Luận văn Từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - PGS.TS Phạm Văn Hảo

pdf 175 trang phuongnguyen 4270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - PGS.TS Phạm Văn Hảo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_tu_lay_trong_tho_van_nguyen_dinh_chieu_pgs_ts_pham.pdf

Nội dung text: Luận văn Từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - PGS.TS Phạm Văn Hảo

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM  HOÀNG THỊ LAN TỪ LÁY TRONG THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU Chuyên ngành: NGÔN NGỮ Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM VĂN HẢO THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  2. LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành tác giả xin trân trọng cảm ơn: Khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên cùng các thầy giáo, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và góp ý cho tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên Sở GD&ĐT tỉnh Quảng Ninh, Ban Giám hiệu trường THPT Mông Dương - Quảng Ninh đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với PGS Phạm Văn Hảo, PGS Hà Quang Năng, TS Hoàng Cao Cương đã nhiệt tình, trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tác giả nghiên cứu hoàn thành luận văn. Những người thân trong gia đình và bạn bè thường xuyên động viên, khích lệ tác giả yên tâm học tập, nghiên cứu. Mặc dù tác giả có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy Cô và bạn bè đồng nghiệp quan tâm đến đề tài này. Thái Nguyên, tháng 10 năm 2009 Tác giả Hoàng Thị Lan Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  3. DANH MỤC CÁC ĐƠN VỊ VIẾT TẮT STT KÝ HIỆU DIỄN GIẢI 1 PNNB Phương ngữ Nam Bộ 2 LVT Lục Vân Tiên 3 NTYTVĐ Ngư tiều y thuật vấn đáp 4 DTHM Dương Từ Hà Mậu 5 VTNSCG Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc 6 VTNSTVLT Văn tế nghĩa sỹ trận vong lục tỉnh 7 VTTCĐ Văn tế Trương Công Định 8 TĐTCĐ Thơ điếu Trương Công Định 9 TĐPTG Thơ điếu Phan Thanh Giản 10 TĐPCT Thơ điếu Phan Công Tòng 11 C Câu (thứ) 12 Đ Đoạn 13 P Phần 14 Tr Trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 0 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 3.1. Đối tượng nghiên cứu 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu 5 4. Mục đích nghiên cứu 5 5. Phương pháp nghiên cứu 6 5.1. Phương pháp thống kê, phân loại 6 5.2. Phương pháp phân tích ngôn từ nghệ thuật 6 5.3. Phương pháp đối chiếu, so sánh 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6 6.1. Ý nghĩa lý luận 6 6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn 7 7. Cấu trúc của luận văn 7 NỘI DUNG Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN 8 1.1. Vấn đề từ láy trong tiếng Việt 8 1.1.1. Các khái niệm và các quan niệm xung quanh vấn đề về từ láy 8 1.1.2. Sự phân loại từ láy trong tiếng Việt 12 1.1.2.1. Quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trong từ láy 12 1.1.2.2. Phân loại từ láy về mặt cấu tạo 15 1.1.2.3. Phân loại từ láy về mặt ngữ nghĩa 18 1.2. Vài nét về PNNB và từ láy trong PNNB 20 1.2.1. Đặc điểm của PNNB 20 1.2.1.1. Đặc điểm ngữ âm 20 1.2.1.2. Đặc điểm từ vựng 21 1.2.2. Từ láy trong PNNB 23 1.2.2.1. Từ láy đôi 23 1.2.2.2. Từ láy ba, tư 25 1.3. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu 26 1.3.1. Con người và cuộc đời 26 1.3.2. Sự nghiệp văn chương 28 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  5. 1.3.2.1. Quan điểm sáng tác 28 1.3.2.2. Nội dung sáng tác 28 1.3.2.3. Đặc điểm ngôn ngữ văn chương 32 1.4. Tiểu kết chương 1 35 Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG CÁC TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 37 2.1. Kết quả khảo sát thống kê chung 37 2.2. Đặc điểm cấu tạo 37 2.2.1. Phân loại từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu 37 2.2.1.1. Phân loại từ láy theo số lượng âm tiết 37 2.2.1.2. Phân loại từ láy theo quy tắc điệp và đối 37 2.2.2. Thanh điệu trong từ láy 44 2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa 45 2.3.1. Quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trong từ láy 45 2.3.1.1. Từ láy xác định được thành tố gốc 45 2.3.1.2. Từ láy không xác định được thành tố gốc 48 2.3.1.3. Những từ láy mà cả hai thành tố đều có nghĩa 49 2.3.2. Sự biến đổi nghĩa của từ láy theo tiến trình lịch sử 51 2.3.2.1. Những từ láy hiện nay không còn được sử dụng 51 2.3.2.2. Những từ láy có sự biến đổi về ý nghĩa 55 2.3.2.3. Những từ láy có sự khác biệt về khả năng kết hợp 59 2.4. Đặc điểm ngữ pháp 63 2.4.1. Đặc điểm về từ loại 63 2.4.1.1. Danh từ 63 2.4.1.2. Tính từ 66 2.4.1.3. Động từ 67 2.4.2. Sự kết hợp và chức năng cú pháp của từ láy 68 2.4.2.1. Từ láy với chức năng là chủ ngữ và trạng ngữ 69 2.4.2.2. Từ láy với chức năng cú pháp là vị ngữ 69 2.4.2.3. Từ láy với chức năng cú pháp là bổ ngữ 70 2.4.2.4. Từ láy với chức năng cú pháp là định ngữ 71 2.4.2.5. Từ láy với các chức năng khác 72 2.5. Phạm vi sử dụng 73 2.5.1. Những từ láy là PNNB trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu 73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  6. 2.5.2. Từ láy giả thuyết được tác giả sáng tạo trong quá trình sáng tác 77 2.5.2.1. Nhóm từ do tác giả tạo ra trong việc vận dụng từ với dụng ý nghệ thuật 77 2.5.2.2. Nhóm do tác giả sáng tạo dựa trên sự gần gũi với từ địa phương 79 2.6. Tiểu kết chương 2 81 Chƣơng 3. ĐÓNG GÓP VỀ MẶT NGÔN NGỮ VĂN CHƢƠNG CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU QUA VIỆC SỬ DỤNG TỪ LÁY 84 3.1. Nguyễn Đình Chiểu đối với việc phát triển ngôn ngữ văn chương của dân tộc 84 3.2. Hiệu quả đặc biệt của từ láy trong tư duy hình tượng 86 3.3. Vai trò của từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu 89 3.3.1. Từ láy với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm 89 3.3.1.1. Hình tượng con người nghĩa khí, tiết hạnh 90 3.3.1.2. Hình tượng người nghĩa binh 100 3.3.2. Từ láy trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên 103 3.3.3. Từ láy trong việc thể hiện tâm trạng, thái độ nhà thơ trước thời cuộc 106 3.3.3.1. Từ láy với giá trị gợi tả, biểu cảm trong các bài văn tế 107 3.3.3.2. Từ láy với giá trị gợi tả, biểu cảm trong thơ luật Đường 110 3.3.3.3. Từ láy với giá trị gợi tả, biểu cảm trong Hịch 113 3.3.4. Từ láy với các biện pháp tu từ 115 3.3.4.1. Biện pháp so sánh 115 3.3.4.2. Biện pháp đảo ngữ 117 3.3.4.3. Biện pháp đối 118 3.4. Vấn đề giảng dạy thơ văn và ngôn ngữ văn chương Nguyễn Đình Chiểu trong nhà trường 122 3.5. Tiểu kết chương 3 124 KẾT LUẬN 127 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 131 TÀI LIỆU THAM KHẢO 132 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo nên các tác phẩm văn học nghệ thuật, bởi nó là đơn vị chất liệu cơ bản của ngôn ngữ dùng để tạo ra các thông điệp. Khi sáng tác, các nhà văn, nhà thơ đều hết sức chú trọng đến việc lựa chọn, thậm chí đắn đo cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định dùng một từ nào đó. Lịch sử văn học đã chứng minh một tác phẩm văn học có tồn tại với thời gian hay không là tuỳ thuộc vào những giá trị mà tác phẩm đó mang lại, trong đó có khả năng sử dụng ngôn từ của tác giả. Láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng của tiếng Việt. Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt từ láy chiếm một số lượng phong phú. Mấy thập kỷ qua, từ láy tiếng Việt luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước bởi tính đa diện, phức tạp nhưng cũng đầy lý thú của nó. Đối với các sáng tác văn chương thì sự tồn tại của từ láy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi giá trị tượng thanh, tượng hình, cũng như giá trị biểu cảm rõ rệt mà nó tạo ra. Vì vậy khi nói về tác dụng của từ láy Đỗ Hữu Châu có nhận định “Mỗi từ láy là một nốt nhạc về âm thanh chứa đựng trong mình một bức tranh cụ thể của các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác làm theo những ấn tượng chủ quan, những cách đánh giá, những thái độ của người nói trước sự vật, hiện tượng đủ sức thông qua các giác quan hướng nội và hướng ngoại của người nghe mà tác động mạnh mẽ đến họ ” [7, tr.54]. Có thể nói từ láy là một công cụ đặc biệt của các nhà văn, nhà thơ trong quá trình sáng tác. Trong nền văn học viết Việt Nam đã có nhiều tác phẩm lớn được tìm hiểu về giá trị của lớp từ láy như: “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi; “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; một số khúc ngâm thế kỷ XIX; các tác phẩm thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Nguyễn Khuyến, thơ Tú Xương, thơ Xuân Diệu, Thơ Tố Hữu và không phải ngẫu nhiên mà chúng tôi chọn tác gia Nguyễn Đình Chiểu làm đối tượng nghiên cứu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
  8. Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác giả lớn của nền văn học Việt Nam cận đại, một tấm gương đạo đức cao cả trong quan hệ đời sống hằng ngày cũng như trong quan hệ với dân với nước. Nói đến Nguyễn Đình Chiểu là nói đến một cây bút có sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa văn và người, giữa sống và viết. Tiếp cận với Nguyễn Đình Chiểu là tiếp cận với lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX, một cây bút Nam Bộ tiêu biểu và một sự nghiệp văn thơ chở đạo cứu đời, một thứ văn trữ tình đạo đức có ảnh hưởng to lớn đối với đời sống tinh thần dân tộc, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ. Đúng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nói “Đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng văn học, nghệ thuật, nêu cao sức mạnh của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá và tư tưởng” [58, tr.74]. Vì vậy nghiên cứu về vấn đề ngôn ngữ văn chương của ông là một việc làm có ý nghĩa. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nói chung và về ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương của ông nói riêng. Tuy nhiên về ngôn ngữ trong các tác phẩm văn chương các tác giả nghiên cứu mới dừng lại ở một vài khía cạnh của việc sử dụng từ ngữ ở tác phẩm cụ thể chứ chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống từ vựng tiếng Việt xuyên suốt toàn bộ sáng tác văn chương của Nguyễn Đình Chiểu. Đặc biệt việc sử dụng từ láy trong tác phẩm văn chương của ông thì còn ít được đề cập tới. Đối với chương trình Văn học thuộc phạm vi nhà trường ở mọi cấp học thì thơ văn Nguyễn Đình Chiểu được đưa vào giảng dạy với số lượng kiến thức tương đối lớn. Tuy nhiên từ trước tới nay việc giảng dạy tác phẩm trong nhà trường cũng như các sách dành cho nghiên cứu giảng dạy đặc điểm ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Đình Chiểu cũng chưa thực sự quan tâm, chưa khai thác và thấy hết được giá trị nghệ thuật, nét riêng của từ láy cũng như sự đắc dụng của nó để tạo nên phong cách văn chương Nguyễn Đình Chiểu. Vì những lẽ đó chúng tôi chọn đề tài “Từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu” để tìm hiểu với hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ giúp chúng ta nhìn nhận một cách toàn diện hơn, đầy đủ hơn về sự phát triển của ngôn ngữ văn học, về sự phong phú Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
  9. đa dạng và khả năng biểu đạt tinh tế, chính xác, linh hoạt của lớp từ láy tiếng Việt, đồng thời góp phần hỗ trợ việc giảng dạy ngôn ngữ văn thơ Nguyễn Đình Chiểu trong nhà trường. 