Lý thuyết của John Holland trong định hướng chọn nghề theo năng lực và năng khiếu

pdf 9 trang phuongnguyen 50
Bạn đang xem tài liệu "Lý thuyết của John Holland trong định hướng chọn nghề theo năng lực và năng khiếu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfly_thuyet_cua_john_holland_trong_dinh_huong_chon_nghe_theo_n.pdf

Nội dung text: Lý thuyết của John Holland trong định hướng chọn nghề theo năng lực và năng khiếu

  1. LÝ THUYẾT CỦA JOHN HOLLAND TRONG ĐỊNH HƯỚNG CHỌN NGHỀ THEO NĂNG LỰC VÀ NĂNG KHIẾU Diệp Mỹ Thanh1,a 1.Viện Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM, a.mythanhdiepdl@gmail.com TÓM TẮT Sự ổn định nghề nghiệp và giá trị bền vững trong chọn nghề chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp bởi năng lực nghề nghiệp của người lao động, sự hài lòng công việc và các yếu tố xã hội khác. Định hướng nghề nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố,trong đó năng lực và năng khiếu của mỗi cá nhân đóng một vai trò rất quan trọng. Thái độ đối với công việc của những người trẻ được hình thành một cách bền vững trong đó có sự kết hợp giữa hai yếu tố trên. Nền tảng năng lực bản thân cung cấp các cơ sở để cá nhân lập kế hoạch nghề nghiệp, tự đưa ra quyết định và phát triển nghề nghiệp của bản thân. Trong việc lựa chọn nghề, một phần không nhỏ người học chọn ngành nghề chưa phù hợp với năng lực. Một số ngành học về nghệ thuật phải dựa vào năng khiếu, nhưng phần lớn các ngành nghề khác thường không nhận được sự quan tâm của người học trong vấn đề năng lực và năng khiếu. Việc định hướng nghề nghiệp trên cơ sở đánh giá năng lực và năng khiếu của người học thậm chí đối với người đang học là rất cần thiết. Điều này giúp người học chọn hướng đi phù hợp cho mình, đồng thời tránh gây lãng phí cho xã hội trong công tác đàotạo nghề. Từ khóa: Hướng nghiệp, năng khiếu, năng lực, chọn nghề. ABSTRACT The stable career and sustainable value in choosing a career is influenced directly or indirectly by employees’s ability, job satisfaction and other social factors. Vocational orientation is influenced by many factors, including the individual ability and potential aptitude have an important role. Attitude of young peoples towards work in which is formed sustainably base on the combination of two that factors. Basic of individual ability provides the basis, thenceforth, learner’s career plan which is decided and developed. In career choice, most of the students choose career over their ability. Some the arts must base on aptitude, but most of careers are not often interested about ability and aptitude issues. Vocational orientation based on the basis assessment aptitude and ability of apprentices
  2. which are very necessary. This help apprentices to choose the path of career appropriately, at the same time avoiding wasteful society for training. Keywords: Vocational orientation,aptitude, ability, career choice. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Một số nghiên cứu trước đây cho thấy xu hướng chọn nghề của người học hiện nay chủ yếu dựa vào sự định hướng nghề nghiệp từ cha mẹ, người thân hay lựa chọn nghề theo hình thức cha truyền con nối, truyền miệng, theo tâm lý đám đông Hầu hết người học quan tâm chủ yếu đến các ngành/nghề có sức hút theo mỗi giai đoạn như: kinh tế, ngân hàng, công nghệ thông tin , những ngành nghề có thu nhập cao, môi trường làm việc tốt, nhiều cơ hội thăng tiến, v.v Trong việc lựa chọn nghề, phần lớn người học gần như không có sự quan tâm đến năng khiếu trong con người họ để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực bản thân. Thực tế, nhiều người bỏ học giữa chừng vì chán nản và không có sự yêu thích với ngành nghề mình chọn. Đặc biệt, trong các trường nghề, nhiều người học sau khi tốt nghiệp đã lâm vào tình trạng thất nghiệp hoặc làm những công việc trái nghề một cách không mong muốn (ngoại trừ chỉ một số ít thành công với điều này). Khi công việc không phù hợp với năng khiếu vốn có của bản thân, cá nhân đó khó có thể phát huy được hết năng lực của mình, không thể vận dụng một cách linh hoạt những gì đã học hoặc sáng tạo những cái mới trong lĩnh vực nghề nghiệp của họ, làm giảm năng suất và hiệu quả công việc Việc chọn sai ngành nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chính bản thân người học mà còn ảnh hưởng lâu dài đếnsự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do người học đã lựa chọn ngành nghề không phù hợp với năng lực và năng khiếu, sự thay đổi về sở thích trong từng giai đoạn của cuộc đời là yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định nghề nghiệp trong tương lai. Vậy làm thế nào để tạo ra giá trị bền vững trong định hướng chọn nghề và cần phải dựa trên những yếu tố nào để mang lại sự ổn định nghề nghiệp? Việc giúp cho người học chọn con đường phù hợp và tạo lập giá trị bền vững trong nghề nghiệp dựa trên cơ sở đánh giá năng lực và năng khiếu là một việc làm cần thiết và cấp bách. Định hướng nghề nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp người học có sự lựa chọn con đường tương lai một cách phù hợp và đúng đắn.
