Mỹ Tho xưa (1861-1945) trong Nam kỳ lục tỉnh

pdf 108 trang phuongnguyen 4200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Mỹ Tho xưa (1861-1945) trong Nam kỳ lục tỉnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmy_tho_xua_1861_1945_trong_nam_ky_luc_tinh.pdf

Nội dung text: Mỹ Tho xưa (1861-1945) trong Nam kỳ lục tỉnh

  1. MỸ THO XƯA 1861-1945 TRONG NAM KỲ LỤC TỈNH Mặc Nhân TVC 1 | T r a n g
  2. VÀI HÌNH ẢNH VỀ MỸ THO XƯA 2 | T r a n g
  3. Không ảnh Mỹ Tho Chợ Mỹ Tho Ga xe lửa Một góc chợ 3 | T r a n g
  4. Tháp nước Vàm sông Bảo Định Trường Nguyễn Đình Chiểu Nhà Bảo sanh 4 | T r a n g
  5. Chiếc tàu mang tên “Mỹ Tho” Chợ Hàng Bông Bắc Rạch Miễu trước 1960 Phụ nữ Mỹ Tho Chợ Mỹ Tho nhìn từ bên kia sông 5 | T r a n g
  6. MỸ THO XƯA (1861-1945) TRONG NAM KỲ LỤC TỈNH PHẦN MỞ ĐẦU MỞ ĐẦU LƯỚT QUA NGUỒN GỐC ĐỊA DANH MỸ THO Sách sử cũng như các nhà viết sử đương đại cũng đã nói nhiều về địa danh Mỹ Tho. Dường như tất cả cũng cùng một ý niệm là Mỹ Tho bắt nguồn từ phương ngữ gốc Khờ me như Mê Sor biến thể thành Mỹ và Tho qua người Việt, có nghĩa là xứ có người con gái da trắng, đẹp. Từ đó Mỹ, vốn dĩ từ chữ Hán là đẹp, nhưng từ Tho không có trong chữ Hán nên có lối viết khác nhau qua chữ Nôm, có hai lối viết, để chỉ vùng nước thơm hay cỏ thơm. (trích dẫn từ các sử liệu). Nhưng Mỹ Tho dù nguồn gốc từ đâu, đã là một từ quốc ngữ một từ Việt Nam chỉ một địa danh từ gần 4 thế kỷ qua, đã thắm sâu vào tâm hồn chúng ta như một phần của tình yêu quê hương, tình yêu đất nước, quá đủ cho chúng ta người Việt Nam, nhất là người Mỹ Tho hảnh diện với mỹ từ đó rồi. Mỹ Tho trong lịch sử là một vùng đất quan yếu được sớm khai phá, được một đại trường giang bồi đắp, là một thành phố có tổ chức theo từng trang sử cũ trich dẫn như sau: A.- Theo “Gia Định thành thông chí” 1. Mỹ Tho đồn: Đồn Mỹ Tho tại phía nam trấn, xưa là rừng hoang, hổ báo làm hang ổ (Tại trấn Nam nhất lý hứa, cựu vi hoang lâm, hổ báo quần huyệt ). 2. Mỹ Tho sông ngòi: Sông Mỹ Tho ở trước mặt trấn, là con sông lớn của trấn, bắt nguồn từ nội địa tỉnh Vân Nam (Tại trấn tiền, vi bản trấn đại giang, kỳ nguyên phát ư nội địa Vân Nam tỉnh ). 6 | T r a n g
  7. B.- Theo “Đại Nam nhất thống chí” 3. Mỹ Tho phố lớn: chợ, quán: chợ Mỹ Tho tại huyện Kiến Hưng, thường gọi là chợ là phố lớn. Nhà ngói, rui chạm, đình cao, chùa rộng. Sông sâu tàu thuyền, buồm giong qua lại như dệt cửi (Mỹ Tho thị tại Kiến Hưng huyện, tục danh đại phố thị, ngõa ốc, điêu manh, cao đình, quảng tự. Dương hà thuyền sưu phẩm tường, vãng lai như chức ty ) 4. Mỹ Tho quan thuế: Cửa ải Mỹ Tho ở huyện Kiến Hưng, năm thứ mười sáu Minh Mạng lập ra cửa ải thu thuế. Đến năm thứ ba Thiệu Trị thì bãi bỏ (Tại Kiến Hưng huyện, Minh Mạng thập lục niên, thiết quan chinh thuế. Thiệu Trị tam niên đình ) C.- Theo “Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ” (“Histoire de la conquête de la Cochinchine”), Tác giả, người Pháp viết: Sài Gòn là trung tâm quân sự, Mỹ Tho là trung tâm thương mãi. Các ghe tuyền của người Nhật người Tàu, người An Nam, nười Xiêm có đáy cạn dễ di chuyển trên sông gần nơi sản xuất gạo, thêm vao truyền thống người dân địa phương từ bao thế kỷ, khiến cho Mỹ Tho trở thành trung tâm buôn bán lớn nhất của Nam kỳ, trước khi người Âu đến. Mỹ Tho là một vùng có nhà cửa rộng lớn, lợp bằng là dừa nước theo theo tập quán. Nhưng dọc theo bờ kinh Bưu Điện (Arroyo de la Poste hay kinh Bảo Định) nhà cửa thanh nhã hơn nhiều, mái lợp ngói giữa những vườn dừa vườn cau, tất cả có vẻ trang nhã, phong lưu, đôi khi giàu có. Có thể so sánh với cảnh phồng hoa đô hi65 của Chợ Quán và kinh người Tàu ở Sài Gòn .” D.- “Theo Địa phương chí Mỹ Tho 1902” (Monographie de Mỹ Tho 1902), tác giả người Pháp viết: “ Vị trí của Mỹ Tho thật tuyệt diệu. Nó chiếm một vị thế trung chuyển quan trọng vào bậc nhất cho các loại ghe chài to lớn từ miền Tây lên Chợ lớn (Sài Gòn) qua con kinh Bảo Định và con kinh Chợ Gạo. Mỹ Tho lại có con đường sắt đầu tiên của Đông Dương, con đường sắt Sài Gon- Mỹ Tho và con đường thủy nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây lên tận Pnôm Penh qua bến Tàu Lục Tỉnh Mỹ Tho .” Công lao của tiền nhân. Sự mở mang và phát triển Mỹ Chánh để trở thành một Mỹ Tho hiện nay, đã tuần tự một cách nhịp nhàng theo dòng lịch sử, do công lao và trí tuệ của tiền nhân chủ yếu là nhà Nguyễn, từ thời còn là Chúa đến khi lập nên triều Nguyễn từ Gia Long trở về sau. Đó là lịch sử. 7 | T r a n g
  8. Đồng thời với sự mở mang và phát triển Mỹ Chánh, những thôn khác được thành lập về hướng tây, bên kia sông Bảo Định như: thôn An Hòa, sau đổi là Thạnh Trị (ấp 1 xã Đạo Thạnh bây giờ), thôn Điều Hòa (Phường 1, 4, 5, 7 bây giờ ), thôn Bình Tạo (Phường 6, một phần của Trung An và Bình Đức bây giờ) Khu hành chánh của Mỹ Chánh được nâng từ đạo, lên dinh, từ dinh lên trấn để cuối cùng thuộc trấn Định Tường. Vào năm 1826, vua Minh Mạng cho dời lỵ sở (Mỹ Tho) của trấn Định Tường về phía tây sông Bảo Định thuộc hai thôn Điều Hòa và Bình Tạo để có được vị trí ngày nay của thành phố Mỹ Tho đương đại. Mỹ Tho lúc bấy giờ thuộc huyện Kiến Hưng, phủ Kiến An, trấn Định Tường. Cũng trong năm 1826, một ngôi chợ được thành lập tại địa điểm mới, và chính đó là ngôi chợ Mỹ Tho ngày nay, sau đó được người Pháp xây cất lại vào cuối thế kỷ XIX với hai dãy phố chợ nam và bắc hiện giờ vẫn còn. Cũng nên nhắc lại là người Hoa theo chân chủ tướng Dương Ngạn Địch trốn nhà Thanh, được chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép đến lánh cư tại thôn Mỹ Chánh (Mỹ Tho) từ rất sớm vào năm 1679, với đấu óc tháo vác đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển về kinh tế, thương mại, thủ công nghiệp của Mỹ Tho xưa. Đấy, Mỹ Tho từ xưa đã là một vùng đất sớm được khai phá, có sông lớn tưới tiêu, có thổ nhưỡng phì nhiêu, có địa hình thuận lợi, có con người cần cù chí thú nên đã sớm phát triển về mọi mặt đến ngày nay. MỘT CHÚT ƯỚC MONG Tôi không viết về Mỹ Tho qua những thay đổi và biến cố lịch sử. Ở đây với tuổi đời đã khá cao, tôi chỉ xin được phép kể lại những gì đã nghe, đã đọc, đã sống, đã chứng kiến, đã trải qua bằng đôi tai, bằng đôi mắt, bằng khối óc và cả bằng con tim. Do vậy xin độc giả qua đây, xin cảm nhận một cái gì đó rất bình thường nhưng gần gũi, thân mật, vui vui, buồn buồn như chuyện kể trong gia đình về thế hệ ông bà ta thuở trước. Tôi thiết nghĩ, từ những chuyện tầm thường vụn vặt đó ta sẽ cảm nhận nhiều hơn về Mỹ Tho ngày xưa. Cùng với một tham vọng chân tình, không biết có quá đáng không, là được trao đến các con cháu chúng ta trong nước cũng như ngoài nước gốc người Mỹ Tho, một phàn đất của Tổ Quốc, một chút gì về hình ảnh, lối sống của ông cha, phong tục tập quán của đất nước quê hương xa xưa, mà phàm người Việt Nam nào cũng vậy, bao giờ cũng muốn trở về nguồn, và luôn là mối ám ảnh cho nỗi hoài hương ray rức. 8 | T r a n g
  9. Vậy, xin hãy lần dở những trang sử dân gian không quá xa đối với chúng ta, để trở về quá khứ, sống lại trong bối cảnh lịch sử nhân văn đầy sắc thái của vùng đất Mỹ Tho thân yêu. Trước khi vào chuyện xin độc giả tha thứ và chỉ bảo cho những sai sót về thời gian tính, về dịa danh xưa, về chi tiết nhân vật tất nhiên phải có, vì người viết không phải là một nhà văn cũng chẳng là một nhà nghiên cứu sử, chỉ là một người dân Mỹ Tho tầm thường như đã thưa ở trên. Mé sông Cửu Long và cầu tàu ông Chánh 9 | T r a n g
  10. MỸ THO XƯA (1861-1945) TRONG NAM KỲ LỤC TỈNH PHẦN MỘT I - NHỮNG DẤU CHÂN LỊCH SỬ TRÊN ĐẤT MỸ THO 1.- Quang Trung Nguyễn Huệ Theo yêu cấu cứu viện của Nguyễn Ánh, vua Xiêm phái Chiêu Thăng và Chiêu Sương đem 5 vạn thủy lục quân sang chiếm thượng nguồn sông Tiền tấn công Mỹ Tho để tiến chiếm Sài Gòn. Từ ngoài Qui Nhơn lập tức vào Nam với chiến thuật tốc chiến tốc thắng, Nguyễn Huệ xua quân hai đạo, một dùng đường thủy vào Cửa Tiểu, một dùng đường bộ tiếp cận miền Đông để tiến về miền Tây và lập đại bản doanh tại vùng Mỹ Chánh. Ở đây xin nêu một sự kiện vô cùng lý thú. Theo giáo sư Nguyễn Phan Quang trong kỷ yếu “Chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút” của Tỉnh Tiền Giang 2005, khi đạo lục quân đến Gia Định, Nguyễn Huệ (tác giả NPQ chưa kiểm chứng), đã dùng con đường ngắn nhứt để đến mặt trận mà ông đã chọn sẵn là vùng Rạch Gầm - Xoài Mút. Đạo quân nầy không dùng con đường Cái, (gần như con đường Quốc lộ A 1 bây giờ), mà ông dùng con đường tắt, con đường thẳng, (con đường thẳng là con đường ngắn nhất), để chuyển quân từ Sài Gòn Gia Định đến thẳng vùng Rạch Gầm - Xoài Mút. Con đường nầy phải qua Đồng Tháp Mười (tác giả Nguyễn Phan Quang trích dẫn là “băng qua bể Tháp Mười”), tức nhiên vô cùng khó khăn vất vả nhưng gần nhất, nhanh nhất. Nếu sự kiện nầy là đúng, thử so sánh hiện nay có công trình đang xây dựng con đường Xa lộ Đông Tây, chỉ lấy đoạn từ Miền Đông (Sài Gòn) đến xã Tam Hiệp, Chợ Bưng (huyện Châu Thành, Tiền Giang) để đổ ra ngả tư Đồng Tâm (vùng RG - XM), cũng qua Đồng Tháp Mười (bằng ngỏ Đức Hòa, Bến Lức, Long An). Có phải chăng đây là con đường mà 224 năm về trước nhà quân sự đại tài Nguyễn Huệ đã dùng để 10 | T r a n g
  11. chuyển quân cũng từ Sài Gòn, cũng qua xã Tam Hiệp để tiến về Rạch Gầm Xoài Mút? Nếu đúng như vậy thật là một sự trùng hợp vô cùng ý nghĩa. Đó là một chi tiết về tài hành quân của Nguyễn Huệ, nhưng nội dung của bài nầy là nói đến bước chân của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ cách nay trên 2 thế kỷ đã từng đến Mỹ Tho, đặt đại bản doanh tại Mỹ Chánh một vùng bao gồm Phường 8, Phưởng 3, chùa Vĩnh Tràng, Cầu Vĩ, ấp Mỹ An (xã Mỹ Phong). Chỉ trong một ngày, ngày 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785, (năm Ất Tỵ), Nguyễn Huệ đã đánh tan 5 vạn quân Xiêm trong trận thủy chiến Rạch Gầm Xoài Mút, một chiến thắng lẫy lừng tại vùng đất Mỹ Tho nầy. Mỹ Tho qua chiến thắng vang lừng Rạch Gầm - Xoài Mút, qua mưu lược quân sự áp dụng tốc chiến tốc thắng cho từng trận chiến cúa anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, đã nổi tiếng với hai câu thơ xem như khẩu hiệu nung lòng quân dân, trong đó có nhân dân Mỹ Tho tham gia trận chiến: Chẻ tre bện sáo cho dày Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp nhau. Mỹ Tho có con đường mang tên Nguyễn Huệ, và một đền Kỷ niệm ở Rạch Gầm và một trường Trung học mang tên Lê Ngọc Hân 2.- Chúa Nguyễn Ánh. Thời kỳ Nam Bắc phân tranh đã đưa bước chân chúa Nguyễn Ánh vào Nam bôn ba khắp mọi miền đất nước nơi đây. Nguyễn Ánh đã từng bị quân của Tây Sơn lùng đuổi đây đó trên dải đất sông Tiền nầy. Một huyền thoại mà ai cũng biết, là có một lần chạy đến Xoài Hột, túng thế ông phải chung vào cái đại hồng chung của một ngôi chùa ở vùng Xoài Hột để trốn. Do đó sau khi thành lập Nhà Nguyễn, vua Gia Long ban chỉ sắc phong cho ngôi chùa nầy mà người dân gọi đơn giản là chùa Sắc Tứ. (Sắc Tứ Linh Thứu). Có một lần Nguyễn Ánh chạy đến vàm của con sông Kỳ Hôn (sau đào thành kinh Chợ Gạo) một bên là Tân Mỹ Chánh, một bên là Xuân Đông. Thế cùng lực tận, Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng phải dùng thuyền con từ Vàm Kỳ Hôn sang sông Cửa Tiểu và Cửa Đại qua vùng Quới Sơn, Rạch Miễu, đến Bến Tre rồi Trà Vinh xuống Ba Động để ra biển tìm đường sang Xiêm cứu viện. Sau chiến thắng vang lừng ở trận Rạch Gầm – Xoài Mút, quân Tây Sơn rút về Bắc và sau chiến thắng ở trận Đống Đa và sau khi tức vị không bao lâu, vua Quang Trung thăng hà, Chúa Nguyễn đã trở lại hoạt 11 | T r a n g
  12. động ở miền Nam, lẽ tất nhiên ở vùng Mỹ Tho cùng với các vùng lân cận như Bình Cách, Tịnh Hà, Kỳ Hôn . Trước 1975, Mỹ Tho có con đường mang tên Gia Long. 3.- Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu: Thủ Khoa Huân Nhớ năm xưa, trời đất Mỹ Tho, cù lao Rồng gió lộng, sông nuóc Cửu Long, con người trấn Định đã tiễn biệt người anh hùng chống Pháp bất khuất Nguyễn Khoa Huân, từ vàm sông Bảo Định về Tịnh Hà đền nợ nước đúng vào đứng bóng (12giờ trưa) ngày rằm tháng tư năm Ất Hợi (1875). Người có để lại nhiều bài thơ, nhưng bài thơ mà hậu thế nhắc đến nhiếu là bài thơ Tuyệt Mạng. Nguyên bản như sau: Tuyệt mạng Hãn mã nan kham vị quốc cừu Chỉ nhơn binh bãi trí thân hưu Anh hùng mạc bả doanh dư luận Võ trụ trường khan tiết nghĩa luu Vị bố dĩ kinh hồ lỗ phách Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu Đương niên Tho thủy lưu ba huyết Long đảo thu phong khởi mộ sầu. Bài thơ nầy được rất nhiều học giả dịch. Trong đó có nhà sử họcTrần Huy Liệu, giáo sư Phạm Thiều Dưới đây xin trích lục bản dịch của Trần Huy Liệu, bản nầy được khắc dưới chân tượng của Người tại vàm sông Bão Định, Mỹ Tho: Bài thơ tuyệt mạng Ruổi dong vó ngựa báo thù chung Binh bãi cho nên mạng mới cùng Tiết nghĩa vẫn lưu trong vũ trụ Hơn thua chi kể với anh hùng Nổi xung mất vía quân hồ lỗ Quyết thác không hàng rạng núi sông Tho thủy ngày nay pha máu đỏ 12 | T r a n g
