Nghiên cứu ảnh hưởng đấu nối các nhà máy phát điện gió vào lưới điện Bình Thuận
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ảnh hưởng đấu nối các nhà máy phát điện gió vào lưới điện Bình Thuận", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
nghien_cuu_anh_huong_dau_noi_cac_nha_may_phat_dien_gio_vao_l.pdf
Nội dung text: Nghiên cứu ảnh hưởng đấu nối các nhà máy phát điện gió vào lưới điện Bình Thuận
- NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG ĐẤU NỐI CÁC NHÀ MÁY PHÁT ĐIỆN GIÓ VÀO LƯỚI ĐIỆN BÌNH THUẬN Nguyễn Bảo Quốc, Nguyễn Hoàng Việt University of Technical Education HCMC, University of Technical HCMC Abstract Electricity plays a very important role for the production of goods and improve human life . Therefore, the state cares about the development of the power sector , power sector facilitating become a key industry for the Chemical Industry - modernize the country . The advantage of wind power is expected to replace the national grid to provide electricity for the island region , such as , the plain of the river or the ocean . In addition, the country has great potential for wind energy , and support from the government for help , the wind power organization , will help us with the basis to promote development , investment development of wind power systems in the areas of wind potential in Vietnam . Therefore, to study the effects of voltage , power distribution , and ability to meet eliminates the trouble of connecting wind power plants in the region has great potential as Binh Thuan will help us look more accurate assessments of the ability to invest and construct national power grid with wind power projects . Results demonstrate that the implementation grid wind power project to be feasible and economic development opportunities opened up by generator wind energy in Vietnam. Keywords: Wind power , voltage , power distribution, ability to meet eliminates the trouble , Binh Thuan , Vietnam Tóm tắt Điện năng đóng vai trò rất quan trọng đối với sản xuất hàng hóa và cải thiện đời sống của con người. Chính vì vậy, nhà nước luôn quan tâm tới sự phát triển của ngành điện, tạo điều kiện cho ngành điện trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Việc tận dụng năng lượng điện gió được dự tính có thể thay thế lưới điện quốc gia để cung cấp điện cho các khu vực như đảo, vung đồng bằng cửa sông hoặc gần biển. Ngoài ra, nước ta có tiềm năng lơn về nguồn năng lượng gió, đồng thời được sự hỗ trợ giúp đỡ từ chính phủ, các tổ chức năng lượng điện gió, sẽ giúp ta có cơ sở để huy hoạch phát triển, đầu tư xây dựng các hệ thống điện gió ở các vùng có tiềm năng về gió tại Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu ảnh hưởng về điện áp, phân bố công suất , khả năng đáp ứng và loại bỏ sự cố khi đấu nối các nhà máy phát điện gió tại vùng có tiềm năng lớn như Bình Thuận sẽ giúp ta có cái nhìn chính xác hơn và những đành giá về khả năng đầu tư xây dưng và hòa lưới điện quốc gia với các dự án điện gió. Kết quả thực hiện chứng minh rằng dự án hòa lưới điện gió có tính khả thi kinh tế cao và mở ra cơ hội phát triển phát điện bằng nguồn năng lượng gió tại Việt Nam. I. GIỚI THIỆU Lào, và Thái Lan) dựa trên phương pháp Bản đồ tiềm năng gió của Ngân hàng mô phỏng bằng mô hình số trị khí quyển. Thế giới (Worldbank, 2001) được xây Theo kết quả từ bản đồ năng lượng gió dựng cho bốn nước trong khu vực Đông này, tiềm năng năng lượng gió ở độ cao 65 Nam Á (gồm: Việt Nam, Cam-pu-chia, m của Việt Nam là lớn nhất so với các 1
