Một số vấn đề của các tạp chí khoa học Việt Nam tham gia phản biện khoa học và phản biện xã hội

pdf 10 trang phuongnguyen 3890
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề của các tạp chí khoa học Việt Nam tham gia phản biện khoa học và phản biện xã hội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_cua_cac_tap_chi_khoa_hoc_viet_nam_tham_gia_pha.pdf

Nội dung text: Một số vấn đề của các tạp chí khoa học Việt Nam tham gia phản biện khoa học và phản biện xã hội

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 Một số vấn đề của các tạp chí khoa học Việt Nam tham gia phản biện khoa học và phản biện xã hội Phan Văn Kiền* Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội Nhận ngày 01 tháng 3 năm 2015 Chỉnh sửa ngày 12 tháng 3 năm 2015; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 5 năm 2015 Tóm tắt: Hệ thống các tạp chí khoa học ở Việt Nam hiện nay khá phong phú cả về số lượng, nội dung và định kỳ. Tuy nhiên, đằng sau sự phát triển tưởng như là mạnh mẽ ấy, hệ thống này vẫn bộc lộ nhiều vấn đề đòi hỏi phải có các giải pháp tổng thể để giải quyết. Bài viết này, bằng cách nhìn nhận tổng quan về hệ thống các tạp chí khoa học tại Việt Nam tham gia phản biện khoa học và phản biện xã hội, đồng thời khảo sát cụ thể trên một số trường hợp, sẽ chỉ ra một số thực trạng phát triển của hệ thống này, cả về ưu điểm và nhược điểm. Từ đó đề xuất một số giải pháp để giải quyết vấn đề. Về mặt chuyên môn, bài viết được tiếp cận dưới góc độ và quan điểm của ngành báo chí và truyền thông. Từ khóa: Tổ chức và xây dựng tạp chí, thực trạng tạp chí khoa học, tạp chí khoa học. ∗ 1. Thực trạng của ngành mình. Trong mỗi ngành, thậm chí còn được phân ra từng chuyên ngành hẹp để 1.1. Số lượng phong phú xuất bản tạp chí riêng. Thí dụ: Ở tạp chí Khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội, dưới tên gọi Có thể thấy rằng, hệ thống tạp chí ở Việt là Tạp chí khoa học, mỗi chuyên ngành hẹp lại Nam hiện nay rất phong phú về số lượng và được chia ra thành các chuyên san như Khoa phân bố trên từng lĩnh vực. Riêng tạp chí in, ở học Xã hội và Nhân văn, Khoa học Tự nhiên, Việt Nam hiện có 528 tờ. Trong 592 tờ tạp chí Khoa học trái đất, Luật – Kinh tế, Toán học này, được phân loại ra thành nhiều dòng tạp chí (tạp chí chuyên ngành, tạp chí chỉ dẫn – giải trí, Với số lượng tạp chí phong phú như vậy, tạp chí thông báo ). nếu tất cả các tạp chí đều đảm bảo được yêu cầu Riêng dòng tạp chí khoa học, ở hầu hết cơ về nội dung và hình thức của mỗi dòng tạp chí quan nghiên cứu của mỗi ngành đều có tạp chí thì có thể đáp ứng rất tốt nhu cầu thông tin, thảo ___ luận, trao đổi của công chúng ở mỗi dòng. ∗ĐT.: 84-983414354 Email: fankien@gmail.com 29
  2. 30 P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 Không chỉ về số lượng tạp chí, số lượng bài về Kinh tế cho thấy sự tăng lên về số lượng bài viết trên các tạp chí cũng tăng lên theo thời viết trên các tạp chí tại Việt Nam [1-3]: gian. Kết quả khảo sát trên 4 tạp chí nghiên cứu Tên tạp chí Năm 2010 Năm 2011 Tỷ lệ tăng (%) Nghiên cứu kinh tế 39 48 18,8 Kinh tế và dự báo 135 177 23,7 Thông tin tài chính 153 170 10 Tổng 327 395 17,2 Bảng 1. Số lượng bài viết trên 3 tạp chí nghiên cứu về kinh tế từ 2010 đến 2011. 