khác nhau, các giả thiết về các mối liên hệ, việc đặt vấn đề và các kì vọng về sự phát triển vào một phức hợp các mối quan hệ này hay khác (với mỗi một phức hợp quan hệ có những ý nghĩa khác tương ứng), nên về nguyên tắc cũng sẽ không có một lí thuyết nào là duy nhất đúng, mà có những lí thuyết khác nhau để giải thích các mối quan hệ. Trong đó sẽ có cả những lí thuyết kì quặc nhất. Tất cả chúng ta đều biết trẻ em hoặc cả một số người lớn có những
  25. cách suy luận mà chúng ta thấy buồn cười hoặc ngớ ngẩn. Nhưng những cái mà ta cho là buồn cười thì có thể những người khác lại thấy là rất hợp lí và có thể là rất có giá trị đối với họ. Các bạn hãy nghĩ đến các tôn giáo (ví dụ như đạo Thiên Chúa giáo tin vào một Chúa Trời gồm ba ngôi một thể, trong đó một (Chúa Giê su) đã trở thành người nhờ sự sinh ra của Đức Mẹ đồng trinh (như nhiều người Thiên Chúa giáo tin vậy!), lập ra Đạo Thiên Chúa và sau khi phục sinh từ cái chết lại trở về thành Chúa Ba Ngôi. Các mối quan hệ rõ ràng giữa lý thuyết và các sự kiện từ lịch sử khoa học là rất dễ thấy. Những mối quan hệ này dạy cho chúng ta thấy rằng: 3.4 Các lý thuyết được thử nghiệm qua các sự kiện, không phải các sự kiện dẫn đến các lý thuyết Ví dụ nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa học châu Âu có liên quan đến câu hỏi: Mặt Trời và các vì sao quay quanh Trái Đất hay là Trái Đất là một vệ tinh của Mặt Trời. Gần 2000 năm, khoa học từ thời Cổ Hy Lạp thấy trong đó không có gì phải bàn cãi: rõ ràng Trái Đất là trung tâm của vũ trụ. Những nghi ngờ mà người ta nhận thấy trong quan sát, mà thỉnh thoảng lại hay xuất hiện, được loại bỏ đi bởi các lý thuyết phức tạp, kể cả các tính toán còn phức tạp hơn. Vào giữa thế kỉ 16, khi mà Cô-péc-níc đưa ra lý thuyết là Trái Đất tự quay xung quanh mình và cùng với các hành tinh khác quay xung quanh Mặt Trời, ông và những người ủng hộ ông đã gặp phải rất nhiều rắc rối. Dẫu sao ông cũng đã nghi ngờ về một nguyên lý đang là nền tảng không chỉ cho khoa học thời bấy giờ mà còn cho toàn bộ Thế giới quan của tôn giáo. Về mặt khoa học - và đây chính là vấn đề - ông gặp phải khó khăn là ông không thể chỉ ra được những quan sát của mình cũng như những mâu thuẫn trong hệ thống lý thuyết thời đó, để từ đó chứng minh sự khẳng định của mình. Ngược lại: các khẳng định của ông đã bị nhiều nhà khoa học phản bác là sai. Luận cứ chính của họ là ví dụ đá rơi từ tháp: nếu Trái Đất thường xuyên quay với tốc độ cao xung
  26. quanh quanh trục của mình thì một hòn đá được thả rơi xuống từ tháp sẽ không rơi vuông góc với mặt đất mà rơi xa cách tháp một khoảng nhất định, bởi vì trong khi hòn đá rơi thì Trái Đất vẫn tiếp tục chuyển động. Nhưng điều đó rõ ràng là đã (và đang) không xảy ra. Như vậy, Trái Đất không thể chuyển động và toàn bộ hệ thống Cô-péc-níc có thể bị bác bỏ bằng thực nghiệm vào bất kì lúc nào. Mãi đến hơn 100 năm sau - thế giới quan Cô-péc-níc khi đó vẫn chỉ là quan điểm khoa học của thiểu số- Ga- li-lê mới phát triển lý thuyết về quán tính của vật chất mà ngày nay chúng ta biết đến như là định luật quán tính. Phải với lí thuyết này ví dụ đá rơi từ tháp mới có thể được giải thích, để cho thấy là Cô-péc-níc đúng. Hơn nữa, kĩ thuật quang học được phát triển trong khoảng thời gian đó đã cho phép Ga-li-lê làm việc với kính viễn vọng. Khi quan sát bằng kính viễn vọng ông đã nhận thấy Sao Mộc và các vệ tinh của nó là ví dụ đầu tiên, có thể được quan sát thực sự, về hệ Mặt Trời. Khoảng 50 năm tiếp theo, cùng với việc Niu-tơn phát hiện ra trọng lực và lý thuyết hấp dẫn, đã xuất hiện một hệ thống lí thuyết vật lý hoàn toàn mới, đặt nền móng cho khoa học hiện đại. Với sự phát triển của lý thuyết tương đối (Albert Einstein 1879 – 1955) và lý thuyết lượng tử (Werner Heisenberg 1901 - 1976), trong khoảng thời gian đó hệ thống lý thuyết trên của Niu-tơn đã bị hạn chế bớt khả năng giải thích, một phần nào còn bị hoàn toàn thay thế bằng kiểu mẫu giải thích mới. Ví dụ trên dạy cho chúng ta 3 điều: 1. Về nguyên tắc, sự phát triển khoa học đạt được không phải thông qua việc phát hiện ra các sự kiện mới mẻ, mà thông qua sự phát triển của các kiểu mẫu giải thích mới đối với các sự kiện quen biết, đó chính là các lý thuyết mới. 2. Sự tiến bộ khoa học, bao gồm cả việc thành lập lý thuyết mới, thí nghiệm và suy diễn, không phải là một quá trình tuyến tính, không gián đoạn, trong đó người ta bổ sung những cái mới vào những cái đã biết, mà
  27. nó đạt được thông qua những cuộc cách mạng, trong đó các qui luật và thế giới quan cũ có thể bị sụp đổ. 3. Không có lý thuyết nào đưa ra những kiểu mẫu giải thích đầy đủ về hiện thực, mà bao giờ cũng tồn tại những phần còn chưa được giải thích về mặt thực nghiệm, bởi thế mới khuyến khích sự ra đời của các lý thuyết. Tôi đề cập đến đặc điểm cuối cùng của khoa học mà cần phải đưa vào trong định nghĩa của chúng ta: 3.5 Khoa học học hỏi từ những thử nghiệm và từ sự nhầm lẫn Vì trên thế giới, ở các nhà trường phổ thông và đại học, người ta hầu hết không quan tâm mấy đến việc học hỏi một cách hệ thống từ những sai lầm, mà chỉ luôn quan tâm đến giải pháp “đúng”, vậy nên nguyên tắc này là thực sự tầm thường: mọi sự học hỏi đều đạt được thông qua thử nghiệm và sai lầm. Thế nhưng nguyên tắc này chứa đựng một thành tố cuối cùng, quan trọng trong chiến lược khoa học cuả chúng ta. Khi chúng ta tiếp nhận nó một cách sự thực nghiêm túc và xây dựng nó một cách hệ thống thành một chiến lược khoa học của chúng ta, thì điều đó có nghĩa là: Khoa học là sự học hỏi từ những sai lầm, với hệ quả là khoa học học hỏi ngày càng tốt hơn khi mà các khả năng mắc phải sai lầm càng được công khai một cách rõ ràng. Vậy nếu ở đâu người ta có quan niệm rõ ràng khoa học sẽ tiến xa nhất nhờ học hỏi từ sai lầm, thì ở đó việc học tập khoa học là năng động nhất, ở đó những chiến lược thông thường mà chúng ta áp dụng để xây dựng các lý thuyết hay các tòa nhà tư tưởng sẽ bị đảo ngược. Chúng ta phải khuyến khích những người khác tìm kiếm các sai sót trong các lý thuyết, các quan sát và các kết luận của chúng ta. Để làm việc đó, phải đưa ra được những giả thuyết về luận điểm xuất phát, những lí thuyết được ứng
  28. dụng, các đối tượng được khảo sát, các phương pháp nghiên cứu và các điều kiện rõ ràng cho các kết luận: - chúng phải tường minh và càng dễ cảm nhận một cách thấu đáo càng tốt; - chúng phải chỉ rõ các giới hạn ở mọi điểm và các nghi ngờ có thể có; - chúng phải được thảo luận tự do về mặt chuyên môn một cách công khai, mà khi đó cả hai việc, tìm ra được điều gì mới mẻ hay có thể khám phá ra những sai lầm, đều mang lại sự thú vị như nhau. Để không hiểu nhầm, xin nói rằng ở đây chúng ta đang nói đến chính bản thân quá trình khoa học chứ không nói đến sự vận dụng những hiểu biết khoa học. Khi áp dụng những kiến thức khoa học phải chấp nhận trạng thái khoa học hiện có và sử dụng chúng. Tất nhiên, ngay cả những người áp dụng các kiến thức khoa học mới mẻ ở từng thời kì cũng được khuyên nên tiếp nhận các giải pháp khoa học với một thái độ nghi ngờ, trước hết ở những chỗ mà các qui luật mang tính khoa học còn chưa có hay còn đang được tranh cãi. Đó là một đòi hỏi lớn về mặt khoa học mà nó thường hay khó thống nhất với thực tế. Thông thường, chúng ta cấu trúc một cái gì đó bằng cách ghép các phần tử khác nhau lại với nhau sao cho chúng tạo thành một tổng thể bền vững. Nếu cảm thấy thành công, chúng ta sẽ tìm cách che chắn, bảo vệ để chống lại sự phê phán. Rốt cuộc, môi trường xung quanh ban thưởng cho chúng ta vì những cấu trúc hoàn hảo ở mức cao nhất như có thể và trừng phạt chúng ta vì những kết quả mắc sai lầm. Và các nhà khoa học cũng là những con người rất mong muốn được ban thưởng. Họ quí trọng uy tín của mình và thất vọng khi sự lao động cần cù mà họ đầu tư vào công việc được đáp lại bằng cách người ta chứng minh những sai lầm họ mắc phải. Quả thật, cả hai phía đều học hỏi được rất nhiều, người mắc sai lầm và người chỉ ra sai lầm, nhưng người chỉ ra sai lầm rõ ràng sẽ có cảm giác dễ chịu hơn người đã bị chứng minh là mắc sai lầm. Bởi vậy,