  3. 2. LÝ THUYẾT NHÓM TÍNH CÁCH NGHỀ NGHIỆP CỦA JOHN HOLLAND 2.1 Sơ lược các nghiên cứu về hướng nghiệp Qua quá trình nghiên cứu các kết quả về giáo dục hướng nghiệp các nước trên thế giới và ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề năng lực và năng khiếu trong định hướng nghề nghiệp như: Rene V. Dawis quan tâm đến sự tương tác giữa con người và môi trường làm việc để mang lại hiệu quả nghề nghiệp [1, tr.428-435]. Linda.S Gottfredson không nhấn mạnh vai trò của môi trường, sở thích hay năng khiếu đặc biệt, bà quan tâm đến sự khác biệt về giới tính trong việc lựa chọn và phát triển nghề nghiệp [3]. Donald Super quan tâm đến hướng nghiệp qua các giai đoạn thay đổi trong cuộc sống con người và ảnh hưởng của những thay đổi đó đến quyết định lựa chọn nghề nghiệp của cá nhân [6, tr.13- 24]. John D. Krumboltz nhấn mạnh vai trò của hoàn cảnh xã hội, văn hóa, kinh tế ở nơi sinh sống, kinh nghiệm học tập của mỗi cá nhân sẽ ảnh hưởng đến suy nghĩ và quyết định trong việc lựa chọn nghề [7, tr.347-360]. Duane Brown đề cập đến năng khiếu trong học tập và năng khiếu đặc biệt như một yếu tố quyết định sự thành công trong việc lựa chọn và phát triển nghề nghiệp. Ông đề cao vai trò của giá trị công việc và giá trị văn hóa là yếu tố chính trong việc lựa chọn nghề [1]. Theo Mark L. Savickas mỗi cá nhân có khả năng khác nhau, có đặc điểm nhân cách và đặc điểm nghề nghiệp cũng khác nhau được hình thành bởi các quá trình xã hội. Lý thuyết của Mark L. Savickas cũng đề cập đến năng khiếu bẩm sinh trong phát triển quá trình tự nhận thức [7]. Robert W. Lent nghiên cứu về sở thích trong lựa chọn và phát triển nghề nghiệp, nghiên cứu các mức độ thành công và sự ổn định của nghề. Trong đó, sở thích cùng với sự quan tâm về nghề nghiệp là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn nghề của mỗi cá nhân [2]. Nhóm tác giả Phạm Tất Dong, Nguyễn Thế Trường, Hoàng Kiện đưa ra “Miền chọn nghề tối ưu” là ựs kết hợp từ 3 yếu tố hứng thú – năng lực – yêu cầu xã hội [10]. Tác giả Đặng Danh Ánh quan niệm để chọn nghề cần phải quan tâm đến các yêu cầu nghề nghiệp, yêu cầu của thị trường lao động, hứng thú và năng lực của học sinh [8]. Trong các lý thuyết về hướng nghiệp, lý thuyết của John Holland là lý thuyết duy nhất sử dụng một hệ thống đánh giá toàn diện và tích hợp dựa trên nghiên cứu thực nghiệm, thông qua việc kiểm tra và phân tích hơn bất kỳ mô hình phát triển nghề nghiệp nào khác. Ông phân chia tính cách con người và môi trường làm việc thành sáu nhóm dựa vào sở thích, tính cách và hành vi con người, nhấn mạnh sự tương tác giữa con người với môi trường làm việc giúp họ rèn luyện kỹ năng, thể hiện thái độ và giá trị của họ để tìm được công việc phù hợp [5]
  4. 2.2 Lý thuyết nhóm tính cách nghề nghiệp của John Holland Lý thuyết mật mã Holland (Holland codes) được phát triển bởi nhà tâm lí học John Holland (1919-2008). Lý thuyết của John Holland (1959) phân chia tính cách con người và môi trường làm việc thành 6 nhóm dựa vào tính cách, sở thích và hành vi con người, chuyển đổi tâm lý khác biệt của mỗi cá nhân vào một trong sáu loại tính cách nghề nghiệp thể hiện ở mô hình lục giác RIASEC. Ông đánh giá tính cách cá nhân mỗi người và môi trường làm việc một cách chặt chẽ và rõ ràng xem họ phù hợp với loại tính cách nghề nghiệp nào [7]. Biểu đồ 1: RIASEC Theo TS. John Holland bất kì cá nhân nào cũng thuộc vào một trong sáu kiểu người đặc trưng sau đây, viết tắt là RIASEC [12]. 