1.2. Tính liên ngành cao, tính định kỳ rõ hoặc sáu tháng. Vì vậy thời điểm xuất bản định kỳ cho mỗi số không bị ràng buộc như báo. Điều này có thể thấy rõ trong từng dòng tạp Ở dòng tạp chí nghiên cứu, tính định kỳ chí, đặc biệt là ở dòng tạp chí khoa học. Tính càng thưa bởi để đảm bảo tính chất nghiên cứu liên ngành ở đây thể hiện dưới hai khía cạnh: của nó, các tạp chí đòi hỏi phải có các bài mang Dùng các phương pháp liên ngành để giải quyết tính chất nghiên cứu và có nội dung mới. Điều các nội dung của ngành mình và dùng phương này không thể thực hiện theo hàng tuần, thậm pháp cơ bản của ngành mình để giải quyết các chí hàng tháng. Có những tạp chí có lượng gửi nội dung liên ngành. bài của các chuyên gia, cộng tác viên rất phong Trong các dòng tạp chí tại Việt Nam hiện phú nhưng vẫn chỉ ra được mỗi năm 4 số bởi nay, đặc biệt là dòng tạp chí khoa học, biểu hiện tính chọn lọc bài viết khá khắt khe của tòa soạn tính liên ngành thứ hai (dùng các phương pháp như Tạp chí Khoa học của ĐHQGHN. cơ bản của ngành để nghiên cứu các nội dung Một số tạp chí nghiên cứu vì không có đủ liên ngành) được thể hiện khá rõ rệt. lượng bài mang tính nghiên cứu nhưng đến định Sự kết hợp khá chặt chẽ này, nếu được thực kỳ vẫn phải ra, đã dùng tin tức thông thường hiện đảm bảo tính khoa học và đúng quy trình của báo chí và cả những bài báo thông thường chất lượng của nó thì giá trị của mỗi tạp chí sẽ đăng trên tạp chí của mình (thí dụ tạp chí Thanh được tăng lên rất nhiều so với việc chỉ dùng Niên của Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam, phương pháp nghiên cứu cơ bản của ngành tạp chí Người làm báo của Hội Nhà báo Việt mình cho nội dung của ngành. Nam ). Vấn đề này sẽ được làm rõ ở sau. Mặc dù cả báo và tạp chí đều có sự tương Có hai dạng định kỳ. Đó là định kỳ của bản đồng về tính định kỳ, bởi đây là nguyên tắc cơ báo, thường gọi là định kỳ chung cho cả số tạp bản của hoạt động báo chí có từ trước đó. chí đã được đăng ký cấp giấy phép. Định Nhưng ở mỗi loại hình lại có sự khác nhau. kỳ này không có sự thay đổi, nếu có thay đổi Tính định kỳ của báo thường ngắn hơn và có ở cần có sự đồng ý và phê duyệt của cơ quan thời điểm nhất định, có khi tính bằng giờ (đối chủ quản và cơ quan quản lý. Định kỳ của từng với báo in), có khi tính bằng giây, bằng phút chuyên mục, hay gọi là định kỳ của vấn đề. (đối với phát thanh, truyền hình, báo điện tử). Định kỳ này do tòa soạn quyết định, nó có thể Tính định kỳ tạp chí dài hơn báo, tạp chí thây đổi nếu vấn đề, chuyên mục không còn không xuất hiện nhiều hơn một tuần một lần, có phù hợp hoặc hấp dẫn nữa. Sự thay đổi các khi là nửa tháng, một tháng, thậm chí một quý
  3. P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 31 chuyên mục trên tạp chí không nhiều bởi các Thí dụ: Trên các tạp chí Khoa học về chính vấn đề nghiên cứu tương đối ổn định, ít thay đổi trị, các tạp chí phân tích rất sâu, rất kỹ và khá nhiều về sự đúng đắn của các chủ trương, chính 1.3. Tính chất thông tin, cổ vũ, tuyên truyền sách được ban hành, các văn bản luật và dưới đang lấn át tính chất phản biện, tranh luận luật được phổ biến nhưng những bài viết mang tính phản biện xã hội sâu sắc thì đang Với lượng tạp chí phong phú như đã nêu ở xuất hiện rất hạn chế. Tất nhiên, phản biện trên, nếu đảm bảo được các yêu cầu về chất trong khoa học phải có bằng chứng và phân tích lượng và nội dung nghiên cứu thì các dòng tạp thấu đáo. Bởi vậy, nhược điểm này có thể do chí ở Việt Nam sẽ thực hiện rất tốt vai trò tham hai nguyên nhân: Hoặc là đội ngũ nghiên cứu ở gia vào quá trình tư vấn, phản biện và giám Việt Nam chưa đủ trình độ để phản biện các định xã hội. vấn đề đó. Hoặc là các tạp chí còn “sợ” sự nhạy Tuy nhiên, một thực trạng ở