  13. Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong. Trần Huy Liệu Bản dịch nầy được phổ biến từ lâu. Trong bản dịch, dịch giả đã đổi thứ tự của câu 3 xuống câu 4 và ngược lại, có lẽ để tiện việc vận dụng vần anh hùng cho câu 4. Ngoài ra một số Hán tự như hản mã ở đây dịch là vó ngựa, nan kham dịch là ruổi dong. Câu 6, bỏ qua ý cam đoạn tướng quân đầu Hai câu chót bỏ qua hai từ không dịch là: lưu ba và khởi mộ sầu. Cũng như từ Tho thủy vẫn để nguyên là Tho thủy và Long đảo dịch là đảo Rồng. Có một người cư dân Mỹ Tho, đã dịch bài thơ nầy với dụng ý sử dụng từ miền Nam cho gần gũi hơn với người địa phương đồng thời không bỏ sót những ý của tác giả. Bản dịch đó như sau: Bài thơ tuyệt mạng Góp công ra sức trả thù chung Thất thế đành cam bước phải cùng Khí phách anh hùng lưu hậu thế Đất trời tiết nghĩa tấm gương trong Nổi xung mất vía quân man rợ Cam chết đầu rơi nợ núi sông Dòng nước Mỹ Tho loang sóng máu Cồn Rồng sầu muộn gọi thu phong. Tân Văn Công Tại Mỹ Tho hiện thời có những công trình mang tên “Thủ Khoa Huân”. Đó là tượng Thủ Khoa Huân, đường Thủ Khoa Huân, trường Tiểu học Thủ Khoa Huân, công viên Thủ Khoa Huân và một đền thờ Thủ Khoa Huân ở Phú Kiết (Tịnh Hà). 4.- Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản Phan thanh Giản làm quan tại triều đình Huế, về Bảo Thạnh, Bến Tre để chịu tang mẹ. Ông đến vùng Mỹ Tho và bắt đầu dùng thuyền để về quê. Thuyền sang sông Cửa Tiểu và Cửa Đại đến sông Ba Lai. Trời đã tối, viên đồn trưởng bắt thuyền của ông đậu lại vì không cho ghe thuyền đi đêm. Viên hầu của ông định bảo với viên đồn trưởng ông là quan lớn của triều đình, ông ngăn lại không cho. 13 | T r a n g
  14. Thọ tang mẹ xong, ông lại đáp thuyền theo đường sông cũ về Huế. Viên đồn trưởng sau khi ra lịnh cấm thuyền ông, biết ông là Kinh Lược Sứ của triều đình nên đón thuyền ông để chịu tội. Ông bảo: Nhà ngươi không có tội gì cả trái lại có công. biết giữ gìn phép nước, ta sẽ đề bạt cho ngươi thăng chức. Mỹ Tho còn giữ con đường Phan Thanh Giản. 5.- Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Kỳ Ngoại Hầu Cường Để húy là Nguyễn Phúc Dân, sinh vào năm 1882 (năm Nhâm Ngọ) tại Huế, trong phong trào Văn thân chống Pháp, vào cuối thâp niên 1920, bị người Pháp săn lùng, đến Chợ Gạo trú ngụ tại nhà của một nhà cách mạng, ông Hương trưởng Hoài. Người Pháp phát hiện, ông phải chạy qua vùng Rạch Miễu trú ẩn tại nhà của bà Sương Nguyệt Anh, nhũ danh Nguyễn Thị Ngọc Khuê, con gái cụ Đồ Chiểu. Đêm đến người Pháp truy tầm đến nhà người nầy và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để phải trốn trong một cái tủ, nhờ vậy thoát thân. Sau đó ông lưu vong sang Nhật Bổn và mất tại Tokyo vào ngày 6.4.1951 (1 tháng 3 năm Tân Mùi) thọ 69 tuổi. 6.- Nhà Cách mạng lão thành Trung Quốc, Tôn Dật Tiên Tôn Văn, Tôn Trung Sơn hay Tôn Dật Tiên là cha đẻ của Cách Mạng Trung Hoa được nhân dân Trung Hoa có một thời gọi là quốc phụ. Cách mạng tháng 10 thành công, ông trở thành Tổng thống nước Cộng Hòa Trung Hoa, nhưng sau đó bị Viên Thế Khải lật đổ, ông phải bôn ba hải ngoại. Đến Hồng Kông, rồi sang Nhật, lại có một thời gian ngắn đến Sài Gòn, (khoảng đầu thập niên của thế kỷ XX) và để tránh sự theo dõi của người Pháp, ông phải đến Mỹ Tho. và ngụ tại khách sạn của một người đồng hương (Trung Hoa) mà cũng là đồng bang (Quảng Đông). Khách sạn nầy đối diện với ga xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, hiện giờ là căn phố ở gần khách sạn Mỹ Tho, công viên Lạc Hồng hay công viên Thủ Khoa Huân ngày nay. Theo tập tục, người Hoa rất lấy làm hảnh diện khi được một vị quyền cao chức trọng phác họa bản thảo tên cửa hiệu mình để khắc vào bảng sơn son thếp vàng treo trước cửa hàng như tiệm buôn, khách sạn Do đó ông có phác họa hai chữ “Đồng Bang” giúp người chủ khách sạn thực hiện bảng hiệu của mình. Bước chân của nhà cách mạng lẽ tất nhiện rất bí mật nên không biết ông rời khỏi Mỹ Tho lúc nào. Có điều tấm bảng hiệu “Đồng Bang” do ông viết vẫn còn được treo đó cho đến năm 1958. Năm nầy thành phố 14 | T r a n g
  15. Mỹ Tho có một đợt chỉnh trang đồng thời với việc thành lập công viên Lạc Hồng, do đó tấm bảng hiệu lịch sử đó được gở đi và có người đến tìm kiếm, để sưu tầm nhưng chủ nhân bảo là đã thất lạc đâu rồi. 7.- Pierre Loti, một nhà văn lớn Pháp. Xin nói trước đại tá hải quân Pháp nầy đến Mỹ Tho không phải để đánh giặc. Pierre Loti tên thật là Julien Viaud Loti (850-1923) phục vụ trong hải quân Pháp lên đến cấp bậc đại tá, đồng thời là một nhà văn lớn của nước Pháp với nhiều tác phẩm với một giọng văn mang tính hoài cảm sâu đậm. Khi đã về hưu, ông qua Đông Dương và đến Mỹ Tho (đầu thế kỷ XX) bằng xe lửa để tiếp tục ngược dòng Cửu Long lên Cao Miên (Cm- pu-chia) bằng tàu Lục Tỉnh, với mục đích nghiên cứu sông Cửu Long. Về Pháp ông có viết một cuốn hồi ký mang tên Le Mékong (sông Cửu Long). Trong quyển sách nầy ông có tả tỉ mỉ thành phố Mỹ Tho, ga xe lửa, bến tàu Lục tỉnh và chiếc tàu xà lúp (chaloupe) mà ông đã đi lên Nam Vang tức là Phnôm Penh, Căm-pu-chia. 8.- Marcel Cachin với Nguyễn An Ninh. Marcel Cachin (1869-1958) đảng viên đảng Xã hội Pháp, người đứng đầu trong kỳ đại hội đảng Xả hội ở Tours (Pháp) đã thắng thăm trong việc thành lập đảng Cộng sản Pháp. Sau đó ông là chủ nhiệm tờ báo L’humanité (Nhân Đạo). Marcel Cachin có đến Việt Nam vào khoảng năm 1920 và cùng ông Nguyễn An Ninh một người hoạt động chống Pháp, có đến Mỹ Tho. Đêm đến cả hai đến bung-ga-lô (bungalow) một loại khách sạn-nhà hàng sang trọng ở Mỹ Tho lúc bấy giờ (sau tháng 4. 1975 một phần là nhà sách Nhân dân, dối diện với công viên Lạc Hồng) do người Pháp quản lý. Đến nay, ngôi nhà nầy bị bỏ quên đã xuống cấp trầm trọng tuy nhiên vẫn còn cho thấy được lối kiến trúc đẹp của người Pháp. Loại bung-ga-lô nầy lúc bấy giờ chỉ tiếp khách Pháp và tây phương mà thôi, người Á Châu chỉ có người Nhật mới có quyền vào cùng với số người Việt Nam có quốc tịch Pháp. Marcel Cachin cùng với Nguyễn An Ninh đến để xin qua đêm nhưng chỉ có một mình Marcel Cachin được chấp nhận, còn Nguyễn An Ninh bị mời ra. Nguyễn An Ninh buộc lòng phải qua Xóm Dầu, Phường 8 bây giờ, để qua đêm. Trở về Pháp, Marcel Cachin viết một cuốn sách tựa là L’Indochine (Đông Dương) trong đó ông chỉ trich và buộc tội nhà cầm 15 | T r a n g
  16. quyền thực dân ở Đông Dương về mọi mặt trong đó có nhắc đến việc Nguyễn An Ninh không được thu nhận trong một khách sạn chỉ dành cho người Pháp và cho đó là hình thức kỳ thị chủng tộc. Mỹ Tho có con đường Nguyễn An Ninh. 9.- Quân đội Nhật Bổn Trong cuộc thế chiến thứ II, trước khi Nhật Bốn bất ngờ tấn công căn cứ hải quân Mỹ tại đảo Oahu thuộc Hawai vào ngày 7.12.1941, khiến cho Mỹ phải nhảy vào cuộc chiến, thì năm 1939 quân đội Nhật sau khi đánh chiếm Trung Hoa, đã sớm tiến vào Đông Dương. Cũng như các nơi khác trên khắp Đông Dương trong đó có Việt Nam, mặc dù còn trong tay thực dân Pháp nhưng họ đã bất lực ví chính Pháp quốc đang bị Đức xâm chiếm, nên quân đội Nhật mặc tình thao túng. Quân đội Nhật có mặt trên khắp lãnh thổ Việt Nam trong đó có Mỹ Tho. Đến Mỹ Tho, quân Nhật chiếm trường Nguyễn Đình Chiểu, học sinh phải dời về học tạm tai công sở làng Điều Hòa và đình Điều Hòa. Họ bố trí các nơi đồn trú cho quân đội, tổ chức những cửa hàng quân tiếp vụ. Ho cũng có mở những cửa hàng phục vụ cho dân chúng. Chẳng hạn họ chiếm một căn phố lầu tại góc đường Trưng Trắc và Võ Tánh Bắc của chợ Mỹ Tho, đặt một cửa hiệu khá lớn, theo thời bấy giờ, đặt tên là Dainan Kosi (Đại Nam Công ty). Họ cũng có mở lớp dạy tiếng Nhật cho công chức và người dân. Một vài dấu ấn trong thời gian quân đội Nhật trú đóng tại Mỹ Tho. Không biết họ đem giống ngựa ở đâu, có người bảo là họ đem từ Mông Cổ đến. Giống ngựa nầy to lớn khác thường, một người lính Nhật trung bình đứng dưới bụng của nó. Họ chăn nó tại những bãi cỏ ngay trong thành phố lúc đó còn khá hoang sơ, như ở cầu bắc cũ, góc đường Nguyễn Huệ-Ngô Quyền bây giờ Sáng họ dẫn đàn ngựa nầy vào ruộng vườn trong Gò Cát, Trung Lương để quần chúng và cho chúng ăn cỏ, rơm rạ. Sĩ quan Nhật mang gươm, ai cũng biết. Có điều một số ít người Việt Nam theo họ và được cấp gươm. Nhưng người Việt Nam nhỏ con, mặc bộ đồ lính Nhật màu cứt ngựa rộng thùng thình, đội mũ vải quá khổ, hông đeo cây gươm quá dài so với hai chân quá thấp, nên khi những ông 16 | T r a n g
  17. Đường mé sông Galliéni (Quai Galliéni, Đường Trưng Trắc) sĩ quan Nhật lô-canh nầy đi đến đâu, ta nghe tiếng lẻng kẻng lẻng kẻng do chuôi gươm kéo lê trên mặt đường. Ngày 8 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đảo chánh lật đổ chính quyền thực dân Pháp. Tại thành phố Mỷ Tho chỉ trong một đêm là công cuộc dảo chánh hoàn thành. Chính quyền tỉnh Mỹ Tho được Nhật trao cho người Việt Nam và tất nhiên dưới sự giám sát của họ. Tất cả người Pháp kể cả quân lính và một ít người Việt quá thân Pháp bị bắt đem trói trước thành lính tập để làm gì? Họ không làm gì cả chỉ bắt ổ kiến vàng bỏ dưới chân những người tù binh nầy cắn coi chơi! Một cách xử lý hi hữu. Chiến hạm Amiral Charner của Pháp sau khi tham gia trận chiến giữa Xiêm và Cao Miên ở vịnh Xiêm La (Golfe de Siam, vịnh Thái Lan bây giờ), tránh sự không kích của phi cơ Mỹ nến vào trốn trong nội địa, đậu bên kia cồn Rồng, vẫn còn treo cờ Pháp. Tại Mỹ Tho hải quân Nhật không phải là đối thủ của loại chiến hạm nầy. nên sáng hôm sau, 3 chiếc máy bay phóng pháo của Nhật từ Sài Gòn xuống thanh toán nốt lực lượng cuối cùng của Pháp ở Mỹ Tho trên sông Cửu Long. Sau đó cuối năm 1945, người Nhật cũng rút khỏi Mỹ Tho khi quân Nhật đầu hàng Đồng Minh. Xác chiếc chiến hạm Pháp nầy bị người Nhật đánh chiềm còn nằm bên kia cồn Rồng từ 1945 cho mãi đến sau. Một điều trớ trêu lý thú là sau năm 1975 cũng chính người Nhật trục và vớt xác chiếc tàu định mệnh nầy để mua sắt vụn. Đến bây giờ, dường như Mỹ Tho không còn một dấu vết nào của sự hiện diện của quân đội Nhật Bổn cả. 17 | T r a n g
  18. MỸ THO XƯA (1861-1945) TRONG NAM KỲ LỤC TỈNH PHẦN HAI II - NGOẠI KIỀU A. NGƯỜI HOA B. NGƯỜI PHÁP C. NGƯỜI ẤN A. NGƯỜI HOA Ta thử lần dấu trở về Mỹ Tho trăm năm trước để xem người Hoa bình thường chung sống với ta như thế nào. Họ đã hòa mình trong cộng đồng Việt Nam một cách thân thiện và cũng đã được người Việt chúng ta tiếp đón cởi mở rộng lòng. 1.- Tào phộng dzang hộc dzưa Cứ mỗi chiều gần chạng vạng, trời nắng hay trời mưa, trời lạnh hay trời nóng, năm nầy qua tháng nọ, một lời rao trầm trầm, đều đều, buồn buồn không lên không xuống vang vang như kêu gọi như mời mọc như van lơn Tào phộng dzang, hộc dzưaa, hộc biii lâyyy Câu rao nầy cách khoảng câu rao kia dường như rất đúng trường canh, với một giai điệu trầm lắng vời vợi. Nếu có những khoảng cách nhau khá xa, từ trong nhà, người nghe có thể đoán được là món hàng rao bán nầy đang có khách gọi đến mua. Tiếng rao nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi người của gốc phố không còn nghe được nữa. Nhưng như một chu kỳ qui ước, nửa giờ sau là tiếng rao đó lại bắt đầu nổi lên văng vẳng, rồi lớn lên từ từ nhưng từ một chiều ngược lại của con đường cũ, đã về khuya. Như vậy người của khắp phố phường Mỹ Tho xa xưa dù muốn hay không vào thời điểm nầy vẫn phải nghe đoạn ca từ trong một điệu nhạc tự biên tự diễn, hay hay không, không cần biết nhưng sao nó thân thuộc quá, nó gắn bó quá để một buổi chiều nào đó tiếng rao không vang vang như thường lệ, người ta thấy như đánh mất một cái gì 18 | T r a n g
  19. Chị tôi và tôi ngồi học bài trên gác đã chín giờ đêm, vừa gục lên gục xuống, khi nghe tiếng rao của người bán hàng: Tào phộng dzang, hộc dzưa, hộc bíiiii lây chị tôi thúc cùi chỏ, hất mặt bảo tôi: - Tao hột bí, mầy ăn cái gì thì ăn. Tôi tranh thủ về vấn đề tiền bạc: - Tiền? - Tao bao. Thế là tôi chộp tiền, xuống gác, giong ra lộ đón người bán hàng: - A Phò! Bán gói phộng, gói bí đi. Người nữ chủ nhân nầy, thím xẩm nầy người phụ nữ gốc Hoa nầy không biết đến cái xứ xa lạ nầy từ lúc nào, và làm cái nghề buôn bán nầy từ lúc nào không ai nhớ, nhưng được mọi người trong thành phố gọi thân mật là A Phò. A Phò vui vẻ nhìn tôi cười. Tôi nói A Phò cười như vậy là tôi đoán thôi chớ thật tình mà nói, tôi không biết A Phò cười hay mếu. Năm tháng khổ cực, cuộc đời lam lụ phong sương đã biến đổi người phụ nữ nầy thành khó đoán được tuổi tác và tình cảm biểu lộ trên gương mặt nhăn nheo, cằn cỗi do sự tàn phá của thời gian và nghèo cực. Tôi hỏi A Phò: - A Phò về ngủ hả? - Chời lất ơi, còn cả thúng lây, dzề cái dzì - Bán khá không? Ngày lời bao nhiêu? Lai nụ cười như mếu, A Phò trả lời: - Lâu có khá dzì lâu! Có ngày kiếm lược cắc mấy, có ngày hổng lược. - Con cái A Phò đâu? - Ló li làm mướn người ta hết zồiii . Tôi trở vào nhà, lên gác học bài, lấy gói đậu phộng ra ăn, nghe văng vẳng từ xa vọng lại nhỏ dần, nhỏ dần đến khi mất hút trong hư vô: Tào phộng dzang, hộc dzưa, hộc bíiii hôngggg 2. Cà lem cục cục lâyyy Lúc bấy giờ trẻ con được ăn một ly đá nhận có chế si-rô là “đả” lắm rồi , nếu thêm một tí sữa bò “con chim” là hết “sẩy”. Thậm chí bỏ mấy cục đá vào miệng nhai nghe lốp cốp, ê răng thì hẳn nhiên, nhưng cũng đủ “khoái” lắm rồi. Thế mà một hôm, bỗng nhiên ở khắp các nẻo đường của Thành phố Mỹ Tho lại nghe tiếng rao hàng lạ lùng: Cà lem cục lây Cà lem nức dzờ lừng cát lây .Cà lem xi dzô lá dzớớ ngoon dzẫu len lây cà lem cục cục ngoon dzẫu len lây . 19 | T r a n g