1. Nhóm kỹ thuật (Realistic): Có khả năng về kỹ thuật, công nghệ, hệ thống; thích sử dụng các thiết bị, máy móc, công cụ để làm việc; thích làm các công việc ngoài trời. 2. Nhóm nghiên cứu (Investigative): Có khả năng vận dụng trí tuệ, óc quan sát, khám phá, phân tích, đánh giá để tìm giải pháp giải quyết các vấn đề. 3. Nhóm nghệ thuật (Artistic): Có khả năng về nghệ thuật, khả năng về trực giác, khả năng tưởng tượng cao, thích làm việc trong các môi trường mang tính ngẫu hứng, không khuôn mẫu, có khả năng vận dụng tình cảm, trực giác và óc tưởng tượng phong phú nhằm sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật bằng phong cách đầy ngẫu hứng. 4. Nhóm xã hội (Social): Có khả năng sử dụng tốt ngôn ngữ, giảng giải, thích làm những việc như giảng dạy, cung cấp thông tin, sự chăm sóc, giúp đỡ, hoặc huấn luyện cho người khác. Họ thích làm những việc cần vận dụng các mối quan hệ của những con người. 5. Nhóm quản lí (Enterprise): Thích hợp với công việc đòi hỏi năng lượng và nhiệt tình cao, họ có khả năng thuyết phục và quản lý, có khả năng về kinh doanh, mạnh bạo, dám nghĩ dám làm, có thể gây ảnh hưởng, thuyết phục người khác, có khả năng quản lý.
  5. 6. Nhóm nghiệp vụ (Conventional): Thích hợp với những công việc truyền thống, ổn định, có khả năng về số học, thích thực hiện những công việc chi tiết, thích làm việc với những số liệu, theo chỉ dẫn của người khác hoặc các công việc văn phòng. Những người thuộc cùng một kiểu người có sở thích tương đối giống nhau. Ông cũng phân chia 6 loại môi trường tương ứng với 6 kiểu người nói trên. Kiểu người nào chiếm đa số thì môi trường cũng tương ứng với kiểu người ấy [14]. Holland chú trọng đến hành vi con người được quyết định bởi sự tương tác giữa các đặc điểm cá nhân và môi trường. Theo ông, đặc điểm tính cách của mỗi con người cần phải được xem xét trong sự thống nhất với môi trường nghề nghiệp, môi trường làm việc sẽ phù hợp với những kiểu tính cách nhất định và cá nhân mỗi người luôn có xu hướng tìm kiếm môi trường làm việc mà ở đó họ thể hiện được các đặc điểm nhân cách cá nhân. Mỗi cá nhân đều thể hiện được những kĩ năng, thái độ và giá trịcủa mình một cách tối ưu nhất khi cá nhân đó tìm được sự phù hợp giữa tính cách với môi trường làm việc. Nếu một người chọn được công việc phù hợp với tính cách của họ, thì họ sẽ dễ dàng phát triển và thành công trong nghề nghiệp. Nói cách khác những người làm việc trong môi trường tương tự như tính cách của mình hầu hết sẽ thành công và hài lòng với công việc. Trong thực tế, tính cách của nhiều người không nằm gọn trong một nhóm tính cách mà thường là sự kết hợp giao thoa của hai hay nhiều nhóm nhóm tính cách nhất định. Nhằm giúp cá nhân tìm được sự phù hợp nghề nghiệp với sở thích và khả năng của bản thân để chọn được ngành nghề phù hợp nhất, TS John Holland đã nghiên cứu sự tương quan giữa tính cách con người và môi trường làm việc, và phát triển thành bộ mã Holland Codes. Ông đã đưa ra bộ trắc nghiệm sở thích và kỹ năng giúp cá nhân biết được mình thuộc nhóm tính cách nào trong