Luận văn Xây dựng phương pháp xác định lãi suất cho vay qua đánh giá tín dụng doanh nghiệp phù hợp với Ngân hàng thương mại Việt Nam

pdf 81 trang phuongnguyen 7950
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Xây dựng phương pháp xác định lãi suất cho vay qua đánh giá tín dụng doanh nghiệp phù hợp với Ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_xay_dung_phuong_phap_xac_dinh_lai_suat_cho_vay_qua.pdf

Nội dung text: Luận văn Xây dựng phương pháp xác định lãi suất cho vay qua đánh giá tín dụng doanh nghiệp phù hợp với Ngân hàng thương mại Việt Nam

  1. Trang 1 MỤC LỤC W—X Trang phụ bìa Lời cam đoan Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng, đồ thị Mục lục PHẦN MỞ ĐẦU 3 CHƯƠNG 1: LÃI SUẤT CHO VAY VÀ VÀI TRÒ CỦA LÃI SUẤT CHO VAY ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM 6 1.1 Hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nền kinh tế thị trường ở VN: 6 1.1.1 Định nghĩa NHTM: 6 1.1.2 Các chức năng truyền thống của NHTM: 6 1.1.3 Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM: 6 1.1.4 Lợi nhuận của NHTM: 8 1.2 Lãi suất cho vay và vai trò của lãi suất cho vay đối với hoạt động kinh doanh của NHTM 8 1.2.1 Bản chất của lãi suất: 8 1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất cho vay: 11 1.2.3 Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường: 12 1.3 Ý nghĩa của việc đánh giá tín dụng doanh nghiệp vay vốn 14 1.3.1 Bản chất của việc đánh giá tín dụng đối với doanh nghiệp vay vốn 14 1.3.2 Phương pháp đánh giá 14 1.3.3 Ý nghĩa của việc đánh giá 14 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ XÁC ĐỊNH LÃI SUẤT CHO VAY TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 16 2.1. Nghiệp vụ tín dụng một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM 16 2.1.1. Sự hình thành và phát triễn hệ thống NHTM Việt Nam qua các thời kỳ 16 2.1.2 Tình hình hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam: 21 2.2 Thực trạng về việc xác định lãi suất cho vay tại các NHTM Việt Nam: 24 2.2.1 Giai đoạn từ năm 1988 đến tháng 6/1992: 24 2.2.2 Giai đoạn từ tháng 6/1992 đến tháng 7/2000: 25 2.2.3 Giai đoạn từ tháng 7/2000 đến tháng 5/2002. 27 2.3.4 Giai đoạn từ tháng 5/2002 đến nay. 28 2.3 Những kết quả đạt được và những tồn tại, thách thức trong vấn đề xác định lãi suất cho vay tại các NHTM Việt Nam: 30
  2. Trang 2 2.3.1 Kết quả đạt được: 30 2.3.2 Những tồn tại, thách thức: 30 Nguyên nhân tồn tại: 31 CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LÃI SUẤT CHO VAY QUA ĐÁNH GIÁ TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP PHÙ HỢP VỚI NHTM VIỆT NAM 33 3.1 Mục tiêu và quan điểm xây dựng phương pháp xác định lãi suất cho vay qua đánh giá tín dụng DN: 33 3.2 Khách hàng và phân loại khách hàng vay vốn là doanh nghiệp: 34 3.2.1 Khái niệm khách hàng doanh nghiệp: 34 3.2.2 Phân loại khách hàng DN: 35 3.3 Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá: 37 3.3.1 Chỉ tiêu đánh giá DN: 37 3.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro khoản vay: 44 3.4 Các thang điểm đánh giá: 50 3.4.1 Điểm chỉ tiêu tài chính và tiêu chuẩn đánh giá: 50 3.4.2 Điểm chỉ tiêu phi tài chính và tiêu chuẩn đánh giá: 51 3.4.3 Điểm chỉ tiêu về rủi ro khoản vay và tiêu chuẩn đánh giá: 52 3.4.4 Trọng số của từng chỉ tiêu và điểm tổng hợp: 53 3.5 Xây dựng phương pháp xếp hạng DN, xếp loại loại khoản vay và xác định lãi suất cho vay: 53 3.5.1 Xếp hạng DN theo chỉ tiêu đánh giá DN: 53 3.5.2 Xếp loại khoản vay theo chỉ tiêu đánh giá rủi ro khoản vay: 54 3.5.3 Công thức xác định lãi suất cho vay: 56 3.5.4 Xác định lãi suất cho vay đối với DN theo mô hình phân tích rủi ro tín dụng: .57 3.5.5 Các chính sách lãi suất cho vay của NHTM: 58 PHẦN KẾT LUẬN 62 Tài liệu tham khảo Phụ lục
  3. Trang 3 PHẦN MỞ ĐẦU " # 1/ Tính cấp thiết của đề tài: Trong nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây vai trò của lãi suất ngân hàng rất mờ nhạt, lãi suất thường được đưa ra bởi các quyết định mang tính chất chủ quan. Sau khi chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường, NHNN đã từng bước sử dụng và điều hành công cụ lãi suất ngày một phù hợp, chuyển từ kiểm soát lãi suất trực tiếp sang cơ chế lãi suất thỏa thuận. Cơ chế tự do hóa lãi suất làm cho lãi suất thực sự là giá cả tiền tệ hình thành chủ yếu thông qua quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Lãi suất là yếu tố quan trọng, tác động từ yếu tố "đầu vào" đến yếu tố "đầu ra" trong hoạt động của NHTM, là công cụ quan trọng để nâng cao tính cạnh tranh theo đặc điểm riêng có của từng NHTM. Việc tự do hóa lãi suất giúp NHTM nâng cao tính chủ động trong việc định giá sản phẩm của mình, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động cũng đồng thời đòi hỏi NHTM phải nâng cao trình độ quản lý vì tính phức tạp và biến động thường xuyên của lãi suất. Thực tế hiện nay, việc quản lý lãi suất tại NHTM còn bất cập do nhiều NHTM còn thiếu quan tâm đến việc xây dựng một quy trình quản trị lãi suất thích hợp, trong đó đặc biệt là việc xác định lãi suất cho vay phù hợp với từng nhóm khách hàng thông qua đánh giá tín dụng. Nguyên nhân là do môi trường pháp lý về lĩnh vực tín dụng ngân hàng đang trong quá trình hoàn thiện cộng với tính chất phức tạp và nhạy cảm của lãi suất. Với những lý do và thực tế như trên, việc nghiên cứu để đưa ra phương pháp xác định lãi suất cho vay tại các NHTM một cách phù hợp và khoa học là vô cùng cấp thiết. Do đó, tác giả chọn đề tài “Xây dựng phương pháp xác định lãi suất cho vay qua đánh giá tín dụng doanh nghiệp phù hợp với Ngân hàng thương mại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
  4. Trang 4 2. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu: 2.1. Mục đích: Trên cơ sở lý luận về lãi suất, phương pháp xác định lãi suất cho vay và thực tiễn hoạt động tại các NHTM để đưa ra mô hình xác định lãi suất cho vay phù hợp đối với từng nhóm khách hàng tương ứng với từng khoản vay cụ thể. Qua đó, NHTM có thể tối đa hóa thu nhập, giảm thiểu rủi ro lãi suất và phục vụ một cách linh hoạt, đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng. 2.2. Ý nghĩa: – Đối với Nhà nước: Kết quả nghiên cứu của đề tài là một tư liệu để Nhà nước hoàn thiện hơn các chính sách, các quy định pháp luật về hoạt động tín dụng, về lãi suất cho vay của các NHTM. – Đối với các NHTM: Giúp các NHTM Việt Nam nhìn lại những mặt còn tồn tại trong việc xác định lãi suất cho vay của mình. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống sẽ giúp các bộ phận liên quan trong NHTM hiểu rõ về bản chất, các nhân tố cấu thành lãi suất cho vay cũng như phương pháp xác định lãi suất cho vay một cách hợp lý, khoa học để vận dụng trong thực tiễn. – Đối với các nghiên cứu tiếp theo: Kết quả của đề tài góp phần tạo thêm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về quản trị lãi suất trong hoạt động kinh doanh NHTM. 3. Phạm vi nghiên cứu: Lấy chính sách lãi suất cho vay của hệ thống NHTM, các cơ sở lý luận về lãi suất làm tiền đề và các khoản cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp làm phạm vi nghiên cứu. 4. Phương pháp luận nghiên cứu: Dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và các lý thuyết về lãi suất làm phương pháp nghiên cứu. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng tại các NHTM, thông qua phân tích đánh giá doanh nghiệp và khoản vay để đưa ra mô hình xác
  5. Trang 5 định lãi suất vay phù hợp và mang tính ứng dụng thực tiễn cao trong hoạt động của các NHTM Việt Nam. 5. Kết cấu của luận văn: Với mục tiêu và phương pháp luận trình bày ở trên, luận văn gồm 61 trang (chưa tính phần phụ lục), có 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận, trong đó phần nội dung được chia làm 03 chương lớn: A. Phần mở đầu – giới thiệu ý nghĩa, mục đích, phạm vi cũng như phương pháp nghiên cứu và cấu trúc đề tài. B. Phần nội dung – bao gồm 3 chương: Chương 1: Lãi suất cho vay và vay trò của lãi suất cho vay đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng và xác định lãi suất cho vay tại các NHTM Việt Nam. Chương 3: Xây dựng phương pháp xác định lãi suất cho vay qua đánh giá tín dụng doanh nghiệp phù hợp với NHTM Việt Nam. C. Phần kết luận – một số vấn đề rút ra sau quá trình nghiên cứu và điểm mới của đề tài.
  6. Trang 6 CHƯƠNG 1: LÃI SUẤT CHO VAY VÀ VÀI TRÒ CỦA LÃI SUẤT CHO VAY ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM 1.1 Hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nền kinh tế thị trường ở VN: 1.1.1 Định nghĩa NHTM: Theo luật tín dụng do Quốc hội khoá X thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997, định nghĩa: Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Luật này còn định nghĩa: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. 1.1.2 Các chức năng truyền thống của NHTM: NHTM có nhiều chức năng, tuy nhiên có thể tóm tắt ba chức năng chính như sau: - Chức năng trung gian tín dụng, tức làm trung gian giữa người thừa vốn và người cần vốn. - Chức năng trung gian thanh toán. - Chức năng tạo tiền, tức là chức năng sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ cho nền kinh tế. 1.1.3 Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM: 1.1.3.1 Nghiệp vụ huy động vốn: Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau 1. - Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các hình thức khác. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn. 1 Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 của Chính Phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM.
  7. Trang 7 - Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài. - Vay vốn ngắn hạn của Ngân hảng Nhà nước. - Các hình thực huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. 1.1.3.2 Nghiệp vụ tín dụng. - Cho vay: Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống. Cho vay trung hạn, dài hạn để phục vụ các dự án đầu tư. - Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng và các hình thức bảo lãnh khác bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. - Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức cá nhân và có thể tại chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác. - Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. 1.1.3.3 Nghiệp vụ thanh toán và ngân quỹ: Nghiệp vụ thanh toán và ngân quỹ bao gồm các hoạt động chính như sau: - Cung cấp các phương tiện thanh toán. - Thực hiện các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ở trong nước và ngoài nước đối với khách hàng. - Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ. - Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước 1.1.3.4 Các nghiệp vụ khác: Ngoài các nghiệp vụ chính như trên, ngân hàng thương mại còn thực hiện các nghiệp vụ khác như:
  8. Trang 8 - Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ - Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán - Nghiệp vụ ngân hàng điện tử. - Nghiệp vụ cho thuê tài chính - Nghiệp vụ thanh toán quốc tế 1.1.4 Lợi nhuận của NHTM: Từ những nghiệp vụ của NHTM, chúng ta có thể thấy rằng lợi nhuận của NHTM được mang lại từ nhiều nguồn. Có thể từ cho vay, thu từ những dịch vụ hay cũng có thể là từ kinh doanh chứng khoán, góp vốn mua những doanh nghiệp khác Đối với các ngân hàng nước ngoài, hoạt động dịch vụ của họ rất mạnh chính vì lẽ đó nguồn thu từ dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động dịch vụ họ thu hút được nhiều nguồn vốn có giá rẽ trong tài khoản của khách hàng tạo điều kiện cho vay với lãi suất thấp, đây cũng chính là điểm mạnh của các NHTM nước ngoài. Trong khi đó, nguồn thu chính của các NHTM Việt Nam vẫn là từ huy động và cho vay. Theo tính toán nguồn thu từ tín dụng chiếm từ 80 – 90% tổng nguồn thu của các NHTM. Qua đó, có thể thấy được tầm quan trọng của lãi suất cho vay trong thời gian hiện nay đối với kết quả hoạt động của các ngân hàng. 1.2 Lãi suất cho vay và vai trò của lãi suất cho vay đối với hoạt động kinh doanh của NHTM 1.2.1 Bản chất của lãi suất: Lãi suất là một phạm trù kinh tế mang tính chất tổng hợp và đa dạng. Lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, bên cạnh đó lãi suất tác động đến sự phát triển của nền kinh tế nên nó mang tính chất tổng hợp. Mặt khác, lãi suất mang tính đa dạng do xuất phát từ sự đa dạng của các loại tín dụng khác nhau trong nền kinh tế thị trường như: lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu; lãi suất cầm cố giấy tờ có giá; lãi suất trái khoán công ty; lãi suất trái phiếu kho bạc; lãi suất huy động tiết kiệm; lãi