rất nhiều tạp cảm khi đụng chạm đến vấn đề chính trị. Đã chí, đặc biệt là tạp chí khoa học là tính chất chọn hướng an toàn thì tốt nhất là không đăng thông tin, cổ vũ, tuyên truyền cho các chủ các vấn đề nhạy cảm. trương, chính sách, văn bản của Đảng, Nhà Chính điều này đã làm giảm đi tính đặc nước và các chính sách của từng ngành vẫn trưng rõ rệt của các tạp chí nghiên cứu, biến hệ đang lấn át những bài viết mang tính phản biện thống tạp chí này trở thành một loại hình thông thực sự hoặc thảo luận, tranh luận về một vấn tin tuyên truyền,cổ vũ cho các chính sách hơn là đề mang tính học thuật. phản biện lại các chính sách để hoàn thiện nó. Cũng dùng các phương pháp nghiên cứu, Một ví dụ khảo sát trên 4 tạp chí về khoa cũng đụng chạm đến các nội dung liên ngành, học chính trị (Tạp chí Cộng sản, tạp chí Lý luận nhưng các tạp chí khoa học hiện nay dường như Chính trị, tạp chí Khoa giáo và tạp chí Kinh tế đang “tránh” hoặc “sợ” khi chạm tới các vấn đề và Chính trị thế giới) cho thấy kết quả phản tranh luận mang tính học thuật. biện bị các nội dung khác lấn át [1,4-7]. 250 244 200 183 157 150 109 100 50 32 11 4 0 0 TC Cộng TC Lý luận TC Khoa TC Kinh tế & sản Chính trị giáo Chính trị TG Bài viết có nội dung khác Bài viết có nội dung phản biện chính trị Biểu đồ 1. Số lượng bài viết có nội dung phản biện chính trị và nội dung khác của 4 tạp chí trong năm 2010.
  4. 32 P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 300 253 250 200 200 162 150 103 100 50 25 7 7 0 0 TC Cộng sảnTC Lý luận Chính TC Khoa giáo TC Kinh tế & trị Chính trị TG Bài viết có nội dung khác Bài viết có nội dung phản biện chính trị Biểu đồ 2. Số lượng bài viết có nội dung phản biện chính trị và nội dung khác của 4 tạp chí trong năm 2011. 1.4. Tính diễn đàn và tính hệ thống yếu tạp chí sẽ rời rạc, đứt mạch. Trong khoa học, không có tính hệ thống là một trong những Kết cấu tổng thể chung của một tạp chí nguyên nhân dẫn đến phản biện lệch chiều. nghiên cứu thường có 3 phần: Công bố các Trên các tạp chí nghiên cứu của Việt Nam nghiên cứu mới; trao đổi, tranh luận, thẩm định hiện nay, dường như phần thứ nhất (công bố các về các nghiên cứu đã công bố trước đó; giới thiệu sự kiện khoa học mới. nghiên cứu mới) mới là phần chính của các tạp chí. Số trang giới thiệu các sự kiện khoa học có Tính diễn đàn của tạp chí khoa học được thể nhưng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Còn phần trao hiện rất rõ trong phần thứ hai của kết cấu chung đổi, tranh luận học thuật thì gần như vắng bóng. này. Các trao đổi mang tính chuyên môn, các tranh luận học thuật là động lực để giải quyết Điều này khiến cho hầu hết các số tạp chí các vấn đề tới ngọn ngành của chúng. Đó cũng chỉ là những nơi công bố các nghiên cứu của là một biểu hiện rất rõ của tính phản biện đặc các nhà khoa học, thậm chí của một người bắt thù mang tính chức năng trong các tạp chí đầu nghiên cứu, đang cần công bố các nghiên nghiên cứu. cứu của mình theo quy định của các cơ quan quản lý. Tất nhiên, không thể xem nhẹ nội dung Sự tranh luận, trao đổi, thẩm định về các này, nhưng chỉ chú trọng vào nó thì khiến cho vấn đề nghiên cứu đã công bố trước đó cũng các tạp chí chỉ là nơi đăng một chiều các công góp phần làm cho tính hệ thống và liên tục bố. Quy trình phản biện, thẩm định lại các vấn trong từng tạp chí nghiên cứu được thể hiện rõ. đề để tạo nên tính diễn đàn và tính hệ thống Nếu không đảm bảo được yêu cầu này, các số theo chiều dọc của nội dung nghiên cứu bị mất.