  20. Tiếng rao hàng lơ lớ của một người Hoa mà lúc bấy giờ người ta thường gọi là người Tàu, và không biết ai đã phong cho họ một cái thứ duy nhất là thứ ba. Do đó khi tiếp xúc với bất cứ một người Hoa nào, người Việt Nam thường gọi là chú, do đó thành chú ba để rồi có một từ khác nẩy sanh mà chú ba không thích lắm, đó là từ ba tàu. Cũng có một giả thuyết là khi người Hoa đến Việt Nam, người Việt chúng ta xem như là khách nên gọi là khách trú, có nghĩa là người khách đến tạm trú. Người Nam bộ ta thường phát ngôn sao cho dễ dãi dễ nói dễ nghe nên từ trú trở thành chú, một bước giản dị hóa hơn nữa để khách trú trở thánh cắc chú. Cũng có người cho là người Hoa đến đây là bà con với ta bên nội, nên ta gọi họ là chú, trong khi đó con cháu họ gọi người lớn Việt Nam bằng cậu, bỡi vì đa số người Hoa đến đây đều cưới vợ Việt Nam bà con bên ngoại mà! Trở lại chủ đề cà lem cục cục Trưa nắng, Mỹ Tho vào mùa hè nóng bức, con người thường cởi trần phe phẩy cái quạt mo, trẻ con ra đường tìm đến bóng cây me, cây dái ngựa, cây bả đậu để nô đùa bỗng nghe tiếng rao cà lem cục cục một đòi hỏi nước mát lạnh cho cơ thể là lẽ tất nhiên: - Cà lem! Chú bán cà lem cho ngừng chiếc xe dịch vụ lại bên đường. Thật ra chỉ là một cái thùng cây hinh vuông dài sơn xanh vụng về, trên mặt thùng có một cái nắp thiếc đậy lên. Một cậu bé bỏ cuộc chơi, chạy ra lộ, nhìn chú Tẻeng, chỉ vào cái thùng: - Cài gì vậy? - Cà lem mới da lò. Cà lem cục, ngon dzẫu len. Ăn cái dzì? Xi dzô? Nớc dzừa hả? - Nước dừa đi. Chú Tẻeng mở nắp thùng ra, từ trong bay ra một luồng hơi nước lạnh ngắt phả vào mặt làm cho cậu bé nhảy vội ra để tránh. Chú đưa tay vào thùng lấy ra một óng thiếc hình vuông dài, trút ra từ trong óng đó một chất đặc màu trắng sữa, lấy dao cắt ra một đoạn cở 6, 7 phân dùng hai cây tăm ghim lại đưa cho cậu bé rồi xòe tay, nói: - Lòng xu!* Cậu bé trả tiền, đưa cục cà rem vào miệng cắn, cậu bỗng thốt lên Trời! lạnh quá! Nhưng chất đường, chất nước dừa hòa tan cùng với cái lành lạnh của nước đá, sao mà ngon dữ vậy. Cậu bé nuốt tới đâu, sướng tới đó. Chú Tẻeng nhìn cậu bé ăn có vẻ thích thú lắm: 20 | T r a n g
  21. - Ngon dzẫu len hả? - Ngon! Bán cục nữa đi! Lá dứa nghen! - Ừa! Lá dzớớớ ngon dzẫu len. Chú Tẻeng đẩy xe đi xa, trong khu phố im ẳng buổi trưa của Mỹ Tho vào hè đã xa lắm rồi, người dân như còn nghe văng vẳng Cà lem cục cục lây Cà lem nớc dzồ lường cát, lá dzớớ, zi dzôô lây. Cà lem ngon dzẫu len Ngon tàng cầu lây Cà lem cục cục lây . Chú thích: Lòng xu là một đồng xu giá trị là 1/100 của 1 đồng bạc lúc bấy giờ và tính theo đơn vị tiền tệ thông thường cũng là 1/100 của 1 đồng bây giờ. 3.- Kẹo đục. Cách nay non thế kỷ, những người đến nay thọ được trên tám chín mươi, nếu còn minh mẫn thì hẳn không quên kẹo đục. Kẹo đục không phải là kẹo kéo, kẹo kéo là hàng sinh sau đẻ muộn. Lại với kẹo kéo có một cái mùi hơi tây còn kẹo đục nó có cái mùi hơi ba tàu một chút. Cả hai loại kẹo đều được làm bằng đường tán, nhưng cách làm có hơi khác, cách trình bày cũng vậy. Kẹo kéo thì kéo dài ra rồi bẻ thành khúc. Kẹo đục thì được sắp trên một mâm bằng thiếc và mồi lần muốn bán cho khách hàng thì phải dùng một dụng cụ bằng kim khí giông giống như cái dụng cụ cạo râu bây giờ nhưng lớn hơn. Người ta cần thêm một thanh sắt gỏ nhẹ lên dụng cụ kia đã đặt trên phần kẹo muốn lấy. Thửa kẹo được đục ra, gói lại bằng giấy trao cho khách hàng. Vì vậy gọi là kẹo đục. Còn kẹo kéo phải kéo dài và bẻ ra được nên gọi là kẹo kéo. Đơn giản vậy thôi. Lúc bấy giờ, người Việt Nam ta thường dùng đường tán, vẫn là đường mia, chế biến theo lối thủ công, đổ trong khuôn, đợi khô, trút ra có dáng dấp như trái thận heo, sản xuất từ các vùng xưa kia có trồng nhiều mía như Đúc Hòa, Đức Huệ, Trảng Bàng Đường tán có vị ngọt và thơm đặc trưng của nó. Sáng sớm chú Thòong dậy sớm lui cui nhúm lửa để thắng đường. Với kinh nghiệm lâu đời, chú dùng bao nhiêu đường, bao nhiêu nước, lửa củi lớn nhỏ ra sao nhất là với bí quyết nhà nghề chú có bỏ thêm một chất gì đó cho kẹo thêm dòn, thao trong miệng, đúng mùi kẹo đục. Kẹo tới, chú đổ vào một cái mâm tròn, có thành cao cở 1 tấc, đợi ngụi, dùng một tấm vải trắng sạch phủ lên, không quên đem theo dụng cụ cần thiết như cây đục, giấy gói kẹo cho khách hàng và một .cái lon trái vải để đựng tiền. 21 | T r a n g
  22. Chú dùng một cái khăn lông xây tròn như cái rế để nồi. lót trên đầu trước khi dùng hai tay đưa mâm kẹo lên đội. Chú ra đường một đổi, hai tay không cần vịn vào thành mâm kẹo nữa mà cầm cây đục kẹo và cây gỏ để .gỏ gọi khách. Tiếng gỏ kẹo đục khác với tiếng gỏ hủ tíu. Tiếng gỏ kẹo bằng hai thanh sắt nên giọng trong và cao, một tiết điệu khá vui vẫn có trường canh nhất định. Chú Thòong với tư thế như vậy nhưng đi khá nhanh, cùng với tiếng kẻeng, kẻeng, kẻeng làm cho khu phố sống động hơn. -Kẹo đục! Chú Thòong đáp lại lời gọi hàng của một thân chủ trung thành. -Kẹo lục lây! Lòng xu hả? Vừa nói chú vừa lấy cái ghế xếp mở ra để trên lộ và đặt lên trên mâm kẹo. - Nửa xu đi! Câu bé đáp. - Chời lất ơi, mới mửa hàang mà - Ờ thôi, đồng xu đi! Bửa nay chú đi sớm vậy? - Làm sóm li sóm làm chễ đi chễ Thum hoong? -Thơm! Cậu bé móc túi lấy ra một đồng xu đưa cho chú, chú cầm lấy, theo thói quen chú tung đồng xu lên cao rồi bắt lấy thảy vào cái lon, vang lên rộn rã tiếng lẻng kẻng, lẻng kẻng Cậu bé hỏi: - Ế hả? -Mới ra bán mà, nị mở hàang ló. Lừng có chù ẻo ngộ chớơơ - Thôi bán đắt nghen chú Thòong Chú Thòong đi xa, khu phố còn văng vẳng âm thanh kẻeng kẻeng quen thuộc của tiếng rao hàng kẹo đục của chú Thòong. Còn cậu bé lại có một kỷ niệm khác về chú. Số là mỗi lần chú Thòong thẩy đồng xu vào cái lon trái vải, mà nếu nghe tiếng cạch cạch là chú bán đắt, còn nghe tiếng lẻng kẻng nhiều lần là chú bán ế, vì trong lon không có nhiều xu (thùng rỗng kêu to mà!). Chỉ có chú Thòong và chú bé thân chủ trung thành nầy, cả hai cùng nhau đồng cảm được niềm vui buồn khi nghe tiếng kêu lẻng kẻng hay cạch cạch, của cái lon trái vải của chú Thòong bán kẹo đục ở đất Mỹ Tho nầy, cách nay non thế kỷ. 4. Hủ tíu thời xa xưa Trên trái đất nầy nơi nào có người Hoa là có hủ tiu. Từ hủ tíu không biết xuất xứ từ đầu vì người Hoa họ không gọi hủ tíu mà họ gọi là phảanh, còn hủ tíu chỉ là chất bột để làm phảanh. Do đó ăn hủ tíu họ gọi 22 | T r a n g
  23. là xực phảanh. Vào tiệm hủ tíu gọi một tô hủ tíu có thêm xương, gọi là dách cô phảanh thím xực xí-quách. Ngày xưa người Pháp gọi hủ tíu là soupe chinoise (súp Tàu). Đến bây giờ người ngoại quốc đến Mỹ Tho ăn hủ tíu cũng gọi là soupe chinoise hay chinese soup. Đến ngày nay hủ tíu đã thành một từ Việt Nam và món ăn hủ tíu như hủ tíu xào cũng thường có mặt trên bàn ăn của chúng ta cùng với bún (khô) xào làm bằng bột gạo, bún tàu bằng đậu xanh, tàu hủ ki cũng bằng đậu xanh, tàu hủ đủ các loại cùng với tương còn gọi là tương tàu làm bằng đậu nành Tất cả các loại thực phẩm nầy đều có gốc từ các người Hoa cố cựu. Lý lịch hủ tíu dài dòng thú vị như vậy vì đến nay hủ tíu trở thành món ăn sáng của đông đảo người Việt Nam và cũng có nhiều cửa hàng hủ tíu do người Việt Nam đứng nấu, trong khi đó thời xưa là người Hoa độc quyền. Tuy nhiên nếu so sánh hủ tíu do người Hoa và người Việt nấu, ta thấy có phần khác nhau xa về khẩu vị. Ngược dòng lịch sử, ta trở về Mỹ Tho một thế kỷ trước để thưởng thức hủ tíu Mỹ Tho do người Hoa chính hiệu đứng nấu. Chú Sồi, hủ tíu chú Sồi, với một chiếc xe ba bánh, có thành vách ba bên, lộng kiếng vẽ đủ thứ cảnh hình trong truyện Tam Quốc như Quan Công phò nhị tẩu, Giang tả cầu hôn, Đương Dương trường bản, Khổng Minh tọa lầu giong ruổi khắp các nẻo đường thành phố để mưu sinh, mà cũng để cho người dân Mỹ Tho có được một tô hủ tíu đậm đà. Ở giữa xe là một thùng nước lèo bốc hơi nghi ngút, những thúng, rổ nhỏ đựng hủ tiu, mì, bột nặn hoành thánh, dầu chá quảy (để ăn kèm với mì, hủ tíu), tô chén úp bên cạnh đủa, muổng lộn xộn với lọ nước tương, xì dầu, hột cải Chỉ đi ngang xe hủ tíu chú Sồi và khi nhìn hình ảnh chiếc xe hủ tíu, nghe tiếng lốc cốc của tiếng gỏ mời khách, ngửi từ thùng nước lèo bốc hơi lan tỏa một hương vị đặc thù tất cả những thứ đó thấm vào các giác quan, khiến cho ta khó cưỡng lại sự thèm ăn hủ tíu, mà phải là hủ tíu của chú Sồi. Một người khách tắp vào bên lề đường lập tức được vợ ông chủ, một thím xẩm lam lụ vì suốt đời tất bật, lấy một cái ghế sắt loại xếp lại, mời khách ngồi. Chú Sồi đon đả: - A cái lầy Thầy Ba xực mý dệ? ( A Thầy Ba ăn chi?). - Pháanh mì, thím xực xí quách tố tố sủi. (Hủ tíu mì. Ăn thêm xương, nhiều nhiều nước ) -Hầy lá! (Được rồi). Luôn luôn chú Sồi trả lời vói khách hàng dù đó không phải một câu hỏi, để khách không có cảm giác bị bỏ quên. (Điều nầy ta nên học). 23 | T r a n g
  24. Chú Sồi vừa nấu hủ tíu vừa lẩm nhẩm mấy câu hát hò gì đó nghe vui tai, trong khi thim Xồi dùng cây gỏ bằng hai thanh tre láng bóng vì đủ thứ ghét bẩn bám vào: mở heo, bột mì, xì dầu kể cả mồ hôi tay có lẻ nhờ vậy mà tiếng gỏ của hai thanh tre có giọng trầm bổng để gọi khách: Cốc cốc cốc .cốc. Cốc cốc cốc cụp. Muốn có được tiếng cụp lạ thường đó, thím Xồi chỉ cần ém chặc bàn tay vào thanh tre dưới, muốn có giọng cốc thì chỉ cần mở ra cho thoáng. - Màaan phò, phảanh xực thầy Ba lớớớ (Vợ ơi! Hủ tíu thầy Ba nè!) Thế là thím Xồi nhanh nhẹn đến bưng tô hủ tíu nóng hổi cho thầy Ba đang chảy nước miếng trông đợi tự nảy giờ. -Hẩu lớớ, thầy Ba! (Ngon lắm thầy Ba!). Thím Xồi mời khách. Thầy Ba đưa tay đón lấy tô hủ tíu, rồi dùng tay nầy xăng tay áo tay kia, chế thêm một chút xì dầu, gắp thêm một ít lát ớt, nặn vào một tí chanh, trộn trộn lên rồi gắp một đủa khá lớn đưa vào miệng, bắt đầu nhai, nhai .Gương mặt thầy đỏ lên vì nước lèo nóng, vì ớt cay, vì vị giác được kích thích, vì hơi nước lèo bốc lên phả vào mặt thầy hít hà một tiếng rồi lại tiếp tục thưởng thức Chú Xồi theo dõi thầy ăn và hỏi: -Hẩu lén thầy Ba? -Hẩu hẩu, cho thêm miếng xí quách đi. - Màaan phò, xí quách thêm cho thầy Ba ăn chơi li. Tiệm hủ tíu, xe hủ tíu. gánh hủ tíu của người Hoa từ xưa là như vậy, đến bây giờ vẫn còn trong ký ức của những người lớn tuổi, với ít nhiều tiếc nuối cái hương vị của một món ăn đã trở nên đặc thù của một số địa phương ở Việt Nam, đặc biệt là ở Mỹ Tho. 5.- Sơn đông mãi võ Ngay khi đến đây, người Hoa đã du nhập nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa như múa lân, sơn đông mãi võ Sơn đông mãi võ vốn là một tổ chức bán thuốc cổ truyền, tập hợp một nhóm năm mười người thường là cùng trong một gia đình. Họ lưu động có tính cách như giang hồ mãi võ. Để quảng cáo cho thuốc, họ thường phải múa võ, đánh kiếm, trình diễn nội công mà họ gọi là xình tả Từ Sơn Đông là vì họ toàn là người gốc tỉnh Sơn Đông, một vùng rừng núi nguyên sinh, nên còn có nhiều cây dược thảo để bào chế thuốc nổi tiếng. Thử trở về với một đoàn Sơn đông mãi võ biểu diễn như thế nào tại Mỹ Tho vào mùa xuân năm Át Hợi (1935). Đoàn Sơn Đông mãi võ với danh hiệu Sơn Đông Lâm Võ đường từ Bạc liệu đến chợ Mỹ Tho để mãi võ: múa kiếm, đánh quyền, xình tả, 24 | T r a n g
  25. nội công, làm trò ảo thuật để quảng cáo cho việc bán thuốc do họ bào chế. Thuốc của họ gồm đủ loại, đủ dạng đủ thứ cho đủ các thứ bịnh: đau lưng, nhức mõi, tức ngực, ho đàm, ho tổn, đau bụng sình hơi thổ tả, trặc chân, té cây, đụng xe, bị người ta đánh .với đủ thứ thuốc rượu, thuốc dán, thuốc cao đơn hườn tán, ngoài ra họ còn chuyên nhổ răng. Giữa một phiên chợ sáng ở Mỹ Tho, khi tiếng trống, tiếng chập chỏa, tiếng phèng la vứa vang lên là một số đông người đã vây quanh đoàn mãi võ thành một vòng tròn. Khán giả gồm những bà nội trợ đi chợ, những cậu thanh niên có học qua ít nhiều võ thuật, những ông lão thường bị đau lưng, nhức mõi nhưng đông nhất vẫn là trẻ con học trò mê mẩn theo dõi mà quên cả tiếng trống trường. Trong sân khấu lộ thiên và bất đắc dĩ nầy, phía tận cùng có 6 cái thùng cây khá to, chắc cũng nặng lắm còn vương vít những dây chạc chằng chịt. Có lẽ trong đó là thuốc men, đạo cụ, kim khí, võ phục nghĩa là tất cả tài sản của họ. Ai nấy nôn nóng chờ đợi đoàn biểu diễn, trong khi đó ông trưởng đoàn, vận võ phục đen, thắt lưng đỏ đi tới đi lui để đánh giá sự ái mộ của khách đến để có thể bắt đầu. Những thành viên còn lại gồm gồm hai thanh niên lực lưỡng cũng mặc võ phục nhưng màu xanh lam và một cô gái độ 17, 18 tuổi võ phục đen, chích khăn nhiễu, thắt lưng xanh, giày vải màu gạch nhưng cái đáng nói là cô rất đẹp, cái đẹp của người con gái tuổi dậy thì, cái đẹp giang hồ kiếm khách trong nếp võ phong, cái đẹp huyền ảo trong đôi mắt u huyền thâm thẩm - Tả lồ len .(đánh trống lên) viên trưởng đoàn vừa ra lịnh xong là trống, phèng la, chập chỏa nổi lên từng chập tùng tùng xà, cắc cắc cắc tùng tùng xà phèng phèng xà - Thưa quới ông quới bà, thưa lồng bầu, thưa bà con cô bắc, thưa anh chị em cùng các con nít nhỏ tả lồ len hôm nay lòn chúng tôi lến lây, trức là bảo dziễn mua dzui tả lồ len sau nữa bán thuốc cao lơn hườn tán tả lồ len Tùng tùng xà, phèng phèng xà -Lễ mở lầu cho màn bảo dziễn bữa lay, một cô gái sẽ múa bài Mai hoa kiếm cho bà coon cô bắc coi chơi. Tà lồ len . Vừa chấm dứt tiếng phèng la là cô gái với cặp song kiếm từ trong nhảy ra giữa sân nhanh nhẹn, duyên dáng ngẩng mặt nhìn về phía trước, đôi mắt rạng ngời, vòng tay bái tổ. Một tràng pháo tay vamg dội dành cho cô gái. Vụt một cái đôi kiếm được tung lên cao và rơi xuống đúng vào cô gái, mọi người nín thở, nhưng trong chớp mắt chuôi kiếm đã nằm gọn trong tay cô gái. Lại một tràng pháo tay nữa cùng với tiếng 25 | T r a n g