2. Lịch sử vấn đề Trong cuốn “Hoạt động của từ tiếng Việt” tác giả Đái Xuân Ninh cho biết về lịch sử phát triển của từ láy tiếng Việt qua kết quả nghiên cứu của mình như sau: Từ láy xuất hiện từ thế kỷ thứ XII sau khi hệ thống thanh điệu được hình thành. Nhờ có hệ thống thanh điệu phong phú nên phép láy từ dễ dàng phát triển. Nó phát triển đỉnh cao ở thế kỷ XVII-XVIII trong nhiều tác phẩm tiêu biểu viết bằng chữ Nôm của nền văn học cổ điển Việt Nam như: “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm), “Cung oán ngâm khúc” (Nguyễn Gia Thiều), “Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương” Đến giai đoạn sau từ láy phát triển với nhịp độ chậm hơn, nó nhường bước cho các phương pháp tạo từ mới đáp ứng sự phát triển của khoa học kỹ thuật, phù hợp với cách biểu đạt những khái niệm chính xác. Tuy nhiên đến nay láy vẫn là một phương pháp cấu tạo từ cơ bản và có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các giá trị về nghĩa. Trong lĩnh vực ngôn ngữ học việc nghiên cứu về từ láy tiếng Việt đã được các tác giả như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Hành, Đái Xuân Ninh, Hà Quang Năng, Hoàng Cao Cương, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Phi Tuyết Hinh, Đào Thản, Nguyễn Thị Hai, Hữu Đạt, Nguyễn Đức Tồn chú ý nghiên cứu về các đặc điểm như: đặc điểm cấu tạo, đặc trưng ngữ nghĩa, giá trị biểu trưng, giá trị gợi tả âm thanh, hình ảnh, giá trị biểu cảm của từ láy. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu bao gồm: các sách nghiên cứu về tiếng Việt trong đó có từ láy, những chuyên luận về từ láy các tác phẩm là các bài nghiên cứu trên các tạp chí. Có thể kể đến như: Cách sử lí những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ của Đỗ Hữu Châu in trong tạp chí ngôn ngữ số 1, 1971. Trường từ vựng ngữ nghĩa và việc dùng từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật của Đỗ Hữu Châu đăng trong tạp chí ngôn ngữ số 3, 1974. Từ láy trong phương ngữ Nam Bộ của Trần Thị Ngọc Lang in trong tạp chí ngôn ngữ số 3, 1992. Từ láy trong tiếng việt và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
  10. sự cần thiết phải nhận diện nó của Phan Văn Hoàng đăng trong tạp chí ngôn ngữ số 4, 1985. Về một hiện tượng láy trong phương ngữ miền Nam của Trịnh Sâm in trong tập những vấn đề về ngôn ngữ học và các ngôn ngữ phương Đông, Viện ngôn ngữ học xb 1986. Từ láy trong tiếng Việt của Hoàng Văn Hành Nxb Khoa học Xã hội, 1985. Về một hiện tượng láy trong tiếng Việt của Hoàng Văn Hành, đăng trong tạp chí ngôn ngữ số 2, 1979. Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại của Hồ Lê, Nxb Khoa học Xã hội, 1976. Về từ lấp láy của văn học thế kỷ XVII đăng trong cuốn “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ”, tập 2 Nxb Khoa học Xã hội 1981, Vấn đề từ láy trong tiếng Việt của Hà Quang Năng in trong Từ láy những vấn đề còn bỏ ngỏ, Nxb Khoa học Xã hội, 1998 Cũng có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề từ láy trong các tác phẩm văn học Việt Nam như: “Hệ thống từ láy tiếng Việt trong một số khúc ngâm thế kỷ XIX” luận văn thạc sĩ ngữ văn của Nguyễn Thị Hường Đại học Sư phạm Hà Nội (2004), “Tìm hiểu giá trị từ láy trong sử dụng (Khảo sát qua thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương)” luận văn thạc sĩ ngữ văn của Nguyễn Thị Thu Hương Đại học Sư phạm Hà Nội Nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu ngoài học giả Pháp thì 50 năm sau ngày mất của ông, năm 1938, Phan Văn Hùm là người Việt Nam đầu tiên đứng ở góc độ khoa học đã lý giải mối quan hệ giữa sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với cuộc đời ông. Trong những dịp kỷ niệm ngày mất của nhà thơ, 75 năm, 150 năm đã có nhiều bài nghiên cứu trong đó có các vấn đề ngôn ngữ văn chương có thể kể đến: Để có một văn bản “Lục Văn Tiên” gần với nguyên tác hơn của Lê Hữu in trong Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 22, ngày 2 -7-1998. Góp phần tìm hiểu ngôn ngữ truyện (Lục Vân Tiên) của Trịnh Sâm in trong Nguyễn Đình Chiểu, kỷ yếu hội nghị khoa học về Nguyễn Đình Chiểu do viện khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh bến tre phối hợp tổ chức nhân kỷ niệm lần thứ 160 ngày mất của nhà thơ (sđd). Nguyễn Đình Chiểu, cái mốc lớn trên tiến trình của tiếng Việt văn học của Hồng Dân, (sđd). Mấy nhận xét tổng quát về ngôn ngữ trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu của Nguyễn Thạch Giang, (sđd). Mấy ý kiến về công tác văn bản nhân đọc cuốn “Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu” của Trần Nghĩa in trong tạp chí Văn học, H, số 4 (7, 8/1972). Một số vấn đề cần quan tâm trong công tác văn bản của Nguyễn Đình Chiểu, bài viết của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
  11. Bùi Đức Tịnh in trong cuốn: Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản giáo dục, 1998. Lời nói đầu bản dịch Lục Vân Tiên của Ô Bare (Gabriel Auba ret) in trong: Kỷ yếu Châu á, loại thứ 6, tập III, 1864. Vài nét về từ phương ngôn trong ngôn ngữ Nguyễn Đình Chiểu của Nguyễn Công Đức, (sđd). Vài nhận xét về tiếng địa phương Nam Bộ trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Công Lư, (sđd). Văn bản Nôm với vấn đề phương ngữ trong “Lục Vân Tiên” của Trần Kim Anh và Hoàng Thị Ngọ, (sđd). Tiếng địa phương miền Nam trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu của Hoàng Tuệ viết cùng Phạm Văn Hảo và Lê Văn Trường in trong Tạp chí ngôn ngữ 1984 Trước đó ít lâu, tập thư mục về Nguyễn Đình Chiểu đã được ấn hành, tóm lược nội dung của 551 đơn vị tài liệu giúp vào việc nghiên cứu về nhà thơ từ nhiều phương diện. Qua các công trình tiêu biểu nói trên cũng như một số chuyên luận khảo cứu sau đó cho chúng ta thấy việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu đã ngày càng được mở rộng và đào sâu trên cơ sở tư liệu về nhiều mặt. Chúng tôi thiết nghĩ công việc nghiên cứu về ngôn ngữ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu vẫn cần được tiếp tục đề tài này của chúng tôi là một cố gắng theo hướng đó. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là toàn bộ các từ láy và việc sử dụng chúng trong tất cả các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm từ láy ở các mặt cấu trúc, ngữ nghĩa và giá trị sử dụng của chúng trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. 4. Mục đích nghiên cứu - Điều tra khảo sát để thống kê phân loại từ láy Nguyễn Đình Chiểu sử dụng trong thơ văn. - Khảo sát nghiên cứu đặc điểm của từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu về các phương diện cấu tạo, đặc điểm ngữ pháp và đặc trưng ngữ nghĩa, phạm vi sử dụng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