  9. Trang 9 suất cho vay với những cách thức đo lường khác nhau. Lãi suất là một phạm trù giá cả, sự biến động của lãi suất chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Lãi suất hội tụ nhiều mối quan hệ, các mâu thuẫn liên quan trực tiếp đến lợi ích vật chất trong xã hội. Nhà kinh tế học người Pháp A Poial khẳng định "Lãi suất là công cụ tích cực trong phát triển kinh tế và đồng thời cũng là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng" 2. Khi bàn về bản chất của lãi suất, người ta thường đề cập đến quan niệm của Mác: Thông qua hình thức biểu hiện, lãi suất là giá cả của vốn cho vay như một loại hàng hóa, giá cả của hàng hóa biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa còn giá cả của vốn cho vay biểu hiện trực tiếp bằng lãi suất. Như vậy, lợi tức tín dụng là một phần của giá trị thặng dư mà nhà tư bản sản xuất phân chia cho nhà tư bản tài chính dưới hình thức giá cả vốn cho vay nhằm chuyển dịch vốn tiền tệ sang hàng hóa trong thời gian cho vay. Như là một hình thái đặc biệt của lợi nhuận, lợi tức tín dụng có một độ lớn nào đó và độ lớn này được biểu hiện thông qua tỷ lệ % mà người ta quen gọi là lãi suất. Lãi suất được hình thành từ tỷ suất lợi nhuận của nhà sản xuất và trong mối quan hệ tỷ lệ với sự phân chia tổng số lợi nhuận giữa người vay và người cho vay. Vì vậy lãi suất có thể mở rộng đến một giới hạn tối đa gần bằng với tỷ suất lợi nhuận bình quân của nhà sản xuất hoặc đến một giới hạn tối thiểu mà nhà tư bản cho vay có thể chấp nhận. Nguồn gốc của lãi suất là giá trị thặng dư, lãi suất là giá trị của quyền sử dụng vốn. Theo các nhà kinh tế học hiện đại trên quan điểm kinh tế ứng dụng thì lãi suất là giá mua và giá bán quyền sử dụng vốn, như lãi suất tiền gởi tiết kiệm chính là phần thưởng cho sự tiết chế tiêu dùng trong hiện tại để có một sự tiêu dùng lớn hơn trong tương lai. Quan niệm này xuất phát từ đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính hoàn trả, dù người đi vay trong hoạt động có tạo được giá trị thặng dư hay không thì việc trả nợ gốc và lãi vay là trách nhiệm của người đi vay. Khái niệm này có ý nghĩa về 2 Ngân hàng thương mại-GS.TS. Lê Văn Tư
  10. Trang 10 mặt kinh tế hết sức quan trọng, nó bổ sung về mặt lý luận cho khái niệm về lãi suất của Mác trong điều kiện hiện nay. Theo quan điểm của P.Samuelson và David Begg 3 thì "Lãi suất là giá cả của việc sử dụng một số tiền vay trong một thời gian nhất định". Theo quan điểm của nhà kinh tế học David S.Kidwell 4 thì "Lãi suất là giá cả của sự thuê tiền, là giá cả của sự vay tiền cho quyền sử dụng sức mua và thường được biểu hiện bằng một tỷ lệ % của số tiền vay". Tuy nhiên, quan niệm coi lãi suất chính là một phần thưởng dành cho những ai biết tiết chế tiêu dùng trong hiện tại để kỳ vọng có được một sự tiêu dùng lớn hơn trong tương lai không hẳn chính xác hoàn toàn. Không phải tất cả hành vi tiết chế tiêu dùng hiện tại đều có thể có được tiêu dùng lớn hơn trong tương lai. Bởi vì khoảng thời gian giữa tiết kiệm ở hiện tại và tiêu dùng trong tương lai bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, có thể làm biến dạng hoặc triệt tiêu hoàn toàn khoản chênh lệch dương này ví dụ như lạm phát làm giảm sức mua của tiền tệ, rủi ro về khả năng hoàn trả Trong quan hệ vay vốn: lãi suất đối với người cho vay là mức lãi suất mà người cho vay đồng ý để giao quyền sử dụng vốn cho người vay; lãi suất đối với người đi vay là mức lãi suất mà người đi vay sẵn lòng trả cho người cho vay để được quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định hay còn gọi là chi phí sử dụng vốn. Có 2 cách diễn giải như sau: - Lợi tức hay số tiền phải trả (interest) là chi phí biểu hiện bằng số tuyệt đối. Ví dụ như số tiền cho vay là là 500 triệu đồng, thời hạn cho vay là 1 năm và số tiền lãi phải trả là 60 triệu đồng. - Lãi suất (interest rate) là chi phí phải trả thể hiện theo tỷ lệ phần trăm (%), đây là quan hệ giữa tiền lãi phải trả, số tiền cho vay và thời hạn cho vay. Ví dụ trên cho thấy lãi suất cho vay là 0,12 hay 12%/năm, lãi suất là tỷ lệ giữa tổng số tiền lãi thu được so với tổng số vốn đã cho vay trong một thời gian nhất định. 3 Kinh tế học 1992-Nhà xuất bản giáo dục Hà nội 4 Financial Institutions Market and money, the Dryden Press 1997
  11. Trang 11 Lãi suất được thể hiện trên thị trường là lãi suất danh nghĩa, trong khi đó lãi suất thực là lãi suất được điều chỉnh lại đúng theo những thay đổi dự tính về giá. Theo Fisher thì: lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát. Như vậy, lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Việc phân biệt lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng vì lãi suất thực phản ảnh chi phí thực của việc vay tiền. CSLS thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa ảnh hưởng đến đầu tư, tái phân phối thu nhập giữa người vay, người cho vay và sự lưu thông của dòng vốn. 1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất cho vay: Lãi suất đối với một khoản cho vay nào đó được xác định trên cơ sở thị trường thông qua quá trình tác động qua lại giữa cung và cầu tiền vay. Do đó, trong nền kinh tế thị trường, lãi suất hay giá cả của khoản vay được xác định tại mức giao nhau của đường cung vốn vay và đường cầu vốn vay. Đường cung vốn t ấ Điểm cân Lãi su Đường cầu vốn 0 Lượng vốn Đồ thị 1.1: Lãi suất theo cung-cầu vốn Mặc dù chịu tác động của nhiều yếu tố, nhưng trên quan điểm NHTM thì 4 yếu tố được xem là quan trọng nhất không thể thiếu khi xác định lãi suất cho vay là: - Bao gồm tất cả các chi phí huy động vốn. - Bù đắp các chi phí quản lý và thực hiện khoản vay. - Trang trải được các rủi ro trong hoạt động cho vay. - Mang lại phần lợi nhuận hợp lý cho NHTM. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay còn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố khác như: sự cạnh tranh của các ngân hàng khác hoặc các TCTD phi ngân hàng; mối quan hệ, uy tín giữa ngân hàng và người đi vay; mục đích sử dụng tiền vay (vay công thương
  12. Trang 12 nghiệp, vay đầu tư kinh doanh bất động sản, vay sản xuất nông nghiệp, vay tiêu dùng ); kỳ hạn cho vay (kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao do rủi ro trong việc hoàn trả nợ vay gia tăng); tình hình diễn biến của nền kinh tế (tăng trưởng GDP, lạm phát, thất nghiệp ) Thực tế ở các nước cho thấy lãi suất cho vay thường chịu sự chi phối của thị trường tiền tệ ngắn hạn và của các NHTM lớn. Bên cạnh đó, lãi suất thị trường còn chịu sự can thiệp của NHTW, tùy theo chính sách tiền tệ là thắt chặt hay mở rộng. Khi thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, NHTW sẽ có biện pháp điều tiết để gián tiếp tăng lãi suất thị trường nhằm hạn chế tín dụng, tăng lượng tiền gởi tiết kiệm; và ngược lại khi muốn mở rộng tiền tệ NHTW sẽ điều tiết để gián tiếp giảm lãi suất thị trường nhằm thu hút người vay, giảm lượng tiền gởi tiết kiệm. 1.2.3 Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường: 1.2.3.1 Vai trò đối với các NHTM Có thể thấy rằng lãi suất cho vay đóng một vai trò quan trọng đối với các NHTM ở Việt Nam, nguồn thu từ tín dụng chiếm khoản 80 -90% doanh thu của các Ngân hàng. Chính vì lẻ đó lãi suất cho vay có vai trò quyết định đối với kết quả kinh doanh của khối NHTM Việt Nam. Hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt nam vẫn tập trung chủ yếu vào huy động và cho vay. Do đó, để người dân gửi tiết kiệm thì các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất tiết kiệm, mà lãi suất tiết kiệm tăng thì tăng theo lãi suất vay cũng tăng theo. Trước đây, các ngân hàng cho vay với lãi suất cố định trong suốt thời hạn vay. Tuy nhiên, với tình hình hình hiện nay lãi suất cho vay thông thường chỉ cố định trong năm đầu, các năm tiếp theo sẽ được điều chỉnh bằng lãi suất tiết kiệm 13 tháng + (cộng) biện độ (hiện nay biên độ chừng 0,3 – 0,5%/tháng). Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay các NHTM Việt Nam phải đương đầu với áp lực cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài cho vay với lãi suất thấp, như hiện nay trong khi đa số các NHTM Việt Nam cho vay với lãi suất bình quân từ 1 – 1,3%/tháng thì các Ngân hàng nước ngoài cho vay
  13. Trang 13 chừng 0,8 – 0,9%/tháng. Họ cho vay với lãi suất thấp một phần vì vốn lớn nhưng chủ yếu vẫn là do thu hút nguồn vốn do họ cung cấp dịch vụ rất đa dạng. 1.2.3.2 Vai trò đối với nền kinh tế Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN: Lãi suất hợp lý và mang tính chất ổn định giúp DN tính toán được lợi nhuận dự kiến thu về từ các phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư vì vậy nắm bắt và triển khai kịp thời các cơ hội kinh doanh. Đồng thời với một lãi suất hợp lý, các DN sẽ có lợi nhuận sau khi trừ đi chi phí trả lãi tiền vay, kích thích các DN mở rộng đầu tư, thực hiện tái sản xuất, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Trái lại, lãi suất bất hợp lý sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN: lãi suất quá thấp làm cho DN đẩy mạnh vay vốn quá mức, dẫn đến một số trường hợp không đảm bảo khả năng trả nợ vay; lãi suất quá cao dẫn đến DN dè dặt, không dám vay vốn, mất cơ hội kinh doanh và NHTM bị ứ đọng nguồn vốn. Lãi suất là phương tiện trung gian trong điều hành kinh tế vĩ mô: sự thay đổi của lãi suất tác động đến cân đối cung cầu hàng hóa. Điều 16-Luật Ngân hàng nhà nước: “Để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia NHNN sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác do Thống đốc quyết định”. Như vậy lãi suất cũng là một trong những công cụ để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Lãi suất là công cụ tác động mạnh mẽ đến lạm phát-thất nghiệp: Để kéo giảm mức lạm phát trong trường hợp nền kinh tế đang lạm phát cao, NHNN có thể can thiệp gián tiếp vào các NHTM (quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn) thông qua đó NHTM nâng lãi suất tiền gởi để thu hút vốn vào NHTM làm tiền trong lưu thông giảm → nhu cầu tiêu dùng giảm → giá cả hàng hóa giảm. Trái lại, việc giảm lãi suất sẽ đẩy mạnh tiêu dùng → kích thích sản xuất, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới → giảm thiểu thất nghiệp. Lãi suất là công cụ để đo lường sức khỏe của nền kinh tế: Căn cứ các biến động của lãi suất để dự báo các yếu tố khác như tính sinh lời của cơ hội đầu tư, lạm phát dự tính, thiếu hụt ngân sách
  14. Trang 14 1.3 Ý nghĩa của việc đánh giá tín dụng doanh nghiệp vay vốn 1.3.1 Bản chất của việc đánh giá tín dụng đối với doanh nghiệp vay vốn Như đã đề cập ở trên, lãi suất cho vay đóng một vai trò quan trọng trong kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM trong giai đoạn hiện nay. Nếu như lãi suất cho vay thấp sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng, trong trường hợp lãi suất cho vay quá cao khách hàng sẽ chuyển qua các ngân hàng khác có lãi suất thấp hơn. Do đó, việc đánh giá tín dụng vay vốn là hết sức cần thiết. Việc đánh giá tín dụng doanh nghiệp như là một tấm gương nhằm phản ánh thực tế hoạt động khách hàng vay vốn, xác định đâu là điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, rủi ro của khoản vay nằm ở chỗ nào để quản lý. 1.3.2 Phương pháp đánh giá Phương pháp đánh giá tín dụng doanh nghiệp vay vốn được xác định một cách cụ thể đối với từng loại khách hàng, tửng lĩnh vực hoạt động, đảm bảo mang tính hợp lý đối với từng khoản vay. Việc đánh giá tín dụng doanh nghiệp vay vốn dựa trên hai căn cứ chính: đánh giá bản thân doanh nghiệp vay vốn và đánh giá rủi ro khoản vay. Vấn đề quan trọng ở đây là xác định các yếu tố phân tích cho phù hợp (bao gồm cả định tính và định lượng) và tùy theo mức độ quan trọng mà gán cho nó những trọng số phù hợp. Sau khi đã đánh giá doanh nghiệp và rủi ro khoản vay, tủy theo tình hình hoạt động xác định được lãi suất cho vay đối với từng khách hàng, làm sao vừa đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng vừa hợp lý đối với khách hàng. 1.3.3 Ý nghĩa của việc đánh giá Đánh giá tín dụng doanh nghiệp vay vốn giúp cho ngân hàng biết được đâu là rủi ro có thể phát sinh từ đó quản lý khách hàng hiệu quả hơn, đồng thời giúp cho ngân hàng xác định được lãi suất cho vay phù hợp đối với từng khách hàng. Bên cạnh đó, qua đánh giá tín dụng khách hàng giúp Ngân hàng có một bức tranh tổng thể về khách hàng vay vốn. Qua đó, ngân hàng đưa ra những nhận định, yêu
  15. Trang 15 cầu, khuyến cáo để khách hàng điều chỉnh những điểm chưa đạt trong hoạt động kinh doanh của mình. Đánh giá khách hàng giúp xác định lãi suất cho vay một cách khoa học, đảm bảo tính cạnh tranh trong quá trình kinh doanh, giúp cho ngân hàng phát triễn bền vững. TÓM TẮT CHƯƠNG 1: Có nhiều khái niệm về lãi suất cho vay nhưng tổng quát lãi suất cho vay là chi phí thể hiện theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền vay mà bên vay phải trả cho bên cho vay để được sử dụng số vốn vay trong một thời gian nhất định. Trên quan điểm NHTM, lãi suất cho vay cần bao gồm: chi phí huy động vốn, chi phí quản lý và thực hiện khoản vay, bù đắp được các rủi ro trong hoạt động cho vay, đem lại lợi nhuận hợp lý cho NHTM. Khi cho vay các NHTM luôn mong muốn cho vay với lãi suất cao để bù đắp hoàn toàn rủi ro liên quan. Tuy nhiên, việc xác định lãi suất cho vay không thể tuỳ tiện theo ý chủ quan của ngân hàng. Xác định lãi suất cho vay phải căn cứ trên tình hình của từng khách hàng, từng món vay cụ thể. Do đó, việc xây dựng một phương pháp để xác định lãi suất cho vay là một việc làm hết sức cần thiết ¶—·
  16. Trang 16 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ XÁC ĐỊNH LÃI SUẤT CHO VAY TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM " # 2.1. Nghiệp vụ tín dụng một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 2.1.1. Sự hình thành và phát triễn hệ thống NHTM Việt Nam qua các thời kỳ. 2.1.1.1 Lịch sử về NHTM: NHTM được hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người. NHTM là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với khách hàng tổ chức, cá nhân bằng cách nhận tiền gởi, tiền tiết kiệm rồi sử dụng tiền đó để cho vay; chiết khấu; cung cấp các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác. Theo Peter S.Rose 5 “Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng và với hầu hết các Cơ quan, Chính quyền địa phương. Khi DN và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa, dịch vụ, họ thường sử dụng séc, thẻ tín dụng, tài khoản điện tử của Ngân hàng. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các công trình công cộng, từ những hội trường, sân bóng đá, sân bay đến đường cao tốc. Ngân hàng cũng là một trong những tổ chức tài chính cung cấp vốn lưu động quan trọng nhất cho các DN”. Theo Edward W.Reed và Edward K.Gill 6 thì "NHTM là một tổ chức kinh doanh được điều hành một cách chặt chẽ nhất. Ít có lĩnh vực kinh doanh nào bị kiểm tra thường xuyên và quản trị chặt chẽ bởi các nhà chức trách và các nhà quản trị để xem chúng có hoạt động phù hợp với những nguyên tắc của luật pháp và những quy định hay không. Sở dĩ có điều đó là do bản chất cộng đồng của nó". 5 Commercial bank management-International Edition 2002 6 Commercial banking