  26. trống, chiêng có lẽ làm nức lòng cô gái nên đường kiếm của cô càng linh động hơn. Lúc tấn thì nhanh như chớp nhoáng, lúc thủ thì vững như thành đồng, phòng thủ bên hữu để chế ngự bên tả trên dưới phân minh, trước sau vững chắc. Cùng với tiếng trống chiêng chấm dứt, cô gái đã trở về tư thế đứng tấn tuyệt vời với hai ngọn kiếm đưa cao. Khách xem mãn nhãn reo hò vang dội. Cô gái cúi chào với nụ cười còn ngây thơ bẻn lẻn. Trưởng đoàn trở ra sân với ít nhiều hãnh diện: -Tả lồ len. Bà coon coi qua màn bảo dziễn bữa nay của chúng tôi, còon nhiều cái hay hơn lữa. Trong khi chờ lợi coi lữa, tả lồ len chai thuốc rượu sơn đông của bổn lường bầu chế hay tàng cầu Tả lồ len Trặc tay trặc chân, bị lánh bị thương, té cây lụng xe trong uống ngoài tha .Hay lắm hay dzữ lắm Tả lồ len Bà con coi lây Ông ta nói tới đây liền cầm một khúc cây khá lớn đánh mạnh vào cườm tay một cái, đưa lên cho bà con coi thấy đỏ au sưng vù. Ông ta lai lấy chai thuốc rượu thuốc đổ lên vết thương xoa xoa một chút lấy tay chùi sạch đưa cườm tay lên như thường. Mọi người vỗ tay tán thưởng. - Bà coon thấy chưa, hay dzẫu len. Một chai hai cắc, hai chai lấy ba cắc thôi mại vô, mại vô tả lồ len .tùng tùng .xà Nhiều bàn tay cầm tiền nhanh chóng đưa vào: - Tôi một chai! - Tôi hai chai! - Tôi một -Mại vô. Lẹ tay thì còn, chậm tay uổng lắm mại vô tả lồ len Lầy cô ba lấy một chai, một chai cho bà hai . Ông ta xem mòi hết người mua nên đành phải đổi chiến thuật: - Bà con xem lây tả lồ len một lực sĩ xình tả nằm chịu hai tẳng đá xanh nặng dzẫu len, một người cầm cái búa lập lên, lá bể .bà con lừng có sợ thằng cha nầy hổng có sao lâu .tả lồ len Cứ như vậy, sau một màn biểu diễn là một màn bán thuốc, hay nhổ răng cho đến khi mọi khán giả nhớ công ăn việc làm ở nhà, ra về hết bỏ lại đoàn mãi võ Sơn Đông, bỏ lại đoàn người lưu lạc giang hồ đến đây mãi võ bán thuốc không biết vì kinh tế hay nghệ thuật. Chỉ biết, sau những cuộc biểu diễn vất vả, gian nan mà tiền bán thuốc không được bao nhiêu, cả đoàn ngồi buồn ngấu nghiến nhìn về phương Bắc xa lơ xa lắc, còn nơi đây thì tương lai mịt mờ Còn riêng tác giả, đến bây giờ vẫn còn vương vấn đôi mắt của người con gái Hoa múa kiếm trong đoàn Sơn Đông mãi võ tại chợ Mỹ Tho năm xưa, tự hỏi bây giờ thím xẩm nầy ra sao và ở đâu mà ngậm ngùi tiếc nuối đôi mắt ấy vô cùng. 26 | T r a n g
  27. 6.- Hát Tiều Người Hoa tùy theo bang, mỗi bang đều có một hình thức văn hóa nghệ thuật tuy thuần nhất Trung Hoa, nhưng về sắc thái rất khác nhau giống như ngôn ngữ của họ vậy. Cho nên người Quảng Đông có hát quảng, không biết điệu hò quảng mà sau nầy cải lương phỏng theo đó có đúng không, người Hẹ cũng vậy. Riêng người Tiều hay Tiều Châu hay Triều Châu ở Nam Kỳ ở nhiều tỉnh như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Chợ Lớn thường hay lập gánh hát Tiều. Người Hoa ở Mỹ Tho đến ngày vía Ông tức là ngày cúng Ông hay là cúng Quan Công, mỗi năm có đến hai lệ là ngày 13 tháng giêng và tháng 9 âm lịch, thường mời gánh hát Tiều về hát cho người Hoa lẫn người Việt xem. Gánh hát Tiều nầy khá đông và trang bị trọn vẹn cho cuộc lưu diễn từ đào kép, ban nhạc, sân khấu, đạo cụ, trang phục đầy đủ. Đến Mỹ Tho họ dựng sân khấu trước chùa Ông ở Phường 8 bây giờ, ngôi chùa Ông cổ nhất ở đây trên 300 năm. Sân khấu rất cao vì rất đông người xem vì miễn phí. Tuồng tích lấy trong các truyện Tàu như Việt Nam mình cũng có diễn, như Chung Vô Điệm, Mạnh Lệ Quân, Địch Thanh chinh đông, Tiết Nhơn Quí chinh Tây nhưng các vở tuồng kéo dài lê thê gần trọn bộ truyện. Vì vậy vỡ diễn bắt đầu từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng hôm sau. Khán giả muốn đến xem chừng nào cũng được, đói bụng vế nhà ăn cơm hoặc buồn ngủ về ngủ một giấc trở lại coi tiếp. Nhạc Tiều, nhạc Quảng ảnh hưởng rất nhiều cho các tuồng Hò Quảng sau nầy ở miền Nam. B. NGƯỜI PHÁP Nói đến ngoại kiều ở Mỹ Tho phải nói cộng đồng người Hoa là đông nhất. Ngoài ra còn có người Pháp và người Ấn là hai loại ngoại kiều khác, xin được đi vào chi tiết sau đây. 1. Bối Cảnh Lịch Sử Là người chiếm cứ Việt Nam nên người Pháp là ngoại kiều đông thứ hai sau Hoa kiều. Pháp kiều ở Mỹ Tho gồm: những người cầm quyền, đứng đầu là tỉnh trưởng (chef de province hay là administrateur). Về công thự, ngay trong thời gian đầu chiếm đóng Mỹ Tho, người Pháp đã xây cất dinh tỉnh trưởng (hôtel de ville) bây giớ là nhà khách tỉnh. Sau đó là các ty, sở, thành lính gọi là thành lính tập đóng tại đường Hùng Vương bây giờ là tỉnh đội và bên kia lúc bấy giờ cũng là thành lính sau đó mới đổi thành bịnh viện và ngày nay là bịnh viện Đa khoa. Xin mở một dấu ngoặc nhỏ vui vui nhắc đến thành lính tập nầy. 27 | T r a n g
  28. Sáng nào cũng vậy, đúng 5 giờ rưởi là từ thành lính nầy vang ra một điệu kèn clairon đánh thức. Điệu kèn nầy sử dụng trong quân đội các nước, luôn khích động trong các trận chiến dưới các điệu thúc quân rộng rã. Nhưng điệu đánh thức nầy nghe mãi thành quen, chúng tôi những trẻ con, đã nhân đó sáng tác ra một “lời ca” rất thích hợp: “Thằng nào thức chưa, thằng nào chưa thức. Thằng nào chưa thức thằng nào thức chưa ” Có tài liệu cho rằng chiếm đóng xong Mỹ Tho người Pháp liến xây cất trước dinh tỉnh trưởng trên đường Bourdais (Hùng Vương) một bên là thành lính và một bên là bịnh viện là hoàn toàn sai. Khi hoạch định mô hình thành phố Mỹ Tho, người Pháp rất quan tâm đến an ninh, cho nên họ đã chọn nơi đặt thành lính là trước dinh tỉnh trưởng, gồm hai thành lính hai bên đường Bourdais. Sau đó tình hình an ninh khả quan, họ hiến thành bên kia cho bịnh viện Mỹ Tho, chỉ còn giữ lại một thành đối diện mà thôi. Ga xe lửa và đoàn xe sắp khởi hành Điều nầy được xác minh là cách nay không lâu, trước khi phá bỏ bịnh viện cũ để xây cất lại bịnh viện bây giờ, và mới hai năm rồi lại phá thành lính nầy để xây lại cơ quan quân sự, người ta còn thấy rõ là lối kiến trúc thuộc địa của Pháp với hành lang rộng, nền nhà sàn cao, sườn nhà, thang lầu còn dùng gan chớ không phải sắt của hai tòa kiến trúc một bên là thành lính một bên là bịnh viện là một. (Nhà thương Grall ở Sài Gòn cũng có lối kiến trúc như vậy, bây giờ là bịnh viện Nhi đồng 2, ngày xưa còn gọi là nhà thương Đồn Đất cũng vì do thành lính chuyển sang). 28 | T r a n g
  29. Cùng theo chân nhà cầm quyền Pháp còn có những người Pháp kinh doanh (colon) như thằng tây hãng xáng, thằng tây nhà đèn, thằng tây góp chợ Tôi xin nói thêm về danh gọi các ngoại kiều ở Việt Nam thời bấy giờ như sau: Người Hoa được ta gọi là chú như chú chệt ,chú tửng, chú ba để thành ba tàu, thím Xược. chú Thoòng, (người Hoa thường gọi nhau bằng tên hay họ). Người Ấn độ được ta gọi là anh, như anh bảy, anh bảy ca ri, anh bảy bánh rế, anh bảy chà và. Còn người Pháp mặc dù là thực dân, quyền cao chức lớn mà ta lại gọi là thằng, như thằng tây hãng xáng, thằng tây kho bạc, thằng tây góp chợ Không biết tại sao ta có một lối phân biệt trong lối xã giao như vậy, vì người Việt Nam ta rất cẩn trọng trong lối xưng hô. Trở lại chuyện của Pháp kiều. Người Pháp ở Mỹ Tho trong giới cầm quyền họ rất “chính trị”. Vào cuối thập niên 1930, Mỹ Tho có phong trào Nam kỳ Khởi nghĩa, họ cử Georges Catroux, đảng viên đang xã hội Pháp làm tỉnh trưởng tại Mỹ Tho. Nhân ngày lệ kỳ yên ở đình Điều hòa, ông ta đến lễ Thần nhang đèn cẩn thận. Catroux sau được cử lên đến chức toàn quyền Đông Dương rồi Algérie sau theo Charles de Gaule chống Đức với chức đại tướng, chết vào năm 1969. (Theo Larousse 1962). 2. Đời Sống Người Pháp Bình Thường Pháp kiều ở Mỹ Tho, những người Pháp bình thường, cũng có người cưới vợ Việt Nam sống trong cộng đồng Việt Nam nhưng họ ít khi giao thiệp với người Việt Nam ngoài những công chức cao cấp, nhưng thực sự cũng không thấy họ có hành động kỳ thị rõ nét nào. Xin kể một vài chuyện vui: - Thằng tây tào cáo - bắt chước thời xưa gọi như vậy – thật sự là một trưởng ty quan thuế (hải quan) chuyên lùng bắt đồ lậu thuế hay cấm sản xuất trong đó có rượu lậu. Một hôm anh ta lên Đồng Tháp Mười bắt rượu lậu. Đến nơi, làng xã cùng với dân địa phương chiêu đãi anh ta bằng một cử nhậu thịt rùa, thịt rắn, thịt chuột tung bừng. Trong bữa tiệc anh ta được mời uống một thứ rượu mà người dân cho là tăng cường sinh lực. Trước khi về, dân trong làng còn biếu anh một keo rượu tăng cường sinh lực nầy, được bọc kín trong giấy cẩn thận. Anh đã say túy lúy ôm kè kè keo rượu xem bộ đắc ý lăm. Về đến nhà nằm lăn ra ngủ cho đến tối tỉnh dậy, bà vợ đầm gọi ra ăn cơm. Ngồi vào bàn ăn, nhớ ra nên bảo vợ vào trong lấy keo rượu mà những người nông dân tốt bụng đã tặng. Bà vợ khệ nệ bưng keo rượu ra và chính anh ta hăm hở mở giấy bao ra cầm lên định rót vào ly thì bỗng nghe bà vợ thét lên một tiếng kinh 29 | T r a n g
  30. hoàng. Anh ta vội nhìn vào keo rượu thì thầy gần nửa keo toàn là .chuột con lúc nhúc đỏ choét. Tới phiên anh ta thét lên rồi bắt đầu ụa ói đến tận mật xanh. Người Pháp chiếm đóng Mỹ Tho đến nay trên một thế kỷ rưởi và lịch sử đã sang trang, tuy nhiên cũng còn để lại trong ta một ít dư âm xấu tốt, vui buồn. Nhưng ở đây xin kể một vài giai thoại dân gian khá thú vị : - Trâu già không nệ dao phay Một thầy giáo làng, thầy Đặng, sau buổi học sáng, ở lại trường để dạy buổi chiều. Trưa thầy văng một cái vỏng trong lớp sau tấm bảng đen đánh một giấc. Hai giờ, một thanh tra người Pháp, ông Truchet, đến trường để “xét” thầy. Học trò đã đông đủ, đang chơi giỡn ngoài sân, đã quá giờ “đông học” mà thầy giáo .đâu mất. Ông thanh tra nhờ thầy thơ ký, thầy Nam, hỏi học trò xem thầy giáo đâu? Học trò thưa là thầy còn ngủ. Thầy thơ ký vào lớp ra sau bảng đen thấy thầy đang ngủ ngon lành, đánh thức thầy dậy và bảo là có ông thanh tra tây đến xét lớp. Ông thanh tra phải đợi thầy thay đổi áo quần tươm tất mới ra chào mình nên cũng thấy quạo rồi. Khi thấy thầy giáo đủng đỉnh đi ra, ông thanh tra trỗ một tràng tiếng tây dài nhằng với cái vẽ hằn học trách mắng của kẻ bề trên. Bị xạc-cà-rây (charger là xài xuể) trước mặt học trò, thầy giáo nhà ta nổi dóa lên bảo thẳng với ông thanh tra bằng một câu tiếng Pháp không kém phần hùng hồn: - Moa xăng phú trà quay dê. Tẳng pi toa. Moa vi-ơ buýt-lờ nơ cranh-pa cu-tô. Côm-pri? Phú lê-căn! (Tôi đếch cần làm việc. Kệ ông. Trâu già không nệ dao phay. Biết chưa? Đi đi!). ( Vieux buffle ne craint pas couteau) Ông tây già nghe một hơi tiếng tây có cái gì dao mác (cu-tô tức là dao là couteau) trong đó, lại nhìn vẻ mặt ông thầy giáo đang giận dữ, sợ thầy giáo dùng dao chém mình nên ông ta cũng sợ ra về không dám ở lại xét lớp nữa. Về văn phòng, ông thanh tra thuật lại câu nói của thầy giáo cho các thanh tra người Việt Nam nghe và hỏi có phải thầy giáo đó định dùng dao đâm ông phải không?, Ai nấy rũ ra cười - Phó-mát Một bà ở mướn cho vợ chồng ông tây già. Một hôm ông tây bảo bà ở mướn: 30 | T r a n g