  12. - Bước đầu phân tích làm sáng tỏ vai trò, giá trị của từ láy được sử dụng trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu trong việc xây dựng, khắc họa các hình tượng văn học, gợi tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước thời cuộc, từ láy với các biện pháp tu từ. Trên cơ sở đó rút ra một số nhận xét về nét đặc sắc của từ láy trong thơ văn ông. - Đóng góp bước đầu cho việc tìm hiểu những tác giả, tác phẩm văn chương ở địa phương gắn với việc dạy học về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu trong trường phổ thông. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau đây: 5.1. Phương pháp thống kê, phân loại Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để cung cấp những số liệu chính xác về từ láytạo cơ sở thực tế đáng tin cậy để từ đó đưa ra những nghiên cứu tiếp theo. Sử dụng phương pháp này chúng tôi đưa ra những con số thống kê về từ láy trong toàn bộ sáng tác của nguyễn Đình Chiểu, phân loại chúng về kiểu láy, tần số xuất hiện, khả năng biểu đạt giá trị nội dung của chúng. 5.2. Phương pháp phân tích ngôn từ nghệ thuật Đây là phương pháp xuyên suốt luận văn. Chúng tôi sẽ trực tiếp phân tích các từ láy thể hiện trong các câu, trong đoạn văn, đoạn thơ. Khi nhận xét, đánh giá về từ láy chúng tôi đồng thời đưa ra những dẫn chứng cụ thể để chứng minh về những đặc điểm và giá trị của từ láy trong các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. 5.3. Phương pháp đối chiếu, so sánh Vận dụng phương pháp này chúng tôi đối chiếu, so sánh các từ láy đang xem xét với các từ láy có trong một số cuốn từ điển mà chúng tôi sử dụng nghiên cứu và làm một số thống kê cần thiết. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần tìm hiểu thêm về từ láy tiếng Việt và từ láy phương ngữ. Đây cũng là lớp từ đặc biệt quan trọng được sử dụng nhiều trong ngôn ngữ nghệ thuật, tạo nên những giá trị đặc sắc cho những tác phẩm văn chương, ngôn ngữ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
  13. văn chương nói chung và ngôn ngữ của tác giả, trong đó có Nguyễn Đình Chiểu nói riêng. Luận văn góp phần nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa, giá trị sử dụng của một lớp từ khi tham gia vào các văn bản cụ thể, để thấy rõ tài năng, nét riêng của tác giả văn học nói chung và nguyễn Đình Chiểu nói riêng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. 6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn Việc tìm ra những đặc điểm của từ láy trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu giúp cho việc nghiên cứu và phân tích ngôn ngữ các tác phẩm văn chương của ông được đầy đủ, chính xác và toàn diện hơn. Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu về ngôn ngữ Nguyễn Đình Chiểu và có đóng góp nhất định trong việc giảng dạy tác phẩm văn thơ của các tác giả trong nhà trường ở các cấp học. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Phụ lục, luận văn gồm ba chương với những nội dung chính sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và những vấn đề có liên quan Chương 2: Đặc điểm từ láy trong các tác phẩm của nguyễn đình chiểu Chương 3: Những đóng góp về mặt ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Đình Chiểu qua việc sử dụng từ láy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
  14. NỘI DUNG Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN 1.1. Vấn đề từ láy trong tiếng Việt 1.1.1. Các khái niệm và các quan niệm xung quanh vấn đề về từ láy Láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng của tiếng Việt. Nói đến từ láy là nói đến một lớp từ có giá trị đặc biệt bởi khả năng gợi tả, gợi cảm, tạo âm thanh hình ảnh cao của nó. Trong Việt ngữ học đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, đồng thời cũng có nhiều cách lý giải khác nhau về hiện tượng láy và từ láy. Ở đây chúng tôi xin nêu ra các khái niệm tiêu biểu với những quan niệm của các nhà nghiên cứu về hiện tượng láy tiếng Việt. Đây là một công việc cần thiết để hiểu rõ hơn cũng như thấy được tầm quan trọng, sự quan tâm đặc biệt của các nhà ngôn ngữ đối với lớp từ này. Những quan điểm nêu sau đây sẽ là cơ sở để chúng tôi lựa chọn một quan điểm nhất quán tạo sự thuận lợi cho việc thống kê, phân loại từ láy trong đề tài. Như đã đề cập, xung quanh vấn đề về từ láy tiếng Việt có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến từ láy và hiện tượng láy, các đặc trưng của của từ láy như: đặc điểm cấu tạo, đặc trưng ý nghĩa, giá trị gợi tả âm thanh, hình ảnh, giá trị biểu cảm Những kết quả đạt được cho thấy sự khám phá về hiện tượng láy trong tiếng Việt là hết sức khả quan. Tuy nhiên bên cạnh kết quả đó còn tồn tại không ít vấn đề còn đang được bàn cãi, tranh luận do còn có nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà nghiên cứu. Ngay trong khái niệm về từ láy cũng đã tồn tại nhiều tên gọi khác nhau: từ phản điệp (Đỗ Hữu Châu, 1962); từ lắp láy (Hồ Lê, 1976); từ lấp láy Nguyễn Nguyên Trứ, 1970); Từ láy âm (Nguyễn Tài Cẩn,1975; Nguyễn Văn Tu, 1976); từ láý (Đào Thản, 1970; Hoàng Văn Hành, 1979, 1985; Nguyễn Thiện Giáp, 1985; Đỗ Hữu Châu, 1986; Diệp Quang Ban, 1989). Có thể nêu ra một vài định nghĩa tiêu biểu cho các tên gọi trên như sau: Nguyễn Tài Cẩn cho rằng: “Từ láy âm là loại từ ghép trong đó, theo con mắt nhìn của người Việt hiện nay, các thành tố trực tiếp được kết hợp lại với nhau chủ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