  29. ngay cả trong khoa học người ta cũng biết đến nhiều trường hợp giả mạo kết quả. Nhưng những trường hợp đó sẽ bị trừng trị một cách nghiêm khắc: những nhà khoa học như thế hầu hết là không có tương lai nữa và sẽ phải tìm cho mình một công việc khác ngoài lĩnh vực khoa học. 3.5 Vậy thì khoa học cần phải là gì? Với tất cả những gì đã trình bày trên đây, chúng ta có tất cả các thành tố mà từ đó có thể kết hợp lại thành một khái niệm đầy đủ ý nghĩa về khoa học. 1. Các phát biểu khoa học trước hết và nói chung phải thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu về lôgíc trình bày. Tiền đề này cũng là nền tảng cơ bản cho nguyên lý cơ bản về khả năng truyền đạt được giữa các chủ thể cùng tham gia nhận thức, vì tuy các cá nhân có thể suy nghĩ và hành động một cách phi lôgíc, nhưng suy nghĩ và hành động chung của mọi người đòi hỏi có một cơ sở lôgíc chung. 2. Về nguyên tắc, sự tiếp thu các tri thức khoa học và khả năng nhận thức đạt được một cách hệ thống thông qua các lý thuyết. Chỉ thông qua việc sắp xếp vào những mối liên hệ mang tính chất hệ thống, người ta mới có thể nhận biết được các cấu trúc, các trạng thái xảy ra lặp đi lặp lại, các tính hợp qui luật. 3. Các phát biểu khoa học phải tường minh ở từng bước và có thể bị phê phán. Chỉ có như vậy sự đúng đắn của các kiến thức khoa học tương ứng mới có thể được kiểm tra trong từng trường hợp riêng. Kết luận đảo ngược lại thì điều đó có nghĩa rằng các hệ thống tư tưởng khép kín (khó hiểu) là những hệ thống phi khoa học. Các mối tương quan được đưa ra nhằm lí giải cho những hệ thống khép kín hoặc là những điều khó hiểu (ngay cả đối với các nhà chuyên môn) đến mức không thể cảm nhận được một cách thấu đáo, và/hoặc là những điều mà các cách đặt vấn hay khảo sát vấn đề được sắp xếp sao cho kết quả thu được luôn luôn phải xác nhận sự khẳng định ban đầu.
  30. 4. Từ những điểm nêu trên có thể suy ra là các phương pháp nhận thức khoa học bắt buộc phải có tính chất phản thân. Điều đó có nghĩa là các chiến lược của nhận thức khoa học và của tiến bộ khoa học luôn phải được liên kết phản hồi với các tiền đề của chúng. Một sai lầm lôgíc hay một sự thiếu cẩn trọng mang tính hệ thống có thể làm cho người ta nghi ngờ về tính khoa học của một chuỗi toàn bộ các lý giải hay chứng minh. Ngay cả trong mối tương quan giữa việc đặt vấn đề khoa học, các phương pháp được áp dụng với kết quả nghiên cứu phải có một mối quan hệ luôn mang tính chất phản hồi, miêu tả càng chính xác càng tốt sự khác biệt giữa dự định và kết quả. Tổng hợp lại, khoa học có thể được định nghĩa như sau: Khoa học là một phương thức sản sinh ra tri thức và nhận thức một cách đặc biệt có tính chất hệ thống, vì: - Không có sự mâu thuẫn trong lôgíc trình bày - Thấu suốt về lí luận - Tường minh - Tính phản thân - Có thể phê phán được Khi đặt ra các thước đo trên, người ta cần phải chú ý đến việc tuân thủ chúng một cách nghiêm khắc: dẫu sao thì khoa học trong xã hội hiện đại của chúng ta cũng có địa vị uy tín tối cao, nên không hiếm khi nó cũng được xem như dấu hiệu của một tín ngưỡng mới. Ngoài ra, người ta chỉ dành được một trình độ khoa học sau một thời gian học tập, nghiên cứu lâu dài, tốn kém và bằng lao động trí óc vất vả, và trong phân công lao động xã hội, những người được đào tạo khoa học rất hay phải đảm nhận những nhiệm vụ với trách nhiệm đặc biệt cao, những nhiệm vụ được trả công bởi đa số dân chúng không tham gia hoạt động trong lĩnh vực khoa học với những đặc ân khác nhau và cũng thường có mức thu nhập cao hơn trung bình.
  31. Tôi muốn lưu ý các bạn đến một điểm cuối cùng mà nhất thiết có liên quan đến sự trao đổi thông tin – giao tiếp đặc thù trong phạm vi khoa học. Để khoa học có thể nghiên cứu thành công theo những phương pháp riêng của mình, nó cần có một quyền tự chủ tương đối. Thực ra, khoa học chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố ngoài khoa học: bởi trong sự phân công lao động xã hội, khoa học phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nên nó không thể xây dựng mục đích nhận thức tự thân cho riêng mình. Luôn có những tác động trước và ngoài khoa học, chúng ảnh hưởng một cách quyết định tới cách đặt vấn đề khoa học, tài trợ cho nghiên cứu khoa học và sử dụng các kết quả nghiên cứu đó. Để có thể đạt được những kết quả như vậy, khoa học cần đến những khoảng tự do riêng để có thể hoạt động theo những nguyên tắc khoa học nghiêm ngặt của nó. Những mối quan tâm và quyền lợi bên ngoài không được phép làm ảnh hưởng đến quá trình hoạt động khoa học, vì các tiêu chuẩn hoạt động của nó tuân thủ các nguyên tắc khác. 4. Thực tế khoa học phát triển như thế nào? Đối với câu hỏi thực tế khoa học phát triển tiếp tục như thế nào, tôi đã nêu ra một số những nhận xét ngắn. Những nhận xét đó đã đưa đến kết luận rằng lịch sử khoa học cho đến nay chỉ cho chúng ta thấy các tiến bộ khoa học không diễn ra theo đường thẳng mà theo các bước nhảy. Trước khi tôi đề cập ngắn gọn về vấn đề này và giới thiệu vắn tắt cho các bạn thấy các lý thuyết thuộc về vấn đề này, mà hầu hết đã được chấp nhận, chúng ta sẽ giải thích một số khái niệm cần thiết và sắp xếp các khái niệm đó. Việc giải thích khái niệm sẽ liên quan đến câu hỏi, tiến bộ khoa học là gì. Tôi đề nghị các bạn định nghĩa nó như sau: Tiến bộ khoa học là sự nhận biết và xử lí các mối quan hệ ngày càng phức tạp hơn với sự chuyên môn hóa ngày càng mạnh hơn.
  32. Như vậy, tiến bộ khoa học là sự nâng cao một cách hệ thống tính phức hợp cả về mặt nhận biết lẫn về mặt tác động đối với thế giới bên trong và bên ngoài. Trong khi đó chúng ta biết rằng, sự phát triển khoa học tạo nên bản chất cốt lõi/nội dung cơ bản của những tranh luận tiếp theo của khoa học. Trên cơ sở này, vào đầu những năm 60 của thế kỉ trước nhà lý thuyết khoa học Mĩ là Thomas Kuhn (1922 - 1996) đã phát triển một quan điểm, cho đến nay vẫn có rất nhiều ảnh hưởng, về vấn đề khoa học phát triển như thế nào. Tác phẩm chính của ông là “Cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học” (“The Structure of Scientific Revolutions”, 1962). Tôi muốn giới thiệu vắn tắt cho các bạn tác phẩm đó, cũng bởi nó đưa ra quan điểm song song, đáng chú ý, với quan điểm mác xít về sự phát triển xã hội, mặc dù Kuhn không hề là người theo chủ nghĩa Mác. Theo hình dung của Kuhn, sự phát triển khoa học diễn ra theo chu trình như sau: 1. Các nhà khoa học làm việc trong khuôn khổ một lĩnh vực chuyên môn (cộng đồng khoa học) công nhận các những giả thiết lý thuyết cơ bản chung, các định luật và các phương pháp (ông ta gọi các nền tảng được công nhận này là các tiền đề) trong một giai đoạn mà Kuhn gọi là giai đoạn “khoa học bình thường”. 2. Vì không có một mô hình nào có thể giải thích một cách thỏa đáng mọi hiện tượng của một chuyên ngành hay một nhóm chuyên ngành, cho nên mô hình mà hiện đang được xem là có giá trị rồi dần dần cũng sẽ rơi vào khủng hoảng trong các cuộc tranh luận khoa học tích cực về giới hạn của mỗi mô hình. 3. Lúc đầu chỉ có một số ít các nhà khoa học, đặc biệt là những nhà khoa học không thỏa mãn với mô hình, tìm cách giải quyết cuộc khủng hoảng này và bằng cách đó mà gây ra một cuộc cách mạng.