  31. - A-lê mát-sê ác-sơ-tê moa phô-mai. (Allez au marché, achetez moi du fromage. Đi chợ mua phó mát cho tao) - Quẩy mong-xừ mè phô-mai coa? (Oui monsteur, mais fromage quoi? Dạ, thưa ông mà phó- mát nào?). Nên nhớ là phó-mát (fromage) là món ăn truyền thống của người châu Âu đặc biệt là người Pháp, giống như người Việt Nam mình thích ăn mắm vậy. Cũng như mắm, phó-mát làm bằng tinh sửa (bò, dê, ngựa ) để cho lên men càng lâu càng tốt thậm chí lên cả móc meo xanh dờn lắm khi có cả dòi bọ nên bốc một thứ mùi mà người lạ không chịu nỗi. Người Pháp chính cống lại ăn những thứ phó-mát càng nặng mùi chừng nào càng thích chừng ấy Do đó phó-mát có nhiều loại chẳng hạn ca-răng-be (carembert) đã là nặng mùi rồi mà còn những thứ khác còn nặng hơn nữa. (Cái thứ phó-mát hiệu Con Bò Cười bán ở Việt Nam, bên tây con nít cũng không thèm ăn). Cho nên bà người ở không biết ông chủ muốn mua thứ nào, nhưng hỏi mãi mà ngôn ngữ bất đồng, hai bên không nhất trí được là loại phó-mát nào. Bỗng nhiên bà người ở có một sáng kiến, bao giờ các bà nhà quê cũng có sáng kiến, là chỉ có cách nầy mới biết ông chủ muốn mua loại nào. Bà (xin lỗi độc giả) kéo lưng quần ra, thò tay vào trong, đoạn đưa ngón tay trỏ cho ông tây già ngửi và hỏi: - Xe xà mong-xừ? (C’est cà, monsieur? Phải thứ nầy không, thưa ông?) Ông ta thích quá đáp ngay: - Xe xà, xe xà a-lê quít! quít! (C’est cà – đọc là xà, do chữ c thiếu một dấu - C’est cà! Aller vite, vite! Nó đấy! Nó đấy! Đi mua nhanh đi!) - Quít-sơ-măng Một thằng bồi (thằng nhỏ giúp việc) một hôm bỏ bà chủ đầm đi chơi lêu lỏng đâu đó. Khi về nhà bà đầm gọi lại lớn tiếng rầy la: -Bồi, va ù cu dòn tăng-xiong .( Boy, où vas-tu? Cochon. Attention. Bồi, mày đi đâu dó, cô son (con heo) coi chừng đấy! Cậu bé lém lĩnh trả lời một hơi: - Moa a-lê rong xà xà. Moa a-lê móng-xe, quít-xơ-măng, ma-đầm tăng-xiong, ma-đầm cúc-sê a-vét .(Tôi đi tiểu mà từ nầy không biết nói tiếng tây ra sao, nên chế ra rong xà xà. Tôi đi ra mé sông cũng không biết, lại chế ra móng xe để quít xơ măng nghĩa là quăng xơ mít. Bà coi chừng tôi nghe tôi biết bà cúc –sê a-vét là bà ngủ với ai ) Bà đầm nghe thằng bồi nói một hơi không hiểu gì hết, nhưng khi nghe nó nói bà coi chừng tôi nghe, bà cúc-sê a-vét (coucher avec là 31 | T r a n g
  32. ngủ với ai). Bà ta hoảng hồn sợ nó mét với ông chủ, nên nhỏ nhẹ bảo chú bồi: - Xe tách-sê ! đon-nê toa ịn dvách. Va tăng. Giơ tăng pri. Thôi, đủ rồi. Tao cho mầy một đồng bạc. Đi đi Tao xin mầy! C’est assez. Je te donne une piastre. Vas-t-en! Je t’en prie!) 3. Di Tích Lịch Sử -Lộ vòng đai Từ 1862 người Pháp chiếm đóng Mỹ Tho đến 1945, thời gian nầy người Pháp còn để lại cho Mỹ Tho dấu vết lịch sử vè quân sự, giáo dục, kỹ nghệ, kiến trúc như sau. Để phòng thủ Mỹ Tho chống lại nghĩa quân của ta, họ thiết lập ba con đường chiến thuật. Về hướng Tây có hai con đường vòng đai mà họ gọi là Grande tour d’inspection nghĩa là Vòng đai tuần tra lớn mà ta gọi là lộ Vòng Lớn, sau đó có tên là lộ Bờ Dừa tức là đoạn đường quốc lộ 60 bây giờ từ Trung An đến dốc cầu Rạch Miễu. Một con đường nữa đó là Petite tour d’inspection nghĩa là Vòng đai tuần tra nhỏ mà ta gọi là lộ Vòng Nhỏ tức là đường Trần Hưng Đạo bây giờ. Về hướng Đông có một con đường khác mà dân gian gọi là Lộ Ma. Người Pháp dùng ba con đường nầy để đêm đêm họ cởi ngựa đi tuần tra. - Đường xe lửa Sài Gon – Mỹ Tho Mỹ Tho có nhiều công trình lịch sử hàng đầu của Việt Nam về tính thời gian cũng như tầm vóc qui mô như Trường Trung Học Mỹ Tho, Đường Xe Lửa Mỹ Tho, Hãng xáng, Cầu Quay Đường Xe Lửa Mỹ Tho-Sài Gòn được người Pháp khởi công thiết lập vào tháng 11 năm 1883 và được khánh thành vào ngày 20.7. 1885 dài 71 km. Đây là con đường xe lửa đầu tiên không phải ở Việt Nam cũng như của Dông Dương. Nó xứng đáng là cột mốc đầu tiên trong lịch sử đường sắt Việt Nam. Sau đó con đường xe lửa Phủ Lạng Thương-Lạng Sơn mới được khởi công vào tháng 5 năm 1890 và hoàn thành vào cuối tháng 12 năm 1894. Ngày 1 tháng 1 năm 1908 mới bắt đầu thiết lập đường sắt Hà Nội- Đồng Đăng đến biên giới Việt Trung. Ở miền Trung con đường sắt Sài Gòn Khánh Hòa sau đó đến Nha Trang khởi công 1904 hoàn thành 1913. Con đường sắt có răng cưa để leo núi (crémaillère hay roue dentée), một kỹ thuật rất hiếm có trên thế giới, là con đường sắt Sài Gòn - Khánh – 32 | T r a n g
  33. Hòa - Đà Lạt qua Phan Rang được khởi công từ năm 1903 mãi đến năm 1930 mới hoàn tất. Nói như vậy để thấy con đường sắt Mỹ Tho – Sài Gòn là con đường sắt mở đầu cho tuyến đường sắt danh tiếng Đông Nam Á, là con đường sắt xuyên Việt từ Lạng Sơn đến Mỹ Tho bước đầu đề đến Cà Mau dài 2.400 km. Nhưng tiếc thay đoạn đường Mỹ Tho-Cà Màu không thực hiện được. Từ Sài Gòn đến Mỹ Tho có tất cả 13 ga (gare tức là trạm) gồm có ga Sài Gòn, ga An Đông (chỉ có khi thành lập chợ An Đông Quận 5 vào năm 1956), ga Chợ Lớn, ga Phú Lâm, ga Bình Điền. ga Bình Chánh, ga Gò Đen, ga Bến Lức, ga Tân An, ga Tân Hương (còn gọi là ga ông Táo), ga Tân Hiệp, ga Trung Lương chót hết là ga Mỹ Tho còn gọi là ga cuối cùng (terminus). Trong số chỉ có 7 ga chánh là Sài Gòn, Chợ Lớn, Bình Chánh, Bến Lức, Tân An, Trung Lương và Mỹ Tho. Sở dĩ có ga chánh ga phụ là vì có những chuyến xe tốc hành thì không ghé vào ga phụ. Đầu tiên xe lửa (tàu hỏa) là một đoàn toa hay va-gông (wagon) chờ hành khách, và có loại va-gông chở hàng hóa, súc vật được kéo bởi một đầu máy chạy bằng hơi nước. Đoạn đường xe lửa Sài Gon – Mỹ Tho 71 km chạy trong khoảng hai tiếng rưởi kể cả các đợt ghé ga. Đường rầy (rail) xe lửa Mỹ Tho rộng 1 m, có nơi khác chỉ có 0,8 m. (Đến bây giờ thì quá lạc hậu vì đường rầy thế giới ngày nay phải rộng 1,4 m). Vào năm 1937 có loại ô-tô-rây (autorail tức là ô tô chạy đường rầy) bổ sung chạy xen kẻ với đầu máy chạy hơi nước. Ô-tô-rây có máy chạy bắng dầu cặn, không có đầu máy thô kệch như xe lửa (giống như các đầu xe bus bây giờ), trang nhã hơn, êm hơn, cấu trúc toa xe đẹp hơn, băng nệm sang trọng hơn, tốc độ nhanh hơn nói chung hiện đại hơn (đến bây giờ vẫn còn thấy sử dụng ở các nước tây phương) . Đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho tồn tại cho đến năm 1958 được phá bỏ nhường chỗ cho việc nới rộng quốc lộ 4 (quốc lộ A1). (Không phải vì chiến tranh như một tài liệu đã nói). - Hãng Xáng Nam bộ xưa là một vùng đất đầy sông rạch nhưng lại thường bị phù sa của sông Cửu Long phủ lấp, Ngoài ra Đồng Tháp Mười vốn có một tiếm năng kinh tế to tát nhưng lại ngập úng vì nước phèn. Để khắc phục các trở ngại nầy người Pháp có một hệ thống qui mô để nạo vét các lòng sông và đào kinh thoát nước phèn cho Đồng Tháp Mười. Đó là Sở đào kinh và nạo vét sông rạch mà người Pháp gọi là Service de draguage dân gian gọi là hãng xáng. Cơ sở nầy rất qui mô, 33 | T r a n g
  34. một thửa đất trên mấy chục mẫu chiếm cả vùng đất của Thư Viện Tỉnh đường Tết Mậu Thân từ đường Lê Thị Hồng Gấm đến đường Lý Thường Kiệt và xuống tận đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa bây giờ là Nhà Văn hóa Trung tâm. Cây đa và cầu tàu ông Chánh Hãng Xáng nầy là một xưởng kỹ nghệ đồ sộ và thiết thực nhất ở Việt Nam để đáp ứng cho nhu cầu giao thông, kinh tế, thương mại, nông nghệp, môi trường cho vùng đất đặc thù Nam Bộ. Cách nay 100 năm Mỹ Tho đã có một hãng xáng với một qui trình kỹ nghệ cao, với 4 chiếc xáng (người Bắc gọi là tàu cuốc) to sầm sầm như những nhà lầu, chuyên đào, nạo, vét, hút, xúc kinh rạch sông ngòi hoàn toàn vận hành bằng cơ giới. Hệ thống xáng nầy hoạt động trong khắp Nam Kỳ lục tỉnh nhất là đào kinh vừa thoát phèn cho Đồng Tháp Mười vừa phòng tránh lụt lội, vừa cải tạo môi trường, vừa cho vận chuyển đường thủy Những con kinh dài thẳng tắp chia ngang xẻ dọc trong Đồng Tháp mãi đến bây giờ vẫn còn tác dụng hữu ích về mọi lãnh vực cho miến Đồng bằng sông Cửu Long. -Một vài mẫu kiến trúc Những di tích của người Pháp để lại rất nhiều nhất là các công trình kiến trúc. Nhưng rất tiếc sau tháng 4.1975 vì nhu cầu cải tạo? ! thành phố đã phá bỏ một số. Xin kể một vài di tích còn lại như sau. Ngôi nhà Câu lạc bộ người Pháp (cercle francais) dùng làm nơi giải trí cho người Pháp trên 100 năm nay vẫn nguyên vẹn và giữ được nét kiến trúc độc đáo tân kỳ. Đó là ngôi nhà ngói có nhiều nóc, ở dựa bờ sông, trước 34 | T r a n g
  35. 1975 là căn cứ hải quân, nay thuộc về hệ thống nhà hàng Chương Dương. Người Việt Nam cũng có một câu lạc bộ riêng (cercle annamite) không còn nữa, bây giờ là nơi tọa lạc của Công đoàn tỉnh. Chú thích: Annamite, thay vì là vietnamien tức là Việt Nam, là tiếng tính từ thoát thai từ từ An Nam mà khi người Pháp mới đến biết nước ta qua nước An Nam. Nhân dân ta bất mãn với lối gọi và viết như vậy nhưng mãi đến giữa thế kỷ XX, từ nầy mới bị xóa sổ. Cũng vậy họ gọi dải Trường Sơn là Chaine Annamitique tức là dải núi chạy xuôi theo xứ An Nam.) Dinh tỉnh trưởng người Pháp gọi là “hôtel de ville” xây dựng cũng trên 120 năm theo lối kiến trúc thuộc địa (style colonial) nghĩa là lối kiến trúc châu Âu nhưng có cải tiến sao cho thich hợp với xứ nóng, nhiều mưa gió điển hình là có hành lang rộng che mưa đở nắng, cửa lá sách cho thông gió Cũng như ngôi trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu xây cất từ năm 1879 cũng theo lối kiến trúc thuộc địa đó, có hành lang rộng có cửa lá sách Kể cả các biệt thư tư nhân như nhà của ông Jacques Lê Văn Đức sau bán lại cho Đốc phủ Tiên, sau để lại cho người con rễ là Bác sĩ Nguyễn Kiểng Bá sau nửa để lại cho con rễ là Bác sĩ Trần Quang Minh và bây giờ là nhà Bảo tàng tỉnh. Ở trong ngôi nhà nầy trời nóng không thấy nóng, trời lạnh không thấy lạnh vì từ nền nhà, nóc nhà, tường nhà đều cách ly với mọi thay đổi thời tiết bên ngoài. Ngôi nhà nầy thật là một di sản tiêu biểu cho một lối kiến trúc trong một giai đoạn lịch sử của Thành phố Mỹ Tho, đáng được bảo tồn. Cũng như ngôi biệt thự của Đốc phủ Lượng ở Phường 4 sau 1.5.1975 còn nguyên hiện trạng, trước là đường lộ sau là sông rộng, đã phải dở đi nhường chỗ cho đài truyền hình chỉ có tính thực dụng mà thiếu tính mỹ thuật mà ngôi nhà cũ đã có. Ngôi nhà mà người Pháp dùng làm bung-ga-lô (bungalow) một loại khách sạn - nhà hàng một trăm năm về trước, bây giờ là một bộ phận của nhà sách Tổng hợp, đối diện với công viên Thủ Khoa Huân, là một công trình kiến trúc cổ điển, nguy nga đáp ứng với khí hậu nhiệt đới, với hành lang thật rộng che bởi một vòm cung nhẹ nhàng. Cái hành lang nầy là nét đặc thù cho lối kiến trúc nầy.Vậy mà khi nới rộng lòng lề đường, đã phá bỏ nó đi để nó trở thành trơ trẻn đến tội nghệp, trông như con gà bị cắt cánh. Trong khi đó ở Sài Gòn, nhà hàng Majestic đầu đường Đồng Khởi, (Catinat, Tự Do) cũng day ra bờ sông, cùng y một lối kiến trúc nầy, vẫn được giữ nguyên trạng và đến bây giờ vẫn là nhà hàng – khách 35 | T r a n g
  36. sạn hiện đại 5 sao, mang dấu ấn cổ kính mà khách nước ngoài rất yêu chuộng. -Cầu Quay Cầu Quay Mỹ Tho nguyên thủy là một công trinh Eiffel. (Kiến trúc sư, tác giả tháp Eiffel và hầu hết các công trình kiến trúc bằng sắt thép ở Pháp cũng như ở Việt Nam trong đó có cầu xe lửa Bến Lức, Tân An, cầu Hàm Rồng ở Thanh Hóa và cầu Quay nguyên thủy của Mỹ Tho.) Cầu Quay Mỹ Tho là một cồng trình độc đáo không những ở Việt Nam mà cả thế giới cũng không mấy chiếc có lối kiến trúc nầy. Cây cầu nầy xây cất trước thế kỷ XX hoàn toàn bằng sắt có đặc điểm là nhịp giữa có 2 đoạn rời nhau, khi hạ xuống là xe cộ và người ta qua lại. Khi cần là hai đoạn của nhịp giữa được tách ra và cất lên cao như nóc nhà để có độ cao cho tàu bè qua lại. Cũng nên biết qua trước khi có bê-tông cốt sắt, thép, ngoài gạch đá các công trinh đều được thực hiện bằng sắt thép. Công ty Eiffeil là bậc thầy trong thế giới về công trình nầy. Xin nêu ra những mô hình cầu bằng sắt thép trên thế giới cách nay vài thế kỷ để thấy Mỹ Tho ta cũng có được một công trình độc đáo như vậy. Cầu Quay Mỹ Tho theo lối mở lên cao như đã trình bày, lẽ ra không gọi là cầu quay mà gọi là cầu mở (pont ouvert). Còn hệ thống cầu Tower bridge, Cầu Tháp qua sông Thames ở Luân Đôn có đặc điểm là nâng nhịp giữa được nâng lên cao đồng bộ do hai tháp hai bên, khi tàu bè qua lại thuộc loại cầu nâng (pont levant). Một loại cầu sắt nữa là hai nhịp giữa nằm cân đối trên mỗi trụ hai bên, khi tàu qua, hai nhịp đó được vận chuyển xây ngang do một trục ở giữa. Loại cầu nầy mới chính là cầu quay (pont tournant). Vẫn còn một loại cầu nữa gọi là cầu tàu (pont de bateaux) không phải cầu cho tàu đậu, mà vẫn là một chiếc cầu bắc sang sông, nhưng nhịp giữa thay vì nằm trên cột cầu, trái lại nằm trên hai chiếc tàu, mỗi bên một chiếc thế cho cột cầu đỡ 2 nhịp cầu, khi có tàu qua lại, hai chiếc tàu nầy nổ máy chở theo 2 nhịp giữa tách khỏi cầu mẹ, nhường chỗ cho giao thông, xong trở lại vị trí cũ cho xe cộ qua lại. Cây cầu Quay sập vào năm 1938, được xây cất ngay sau đó bằng bê tông cốt sắt và đến năm 1985 được phá đi và xây cất lại cũng bằng bê tông cốt sắt, dù vậy vẫn còn mang tên Cầu Quay khiến cho những người lớn tuổi chạnh nhớ đến cây cầu Quay ngày xưa. Xin kể lại một giai thoại không liên quan đến Cầu Quay nhưng liên quan đến ông chủ chiếc xe bị tai nạn sập cầu. 36 | T r a n g