  5. P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 33 1.5. Mất cân đối trong số lượng, chồng chéo Sự chênh lệch này khiến cho nhiều tạp chí nội dung giữa tạp chí các ngành chuyên ngành ở Việt Nam ra đời nhưng không có đội ngũ chuyên gia đủ tầm để tham gia viết Đây là một thực trạng trên tạp chí các tạp bài và thảo luận các nội dung nghiên cứu. chí nghiên cứu. Thực trạng này xuất phát từ hai Thực trạng này có thể thấy rõ trong số nguyên nhân: Công chúng của loại hình tạp chí và lượng tạp chí giữa 1 chuyên ngành khoa học cơ đội ngũ chuyên gia tham gia viết bài cho tạp chí. bản là Sử học và một chuyên ngành ứng dụng Ở nguyên nhân thứ nhất, các tạp chí nghiên mới được phát triển là Báo chí – truyền thông. cứu là dòng tạp chí rất kén độc giả. Bởi vậy, Hiện nay, số lượng tạp chí nghiên cứu về Sử tính phổ biến của dòng tạp chí này chắc chắn học – Chính trị lên tới hàng chục. Có thể kể sơ hạn chế hơn nhiều so với các dòng tạp chí khác qua: Tạp chí Sử học, tạp chí Nghiên cứu lịch như tạp chí chỉ dẫn – giải trí chẳng hạn. Công sử, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí Lịch sử chúng phục vụ của các dòng tạp chí lên đến quân sự, tạp chí Dân tộc học, tạp chí Lịch sử hàng tỷ nhưng công chúng của tạp chí nghiên Đảng, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, tap chí cứu chỉ dừng lại ở đội ngũ tri thức với số lượng Nghiên cứu Đông Nam Á Sự phát triển của ngày càng tăng nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ rất các tạp chí về Sử học – Chính trị được thể hiện khiên tốn. Trong đội ngũ trí thức là độc giả của rõ trong việc phân chuyên ngành hẹp nghiên các tạp chí khoa học, tỷ lệ giữa các ngành cũng cứu rất sâu. phân bố không đồng đều, dẫn đến nhu cầu ra Còn chuyên ngành Báo chí – Truyền thông đời và phát triển của các tạp chí nghiên cứu ở thì ngoài một số tạp chí đăng chung về chuyên từng chuyên ngành hẹp cũng bị lệch. ngành khoa học xã hội, số lượng tạp chí nghiên Nguyên nhân thứ hai, quan trọng hơn là do cứu dành riêng cho chuyên ngành chỉ vỏn vẹn 2 đội ngũ tri thức ở Việt Nam không đồng đều tạp chí (Người làm báo của Hội nhà báo Việt giữa cách ngành cả về độ tuổi nghiên cứu và độ Nam và tạp chí Lý luận chính trị và Truyền tuổi của ngành. Là đất nước chịu hậu quả nặng thông của Học viện Báo chí và Truyên truyền). nề của chiến tranh, Việt Nam đi lên từ đói Chưa kể, trong mỗi tạp chí này thì tính thông nghèo lạc hậu, bởi vậy nên các ngành khoa học tin, tuyên truyền còn lấn át tính nghiên cứu. được chú trọng phát triển tùy vào tình hình phát Thực trạng chồng chéo nội dung giữa các triển của đất nước theo từng giai đoạn. tạp chí chuyên ngành cũng là một vấn đề cần Ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng Xã xem xét trong hệ thống tạp chí nghiên cứu hiện hội chủ nghĩa, chủ trương tập trung ưu tiên các nay. Thực trạng này xảy ra giữa các tạp chí khoa học cơ bản đã khiến cho sự “lên ngôi” của nghiên cứu của các ban Đảng và tạp chí của các các ngành khoa học cơ bản. Nhưng đến giai ngành trực thuộc các Bộ. Trên thực tế, mỗi hệ đoạn phát triển mạnh mẽ mọi mặt để tăng thống có một chức năng, nhiệm vụ chính trị rõ trưởng kinh tế, các ngành khoa học ứng dụng ràng: Các cơ quan Ban Đảng thực hiện việc bắt đầu được ưu tiên phát triển. Tuy nhiên, lúc giám sát, theo dõi và chỉ đạo việc thực hiện các này, đội ngũ các nhà khoa học đã có thâm niên chủ trương, chính sách, đường lối. Các cơ quan nghiên cứu và được đào tạo cơ bản - lực lượng Nhà nước thực hiện việc điều hành, lãnh đạo chính tham gia viết bài trên các tạp chí - lại trực tiếp việc thực hiện các chủ trương, chính thuộc các ngành khoa học cơ bản. sách, đường lối đã được thống nhất.