- nước khác trong khu vực, với tiềm năng II. KHẢO SÁT CÁC LOẠI MÁY PHÁT năng lượng gió lý thuyết lên đến 513.360 GIÓ. MW. Những khu vực được hứa hẹn có A. Máy phát gió loại fixed-speed : tiềm năng lớn trên toàn lãnh thổ là khu vực Khi tốc độ gió có sự biến đổi lớn và đột ven biển và cao nguyên miền nam Trung ngột, nó sẽ gây nên sự biến đổi điện áp đầu Bộ và Nam Bộ. Tuy nhiên, các kết quả mô ra của máy phát, nên chất lượng điện áp phỏng này được đánh giá là khá khác biệt cung cấp cho lưới thấp, gây nên sự mất ổn so với kết quả tính toán dựa trên số liệu định của lưới điện quan trắc của EVN, sự khác biệt này có thể là do sai số tính toán mô phỏng. Năm 2007, EVN cũng đã tiến hành nghiên cứu đánh giá tiềm năng gió, xác định các vùng thích hợp cho phát triển điện gió trên toàn lãnh thổ với công suất kỹ thuật 1.785 MW9. Trong đó miền Trung Bộ được xem là có tiềm năng gió lớn nhất cả nước với khoảng 880 MW tập trung ở hai tỉnh Hình 4.1 : Dao động điện áp đầu ra khi Quảng Bình và Bình Định, tiếp đến vùng đầu vào là vận tốc gió thay đổi với lạo máy có tiềm năng thứ hai là miền Nam Trung phát fixed-speed Bộ với công suất khoảng 855 MW, tập trung ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận Cho đến nay chưa có một nghiên cứu đánh giá tiềm năng gió cho riêng Việt Nam một cách sâu rộng do thiếu số liệu quan trắc phục vụ phát triển điện gió. Gần đây, trong khuôn khổ hợp tác giữa Bộ Công thương Hình 4.2 Cấu tạo cơ bản của loại fixed- (MoIT) và Dự án Năng lượng Gió GIZ speed (Hợp tác Phát triển Đức GIZ) (gọi tắt, Dự B. Máy pháy gió loại variable-speed : án Năng lượng Gió GIZ/MoIT), một Những năm gần đây thì loại tuabin này chương trình đo gió tại 10 điểm trên độ cao được sử dụng phổ biến trong hệ thống 80m đang được tiến hành tại các tỉnh cao năng lượng gió trên toàn thế giới. nguyên và duyên hải Trung Bộ (đo ở 3 độ Tuabin loại này được thiết kế với hiệu quả cao 80, 60, và 40 m so với bề mặt đất). Áp tối đa về mặt khí động học và sự thích ứng dụng các tiêu chuẩn IEC 61400-12 trong với một khoảng thay đổi lớn của vận tốc suốt quá trình đo gió, Dự án này được gió, ứng với vận tốc gió(v) sẽ có tương mong đợi sẽ cung cấp dữ liệu gió có tính ứng 1 vận tốc quay của roto tương ứng, bởi đại diện cho các vùng có tiềm năng gió của vì : R Việt Nam để phục vụ cho phát triển điện gió trong thời gian tới. Ngoài ra, các báo v cáo về quy trình và tiêu chuẩn lắp đặt cột λ : hệ số tốc độ của cánh đo gió cũng đang được hoàn thiện và sẽ là quạt tuabin(do từng thiết kế tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà của tuabin khác nhau mà hệ phát triển điện gió nói chung. số này có nhiều giá trị, theo 2