  17. Trang 17 Theo quy định trong luật các Tổ chức tín dụng 1997 thì "Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán". Như vậy, có thể nói NHTM là một định chế tài chính trung gian quan trọng, có ảnh hưởng đến nhiều mặt và sâu rộng trong nền kinh tế thị trường. Thông qua hệ thống định chế tài chính trung gian này mà những nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội được tập trung lại và được sử dụng để cho các tổ chức, cá nhân vay phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. 2.1.1.2 Sự hình thành và phát triễn hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam 2.1.1.2.1 Thời kỳ kế hoạch hóa tập trung đến trước năm 1986 Khoảng thời gian từ trước Chiến tranh thế giới lần I, tại Việt Nam chỉ có 3 ngân hàng nước ngoài hoạt động là Hương Cảng ngân hàng (1865), Đông Dương ngân hàng (1875), và chi nhánh Chartered bank (1904). Sau Chiến tranh thế giới lần I, một số ngân hàng nước ngoài khác được thành lập là Đông Á ngân hàng (1921), NHTM Pháp (1922). Năm 1927 một số nhà tư sản Việt Nam phối hợp góp vốn thành lập Ngân hàng Việt Nam-là ngân hàng thuần túy của người Việt Nam và phục vụ người Việt Nam. Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, có thêm 3 ngân hàng nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt Nam là Trung Quốc ngân hàng (1946), Giao thông ngân hàng- Quốc gia thương mãi (1947) và Kỹ nghệ ngân hàng (1947). Từ sau 1954, đất nước bị chia cắt thành 2 miền: Miền Bắc: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập ngày 05/06/1951 theo sắc lệnh số 15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và có hệ thống tổ chức thống
  18. Trang 18 nhất từ Trung ương đến địa phương theo địa giới hành chính do Nhà nước độc quyền sở hữu và quản lý. Miền Nam: Ngày 31/12/1954 Bảo Đại ký dụ số 48 thành lập Ngân hàng Quốc gia cho Miền Nam. Từ 1954 đến 1975 hệ thống ngân hàng ở Miền Nam được tổ chức theo hệ thống ngân hàng các nước tư bản chủ nghĩa nhưng mang nét đặc thù Việt Nam. Bao gồm: - NHTW thành lập 1954 với tên Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam. - Ngân hàng phát triển thuộc sở hữu quốc doanh gồm Ngân hàng Phát triển nông nghiệp có 25 chi nhánh ở khắp Miền Nam và Ngân hàng Phát triển kỹ nghệ được thành lập năm 1971. - Các cơ sở tín dụng và tiết kiệm công lập, bao gồm Quỹ tiết kiệm Sài Gòn, Tổng nha ngân khố và Ty ngân khố toàn quốc, Quỹ tiểu thương tín dụng, các Trung tâm. - Các NHTM: gồm 17 NHTM tư và 2 NHTM công với tổng cộng 144 chi nhánh ở Sài Gòn và các tỉnh. - Các ngân hàng nước ngoài, bao gồm 14 ngân hàng với 21 chi nhánh ở khắp Miền Nam. Sau ngày thống nhất đất nước 30/04/1975, hệ thống mạng lưới Ngân hàng tại miền Nam được Nhà nước ta tiếp nhận và hoạt động giống mô hình ngân hàng tại miền Bắc. Đây là hệ thống ngân hàng một cấp: NHNN Việt Nam → Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố → Chi nhánh NHNN quận huyện → khách hàng. 2.1.1.2.2 Thời kỳ nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường - từ 1986 đến nay: Có thể nói rằng từ năm 1986 trở đi là các đợt cải tổ ngân hàng, có thể chia ra các đợt cải tổ như sau: Đợt cải tổ lần thứ 1 (từ năm 1987 đến năm 1990): Bắt đầu từ năm 1987 nhằm làm cho hệ thống ngân hàng Việt Nam thích ứng với cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thực hiện theo Nghị định 53/HĐBT 26/03/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng. Có hai điểm cải tiến rõ nét là:
  19. Trang 19 - Thứ nhất: tách bộ phận Quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước ra khỏi NHNN và hình thành Hệ thống Kho bạc Nhà nước. - Thứ hai: thành lập hệ thống Ngân hàng chuyên doanh và tách chức năng kinh doanh của NHNN giao về cho các ngân hàng chuyên doanh. Như vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức thành hệ thống ngân hàng 2 cấp bao gồm: NHNN và các Ngân hàng chuyên doanh (Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Phát Triển Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư Xây Dựng Việt Nam và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam) kinh doanh theo những lĩnh vực tương ứng tên gọi. Tuy nhiên, Nghị định 53/HĐBT vẫn còn bộc lộ những khuyết điểm: độc quyền Nhà nước, chưa cho phép các thành phần kinh tế khác tham gia hoạt động ngân hàng; chưa chú trọng đến vai trò hoạt động như một NHTW của NHNN; hệ thống ngân hàng tổ chức theo kiểu này còn khác nhiều so với hệ thống ngân hàng của các nước có nền kinh tế thị trường. Đợt cải tổ lần thứ 2 (từ năm 1990 đến năm 2000): - Yêu cầu chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh doanh tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế đa thành phần đã tạo nên áp lực phải tiếp tục cải tổ hệ thống ngân hàng. Ngày 23/05/1990 Hội Đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh về NHNN và pháp lệnh về các NHNN đóng vai trò NHTW. - Các TCTD (gồm NHTM, ngân hàng đầu tư phát triển, công ty tài chính và hợp tác xã tín dụng) đóng vai trò ngân hàng trung gian. Những điểm cải tiến: - Xóa bỏ được tính chất độc quyền Nhà nước trong hoạt động ngân hàng bằng cách cho phép thành lập NHTM thuộc nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Đã có sự hiện diện và hoạt động của ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài góp phần hỗ trợ cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như truyền bá công nghệ ngân hàng hiện đại vào Việt Nam.
  20. Trang 20 Bắt đầu chú trọng đến vai trò NHTW của NHNN thể hiện ở chỗ quy định và quản lý dự trữ bắt buộc đối với các NHTM. Điều này nhằm bảo đảm an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, tránh những sự cố đổ vỡ như đã từng xảy ra.TCTD đánh dấu thời kỳ cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam lần thứ hai. Hệ thống ngân hàng Việt Nam lúc này được tổ chức gần giống hệ thống ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường: Đợt cải tổ lần thứ 3 (từ năm 2000 đến nay): Rút kinh nghiệm sau 7 năm thực hiện, Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh các TCTD đã được sửa đổi và trở thành Luật NHNN 06/1997/QHX và Luật sửa đổi bổ sung 10/2003/QH11; Luật các TCTD 02/1997/QH10 và Luật sửa đổi bổ sung 20/2004/QH11. Hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam bao gồm: - NHNN đóng vai trò NHTW. - Các TCTD đóng vai trò định chế tài chính trung gian. TCTD là DN được thành lập theo quy định của luật pháp để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng, với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. TCTD bao gồm: + Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. + TCTD phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dịch vụ thanh toán. TCTD phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, và các TCTD phi ngân hàng khác. Trong các loại hình TCTD, NHTM là loại hình hoạt động mạnh nhất và đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hiện nay.
  21. Trang 21 Bảng 2.1: Phát triển NHTM giai đoạn từ năm 1991 đến nay LOẠI HÌNH 1991 1993 1995 1997 1999 2001 2006 NH TM Quốc doanh 4 4 4 5 5 5 5 NH Chính sách xã hội 1 1 1 1 NH TMCP 4 41 48 51 48 39 37 NH Liên doanh 1 3 4 4 4 4 5 Chi nhánh NH nước ngoài 0 8 18 24 26 26 31 CỘNG 9 56 74 85 84 75 79 Nguồn: website NHNN (www.sbv.gov.vn) Mặc dù có sự gia tăng mạnh số lượng NHTM Việt Nam kể từ năm 1993, đặc biệt là NHTM cổ phần, nhưng nhìn chung quy mô ngân hàng còn nhỏ bé nên hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh không cao. Đứng trước tình hình đó, một số NHTM cổ phần đã sáp nhập lại. Từ năm 2001 đến nay, các NHTM Việt Nam bước vào thời kỳ củng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng nhằm gia tăng sức cạnh tranh, chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng. 2.1.2 Tình hình hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam: 2.1.2.1 Huy động vốn nhàn rỗi. Với thực tế hoạt động tín dụng vẫn chiếm vai trò chủ yếu trong hoạt động của Ngân hàng thì hoạt động huy động vốn chiếm một vị trí rất quan trọng. Để hoạt động cho vay mang lại hiệu quả cao thì một trong những nhân tố chính là nguồn vốn huy động phải dồi dào. Với các hình thức đa dạng, tình hình huy động vốn của hệ thống NHTM tăng dần qua các năm, năm 2004 tổng huy động đạt trên 481 ngàn tỷ đồng, sang năm 2005 đạt trên 611 ngàn tỷ, năm 2006 ước lượng đạt trên 783 ngàn tỷ, có thể tổng kết tình hình huy động trong thời gian qua như sau:
  22. Trang 22 800.000 783.125 700.000 611.230 600.000 500.000 481.171 400.000 377.982 298.564 Ty dong 300.000 200.000 100.000 0 2002 2003 2004 2005 2006 Nguồn: website NHNN (www.sbv.gov.vn) Đồ thị 2.1: Tình hình huy động vốn qua các năm. Để có cái nhìn tổng thể về nguồn vốn, chúng ta cùng phân tích nguồn vốn huy động năm 2005 và 2006 theo tính chất tiền gửi. Bảng 2.2: Phân tích nguồn vốn huy động theo tính chất tiền gửi. Đơn vị tính: tỷ đồng Năm 2005 Năm 2006 Tỷ Chỉ tiêu Số tiền trọng Số tiền Tỷ trọng Tiền gửi của các TCKT và cá nhân 320.896,00 52,50% 393.129,00 50,20% Tiền gửi tiết kiệm 270.164,00 44,20% 331.262,00 42,30% Phát hành giấy tờ có giá 20.170,00 3,30% 58.734,00 7,50% Tổng cộng 611.230,00 100,00% 783.125,00 100,00% Nguồn: website NHNN (www.sbv.gov.vn) Tình hình huy động vốn trong thời gian qua vẫn là một bài toán khó đối với các NHTM mà nhất là các ngân hàng nhỏ, mới thành lập. do đó, để thu hút nguồn tiền gửi các NHTM thường dùng biện pháp tăng lãi suất tiền gửi, khuyến mãi Có thể thấy được tình hình lãi suất huy động trong năm 2006 như sau:
  23. Trang 23 Bảng 2.3: Lãi suất huy động năm 2006 Chỉ tiêu Lãi suất VNĐ Lãi suất ngoại tệ Mức lãi Mức lãi suất Tăng so với suất phổ Tăng so với đầu phổ biến năm 2005 biến năm Loại kỳ hạn 3 tháng 7,8-8,52 0,02 3,8-4,25 0,75 Loại kỳ hạn 6 tháng 7,8-9,06 0,06-0,4 4-4,4 0,6 Loại kỳ hạn 12 tháng 8,4-9,48 0,16-0,32 4,52-5,2 0,47-1 Loại kỳ hạn 24 tháng 9,3-10,02 0,18-0,9 4,8-5,3 0,3-0,4 Đơn vị tính: %/năm Nguồn: website NHNN (www.sbv.gov.vn) 2.1.2.2 Thực trạng tín dụng: Thời gian gần đây, các NHTM bắt đầu chú ý nâng cao chất lượng tín dụng, không còn chạy đua tăng trưởng dư nợ vay như giai đoạn trước. Vào thời điểm cuối năm 2005 tỷ lệ tăng tín dụng có giảm so với các năm trước nhưng nhìn chung mức cầu tín dụng vẫn đang trên đà gia tăng cùng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Trong năm 2005, tổng dư nợ/nguồn vốn huy động chiếm chừng 93%, tỷ lệ này trong năm 2006 là 84%. Qua đó cho thấy việc sử dụng nguồn vốn huy động của các ngân hàng đã có sự đa dạng hoá, bên cạnh cho vay các ngân hàng còn đầu tư để phân tán rủi ro. Dư nợ cho vay Đvt: tỷ đồng 665.656 700.000 578.456 600.000 462.028 500.000 364.088 400.000 283.535 300.000 232.026 200.000 100.000 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Đồ thị 2.2: Dư nợ cho vay qua các năm. Nguồn: website NHNN (www.sbv.gov.vn)
  24. Trang 24 Tỷ lệ nợ xấu cao, tập trung ở khối NHTM quốc doanh. Theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam, nợ quá hạn so với tổng dư nợ đến cuối năm 2004 ở mức 5%, nhưng theo chuẩn mực kế toán quốc tế thì tỷ lệ nợ xấu so tổng dư nợ sẽ cao hơn nhiều. Bảng 2.4: Tình hình nợ quá hạn tại các TCTD DANH MỤC 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng dư nợ (tỷ đồng) 232.026 283.535 364.088 462.028 578.456 Dư nợ quá hạn (tỷ đồng) 20.186 22.683 21.117 23.563 31.815 Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ (%) 8,7% 8,0% 5,8% 5,1% 5,5% Nguồn: website NHNN (www.sbv.gov.vn) Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN về “phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD” là bước đột phá để việc đánh giá các khoản nợ tiến dần đến thông lệ quốc tế. Tỷ lệ nợ quá hạn sau khi phân loại theo quyết định mới này đang có dấu hiệu gia tăng mạnh. Việc phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro theo tiêu chuẩn mới đòi hỏi các NHTM phải có một cách nhìn linh hoạt hơn trong việc xác định lãi suất cho vay nhằm bảo đảm bù đắp được rủi ro và có lợi nhuận. 2.2 Thực trạng về việc xác định lãi suất cho vay tại các NHTM Việt Nam: 2.2.1 Giai đoạn từ năm 1988 đến tháng 6/1992: NHNN quy định cụ thể các mức lãi suất tiền gởi và lãi suất cho vay để các NHTM thực hiện. Trong giai đoạn này, việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN là nhằm mục tiêu đẩy lùi lạm phát nên lãi suất tiền gởi tiết kiệm danh nghĩa được qui định tương đối cao nhằm thu hồi bớt tiền trong lưu thông. Lãi suất trong thời kỳ này là lãi suất thực âm, với đặc điểm: lãi suất tiền gửi < lạm phát và lãi suất cho vay ≤ lãi suất huy động. Nền kinh tế bắt đầu chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường, tuy nhiên lãi suất cho vay vẫn còn phân biệt rõ ràng giữa các thành phần kinh tế.