  6. 34 P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 Trong mỗi hệ thống có các cơ quan giống 1.7. Dung lượng tạp chí quá mỏng, dung lượng bài viết ngắn và bị khống chế nhau nhưng khác nhau hoàn toàn về công việc. Tuy nhiên, trong mỗi hệ thống của các Ban Đó là một thực trạng có thể thấy rất rõ trên Đảng và các cơ quan quản lý Nhà nước lại lần từng số tạp chí nghiên cứu ở Việt Nam. Một tạp lượt xuất hiện các tạp chí nghiên cứu tương tự chí nghiên cứu ở nước ngoài có khi lên đến nhau. Sự trùng lặp này sẽ không có vấn đề gì hàng nghìn trang. Nhưng tạp chí nghiên cứu ở nếu mỗi hệ thống xác định rõ nhiệm vụ của Việt Nam ít có các tạp chí quá 100 trang. mình. Tuy nhiên, trên thực tế, hai hệ thống tạp Không chỉ dừng lại ở trang tạp chí, dung chí này đang có sự chồng chéo nhau trong các lượng bài viết trên các tạp chí nghiên cứu ở nội dung nghiên cứu. Sự chồng chéo này khiến Việt Nam cũng quá ngắn. Một bài nghiên cứu cho các tạp chí vốn đã yếu về tính phản biện, thuộc chuyên ngành khoa học xã hội dao động từ 10 – 20 trang, ở Việt Nam, con số này là 7 – nay việc công bố các nghiên cứu mới lại bị 8 trang. Thực trạng này khiến cho các bài viết trùng lặp nhau, thậm chí công bố lại các nghiên công bố trong các tạp chí giống với các tóm tắt cứu tương tự nhau về các nội dung. nghiên cứu hơn là các nghiên cứu được trình bày chi tiết, cụ thể. 1.6. Quy trình thẩm định tác phẩm chưa chặt chẽ Nguyên nhân của thực trạng cũng xuất phát từ hai phía: Năng lực thực hiện nghiên cứu của Với hệ thống lên tới hàng trăm tạp chí người công bố nghiên cứu không đủ khả năng nghiên cứu nhưng số lượng tạp chí thực hiện quy để trình bày chi tiết và cũng chưa có thói quen trình thẩm định bằng phản biện kín không nhiều. đi đến cùng của vấn đề nghiên cứu. Bởi vậy nên Một thực trạng là ở hầu hết các tạp chí, việc nhiều nghiên cứu chỉ vĩnh viễn dừng lại ở công chọn lựa bài, quyết định bài đăng nằm trong tay bố kết quả bước đầu. Ban Biên tập và người phụ trách tạp chí, phụ Nguyên nhân thứ hai, quan trọng hơn là sự trách trang. Điều này khiến cho việc thẩm định khống chế dung lượng chữ trong mỗi bài nội dung nghiên cứu bị nới lỏng, thậm chí bỏ nghiên cứu. Thông thường, trong quy cách gửi qua bởi đội ngũ trong Ban Biên tập và biên tập bài do các tạp chí đặt ra đều khống chế số lượng viên không thể nắm hết được mọi chuyên ngnàh trang. Số lượng này không giống nhau giữa các trong lĩnh vực mình. tạp chí nhưng ít có bài viết nào vượt quá số lượng 50 trang. Trong khi đó, có những công bố Hơn nữa, đội ngũ này ở một số tạp chí có nghiên cứu trên tạp chí nước ngoài lên tới 100 kinh nghiệm về quản lý nhưng kiến thức trang. chuyên môn lại không sâu. Bởi vậy, việc thẩm Sự khống chế này bắt nguồn từ số lượng định chất lượng khoa học của bài viết bị thả trang trong mỗi số tạp chí quá mỏng vì tính lỏng, dẫn tới chất lượng khoa học của các tạp định kỳ trong nhiều tạp chí nghiên cứu ở Việt chí này cũng chưa được đảm bảo. Nam quá dày, trong khi nhân lực thiếu, trình độ Nghiên cứu này sẽ khảo sát một số hệ thống yếu, kinh phí in ấn và nhuận bút thấp, số lượng tạp chí nghiên cứu tiêu biểu để tìm hiểu về quá bài viết ít. Do vậy, để đảm bảo dung lượng trình thẩm định bài viết của các tạp chí này. trang và tạp chí ra được đúng định kỳ, các tạp chí khống chế số trang công bố. Sự khống chế