  33. 4. Dựa trên mô hình hoàn toàn mới này, các hoạt động khoa học thông thường của giai đoạn “khoa học bình thường” lại được phát triển. 5. Sau một thời gian nhất định, giai đoạn “khoa học bình thường” lại rơi vào khủng hoảng, Trình tự như trên của tiến hóa và cách mạng liên quan không chỉ đến sự thay đổi một cách toàn bộ của các mô hình, mà còn đến sự giao tiếp và cách cư xử trong nội bộ cộng đồng khoa học. Ví dụ, hầu hết các nhà khoa học không hiểu rõ hoặc chỉ hiểu một phần nào về mô hình mà đang có giá trị chi phối trong cộng đồng khoa học của mình. Chính bản thân họ được đào tạo tạo với mô hình này, họ thực hiện các công việc khoa học thường ngày của mình theo mô hình này và thường xuyên phải làm việc với các vấn đề rất cụ thể. Thậm chí họ không thể thường xuyên đặt nghi vấn về mô hình đang có giá trị vì điều đó không chỉ cản trở họ tập trung vào kế hoạch khoa học của mình, mà còn đe dọa sự công nhận họ trong phạm vi cộng đồng khoa học của mình. Phải trải qua một thời gian thì các khả năng của một mô hình đã được thiết lập mới được tiến hành thử nghiệm hết. Chỉ trong khủng hoảng, khi rõ ràng là các kiểu mẫu giải thích đã được thiết lập ổn định đang ngày càng vấp phải những giới hạn thì sự không hài lòng với chúng ngày càng tăng và cùng với nó là sự sẵn sàng tìm cách thay thế các kiểu mẫu lí giải cũ bằng những kiểu mẫu lí giải hoàn toàn khác. Các kiểu mẫu giải thích mới đó phải hoàn toàn khác, vì trong giai đoạn này tuy khả năng của mô hình đã được thiết lập ổn định đã được khai thác hết, nhưng điều này vẫn chưa được toàn thể cộng đồng khoa học của chuyên ngành đó thừa nhận. Nếu cần, các nhà khoa học “cách mạng” sẽ dấn thân vào một sự nguy hiểm lớn lao, trước sau vẫn đặt nghi ngờ đối với mô hình đã được thiết lập ổn định. Ngoài ra, họ thường không biết liệu giải pháp thay thế của họ có thực sự được chấp nhận như là một mô hình mới hay không.
  34. Tất nhiên những quan điểm của nhà Vật lí học Kuhn (nhà Vật lí mà về sau chuyển sang nghiên cứu lịch sử khoa học) đặc biệt thuyết phục được tôi, một nhà khoa học xã hội. Sự hiểu biết của ông phát triển từ sự quan sát và giải thích đối với cộng đồng khoa học, tức là đối với các nhóm xã hội. Vấn đề nảy sinh từ phương pháp xem xét này là khi có sự thay đổi mô hình thì khó có thể xác định được rằng đó là một sự tiến bộ, một sự trì trệ hay thậm chí là một bước thụt lùi. Nhân đây, tôi cũng muốn công nhận rằng định nghĩa mà tôi đưa ra ở trên về sự tiến bộ khoa học không giải quyết được vấn đề này, mà chỉ đơn giản là lờ nó đi. Sự tăng tính phức hợp thật ra chỉ là một thước đo định lượng. Trong bối cảnh này, định nghĩa đã thử nêu ở trên về sự tiến bộ khoa học còn phải được mở rộng thêm bằng các thông tin mang tính định lượng. Chỉ với những thông tin này mới có thể tranh luận một cách ý nghĩa về chuyện mô hình mới có thực sự là một sự tiến bộ của khoa học hay không. Điều này đồng thời cũng có nghĩa là thảo luận câu hỏi: thực ra khoa học cần phải phục vụ cái gì? Vì không có thời gian để đi sâu vào câu hỏi triết học này, tôi chỉ muốn đưa ra một câu trả lời rất chung chung: tiến bộ khoa học được đo theo mức độ có thể ứng dụng nó để phục vụ sự bình an thịnh vượng của nhân loại đến chừng nào. Bằng “cuộc du ngoạn ngắn ngủi” vào lý thuyết về sự phát triển khoa học, tôi đi đến vấn đề: 5. Hai dạng quan trọng của kiến thức Khi tôi lấy hai ví dụ từ hai ngành khoa học khá lâu đời, tức Triết học và Vật lí học, bên cạnh tất cả những sự giống nhau về mặt khoa học thì chúng vẫn là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Chúng khác nhau đến mức các nhà khoa học của cả hai ngành nói chung hoàn toàn không hiểu ngành kia đang làm gì. Ở đây có hai khả năng để có thể phân biệt: khả năng đầu tiên là phân biệt theo đối tượng nhận thức, khả năng thứ hai là phân biệt theo dạng nhận thức mà cuối cùng cần phải thu được. Về sau tôi sẽ đề cập
  35. đến khả năng đầu tiên, còn bây giờ tôi muốn tập trung vào khả năng thứ hai. Xét từ góc độ kết quả thì không khó khăn gì cũng có thể nhận ra rằng Triết học chủ yếu giải đáp các câu hỏi về ý nghĩa, còn Vật lí chủ yếu giải đáp các câu hỏi về mục đích. Như vậy, Triết học tạo ra những kiến thức định hướng và Vật lí tạo ra những kiến thức công cụ. Tôi nêu một ví dụ bình thường để giúp phân biệt rõ hơn: tôi chuẩn bị làm món trứng ốp-lếp. Từ góc độ của kiến thức định hướng, ví dụ như tôi có thể triết lí về chuyện khẩu vị cá nhân khi chuẩn bị đồ ăn cho đến nghệ thuật nấu ăn cao cấp đối với các món trứng. Hoặc tôi có thể triết lí về con gà con bị tước mất quyền được sống với chúng ta. Thậm chí nó có thể trở thành một chú gà trống thật tuyệt đẹp. Thực ra tôi có quyền ngăn cản điều đó không? Nhưng lúc này vỏ trứng đã bị vỡ và lòng quả trứng đã nằm trong chảo. Bây giờ, ngay lập tức tôi phải chú ý sao cho kiến thức công cụ của tôi được vận dụng một cách hoàn toàn có hiệu quả: tức là làm sao cho mỡ không được quá nóng, trứng không bị rán lâu quá, nhưng cũng không nhanh quá, và cuối cùng nó sẽ ra khỏi chảo rồi lên đĩa mọt cách ngon lành. Suy cho cùng, mục đích cũng chỉ là làm món trứng ốp-lếp chứ không phải là món trứng rán. Ví dụ này tuy rõ ràng không nằm trong khuôn khổ hành động khoa học nhưng nó cho ta thấy khá rõ là cả hai chiến lược nhận thức trên khác nhau một cách cơ bản. Chúng có thể cùng nằm vào một đối tượng, nhưng đồng thời lại theo đuổi những mục đích nhận thức và mục đích hành động hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt này cần phải được trình bày ngắn gọn trong một chuỗi các phát biểu có thể có: các kết quả của các câu hỏi về ý nghĩa là khoảng 3 câu trả lời rõ ràng có thể có: tốt - xấu - vô nghĩa. Trên cùng một mặt bằng đó, kiến thức công cụ dẫn đến các kết luận: có thể áp dụng - không thể áp dụng - không có tính chức năng (với nghĩa là
  36. „không phù hợp, hoàn toàn không thể áp dụng được) Các đặc điểm tương ứng của: Kiến thức định hướng (là kiến thức định tính, liên quan đến giá trị: điều gì đó có ý nghĩa nào?) - Kiến thức định hướng là nhằm vào sự tổng hợp (cái nhìn tổng hợp đối với các câu hỏi về ý nghĩa, các biểu tượng, các yêu cầu về thẩm mĩ); - Kiến thức định hướng chủ yếu chú trọng đến chất lượng; - Kiến thức định hướng chậm bị lạc hậu, người ta có thể thảo luận về việc kiến thức này thực ra có lạc hậu/có thể bị lạc hậu hay không, và về việc thực ra có sự tiến bộ nào hay không. Thuộc tính, “đúng”, của kiến thức định hướng chỉ có thể thay đổi trong ý nghĩa xã hội hay ý nghĩa cá nhân của nó, còn không thì nó vẫn giữ nguyên là đúng. Về mặt lịch sử, các câu trả lời cho các câu hỏi định hướng là không dễ thay đổi: ví dụ như các ý nghĩa được nêu ra từ triết học Xô-crát không bị lạc hậu chỉ vì tác giả đã mất từ trước đây khoảng 2.400 năm (tất nhiên có những vấn đề định hướng cùng thời đó mà người ta không tra cứu chúng ở Platon, nhưng điều đó vẫn hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến kiến thức của anh ta). Bên cạnh tính giá trị không phụ thuộc vào thời gian thì kiến thức định hướng còn đặc trưng bởi nó không đưa ra các phát biểu định lượng, mà chỉ đưa ra các phát biểu định tính. Tuy thế, điều này không loại trừ việc các câu hỏi định hướng cũng được xem xét theo góc độ định lượng, nhưng tiêu chuẩn về tính vững chắc của nó sẽ là một tiêu chuẩn định tính. Bởi vì cuối cùng thì người ta luôn thu các ý nghĩa trong một cái nhìn tổng quát, các ý nghĩa đó nhằm vào sự tổng hợp các sự kiện và các nhận thức riêng lẻ. Kiến thức công cụ Là kiến thức định lượng, liên quan đến mục đích, là tri thức để trả lời những câu hỏi như: ta cần thêm gì nữa để có thể hành động như ta muốn?