  25. Trang 25 Bảng 2.5: Lãi suất ngân hàng theo quyết định 202 tháng 10/1991 của NHNN CHỈ TIÊU GIÁ TRỊ (%/THÁNG) Lãi suất tiền gửi Không kỳ hạn 1,00 Kỳ hạn 3 tháng 2,10 Lãi suất tiết kiệm Không kỳ hạn 2,10 Kỳ hạn 3 tháng 3,50 Lãi suất cho vay Kinh tế quốc doanh 2,10-2,40 Kinh tế tư nhân 2,70-3,70 Hộ kinh doanh 4,00-5,00 Nguồn: NHNN 2.2.2 Giai đoạn từ tháng 6/1992 đến tháng 7/2000: Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp, ngân hàng bắt đầu có điều kiện thực hiện CSLS thực dương, tức là lạm phát < lãi suất huy động < lãi suất cho vay. Từ tháng 10/1992, NHNN bắt đầu từng bước thực hiện lãi suất thực dương, tuy nhiên NHNN vẫn quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể. Lãi suất giữa các thành phần kinh tế vẫn có sự phân biệt: lãi suất cho vay đối với DN quốc doanh thấp hơn DN ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung dài hạn. Từ tháng 9/1993, NHNN cho phép thêm các TCTD được cho vay theo lãi suất thỏa thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể. Theo quyết định 184/QĐ-NH1 ngày 28/09/1993 thì lãi suất cho vay đối với DNNN là 1,8%/tháng, lãi suất cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 2,1%/tháng. Tuy nhiên, nếu vốn huy động tiết kiệm và tiền gửi theo các mức lãi suất quy định mà không đủ để cho vay thì các TCTD được phép phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn tối đa 0,2%/tháng và cho vay với lãi suất cao hơn mức 2,1%/tháng trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Các NHTM đã phát huy tích cực yếu tố này làm cho mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động khá cao, phổ biến từ 0,7- 1,0%/tháng, cho nên hầu hết các NHTM đều đạt lợi nhuận cao, trong khi các DN lại gặp khó khăn về tài chính vì gánh nặng trả lãi lớn. Từ thực trạng này, Quốc hội khóa
  26. Trang 26 IX, kỳ họp tháng 8/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay, khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân tối đa là 0,35%/tháng. NHNN chuyển sang áp dụng CSLS trần. Lãi suất cho vay được quy định nhiều mức trần khác nhau xuất phát từ yêu cầu thực tiễn: có nhiều TCTD hoạt động trên các địa bàn khác nhau, cung cầu vốn khác nhau, quy mô khác nhau và do đó chi phí hoạt động khác nhau. Thời gian đầu có 4 mức trần như sau: – Trần lãi suất cho vay ngắn hạn (áp dụng cho khu vực thành thị). – Trần lãi suất cho vay trung dài hạn (cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn). – Trần lãi suất áp dụng cho các TCTD cho vay trên địa bàn nông thôn (cao hơn cho vay ngắn hạn và trung dài hạn) – Trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với thành viên (cao hơn 3 trần lãi suất trên). Cơ chế lãi suất trần là một bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất gắn liền với tín hiệu thị trường hơn. Tuy nhiên, việc qui định khống chế mức chênh lệch 0,35%/tháng giữa mức lãi suất cho vay bình quân và mức lãi suất huy động bình quân là chưa hợp lý vì nó làm giảm sút khả năng cạnh tranh cũng như động lực phát triển của các NHTM. Quyết định 39/1998/QĐ-NHNN1 ngày 21/01/1998 của NHNN đã xóa bỏ sự cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, rút từ 4 trần lãi suất xuống còn 3 trần lãi suất, bỏ khống chế mức chênh lệch 0,35%/tháng. Có thể nói việc bỏ mức khống chế chênh lệch 0,35% tháng là một bước cải tiến đáng kể.
  27. Trang 27 Bảng 2.6: Các lần điều chỉnh lãi suất của NHNN trong năm 1999 Các loại trần lãi suất (%/tháng) Thời điểm 01.02.99 01.06.99 01.08.99 04.09.99 25.10.99 Cho vay ngắn hạn vùng nội thị 1,10 1,15 1,05 0,95 0,85 Cho vay trung dài hạn 1,15 1,15 1,05 0,95 0,85 Cho vay ngắn hạn vùng nông thôn 1,25 1,15 1,15 1,05 1,00 Cho vay Quỹ TNND và HTX 1,50 1,50 1,50 1,50 1,50 Nguồn: NHNN Như vậy trong lần điều chỉnh đầu năm 1999 NHNN lại đưa ra tới 4 trần lãi suất, cao nhất là 1,5%/tháng và thấp nhất là 1,1%/tháng, những lần điều chỉnh sau đó theo hướng hạ thấp dần trần lãi suất. Lần cuối cùng vào tháng 10/1999, NHNN đưa ra 3 trần lãi suất và được áp dụng cho đến giữa năm 2000. 2.2.3 Giai đoạn từ tháng 7/2000 đến tháng 5/2002. Thời kỳ từ năm 2000 trở đi là thời kỳ đổi mới thực sự về lãi suất, CSLS đã phù hợp với thực tế thị trường. Cụ thể ngày 02/08/2000 NHNN ban hành 4 quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: – Đối với lãi suất cho vay đồng Việt Nam: NHNN bỏ quy định lãi suất trần cho vay, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản cộng % biên độ dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các NHTM áp dụng cho khách hàng tốt nhất (có uy tín trong việc sử dụng vốn vay, trả nợ vay đầy đủ, đúng hạn, rủi ro tín dụng thấp). Lãi suất cho vay và huy động vốn của các TCTD gắn với lãi suất cơ bản. Lãi suất cho vay cao nhất bằng lãi suất cơ bản + biên độ. NHNN công bố lãi suất cơ bản và biên độ hàng tháng, trong trường hợp cần thiết NHNN sẽ điều chỉnh kịp thời. – Đối với lãi suất ngoại tệ: bỏ quy định lãi suất trần cho vay, áp dụng theo lãi suất trên TTTT liên ngân hàng Singapore (Sibor). Lãi suất cho vay ngắn hạn của các TCTD cao nhất bằng lãi suất Sibor 3 tháng + biên độ 1,00%/năm; lãi suất cho vay trung dài hạn cao nhất bằng lãi suất Sibor 6 tháng cộng biên độ 2,50%/năm. Riêng đối với cho vay bằng ngoại tệ khác USD, các NHTM
  28. Trang 28 tự xem xét quyết định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay dựa trên lãi suất trên thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ này. Lãi suất cho vay đã được điều chỉnh theo đúng bản chất của nó là lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn lãi suất cho vay trung dài hạn do chi phí sử dụng vốn vay trung dài hạn cao hơn cũng như mức độ rủi ro của khoản vay trung dài hạn thông thường cao hơn khoản vay ngắn hạn. Các NHTM cung cấp thông tin cho NHNN tham khảo gồm: NH Ngoại thương Việt Nam, NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, NH Công thương Việt Nam, NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam, NH TMCP Quân Đội, NH TMCP Á Châu, Chi nhánh NH ANZ, Chi nhánh NH HSBC, NH TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Có thể nói, quyết định chuyển sang CSLS cơ bản là sự đổi mới rất gần với tự do hóa lãi suất. Kể từ 01/06/2001, NHNN đã tiếp tục cho áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với lãi suất cho vay bằng USD, hay nói cách khác lãi suất cho vay bằng ngoại tệ đã được tự do hóa hoàn toàn. Bảng 2.7: Điều chỉnh lãi suất cơ bản VNĐ của NHNN từ 2000 đến 2002 SỐ VĂN BẢN NGÀY HIỆU LỰCLÃI SUẤT CƠ BẢN (%/THÁNG) 241/2000/QĐ-NHNN 02.08.2000 0,750 397/2001/QĐ-NHNN 10.03.2001 0,725 557/2001/QĐ-NHNN 26.08.2001 0,700 1078/2001/QĐ-NHNN 27.08.2001 0,650 1098/2001/QĐ-NHNN 29.11.2001 0,600 547/2002/QĐ-NHNN 30.05.2002 0,600 Nguồn: NHNN 2.3.4 Giai đoạn từ tháng 5/2002 đến nay. Ngày 30/05/2002, NHNN ra quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN theo đó: "TCTD xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam, pháp nhân và các nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam". Như vậy lãi suất cho vay cả ngoại tệ lẫn đồng Việt Nam đã được tự do hóa.
  29. Trang 29 Có thể nói đây là một quyết định đúng đắn và hợp thời, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng đang đến gần, bảo đảm lãi suất cho vay do cung cầu vốn trên thị trường quyết định, các NHTM thực sự được "cởi trói" và hoàn toàn chủ động đưa ra mức lãi suất cho vay phù hợp với đặc thù hoạt động của chính ngân hàng mình, NHNN tác động vào lãi suất cho vay tại NHTM bằng cách chuyển dần sang các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Lãi suất được điều chỉnh linh hoạt theo cung cầu vốn trên thị trường, làm cho các nguồn vốn được tự do luân chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi có lãi suất thấp sang nơi có lãi suất cao. Các TCTD buộc phải nâng cao chất lượng quản trị và phục vụ khách hàng, từ đó hình thành lãi suất bình quân hợp lý theo tín hiệu thị trường. Với cơ chế này, NHNN vẫn xác định và công bố lãi suất cơ bản song nó chỉ có giá trị tham khảo khi ấn định lãi suất cho vay của các TCTD. Hàng tháng, NHNN công bố lãi suất cơ bản dựa trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay của 15 NHTM áp dụng đối với khách hàng tốt nhất. Thực tế sau khoảng thời gian thực hiện, đến nay lãi suất cơ bản do NHNN công bố hầu như không còn ý nghĩa tham khảo khi xác định lãi suất cho vay đối với các TCTD do lãi suất cơ bản được công bố liên tục thoát ly lãi suất cho vay bình quân thực tế của các TCTD và khoảng cách này ngày càng xa. Chẳng hạn tại thời điểm tháng 11/2005 lãi suất cơ bản là 0,65%/tháng trong khi lãi suất cho vay bình quân của các TCTD phổ biến ở mức 0,85%-1,25%/tháng. Trong khi lãi suất cho vay của TCTD luôn luôn được điều chỉnh phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường thì lãi suất cơ bản vẫn ổn định hoặc có thay đổi ở mức không đáng kể. Theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là ở các nước phát triển, lãi suất cơ bản là lãi suất do một nhóm NHTM lớn, thậm chí do một NHTM lớn riêng lẻ định ra, trên cơ sở đó tính toán lãi suất các khoản cho vay khác nhau. Lãi suất cho vay được ấn định bằng cách cộng thêm vào lãi suất cơ bản một biên độ tùy thuộc vào tín nhiệm của khách hàng và mức rủi ro của khoản tín dụng. Mặt khác lãi suất cơ bản được các NHTM này ấn định thường xuyên và công bố hàng ngày.
  30. Trang 30 2.3 Những kết quả đạt được và những tồn tại, thách thức trong vấn đề xác định lãi suất cho vay tại các NHTM Việt Nam: 2.3.1 Kết quả đạt được: – NHNN đã từng bước giảm can thiệp trong việc xác định lãi suất cho vay tại các NHTM phù hợp diễn biến thực tế nền kinh tế qua từng thời kỳ nhằm đảm bảo kinh tế phát triển ổn định. – Việc tự do hóa hoàn toàn lãi suất cho vay từ tháng 5/2002 đã tạo điều kiện để từng NHTM chủ động trong việc đưa ra chính sách lãi suất cho vay phù hợp với kế hoạch kinh doanh của mình. – Lãi suất cho vay tại các NHTM ngày càng linh hoạt, và phù hợp diễn biến lãi suất trên thị trường; hiện nay chỉ còn rất ít các khoản vay mới của DNNN tại các NHTM quốc doanh được áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi hơn so với các loại hình DN khác. 2.3.2 Những tồn tại, thách thức: Tồn tại: – Việc xác định lãi suất cho vay tại NHTM vẫn còn mang nhiều cảm tính chủ quan. – Chưa có chênh lệch đáng kể giữa các khách hàng khác nhau về lãi suất cho vay. Phần chênh lệch lãi suất giữa các khoản vay của cùng một khách hàng chưa được quan tâm đúng mức. – Thực tế các NHTM lớn tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa hoàn thiện hệ thống đánh giá tín dụng để xác định lãi suất cho vay một cách khoa học. Thách thức: – NHTM đối mặt với sự thay đổi thường xuyên của lãi suất thị trường, nếu lãi suất không được điều hành tốt sẽ dễ dẫn đến rủi ro lãi suất. – Tại các khu vực ít có môi trường cạnh tranh (vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa) thì lãi suất cho vay sẽ bị đẩy lên cao dẫn đến không tạo động lực phát triển kinh tế.
  31. Trang 31 – Các NHTM lớn, với nguồn vốn dồi dào, chi phí huy động thấp sẽ cạnh tranh, mở rộng thị trường bằng cách cho vay lãi suất thấp làm các NHTM quy mô nhỏ khó cạnh tranh dẫn đến khả năng phải sáp nhập, hợp nhất với nhau. – Hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng đang đến gần đòi hỏi NHTM VN phải xác định lãi suất cho vay một cách hợp lý, khoa học, đảm bảo lợi nhuận cũng như khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Nguyên nhân tồn tại: – Giai đoạn cho vay của NHTM với lãi suất cho vay khống chế bị chi phối trực tiếp bởi NHNN kéo dài quá lâu. – Các NHTM quốc doanh chiếm phần lớn thị phần tín dụng nhưng trong một thời gian dài áp dụng chính sách lãi suất cho vay với các DNNN ưu đãi hơn so với các loại hình DN khác. – Các NHTM chưa quan tâm đúng mức về các rủi ro tín dụng khi xác định lãi suất cho vay, trong đó một phần do khả năng phân tích đánh giá của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Tham khảo Phụ lục 5: Lãi suất cho vay thực tế tại 1 chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh qua các năm. TÓM TẮT CHƯƠNG 2: NHTM là một định chế tài chính trung gian quan trọng, giao dịch trực tiếp với tổ chức, cá nhân bằng cách nhận tiền gởi, tiền tiết kiệm rồi sử dụng số tiền đó để cho vay; chiết khấu; cung cấp các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác. NHTM có ảnh hưởng về nhiều mặt và sâu rộng trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống ngân hàng Việt Nam qua các lần cải tổ, đến nay đang đẩy mạnh cơ cấu lại hoạt động từ hoàn thiện hành lang pháp lý, thay đổi cơ cấu tổ chức điều hành, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, sáp nhập một số ngân hàng nhỏ, nâng cao năng lực tài chính để chuẩn bị hội nhập quốc tế.
  32. Trang 32 Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng vay, các loại hình và phương thức cho vay ngày càng đa dạng. Cùng với sự tăng trưởng khá ổn định của nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, dư nợ cho vay trong hệ thống NHTM gia tăng mạnh. Hoạt động cho vay vẫn là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu cho NHTM. Nhằm đảm bảo tăng tính an toàn trong hoạt động cho vay, đảm bảo thu nhập và bù đắp được rủi ro tín dụng, các NHTM cần được tự chủ động trong xác định lãi suất cho vay. Để đáp ứng nhu cầu này, từ giữa năm 2000 NHNN bắt đầu tự do hóa lãi suất cho vay ngoại tệ và đến tháng 5/2002 việc xác định lãi suất cho vay đã được tự do hóa hoàn toàn. Như vậy, từ tháng 5/2002, các NHTM đã được cởi trói trong xác định lãi suất cho vay nhưng cũng đối mặt thường xuyên với sự biến đổi của lãi suất thị trường. Thực tế xác định lãi suất cho vay tại các NHTM hiện nay vẫn còn nhiều cảm tính, chưa căn cứ trên những tiêu chí hợp lý, khoa học.