  7. P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 35 này ở các tạp chí nghiên cứu tại Việt Nam quá cứu trẻ. Một thống kê nhỏ tại trường Đại học nghiệt ngã, khiến cho ít có công bố nào có thể Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc có cơ hội đi đến cùng của nghiên cứu. gia Hà Nội thông qua cuốn “Danh mục các công trình khoa học xã hội và nhân văn” [8] từ năm 2006 – 2010 và kết quả là có 71/221 tác 2. Giải pháp giả là cán bộ trẻ có nghiên cứu khoa học được công bố, chiếm 32% tổng số tác giả. Trong khi đó, 2.1. Cần một chiến lược quy hoạch tổng thể về theo số liệu thống kê từ phòng Tổ chức cán bộ, tạp chí và tạp chí khoa học hiện tại, số cán bộ trẻ của trường ĐHKHXH&NV là 237/486 cán bộ, chiếm gần 49 %. Đã đến lúc các cơ quan quản lý báo, tạp chí Việt Nam nghĩ tới một chiến lược quy hoạch lại Trừ đi những sai số thuộc về thiếu sót của hệ thống tạp chí khoa học. Thực trạng chồng số liệu Danh mục như có những cán bộ trẻ có chéo về nội dung, mập mờ giữa tính chất nghiên cứu và công bố nghiên cứu mà không có nghiên cứu và tính chất thông tin của các tạp tên trong cuốn danh mục này, cũng như có chí khiến cho năng lực nghiên cứu và công bố những cán bộ không còn trẻ có rất nhiều nghiên nghiên cứu để tham gia vào quá trình tư vấn, cứu và công bố nghiên cứu nhưng cũng không phản biện và giám sát xã hội của hệ thống tạp có tên trong danh mục này (tất nhiên, chúng tôi chí nghiên cứu tại Việt Nam bị hạ thấp. hiểu là số lượng cán bộ trẻ có công bố nghiên cứu nhưng không có tên trong Danh mục vẫn Cần có một giải pháp phân luồng các dòng nhiều hơn cán bộ không còn trẻ có công bố tạp chí rõ hơn bằng cách xây dựng bộ quy định nghiên cứu nhưng không có tên trong danh mục về tiêu chí nội dung, hình thức và dung lượng này), chúng ta có thể thấy ngay con số chênh của các dòng tạp chí. Giải pháp này sẽ khiến lệch giữa tỷ lệ cán bộ trẻ - cán bộ không trẻ và cho các dòng tạp chí nghiên cứu đảm bảo được cán bộ trẻ có công bố nghiên cứu khoa học và cán tính thống nhất và đồng đều về chất lượng bộ không trẻ có công bố nghiên cứu khoa học. nghiên cứu. Trong Danh mục các công trình nghiên cứu Cũng cần có một giải pháp để phân luồng khoa học Xã hội và Nhân văn này, phần lớn các dòng tạp chí có sự chồng chéo về nội dung nghiên cứu khoa học của cán bộ trẻ được công nghiên cứu. Cần có một hệ thống tiêu chí về nội bố vẫn là trên các tạp chí, các hội thảo khoa học dung để phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trong nước. Số lượng hội thảo, tạp chí quốc tế nội dung của các tạp chí cùng trong một hệ (tính chung cho tạp chí và hội thảo nước ngoài thống chiều ngang về nội dung. nói chung chứ chưa tính đến tạp chí có tên 2.2. Xây dựng hệ thống cố vấn, cộng tác viên, trong danh bạ của Viện Thông tin Khoa học - các nhà khoa học ISI) lại nhỏ hơn nữa. Những tác giả có nghiên cứu khoa học công bố trong các hội thảo, tạp Đội ngũ các nhà khoa học, những người chí quốc tế lại chủ yếu là những người vừa bảo nghiên cứu và đang tham gia nghiên cứu, giảng vệ thành công luận án tiến sĩ/thạc sĩ ở nước dạy đai học tại Việt Nam khá đông đảo. Tuy ngoài. Và trong những nghiên cứu được công nhiên, số lượng người viết nghiên cứu và công bố trong Danh mục này, phần lớn vẫn là những bố các nghiên cứu trên các tạp chí chuyên tham luận tham gia tại các hội nghị khoa học do ngành lại rất hạn chế, đặc biệt là đội ngũ nghiên các trường đại học quốc tế tổ chức. Dường như,
  8. 36 P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 đó là yêu cầu bắt buộc phải có để họ có thể đủ tòa soạn tập hợp và thẩm định, nếu đạt yêu cầu điều kiện bảo vệ luận án của mình theo quy thì cho công bố. Chưa tính đến việc quy trình định chung. Những giảng viên trẻ có từ 3 bài thẩm định chưa đạt yêu cầu thì việc nhận bài báo/tham luận trở lên tại các hội nghị khoa học một cách thụ động như thế sẽ khiến cho nội hay tập san quốc tế vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ. dung nghiên cứu chỉ tập trung vào một mạch Khảo sát các nghiên cứu của cán bộ trẻ duy nhất là khung nội dung của ngành nghiên trường ĐHKHXH&NV, (Đại học Quốc gia Hà cứu. Như vậy, trong nội biên của mỗi chuyên Nội) trong