- luật BETZ thì λ có giá trị biến đổi công suất chỉ vận chuyển 20-30% biến đổi từ 0.2-0.59). công suất toàn phần. Vì vậy tổn thất qua bộ R : bán kính cánh quạt biến đổi được giảm thiểu so với khi toàn ω : tốc độ quay của cánh. bộ công suất vận chuyển qua bộ biến đổi v : vận tốc gió và giảm được song hài bậc cao phát lên lưới. Ngoài ra giá thành của bộ biến đổi cũng thấp hơn III. XÂY DỰNG MÔ HÌNH MÔ PHỎNG PSCAD VÀ NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG ĐẤU NỐI: A. Xây dựng mô hình mô phỏng PSCAD: Sơ đồ khối của máy phát không đồng bộ rotor lòng sóc trong mô phỏng PSCAD. Hình 4.3 Điện áp đầu ra của máy phát khi Trong mô hình này,hệ thống turbine với đầu vào là vận tốc gió thay đổi khi sử dụng đầu vào là vận tốc gió, đầu ra la moment máy phát loại variable-speed cơ TM , moment này dùng để quay máy phát không đồng bộ rotor lòng sóc. C. Tuabin gió vận tốc thay đổi dùng máy phát cảm ứng nguồn đôi (Doubly-Fed Induction Generator_DFIG): Có vài lý do để sử dụng chế độ vận hành vận tốc thay đổi của tuabin gió. Đó là có thể giảm thiểu sự mỏi của cấu trúc cơ khí, tiếng ồn và điều khiển được công suất tác dụng và công suất phản kháng. Hầu hết các hãng sản xuất chính đang phát triển tuabin gió lớn hơn với công suất 3-5MW. Những tuabin gió vận hành ở vận tốc thay đổi với điều khiển góc nghiêng sử dụng máy phát đồng bộ truyền động trực tiếp (không dùng hộp số) hoặc máy phát cảm ứng nguồn đôi (DFIG). Ngày nay, máy phát cảm ứng nguồn đôi thường được sử dụng trong ngành công nghiệp tuabin gió cho công suất lớn . Cấu trúc của máy phát của nguồn đôi đặc Mô hình tổ hợp các máy phát gió không biệt ở chỗ stator được nối trực tiếp vào đồng bộ rotor lòng sóc khi đấu nối vào lưới lưới trong khi dây quấn rotor được nối qua điện với đầu vào là moment cơ TM vòng trượt vào bộ biến đổi công suất. Khi hệ số trượt s âm thì công suất cơ Pcơ có giá trị âm , nghĩa là máy lấy công suất cơ vào. Ngoài ra ta có tgψ 0 nên máy phát vẫn nhận công suất phản Hệ thống này hiện nay rất phổ biến ở loại kháng từ lưới vào như trường hợp động cơ. tuabin gió vận tốc thay đổi. Đó là do bộ 3
- Do đó, khi mô phỏng PSCAd ta cần tinh Hình 5.11 Sơ đồ đấu nối Trạm biến áp 110 toán dung lượng bù tại đầu cực máy phát kV/220kV nhằm làm giảm công suất phản kháng Sơ đồ mô tả nút wind farm đấu nối trên lưới : Để tiết kiệm điện dung thường người ta sẽ đấu tam giác, điện dung mắc vào phải lớn hơn một giá trị giới hạn, khi ta tăng C thì điện áp đấu cực sẽ tăng lên 푈 1 푡 훼 = 1 = 푕 휔 Hình 5.12. Sơ đồ đấu nối 1 nút Wind farm 0 푕 Trị số điện dung ba pha cần thiết kích từ B. Phương pháp thực hiện: cho máy đạt đến điện áp định mức lúc Khi đấu nối các nhà máy phát điện gió, không tải có thể tính theo công thức : người ta xét đến rất nhiều yếu tố ảnh 3 휇 6 hưởng : điện áp, dòng điện, phân bố công 0 = 10 흁푭 2 1푈1 suất, tần số, nhiễu loạn, sóng hài, tần số, Trong đó : là dòng điện từ hóa, có thể khả năng loại bỏ sự cố. Do thời gian khảo 휇 sát và giới hạn đề tài nên ta chỉ kiểm coi như dòng điện không tải chứng điện áp tại các nút, công suất đầu