  15. yếu theo quan hệ ngữ âm. Quan hệ ngữ âm được thể hiện ra ở chỗ là các thành tố trực tiếp phải tương ứng với nhau về hai mặt: mặt yếu tố siêu âm đoạn tính (thanh điệu) và mặt yếu tố âm đoạn tính (phụ âm đầu, âm chính giữa, vần và âm cuối vần” [4, tr.109]. Đỗ Hữu Châu định nghĩa: “Từ láy là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương thức lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết (với những thanh điệu giữ nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh, tức là quy tắc thanh điệu, biến đổi theo hai nhóm, nhóm cao: thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang và nhóm thấp: thanh huyền, thanh ngã, thanh nặng) của một hình vị hay đơn vị có nghĩa” [7, tr.41]. Nguyễn Thiện Giáp nêu: “Ngữ láy âm là những cụm từ được hình thành do sự lặp lại hoàn toàn hay lặp lại có kèm theo sự biến đổi ngữ âm nào đó của từ đã có. Đặc trưng ngữ nghĩa nổi bật của ngữ láy âm là giá trị gợi tả (biểu cảm, mô phỏng, tượng hình, tượng thanh)” [23, tr.188]. Hoàng Văn Hành quan niệm: “Từ láy, nói chung, là từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hoà với nhau về âm và về nghĩa, có giá trị biểu trưng hoá” [32, tr.27]. Hồ Lê nêu: “Từ đơn lắp láy là một loại từ khá đặc biệt, xét về mặt cấu tạo. Nó có tính chất của từ đơn nhưng không phải hoàn toàn là từ đơn; nó được tạo ra theo phương thức lắp láy. Nhưng trong không ít trường hợp, quan hệ lắp láy về mặt ngữ nghĩa lại không được hiện ra một cách rõ ràng” [49, tr.206]. Nguyễn Nguyên Trứ lại cho rằng: “Từ láy đôi trong tiếng Việt hiện đại là một loại từ đơn trong đó có sự láy lại hoặc là toàn bộ âm tiết, hoặc là phần phụ âm đầu hay phần vần trong kết cấu âm tiết của hai yếu tố tạo thành. Giữa hai âm tiết thường có mối quan hệ thanh điệu theo những quy luật nhất định” [76, tr.52]. Sự tồn tại nhiều tên gọi khác nhau về cùng một khái niệm như trên cũng cho thấy quan niệm về từ láy còn có nhiều điểm chưa thống nhất. Có hai cách nhìn khác nhau về hiện tượng láy của các nhà nghiên cứu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
  16. * Cách nhìn thứ nhất coi láy là ghép: Lê Văn Lý xem từ láy là một trong hai kiểu từ ghép trong tiếng Việt (1972). Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê đã gộp từ láy và từ ghép vào một khái niệm chung, bao quát hơn là từ kép (1963). Nguyễn Văn Tu gọi là từ ghép láy âm, coi đó là “Những từ ghép vì thực chất chúng được cấu tạo ra bởi một từ tố với bản thân nó không bị biến âm hoặc bị biến âm” [78, tr.68]. Nguyễn Tài Cẩn có quan niệm rộng về từ láy, ông cho rằng “Từ láy là loại từ ghép, trong đó theo con mắt nhìn của người Việt hiện nay, các thành tố trực tiếp được kết hợp lại với nhau chủ yếu là theo quan hệ ngữ âm. Quan hệ ngữ âm được thể hiện ra ở chỗ là các thành tố trực tiếp phải có sự tương ứng với nhau về hai mặt: Mặt yếu tố siêu âm đoạn tính (thanh điệu) và mặt yếu tố âm đoạn tính (phụ âm đầu, âm chính giữa vần và âm cuối vần). Sở dĩ trong định nghĩa tác giả phải nói “trong con mắt nhìn của người Việt hiện nay” là vì có nhiều tổ hợp vốn trước đây thuộc vào kiểu ghép nghĩa, nhưng hiện nay đứng trên diện đồng đại mà xét thì chuyển sang thành kiểu láy âm [4, tr.109-111]. Đây là một quan niệm rộng, nhưng xét theo quan niệm này thì các loại từ sau cũng bị loại ra khỏi phạm vi của lớp từ này. Đó là những từ mà hai yếu tố chỉ có sự láy lại ở riêng thanh điệu, VD: tình cờ, vững chãi, bẩn thỉu ; những từ mà chỉ có sự láy lại ở riêng âm chính trong hai yếu tố, VD: ton hót, tun hút, vườn tược ; những tổ hợp mà sự láy lại chỉ là cách lặp của lời nói, không có khả năng tạo đơn vị cho ngôn ngữ, VD: vâng vâng, không không, dạ dạ Một số nhà nghiên cứu khác cũng coi láy là ghép nhưng lại đưa ra khỏi phạm vi từ láy những loại từ sau: - Những từ vốn là từ ghép, nhưng một trong hai yếu tố hiện không còn rõ nghĩa, như: chùa chiền, chim chóc, tuổi tác - Những từ vốn là từ gốc Hán, đó là các từ: bàng hoàng, hỗn độn, hùng hổ - Những từ là danh từ định danh sự vật. Đó là các từ: ba ba, cào cào, chuồn chuồn, tu hú - Những tổ hợp thực chất chỉ là sự lặp lại của một đơn vị từ vựng. Đó là các từ: ai ai, đêm đêm, ngày ngày, người người Theo sự loại trừ như trên, từ láy chỉ bao gồm những từ được tạo ra bằng phương thức láy, trong đó mỗi từ có nhiều nhất là có một tiếng gốc. Vì đặc điểm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
  17. của từ láy là có sự hài hòa về ngữ âm và có sự biểu cảm, gợi tả, nhưng xét đặc điểm các đơn vị cấu tạo từ láy so với từ ghép, Nguyễn Thiện Giáp thừa nhận: “Có thể coi từ láy cũng là một hiện tượng ghép đặc biệt, một đơn vị được ghép với chính nó để tạo ra một đơn vị mới” [22, tr.92]. Hồ Lê coi “từ láy là một loại từ ghép thực bộ phận gồm hai từ tố” một từ tố vốn là nguyên vị thực và một từ tố vốn không phải là nguyên vị thực có quan hệ lắp láy với nhau. Có thể gọi nó là từ ghép thực bộ phận lắp láy, hoặc gọn hơn từ ghép lắp láy” [49, tr.261]. * Cách nhìn thứ hai coi láy là sự hòa phối ngữ âm có giá trị biểu trưng hóa. Đại diện cho cách nhìn này là Đỗ Hữu Châu, Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Hành. Cách nhìn này thể hiện ở sự nhận định cho rằng trong từ láy có sự chi phối của quy luật hài âm hài thanh. Theo Hoàng Tuệ, từ láy nên được xem xét cả về mặt cơ trình cấu tạo của nó chứ không phải chỉ về mặt cấu trúc. “Nên hiểu láy là phương thức cấu tạo những từ mà trong đó có một tương quan âm-nghĩa nhất định. Tương quan ấy có tính chất tự nhiên, trực tiếp như: gâu gâu, cu cu Nhưng tương quan ấy tinh tế hơn nhiều, được cách điệu hóa trong những từ: lác đác, bâng khuâng, long lanh Sự cách điệu ấy chính là sự biểu trưng hóa ngữ âm. Cho nên láy là sự hòa phối giữa ngữ âm có tác dụng biểu trưng hóa” [79, tr.21-24]. Khi thừa nhận láy là sự hòa phối ngữ âm có giá trị biểu trưng hóa, thì chính là đã coi “láy là một cơ chế”. Quá trình cấu tạo từ láy là một cơ trình phức tạp. Cơ trình này quán xuyến cả hai mặt ngữ âm và ngữ nghĩa. Cơ trình cấu tạo từ láy được Hoàng Văn Hành coi là có chịu sự chi phối của xu hướng hòa phối ngữ âm có giá giá trị biểu trưng hóa [32, tr.22]. “Xét về nhiều mặt, có thể nhận định rằng quan điểm coi láy là sự hòa phối âm có tác dụng biểu trưng hóa có nhiều ưu điểm hơn quan điểm coi từ láy là ghép” [32, tr.23]. Trước hết cách nhìn này chú ý đến cả mặt âm và nghĩa, tín hiệu ngôn ngữ. Nếu chỉ xét từ láy về mặt cấu tạo, thì hoàn toàn có thể lý giải láy là ghép. Nhưng như vậy sẽ không giải thích được mục đích của hiện tượng láy: láy để làm gì, và vì sao cùng một tiếng gốc lại có thể tạo ra nhiều từ láy khác nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