  37. - Kiến thức công cụ nhằm vào sự phân tích (đối với các mục đích và các chức năng đang theo đuổi); - Kiến thức công cụ chủ yếu chú trọng đến vấn đề định lượng; - Kiến thức công cụ bị lạc hậu ngày càng nhanh, động lực cho sự tiến bộ cao trong lĩnh vực khoa học tự nhiên – kĩ thuật thuộc về những yếu tố thay đổi quan trọng nhất của xã hội hiện đại. Các khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật có mục đích làm cho thiên nhiên phục vụ cho mục đích của con người. Để đạt được điều đó, các khoa học này chủ yếu hoạt động theo cách phân tích, tức là các đối tượng nghiên cứu được phân chia thành các đơn vị nhỏ hơn để có thể xâm nhập đến mức tối đa vào các hoạt động chung, vào các mối liên quan chức năng của chúng. Mục đích của việc sản sinh ra các kiến thức công cụ có bốn loại: - Tác động vào các đối tượng trong thiên nhiên trong sự phát triển tự nhiên của chúng; - Mô phỏng các phương thức hoạt động trong tự nhiên bằng các cấu trúc kĩ thuật (ví dụ: tạo ra năng lượng bằng Pin Volta); - Thiết kế các máy móc thiết bị giúp vượt qua các giới hạn tự nhiên của khả năng con người (ví dụ: công nghệ sản xuất máy bay); - Hoặc nói một cách hoàn toàn theo truyền thống và tương đối thô: khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên với hiệu quả cao nhất. Ngược lại với kiến thức định hướng, ở kiến thức công cụ luôn có sự tiến bộ khoa học nhanh chóng hơn và theo tất cả những gì chúng ta biết thì cần phải cho rằng nền văn hóa kĩ thuật của thời đại chúng ta ngày nay tuy đã đạt được trình độ phát triển rất cao nhưng nó vẫn bị thay đổi hoàn toàn theo theo chu kì thời gian ngày càng ngắn đi. Nói cho cùng, nó cũng sẽ phải thay đổi vì bây giờ chúng ta thấy rằng thực tế kĩ thuật đang chi phối cuộc sống hiện nay rất không hòa hợp với tự nhiên, đến mức là chỉ riêng
  38. việc giữ nguyên các kĩ thuật đó chứ chưa nói đến việc mở rộng chúng cũng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tự nhiên, và đồng thời là sự sụp đổ của con người và xã hội. Tuy trong thực tế của nhiều nhà khoa học không tồn tại sự tách biệt một cách nghiêm ngặt giữa kiến thức định hướng và kiến thức công cụ, nhưng việc tách biệt chúng về mặt hệ thống vẫn là việc làm rất có ý nghĩa. Điều đó sẽ là hiển nhiên khi người ta thử thay thế dạng kiến thức này bằng một dạng kiến thức khác. Và trong thực tế điều này không xảy ra: như việc tôi không thể rán trứng ốp-lết nhờ việc suy nghĩ thật tích cực về các ý nghĩa; mặt khác, tôi cũng không trả lời được một câu hỏi nào về ý nghĩa bằng việc rán trứng ốp-lét thành công. Một ví dụ nghiêm túc hơn nhiều là khi ta nghĩ đến trình độ cao của các công nghệ vũ khí, nó có thể làm cho mọi kĩ sư xúc động đam mê với nó, nhưng xét về mặt đạo lí, và xét từ góc độ câu hỏi ý nghĩa thì đó thật sự là một tai họa. Liên quan với cả hai loại kiến thức này cũng có hai chiến lược nghiên cứu rất khác nhau, nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính mà chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp theo dưới đây. 6. Nghiên cứu các vấn đề có tính định lượng 6.1. Bốn cấp độ làm việc của hoạt động nghiên cứu Cả trong những tài liệu tham khảo tương ứng thì bốn khái niệm "phương pháp luận", "phương pháp", "kỹ thuật" và "công cụ" cũng thường khá mơ hồ. Để có thể có ít nhất một thỏa thuận rằng chúng ta hiểu những khái niệm đó là gì, tôi đề nghị các định nghĩa sau. 1. Cấp phương pháp luận Ở đây liên quan đến những gì mà trước đây tôi đã gọi là "các mô hình" trong mối liên quan với sự phát triển lịch sử của khoa học, tức là về những quan điểm khác nhau về những đặc điểm quan trọng nhất của các lĩnh vực thực tế rất rộng: đó là các phần tử quan trọng nhất của chúng, chúng tương tác với nhau như thế nào trong những cấu trúc nào và chúng
  39. có những ý nghĩa chức năng nào. Ở cấp phương pháp hệ cũng có những giả thiết có tính quy chuẩn về nhiệm vụ của khoa học. Ví dụ khoa học cần phải miêu tả và chỉ có thể miêu tả chúng, hoặc cũng cần thay đổi và phải thay đổi chúng? (Nên lưu ý rằng vấn đề này liên quan trực tiếp đến thực tế khoa học, dẫu sao chăng nữa thì cũng rõ là các kết quả khoa học phát huy tác dụng của chúng ở bên ngoài phạm vi của khoa học). Những ví dụ về điều này là các mô hình theo lý thuyết hệ thống, các mô hình theo chủ nghĩa thực chứng và các mô hình mác-xít. Chỉ cần phải đề cập rằng, "phương pháp luận" cũng thường xuyên được sử dụng trong cách hiểu thâu tóm tất cả 4 khái niệm của chúng ta, ví dụ như ở tựa đề của bài giảng này. 2. Các phương pháp Đó là những chiến lược có tính bao quát về vấn đề, nhằm vào mục đích đạt đến những kết quả hợp lý và đáng tin cậy trong một phương pháp luận (nhiều khi xuyên ngang qua các phương pháp luận). Ví dụ, toán học chủ yếu áp dụng phương pháp suy diễn, trong các môn khoa học tự nhiên và một phần trong khoa học xã hội người ta áp dụng các phương pháp thực nghiệm-phân tích định lượng, đối với phần định tính trong các môn khoa học xã hội và khoa học nhân văn người ta áp dụng trước tiên các phương pháp hiện tượng học, các phương pháp chú giải văn bản cổ và các phương pháp lịch sử. 3. Các kỹ thuật Có thể nói các kỹ thuật là những quy trình thủ công mà với chúng người ta theo đuổi những vấn đề cụ thể: các thí nghiệm khoa học tự nhiên, các cuộc trưng cầu ý kiến, các cuộc phỏng vấn, các đánh giá thống kê, các phân tích văn bản, hỏi ý kiến chuyên gia, giảng giải ngôn ngữ, 4. Các công cụ Đó là các công cụ thủ công mà nhờ chúng người ta đánh giá hoặc xử lý các dữ liệu nghiên cứu. Trong nghiên cứu định lượng thì trước tiên đó là
  40. các công cụ thí nghiệm và các quy trình thống kê, trong nghiên cứu định tính thì đó là ví dụ các trợ giúp lập cấu trúc phân tích, như các sách chỉ dẫn, các hướng dẫn thao tác, các mẫu phân loại, 6.2 Các đặc trưng của nghiên cứu định lượng Các chiến lược nghiên cứu định lượng trước hết nhằm vào những kết quả mà cần phải sắp xếp vào kiến thức công cụ. Tương ứng với điều đó, nói chung người ta tìm cách thể hiện các tính chất và các thay đổi của từng đối tượng nghiên cứu trong tần số xuất hiện và quan hệ qua lại giữa chúng. Nếu trong quá trình quan sát mà một hiện tượng xảy ra rất thường xuyên hoặc luôn luôn xảy ra và có thể lặp lại điều này, thì ta đã tìm ra tính quy luật cho phép đưa ra một kết luận quy nạp: một số lớn các hiện tượng A luôn luôn xuất hiện (với tính đều đặn cao) nếu có điều kiện B, như vậy trong cùng những giả thiết như nhau (rất giống nhau) thì điều kiện B dẫn tới việc là điều đó đúng (chắc hẳn là đúng) đối với cả những hiện tượng không được quan sát. Mục đích luôn luôn là phát biểu các định lý kiểu "nếu-thì" thu được từ thực nghiệm và đã được kiểm tra, những định lý mà sẽ dẫn tới các lý thuyết hoặc xác nhận hay thay đổi các lý thuyết đã có. Trong khi đó, vấn đề luôn luôn là phản ánh các phần giới hạn của thực tế thông qua quan sát hoặc xử lý các con số. Nếu với những lý do rất có cơ sở, chúng ta xuất phát từ quan điểm rằng tiến bộ khoa học dựa trên các đánh giá tần số xuất hiện sẽ mang lại sự mở rộng ngày càng nhanh hơn khả năng dự báo và xử lý, thì một trong những nguyên nhân chính của điều đó là năng lực tính toán điện tử mà chúng ta có để sử dụng đang ngày càng tăng nhanh. Trong khoa học tự nhiên, các định lý "nếu-thì" được xây dựng trên tính quy luật rất chặt chẽ của các định luật tự nhiên. Các định luật này nói rằng, mọi phần tử được quan sát trong thế giới tự nhiên hữu sinh hay vô sinh đều tác động đến nhau một cách rõ ràng theo những định luật tự nhiên này Trong khi đó, người ta cũng biết rằng ở đây cũng có những