ra Khi có tải thì do điện kháng của tải và do của các máy phát gió (công suất thực và điện kháng tản từ stato nên phải tăng thêm công suất phản kháng) khi đấu nối lên lưới điện dung để đảm bảo giữ điện áp không điện ta thay đổi các giá trị đầu vào của vận đổi . điện dung cần thiết bù vào đia65n tốc gió. Lưu ý ở đây ta chỉ lấy giá trị biên kháng tản từ của dây quấn stato vào độ, không quan tâm về dấu của biểu thức khoảng 25%C . Điện dung bù vào điện 0 tính công suất. kháng của tải có thể tình theo công thức Ta tiến hành mô phỏng chạy hệ thống điện sau : toàn bộ trên phần mềm mô phỏng PSCAD 3 6 1 = 2 10 흁푭 , trong đó Q là 4.2. Khảo sát thu thập dữ liệu cần thiết về 2 1푈1 thông số gió tại các điểm đấu nối, dữ liệu công suất phản kháng của tải về các máy phát điện gió , và dữ liệu về hệ Sơ đồ mô tả trạm biến áp 220kV/110kV thống điện Bình Thuận theo qui hoạch đến Phan Thiết trên lưới điện Bình Thuận, năm 2015 của EVN SPC là dữ liệu đầu vào thông số trạm và thông số đường dây theo cho các trường hợp tính toán khác nhau. thông số EVN SPC. Trạm dùng máy biến Lập mô hình tính toán với các kịch bản áp từ ngẫu , khác nhau, đánh giá kết quả nghiên cứu từ đó đề xuất phương án đấu nối và vận hành hệ thống điện gió hòa lưới do EVN SPC quản lý. Các kịch bản được đưa ra: 1/ Vận hành hệ thống lưới điện Bình Thuận khi chưa đấu nối điện gió , 2/ Vận hành hệ thống lưới điện Bình Thuận khi đấu nối điện gió chạy với tốc độ gió trung bình của Bình thuận là 8m/s, 3/ Vận hành hệ thống lưới điện Bình 4
- Thuận khi đấu nối điện gió chạy với tốc độ gió tăng 9m/s, 4/Vận hành hệ thống lưới điện Bình Thuận khi đấu nối điện gió chạy với tốc độ gió giảm 7m/s, 5/ Vận hành hệ thống lưới điện Bình Thuận khi có sự cố ngắn mạch ba pha. IV.ĐÁNH GIÀ KẾT QUẢ MÔ PHỎNG Hình 5.13 . Điện áp tại nút Phong Điện 1 VÀ ẢNH HƯỞNG KHI ĐẤU NỐI CÁC trong từng kịch bản đưa ra NHÀ MÁY PHÁT GIÓ LÊN LƯỚI ĐIỆN Từ các kết quả mô phỏng ta thấy được BÌNH THUẬN những ảnh hưởng của việc đấu nối các nhà máy phát gió lên lưới điện Bình thuận Ta xét giá trị điện áp tại các nút đấu nhà trong các kịch bản đưa ra. Trong chế độ máy phát gió trong các trường hợp khi vận hành bình thường khi đó khả năng đáp chưa đấu nối, đấu nối chạy tốc độ định ứng khi đấu điện gió có thời gian trễ lâu mức 8 m/s , tăng tốc độ gió 8 m/s lên 9 m/s hơn khoảng 1,5s để đạt được điện áp định , giảm tốc độ gió 8 m/s xuống 7 m/s : mức. Khi tốc độ gió thay đổi, ảnh hưởng Ta xét ở hai nút có công suất đấu nối điện đến điện áp tại điểm đấu nối, xem như là gió lớn nhất trên lưới điện Bình Thuận là sự cố thoáng qua và đạt được ổn định tĩnh Phong Điện ( 0,06kV trong thời gian 0,4s ) Ngoài giái trị điện áp, khi nghiên cứu ảnh hưởng đấu nối các nhà máy phát gió ta cũng xét đến công suất tại các trạm và phân bố công suất trên đường dây. Trên lưới điện Bình Thuận có các trạm biến áp 22/110kV, 110kV/220kV, do xét lưới điện truyền tải nên các kết quả mô phỏng tập trung cho tram 110kV, và các đường phân bố công suất trên lưới truyền tải 110kV, 220kV. Ta xét hai trạm điển hình là trạm Phan Thiết và ( có nối với đường dây 500kV ), cũng như đường phân bố công suất từ 2 trạm này về các nút. 5