  18. VD: xinh > xinh, xinh xẻo, xinh xắn xốp > xôm xốp, xốp xộp, xốp xồm xộp Mặt khác cách nhìn này vừa xem xét láy trong cơ trình cấu tạo nó, vừa xem xét nó trong hành chức với tư cách một tín hiệu đặc thù của ngôn ngữ. Do đó cách nhìn coi “láy là sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hóa” khác về bản chất so với cách nhìn coi “láy là ghép”. Bởi nếu như cách nhìn coi láy là ghép cố gắng đi tới một sự khái quát hóa khoa học thiên về mặt hình thức, cấu trúc, thì cách nhìn thứ hai cố gắng đi tới một sự khái quát hóa quán xuyến cả mặt cấu trúc và mặt chức năng của từ láy. 1.1.2. Sự phân loại từ láy trong tiếng Việt 1.1.2.1. Quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trong từ láy Đa số các nhà nghiên cứu đều quan niệm từ láy như một đơn vị từ vựng gồm hai thành tố: thành tố gốc và thành tố láy, trong đó thành tố gốc sản sinh ra thành tố láy, còn thành tố láy chính là thành tố gốc bị biến dạng đi ít nhiều theo những quy tắc nhất định trong quá trình láy. VD: đỏ (thành tố gốc) → đo đỏ (đo là thành tố láy) rối (thành tố gốc) → bối rối (bối là thành tố láy) “Phương thức cấu tạo nên các từ phức theo cách tạo ra hình vị láy là hình vị cơ sở” [5, tr.55]. Trong tiếng Việt, có những tiếng có giá trị như những hình vị, gọi là tiếng-hình vị. Để cấu tạo từ láy người ta nhân đôi tiếng-hình vị theo quy tắc nhất định. Tiếng-hình vị được dùng làm cơ sở để mà nhân đôi gọi là tiếng gốc, còn tiếng xuất hiện trong quá trình nhân đôi ấy gọi là tiếng láy [32, tr.85]. Những nhà nghiên cứu chủ trương có thành tố gốc (hay đơn vị cơ sở, hình vị cơ sở) để tạo ra từ láy đều cho rằng: hễ có thành tố nào trong từ láy có hình thức đồng nhất với một đơn vị từ riêng tự nhiên có nghĩa tồn tại độc lập ở bên ngoài thì đó là thành tố gốc, phần còn lại được xem là thành tố láy. Theo cách hiểu của nhiều nhà nghiên cứu, thành tố gốc là một tín hiệu có nghĩa, độc lập như lạnh, bàn, có khi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
  19. là một tín hiệu có nghĩa nhưng không độc lập như khệ, hỗn, trong khệ nệ, hỗn độn” [9, tr.55]. Trong tiếng Việt có rất nhiều từ láy mà trong thành phần cấu tạo dễ dàng xác định được những yếu tố tự thân có nghĩa, có khả năng hoạt động độc lập như một từ. Đó chính là những thành tố gốc hay hình vị cơ sở tạo nên các từ láy kiểu như: lành lặn, nhỏ nhen, bập bồng, đẹp đẽ, sáng sủa, vội vàng [84, tr.8-9]. Bên cạnh đó tiếng Việt còn có rất nhiều từ láy, mà trên quan điểm đồng đại, rất khó và dường như không xác định được thành tố gốc. Đó là những từ láy kiểu: đủng đỉnh, bâng khuâng, thình lình, băn khoăn, mang máng [84, tr.10]. Lý giải của các nhà nghiên cứu về vấn đề này không giống nhau: Chỉ thừa nhận các từ láy được tạo ra bằng phương thức láy lại một tín hiệu đơn âm tiết cơ bản (tức là một tín hiệu có ý nghĩa độc lập, hoặc có khi là một tín hiệu có ý nghĩa nhưng không có tính độc lập) là những từ láy chân chính. Quan niệm này được thể hiện trong “Giáo trình Việt ngữ” tập I [1962, tr.262] và tập II [1962, tr.132-133]. Tuy nhiên trong cả hai giáo trình, các tác giả đều thừa nhận trong thực tế tồn tại khá nhiều trường hợp rất khó xác định hình thức cơ bản như: chạng vạng, la đà, lê thê và không được coi là những từ láy chân chính những từ kiểu như: đu đủ, bìm bịp Vấn đề đặt ra là: “Trên cơ sở nào các từ láy xác định được yếu tố gốc là những từ láy chân chính, còn không xác định được yếu tố gốc là những từ láy không chân chính, trong khi nói đến hiện tượng láy, người bản ngữ trực cảm trước hết đến những đặc điểm hình thức ngữ âm đặc thù của nó? Trên thực tế số lượng các từ láy không thể xác định được thành tố gốc, và do đó, cũng không xác định được thành tố láy trong tiếng Việt hiện đại là khá lớn. Cho nên, sẽ khó có thể coi là một quan niệm khoa học về từ láy khi mà theo đó sẽ không giải thích được một số lượng từ lớn mà hầu như nhà Việt ngữ học nào cũng coi là từ láy, và phải coi chúng là những từ láy không chân chính [55, tr.12]. Hoàng Văn Hành lý giải: “Coi việc không xác định được thành tố gốc của từ láy là kết quả của quá trình mờ nghĩa của từ gốc” [32, tr.26]. Tác giả chia từ láy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
  20. thành hai loại: từ láy có lý do và từ láy không có lý do. Từ láy có lý do là từ láy mà nghĩa của nó được xác định nhờ cấu trúc của bản thân nó, VD: chín chắn, có thể giải thích được trên cơ sở nghĩa của từ tố chính và khuôn vần [ch-]-ắn. Từ láy không có lý do là từ láy mà nghĩa của nó không thể giải thích được bằng cấu trúc bản thân nó. Theo tác giả tính không có lý do của các từ láy loại này là do quá trình mờ nghĩa của từ tố gốc. Tác giả đã viện dẫn ra một số cứ liệu lịch sử tiếng Việt thế kỷ XV-XVIII, tiến hành thao tác phục nguyên nhằm lý giải quá trình xuất hiện của một số từ láy, như: lê thê (< thê thê < thê), vằng vặc (< vặc vặc < vặc), leo lẻo (< lẻo lẻo <lẻo). Tác giả cũng nêu hiện tượng một số từ tồn tại dưới hai biến thể như: sẻ/ se sẻ, chuồn/ chuồn chuồn, bướm/ bươm bướm, để khẳng định sẻ, chuồn, bướm vốn là những từ tố gốc của ba từ láy trên. Theo Hà Quang Năng, cách lý giải trên cần được thảo luận thêm: “Trước hết trong vốn từ tiếng Việt hiện đại có rất nhiều từ láy, trên bình diện đồng đại không thể hoặc không có cơ sở để xác định thành tố gốc và thành tố láy. Theo thống kê, các từ láy loại này có khoảng 2000 từ. Với một số lượng lớn như vậy, lại rất đa dạng về cấu tạo, thì chắc chắn sẽ không thể tìm thấy dấu vết quá trình mờ nghĩa của tất cả các yếu tố ở trong các từ láy nhằm xác định tư cách yếu tố gốc của chúng ” [55, tr.12]. Từ đó tác giả khuyến cáo rằng: “Cố tìm cách chứng minh ở tất cả các từ láy đều có yếu tố gốc là điều vừa không phù hợp với thực tế tiếng Việt hiện nay, vừa mang tính gò ép, khiên cưỡng, do thiếu sức thuyết phục”. Vì vậy nên khảo sát từ láy trên quan sát tâm và biên. Thuộc tâm là những từ láy thỏa mãn theo tiêu chuẩn về hình thức và nội dung ý nghĩa (thứ ý nghĩa biểu trưng, ấn tượng chứ không phải là phép cộng về nghĩa của từng thành tố). Đó là những từ láy xác định được thành tố gốc và những từ láy không xác định được những thành tố gốc. Thuộc phạm vi biên là những từ có hình thức giống từ láy, nhưng nội dung ý nghĩa không có đặc trưng biểu trưng do sự hòa phối ngữ âm tạo ra, kiểu như: ba ba, chôm chôm, bìm bịp Và những từ có hình thức giống từ láy nhưng ý nghĩa lại do nghĩa các tiếng kết hợp với nhau tạo nên giống ý nghĩa các từ ghép hợp nghĩa, VD: bèo bọt, xơ xác, nghênh ngang, chầu chực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