  41. phạm vi giới hạn của cái được gọi là “mối quan hệ không rõ nét”, nơi mà chỉ có những số lượng đủ lớn các thành tố tuân thủ một cách rõ ràng theo các qui luật của tự nhiên. Nhưng về tổng thể, các nghiên cứu dựa trên cơ sở của các qui luật tự nhiên tạo ra sự những sự chắc chắn ở mức độ cao ngay cả trong các tình huống và những kết hợp có tính rất phức hợp. Điều này có giá trị đặc biệt đối với các ngành khoa học kĩ thuật (những ngành mà các cấu trúc và các qui trình của nó đòi hỏi phải có một sự chắc chắn ở mức độ rất cao) được xây dựng dựa trên các nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên. Các bạn hãy nghĩ đến những chiếc máy bay hiện đại cỡ lớn, đến những thứ thuốc có công hiệu cao, hay đến những tòa cao ốc đồ sộ mà được xây dựng trong thời gian vừa qua. Ở đâu không đạt được sự chắc chắn thì thường có lí do về chi phí hay về Marketing. Các bạn hãy lấy phần mềm rất nổi tiếng Microsoft Windows, với những nhược điểm và những rủi ro của nó làm ví dụ. Tất nhiên người ta có thể phát triển nhiều phần mềm an toàn hơn, và cũng đã có những phần mềm như thế. Nhưng tại sao lại phải đầu tư thêm tiền vào phát triển khi mà đã có một sự gần như hoàn toàn độc quyền và mọi người phải mua (vả lại người ta cũng muốn điều đó) những gì được cung cấp trên thị trường. Đồng thời, khả năng làm chủ một cách khoa học thế giới tự nhiên, như người ta ít nhiều đã biết, còn rất hạn chế. Bạn hãy nghĩ đến những dự báo thời tiết, đến những bệnh còn không thể chữa được hay những thảm họa do thiên nhiên gây ra. Trong nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề mang tính định lượng ở các ngành khoa học xã hội – nhân văn, như đã biết, không có các tính qui luật có thể so sánh được với các qui luật của tự nhiên. Thực ra trong lĩnh vực phương pháp luận có một vài giả thiết cơ bản đáng tin cậy mà có thể đưa ra những định hướng khá chắc chắn. Ví dụ như, trong các khoa học xã hội, mô hình chủ nghĩa hành vi, trước hết là trong các phương án lựa chọn hợp lí của nó, từ nhiều thập kỉ qua không chỉ đã rất có ảnh hưởng
  42. mà còn rất thành công. Nói ngắn gọn, mô hình này liên quan đến giả thiết cơ bản cho rằng hành vi của con người chịu ảnh hưởng mạnh theo sơ đồ Kích thích - Phản ứng và trong sơ đồ này nổi lên một chiến lược hành động hợp lí, dựa vào những giả thiết có lợi cho cá nhân. Mặc cho sự tác động của người tiêu từ các nghiên cứu ứng dụng trên cơ sở của mô hình này (các bạn hãy nhớ đến ví dụ về Coca-Cola) đã rất thành công, “mối quan hệ không rõ nét” ở đây lớn hơn rất nhiều so với trong các ngành khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật. Về sau tôi sẽ còn đề cập lại kĩ hơn nữa về những nét đặc biệt của các khoa học xã hội. Đến thời điểm này có thể khẳng định rằng không phụ thuộc vào việc các qui luật tự nhiên có thể được vận dụng hay không và vận dụng đến mức nào, trong những vấn đề nghiên cứu mang tính phức hợp (những vấn đề nghiên cứu mà phải tính đến nhiều biến số) các câu trả lời có thể có về nguyên tắc chỉ có giá trị trong đúng những điều kiện đã được xác định. Chừng nào các câu trả lời còn xoanh quanh các dự đoán trong các mối quan hệ tác động thì chừng đó các xác suất còn được phát biểu. Có lẽ xác suất về việc một nguời Đức có thể bị sét đánh trên nước bạn là rất ít. Thế nhưng ở nước Đức với dân số 82 triệu người thì trong khoảng thời gian quan sát hơn 100 năm đã có khoảng 10 người chết mỗi năm vì sét đánh. 10 trong khoảng 820.000 trường hợp tử vong mỗi năm: một con số rất nhỏ, con số này còn nhỏ hơn nữa nếu giảm thêm 100 lần khi so sánh số 10 người chết vì sét đánh với tổng dân số Đức. Ở đây sẽ có một xác suất về số lượng là 1 : 8,2 triệu người sẽ bất ngờ bị sét cướp đi cuộc sống. Nhưng phải cẩn thận, điều mà phát biểu xác suất này không thể làm được là nói ra: ai, khi nào sẽ gặp phải điều đó. Và vấn đề nằm ở chính câu hỏi này: ví dụ, đối với các nhà máy điện nguyên tử có rất nhiều ước tính xác suất cho các tai nạn lớn có thể xảy ra. Trong các nhà máy điện nguyên tử Đức có sự đe dọa, thuần túy về mặt thống kê, về sự nóng chảy hạt nhân nguyên tử (tình trạng trong đó “sự đốt cháy” các thanh nhiên liệu nguyên
  43. tử bị rơi vào sự mất kiểm soát) khoảng 3 đến 4 lần trong khoảng thời gian 1 triệu năm hoạt động. Một khoảng thời gian không thể tưởng tượng được, dài hơn cả khoảng thời gian mà giả thiết cho rằng lúc đó sự xuất hiện đầu tiên của con người (khoảng 700.000 năm). Bởi vì phát biểu này không nói lên được bao giờ sự kiện cực kì hiếm hoi này bao giờ sẽ xảy ra, cho nên sự đề phòng tai họa này xảy ra phải được chuẩn bị như là nó sẽ xảy ra ngay trong ngày mai. Điều này tất nhiên là không phải hoặc rất có giới hạn, thậm chí còn cho rằng sự kiện hủy diệt này hoàn toàn sẽ không xuất hiện trong khoảng thời gian hoạt động như dự kiến - điều không phải do các dự báo khoa học (chính là điều muốn nói đến ở đây) cung cấp. Vả lại, chính điều này là nguyên nhân dẫn đến việc tại sao một số nước (trong đó có Đức) đã từ bỏ năng lượng nguyên tử: khả năng duy nhất, thực sự an toàn nhất để loại bỏ hậu quả khôn lường do thảm họa nguyên tử mang lại (ở vùng Trung Âu đông dân cư) là sản xuất điện theo cách khác. Sản xuất bằng dầu, than, sức nước và sức gió chứ không bằng sự phân tách nguyên tử. Những phát biểu mang tính định lượng như thế, những phát biểu mà cuối cùng luôn kết thúc với những xác suất, đem lại kết quả là những lí thuyết tìm cách giải thích các phần có giới hạn của hiện thực thông qua một bản liệt kê có giới hạn các lí do. Những lí thuyết mà có được từ phép qui nạp, với tư cách là những phát biểu đã được công nhận là chính xác, có mục đích phát triển kiểu mẫu giải thích có giá trị khái quát. Kiểu mẫu giải thích này dứt khoát là không theo đuổi mục đích lí giải toàn bộ các hiện tượng xảy ra. Mục đích của nó chỉ là thử nghiệm mở rộng phạm vi giá trị của các phát biểu đã được kinh nghiệm chứng minh đến những trường hợp giống thế hoặc tương tự. Kiểu mẫu giải thích như thế người ta gọi là các lí thuyết phạm vi giá trị có giới hạn. Những lí thuyết này rõ ràng là khác với những lí thuyết vạn năng (những lí thuyết mong muốn giải thích tất cả những gì đang tồn tại) và những lí thuyết tổng thể (những lí thuyết