cuốn Danh mục này, chúng tôi ghi ngành hẹp, các vấn đề nghiên cứu vẫn chỉ là nhận được chưa đầy 10 cán bộ trẻ có từ 10 những nghiên cứu lẻ, manh mún từ các tác giả nghiên cứu trở lên được công bố trong nước và chứ chưa có một hệ thống thực sự. quốc tế (bao gồm bài báo khoa học, tham luận Để giải quyết thực trạng này, đòi hỏi các tạp khoa học, đề tài nghiên cứu, sách ). Đó là chí phải xây dựng cho mình những chiến lược Phạm Thị Thu Giang (Đông phương học); Trần nội dung theo định kỳ để các chuyên gia nắm Bách Hiếu (Khoa học Chính trị); Nguyễn Văn được giới hạn nghiên cứu cũng như tòa soạn có Chiều (Khoa học Quản lý); Phạm Đức Anh, kế hoạch đặt bài vở cho các chuyên gia uy tín Đinh Thị Thùy Hiên, Đặng Hồng Sơn (Lịch trong từng lĩnh vực. sử); Nguyễn Thị Minh Hằng (Tâm lý học); Hiện nay, đội ngũ chuyên gia có chuyên Lương Thùy Liên (Triết học); Hoàng Thu môn sâu trong từng lĩnh vực tập trung chủ yếu Hương (Xã hội học) [1]. tại các viện nghiên cứu, các trường đại học. Một Các cán bộ trẻ còn lại có tên trong Danh thực trạng là, ngoài các tạp chí nghiên cứu hiện có mục này đều chưa có quá 10 nghiên cứu trong tại các trường, các viện, các tạp chí nghiên cứu vòng 4 năm trở lại đây. Đó có thể coi là một theo ngành dọc gần như chưa có một sự liên kết con số ít ỏi trong khi các điều kiện để công bố nào với các đơn vị nói trên để có những kế hoạch nghiên cứu khoa học đối với cán bộ trẻ hiện nay xây dựng các nội dung nghiên cứu hay các kết không hề hạn chế hay khó khăn. hoạch dài hạn trong nội dung nghiên cứu. Thực trạng này đặt ra một yêu cầu là cần Thực trạng này khiến cho nội dung cần phải tiếp tục xây dựng một hệ tiêu chí rõ ràng công bố thì vẫn thiếu, trong khi chiến lược cho yêu cầu đối với một nhà nghiên cứu trong nghiên cứu, trọng tâm nghiên cứu không được số lượng các công bố khoa học hàng năm trên xây dựng mà tại các viện, các trường, nội dung các tạp chí chuyên ngành. Hệ tiêu chí này đi nghiên cứu vẫn không được công bố. vào thưc tiễn sẽ góp phần xóa bỏ tình trạng có Bởi vậy, cần xúc tiến ngay sự liên kết này những giảng viên không nghiên cứu mà vẫn để giải quyết nhiều vấn đề tồn tại tại các tạp chí giảng dạy tại nhiều trường đại học. Đồng thời, chuyên ngành. giúp các tạp chí chuyên ngành có nguồn bài vở chất lượng hơn để chọn lọc khi đăng. 2.4. Xây dựng đội ngũ biên tập, tổ chức tòa soạn chuyên nghiệp 2.3. Xây dựng chiến lược nội dung tốt Đội ngũ tham gia biên tập, tổ chức tòa soạn Hiện tại, các tạp chí chuyên ngành vẫn hoạt tại các tạp chí nghiên cứu hiện nay chưa được động theo hình thức: Các cộng tác viên, chuyên đào tạo bài bản về cả nghiệp vụ chuyên môn gia gửi bài nghiên cứu để công bố tới tòa soạn,
  9. P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 37 sâu của ngành nghiên cứu lẫn nghiệp vụ tổ chức những đòi hỏi về đặc thù và kỹ năng mà một xây dựng tòa soạn tạp chí. người tổ chức xây dựng tạp chí cần trang bị. Hiện nay, đội ngũ này vẫn rơi vào một Một giải pháp được nhóm nghiên cứu đề trong hai trường hợp: Các chuyên gia có chuyên xuất là: Xây dựng một khung chương trình đào môn về lĩnh vực chuyên ngành hẹp lại thiếu tạo chuyên ngành Tổ chức xây dựng tạp chí (có kiến thức, chuyên môn về xây dựng tạp chí và thể trên cơ sở nâng cấp từ môn học “Tổ chức và tổ chức hoạt động tòa soạn tạp chí. Ngược lại, Xây dựng tạp chí” tại trường ĐHKHXH&NV những người được đào tạo bài bản và có kỹ Hà Nội) thành một ngành học độc lập, cung cấp năng tổ chức hoạt động và xây dựng tòa soạn nhân lực chuyên nghiệp cho các tạp chí nói tạp chí lại không đáp ứng được yêu cầu về chung và các tạp chí nghiên cứu nói riêng. chuyên môn theo lĩnh vực hẹp. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi phải có Bởi vậy, cần có một giải pháp tổng thể về một dự án đầu tư và xây dựng đội ngũ nhân lực nhân lực cho các tòa soạn tạp chí nghiên cứu giảng dạy cũng như nguồn tuyển sinh. Đầu ra chuyên ngành. Phương án được đề xuất là tổ của chuyên ngành này sẽ bổ sung tích cực vào chức các khóa bồi dưỡng về tổ chức và hoạt động những nhược điểm mà hệ thống tạp chí nói tòa soạn cũng như tổ chức và xây dựng tạp chí chung và hệ thống tạp chí khoa học tại Việt cho đội ngũ có chuyên môn sâu tại các tạp chí. Nam nói riêng đang có. 2.6. Xây dựng chuyên ngành tổ chức và xây dựng tạp chí 3. Kết luận Việt Nam hiện có hơn 9 cơ sở đào tạo về Mặc dù đóng vai trò vô cùng quan trọng báo chí truyền thông chính thống (Học viện trong việc phát triển sự nghiệp khoa học công Báo chí Tuyền truyền, Đại học KHXH&NV Hà nghệ cũng như tham gia vào quá trình phản Nội, Đại học KHXH&NV TPHCM, Đại học biện, giám sát xã hội bằng khoa học, nhưng Khoa học Huế, Đại học Văn hóa Nghệ thuật dưới góc độ tiếp cận của báo chí học, các tạp Quân đội, Đại học Thái Nguyên, Đại học Vinh, chí khoa học ở Việt Nam về cơ bản vẫn đang Đại học Đà Nẵng, Đại học Văn hóa Hà Nội ). thiếu và chưa đạt chuẩn về chất lượng. Hiện Trong 9 cơ sở đào tạo này, Học viện Báo chí nay, hệ thống tiêu chuẩn đánh giá ISI và Scopus tuyên truyền chọn hình thức đào tạo theo là hệ thống tiêu chuẩn phổ biến và được công chuyên ngành hẹp. Tuy nhiên, sự phân chia này nhận trên toàn thế giới. Tuy nhiên, sau rất nhiều chỉ theo loại hình báo chí. Do vậy, mảng đào năm cố gắng, năm 2014, hệ thống tạp chí khoa tạo chuyên sâu về Tổ chức xây dựng tạp chí học ở Việt Nam mới có 2 tạp chí được cấp chỉ chưa có đơn vị nào chú trọng. số Scopus là tạp chí Nghiên cứu Nano và tạp Tại Khoa Báo chí và Truyền thông, trường chí Toán học. ĐHKHXH&NV Hà Nội có tổ chức giảng dạy Để hướng tới một mục tiêu tiêu chuẩn quốc môn học “Tổ chức và xây dựng tạp chí” cho tất tế, hệ thống tạp chí khoa học Việt Nam cần phải cả các hệ đào tạo đại học của khoa. Tuy nhiên, thay đổi nhiều vấn đề cả về nội dung, hình thức, nội dung này cũng chỉ dừng lại ở mức độ một chất lượng, quy mô và quy trình thực hiện. chuyên đề với 2 tín chỉ học, chưa giải quyết được Những tham góp của bài viết này, tuy chưa hẳn
  10. 38 P.V. Kiền / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 2 (2015) 29-38 là toàn diện nhưng sẽ là một góc nhìn nên được [3] Tạp chí Thông tin tài chính năm 2010 các tạp chí khoa học chú ý. [4] Tạp chí Tạp chí Cộng sản năm 2012 [5] Tạp chí Lý luận Chính trị năm 2010 [6] Tạp chí Khoa giáo năm 2008 [7] Tạp chí Kinh tế và Chính trị thế giới năm 2009 và Tài liệu tham khảo 2014 [8] Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN (2010), Danh [1] Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế năm 2012 mục các công trình khoa học xã hội và nhân văn, [2] Tạp chí Kinh tế và dự báo năm 2014 NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Problems of Scientific and Social Criticism in Vietnamese Scientific Journals Today Phan Văn Kiền Faculty of Journalism and Communication, VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam Abstract: The system of science journals in Vietnam is quite abundant in terms of quantity, contents and frequency. However, behind this seemingly strong development, this system still exposes many problems which requires comprehensive solutions. Begining with a systematic and critical overview of the system, this paper studies in particular some cases to point out its actual situation, then proposes a potential solutions to change and develop of the Vietnamese scientific journals. In this paper, the problems are approached from the viewpoint of journalism studies. Keywords: Journal publishing, magazine publishing, actual situation of the Vietnamese journals, journal of science.