  37. Cầu Quay Mỹ Tho sập do hai đoạn của nhịp giữa sụm xuống không gây thiệt hại nào về người và của, chỉ có một chiếc xe hơi “traction” (gọi xe traction là do hệ thống máy vận hành theo kỹ thuật traction avant nghĩa là vận hành từ bánh trước thay vì bánh sau). Xe traction nầy thực ra là của hiệu Citroén một hiệu xe truyền thống của Pháp mà người Việt Nam xưa còn gọi là xe “mu rùa”) của ông Hội đồng Thường ở Chợ Gạo bị nạn ở giữa cầu, nhưng mực nước cũng lé đé ngập xe thôi không gây thiệt hại nào.(Hồi đồng nầy là một loại hội đồng tỉnh do chỉ định chớ không do dân cử - conseiller provincial) Một giai thoại vui vui: Ông Hội đồng Thường còn được dân gian đặt cho cái biệt danh “Hội đồng Hai cắt chín”. Số là ông hội đồng nấy rất giàu có ở Chợ Gạo (con ông hầu hết đều là học sinh trường NĐC) nhưng có tính tiêu pha rất kỹ và có tính toán. Một hôm ông đi xe hơi qua bắc Chợ Gạo để đi Mỷ Tho, Bắc cặp bến ông trả tiến qua bắc lẽ ra là 3 cắc (mỗi cắc 10 xu) theo giá qui định. Ông đưa cho phu bắc 3 cắc nhưng bảo thêm: - Chú em thối lại cho qua 1 xu đi. Anh phu bắc hỏi lại? - Thưa ông sao vậy? Ông Hội đồng vui vẻ bảo: - Thì để lên Mỹ Tho, qua uống trà Huế vậy mà! Từ đó ông hội đồng được mệnh danh là “Hội đồng hai cắc chín” -Tháp nước Ngoài ra, hai tháp nước ở đầu đường Clémenceau, bây giờ là đường 30.4 gấn cầu bắc cũ, một bằng sắt trên 120 năm, một bằng bê tông cốt sắt cũng gần 80 năm, trước kia có tác dụng dùng áp xuất tự nhiên đưa nước cung cấp cho cả thành phố, bây giờ không còn sử dụng nữa, nhưng cũng là một di sản kiến trúc đáng gìn giữ. Quang cành rất tầm thường với người vô tình, nhưng nếu là một cư dân Mỹ Tho có dịp lên cầu Bắc vào lối 3, 4 giờ khuya nhất là vào mùa thu, nhìn con trăng lơ lửng trên nền trời đêm mông lung sương khói, treo chênh chếch trên tấm cao của hai tháp nước. Khách thừa nhàn với cái lành lạnh se da nhìn lên, trời trăng hòa quyện trong ngọn gió nhẹ của dải trường giang giữa đêm khuya tỉnh vắng, thì suốt đời không bao giờ quên được cảnh nên thơ nầy. Quang cảnh nầy đã mê hoặc tôi nên khi tả cảnh hữu tinh của Mỹ Tho tôi không thể nào bỏ qua nên đã viết: “ .Đến Hùng Vương nghe ve kêu vào hạ 37 | T r a n g
  38. Đêm thu lên Cầu Bắc nhìn tháp nước trăng treo Theo đường làng vào Gò Cát tìm cô hàng mía Tháp nước Thảo nào khi hòa bình trở lại tôi có gặp một người Pháp lớn tuổi đã từng làm việc ở Mỹ Tho nay trở lại thăm chốn cũ. Tôi hỏi ông khi vế Pháp, cái gì làm cho ông nhớ Mỹ Tho nhất. Ông bảo: - Chẳng phải nhớ mà thôi, đối với tôi còn là một mối tình hoài hương. Đó là hai cái tháp nước. (Non seulement un souvenir, mais plutôt un sentiment nostalgique: les deux châteaux d’eau). Tháp nước kiểu nầy ở Phan Thiết vẫn còn và được địa phương xem là biểu tượng của thành phố. Thiên truyện chưa kịp ráo mức thì một chuyện không vui cho số phận của tháp nước Mỹ Tho. Đó là ngày 10 tháng 1 năm 2010, ngày cáo chung của tháp nước Mỹ Tho, nó đã bị phá hũy sau 100 năm hiện diện nơi mảnh đất nầy. - Trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu Tôi viết mãi về ngôi trường Nguyễn Đình Chiểu mà sao tôi vẫn còn muốn viết. Người Pháp đến Mỹ Tho vào năm 1861, đến năm 1879 là trường Collège de Mỹ Tho được xây dựng với lối kiến trúc thuộc địa (style colonial) nghĩa là một lối kiến trúc theo châu Âu nhưng sửa đổi cho thích hợp khí hậu miền nhiệt đới nóng bức, có hai ngọn gió mùa và mùa mưa kéo dài đến 6 tháng. Do vậy, trần nhà cao, nóc lợp ngói, tường dày, có hành lang rộng, nền cao vì đất còn thấp, cửa đi và cửa sổ nhiều và rộng bằng hệ thống là sách cho thông gió .Dãy trường đầu tiên xây cất với sườn và cột bằng gan. Sau đó, hai dãy nam, bắc được xây cất hoàn toan bằng gạch, nền xây 38 | T r a n g
  39. đá xanh lót gạch tàu, trần nhà bằng cây thẻ có gạch cách âm, tô vôi, hành lang rộng rãi trổ ra sân với những mái vòm vòng cung trông thật cổ kính đúng là nơi của Cửa Khổng Sân Trình. Một công trinh kiến trúc độc đáo mãi gần một trăm năm sau vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Nơi đây đã đào tạo hàng trăm thế hệ học sinh không chỉ cho Mỹ Tho mà cho cả Nam kỳ lục tỉnh (Trường Trung học Cần Thơ ra đời sau rất lâu). Nghe đâu, hiện nay trường được quy hoạch để xây cất lại hoàn toàn, nhưng hai dãy lầu cũ nầy vẫn giữ nguyên, đồng thời toàn bộ các dãy mới tân tạo vẫn noi theo lối kiến trúc cũ của nó. Mong thay! C.- NGƯỜI ẤN Người Ấn đến Việt Nam thường được gọi là người Chà hay Chà và vì ta có thể lầm lẫn với người Gia va (Java) vốn dĩ là giống dân Pô-li- nê-si-a (Polynésia), người Nam Dương hay Anh-đô-nê-si-a (Indonésia), người Mã Lai (Malaysia) cũng có đến Việt Nam mà ngày xưa ta thường gọi là người “miền dưới”. Người Ấn và người Miền Dưới giống nhau ở chỗ đội mũ óng, mặc xà rong, nhưng nước da người Ấn đen hơn người Miền Dưới. Người Ấn từ Ấn Độ đến Mỹ Tho lúc bấy giờ phần lớn trong lãnh thổ thuộc thuộc địa của Anh nói tiếng Anh, còn người thuộc Pondichéry vốn là thuộc địa của Pháp nói tiếng Pháp. Ngoài ra họ có hai tôn giáo hoàn toàn khác nhau, xung khắc nhau như nước với lửa: Người Ấn theo Ấn giáo và người Ấn theo Hồi giáo. Mãi đến năm 1947, người Anh trả quyền độc lập cho Ấn Độ và vì sự tương phản của hai tôn giáo nên Ấn Độ được chia ra làm hai: Ân Độ (Inde) theo Ấn giáo và Pa-kít-tăng (Pakistan) theo Hồi giáo như ngày nay. Tuy nhiên sự xung khắc tôn giáo nầy vẫn còn âm ỉ đến bây giờ. Ấn kiều ở Miền Nam đến năm 196? thì bị trục xuất vì lý do chính trị và sau tháng 4.1975, Ấn kiều không còn có mặt ở Mỹ Tho, ngoại trừ con cháu của họ, rất ít, giờ đã là người Việt Nam. Bán vải Ấn kiều hay Hoa kiều đến Việt Nam vẫn cùng chung một mục đích là làm giàu nhưng mỗi người một phương thức khác nhau và một lối sống khác nhau. Nếu người Hoa chuyên về đầu tư mại bản qui mô, cho đến những cơ sở buôn bán nhỏ lèo tèo trong cộng đồng lao động Việt Nam, thi Ấn kiều chỉ chủ trương lám ăn lớn ở các đô thị và chú trọng vào mấy ngành như mua bán vải sợi tơ lụa, cho vay, đấu thầu chợ và đò 39 | T r a n g
  40. Mỹ Tho thuở bấy giờ, tại đường Trưng Trắc từ dốc cầu Quay vào chợ toàn là tiệm vải sợi, tơ lụa mà là tiệm rất lớn kìa, của người Ấn. Trong tiệm hai bên tường trong tủ kiếng toàn là hàng tơ lụa đắt tiền đa số nhập từ Ấn như Bôm - bay (Bombay), Bông-đi–sê-ri (Pondichéry) Các- sơ-mia (Cachemire) Họ không hề bán sản phẩm nào khác hơn là sản phẩm của ho. Vào tiệm vải của anh Bảy. ta thường gọi người Ấn như vậy, và anh Bảy sẽ nói một tràng tiếng Việt như thế nầy Arrr thay Hairrr (hay cô Hai hay anh Hai hay bà Hai ai cũng thứ hai cả) muarrr đi córrr đủrrrr thứrrr hang rrrrtốtrr,,,hàngrrr Bombayrrr Pondichéry rrrrr, Cát sơ mia rrrrrr, rrrrẻrrrr lắm, rrrẻmmm lắm rrrrđây Anh Bảy ngồi trên bộ ván, tay cầm cây thước tây, lết tới lết lui trên bộ ván đó để đo vải bán cho khách, đến đổi bộ ván lên nước bóng lưởng. Chetty Một nghề khác, nghề cho vay. Những người cho vay nầy có đóng thuế cho nhà nước nên được gọi là chà sết-ty (chetty). Không biết cho vay có cắt cổ hay không mà những điền chủ Việt Nam cần tiền đến vay tiền đều mất cả ruộng đất. (Xin xem Hồ Biểu Chánh). Tuy nhiên cũng như ở mọi tầng lớp xã hội, anh Bảy nào nghèo cũng bắt buộc có những nghề lam lụ, cơ cực như bán bánh rế, bánh cay, đậu rang, nhang thơm đặc sản của người Ấn. Hoa kiều hay Ấn kiều đều có mộng làm giàu như nhau nên đều có tinh thần vắt chày ra nước. Nhưng anh Hoa kiều khi rủng rỉnh rồi thì cũng tiêu pha ăn chơi phung phí, cũng muốn nếm mùi phú quí vinh hoa con cháu Tần Thỉ Hoàng mà! Còn anh Bảy thi không. Anh luôn luôn lấy câu ngạn ngữ Ấn sau đây làm kim chỉ nam Không có gì dễ hơn làm giàu! (Thật vậy, làm giàu dễ hơn học làm cử nhân, tiến sĩ nhiều lắm). Cho nên không phải họ tiết kiệm hay hà tiện mà là keo kiệt để có nhiều tiền. Ta không hề thấy một anh Bảy nào đi xe kéo, đi xích lô, đi bộ và đi bộ không hề thấy anh Bảy nào ngồi quán ngồi lều đói bụng vế nhà ăn cơm nị không tốn tiền , không thấy anh Bảy nào mời khách đến nhà chơi, lỡ đường tội gì ngủ khách sạn, anh Bảy vào chùa Ấn hay chùa Hồi ngủ cho tiện và có nơi đọc kinh Lấy chồng Ấn, hay Hồi Một đặc tính nữa của người Ấn lẫn người Hồi là giữ vợ kín lắm. Họ cũng cưới vợ Việt Nam nhưng khi người vợ Việt Nam về với họ rồi 40 | T r a n g
  41. là dấu kín trong nhà không hề đuọc cho ra ngoài, thậm chí không cho ra tiếp khách. Tôi có quen một người Hồi có vợ Việt Nam trước kia buôn bán ở Sài Gòn. Sau khi hòa binh, như những ngoại kiều khác, gia đình anh phải về Pakistan. Thế mà khi tôi có dịp đi Pháp vợ chồng anh mời tôi đến nhà anh chị chơi ở Saint Denis, một khu ngoại ô của Paris có rất nhiều người Hồi. Chị kể tôi nghe: Anh biết không anh ấy đưa tôi về Pakistan ở quê ảnh tại thành phố biển Karachi. Tôi không nói được tiếng của ảnh, hai vợ chồng chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp cho nên có sự đố kỵ ghê gớm giữa gia đình ảnh và tôi. Họ xúc phạm tôi dữ lắm. Tôi không có quyền bước lên chỗ thờ phượng, không được ra nhà trước, lẫn quẫn sau nhà dưới. Thậm chí tôi có một bà bạn Việt Nam cũng có chồng như tôi, nhà chị đâu vách với nhà tôi, hai chị em muốn nói chuyện với nhau chỉ còn biết lén trèo tường qua mà thôi. Chịu hết nỗi, tôi mới nói với anh chồng tôi một là đi Pháp hai là tôi về Việt Nam. Thế là vợ chồng và các con tôi sang Pháp mới gặp anh đây. Néu ở bển (bên Pakistan) chắc còn khuya mới gặp anh. Ta thường lẫn lộn người Ấn và người Hồi. Ở Mỹ Tho có người Ấn lẫn người Hồi. Nhưng chỉ có một ngôi chùa Hồi hiện nay vẫn còn ở đường Trịnh Hoài Đức, Phường 2. Ngôi nhà của Bạch Công tư Phước Georges, đường Đinh Bộ Lĩnh, Mỹ Tho 41 | T r a n g
  42. MỸ THO XƯA (1861-1945) TRONG NAM KỲ LỤC TỈNH PHẦN BA III - DI SẢN VĂN HÓA VIỆT NAM KHMER HOA PHÁP VIỆT NAM A - LỄ HỘI Qua phong tục tập quán từ ngàn xưa, người Việt Nam ta đã có được một nếp sống văn hóa với một tinh thần hướng thiện. Cho nên bất cứ ở đâu cũng có những công trình thờ phượng để cho người dân nam nữ có cơ hội tu tâm sửa tính, trau giồi đạo đức, nâng cao phẩm hạnh, tương thân tương ái Đó là: Tết Nguyên Đán, Cúng Đình, Trai đàn ở Chùa, Cúng Miễu, Lễ Nhà Thờ Mỗi nơi có một chủ trương khác nhau. Chùa là nơi thờ Phật, một xã một làng có thể có một, hai hay ba ngôi chùa. Đình là nơi thờ Thần và một xã hay một làng chi có một ngôi đình mà thôi, cũng có những xã những làng thành lập sau nên không có đình. Miễu là nơi thờ “Bà” hay một vị nào đó có ảnh hưởng tâm linh trong một phạm vi hạn hẹp của một vùng, một ấp, một xóm do vậy miễu rất nhiều ở khắp nơi và xét về phương diện kiến trúc, miễu còn đơn sơ hơn đình, chùa. Nhà Thờ Thiên chúa giáo có mặt ở miến Nam Việt Nam cụ thể là ở Ba Giồng thuộc vùng Nhị Quí, trấn Định Tường trên 400 năm. Di tích mồ mã, mộ bia những tín đồ Thiên Chúa Giáo vẫn còn. Mỗi nơi có một đức tin về quan điểm thờ phượng riêng nên lễ hội mỗi nơi cũng khác nhau. Chùa, ngoài những ngày lễ Phật hàng năm, vào 42 | T r a n g
  43. ngày rằm tháng bảy còn có lễ Vu Lan cũng trong ngày nầy chùa còn tổ chức ngày cầu siêu và xá tội vong nhân. Đình, hàng năm cũng có ba lệ cúng, nhưng lệ Cúng Đình còn gọi là lệ Kỳ Yên là quan trọng nhất. Miễu, ngoài các ngày sóc vọng, ngày Tết còn có lệ Cúng Miễu để cầu an lành sung túc cho dân trong vùng trong xóm. Giáo Hội Thiên Chúa Giáo là một tổ chức tôn giáo lâu đời, có tổ chức, có tài chánh nên về sau có những nhà thờ qui mô, hoành tráng rập theo những nhà thờ bên châu Âu. Nhà Thờ hàng năm có nhiều lễ trọng như lễ Giáng Sinh, lễ Phục sinh và các cặp vợ chồng mới cưới đều phải vào đây để làm lễ hôn phối. Chữ ký hôn phối trong nhà thờ quan trọng hơn chữ ký hôn thú ngoài đời. Ta thử trở về Mỹ Tho xa xua với những lễ hội nầy. 1.- Tết Nguyên Đán Tết Mỹ Tho năm Canh Ngọ, 1930. - Gia đình với Tết. Những ai sinh từ nam 1940 trở về trướcđđều có một nỗi nhớ nhung, tiếc nuối, một niềm hoài cổ không nguôi về những ngày Tết năm xưa giờ đây chỉ còn là kỷ niệm. Thật vậy, người Việt Nam không phải đợi đến tháng cuối cùng, mà họ đã chuẩn suốt cả năm cho cái Tết. Ngay ngày đầu có ngọn gió chướng non thổi về, tiết trời bắt đầu se lạnh, vạn vật đều trở mình để đón xuân. con người phấn chấn như có luồng sinh khí mới, đất trời trong sáng, cây cối đâm chồi nẩy lộc. Dường như tất cả đang nôn nóng chờ đợi một cái gì làm đẹp cho cuộc đời. Đó là Tết Quần áo mới. Đầu tháng 11 âm lịch là mọi nhà, nhất là nhà nghèo đã chạy đôn chạy đáo may sắm quần áo mới cho cả nhà, Ưu tiên cho trẻ con và ông bà. Một bộ đồ bông cho con gái, một bộ đồ bà ba trắng cho con trai, một cái quần lảnh den và một cái áo dài xuyến cho bà, một cái áo bành tô và một đôi giày ba-ta cho ông còn thì ba mẹ,,,tính sau. Trần Tế Xương có thơ Tết như sau: Chí che chí chét đua giày dép. Đen thủi đen thui cũng lượt là. Gạo nếp. Cá mắm. Cũng từ rất sớm người phụ nữ đảm đang nào cũng tất bật tìm mua gạo ngon, nếp dẽo để sao cho bữa ăn năm mới được ngon cơm, sao cho cái bánh tráng được dẽo dai, cái bánh phồng được nở nang. Các bà cũng đã tìm mua về “ rọng ” những con cá lốc to lớn, sao cho ngoài việc ngon cơm còn phải ngọt canh. 43 | T r a n g