  44. mong muốn giải thích những lĩnh vực rất lớn của hiện thực như: xã hội, tự nhiên hữu sinh, tự nhiên vô sinh, ). Chỉ riêng những lí thuyết có phạm vi giá trị mức trung bình hay thấp hơn cho phép tuân thủ đúng những qui tắc của phép qui nạp mang tính kinh nghiệm. Các lí thuyết vạn năng và tổng thể theo nghĩa nghiêm ngặt nhất là không thể chứng minh được về mặt kinh nghiệm. 6.3 Các phần tử của quá trình nghiên cứu định lượng Tôi chuyển sang giải thích một dự định nghiên cứu định lượng điển hình, trong khi đó thứ tự các bước được phác thảo sẽ miêu tả một chuỗi thứ tự cần thiết. Nếu bỏ qua dù chỉ một phần của nó thì cũng hầu như không thể đạt được tiêu chuẩn tối thiểu cần thiết của nghiên cứu thực nghiệm mang tính định lượng. Vì bản thân tôi là một nhà khoa học xã hội và trong giảng đường này cũng có rất nhiều nhà khoa học xã hội mà có ít hoặc chưa có kinh nghiệm với nghiên cứu khoa học tự nhiên, nên tôi lấy một ví dụ từ nghiên cứu trưng cầu ý kiến, trong đó mục tiêu là dựa trên các bản câu hỏi đã được điền để thu được thông tin về việc những phần tỷ lệ lớn hay nhỏ của dân chúng nói gì về một vấn đề nhất định. Trong khi đó, với những thay đổi nhỏ thì nói chung là các vấn đề nghiên cứu cần đề cập có thể so sánh được với những vấn đề cũng xuất hiện ở một dự án nghiên cứu trong khoa học tự nhiên. Đó là 10 bước sau mà tôi sẽ giải thích riêng: 1. Phát biểu và chính xác hóa vấn đề nghiên cứu 2. Trình bày các giả thuyết nghiên cứu 3. Tiêu chuẩn hóa các câu hỏi phỏng vấn 4. Phác thảo phiếu điều tra 5. Kiểm tra phiếu điều tra 6. Xác định mẫu thực nghiệm ngẫu nhiên 7. Tiến hành khảo sát 8. Thu thập dữ liệu 9. Phân tích dữ liệu
  45. 10. Trình bày các kết quả nghiên cứu Về bước 1: ở điểm khởi đầu của mỗi khảo sát thực nghiệm là việc trình bày vấn đề nghiên cứu, đó là vấn đề sẽ xác định sự khảo sát này. Vấn đề này có thể được thu được từ một vấn đề đang thảo luận hoặc từ những điểm chưa sáng tỏ trong tài liệu khoa học. Thường thì ban đầu đó là những vấn đề được đặt rất rộng và để trả lời nó thì phải cần không chỉ một hoặc hai dự án nghiên cứu, mà cần cả một chương trình nghiên cứu rộng lớn. Vì đây chỉ là một dự án nghiên cứu riêng rẽ, nên cách đặt vấn đề chung phải được đưa về một điểm chính xác mà có thể giải quyết được một cách hợp lý bằng những phương tiện hiện có để sử dụng. Về bước 2 : Sau khi vấn đề nghiên cứu đã được phát biểu chính xác, trong bước tiếp theo cần phải tìm ra các giả thuyết nghiên cứu. Các giả thuyết là những giả định có cơ sở về nội dung của vấn đề cần được chứng minh bằng thực nghiệm. Khi trình bày giả thuyết ta sẽ giải thích tình trạng nghiên cứu hiện tại, được minh chứng trong tài liệu khoa học và báo cáo nghiên cứu, và làm sáng tỏ xem sự khảo sát cần phải được đặt vào nhóm phương pháp nào, với lý do như thế nào. Các giả thuyết tạo thành điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu, lập ra sơ bộ một phần cấu trúc của quá trình đó và lập cơ sở cho khả năng có thể kiểm chứng. Tất nhiên, quá trình lập các giả thuyết cũng có thể dẫn đến sự trình bày lại vấn đề nghiên cứu của bước 1. Về bước 3: các cách đặt vấn đề định hướng nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu đã tạo ra sự hiểu biết đầu tiên và có cấu trúc đối với vấn đề. Trong giai đoạn thứ ba này thì mục tiêu là tiêu chuẩn hóa sự hiểu biết sơ bộ đó ("với những đặc điểm nào tôi có thể tìm ra những điều chính xác hơn về giả thuyết này?"), sao cho các chỉ số riêng rẽ có thể trở nên rõ ràng. Các chỉ số phải có trước tiên hai tính chất sau: chúng phải có thể phản ánh một cách rõ ràng nhất các khả năng trả lời đã được giả thiết trong giả thuyết nghiên cứu, và chúng phải có thể được diễn đạt ở những
  46. đặc điểm có thể đo đếm. Toàn bộ chương trình nghiên cứu vấn đề ban đầu phải có thể được bao quát bằng tổng số tất cả các chỉ số. Về bước 4: Chỉ đến lúc này thì bảng câu hỏi mới được diễn đạt trong bản phác thảo đầu tiên. Điểm xuất phát là các chỉ số thu được trong bước trước đó, chúng phải được đưa vào các câu hỏi sao cho những người sau này sẽ được hỏi có thể hiểu rõ chúng và các phương án trả lời (ví dụ "có", "có với điều kiện", "không") cũng có thể được lựa chọn một cách thật rõ ràng. Về bước 5: Vì sự phát biểu các vấn đề một cách rất cẩn thận và thành thạo là một chuyện, còn việc những người được hỏi sẽ xử sự thực sự như thế nào lại là một chuyện hoàn toàn khác, nên trước tiên. mỗi bản câu hỏi phải được kiểm tra bởi một số lượng giới hạn những người được hỏi (kiểm tra sơ bộ). Trong kết quả, những điểm yếu còn tồn tại trong trình bày vấn đề và trong việc xây dựng bản câu hỏi sẽ được loại bỏ. Về bước 6: ở đây ta phải đưa ra quyết định về việc nên đưa những người nào vào chương trình phỏng vấn. Tất cả những người liên quan theo tinh thần của vấn đề đặt ra ban đầu cần phải được đưa vào, đó là sự khảo sát toàn bộ mà dĩ nhiên là rất nên thực hiện, nhưng cũng rất khó thực hiện. Nếu rất khó thực hiện thì phải thực hiện kiểu lấy mẫu ngẫu nhiên. Điều này có nghĩa là từ tổng số ta sẽ thiết kế một phần có thể tạo điều kiện phản ánh một cách đại diện nhất cho tổng thể. Khả năng duy nhất ở đây là lấy mẫu ngẫu nhiên. Trong khi đó, theo một qui trình đã được kiểm chứng bởi thử nghiệm thống kê ta
  47. sẽ chọn một tỷ lệ phần trăm tối thiểu từ tổng số. Chỉ trong phạm vi phần trăm rất nhỏ, các mẫu ngẫu nhiên được tạo ra nhờ một quy trình thống kê có hiệu quả đã có thể đưa ra những kết quả đáng tin cậy mà độ tin cậy của chúng chỉ chênh lệch ít so với khi khảo sát toàn bộ. (Ví dụ các cuộc thăm dò ý kiến của đại diện dân chúng trước khi bầu cử). Về bước 7: lúc này, các câu hỏi của phiếu điều tra sẽ được đặt ra cho những người đã được chọn trong bước trước. Hoặc là những người này trực tiếp điền vào bản câu hỏi hoặc những người phỏng vấn sẽ nêu ra các câu hỏi và ghi các câu trả lời vào bản câu hỏi, điều này có thể làm tăng rõ rệt tính dứt khoát của các câu hỏi và các câu trả lời, vì người phỏng vấn biết chính xác vấn đề đang nói khi nó được đọc ra (phần lớn rất nhanh) cho những người đầu tiên, không thiên vị. Các bản câu hỏi đã được điền sẽ được trả lại cho nhà nghiên cứu. Về bước 8: Để có thể sử dụng cho các phân tích thống kê tiếp theo thì các câu trả lời từ các bản câu hỏi phải được "biến đổi" thành những dạng số (các con số). Chỉ những câu trả lời được mã hóa bằng số này mới được coi là những dữ liệu. Về bước 9: Chỉ sau khi tất cả những bước trên đã được thực hiện thì ta mới có những dữ liệu mà có thể được đánh giá định lượng. Việc này được thực hiện nhờ những công cụ thống kê, chúng đòi hỏi áp dụng các quy trình toán học với chi phí công sức và thời gian rất khác nhau tùy theo mức độ phức tạp.