  33. Trang 33 CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LÃI SUẤT CHO VAY QUA ĐÁNH GIÁ TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP PHÙ HỢP VỚI NHTM VIỆT NAM " # 3.1 Mục tiêu và quan điểm xây dựng phương pháp xác định lãi suất cho vay qua đánh giá tín dụng DN: Lãi suất cho vay cần đảm bảo duy trì và phát triển hoạt động của NHTM, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh. Việc xác định lãi suất cho vay nếu quá cứng nhắc để bảo đảm chỉ tiêu lợi nhuận dự tính của NHTM có thể làm cho lãi suất cho vay không phù hợp với thực tế thị trường. Chẳng hạn do chi phí đầu vào của NHTM quá cao dẫn đến việc NHTM phải định lãi suất cho vay cũng cao theo để đảm bảo lợi nhuận, trong khi đó mức lãi suất cao này có thể không được thị trường chấp nhận. Trái lại ở một số NHTM chỉ tập trung định giá lãi suất cho vay hướng vào cạnh tranh trên thị trường nên có thể dẫn đến hoạt động cho vay không mang lại lợi nhuận, thậm chí không bù đắp đủ chi phí, rủi ro tín dụng. Do vậy, NHTM cần kết hợp xác định lãi suất cho vay hướng vào chi phí nhưng vẫn bảo đảm cạnh tranh được trên thị trường. Việc xác định lãi suất hướng vào chi phí không có nghĩa đơn thuần là xác định lãi suất căn cứ theo mức chi phí đầu vào mà cần phải kết hợp với các dịch vụ ngân hàng đi kèm như các dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, tiền gởi mà từng khách hàng mang lại. NHTM có thể đưa ra một mức lãi suất cho vay thấp hơn với những đối tượng khách hàng mà NHTM xét thấy đó là những khách hàng mục tiêu. Lãi suất cho vay luôn thay đổi theo hướng đa dạng hóa, linh hoạt nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng, tạo điều kiện để NHTM đáp ứng tốt nhất đối với từng nhóm khách hàng mục tiêu. Mục đích của việc xây dựng phương pháp xác định lãi suất cho vay là nhằm cung cấp phương pháp luận một cách khoa học, phù hợp thực tiễn hoạt động của các NHTM Việt Nam, làm cơ sở để các NHTM đưa ra mức lãi suất đảm bảo lợi nhuận trong kinh doanh, bù đắp được rủi ro và mang tính cạnh tranh. Như đã phân tích ở
  34. Trang 34 Chương 1, dù có nhiều phương pháp xác định lãi suất cho vay nhưng về cơ bản lãi suất cho vay luôn bao gồm các thành phần: chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, phần bù rủi ro tín dụng, phần bù rủi ro kỳ hạn và mức lợi nhuận dự kiến. Chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động và mức lợi nhuận dự kiến là dễ xác định đối với NHTM. Phần bù rủi ro kỳ hạn xác định dựa vào thời gian vay (càng dài thì phần bù rủi ro kỳ hạn càng lớn) và có thể được đánh giá thông qua các chỉ số thống kê về định hạng rủi ro quốc gia, được áp dụng thống nhất cho tất cả các khách hàng vay. Trong khi đó, phần bù rủi ro tín dụng là phức tạp và khó xác định nhất do nó có mối quan hệ trực tiếp và thay đổi đối với từng khách hàng cũng như từng khoản vay. Cho nên, yếu tố quan trọng nhất cần đánh giá khi xác định lãi suất cho vay chính là phần bù rủi ro tín dụng. Trong chương này, tác giả sẽ tập trung phân tích để đưa ra mô hình xác định phần bù rủi ro tín dụng làm cơ sở xác định lãi suất cho vay. 3.2 Khách hàng và phân loại khách hàng vay vốn là doanh nghiệp: 3.2.1 Khái niệm khách hàng doanh nghiệp: Theo Quy chế cho vay 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của NHNN thì khách hàng vay là các pháp nhân và cá nhân tại Việt Nam và nước ngoài gồm: – (1) Các pháp nhân: DNNN, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, DN có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác [thỏa mãn 4 điều kiện: (a) được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận; (b) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (c) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; (d) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập]; – (2) Cá nhân; (3) Hộ gia đình; (4) Tổ hợp tác; (5) DNTN; (6) Công ty hợp danh. Theo quyết định 127/2005 ngày 03/02/2005 của NHNN về việc sửa đổi bổ sung quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN thì khách hàng vay là các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài có nhu cầu vay vốn, có khả năng để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời
  35. Trang 35 sống ở trong nước và nước ngoài. Như vậy, hiện nay phạm vi cho vay của NHTM đã được mở rộng. Theo quan điểm của NHTM, DN vay vốn là một tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập (hoặc cho phép thành lập, đăng ký, công nhận), có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có nhu cầu vay vốn, có khả năng để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ tập trung phân tích nhóm khách hàng DN, là nhóm khách hàng chiếm tỷ trọng cao về dư nợ cho vay của NHTM. 3.2.2 Phân loại khách hàng DN: 3.2.2.1. Theo loại hình DN: Phân theo loại hình DN thì khách hàng DN bao gồm: – Các DN hoạt động theo Luật DNNN với mục đích kinh doanh hay các DNNN hoạt động công ích, đơn vị hành chính sự nghiệp tự cân đối thu chi; – Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, DNTN, công ty hợp danh hoạt động theo Luật DN; – Các DN có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam; – Các tổ chức khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ Luật Dân sự (trừ các TCTD). Tổng công ty, công ty mẹ, các đơn vị thành viên trực thuộc hạch toán độc lập được xác định là một khách hàng. 3.2.2.2. Theo quy mô hoạt động: Việc phân loại theo quy mô hoạt động dựa vào 2 tiêu chí là vốn chủ sở hữu và số lượng lao động trung bình. Theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 thì DN nhỏ và vừa có vốn chủ sở hữu không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Như vậy có thể hiểu DN lớn là DN có vốn chủ sở hữu trên 10 tỷ và số lượng lao động sử dụng trung bình hàng năm lớn hơn 300 người.
  36. Trang 36 Tuy nhiên, đứng trên góc độ NHTM thì tiêu chí số lao động bình quân trong năm không thực sự mang nhiều ý nghĩa trong việc phân loại để xét cho vay. Trong khi đó chỉ tiêu vốn chủ sở hữu lại liên quan nhiều đến các chỉ tiêu đánh giá phân tích, xếp loại tín dụng. Vốn chủ sở hữu được xem như là một "vùng đệm" nhằm bảo đảm an toàn đối với vốn vay. Do đó, việc phân loại DN theo quy mô hoạt động được căn cứ vào chỉ tiêu vốn chủ sở hữu của DN căn cứ theo báo cáo tài chính. Cụ thể: – DN nhỏ: vốn chủ sở hữu ≤ 5 tỷ đồng. – DN vừa: 5 tỷ đồng 10 tỷ đồng. 3.2.2.3 Theo lĩnh vực hoạt động: Theo quyết định số 143/TCTK/PPCĐ ngày 22/12/1993 của Tổng cục thống kê thì các DN có thể được chia theo hệ thống ngành kinh tế như sau: (a) Ngành nông lâm nghiệp; (b) Ngành thủy sản; (c) Ngành công nghiệp khai thác mỏ; (d) Ngành công nghiệp chế biến; (e) Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước; (f) Ngành xây dựng (g) Ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, môtô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình; (h) Ngành khách sạn và nhà hàng; (i) Ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc; (j) Ngành tài chính tín dụng; (k) Ngành hoạt động khoa học và công nghệ; (l) Ngành hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn; (m) Ngành giáo dục và đào tạo; (n) Ngành y tế; (o) Ngành văn hóa, thể thao. Một số nhóm ngành trên đây có những đặc điểm về hoạt động kinh doanh, tài chính tương đối giống nhau. Do đó, để không quá phức tạp trong đánh giá, theo quan điểm tác giả, dưới góc độ NHTM có thể phân các DN thành 4 nhóm ngành chính yếu sau đây: – Nhóm các DN hoạt động trong ngành nông, lâm ngư nghiệp. – Nhóm các DN hoạt động trong ngành thương mại dịch vụ. – Nhóm các DN hoạt động trong ngành xây dựng. – Nhóm các DN hoạt động trong ngành công nghiệp.
  37. Trang 37 3.3 Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá: Các chỉ tiêu đưa vào đánh giá đòi hỏi phải đầy đủ, khoa học và hợp lý. Một hệ thống chỉ tiêu phân tích quá ít hoặc quá nhiều đều ảnh hưởng không tốt đến kết quả đánh giá: hoặc không chính xác, hoặc quá phức tạp mà trong quá trình tác nghiệp cán bộ tín dụng sẽ khó thực hiện không thể xử lý hết được. Để phục vụ công tác đánh giá đòi hỏi NHTM phải có thông tin càng đầy đủ và càng chính xác càng tốt. Nguồn thông tin được thu thập từ nhiều nguồn: từ nguồn thông tin lưu trữ hiện có tại NHTM, qua báo cáo tài chính, qua phỏng vấn trực tiếp ban lãnh đạo DN, qua các khách hàng có quan hệ mua bán trực tiếp với DN, trên các phương tiện thông tin đại chúng, từ trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC) 3.3.1 Chỉ tiêu đánh giá DN: 3.3.1.1 Nhóm các chỉ tiêu tài chính: (1) Chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn: Đây là một trong những thước đo khả năng thanh toán, nó được sử dụng rộng rãi nhất để đánh giá khả năng thanh toán chung của DN. Công thức tính như sau: Tài sản lưu động Khả năng thanh toán ngắn hạn = Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động bao gồm các khoản vốn bằng tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản lưu động khác. Tuy nhiên, khi tính toán tài sản lưu động cần loại trừ hàng tồn kho mất phẩm chất và các khoản phải thu khó đòi chưa trích dự phòng. Nợ ngắn hạn bao gồm vay ngắn hạn, vay dài hạn đến hạn trả và các khoản phải trả ngắn hạn khác. Hệ số thanh toán ngắn hạn thông thường yêu cầu lớn hơn hay bằng 1. Hệ số thanh toán ngắn hạn cao có nghĩa DN luôn đủ khả năng thanh toán các khoản nợ. (2) Chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh: Chỉ tiêu này được tính toán giữa các tài sản lưu động có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền so với Nợ ngắn hạn. Do đó, hệ số thanh toán nhanh có thể kiểm tra
  38. Trang 38 tình trạng tài sản một cách chặt chẽ hơn so với hệ số thanh toán ngắn hạn. Công thức tính như sau: Tiền + Đầu tư tài chính ngắn hạn + Khoản phải thu Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Các khoản phải thu trong công thức trên không tính phải thu khó đòi chưa trích dự phòng. Công thức tính khả năng thanh toán nhanh đã loại trừ hàng tồn kho và phần tài sản lưu động khác trong "Tài sản lưu động" nhằm đánh giá một cách xác thực hơn tính sẵn sàng trong việc đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của DN. Tùy thuộc vào từng ngành kinh doanh mà hệ số này có thể có yêu cầu khác nhau, tuy nhiên thông thường hệ số này cần đạt từ 0,5 trở lên. (3) Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay hàng tồn kho là tiêu chuẩn đánh giá mức độ hiệu quả trong quản trị hàng tồn kho của DN. Công thức: Giá vốn hàng bán Vòng quay hàng tồn kho = Hàng tồn kho bình quân Tỷ số này cho biết trong một năm hàng tồn kho tại DN được luân chuyển bao nhiêu lần, lượng hàng tồn kho cần thiết, hàng tồn kho được quản lý tốt hay xấu. Việc lưu giữ quá nhiều hàng tồn kho đồng nghĩa với việc vốn được sử dụng kém hiệu quả. Điều này làm tăng chi phí lưu giữ hàng tồn kho và tăng rủi ro trong việc tiêu thụ một khi nhu cầu tiêu dùng thay đổi hay tình hình thị trường kém đi. Số vòng quay hàng tồn kho cao hay thấp tùy thuộc và đặc điểm ngành kinh doanh. (4) Chỉ tiêu vòng quay các khoản phải thu: Các khoản phải thu là những hóa đơn bán hàng chưa thu tiền về do DN thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán, các khoản trả trước cho người bán. Số vòng quay các khoản phải thu cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu của DN. Nếu số vòng quay thấp cho thấy DN bị chiếm dụng vốn nhiều, nhưng nếu quá cao sẽ giảm sức cạnh tranh có thể làm giảm doanh thu. Công thức:
  39. Trang 39 Doanh thu thuần Vòng quay các khoản phải thu = Các khoản phải thu bình quân Thời gian thu hồi công nợ rất ngắn có thể cho ta những thông tin sau: DN hạn chế trong chính sách bán trả chậm cho khách hàng. Công tác thu hồi công nợ của DN hoạt động có hiệu quả. Khả năng sinh lời và điều kiện tài chính của các khách hàng là tốt. DN chỉ hoặc thường bán hàng thu tiền ngay. Thời gian thu hồi công nợ rất dài có thể cho ta những thông tin sau: Chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp là dễ dàng. Việc luân chuyển vốn lưu động khá khó khăn và nếu nguồn tài trợ tài sản lưu động là từ các khoản vay ngân hàng thì gánh nặng trả lãi sẽ tăng lên. (5) Chỉ tiêu vòng quay vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ảnh tính hiệu quả trong việc sử dụng tài sản lưu động thông qua việc xem xét rằng trong 1 năm tài chính thì tài sản lưu động đã chuyển hóa bao nhiêu lần so với doanh thu. Công thức: Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động = Tài sản lưu động bình quân (6) Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản: Chỉ tiêu này đo lường một đồng tài sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh trong một năm sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Nếu tỷ số này thấp thì có thể là vốn đang không được sử dụng hiệu quả và có khả năng DN thừa hàng tồn kho hoặc tài sản nhàn rỗi hay vay tiền quá nhiều so với nhu cầu thực sự. Công thức: Doanh thu thuần Hiệu quả sử dụng tài sản = Tổng tài sản bình quân (7) Chỉ tiêu khả năng tự tài trợ: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ tự chủ và cấu trúc tài chính của DN. Một mức độ quá thấp của chỉ tiêu này cho thấy hoạt động của DN dựa quá nhiều vào nợ, điều này không hẳn là không tốt vì DN có thể thông qua tỷ số đòn cân nợ cao để đạt