  21. Cũng như các ngôn ngữ khác, láy trong tiếng Việt cũng có những hiện tượng trung gian-đó là các từ láy thuộc phạm vi ngoại biên của hiện tượng láy. Vì vậy, mặc dù đã được nghiên cứu khá công phu và đã đạt được những kết quả đáng trân trọng, từ láy trong tiếng Việt vẫn cần tiếp tục được tìm tòi, khảo cứu. Trong sự vận dụng khái niệm từ láy để thực hiện đề tài này, chúng tôi có thể khái quát về từ láy theo cách hiểu sau: “Từ láy là từ đa âm tiết được cấu tạo theo phương thức láy, trong đó quan hệ giữa các âm tiết phải thể hiện được sự hòa phối và lặp lại về mặt ngữ âm, có giá trị biểu trưng và sắc thái hóa về ngữ nghĩa”. 1.1.2.2. Phân loại từ láy về mặt cấu tạo Từ láy được cấu tạo theo phương thức hòa phối ngữ âm. Phương thức này biểu hiện ở quy tắc điệp và quy tắc đối. Điệp và đối ở đây được hiểu với nghĩa rộng: điệp là sự lặp lại, sự thống nhất về âm, nghĩa; đối là sự sai khác, sự dị biệt về âm và nghĩa. Đồng nhất và dị biệt có quy tắc chứ không phải là tùy tiện, là ngẫu nhiên” [32, tr.25]. Vì thế khi xem xét từ láy, mặt ngữ âm được coi là dấu hiệu cơ bản. Về mặt cấu tạo, từ láy tiếng Việt được phân loại trên hai cơ sở sau: - Số lượng âm tiết trong từ láy - Sự đồng nhất hay khác biệt trong thành phần cấu tạo của các thành tố trong từ láy là do cách phối hợp ngữ âm tạo nên. Căn cứ theo số lượng tiếng trong từ láy, trong tiếng Việt, có các kiểu từ láy hai tiếng, từ láy ba tiếng, từ láy bốn tiếng mà trong truyền thống tiếng Việt thường gọi là từ láy đôi, từ láy ba, từ láy tư. Trong cách phân loại này, theo Hà Quang Năng [55, tr.21] từ láy đôi chiếm vị trí hàng đầu không chỉ vì nó chiếm số lượng lớn nhất trong tổng số từ láy tiếng Việt, mà chính là vì ở từ láy đôi, các đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất của hiện tượng láy cả ở bình diện thể hiện âm thanh, lẫn bình diện ngữ nghĩa đều được bộc lộ đầy đủ, VD: ào ào, phau phau, đo đỏ, hây hẩy, nhàn nhạt, phơn phớt, róc rách Từ láy ba là những đơn vị gồm ba tiếng có sự hòa phối ngữ âm, VD: dửng dừng dưng, cỏn còn con, tất tần tật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
  22. Từ láy tư là từ láy gồm bốn tiếng trong thành phần cấu tạo của nó. Tuy nhiên đi vào cụ thể thì quan niệm của các nhà nghiên cứu còn khác nhau khá nhiều. Nguyễn Văn Tu coi từ láy tư là “những từ ghép láy âm phức tạp” [78, tr.72]. Nguyễn Tài Cẩn lại cho rằng từ láy tư là “loại từ láy xây dựng trên cơ sở từ láy đôi điệp âm”. VD: lơ thơ lẩn thẩn, lồm nhồm loàm nhoàm, lăng xăng lít xít, hăm hăm hở hở [4, tr.134]. Căn cứ vào sự đồng nhất hay khác biệt trong thành phần cấu tạo của các thành tố trong từ láy do hòa phối ngữ âm tạo nên (quy tắc điệp đối), các từ láy được phân loại thành từ láy hoàn toàn và từ láy bộ phận. - Từ láy hoàn toàn Đó là những từ láy có sự đồng nhất, tương ứng hoàn toàn giữa các thành phần cấu tạo của hai thành tố, như: đùng đùng, chằn chằn, bừng bừng Từ láy hoàn toàn-các thành tố giống hệt nhau về thành phần cấu tạo, chỉ khác nhau về trọng âm, thể hiện ở độ nhấn mạnh và độ kéo dài trong phát âm đối với mỗi thành tố. Trọng âm thường rơi vào tiếng thứ hai của từ láy. Tuy nhiên láy không phải là sự lặp lại âm thanh nguyên vẹn, mà là lặp lại âm thanh có biến đổi theo những quy tắc hòa phối ngữ âm chặt chẽ, và có tác dụng tạo nghĩa. Điều này thể hiện ở từ láy hoàn toàn như sau: + Từ láy hoàn toàn điệp phụ âm đầu và khuôn vần, thanh điệu được chuyển đổi để tạo thế đối. Do hiện tượng phát âm lướt nhẹ ở phụ âm đầu nên có thể xẩy ra hiện tượng biến thanh theo những quy tắc chặt chẽ. VD: đo đỏ, tim tím, mơn mởn, chồm chỗm Sự khác biệt về thanh điệu được thể hiện theo hai dấu hiệu (luật phù trầm): Đối lập bằng-trắc, thanh bằng gồm có thanh ngang và thanh huyền; thanh trắc gồm thanh hỏi, thanh ngã, thanh sắc, thanh nặng. Đối lập âm vực cao-thấp theo quy tắc cùng âm vực: thuộc về âm vực cao có thanh không dấu (thanh ngang), hỏi, sắc; thuộc về âm vực thấp có thanh huyền, ngã, nặng. + Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng khác nhau về âm cuối. Do hiện tượng phát âm lướt nhẹ ở tiếng đầu tiên nên có thể xảy ra hiện tượng biến vần theo quy luật chặt chẽ: Các phụ âm tắc vô thanh -p, -t, -k (thể hiện bằng con chữ c và ch), sẽ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
  23. chuyển thành các phụ âm vang mũi cùng cặp -m, -n, -ŋ (thể hiện bằng con chữ ng và nh). VD: p-m: chiếp chiếp → chiêm chiếp t-n: sát sát → san sát k-ŋ: vặc vặc → vằng vặc Sự chuyển đổi âm cuối ở từ láy hoàn toàn, cũng như sự biến đổi nêu trên, nhằm tăng cường khả năng hòa phối ngữ âm tạo nên sự dễ đọc, dễ nghe, vì vậy không có tính bắt buộc. Do quan niệm khác nhau, một số nhà nghiên cứu xem từ láy hoàn toàn là từ láy trong đó có sự lặp lại hoàn toàn của tiếng [9, tr.56]. - Từ láy bộ phận Từ láy bộ phận là từ láy trong đó có sự phối hợp ngữ âm của từng bộ phận âm tiết theo những quy tắc nhất định. “Trong tiếng Việt, kiểu láy bộ phận là kiểu láy chính, xét cả về số lượng từ, cả về tính đa dạng, phong phú của quy tắc phối hợp âm thanh” [55, tr.26]. Đặc trưng của từ láy bộ phận là trong cấu của nó tiếng gốc chỉ được lặp lại một phần ở tiếng láy. Nếu phần được lặp lại là khuôn vần, còn phần dị biệt hóa là phụ âm đầu, thì chúng ta có phần láy vần (còn gọi là từ láy bộ phận điệp vần). Nếu phần được lặp lại là phụ âm đầu, còn phần dị biệt hóa là khuôn vần thì chúng ta có từ láy âm (còn gọi là từ láy bộ phận đối vần). + Từ láy vần: là từ láy trong đó phần vần được lặp lại ở cả hai âm tiết của từ láy đôi, còn phụ âm đầu khác biệt nhau (điệp khuôn vần, đối phụ âm đầu). VD: lác đác, luẩn quẩn, lò dò, bịn rịn, lất phất, tần ngần Cả hai yếu tố phải giống nhau hoàn toàn ở phần vần, và thanh điệu phải phù hợp với luật cùng âm vực. + Từ láy âm: Là từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc, vừa bảo tồn phụ âm đầu, vừa kết hợp một khuôn vần mới từ ngoài vào tiếng láy để tạo thế vừa điệp vừa đối kiểu như: thật > thật thà, bềnh > bập bềnh, nguýt > ngấm nguýt Như vậy có thể thấy từ láy âm gồm có hai loại: một loại tiếng gốc đứng trước, kiểu: đỏ > đỏ đắn, xinh > xinh xắn; một loại tiếng gốc đứng sau như: lòe > lập lòe, chóe > chí chóe Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