  48. Tùy theo số lượng những biến số cần phải được đưa vào mối quan hệ với nhau mà người ta phân biệt quy trình phân tích một biến số và quy trình phân tích đa biến số. Trong khi các quy trình phân tích thống kê đa biến số dựa trên những quy trình và cách tính rất phức tạp, ít nhất thì cũng đối với những người không chuyên, thì các phân tích một biến số là những cách phân tích dễ thực hiện hơn đối với ngay cả những người không chuyên, đó là điều mà sau đây tôi muốn trình bày ngắn gọn đối với một số thước đo rất phổ biến. Về bước 10: lúc này, các kết quả thu được theo phương pháp thống kê sẽ được đưa ngược trở lại các giả thuyết nghiên cứu và vấn đề nghiên cứu. Trong khi đó, người ta sẽ xác định là các giả thuyết làm việc có bị sai, bị thay đổi hay được xác nhận bởi các kết quả này. Cuối cùng sẽ thiết lập quan hệ phản hồi về tình trạng nghiên cứu hiện tại và tình trạng của tài liệu khoa học. Nếu các kết quả có ý nghĩa thì chúng phải được công bố để cộng đồng khoa học có thể thảo luận chúng. Giờ tôi nói về một số nguồn sai số khiến cho các kết quả nghiên cứu bị sai lệch hoặc thậm chí làm cho chúng trở nên hoàn toàn không thể sử dụng được. Nguồn sai số đầu tiên nằm ngay ở sự tiêu chuẩn hóa. Ở đây người ta phải giải quyết một nhiệm vụ khó khăn, đó là một mặt sắp xếp các chỉ số tương ứng với các vấn đề nghiên cứu ban đầu, mặt khác từ đó cũng phải lập ra cả các câu hỏi mà có thể mang lại
  49. những kết quả đi xa hơn tình trạng nghiên cứu đã biết. Đồng thời các chiến lược hỏi này phải được thiết kế sao cho chúng phản ánh quan điểm thực sự của người được hỏi, chứ không phải là cái mà người được hỏi nghĩ rằng mình cần phải nói. Đến đây tôi đi đến việc phát biểu các câu hỏi cho bản câu hỏi. Ở đây cần áp dụng nguyên tắc là cuộc phỏng vấn không được phép sinh ra những câu trả lời được thực hiện nhiều hơn là do dạng của câu hỏi chứ không phải là do quan điểm thực sự của người được hỏi. Trong khi đó thì nguy hiểm lớn nhất gây ra những hiệu ứng như vậy là chỉ do sự thiết kế phức tạp các câu hỏi. Vì vậy cần phải lưu ý sao cho tất cả các câu hỏi đều được phát biểu một cách đơn giản nhất có thể được. Chúng phải càng ngắn càng tốt, được cấu trúc đơn giản về mặt ngữ pháp, mang tính ngôn ngữ ngày thường và chỉ đòi hỏi người được hỏi có một trình độ kiến thức thấp. Ngay cả bản thân cấu trúc của bản câu hỏi cũng có thể là nguồn sai số quan trọng. Ở đây phải xét đến sự sẵn sàng chấp nhận và thái độ giao tiếp thông thường của đa số mọi người. Ví dụ, phải đặt ra các câu hỏi quan trọng nhất của cuộc phỏng vấn khi người được hỏi đã chuẩn bị đầy đủ đối với đề tài đó, nhưng mặt khác cũng chưa có hiện tượng mệt mỏi, nhàm chán. Điều quan trọng cũng là xếp các câu hỏi vào các nhóm sao cho tạo thành các nhóm chủ đề. Nếu đây không chỉ là việc phân phát và thu thập lại các bản câu hỏi thì người phỏng vấn là một nguồn
  50. sai số đáng kể. Mỗi cuộc phỏng vấn cũng là một tình huống giao tiếp giữa hai người và do đó bị ảnh hưởng bởi cách cư xử và thái độ của cả hai bên tham gia. Các ảnh hưởng này phải được giảm xuống mức tối thiểu, điều này đòi hỏi người phỏng vấn phải có cách cư xử thuần thục và có phương pháp hành động được chuẩn thức hóa. Đặc biệt khó khăn và dễ mắc sai lầm là việc đặt ra những câu hỏi mở, khi mà người được hỏi không phải chỉ cần lựa chọn từ nhiều phương án trả lời đã cho trước, mà còn phải trình bày quan điểm của mình một cách cụ thể hơn bằng những lời riêng của chính mình. Những nguồn sai số đặc biệt có hại là sự làm giả các cuộc phỏng vấn, cho dù đó là vì mục đích thuận tiện mà người ta đã phỏng vấn một người dễ tiếp cận hơn so với người dự kiến ban đầu, hoặc cho dù đó là vì người phỏng vấn đã tự mình điền toàn bộ hay một phần bản câu hỏi để tiết kiệm thời gian và chi phí (và như vậy để kiếm tiền mà không mất nhiều công sức). Các cuộc phỏng vấn được thanh toán tiền công theo số các bản câu hỏi đã được điền. Khả năng duy nhất để ngăn ngừa những sự làm giả như vậy là tiến hành kiểm tra bởi một người thứ ba ở những người được phỏng vấn. Tôi đã nói về cấu trúc của thử nghiệm mang tính ngẫu nhiên với mục đích thu được một phần tỷ lệ có tính đại diện cho tổng số nhờ sự lựa chọn ngẫu nhiên. Ở đây cần nói qua về một vấn đề là thường
  51. hiếm khi 100% những người được hỏi trong một lần hỏi ngẫu nhiên sẽ trả lời. Đôi khi các câu hỏi cũng chỉ được trả lời một phần. Điều này dẫn đến việc là tính đại diện của các khảo sát ngẫu nhiên không được đảm bảo. Trong những giới hạn nhất định có thể làm giảm nguồn sai số này bằng cách sử dụng quy trình hỏi theo trọng tâm, trong đó ví dụ các phần của sự khảo sát ngẫu nhiên mà được trả lời dưới mức tỷ lệ thông thường thì sẽ được nhân với một hệ số nhất định. Tất nhiên quy trình này có những giới hạn và cũng không thể loại trừ việc làm giả kết quả. Vì vậy, ngay từ đầu đã cần phải xem xét đến việc làm thế nào có thể đảm bảo sự tham gia rộng rãi nhất vào việc trả lời các câu hỏi, ví dụ bằng cách sử dụng những bản câu hỏi ngắn thay cho những bản câu hỏi dài đòi hỏi người được hỏi mất nhiều công sức để trả lời. Tính đại diện của các kết quả là quan trọng hơn sự phản ánh đầy đủ vấn đề nghiên cứu thông qua một bộ câu hỏi rất toàn diện. Lúc này, tôi hy vọng đã truyền đạt cho các bạn một ấn tượng nhỏ về sự hoạt động của nghiên cứu xã hội theo phương pháp định lượng thực nghiệm. Về nguyên tắc, phần lớn những điều đã nói cũng có thể được áp dụng cho các dự định nghiên cứu trong khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Ở đây, các vấn đề nghiên cứu và các chỉ số phần lớn đều bao trùm những lĩnh vực vấn đề nhỏ hơn so với trong khoa học xã hội. Nguyên nhân là vì trong khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã có nhiều hơn hẳn những dữ liệu được
  52. đảm bảo, và các đối tượng khảo sát mới hoặc thay đổi mà cần được hỏi thì về cơ bản thường là những phần nhỏ. Thay cho cuộc phỏng vấn trong khoa học xã hội thì ở đây người ta sẽ làm thí nghiệm, và thay cho phiếu điều tra hoặc biên bản phỏng vấn thì sẽ là bản ghi chi tiết về quá trình thí nghiệm. Còn một sự khác biệt cuối cùng mà cũng sẽ đưa chúng ta đến ngay nhóm chủ đề tiếp theo: đó là các vấn đề khoa học định hướng thường không đóng vai trò gì trong khoa học tự nhiên và kỹ thuật (ít nhất thì cũng không đóng vai trò gì trong bản thân cuộc khảo sát), còn trong khoa học xã hội và khoa học nhân văn thì các yếu tố này luôn đóng một vai trò, vì sự giao tiếp giữa con người cũng luôn luôn bị ảnh hưởng bởi các vấn đề về ý nghĩa và giá trị. Chỉ trong phân tích thống kê các dữ liệu tập hợp, là những phân tích đối với những dữ liệu đã có sẵn mà không phải tự thu thập, thì hiệu ứng này mới xuất hiện ở dạng giảm nhẹ hoặc hoàn toàn không xuất hiện. 6.4 Các ví dụ về các kỹ thuật nghiên cứu định lượng Ngay cả những người được đào tạo tốt về toán học trong số các bạn thì cũng có thể nhận thấy một số khó khăn lớn trong việc nắm vững những bộ công cụ được trang bị đầy đủ của thống kê hiện đại. Điều này càng đúng đối với tất cả những người mà chỉ có những kiến thức hạn chế và lại còn hiểu ít hơn nữa về tính phức tạp của toán học ứng dụng. Vì vậy, điểm tôi muốn tự giới hạn là ở chỗ, trong thống