  44. Tảo mộ. Tùy theo lệ của mỗi gia đình, từ ngày rằm đến hăm lăm tháng chạp là mỗi nhà đều về quê tảo mộ. Nơi đây người ta làm cỏ, quét dọn sạch cho các mộ phần, mong cho linh hồn những người quá vãng về ăn Tết với gia đình. Một tục lệ không thể bỏ qua để ghi nhớ công ơn cha ông Đưa ông Táo. Chiếu ngày hăm ba, nhà nào cũng hoa quả trà bánh để tiễn ông Táo về Trời. Tục lệ có tứ xa xưa, vì trong một ngôi nhà, quan trọng nhất là bếp, nơi luôn có ngọn lửa, điều kiện tối cần thiết cho sự sống còn, nên phải có một vị phán quán giám sát mọi hành vi tốt xấu của chủ nhà. Đó là Táo quân. Vị nầy mỗi năm phải về Trời để phúc trình việc làm của chủ nhân để tùy theo đó mà có sự răn phạt hay khen thưởng. Gạt bỏ mặt di đoan, âu cũng là một lệ nên giữ, để con người luôn có được bên mình một giám sát cho hành vi thiện ác của mình. Có điều hiện giờ, toàn bếp ga, bếp điện, bếp vi ba ông Táo chắc cũng khó theo. Dựng nêu. Cũng vào ngày hăm ba nầy, trong thời điểm tôi nhắc lại, ở Mỹ Tho việc dựng nêu trước sân nhà cũng không còn bao nhiêu. Một cây tre cao lối 5, 6 mét trên ngọn có treo lủng lẳng mấy trái cau tầm vung (cau chín, võ màu vàng), một cành tre nhỏ có tẩm vôi trắng, cùng với vài lá vàng bạc. Mục đích của việc dựng nêu là nhằm xua đuổi tà ma, hoang hồn yểu tử không nơi nương tựa, nhân ngày Tết về phá khuấy. Cây nêu dụng cho đến ngày mùng bảy Tết thì giỡ xuống. Bây giờ, tục nầy không còn nữa. Cu kêu ba tiếng cu kêu. Cho mau tới Tết đặng tao ăn chè. Câu đối. Lúc bấy giờ câu đối viết bằng chữ Nôm hay chữ Nho hay chữ Hán gồm hai vế hay hai cấu. Về văn tự phải đối thanh, đôi vận. Về nội dung phải có tính mừng đón ngày Tết, ca ngợi gia đình, đề cao đức dục và cả hai vế vẫn phãi đối nghĩa đối thanh với nhau chan chát. Hai câu viết trên giấy hồng đơn, một thuộc vận trắc d9ược treo hay dán theo chiều đứng của cây cột cái bên trái, từ ngoài nhìn vào và câu kia bên cột mặt đối xứng. Thí dụ: Tiết đáo bá gia nghinh Tiết phúc Xuân lai thiên hộ tiếp Xuân hương. Pháo. Ngày Tết không pháo, thật vô vị. Có người, nhất là trẻ con trông Tết, chỉ để được đốt pháo. Pháo được đốt ngay từ ngày đưa ông Táo cho đến “ba mươi ” qua “ mùng ” cho đến suốt tháng giêng, nhưng “rộ” nhất vẫn là chiều 30 Tết, cúng ông bà, giao thừa. Đó là nghi lể không có gí đáng nói. 44 | T r a n g
  45. Điều nên nói là đốt pháo là một thú đam mê. Có những người mê đốt pháo, có người tranh nhau đốt pháo đế lấy tiếng. Chẳng hạn, anh hàng xóm nầy treo lủng lẳng trước nhà một xâu pháo dài hai thước. Anh kia về treo lên ba thước. Anh nầy đốt một lần. anh kia hai lần. Anh nầy mua pháo Chợ Lớn, anh kia lên Chợ Lớn mua pháo Hồng Kông. Cuộc thi đua không ước hẹn mà nên, không ai thắng, chi có mấy bà xã tiếc tiền hùi hụi. Pháo có đủ cở, đủ hạn, đủ hiệu, đủ giá Từ pháo chuột cho trẻ con, mỗi viên chỉ cở trái ớt hiểm. Ngày Tết, cậu nào cũng có một phong pháo chuột trong túi, cây nhang trong tay. Thỉnh thoảng lấy ra một viên trong tay nầy, tay kia đưa ngọn nhang vào ngòi pháo mà run bần bật. Ngòi chưa kịp cháy đã ném viên pháo ra xa. Chưa nổ, viên pháo văng mất. Còn có lúc, không kịp ném thì pháo đã nổ trong tay, hết hồn hết vía. Nhưng dù sao đốt pháo chuột ngày Tết, đối với tuổi thơ vẫn là cái thú không quên. Đến pháo tiểu, loại thông dụng nhất đóng thành phong loại 48 viên, loại 76, loại 120 Đủ hiệu, hiệu Phong quang. Nhật quang kể cả nhập từ “ Hướng Cỏn ”. Loại pháo nầy chỉ có người lớn mới dám đốt, có ngưới chỉ nắm trong tay mà không cần ném đi. Thường là xâu lại đốt thành tràng dài, càng lâu càng khoái và lẽ tất nhiên càng tốn tiền. Đốt pháo thành tràng, người ta còn xen kẻ vào pháo đại, để thỉnh thoảng lại có tiếng nổ “ ầm ” lên, đệm thêm cho sự thích thú gia tăng. Cho đến pháo nồi, cũng như pháo phong, nhưng kết lại thành một về xây tròn đỡ tốn công làm hộp. Loại nầy thường sản xuất ngoài Trung, ngoài Bắc. Rồi pháo đại, pháo tre, pháo lùn Không như các loại pháo khác được quấn bằng giấy loại xốp màu đỏ, dễ nổ tung ra thành mảnh vụn màu hồng cho đời thêm thấm. Đón xuân về với xác pháo hồng trước ngõ. Pháo tre cuốn lại bằng nan tre còn pháo lùn bằng vỏ cây lùn, một loại cây sống theo ao rạch có vỏ rất dai. Ngoài Trung, dân xứ Quảng hàng năm đi ghe bầu chở vào Mỹ Tho bán loại pháo cũng thắt bằng nan tre, nhưng nhỏ như chiếc nem chua, trông rất xinh xắn, dễ thương. Pháo tre, pháo lùn thật là loại đại pháo có chiếc lớn bằng chiếc gối đệm. Đốt loại pháo nầy phải có rọi gắn ở đầu một cầy sào hằng chục mét. Thướng là những tay gan dạ mới thích thưởng thức trò chơi nầy. Cây rọi vừa chạm vào, ngòi pháo bắt đầu xẹt lửa, anh ta đứng lên, hai mắt chăm chú nhìn vào cây pháo, đưa tai lắng nghe để đánh giá tiếng nổ có lớn không, có ấm không, có rền vang xa không Thường là những viên pháo nầy do họ tự miệt mài làm lấy và trong làng, những tay chơi 45 | T r a n g
  46. pháo với nhau, dù ở xa hằng ba cây số, khi nghe một cây pháo tre nổ, có thể biết cây pháo đó của ai làm. Cũng có anh chàng nhát hít, nhưng cũng khoái pháo, mua một viên đại pháo về, đem ra sân dùng rọi chăm lửa xong, bỏ chạy ra xa, đứng day lưng lại, hai tay bịt lổ tai pháo nổ hồi nào không hay! Mất tiền lãng nhách. Nhưng với tôi, dù là ”Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột” hay là “Nổ vang tiếng pháo đón xuân sang” Đã lâu lắm rồi tiếng pháo không còn vang dội trong những ngày Tết nữa, nhưng dường như âm hưởng của nó vẫn còn mãi trong chúng ta như một kỷ niệm về ngày Tết xưa, và lắng dọng như một tiếc nuối không nguôi. Múa lân. Tết không pháo đã buồn mà Tết không lân càng buồn hơn., mà có lân không pháo cũng như không. Thôi nói chuyện lân và Tết ngày xưa. Mà chỉ nói lân con nít thôi. Tết và Trung thu, khu phố nào cũng có các đội lân trẻ con. Chúng tập họp lại thành nhóm khá đông, phân công đứa nào múa, đứa nào giũ đuôi, đứa nào làm ông Địa, đứa nào đánh trống, đánh chập chỏa, đứa nào đi theo coi, đứa nào theo chầu rìa, cũng quan trọng lắm vì không có đám nầy theo cổ vũ reo hò thì lạnh ngắt ai thèm coi. Thế là tùng tùng xà loạn lên khắp phố phường. Các đội lân tí hon nầy cũng biết cách làm tiền, đến từng nhà, từng tiệm buôn múa với đầy đủ bài bản như các đội lân người lớn bậc thầy, cũng tấn cũng thối, cũng lân ngủ, lân thức, lân giận, lân buồn cũng leo cây lấy tiền thưởng Tùng tùng xà, cắc cắc tùng xà .Ôi! sao mà nhớ nhung âm thanh nầy đến vậy! Bầu cua, cá, cọp . Tôi để đằng sau ba chấm vì đáng lẽ phải là bầu, cua, cá, cọp, tôm, gà, sáu mặt cũng như phải là dách, dzì, xám, xí, ngầu, lác chớ không phải xí, ngầu, lác không. Cái môn nầy trẻ con khoái lắm. Ra đấu phố, xuống góc chợ, đến rạp hát chổ nào cũng có mấy sòng bông vụ, sòng bầu cua, sòng xí ngầu. Sẵn trong túi tiền lì xì, đặt xuống một cái, một đồng xu thành hai xu. Còn gì khoái hơn. Còn gì hấp dẫn hơn đối với trẻ con. Nhất là làm ra tiền, một nhu cầu sinh tử của con người. 46 | T r a n g
  47. Trở lại vấn đề, lấy một hột lúc lắc ta thấy có 6 mặt có in 6 ô: dách, dzì, xám, xì, ngầu, lác. Như vậy mà khi ta đặt chỉ có một mặt, thì dụ xám, ta chi có cơ may trúng 1 mặt xám thôi, trái lại ta có đến 5 rủi ro để thua. Vậy nếu cho công bình thì dù ta đặt 1 mặt mà ta trúng thì phải trúng 5 lần số tiền đặt mới phải, để có một xác xuất tỷ lệ quân bình. Bầu cua cá cop cũng vậy. Tuổi đời đã cao mới biết được trò lừa bịp của cờ bạc, thì lại không còn cơ hội để đánh bầu cua nữa, để chơi xí ngầu nữa. Mà giả như nếu Tết nầy còn có các sòng cờ bạc nầy tôi lại ước trẻ lại và vẫn muốn đến chơi vì cái lạc thú ở đời không thể lý giải được. Kết. Đã từ lâu, cứ mỗi lần bấc về mang theo cái se lạnh cho đào ra nụ, cho mai nẩy mầm, cho cúc phô sắc, cho vạn thọ ra hoa, những người Việt Nam lớn tuổi, cảm thấy như mình đánh mất thêm một cái gì đó quí giá, thiêng liêng. Cái mất mát đó là một tâm tư hoài cổ ngậm ngùi, khi nhìn lại đàn con cháu vô tư mà tiếc thương cho chúng, không còn có được như ông cha, những ngày Tết cổ truyền chứa chan hạnh phúc. Tôi vừa chấm hết bài viết có tính hoài cổ, thì bỗng nhiên trong trí tôi thoáng một câu trong văn học Pháp, chắc họ cũng cùng tâm trạng như mình khi tiếc nuối một thòi quá khứ, một kỷ niệm nào đó: Ôi! Còn đâu tuyết trắng ngày xưa ấy! (Où sont les neiges d’antan!). Chợ Mỹ Tho 2. Chùa “làm chay” Chùa ngoài những ngày lễ Phật thường niên còn có ba lệ rằm lớn mà rằm tháng bảy là quan trọng nhất, còn được coi là ngày xá tội vong nhân, gần đây được coi là ngày báo hiếu tức lễ Vu Lan. Trong dip lễ xá 47 | T r a n g
  48. tội vong nhân nầy, ngày xưa chùa thường có tổ chức lễ trai đàn tức là lễ thí thực cho cô hồn uổng tử hay nói nôm na là cúng cô hồn hay làm chay, dồng thời cũng là hình thức phát chẩn cho người sống. Người xưa có câu Trống tháng bảy chẳng hội thì chay. Trong Lục Vân Tiên có câu: Làm chay bảy bữa tạ lòng Vân Tiên. (LVT.NĐC) Lệ nầy thường do một người giàu có trong vùng có lòng nghĩ đến những linh hồn của những người chết oan ức, bất đắc kỳ tử hay do tai nạn, không nơi nương tựa, không người thân cúng kiến nên bơ vơ đói rét, đứng ra lập trai đàn tụng kinh cầu siêu và thí thực, cùng với phân phát “vàng bạc, quần áo ”. Lễ cúng cô hồn nầy kéo dài trong 3 ngày và kết thúc vào buổi chiều - giờ âm, giờ thích hợp với linh hồn người chết còn gọi là âm hồn - bằng một thủ tục giựt giàn nghĩa là thực phẩm, bánh trái đặt trên giàn trong lễ cúng, được tung ra bốn phương phân phát cho cô hồn uổng tử. Lẽ tức nhiên là không có cô hồn uổng tử nào, mà chính là lũ trẻ con chờ sẵn nhào vào tranh giành bánh trái. Lũ trẻ càng đông càng tốt, tranh giành càng quyết liệt càng tốt vì chính lũ trẻ là cô hồn, là quỉ mà. Nên có câu: Quỉ phá nhà chay. Hay: Quấy như quỉ quấy nhà chay. Đến nay tập tụng nầy vẫn còn ở một số hộ gọi là cúng 16 (ngày 16 âm lịch mỗi tháng nhứt là vào tháng giêng, tháng bảy và tháng mười và phải cúng vào buổi chiều do lý do nêu trên). Đa số nhà còn theo tập tục nầy là những nhà buôn bán hay làm những nghề có nhiều rủi ro nghề nghệp như xây cất, vận chuyển đường bộ, đường thủy Cụm từ thí thực cô hồn hay cúng thí, hoặc cúng cô hồn rồi sau đó trong dân gian trở thành thí cô hồn, hay tệ hơn nữa là xí cô hồn hoàn toàn bao hàm một ý nghĩa khác. 2. Lệ Cúng Đình Lệ kỳ yên tức là lễ cúng đình của đình Điều Hòa, Mỹ Tho hằng năm tổ chức vào ba ngày 16, 17, 18 tháng 2 âm lịch. Đinh là nơi thờ Thần. Thần là do vua ban sắc phong theo sớ địa phương dâng biểu lên vua, tức là đề nghị một vị có thể là nam cũng có thể là nữ, đã có công đóng góp cho sự bảo vệ bờ cõi, có lòng nhân ái cứu giúp dân nghèo, hoặc đơn giản là một vị có danh cao đức trọng, cũng có thể là một vị nữ lưu tiết hạnh. Cũng có thể là do vua chỉ định chung chung như cụm từ mà ta thường thấy trong các sắc thần. Đó là Thần Hoàng Bổn Cảnh. Vai trò của vị Thần là đem lại quốc thái dân an, cho nên vào dịp cúng Thần hay cúng đình, ban khánh tiết đình mà thay mặt là ông Chánh 48 | T r a n g
  49. Chủ Tế hoặc ông Chánh Niệm Hương đứng ra cầu an cho bá tánh. Còn dân làng cầu xin cho gia đình được an cư lạc nghệp. Trong ba ngày diễn tiến lệ kỳ yên có lễ thỉnh sắc tức là thỉnh sắc thần từ nhà việc hay nhá công sở về đình. Sắc thần không để tại đình mà phải giữ tại nhà việc hay nhà công sở vì sợ bị mất cắp. Cũng trong ba ngay lễ, có hát bội về diễn cho dân xem gọi là hát chầu. Trong các vở tuồng hát, vở chót phải có nội dung là vua phải lên ngôi, quan trung thần được khen thưởng, cả nước được thái bình thạnh trị, nên gọi là vở tuồng tôn vương. Trong khi diễn tuồng có một vị bô lão theo dõi để khen hay chê gọi là cầm chầu. Nếu cần khen người cầm chầu đánh một tiếng trống, nếu hay hơn hai tiếng, hay hơn nữa ba tiếng, gọi là chầu 1, chầu 2 hay chầu 3. Còn nếu ông cầm chầu cho là quá hay, thì ông nện vào trống liên hồi. Trái lại nếu đào kép diễn xuất dỡ quá, ông cầm chầu liền dùng dùi trống gỏ vào vành ngoài của trống lộp cộp để tỏ ý chê bai. Nhưng cũng tội cho ông cầm chầu nào lơ đểnh, hay ngủ quên không chầu cho những đoạn diễn tả hay diễn xuất hay, thì bị khán giả la ó và chính đào kép từ trên sân khấu nói bóng nói gió, chưởi xiên chưởi xéo nên có câu: Ở đời có bốn cái ngu, Làm mai lãnh nợ gát cu .cầm chầu. Về 4 cái ngu nầy, tác giả xin phép ra ngoài đề một chút để kể thêm một chuyện ngu nữa, vị chi là 5 cái ngu. (Mà chuyện nầy cũng nằm trong NKLT ). Số là khi còn trẻ, tôi làm thầy giáo dạy tại trường Vang Quới (Bến Tre). Chiều thứ bảy tan học (hơi sớm một chút) đạp xe đạp về quê. Đến ngã ba Thới Lai, tôi bị chận lại, một anh mặc may-yô đá banh khẩn thiết đề nghị tôi lám ạt-bít cho trận banh giao hữu giữa xã Thới Lai và xã Vang Quới tức là xã tôi đang dạy. Được đề cao, tuổi trẻ háo thắng, tôi nhận liền. Thay áo, thay quần cũng giống một ạt-bít thứ thiệt lắm, tôi hùng dũng ra sân, cho bắt thăm chọn sân xong hoét tôi ra lịnh khai trận. Hai đội tuyển cấp làng nầy tài đồng tài sức đồng sức nên giữa hiệp hai mà hai bên bất phân thắng bại. Tôi đang chạy theo một đường banh thì nghe thoang thoáng bên tai: Thầy kiếm chuyện phạt tụi nó một cái đi thầy. Nhìn kỹ thì anh a-văng-xăng (avant centre, trung phong) của Vang Quới rỉ tai tôi như vậy. Tôi ra dấu: Biết rồi! Thế là khi có đường banh xuống gần khung thành của Thới Lai, lại nhân dịp có một a-de (arrière, hậu vệ) của đội nầy tranh cản, tôi thổi còi hoét hoét và dõng dạc: A lê! pê-nanh-ty xich mét ( Pénalty, six mètres, phạt đền 6 mét) hồi đó phạt đền chỉ có 6 m vì sân nhỏ. Mặc cho cầu thủ Thới Lai phản đối dữ 49 | T r a n g