  40. Trang 40 được tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cao hơn. Một cấu trúc vốn tối ưu giúp DN tối đa hóa lợi nhuận thu được đồng thời cũng dung hòa được khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm NHTM thì mức độ tự chủ tài chính của DN càng cao càng tốt vì vốn chủ sở hữu như là một "vùng đệm" nhằm bảo đảm an toàn đối với vốn vay. Công thức: Nguồn vốn chủ sở hữu = x 100% Khả năng tự tài trợ Tổng tài sản (8) Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: Chỉ tiêu này này nói lên một đồng doanh thu tạo ra được bao nhiêu lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu càng cao thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Công thức: Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = x 100% Doanh thu thuần (9) Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản: Chỉ tiêu này cho thấy tính hiệu quả của việc sử dụng các tài sản hiện hữu của DN, nó đo lường khả năng sinh lợi trên một đồng vốn đầu tư. Công thức: Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản = x 100% Tổng tài sản (10) Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: Chỉ tiêu này đo lường mức độ tạo lợi nhuận từ vốn chủ sở hữu, nó như một thước đo hiệu quả đầu tư nếu đứng trên quan điểm của các cổ đông và được so sánh với mức sinh lời chung về quản lý vốn. Công thức: Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = x 100% Vốn chủ sở hữu
  41. Trang 41 (11) Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng doanh thu: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ tăng trưởng của DN. Bên cạnh đó, nó còn cho thấy sự mở rộng hay thu hẹp về mặt thị trường, khả năng thâm nhập của sản phẩm, tính ổn định của thị trường cũng như sản phẩm của DN đang ở trong giai đoạn nào của chu kỳ sản phẩm. Công thức: Doanh thu thuần kỳ hiện tại – Doanh thu thuần kỳ Tốc độ tăng trưởng doanh t ớ = x 100% thu Doanh thu thuần kỳ trước (12) Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng lợi nhuận: Nếu tỷ lệ tăng trưởng doanh thu đánh giá mức độ mở rộng về mặt số lượng thì tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận nhằm đánh giá về chất lượng hoạt động. Công thức: Lợi nhuận sau thuế kỳ hiện tại – Lợi nhuận sau thuế kỳ trước Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận = x 100% Lợi nhuận sau thuế kỳ trước 3.3.1.2 Nhóm các chỉ tiêu phi tài chính: (13) Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là toàn bộ số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng không trả được nợ (gốc và/hoặc lãi vay) đã đến hạn mà ngân hàng đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu (điều chỉnh kỳ hạn/gia hạn nợ) lại thời hạn trả nợ. Chỉ tiêu này được tính theo tiêu thức có hay không có phát sinh nợ quá hạn trong vòng 6 tháng gần nhất tính từ thời điểm đánh giá trở về trước. (14) Chỉ tiêu tỷ lệ điều chỉnh, gia hạn nợ gốc: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ trả nợ đúng theo lịch trả nợ của DN đã được xác định trong hợp đồng tín dụng. Công thức: Dư nợ gốc đã điều chỉnh, gia hạn Tỷ lệ điều chỉnh, gia hạn nợ gốc = x 100% Tổng dư nợ
  42. Trang 42 Nợ được điều chỉnh kỳ hạn là khoản nợ được ngân hàng chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thỏa thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng, mà kỳ hạn trả nợ cuối cùng không thay đổi. Nợ được gia hạn là khoản nợ được ngân hàng chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay, vượt quá thời hạn cho vay đã thỏa thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng. Tỷ lệ điều chỉnh, gia hạn nợ gốc được lấy theo tỷ lệ điều chỉnh, gia hạn nợ gốc tại thời điểm cao nhất trong vòng 6 tháng gần nhất tính từ thời điểm đánh giá trở về trước và tổng dư nợ cùng thời điểm. (15) Chỉ tiêu tỷ lệ lãi quá hạn: Chỉ tiêu này đánh giá khả năng trả lãi vay đúng hạn của DN. Công thức: Lãi trong kỳ chưa trả Tỷ lệ lãi quá hạn = x 100% Lãi trong kỳ phải trả Lãi trong kỳ là số tiền lãi phát sinh trong thời gian 6 tháng tính đến thời điểm đánh giá. (16) Chỉ tiêu sử dụng vốn vay đúng mục đích: Nhằm xem xét các khoản vay mà NHTM đã cho vay ra có được DN sử dụng đúng mục đích. Việc sử dụng vốn vay đúng mục đích nhằm đảm bảo DN thực hiện theo nội dung phương án/dự án đã đề ra để tạo nên nguồn tiền trả nợ vay cũng như phù hợp với quy định của pháp luật về cho vay. (17) Vòng quay vốn vay ngắn hạn tại ngân hàng: Chỉ tiêu này cho thấy vốn vay ngắn hạn của DN tại ngân hàng đã luân chuyển được bao nhiêu vòng trong 1 năm. Tùy theo tính chất kinh doanh của từng ngành nghề mà chỉ số vòng quay này cao hay thấp, ví dụ các DN kinh doanh thương mại thường có số vòng quay cao hơn nhiều lần so với DN hoạt động trong ngành xây dựng. Công thức: Doanh số thu nợ ngắn hạn Vòng quay vốn vay ngắn hạn = Dư nợ ngắn hạn bình quân
  43. Trang 43 (18) Mức độ quan hệ vay vốn với ngân hàng: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ tập trung quan hệ vay vốn của DN tại ngân hàng, được tính toán bằng tỷ lệ giữa dư nợ vay bình quân của DN tại một ngân hàng cụ thể so với tổng dư nợ vay bình quân của DN tại tất cả các TCTD. Công thức: Dư nợ bình quân tại ngân hàng Mứ c độ quan hệ vay vốn với ngân hàng = x 100% Tổng dư nợ bình quân tại các TCTD Các mức dư nợ vay tại ngân hàng cụ thể và tổng dư nợ vay các TCTD được tính bình quân theo tháng nếu có thể được hoặc nếu không thì tính theo số bình quân đầu kỳ và cuối kỳ trong báo cáo tài chính. (19) Tỷ lệ chuyển doanh thu qua ngân hàng: Việc tập trung chuyển doanh thu thông qua tài khoản của DN mở tại ngân hàng cho vay nhằm tạo điều kiện để ngân hàng kiểm tra giám sát luồng tiền của DN, qua đó ngân hàng chủ động trong vấn đề thu nợ gốc, lãi vay. Công thức: Doanh thu chuyển qua ngân hàng x 100% Tỷ lệ chuyển doanh thu qua ngân hàng = Tổng doanh thu Đối với DN có quan hệ tại ngân hàng chưa đến 1 năm thì doanh thu được tính là doanh thu thực hiện của quý gần nhất. Đối với DN có quan hệ từ 1 năm trở lên thì doanh thu được tính là doanh thu thực hiện năm trước. (20) Số dư tiền gửi bình quân tại ngân hàng: Số dư tiền gửi được tính bình quân theo các tháng trong kỳ xếp loại, thông qua số dư tiền gởi bình quân có thể đánh giá tính sẵn sàng về nguồn tiền thường xuyên để DN trả nợ vay. Qua đó, cũng đánh giá được sự hợp tác trong việc chuyển doanh thu của DN.
  44. Trang 44 (21) Lợi nhuận khách hàng mang lại cho ngân hàng: Ngân hàng chủ động thu thập các thông tin cần thiết về mức độ quan hệ dịch vụ của DN với ngân hàng như mua, bán ngoại tệ; thanh toán (trong nước, quốc tế); dịch vụ ngân quỹ (kiểm đếm tiền mặt, chi hộ lương) để đánh giá thu nhập ngân hàng thu được từ các dịch vụ này. (22) Sự rõ ràng, trung thực của báo cáo tài chính: Chỉ tiêu này xem xét liệu báo cáo tài chính của DN gởi tới ngân hàng có rõ ràng, trung thực, báo cáo tài chính đã được kiểm toán, hay được cơ quan thuế, cơ quan chủ quản kiểm tra, xác nhận hay chưa và các báo cáo tài chính có được gởi tới ngân hàng đầy đủ và đúng định kỳ hay không? Đây là chỉ tiêu phi tài chính khá quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến kết quả đánh giá đối với các chỉ tiêu tài chính. 3.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro khoản vay: 3.3.2.1 Nhóm các chỉ tiêu liên quan đến môi trường ngành kinh doanh: (1) Chu kỳ kinh doanh: Chu kỳ kinh doanh của một ngành thường gắn liền với mức gia tăng hay giảm sút của GDP một quốc gia và các yếu tố khác tùy theo đặc thù của mỗi ngành. Tuy nhiên, về tổng thể hoạt động của nhiều ngành thường tương đồng với chu kỳ kinh tế. Chỉ tiêu này nhằm đánh giá DN đang nằm ở giai đoạn nào trong chu kỳ kinh doanh của mình. (2) Triển vọng tăng trưởng của ngành: Một ngành kinh doanh đang tăng trưởng mạnh có thể đem lại cho các DN trong ngành những cơ hội thuận lợi. Các cơ hội này chính là tiềm năng mở rộng thị trường, khả năng cải thiện vị thế của DN. Trái lại một ngành kinh doanh đã và đang có dấu hiệu suy giảm sẽ là nguy cơ dẫn đến sự giảm sút trong hoạt động sản xuất kinh doanh đối với DN. (3) Áp lực cạnh tranh trong ngành: Cạnh tranh giữa các DN thông thường diễn ra trên các phương diện: giá cả; chất lượng; mẫu mã kiểu dáng; hậu mãi, quảng cáo, khuyến mãi sản phẩm. Sự cạnh tranh liên quan đến số lượng các đối thủ cạnh tranh, khả năng gia nhập ngành, năng
  45. Trang 45 lực cung ứng của toàn ngành, sức chịu đựng của sản phẩm DN trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (đặc biệt là vấn đề cắt giảm thuế quan). Cạnh tranh về giá thường dẫn đến sự suy yếu, thậm chí phá sản của các DN nhỏ, trái lại sẽ mang lại lợi thế hơn nữa đối với các DN giữ vai trò chủ đạo thị trường. (4) Các nguồn cung ứng đầu vào đối với ngành: Chỉ tiêu này đánh giá tính ổn định của các nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào, mức độ phụ thuộc của DN vào những nhà cung cấp chính. Vị thế của DN với vai trò là khách hàng trong mối quan hệ với nhà cung cấp. (5) Các chính sách của nhà nước: Đặc điểm của luật lệ hiện hành, cũng như các chính sách kinh tế định hướng của nhà nước trong việc hỗ trợ phát triển ngành có ảnh hưởng nhiều đến kế hoạch phát triển trong dài hạn của DN. Chỉ tiêu này cũng đánh giá khả năng chịu đựng của DN một khi có những yếu tố thay đổi trong nền kinh tế vĩ mô (ví dụ sự gia tăng đột biến về tỷ giá hối đoái, lạm phát tăng cao, sự thay đổi đột ngột của giá nhiên liệu ). 3.3.2.2 Nhóm các chỉ tiêu liên quan đến điều kiện kinh doanh: Việc đánh giá các điều kiện kinh doanh của một DN cần được xem xét trên nhiều yếu tố. Tuy nhiên, một số yếu tố chính và quan trọng thường gặp và được sử dụng để phân tích điều kiện kinh doanh của DN theo như dưới đây: (6) Vấn đề đa dạng hóa kinh doanh: Việc đa dạng hóa hoạt động kinh doanh có thể giúp DN vẫn ổn định kinh doanh xét trên bình diện tổng thể một khi có sự suy giảm trong hoạt động ở một sản phẩm cụ thể nào đó. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu bổ sung thêm một sản phẩm kinh doanh mới nào đó cũng có thể làm giảm tổng lợi nhuận thu được vì một sản phẩm mới cần có thời gian để được thị trường chấp nhận. (7) Thời gian hoạt động của DN: Chỉ tiêu này đánh giá về quá trình hoạt động của DN thông qua số năm hoạt động. DN đã có thời gian hoạt động càng dài thì mức độ ổn định cũng như vững chắc càng cao. Đối với các DN chuyển đổi hình thức thì thời gian hoạt động tính cả thời gian trước khi chuyển đổi.
  46. Trang 46 (8) Quy mô thị trường: Quy mô thị trường tiềm năng là tổng mức cầu có khả năng thanh toán đối với sản phẩm trong một giai đoạn cụ thể hay cũng có thể hiểu là tổng doanh thu tối đa mà tất cả các DN trong ngành có thể đạt được. Quy mô thị trường tiềm năng được đánh giá dựa trên những số liệu ước tính về số người có nhu cầu sử dụng nhân với mức mua hàng bình quân của số người đó. Độ lớn của thị trường tương ứng tỷ lệ thuận độ ổn định cũng như khả năng thâm nhập thị trường của một sản phẩm. (9) Thị phần của DN: Thị phần của DN là tỷ số giữa doanh số bán của DN so với tổng doanh số bán của ngành. Do việc thống kê thị trường về tổng doanh số bán của ngành là khá khó khăn nên thị phần của DN được xác định có độ chính xác ở mức tương đối. DN chiếm được thị phần càng cao càng cho thấy mức độ chấp nhận của thị trường về sản phẩm càng tốt. (10) Các hoạt động nghiên cứu, phát triển: Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, sản phẩm của DN có thể nhanh chóng bị lỗi thời hay lạc hậu. Do đó, có thể DN hiện đang ở một vị trí tốt trong ngành nhưng nếu không có sự đầu tư thích đáng trong công tác nghiên cứu, đổi mới công nghệ thì vị trí của nó chắc chắn sẽ sụt giảm trong tương lai. (11) Thương hiệu sản phẩm: Chỉ tiêu này đánh giá sự ổn định cũng như sự biết đến về thương hiệu sản phẩm của DN trên thị trường (gồm cả trong nước và ở nước ngoài). Các tiêu chí đánh giá như: mức độ phổ biến của sản phẩm đối với công chúng, sản phẩm được công nhận là hàng Việt Nam chất lượng cao, đạt chứng chỉ ISO, được chứng nhận là Sao vàng Đất Việt hoặc các tiêu chuẩn quốc tế khác như HACCP, GMP Trong trường hợp DN kinh doanh nhiều mặt hàng thì đánh giá theo sản phẩm chính có doanh thu chiếm tỷ trọng cao nhất. 3.3.2.3 Nhóm các chỉ tiêu về nhân sự, quản trị điều hành: Chất lượng quản lý là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công trong hoạt động của DN. Khi có những tình huống bất ngờ xảy ra thì vai trò
  47. Trang 47 của người quản lý trong việc đưa ra những chính sách thích hợp nhằm ổn định tình hình là vô cùng cần thiết. Các chiến lược, chính sách kinh doanh của DN đưa ra liệu có phù hợp hay không? Đội ngũ người lao động đáp ứng được yêu cầu công việc đến mức độ nào? Các chỉ tiêu cụ thể: (12) Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của một DN dựa vào tính hữu hiệu của mô hình tổ chức và bộ máy quản trị DN. Mỗi DN đều có những đặc thù về ngành nghề, sản phẩm, bản sắc kinh doanh của riêng mình nên không có một mô hình lý tưởng để áp dụng chung cho tất cả các DN. Căn cứ vào đặc điểm và chiến lược mà DN đang triển khai để đánh giá tính hợp lý trong lựa chọn cơ cấu tổ chức của một DN. (13) Ban lãnh đạo DN: Đội ngũ lãnh đạo có vai trò hết sức quan trọng trong DN. Họ là người đưa ra các quyết định ảnh hưởng đến sự phát triển, tồn tại hay suy vong của DN. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo cũng có thể mắc sai lầm, trong quyết định của mình đôi khi bị tình cảm chi phối Các yếu tố cần xem xét khi đánh giá ban lãnh đạo DN thường là trình độ, uy tín, năng lực, đạo đức, khả năng đảm đương chức vụ, học vấn, sức khỏe, tuổi tác, đội ngũ lãnh đạo kế thừa (14) Sự ổn định của đội ngũ người lao động: Xem xét các chính sách về tuyển chọn nhân sự, đào tạo, chính sách thu nhập, đãi ngộ người lao động. Qua đó, thấy được khả năng thu hút, đào tạo, giữ ổn định và nâng cao tay nghề của đội ngũ lao động. Mức độ thỏa mãn và tinh thần làm việc của nhân viên cao hay không thể hiện qua số ngày nghỉ việc, số người rời bỏ DN hàng năm, năng suất lao động Trong đa số các trường hợp, việc có được đội ngũ lao động giỏi, ổn định đóng góp một phần khá lớn trong sự thành công của DN. (15) Chính sách, chiến lược kinh doanh của DN: Hoạt động trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi DN luôn phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, với nền kinh tế càng phát triển thì cung thường có xu hướng lớn hơn cầu, cho nên để chiến thắng trong cạnh tranh đòi hỏi DN phải có các chính sách, chiến lược kinh doanh phù hợp với đặc điểm riêng có của DN mình.