sáu kiểu nhóm tính cách nghề nghiệp mà ông đã xây dựng. Ông đã đưa ra chi tiết đặc điểm công việc của từng nhóm tính cách cụ thể, phân tích những yêu cầu nghề nghiệp cần có giúp những cá nhân thuộc nhóm tính cách khác nhau có sự trang bị tốt cho bản thân, đồng thời từng bước làm tăng khả năng thành công trong lĩnh vực nghề nghiệp đã chọn. Phân tích môi trường làm việc đối với từng nhóm kiểu người khác nhau, gợi ý các ngành nghề đào tạo phù hợp với từng nhóm tính cách đặc trưng. Tính cách của con người và môi trường lao động có liên quan chặt chẽ với nhau và cá nhân sẽ đạt được sự thành công khi có sự phù hợp giữa tính cách với môi trường làm việc. Ngược lại, môi trường làm việc giúp họ rèn luyện kỹ năng, thái độ phù hợp với công việc. Tuy không phải là lý thuyết đầu tiên về tham vấn hướng nghiệp nhưng lý thuyết của John Holland có sức tồn tại lâu bền nhất và giữ vai trò chính yếu trong tâm lý họcứng dụng [15]. Lý thuyết của John Holland có thể áp dụng vào việc định hướng nghề nghiệp cho người học theo hướng phân chia các nhóm nghề nghiệp theo tâm lý học hiện đại [13].
  6. 3. GIÁ TRỊ ỔN ĐỊNH TRONG ĐỊNH HƯỚNG CHỌN NGHỀ THEO NĂNGLỰCVÀ NĂNG KHIẾU Các nghiên cứu về hướng nghiệp nhấn mạnh tầm quan trọng trong mối tương quan giữa con người và môi trường nghề nghiệp, hướng cho cá nhân lựa chọn nghề dựa trên sự phù hợp giữa đặc điểm nhân cách, sở thích và yêu cầu công việc. Các lý thuyết nêu ra vấn đề về sở thích trong công tác hướng nghiệp nhưng chưa nghiên cứu sâu về tính bền vững của sở thích khi chọn nghề và mối tương quan giữa sở thích ban đầu đối với sự ổn định nghề nghiệp trong tương lai, bên cạnh đó các yếu tố năng lực, sở thích và những đặc điểm tính cách của con người có sự thay đổi khác nhau trong từng giai đoạn của cuộc đời. Mô hình lý thuyết nhóm tính cách nghề nghiệp của Jonh Holland được ứng dụng rất rộng ở các nhóm nghề. Phương pháp hướng nghiệp qua Bộ mã Holland Codes với ưu điểm là có thể áp dụng cho số lượng lớn đối tượng cần được hướng nghiệp. Tuy nhiên, với những ngành nghề đòi hỏi tính thẩm mỹ và tính sáng tạo như hội họa, điêu khắc, nghệ thuật thì năng khiếu lại là yếu tố quyết định đến sự thành công trong nghề nghiệp. Theo GS Hoàng Phê: N“ ăng khiếu là những phẩm chất sẵn có giúp con người hoàn thành tốt một loạtcác hoạt động ngay khi chưa được học tập và rèn luyện trong hoạt động đó” [12]. Năng khiếu mang tính giá trị bền vững, được phát huy tối ưu nhất trong môi trường làm việc phù hợp, giúp cá nhân phát huy tối đa năng lực bản thân dẫn đến những thành công vượt trội trong lĩnh vực nghề nghiệp phù hợp. Năng lực Năng khiếu Sở thích Nhu cầu xã hội Miền chọn nghề tối ưu Ngoài ba yếu tố hình thành “miền chọn nghề tối ưu” là năng lực, hứng thú và nhu cầu xãhội [10] [11] thì năng khiếu cũng là một yếu tố quan trọng trong lựa chọn nghề nghiệp, đặc biệt làđối với những nhóm nghề chuyên biệt yêu cầu tính thẩm mĩ, nghệ thuật và khả năng sáng tạo. Như vậy, sự kết hợp giao thoa từ bốn yếu tố: năng lực – năng khiếu – sở thích – nhu cầu xã hội mang lại giá trị trong định hướng và lựa chọn nghề nghiệp, không chỉ giúp người học chọn được ngành nghề phù hợp với năng lực và năng khiếu của bản thân mà còn mang lại sự thành công trong lĩnh vực nghề nghiệp đã chọn.