- Hình 5.15. Công suất phản kháng tại trạm Phan Thiết 110kV/220kV trong các kịch bản Từ các kết quả mô phỏng trên ta đưa ra một số nhận xét và đánh giá hệ thống điện khi đấu nối các nhà máy phát điện gió vào: Điện áp tại các nút đấu nối máy phát điện gió: Các máy phát điện gió khi đấu nối vào hệ Hình 5.15. Công suất tác dụng tại trạm Phan Thiết 110kV /220kV trong các kịch thống chủ yếu là máy phát điện không bản đồng bộ rotor lòng sóc.Khi máy điện không đồng bộ làm việc với luới điện mà ta dùng động cơ sơ cấp kéo ( turbine gió ) quay nhanh hơn tốc độ đồng bộ thì trở thành máy phát điện phát ra công suất tác dụng vào lưới nhưng vẫn nhận công suất pahn3 kháng từ lưới vào, một mặt để kích từ , một mặt cung cấp công suất phản kháng do từ thông tản trên stator và rotor gây nên. Dòng điện không tải trên máy phát điện không đồng bộ lớn 20-25% dòng điện định mức cho nên công suất phản kháng cũng chiếm từ 20 – 25% công suất của máy phát. Vì vậy : 푃푅 + 푄 ∆푈 = ( ) 푈 6
- Do lúc ban đầu Q tăng nên sụt áp, cho nên hướng quá độ, mất thời gian để máy phát điện áp tại các nút mất thời gian đóng tụ bù điện gió phát công suất P và các thiết bị khi khởi động mới đạt được điện áp như bù hoạt động giảm Q trên lưới. khi chưa đấu nối. Khi gió thay đổi tốc độ công suất cũng Khi tốc độ gió thay đổi điện áp cũng thay thay đổi theo, chủ yếu là công suất tác đổi nhưng không đáng kể và vẫn nằm dụng P , công suất phản kháng Q thay đổi trong phạm vi vận hành cho phép của không đáng kể. Khi ngắn mạch xảy ra sau truyền tải điện, điện áp lưới Vdg =Vs khi loại bỏ sự cố không cắt gió khoảng thời gian tái lập trang thái xác lập khoảng digd V V R i Li L gcd s g gd gq dt 0,5s. V. ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG ĐẤU NỐI Điện áp phía nghịch lưu không đổi, điện CÁC NHÀ MÁY PHÁT ĐIỆN GIÓ : kháng máy phát và đường dây nhỏ, nên Bảng số liệu cho thấy khi vận hành đấu nối khi tốc độ gió tăng hay giảm chỉ ảnh các nhà máy phát gió công suất phát đạt hưởng nhỏ đến điện áp lưới hay chính xác khoảng 30% so với công suất định mức. Ta là khi tốc độ turbine nằm trong giới hạn “ kiểm chứng với công thức quy đổi công cut in “ và “ cut out “ thì điện ap đầ ra gần suất của Betz với hệ số C = 0.593 ( rotor như không đổi. p lòng sóc ) kết qua gần như chính xác vì Xét về tính ổn định, khi xảy ra ngắn mạch cho turbine chạy ở tốc độ gió thực tế Bình 3 pha 10 chu kỳ trên lưới, sau khi loại bỏ Thuận 8m/s vẫn thấp hơn định mức của sự cố đóng điện hệ thống có đấu nối gió turbine là 12m/s ( 15m/s). Công suất phản mất khoảng 0,5 giây để phát điện áp định kháng nhỏ gần như bằng 0 cho thấy sự ổn mức thõa điều kiện ổn định khi không cắt định của hệ thống và công thức bù C tinh gió. gh toán giá trị bù thích hợp. Công suất tại các trạm và sự phân bố các Theo điều kiện vận hành , ở các nút hay luồng công suất: các đầu cực máy phát luôn điểu chỉnh điện Nhìn vào kết quả mô phỏng P, Q của may áp cao hơn định mức hạn chế sụt áp cũng phát là hai đường đặc tuyến ngược nhau. như là quá