  50. dội, ạt-bít tôi cương quyết cho thực hiện quả phạt. Hoét! Trái banh số mệnh vô gọn trong lưới của Thới Lai. Tan trận, Vang Quới thắng Thới Lai 1-0. Thấy mặt hầm hầm của cầu thủ đội Thới Lai, tôi không dám ở lại uống nước, nhanh chân nhanh tay thay đồ đạp xe về nhà. Sáng thứ hai lại đạp xe trở lại trường, vẫn phải đi ngang ngả ba Thới Lai. Bỗng có tiếng gọi mời uống cà-phê mà giọng nói không thân thiện lắm: Thầy giáo vô uống cà-phê với tụi nầy đi! Chẳng đặng đừng, tôi dựng xe và bước vào quán cà-phê thấy đông đủ 11 cầu thủ thất trận hôm thứ bảy, mặt mày anh nào anh nấy trông nghiêm nghị lắm. Hồn vía tôi lên mây, ly cà-phê sữa trước mặt mà tôi uống không vô. Không khí làn lần bớt căn thẳng bổng anh đội trưởng bước đến vỗ vai tôi cười hà hà bảo: Thầy giáo bữa đó chơi hỗng đẹp nhưng tụi nầy thông cảm với thầy, gặp người khác tụi nầy hổng bỏ qua đâu, lần sau . Anh bỏ lững không nói tiếp lần sau làm gì mà tôi cũng không muốn nghe tiếp. Tôi thót lên xe, đạp về trường, trong bụng nói : không có lần sau nào nữa đâu, một lần tởn tới già. Và từ đó tôi tự động bổ túc câu: Ở đời có 5 cái ngu: Làm mai, lãnh nợ, gát cu, cầm chầu và làm ạt bit. Xin còn có ai thêm cái ngu thứ sáu không? 3. Bóng rỗi trong lệ cúng Miễu Miễu hay miếu là nơi dân gian của một vùng, một ấp, một xóm hay một cá nhân lập ra tại một nơi có địa thế hiểm trở hay vắng vẻ để thờ một vị nữ mà hầu hết đều ghi trong yết vị là Lê Sơn Thánh Mẫu đẻ cầu mong cho vị nầy tức là “Bà” ngự ở đây phù hộ cho, trước hết người lập miễu sau đó bá tánh trong vùng được mọi điều hanh thông tốt đẹp. Miễu cũng có thể lập ra để làm nơi ẩn trú cho những cô hồn bất đắc kỳ tử, chết rồi không nơi nương tựa, hồn phách vật vờ đói rét cơ cực, có thể đi phá phách dân làng. Một ngôi miễu như vậy tại đường Anh Giác, Phường 3 Mỹ Tho, mang tên miễu Cô hồn. Miễu được nhang đèn quanh năm suốt tháng, cúng kiến bánh trái vào những ngày Tết, những ngày sóc vọng và trong vài năm lại có lệ cúng miễu hay tạ miễu. Lễ cúng miễu không qui mô bằng lễ cúng đình, không rầm rộ như lễ trai đàn ở chùa chỉ tập họp số dân trong vùng trong xóm mà thôi. Mục đích của cúng miễu là cầu “Bà” về để xin “Bà” phù hộ cho xóm ấp được làm ăn phát đạt tránh được thiên tai dịch họa. Do vậy trong lễ cúng miễu phải có một người lên đồng để “Bà” nhập vào và ban phát lời khuyến bảo. Người lên đồng nầy được gọi là cô 50 | T r a n g
  51. hay bà bóng, phải là một người bán nam bán nữ, vì người xua quan niệm là những người nầy mới đủ tinh khiết để đóng vai trò quan trọng nầy trong việc tế lễ. Cô bóng đầu đội khăn đỏ, ngồi xếp bằng trước bàn thờ “Bà”, chung quanh đông đảo những người tham dự với một niềm tin sẵn có, tiếng trống, tiếng kèn, tiếng đẩu, hòa hợp với tiếng đàn cò, đàn tam hòa quyện với khói hương khói trầm nghi ngút, giữa bầu trời đêm lấm tấm sương rơi, nên quang cảnh trở nên mông lung huyền ảo đủ để tác động tinh thần của những người tham dự. Khi “Bà” nhập vào hay “đồng lên”, cô bóng bắt đầu rổi. Rổi là từ để chỉ cô bóng diễn tả câu văn, câu thơ Câu rổi mặc dù vẫn là thể thơ lục bát hay lục bát biến thể, nhưng lối rổi không hế giống với ngâm thơ Kim Vân Kiều, không hề giống với nói thơ Lục Vân Tiên, không hề giống với lối đọc kinh Phật, không hề giống với điệu hò điệu lý nào Vì nó là lối bóng rổi, thế thôi. Và đó cũng là cái đặc thù của văn hóa ta. Thử nghe bóng rổi: Bà về, bà ở trên mây. Bà thương dân khổ đọa đày tấm thân. Bà về, bà lại ở gần. Khuyên mà gia chủ đỡ đần chúng sinh Ngoài rổi, bóng còn múa để dâng lễ cho Bà. Và trong diễn xuất múa nầy cùng với giọng nói khao khao, ta mới thấy bóng phải là bán nam bán nữ mới đúng với vai trò sở trường của một người bóng. Tóm lại “Bà” đề cao người tốt, răn dạy kẻ xấu hứa những điều tốt lành cho dân chúng. Tuy nhiên trước khi lễ kết thúc, còn một thủ tục là lễ đặt vật cốt trắc nghiệm xem việc “Bà” nhập là thiệt hay giả. Bà chủ miễu đi ra ngoài trở vào trên tay có một cái chén úp trên một cái dĩa, trong chén có một vật gì đó và bắt buộc cô bóng phải nói đúng vật mà bà chủ miễu đã kín đáo để vào đó. Cô bóng nói đúng là “Bà” lên thật, trái lại là lên giả, có thể bị phạt. Thường là cô bóng nói đúng vì cô có “gián điệp” theo dõi việc làm của bà chủ miễu rồi dùng tiếng lóng báo cho cô biêt . Nhưng dù sao ngày xưa, tập tục nầy vẫn có tác dụng là răn đe kẻ xấu đề cao người tôt, giáo dục con người trên con đường hướng thiện. B. SINH HOẠT XÃ HỘI 1. Quán trà Huế Trên khắp nẻo đường miền Nam, từ ngày hoà bình trở lại sau cuộc Nam Bắc phân tranh giữa chúa Nguyễn và chúa Trịnh, trước cả khi 51 | T r a n g
  52. người Pháp đến xâm chiếm, nơi đây đã có những quán trà Huế dọc theo những con đường đất đi lại ngang dọc. Quán trà Huế bên vệ đường phục vụ giải khát, một tô trà Huế thơm phức, một chiếc bánh cốm đỡ lòng, giây phút nghỉ chân cho những khách đi đường thường là người đi bộ, đi ngựa sau nầy mới có những người đi xe đạp. Trên đường đi từ Mỹ Tho vào Gò Cát, từ Mỹ Tho xuống Chợ Gạo rồi Gò Công, từ Mỹ Tho lên Gò Lũy (Nhị Bình), từ Mỹ Tho đến Bến Tranh, Tịnh Hà hay xa hơn nữa ta gặp những quán trà Huế mọc lên đây đó dưới một cây bàng, một cây me, một tàn dừa. một bụi tre Nói đến quán trà Huế phải nói đến trà trước nhất. Trà dùng cho việc pha trà hay nấu trà phải là trà tươi, hái cả lá lẫn đọt về phơi không qua một sự xấy lửa hay pha chế nào cả, ủ lại trong lá chuối khô để vào chỗ khô ráo. Trà Huế không biết có phải xuất xứ từ Huế hay không nhưng theo truyền tụng là xuất xứ từ đâu ngoài Bắc xa xôi vì Huế không phải là nơi có nhiều trà, mà Lâm Đồng trong miến Nam thì chưa được khai phá. Vậy tại sao có từ trà Huế? Ngày xưa ông bà ta chưa có quan niệm rõ ràng về địa lý, chỉ biết ngoài kia là Huế, đi ra miền Trung, miến Bắc gọi là đi Huế, vì Huế là kinh đô, Huế là nơi vua ở còn xa nữa thì không biết. Do đó trà ngoài kia đem vô là trà Huế. (Chỉ là một giả thiết. Lời của tác giả). Do đó có cụm từ quán trà Huế, và trà Huế để phân biệt với trà có pha chế thường do người Tàu sản xuất gọi là trà tàu. Một buổi trưa hè, một khách bộ hành trên con đường gió bụi cảm thấy mệt mỏi, khát nước mà bắt gặp một quán trà Huế thì thú vị biết bao, nhất là được tiếp đãi bỡi các chủ nhân cũng có thể là một bà đứng tuổi móm mém, vui vẻ, tánh tình hiền lành dễ mến, thì cũng có thể là một cô gái Nam kỳ, tóc cột đuôi gà, áo bà ba củn cởn, đang vào tuổi trăng tròn đầy nhựa sống. Khách bước vào quán được đón tiêp bằng một nụ cười rạng rỡ, một ánh mắt chân tình như người quen cũ. Khách đã cảm thấy ấm lòng, lại thêm mùi thơm của dầu dừa mà cô chủ quán xức tóc mướt rượt, gợi lên trong khách một tình quê hương dân tộc đậm đà. Chưa chi cô chủ quán đã mời khách với một giọng như quen nhau từ kiếp trước: 52 | T r a n g
  53. - Chèn đét ơi! Anh Hai đi đâu mà nắng dữ dậy. Dô quán em uống miếng trà Huế đi. Nè! lần sau đi, nhớ đem theo cây dù nghe hông, hông thôi em dận cho mà coi! Khách vào ngồi trên một cái băng cây để trước quán. Quán trà Huế chỉ là một cái chòi, hai mái lá dừa nước lợp trên mấy cây kèo mảnh khảnh gá trên bốn cây cột tầm vông, chỉ đủ cho việc che mưa đở nắng, dựng bên lề đường dưới tàn một cây bàng. Trong quán một cái bàn cây choáng gần hết mặt bằng của quán. Trên bàn, bày những tô ông rồng lau khô úp lên nhau, bên cạnh một cái kệ đựng mấy phong bánh in bọc giấy đỏ, mấy gói kẹo đậu phọng đường tán lủng lẳng trên mấy cây cột những nải chuối già, chuối xiêm, chuối cau và những xâu cốm chùi gói tròn tròn bằng lá chuối khô giống như những trái banh nhỏ. Dưới chân bàn một nồi nước trà bằng đất khá to đang sôi bốc khói, đặt trên một hỏa lò đun bằng than miển (mủn) gáo, hay than đước. - Anh Hai uống dới em một tô nước trà Huế nghen! Em pha dừa uống lắm. Người khách hai tay nâng tô nước trà Huế, không biết vô tình hay cố ý khẻ đụng vào bàn tay cô hàng, và cũng không biết cô hàng có phật ý hay không mà chỉ thấy cô hàng nở một nụ cười để lộ hai đồng tiền sâu hóm hai bên má, vói tay lấy gói cốm chùi mở ra và đưa cho khách: -Cốm em làm đó, bằng nếp ngon mua tuốt ở ngoài Bà Rịa lận, anh ăn rồi anh nhớ em cho mà coi. Nhà khách tỉnh (Hôtel de ville) cũng là dinh tỉnh trưởng 53 | T r a n g
  54. Mùi thơm đặc trưng của trà Huế, vị ngọt và béo của cốm trộn dừa làm khách mát lòng mát dạ. Ăn gói cốm xong, uống tô trà Huế xong mà sau chưa thấy khách muốn tiếp tục con đường thiên lý. Áng chừng vẻ đẹp mộc mạc thôn dã, giọng nói chân tình, chan chứa vị nhỏng nhẻo ngọt ngào của cô hàng trà Huế Nam kỳ đã có ma lực giữ người khách đường xa ở lại mãi nơi quán trà Huế nầy rồi chăng? Hình ảnh quán trà Huế đây đó trên khắp nẻo đường đất nước và ngay cả trong nội thành Mỹ Tho, như đường vào Gò Cát, đường lên Bình Tạo ngay cả ở tại dốc Cầu Quay, nơi có một cầu tàu Lục Tỉnh, ngay cả tại cầu Bắc Rạch Miễu đầu đường De Castelneau, Nam Kỳ Khởi Nghĩa bây giờ Những quán trà Huế đó không còn thấy nữa vào những năm cuối của 1940, nhưng hình ảnh quán trà Huế cùng với hình ảnh một bà lão Việt Nam móm mém nhai trầu, hình ảnh một cô gái thôn dã tóc thơm mùi dầu dừa, má núng đồng tiền vẫn còn trong ký ức của những người lớn tuổi của Mỹ Tho, như một kỷ niệm không phai về Nam Kỳ Lục Tỉnh 2.- Cầu tàu Lục tỉnh Mỹ Tho Cầu tàu Lục Tỉnh tại vàm sông Bảo Định. Sau khi người Pháp có mặt vào cuối thế kỷ XIX Mỹ Tho đã nổi tiếng là một bến sông, một bến tàu, một giang cảng sầm uất, nhộn nhịp vời cụm từ trên bến dưới thuyền. Nhưng xin nói thêm là trước đó rất lâu sau khi có sự có mặt của đoàn người Hoa do Dương Ngạn Địch dẫn dắt đến lánh cư tại Mỹ Chánh và nhất là sau khi cuộc chiến tranh giữa hai chúa Trịnh, Nguyễn kết thúc thì sông Mỹ Tho đã là bến cảng cho các thuyền buôn từ miền Trung và cả từ Hải Nam (hay Hải Nàm) vào đây buôn bán. Những di tích của tàu Hải Nam để lại mà ta tìm thấy ở Mỹ Tho rất nhiều như tỉn, lọ, ché để đựng cá mặn, củ cải mặn, nước tương, tương mà họ dùng một thứ giấy mà ta gọi là giấy bạch rất dai, rất chắc để bịt miệng thật kín không thua gì kỹ thuật bao bì hiện đại. Ngoài ra ta con thấy những chiếc nón rộng vành đan bằng tre nứa hay mây v.v những chiếc áo nút thắt, những đôi guốc gổ thô kệch và những óng hút á phiện. Những chiếc ghe bầu của ta từ miền Trung vào, lúc đầu đậu tại Bến Tắm Ngựa sau đó tại vàm sông Bảo Định. Riêng tàu Hải Nam, một loại tàu cánh dơi vì loại tàu nầy quá lớn nên đậu tại vàm Kỳ Hôn hay Bến Tắm Ngựa. Các loại thương thuyền nầy đã từng đến và đem lại cho Mỹ Tho một cảnh huyên náo phồn thịnh, cho mãi đến cuối thập niên 30 của 54 | T r a n g
  55. thế kỷ trước, khi tình hình mở màn cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, mới chấm dứt, Xin trở lại cầu tàu Lục Tỉnh. Đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho phục vụ cho tuyến đường xuyên Việt qua ga Mỹ Tho để từ Mỹ Tho, hành khách sẽ dùng đường thủy đi các tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu đốc, Cần Thơ, Trà Vinh, Bạc Liêu, Sóc Trăng đến cả Phnôm Penh. Cầu tàu Lục Tỉnh còn gọi là bến tàu Lục Tỉnh có hai bến, một, từ ga xe lửa, hiện giờ là công viên Lạc Hồng, chỉ vài bước đến đầu đường mé sông Ga-li-ê-ni (quai Galliéni), bây giờ là đường Trưng Trắc, bên tượng Thủ Khoa Huân. Bến thứ hai ở sát dốc cầu Quay (cũng trên một con đường) đường vào chợ Mỹ Tho. Hai cầu tàu chỉ xây cất đơn sơ, cột cây lót ván, dưới sông có trồng mấy cây trụ to để tàu dựa vào khi cặp bến. Từ ga xe lửa khách đến bến tàu thứ nhất không xa, nếu phải chờ tàu từ Sài Gòn đến, khách có thể vào nghỉ tại các khách sạn đối diện với nhà ga, bây giớ vẫn còn một vài khách sạn ở đó. Tại đây cũng có một khách sạn - nhà hàng lớn dành cho người Pháp và châu Âu được gọi là bung-ga-lô (bungalow), một lối kiến trúc của nhà hàng Majestic ở Sài Gòn). Tàu từ Sài Gòn đến Mỹ Tho rước khách về miền Tây đi ngả sông Soài Rạp vào kinh Nước Mặn rồi kinh Chợ Gạo ra vàm Kỳ Hôn, ghé cầu củi (cảng cá bây giờ) để lấy củi nếu cần (tàu chạy bằng hơi nước nên đốt bằng củi) sau cùng cặp tại một trong hai bến nói trên. Tàu Lục Tỉnh có nhiều công ty do người Pháp, người Hoa, người Việt làm chủ. Một ông chủ tàu người Việt ngày xưa là ông Nguyễn Văn Kiệu, người ta gọi tàu của ông là tàu ông Kiệu. Cháu, chắt ông Kiệu một số còn đang sống ở Mỹ Tho. Ngoài ra chủ rạp hát Nguyễn Văn Hảo ở Sài Gòn có liên hệ bà con với ông Bầu Bòn chủ gánh hát bội Bầu Bòn nổi danh thời bấy giờ, cũng có bà con huyết thống với ông Nguyễn Văn Kiệu. Tàu Lục Tỉnh làm trung chuyển cho đường xe lửa về miền Tây, do địa hình đồng bằng sông Cửu Long không cho phép thiết lập đường sắt, còn đường bộ cũng còn hạn chế. Do đó đường thủy là phương tiện lợi nhất và cũng vì vậy hai bến tàu lục tỉnh ở Mỹ Tho tại vàm sông Bảo Định luôn luôn tấp nập, huyên náo ngày lẫn đêm. 55 | T r a n g