  48. Trang 48 3.3.2.4 Nhóm chỉ tiêu dự kiến hiệu quả dự án hoặc phương án vay vốn: Khác với phần đánh giá các chỉ tiêu tài chính sử dụng số liệu thực tế đã diễn ra trong kỳ quá khứ của khách hàng vay để đánh giá xếp loại DN, nhóm chỉ tiêu này dự kiến những gì sẽ xảy ra trong tương lai dựa trên dự án hoặc phương án vay vốn của DN. Để đánh giá các chỉ tiêu này một cách tương đối sát thực tế đòi hỏi sự tin cậy trong bảng kế hoạch kinh doanh của DN và nhân viên tín dụng của NHTM cần có năng lực, kinh nghiệm trong công tác thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án hoặc phương án. Các chỉ tiêu cụ thể: (16) Sự rõ ràng, chắc chắn của dự án hoặc phương án kinh doanh: Chỉ tiêu này là khá quan trọng vì nó ảnh hưởng đến các chỉ tiêu dự kiến hiệu quả khác của dự án/phương án kinh doanh. Một dự án/phương án kinh doanh rất cụ thể và rõ ràng giúp DN khi triển khai trong thực tế được thuận lợi với khả năng thành công cao, trái lại một dự án/phương án sơ sài tiềm ẩn nhiều nguy cơ thất bại. (17) Dự kiến lợi nhuận/doanh thu: Cũng tương tự như trong phần đánh giá các chỉ tiêu tài chính, tuy nhiên chỉ tiêu này là dự kiến lợi nhuận DN sẽ thu được qua dự án/phương án sản xuất kinh doanh trong tương lai. Đánh giá chỉ tiêu này thông qua việc so sánh với tiêu chí lợi nhuận/doanh thu kỳ quá khứ. Một sự tăng lên so với những gì đã đạt được trong quá khứ cho thấy khả năng DN sẽ tiếp tục hoạt động hiệu quả hơn trong tương lai. (18) Dự kiến lợi nhuận/vốn đầu tư: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn (không phân biệt là từ vốn tự có hay vốn đi vay) bỏ ra dự kiến sẽ mang về bao nhiêu lợi nhuận trong một năm. Đối với các phương án kinh doanh ngắn hạn trong vòng 1-2 năm thì đơn giản chỉ cần tính toán mức lợi nhuận thu được so với tổng mức đầu tư trong một năm. Tuy nhiên, đối với các dự án có thời gian dài hạn đòi hỏi khi tính toán chỉ tiêu này cần kết hợp với kỹ thuật chiết khấu dòng tiền để quy đổi mức lợi nhuận ở các năm trong tương lai về hiện tại (do đặc điểm 1 đồng thu được trong tương lai luôn nhỏ hơn 1 đồng ở hiện tại) với một lãi suất chiết khấu hợp lý.
  49. Trang 49 (19) Mức vốn tự có tham gia: Dựa trên các kỹ thuật phân tích, các DN thường xác định được một cấu trúc vốn tối ưu cho dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh của mình, tức là cần tham gia vốn tự có, vốn vay tương ứng với tỷ lệ cụ thể để đạt được lợi nhuận tối đa. Thực tế hiện nay, các DN Việt Nam chưa quan tâm lắm cũng như chưa đủ khả năng để tìm ra một cấu trúc vốn tối ưu của riêng mình mà thường lựa chọn cơ cấu vốn một cách chủ quan: khi có đủ khả năng tham gia vốn tự có thì sẽ tham gia ở một tỷ lệ cao, trái lại thì cố gắng vay nợ tối đa. Công thức: Vốn tự có tham gia Tỷ lệ vốn tự có tham gia = x 100% Tổng chi phí thực hiện dự án hoặc phương án Đứng trên quan điểm NHTM thì tỷ lệ vốn tự có tham gia càng cao càng tốt nhằm giảm gánh nặng trả lãi vay cũng như áp lực trả nợ gốc. Do đó, khả năng hoàn trả nợ, lãi vay cho ngân hàng tỷ lệ thuận với mức vốn tự có tham gia. Với một tỷ lệ vốn vay thật nhỏ trong tổng vốn đầu tư thì khả năng trả nợ vay của DN sẽ khá chắc chắn cho dù dự án hoặc phương án kinh doanh không mang lại hiệu quả như mong đợi. (20) Trạng thái lưu chuyển dòng ngân lưu thuần (net cashflow) từ hoạt động: Chỉ tiêu này cho thấy xu hướng cũng như tính chắc chắn của dòng tiền trong dự án/phương án kinh doanh của DN. Đây là chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng trả nợ vay. Đứng trên quan điểm NHTM, dòng tiền thuần của DN không những cho thấy tính khả thi trong việc hoàn trả nợ vay mà chỉ tiêu này còn giúp ngân hàng xác định thời gian vay trả một cách phù hợp. Trong một số trường hợp, một dự án/phương án kinh doanh mang lại lợi nhuận cao theo hạch toán trên báo cáo kế toán nhưng không có đủ tiền để trả nợ vay, trái lại có những trường hợp kết quả kinh doanh không có lợi nhuận nhưng DN vẫn có đầy đủ nguồn tiền để trả nợ gốc cũng như lãi vay đầy đủ, đúng hạn. (21) Các nội dung về phương diện kỹ thuật: Chỉ tiêu này đánh giá về tính hợp lý, khả thi về phương diện kỹ thuật của dự án/phương án thông qua các tiêu chí: sự phù hợp của địa điểm xây dựng/nơi sản
  50. Trang 50 xuất, quy mô sản xuất tối ưu, các tác động xấu đến môi trường và biện pháp áp dụng để giảm thiểu tác động xấu. Có đảm bảo được các nội dung này thì DN mới chủ động cũng như ổn định được trong sản xuất. (22) Tỷ lệ TSBĐ/dư nợ: Các khoản vay có TSBĐ nợ vay nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm của DN trong việc trả nợ vay. TSBĐ như là "cái phao" cuối cùng để các ngân hàng thu hồi nợ trong trường hợp DN không còn nguồn trả nợ nào khác. Công thức: Tổng giá trị TSBĐ Tỷ lệ dư nợ có TSBĐ = x 100% Tổng dư nợ Theo quy định của NHNN các khoản vay khi phân loại nợ để trích dự phòng thì số tiền tính toán để nhân với tỷ lệ trích dự phòng cụ thể sẽ bằng dư nợ vay – giá trị qui đổi của TSBĐ. Do đó, tỷ lệ TSBĐ/dư nợ càng cao càng giảm nhẹ thiệt hại cũng như giúp ngân hàng chủ động đối với việc trích dự phòng rủi ro trong hoạt động tín dụng một khi khoản vay chuyển thành nợ xấu. 3.4 Các thang điểm đánh giá: 3.4.1 Điểm chỉ tiêu tài chính và tiêu chuẩn đánh giá: Giả định Fi là giá trị đạt được cụ thể đối với từng chỉ tiêu của một DN từ chỉ tiêu tài chính 1 đến chỉ tiêu tài chính 12. Gọi a1, a2, a3, a4 lần lượt là các mức giá trị mốc trên miền giá trị của từng chỉ tiêu. Bảng 3.1: Thang điểm đánh giá các chỉ tiêu tài chính MIỀN GIÁ TRỊ ĐIỂM a1 ≤ Fi 10 a2≤ Fi < a1 8 a3 ≤ Fi < a2 6 a4 ≤ Fi < a3 4 0 ≤ Fi < a4 2 Fi < 0 0 Các giá trị mốc a1, a2, a3, a4 được lựa chọn để sao cho phù hợp với từng lĩnh vực kinh doanh và qui mô vốn chủ sở hữu của DN. Đối với DN kinh doanh trong nhiều lĩnh vực thì lấy hoạt động chính làm cơ sở đánh giá chỉ tiêu tài chính.
  51. Trang 51 Bảng tiêu chuẩn đánh giá các giá trị mốc a1, a2, a3, a4 phần chỉ tiêu tài chính được trình bày trong Phụ lục 1. Việc phân loại khách hàng để đưa ra thang điểm thích hợp đối với từng nhóm khách hàng là vô cùng quan trọng và đảm bảo tính khoa học trong việc đánh giá vì: – Mỗi khách hàng hoạt động trong 1 lĩnh vực khác nhau sẽ có các chỉ số trung bình ngành khác nhau. – Mỗi khách hàng có quy mô hoạt động khác nhau (thông qua mức vốn chủ sở hữu) sẽ có các chỉ số và các đặc điểm hoạt động khác nhau. Như phần trên đã trình bày, trong phân tích sẽ chia DN ra thành các nhóm ngành như sau: (1) nhóm ngành công nghiệp, (2) nhóm ngành xây dựng, (3) nhóm ngành thương mại dịch dụ, (4) nhóm ngành nông-lâm-ngư-nghiệp. Tương ứng trong mỗi nhóm ngành sẽ chia ra DN quy mô lớn, DN quy mô vừa và DN quy mô nhỏ để đưa ra các chỉ số a1, a2, a3, a4 phù hợp. Dựa vào các chỉ số trung bình ngành do Tổng Cục thống kê hoặc một Cơ quan chuyên cung cấp thông tin tổng hợp hàng năm làm tiêu chuẩn để so sánh và đưa ra các mức a1, a2, a3, a4 cụ thể. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống kho dữ liệu này vẫn chưa hình thành, do đó tác giả tạm sử dụng các chỉ số trung bình ngành do các NHTM xây dựng, về lâu dài để bảo đảm tính chính xác, các chỉ số trung bình ngành này vẫn cần phải lấy từ nguồn số liệu tổng hợp của cả nước. 3.4.2 Điểm chỉ tiêu phi tài chính và tiêu chuẩn đánh giá: Giả định Ni là giá trị đạt được cụ thể đối với từng chỉ tiêu của một DN từ chỉ tiêu phi tài chính 13 đến chỉ tiêu phi tài chính 22. Tương tự như phần chấm điểm các chỉ tiêu tài chính, gọi a1, a2, a3, a4 lần lượt là các mức giá trị mốc trên miền giá trị của từng chỉ tiêu. Ta đánh giá thang điểm đối với từng chỉ tiêu phi tài chính như sau: – Tổng số điểm tối đa mỗi chỉ tiêu là 10 điểm. – Chỉ tiêu 13: không có nợ quá hạn 10 điểm; có nợ quá hạn 0 điểm. – Chỉ tiêu 14, 15:
  52. Trang 52 Bảng 3.2: Thang điểm đánh giá chỉ tiêu phi tài chính 14, 15 MIỀN GIÁ TRỊ ĐIỂM a1 ≤ Ni 0 a2≤ Ni < a1 2 a3 ≤ Ni < a2 4 a4 ≤ Ni < a3 6 0 < Ni < a4 8 Ni = 0 10 – Chỉ tiêu 16: sử dụng vốn vay đúng mục đích 10 điểm; có trường hợp sử dụng vốn vay sai mục đích đã kiểm tra phát hiện và lập biên bản 0 điểm. – Chỉ tiêu từ 17 đến 20: Bảng 3.3: Thang điểm đánh giá chỉ tiêu phi tài chính 17 đến 20 MIỀN GIÁ TRỊ ĐIỂM a1 ≤ Ni 10 a2≤ Ni < a1 8 a3 ≤ Ni < a2 6 a4 ≤ Ni < a3 4 0 ≤ Ni < a4 2 – Chỉ tiêu 21: cho điểm từ 2 đến 10 dựa vào mức độ thực hiện các dịch vụ tiền tệ như mua, bán ngoại tệ; thanh toán (trong nước, quốc tế); dịch vụ ngân quỹ (kiểm đếm tiền mặt, chi hộ lương) của khách hàng tại ngân hàng. – Chỉ tiêu 22: báo cáo tài chính trong kỳ đã được kiểm toán hoặc cơ quan thuế, cơ quan chủ quản kiểm tra xác nhận: tối đa 6 điểm; gửi đầy đủ, chính xác báo cáo tài chính theo định kỳ đến ngân hàng: tối đa 4 điểm. Bảng tiêu chuẩn đánh giá các giá trị mốc a1, a2, a3, a4 phần chỉ tiêu phi tài chính được trình bày trong Phụ lục 2. 3.4.3 Điểm chỉ tiêu về rủi ro khoản vay và tiêu chuẩn đánh giá: Mỗi chỉ tiêu được đánh giá và cho điểm từ 0 đến 10. Bảng tiêu chuẩn đánh giá các chỉ tiêu về rủi ro khoản vay được trình bày trong Phụ lục 3.