tại trên đường dây thường là - Khi chưa đấu các nhà máy phát điện gió, 5% ≤ U ≤ +10% sự điều chỉnh này tùy lượng Q trên lưới ít nên đặc tuyến P, Q đm theo nhu cầu tải va do người điều độ vận khi mới đóng lưới gần như thẳng đứng, P hành quyết định. Đặc biệt khi có sự cố tăng , Q giảm. Khi đóng các nhà máy phát ngắn mạch 10 chu kỳ , khi đấu nối trở lại điện gió, cần thới gian khới động cũng hệ thống vẫn hoạt động và nằm trong mức như lượng Q trên lưới nhiếu, nên đặc điện áp cho phép chứng tỏ hệ thống có tính tuyến không còn thẳng đứng mà có xu ổn định 7
- Khi vận hành tổng công suất phản kháng Q nhà máy phát gió nâng cao sự ổn định của trên lưới nhỏ hơn rất nhiều so với tổng hệ thống truyền tải bao gồm cả ổn định công suất tác dụng P, góp phần làm ổn tĩnh và ổn định động. Hệ thống điện gió định hệ thống. Chiếu luồng phân bố công khi đấu nối lên lưới góp phần giải bài toán suất cũng không thay đổi trước và sau sự phân bố công suất truyền tải, giảm gánh cố. Dựa trên bảng số liệu ta có các kết luận năng lưới điện quốc gia cũng như giảm như sau : được chi phí sản xuất điện. Từ bảng tổng kết trên ta thấy khi tốc độ VII. REFERENCES. gió thay đổi tăng hoặc giảm thì công suất [1] El-Fouly, El-Saadany, Salama ,”Voltage regulation of windfarms tác dụng cũng tăng hoặc giảm theo, điều equipped with variable speed DFIG wind này chứng minh là dòng kích từ thay đổi tuabines “,IEEE2007). theo tốc độ gió có thể điều khiển được [2] A.Perdana, O.Carlson, J.Persson, “Dynamic response of Grid-Conncted công suất thực của máy phát . Wind Turbine with Double Fed Induction L Generator during Disturbances”, Nordic m workshop on Power and Industrial Ps = vis qr Ls Electronic.Trondheim-2004. Dòng kích từ tăng do đó công suất phản [3] R. Pena , J.C.Clare , G. M. Asher , “Doubly fed induction generator using kháng Q yêu cầu là O MVar mà điện áp back-to-back PWM converters and its stator sẽ tăng khi đầu vào là vận tốc gió application to variable-speed wind-energy generation “, IEEE Proc.-Electr. Power thay đổi, điều đó dần đến đảm bảo công Appl., Vol. 143, No 3, May 1999). suất phản kháng cần điều khiển là gần như [4]. M.B.Mohamed, M.Jemli, M-Gossa, bằng 0 Mvar K. Jemli, 2004 “ Doubly fed induction generator DFIG in wind turbine Modeling VVLs s s. m and power flow control “, IEEE QI . = sLL dr International Conference on Industrial ss Technology. [5]. Toufik Bouaouiche, Mohamed Lvms Machmoum , “Control and Stability vis dr Analysis of a Doubly Fed Induction LLs m s Generator”, IREENA - LARGE, Saint VI. KẾT LUẬN . Nazaire cedex, France, EPE-PEMC 2006, Chúng ta đã xác định những ảnh hưởng Portoro2, Slovenia, C2006 IEEE. [6]. S.W.H. de Haan, P. Bauer, J.T.G. của việc đấu nối các nhà máy phát gió trên Pierik, J. Morre “Comparison of complete lưới điện Bình Thuận trong các chế độ vận and reduced models of a wind turbine using Doubly-Fed Induction Generator”, hành bình thường – có các sự cố thoáng 4th International Workshop on Large-Scale qua cũng như sự cố ngắn mạch trong hệ Integration of Wind Power and Transmission Networks for Offshore Wind thống lưới điện. Các kết quả mô phỏng Farms. giúp cho ta có đánh giá cụ thể hơn và quy [7]. R. Pena, J.C.Clare, G. M. Asher, “Doubly fed induction generator uising trình vận hành lưới điện khi có đấu nối các back-to-back PWM converters and its 8