  7. 4. KẾT LUẬN Mỗi cá nhân đều có những đặc điểm riêng biệt về tính cách, khả năng và sở thích. Khả năng đặc biệt (năng khiếu) của cá nhân là yếu tố giải thích tại sao nhiều người cùng tham gia vào một lĩnh vực nghề nghiệp, nhưng chỉ một con số nhỏ thành công và phát triển vượt trội. Như vậy, việc chọn nghề và công tác hướng nghiệp dựa trên cơ sở đánh giá năng lực và năng khiếu là rấtcần thiết và sẽ là xu hướng tất yếu. Cần có những nghiên cứu chuyên sâu trong mối tương quan giữa năng lực và năng khiếu, giữa tính ổn định nghề với việc chọn nghề dựa vào các yếu tố trên. Song song đó kết hợp việc giáo dục kỹ năng nhận thức, kỹ năng tự đánh giá năng lực ở người học, thái độ và hành vi chọn nghề chọn trường học của cá nhân theo chiều hướng tìm sự phù hợp giữa khả năng và mong muốn của cá nhân với các yêu cầu nghề nghiệp. Như vậy, một khi năng khiếu và năng lực phù hợp với môi trường làm việc tốt sẽ giúp người học sẽ dễ dàng thành công với nghề mà mình đãự l a chọn, mang lại giá trị bền vững và sự ổn định nghề nghiệp trong tương lai.
  8. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Duane Brown and Associates, “Career Choice and Development”, trang 467-471. John Wiley & Sons. 4th Edition, 2002 2. Steven D. Brown – Robert W. Lent, “Career Development and Counseling” Putting Theory and Research to Work, trang 101 -127. John Wiley & Sons, Inc. 2005. 3. Gottfredson, Linda S. “Circumscription and Compromise: A Developmental Theory of Occupational Aspirations.” Journal of Counseling Psychology (Monograph) 28. Trang 545-579. 1981. 4. Holland, J. L. “Journal of Counseling Psychology“, tập 6, trang 35–45. 1959. 5. Holland, J. H. Making vocational choices: “A theory of vocational personalities and work environments“ Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall. 3rd Edition.1997. 6. Barrie Hopson & John Hayes, “The theory and practice of vocational guidance a selected readings“, trang 13-24. Pergarmon Press, 3rd Edition. 1978. 7. W. Bruce Walsh, Mark L. Savickas, “Handbook of vocational psychology: theory, research, and practice“. Lawrence Erlbaum Associates, Inc. 3rd Edition. 2005 8. Đặng Danh Ánh. “Tư vấn chọn nghề cho học sinh phổ thông”, Tạp chí Giáo dục, số 121.2005 9. Đỗ Mạnh Cường (2011), “Năng lực thực hiện và dạy học tích hợp trong đào tạo nghề”, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục chuyên nghiệp 10. Phạm Tất Dong(CB) - Đặng Danh Ánh - Nguyễn Thế Trường - Trần Mai Thu - Nguyễn Dục Quang, “Hoạt động giáo dục hướng nghiệp lớp 10”, NXB Giáo Dục.2004. 11. Hồ Phụng Hoàng Phoenix, Trần Thị Thu, ”Kỹ năng tư vấn cá nhân về lựa chọn và phát triển nghề nghiệp”, VVOB – Giáo dục vì sự phát triển, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 12. Hoàng Phê chủ biên,”Từ điển tiếng Việt”, NXB Khoa học xã hội, 1988, trang 687, 899. 13. Nguyễn Ngọc Tài, “Xu hướng chọn nghề của học sinh tại TpHCM và các giải pháp giáo dục hướng nghiệp“, Sở KHCN TPHCM 2005. 14. Nguyễn Ngọc Tài, Hồ Phụng Hoàng Phoenix, “Tổ chức tư vấn hướng nghiệp và tư vấn tuyển sinh cho nhóm lớn học sinh cấp Trung học phổ thông“, NXB ĐH quốc gia Hà Nội. 15. Mai Thị Việt Thắng (2008), ”Các lý thuyết về tham vấn hướng nghiệp”, Tạp chí Tâm lý học số 7. Thông tin liên hệ: Tp. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 11 năm 2015 Họ tên tác giả: DIỆP MỸ THANH Giảng viên hướng dẫn Nơi công tác: Công ty TNHH TM Nhất Hương (Ký & ghi rõ họ tên) Địa chỉ liên hệ: 06 Nguyễn Thái Học, KPI, Phường Hiệp Phú, Quận 9, TP. HCM Điện thoại: 0937 952435 Email: mythanhdiepdl@gmail.com
  9. BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.