  53. Trang 53 3.4.4 Trọng số của từng chỉ tiêu và điểm tổng hợp: Mỗi chỉ tiêu có một mức độ quan trọng, ảnh hưởng khác nhau, do đó việc áp dụng trọng số đối với từng chỉ tiêu khi tính toán là cần thiết. Theo quan điểm của tác giả có thể chia ra 3 mức độ để đánh giá các chỉ tiêu với các trọng số tương ứng. Bảng 3.4: Trọng số tính toán và số lượng chỉ tiêu tương ứng TRỌNG SỐ LƯỢNG CHỈ TIÊU MỨC ĐỘ SỐ ĐÁNH GIÁ DOANH ĐÁNH GIÁ KHOẢN NGHIỆP VAY Ảnh hưởng mạnh 1,5 6 6 Ảnh hưởng khá mạnh 1,2 6 6 Bình thường 1,0 10 10 Điểm tổng hợp là tổng điểm mà mỗi khách hàng đạt được của từng chỉ tiêu x (nhân) trọng số từng chỉ tiêu. Tổng số điểm tối đa-tối thiểu sau khi quy đổi theo trọng số tương ứng của phần đánh giá DN lần lượt là 262 điểm-12 điểm và của phần đánh giá khoản vay lần lượt là 262 điểm-0 điểm. Trọng số và điểm số tối đa-tối thiểu cụ thể của từng chỉ tiêu được nêu trong Phụ lục 4. 3.5 Xây dựng phương pháp xếp hạng DN, xếp loại loại khoản vay và xác định lãi suất cho vay: 3.5.1 Xếp hạng DN theo chỉ tiêu đánh giá DN: Thông qua các điểm số tài chính và phi tài chính mà DN đạt được, xếp hạng DN theo 7 nhóm. Điểm cận trên và điểm cận dưới của từng nhóm được xác định bằng cách quy đổi điểm tương ứng thang điểm 10. Bảng 3.5: Thang điểm xếp hạng DN XẾP HẠNG THEO THANG ĐIỂM CHUẨN ĐIỂM ĐẠT ĐƯỢC QUY DOANH NGHIỆP (ĐIỂM 10) ĐỔI TỪ ĐẾN TỪ ĐẾN AA 9,00 10,00 236 262 A 7,50 8,99 197 235 BB 6,50 7,49 170 196 B 5,00 6,49 131 169 CC 4,00 4,99 105 130 C 2,00 3,99 52 104 D 0,00 1,99 12 51
  54. Trang 54 Nhóm AA: Là nhóm khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, kết quả hoạt động kinh doanh rất khả quan, có nhiều khả năng mở rộng và phát triển. DN loại này có vị thế vững mạnh trong một ngành kinh doanh, thường đây là DN chiếm thị phần lớn trong ngành kinh doanh. Các sản phẩm của DN mang tính cạnh tranh rất cao. Đây là nhóm khách hàng đáng tin cậy nhất, có tín nhiệm cao trong quan hệ với ngân hàng. Nhóm A: Là nhóm khách hàng có tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh tốt, sản phẩm có tính cạnh tranh cao. DN có khả năng phát triển ổn định. Đây là nhóm khách hàng được đánh giá là có tín nhiệm trong quan hệ với ngân hàng. Nhóm BB: Nhóm khách hàng này có tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh bình thường, có một số mặt mạnh trong lĩnh vực kinh doanh của mình, tuy nhiên một số chỉ tiêu chưa đạt được như nhóm khách hàng A. Trong quan hệ tín dụng với ngân hàng tương đối tín nhiệm. Nhóm B: Nhóm khách hàng này có tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh trung bình. Trong quan hệ tín dụng với ngân hàng có khả năng phải gia hạn hoặc điều chỉnh kỳ hạn nợ. Nhóm CC: Nhóm khách hàng này có tình hình tài chính kinh doanh không tốt. Các khoản cho vay có rủi ro tín dụng hoặc xuất hiện những yếu tố bất lợi dẫn đến nguy cơ không trả được nợ đúng hạn, phải gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ. Nhóm C: Nhóm khách hàng này có tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh xấu. Việc quan hệ tín dụng đối với nhóm khách hàng này chứa đựng nhiều rủi ro không hoàn trả được nợ. Nhóm D: Nhóm khách hàng này có tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh rất xấu. Việc quan hệ tín dụng đối với nhóm khách hàng này chứa đựng rất nhiều rủi ro không hoàn trả được nợ. 3.5.2 Xếp loại khoản vay theo chỉ tiêu đánh giá rủi ro khoản vay: Thông qua các điểm số đạt được cụ thể từ đánh giá khoản vay, ta xếp khoản vay thành 7 loại từ cao xuống thấp. Điểm cận trên và điểm cận dưới của từng loại cũng được xác định bằng cách quy đổi điểm tương ứng thang điểm 10.
  55. Trang 55 Bảng 3.6: Thang điểm xếp loại khoản vay XẾP LOẠI THEO THANG ĐIỂM CHUẨN ĐIỂM ĐẠT ĐƯỢC QUY KHOẢN VAY (ĐIỂM 10) ĐỔI TỪ ĐẾN TỪ ĐẾN Loại 1 9,00 10,00 236 262 Loại 2 7,50 8,99 197 235 Loại 3 6,50 7,49 170 196 Loại 4 5,00 6,49 131 169 Loại 5 4,00 4,99 105 130 Loại 6 2,00 3,99 52 104 Loại 7 0,00 1,99 0 51 Loại 1: Khoản vay có rủi ro thấp nhất với chất lượng khoản vay về các mặt được đánh giá rất tốt, khả năng hoàn trả từ dự án hoặc phương án là chắc chắn. Loại 2: Khoản vay có rủi ro thấp với chất lượng khoản vay về các mặt được đánh giá tốt, khả năng hoàn trả từ dự án hoặc phương án là gần như chắc chắn. Loại 3: Khoản vay có rủi ro chấp nhận được với chất lượng khoản vay về các mặt được đánh giá khá tốt, khả năng hoàn trả từ dự án hoặc phương án khá chắc chắn. Loại 4: Khoản vay có rủi ro ở mức trung bình với chất lượng khoản vay về đa số các mặt được đánh giá trung bình và có một số yếu tố khá rủi ro, khả năng hoàn trả từ dự án hoặc phương án là bình thường. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, khi diễn biến thị trường có chiều hướng xấu đi thì khả năng trả nợ vay có thể bị ảnh hưởng. Loại 5: Khoản vay có rủi ro khá cao, có xấp xỉ 50% các chỉ tiêu đều dưới trung bình, khả năng hoàn trả từ dự án hoặc phương án là tương đối khó khăn. Một khi diễn biến thị trường có chiều hướng xấu đi hoặc có những yếu tố bất lợi xuất hiện thì khả năng hoàn trả nợ vay dễ bị ảnh hưởng.
  56. Trang 56 Loại 6: Khoản vay có rủi ro cao, đa số các chỉ tiêu đều dưới trung bình, khả năng hoàn trả nợ vay đúng hạn từ dự án hoặc phương án là khó khăn, cần có các nguồn trả nợ khác ngoài dự án/phương án hỗ trợ. Loại 7: Khoản vay có rủi ro rất cao, các chỉ tiêu đều có điểm đánh giá rất thấp, khả năng hoàn trả nợ vay đúng hạn từ dự án hoặc phương án gần như là không thể nếu không có các nguồn trả nợ khác ngoài dự án hoặc phương án hỗ trợ. 3.5.3 Công thức xác định lãi suất cho vay: Tùy chính sách tín dụng và khả năng chấp nhận rủi ro, mỗi NHTM sẽ đưa ra các ngưỡng giới hạn tối thiểu cần đạt về xếp loại khách hàng và xếp loại khoản vay khi xem xét cho vay. Thông thường, các khách hàng vay xếp hạng CC đến D hoặc các khoản vay xếp Loại 5 đến Loại 7 sẽ không được xem xét để cho vay mới. Trong trường hợp khoản vay đề nghị đủ điều kiện để cho vay, lãi suất cho vay được xác định như sau: Lãi suất huy Tỷ suất Phần bù Phần bù Tỷ suất lợi Lãi suất = động vốn + chi phí + rủi ro tín + rủi ro kỳ + nhuận cho vay bình quân hoạt động dụng hạn mục tiêu Lãi suất huy động vốn bình quân: được tính theo phương pháp tích số, bằng số dư Nợ chịu lãi nhân với từng mức lãi suất chia cho dư nợ tương ứng và chi tiết đến từng giao dịch ứng với từng lãi suất cụ thể. Lãi suất huy động vốn bình quân được xác định thông qua việc tính toán xử lý hệ thống dữ liệu tại ngân hàng. Tỷ suất chi phí hoạt động: Bằng tổng chi phí quản lý và các chi phí khác phân bổ đối với hoạt động cho vay chia tổng Tài sản bình quân phục vụ cho vay. Chi phí hoạt động gồm các khoản mục chi phí liên quan đến khoản vay, cụ thể: chi phí nộp thuế, các khoản phí và lệ phí; chi phí lương nhân viên; chi phí hoạt động quản lý và công cụ; chi về tài sản; chi về bảo toàn và bảo hiểm tiền gửi của khách hàng; chi phí bất thường. Phần bù rủi ro kỳ hạn: được xác định theo tỷ lệ % tương ứng với thời gian vay, thời gian vay càng dài thì phần bù rủi ro kỳ hạn càng cao. Tỷ suất lợi nhuận mục tiêu: là mức lợi nhuận mong đợi hay là tỷ lệ thu nhập hợp lý mà ngân hàng đặt ra trong mục tiêu kế hoạch tài chính của mình. Lợi nhuận
  57. Trang 57 mục tiêu là căn cứ để phân tích quy mô, bản chất yêu cầu kế hoạch tài chính cả trong ngắn, dài hạn để xác định tỷ lệ lãi suất cụ thể áp dụng đối với từng nhóm khách hàng tại một thời kỳ nhất định. Phần bù rủi ro tín dụng: Khi xem xét cho vay, NHTM (mà cụ thể là bộ phận tín dụng) phải thực hiện đánh giá rủi ro đối với nội dung khoản cấp tín dụng, khách hàng vay vốn. Dựa trên cơ sở phân tích đánh giá khoản vay và phân loại khách hàng, NHTM xác định một tỷ lệ lãi suất tối thiểu nhất định để bù đắp rủi ro đối với khoản tín dụng. Phần bù rủi ro tín dụng được xác định dựa trên mô hình đánh giá rủi ro tín dụng là một mô hình khách quan, chặt chẽ, đảm bảo độ tin cậy cao. 3.5.4 Xác định lãi suất cho vay đối với DN theo mô hình phân tích rủi ro tín dụng: Căn cứ kết quả phân loại khách hàng và kết quả đánh giá rủi ro khoản vay, mỗi khách hàng ứng với mỗi khoản vay sẽ có một mức lãi suất vay riêng biệt. Bảng 3.7: Lãi suất cho vay theo mô hình phân tích rủi ro tín dụng XẾP XẾP LOẠI KHÁCH HÀNG LOẠI KHOẢN AA A BB B CC C D VAY 1 BLR+P1AA BLR+P1A BLR+P1BB BLR+P1B BLR+P1CC BLR+P1C BLR+P1D 2 BLR+P2AA BLR+P2A BLR+P2BB BLR+P2B BLR+P2CC BLR+P2C BLR+P2D 3 BLR+P3AA BLR+P3A BLR+P3BB BLR+P3B BLR+P3CC BLR+P3C BLR+P3D 4 BLR+P4AA BLR+P4A BLR+P4BB BLR+P4B BLR+P4CC BLR+P4C BLR+P4D 5 BLR+P5AA BLR+P5A BLR+P5BB BLR+P5B BLR+P5CC BLR+P5C BLR+P5D 6 BLR+P6AA BLR+P6A BLR+P6BB BLR+P6B BLR+P6CC BLR+P6C BLR+P6D 7 BLR+P7AA BLR+P7A BLR+P7BB BLR+P7B BLR+P7CC BLR+P7C BLR+P7D – BLR là lãi suất cho vay tối thiểu để đạt được mức lợi nhuận mục tiêu, bù đắp được chi phí huy động vốn bình quân, chi phí hoạt động và cả phần bù rủi ro kỳ hạn. Lãi suất huy động Tỷ suất chi Tỷ suất lợi Phần bù rủi BLR = + + + vốn bình quân phí hoạt nhuận ro kỳ hạn
  58. Trang 58 động mục tiêu BLR đã bao gồm luôn cả phần bù rủi ro kỳ hạn. Do đó, ứng với thời gian vay của từng khoản vay cụ thể thì BLR có thay đổi theo sự thay đổi của phần bù rủi ro kỳ hạn. – Pij (với i = 1-7 và j = AA-D) là phần bù rủi ro tín dụng được xác định để bù đắp rủi ro đối với khoản vay trên cơ sở xếp loại khách hàng và đánh giá rủi ro khoản vay. – (BLR + Pij) là mức lãi suất cho vay đối với khoản vay loại i và khách hàng nhóm j. Như vậy, một khách hàng có thể sẽ có nhiều mức lãi suất áp dụng khác nhau ứng với từng khoản vay cụ thể. 3.5.5 Các chính sách lãi suất cho vay của NHTM: 3.5.5.1 CSLS thông thường: Ở đa số các khoản vay, NHTM cần xác định lãi suất cho vay đối với DN theo mô hình phân tích rủi ro tín dụng như đã phân tích ở phần trên nhằm đảm bảo lãi suất cho vay bù đắp được các rủi ro tín dụng và mang lại lợi nhuận hợp lý. Ví dụ: Công ty cổ phần dầu thực vật Tường An đề nghị vay 50 tỷ đồng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư Và Phát Triển Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện dự án mở rộng, thời gian vay 7 năm. Qua đánh giá Công ty xếp hạng AA, khoản vay xếp loại 2. Lãi suất cho vay cụ thể được xác định như sau: Lãi suất cho vay = [ BLR ] + [ Pij ] = [ BLR ] + [ P2AA ] = [ 7,1% + 0,3% + 1,7% + 0,6% ] + [ 1% + 0,25% ] = 10,95%/năm. Chi tiết xác định lãi suất cho vay cụ thể xem Phụ lục 6. Trong thị trường cạnh tranh cao, ngoài việc xác định lãi suất cho vay theo CSLS thông thường, trong một số trường hợp lãi suất còn là công cụ để NHTM thâm nhập thị trường, chiến lược cạnh tranh Tùy thuộc vào đặc điểm riêng có của mình mà mỗi NHTM có một CSLS phù hợp. Trong trường hợp giảm lãi suất để cạnh tranh thì NHTM chỉ nên xem xét giảm lãi suất cho vay trong phạm vi mức lợi nhuận dự kiến NHTM thu được từ cho vay.
  59. Trang 59 3.5.5.2 CSLS thâm nhập thị trường: Chính sách này không nhấn mạnh đến lợi nhuận và chi phí bù đắp tối thiểu trong ngắn hạn. Lãi suất đưa ra là thấp hơn lãi suất thị trường nhằm thu hút khách hàng. Chính sách này là nhằm mở rộng thị trường đối với các NHTM mới thành lập hoặc tại các địa bàn mới mà NHTM đang cần thâm nhập. Về cơ bản đây là một chiến lược hơn là một phương pháp, mục đích nhằm vào những thị trường đang trên đà tăng trưởng nhanh và còn khả năng phát triển. 3.5.5.3 CSLS cạnh tranh: Chính sách này thích hợp trong trường hợp để lôi kéo khách hàng về với ngân hàng, đặc biệt những khách hàng có chất lượng tín dụng tốt và đi kèm với tín dụng là các dịch vụ về tiền gửi, thanh toán. Để thu hút những khách hàng này NHTM đưa ra lãi suất cho vay thấp hơn thông thường (tuy nhiên vẫn phải đảm bảo không được thấp hơn giá vốn huy động + chi phí hoạt động). Việc gia tăng sự phụ thuộc của khách hàng vào ngân hàng làm cho khách hàng khó có thể bỏ đi nơi khác vì mối quan hệ bền chặt giữa khách hàng và ngân hàng. 3.5.5.4 CSLS theo mối quan hệ: Các khách hàng truyền thống đặc biệt, các ngành nghề đang nằm trong quy hoạch phát triển của địa phương, tỉnh hay cho vay hỗ trợ khắc phục khó khăn (lũ lụt, thiên tai), cho vay ngân sách tỉnh, cho vay theo chỉ định của Chính phủ có thể áp dụng lãi suất thấp hơn với mục đích hỗ trợ DN, hỗ trợ chính quyền thực thi chính sách trên địa bàn. 3.5.5.5 CSLS thắt chặt tín dụng: Một khi mức tăng trưởng tín dụng quá cao, nguồn vốn huy động không đáp ứng đủ để cho vay, NHTM có thể chủ động hạn chế tín dụng thông qua việc áp dụng lãi suất cao hơn mức lãi suất trên thị trường. Tuy nhiên, trong trường hợp này việc áp dụng lãi suất vay cao chỉ nên thực hiện đối với nhóm khách hàng chất lượng tín dụng trung bình trở xuống vì nếu áp dụng rộng rãi có khả năng ngân hàng sẽ mất luôn cả những khách hàng có chất lượng tín dụng tốt.