  53. kê người ta phân biệt theo độ phức tạp của những tính toán phải thực hiện - độ phức tạp này tuân theo số lượng các đặc điểm cần được đặt vào mối quan hệ với nhau, và phân biệt theo quy trình phân tích một biến số, hai biến số hay đa biến số. Trong phần lớn các trường hợp, các mô hình giải thích một biến số chỉ có thể phản ánh hiện thực một cách rất không đầy đủ, vì hiện thực chỉ có thể được miêu tả một cách đúng đắn với nhiều biến số. Thay vào đó, chúng lại có ưu điểm là dễ tiếp cận đối với những người có kiến thức toán học hạn chế và dẫu sao cũng đưa ra những căn cứ quan trọng về sự phân bố tần số xuất hiện và mức phân tán. Vì vậy, tôi giới hạn vào một số ví dụ của công cụ phân tích này. Đếm tần số xuất hiện Đây là dạng đơn giản nhất của việc phân tích dữ liệu định lượng mà trong đó người ta chỉ khảo sát sự phân bố tần số xuất hiện và phần lớn được diễn đạt theo số tỷ lệ phần trăm. Ví dụ: trong một bài kiểm tra cho một nhóm nhỏ sinh viên đã chấm được các điểm sau: 9, 6, 6, 6, 6, 6, 6, 6, 6, 6, 6, 3. Tổng cộng có 12 điểm, tỷ lệ phần trăm tương ứng của chúng chỉ ra kết quả đạt được trong kỳ kiểm tra đó như sau: Điểm 9 : 8,3 % Điểm 6 : 83,5 % Điểm 3 : 8,3 %
  54. Giá trị cực tiểu, cực đại (engl.: minimum/maximum) Giá trị cực tiểu, cực đại cho biết khung giá trị mà các giá trị sẽ nằm trong đó. Sự chênh lệch giữa giá trị thấp nhất và giá trị cao nhất của một sự phân bố (sự liệt kê tất cả các giá trị đo hiện có) sẽ thể hiện khoảng chênh (tiếng Anh: range) của sự phân bố đó. Từ cả hai dữ liệu này ta thu được ấn tượng đầu tiên về sự phân bố thực nghiệm. Trong sự phân bố điểm kiểm tra mà chúng ta đã nêu thì giá trị tối thiểu là 3, giá trị tối đa là 9, khoảng chênh là 6. Từ đó chúng ta có thể nhận thấy khung mà trong đó các giá trị sẽ xuất hiện và nhìn thấy những giá trị nào nằm ngoài khung đó. Điều mà thông tin này không cho biết là sự thực rằng phần lớn các giá trị đều nằm ở khoảng giữa. Tuy ta có thể nhận ra điều đó khi xem qua sự phân bố tần số xuất hiện đã nêu, nhưng ở những cột số lớn thì sự tính toán các giá trị cực tiểu - cực đại sẽ mang lại những thông tin riêng. Trung bình số học (tiếng Anh : mean) Thước đo được sử dụng thường xuyên nhất và dẫn tới thông tin sơ bộ ban đầu về kết quả của sự đánh giá là trung bình số học. Đây là giá trị trung bình của một sự phân bố, nó được tính ra khi ta chia tổng tất cả các giá trị cho số lượng tất cả các giá trị. Nó có công thức sau : Trong ví dụ của chúng ta giá trị trung bình là 6. Vì giá trị trung bình không thể cho biết gì về sự phân bố của từng giá trị riêng rẽ, nên nó phải được bổ sung bởi các phân tích tiếp theo. Điều này đặc biệt
  55. cần thiết nếu không thể loại trừ những giá trị cực trị nằm cách xa giá trị trung bình. Giá trị trung tuyến (tiếng Anh : median) và các phần tư Giá trị trung tuyến (Md) là giá trị ở giữa của sự phân bố, nó chia sự phân bố đó thành hai nửa, trên và dưới nó là các nửa tương ứng của các giá trị đo đã khảo sát được. Trái với giá trị trung bình, giá trị ở giữa hầu như không bị ảnh hưởng bởi các giá trị cực cao hay cực thấp. Ví dụ: để tìm giá trị trung tuyến, người ta sắp xếp các giá trị của một sự phân bố theo độ lớn của chúng và tính ra xem giá trị nào trong các giá trị đó nằm ở giữa sự phân bố này. Trong trường hợp các điểm kiểm tra của chúng ta thì sẽ như sau: 9, 6, 6, 6, 6, 6, || 6, 6, 6, 6, 6, 3. Vị trí được đánh dấu bằng ký hiệu || cho biết giá trị ở giữa của sự phân bố nằm ở đâu, mỗi nửa trong cả hai nửa của nó đều có 6 giá trị. Lúc này giá trị trung tuyến được định nghĩa - nếu số các giá trị đo là một số chẵn - như trung bình của các giá trị nằm ngay trên và dưới giá trị ở giữa. Kết quả tương ứng sẽ là: một nửa số sinh viên đạt điểm trong khoảng từ 9 đến 6, nửa kia đạt điểm từ 6 đến 3. Nếu còn muốn biết thêm cụ thể hơn thì ta sẽ lập giá trị trung bình của cả hai nửa: trong trường hợp của chúng ta thì nửa trên là 6,5 và nửa dưới là 5,5. Thông thường, sự phân bố cũng được chia thành 4 phần bằng nhau, khi đó người ta gọi là các phần tư. Trong ví dụ của chúng ta, sự phân tích dựa trên giá trị trung bình của các phần tư này sẽ cho biết như
  56. sau: phần tư đến 25 % là 3, phần tư đến 50 % là 6, phần tư đến 75 % là 6 và phần tư đến 100 % là 7. Các giá trị cực đại - cực tiểu trong các khoảng phần tư này sẽ cho biết thêm các thông tin bổ sung. Giá trị phương thức (tiếng Anh : modal) Giá trị phương thức là giá trị xuất hiện thường xuyên nhất trong một sự phân bố. Nó cho biết giá trị nào trong sự phân bố có trọng lượng lớn nhất, đóng góp nhiều nhất vào sự phân bố tần số xuất hiện và các giá trị trung bình. Trong ví dụ của chúng ta, điểm 9 được chấm 1 lần, điểm 6 được chấm 10 lần, điểm 3 được chấm một lần. Giá trị phương thức là giá trị xuất hiện thường xuyên nhất, như vậy trong ví dụ của chúng ta thì đó là 6. Độ lệch chuẩn (engl.: standard deviation) Chỉ trong sự kết hợp nhiều lần thì các giá trị phân bố được giải thích sơ bộ ở các phần trước mới cho ta sự chỉ dẫn về mức độ đồng nhất của sự phân bố tần số xuất hiện. Như vậy, nếu chúng ta có chẳng hạn ít điểm rất cao và nhiều điểm rất thấp (sự đồng nhất thấp), hoặc đa số các điểm không chênh lệch nhiều với giá trị trung bình (sự đồng nhất cao) thì mức chênh lệch tiêu chuẩn sẽ cho ta thông tin về điều đó. Nó là số đo cho sự chênh lệch trung bình có trọng số (bình phương) của các giá trị riêng rẽ so với giá trị trung bình số học của dãy giá trị đo. Công thức cho giá trị này là : s x x
  57. n i i n = − = ∑ ( ) Mức độ lệch chuẩn thấp sẽ cho thấy có rất nhiều giá trị xung quanh giá trị trung bình, mức độ lệch chuẩn cao sẽ cho thấy rất nhiều giá trị lệch nhiều so với giá trị trung bình. Đối với ví dụ nêu trên ta có phép tính sau : Nghiệm của : {[9-6]2 + (6-6)2 + (6-6)2 + (6-6)2 + (6-6)2 + (6-6)2 + (6-6)2 + (6-6)2 + (6-6)2 + (6-6)2 + (6-6)2 + (3- 6)2 chia cho 12} = 1,2 , cho thấy có sự phân bố rất đồng đều. Tất nhiên, ở những lượng nhỏ như ví dụ của chúng ta thì cũng có thể nhận ra điều đó, nhưng ở những lượng dữ liệu lớn hơn thì điều này không phải có thể dễ dàng nhận ra, khi đó mức chênh lệch tiêu chuẩn sẽ cho ta những thông tin quan trọng. 7. Nghiên cứu trong các vấn đề định tính 7.1 Đặc điểm của nghiên cứu định tính Như chúng ta nay đã biết, các chiến lược nghiên cứu khoa học thường nhằm vào mục đích chuyển đổi các đối tượng nghiên cứu của chúng thành các mối quan hệ số và phân tích chúng theo phương pháp
  58. thống kê. Mặc dù vậy cũng có những trường hợp mà phân tích thống kê chỉ có những động cơ thúc đẩy hạn chế, chẳng hạn như sự phân tích một vở kịch của Sêchxpia, vì vấn đề ở đây còn liên quan đến cảm giác, các ý nghĩa và cách hiểu. Hơn nữa, tất cả các tác giả lớn đều gây ấn tượng mạnh bởi khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách khác thường của họ, những ấn tượng mà thậm chí vẫn giữ được tác động của nó khi các bản văn được dịch sang những ngôn ngữ khác và như vậy cũng được chuyển sang một nền văn hoá khác. Có thể thấy rõ rằng những hiện tượng như vậy phải được đề cập bằng những chiến lược nghiên cứu khác so với chiến lược sử dụng những con số (ít nhất thì cũng nên như vậy). Ngoài văn học, những chiến lược như thế được áp dụng chủ yếu trong khoa học lịch sử và luật học. Tài liệu ban đầu trước tiên là các nguồn tư liệu: văn bản, tài liệu âm thanh hoặc ảnh. Khái niệm chung cho những phương pháp được áp dụng ở đây là chú giải văn bản cổ, môn khoa học về cách hiểu một cách hệ thống. Khi tìm hiểu một vấn đề thì đó là một quá trình trí tuệ có thể được diễn đạt như sự nắm bắt, thâu tóm hoặc nhận ra các mối quan hệ ý nghĩa. Nếu diễn đạt về mặt kỹ thuật thì sự hiểu có nghĩa là sự giải mã các biểu tượng ngôn ngữ hay các biểu tượng khác mà chúng ta nhận thức được thông qua các giác quan của mình. Khi giải mã những biểu tượng đó chúng ta sử dụng những mối quan hệ ý