- application to variable variablespeed wind- generator”, IEEE 2007, Departement of energy generation”, IEE Puoc.-Electr. electrical and electronics Engineering, Power Appl., Vol. 143, No 3, May 1996). Dalian University of Technology. [8]. Tao Sun, Z Chen, Frede Blaabjerg, [15] I. Margaris A. Tsouchnikas and N. “Transient Analysis of Grid-Connected Hatziargyriou “Simulation of Doubly Fed Wind Turbines with DFIG After an Induction Generator Wind Turbines” External Short-Circuit Fault”, NORDIC School of Electrical and Computer WIND POWER CONFERENCE, 1-2 Engineering National Technical University MARCH, 2004, CHALMERS of Athens. UNIVERSITY OF TECHNOLOGY. [16] Thomas Ackermann; Wiley “Wind [9]. Peter J. Tavner, and Shunchang Yang, power in power systems”. „Control of a Doubly Fed Induction [17] Gilbert M. Masters, “Renewable and Generator in a Wind Turbine During Grid Efficient Electric Power Systems”, Fault Ride-Through”, IEEE Stanford University; Wiley. TRANSACTIONS ON ENERGY [18] Erickson, Al-Naseem, “ Novel Power CONVERSION, VOL. 21, NO. 3, Electronics Systems for Wind Energy SEPTEMBER 2006. Application : Final Report”; University of [10]. Jesus Lopez, Member, IEEE, Pablo Colorado. Sanchis, Member, IEEE, Xavier Roboam, [19] Tài nguyên năng lượng gió trên lãnh Member, IEEE, and Luis Marroyo, thổ Việt Nam-TS Tạ Văn Đa, Viện Khoa Member, IEEE, “ Dynamic Behavior of Học Khí Tượng Thủy Văn và Môi Trường- the Doubly Fed Induction Generator Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần During Three-Phase Voltage Dips”, IEEE thứ 10-Viện KHKTTV&MT. TRANSACTIONS ON ENERGY [20] Phan Thanh Tùng, Vũ Chi Mai , CONVERSION, VOL. 22, NO. 3, Angelika Wasielke Chương trình dự án SEPTEMBER 2007. năng lượng gió GIZ “Tình hình phát triển [11]. Jesus Lopez, Member, IEEE, Eugenio điện gió và khả năng cung ứng tài chính Gub´ıa, Member, IEEE, Pablo Sanchis, cho các dự án ở Việt Nam”, 2012 Member, IEEE, Xavier Roboam, Member, [21]Nguyễn Minh Nhật , Nguyễn Hữu IEEE, and Luis Marroyo, Member, Phúc “Điều khiển máy phát DFIG Doubly- IEEE,”Wind Turbines Based on Doubly Fed Induction Generator “, Đại học Bách Fed Induction Generator Under khoa Tp HCM, 2011 Asymmetrical Voltage Dips”, IEEE TRANSACTIONS ON ENERGY CONVERSION, VOL. 23, NO. 1, MARCH 2008). [12]. Toufik Bouaouiche, Mohamed Machmoum “Control and Stability Analysis of a Doubly Fed Induction Generator” IREENA-LARGE , Saint Nazaire cedex, France. [13]. I. Erlich, H. Wrede, and C. Feltes “Dynamic Behavior of DFIG-Based Wind Turbines during Grid Faults”, University of Duisburg-Essen, 47057 Duisburg, Germany, SEG GmbH & Co. KG, 47906 Kempen, Germany, 2007 IEEE. [14] Heping Zou, Hui Sun, Jiyan Zou, “Fault Ride-through Performance of Wind Turbine with Double-Fed Induction 9
- BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.