  24. Trong lịch sử nghiên cứu từ láy tiếng Việt, về cơ bản từ láy được phân loại như trên, nhưng trong từng tiểu loại tồn tại những trường hợp đặc biệt, ngoại lệ, đây không phải là vấn đề nghiên cứu chính của luận văn này. Việc phân loại từ láy chỉ là một trong những cơ sở để chúng tôi khảo sát và tìm hiểu những giá trị của chúng trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. 1.1.2.3. Phân loại từ láy về mặt ngữ nghĩa Phần lớn các nhà nghiên cứu về từ láy tiếng Việt khi phân loại hay miêu tả từ láy đều dựa trên tiêu chí hình thức cấu tạo của nó. Dựa vào tiêu chí nghĩa để phân loại sẽ gặp nhiều khó khăn dẫn đến trong lịch sử nghiên cứu từ láy tiếng Việt còn tồn tại nhiều kiểu phân loại khác nhau khi sử dụng tiêu chí này. Dựa vào “sự tương quan âm-nghĩa” trong từ láy, Hoàng Tuệ chia từ láy thành 3 nhóm khác nhau [79, tr.21-24]. Nhóm thứ nhất gồm những từ như: gâu gâu, cu cu “nói chung là những từ mô phỏng tiếng vang”. Nhóm thứ hai gồm những từ như: làm lụng, mạnh mẽ, loanh quanh Đó là những từ “bao gồm một âm tiết-hình vị”. Nhóm thứ ba gồm những từ như: lác đác, bâng khuâng, bịn rịn, long lanh Đó là những từ không bao gồm một âm tiết-hình vị, “nhưng lại là những từ có biểu cảm rất rõ”. Hoàng Văn Hành lại căn cứ vào tính có lý do của từ láy để chia từ láy thành ba nhóm: - Nhóm từ láy mô phỏng âm thanh như: bồm bộp, thánh thót, tí tách - Nhóm từ láy biểu trưng hóa ngữ âm và chuyên biệt hóa về ngữ nghĩa: dãi dầm, đau đớn, vàng vọt, xanh xao - Nhóm từ láy biểu trưng hóa ngữ âm như: lênh đênh, lác đác, bâng khuâng, lâng lâng [32, tr.73]. Trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở tiếp nhận cách phân loại của các nhà nghiên cứu khác, tác giả đã hiệu chỉnh lại hệ thống phân loại từ láy trên cơ sở dùng một tiêu chí thỏa đáng hơn. Tiêu chí ấy theo tác giả là “đặc điểm của hình thái biểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
  25. trưng hóa ngữ âm của từ” vì nó thỏa mãn được ba yêu cầu: Có tính đến mối tương quan âm-nghĩa trong từ láy; có tính đến vai trò ngữ nghĩa của tiếng gốc và khuôn vần; có tính đến khả năng làm bộc lộ nghĩa, hay là giá trị ngữ nghĩa của các kiểu từ láy khác nhau [32, tr.73]. Dựa vào tiêu chí này, từ láy được phân chia thành ba nhóm: Nhóm 1: Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm giản đơn từ “tượng thanh” từ “tiếng vang”. VD: tí tách, lộp bộp Nhóm 2: Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm cách điệu. VD: lênh đênh, lác đác Nhóm 3: Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm vừa chuyên biệt hóa về nghĩa. VD: chắc chắn, đỏ đắn, xinh xắn Cách phân loại từ láy trên cơ sở ngữ nghĩa của tác giả Hoàng Văn Hành đã thỏa mãn được mối tương quan giữa âm và nghĩa trong từ láy, tác giả có quan tâm đến vai trò nghĩa của tiếng gốc và khuôn vần. Đồng thời cách phân loại này cũng bộc lộ được giá trị ngữ nghĩa của các kiểu láy khác nhau. Xem xét nghĩa của ba nhóm từ láy trên, tác giả đã nhắc đến vai trò của khuôn vần. Với loại từ láy nhóm một, VD: lách tách, lộp bộp , thì “nghĩa của từ láy đối vần kiểu này cũng là sự mô phỏng âm thanh lặp đi lặp lại với cường độ và âm sắc khác nhau nhưng sự lặp đi lặp lại ấy là sự lặp đi lặp lại theo chu kỳ. Sự khác nhau về cường độ, âm sắc cũng như là về tính chất của chu kỳ là do kiểu cấu tạo của từ và bản chất khuôn vần được kết hợp vào tiếng láy quy định. Từ láy có khuôn vần -i kết hợp vào tiếng láy để mô phỏng âm thanh diễn ra theo chu kỳ khác với âm thanh được mô phỏng bằng từ láy có khuôn vần -âm hay -ấp, so sánh: bì bõm, bập bõm, thì thùng, thập thùng, ì ạch, ậm ạch” [32, tr.76-77]. Với từ láy nhóm 2, VD: lênh đênh, lác đác, bâng khuâng để tìm ra ý nghĩa của chúng “có thể dựa ngay vào cơ chế láy để giải thích”. Chẳng hạn, những từ tấp tểnh, tập tễnh, khấp khểnh có thể dựa vào kiểu cơ cấu của các từ láy có khuôn vần -ấp để thể hiện những ấn tượng do tác động khép mạnh của đôi môi, nó biểu trưng cho trạng thái khép lại, sập xuống, tắt đi, chìm xuống , hoặc trạng thái bám chặt, áp sát” [32, tr.86]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
  26. Còn với từ láy nhóm 3, vai trò của khuôn vần trong từ láy đối vần được tác giả chú ý hơn: “sự khác nhau về nghĩa giữa các từ láy đối vần trong sự so sánh với nghĩa của tiếng gốc còn do bản chất khuôn vần được dùng để kết hợp vào tiếng láy quy định [32, tr.93]. Như vậy khi xem xét cơ cấu nghĩa của từ láy, Hoàng Văn Hành có tính đến vai trò của khuôn vần. Khuôn vần theo tác giả, mang một ý nghĩa cụ thể nào đó chứ không phải là khuôn vần có giá trị biểu trưng ngữ âm, vì “nghĩa của khuôn vần được kết hợp vào tiếng láy” góp phần chuyên biệt hóa về nghĩa của từ láy. Từ những vấn đề và sự phân loại từ láy trong tiếng Việt nêu trên, để có được sự thống nhất khi xác định từ láy chúng tôi có một số phân biệt và quy ước sau: Những từ ghép mà tình cờ giữa hai tiếng có các yếu tố ngữ âm giống nhau như các từ: buôn bán, leo trèo, tranh giành không được coi là những từ láy. Khi khảo sát các hiện tượng láy dưới gốc độ đồng đại các từ kiểu như: hỏi han, chùa chiền, tuổi tác (những từ một trong hai yếu tố không còn rõ nghĩa), những vốn là từ gốc Hán như: hùng hổ, bàng hoàng, lưỡng lự cũng được coi là từ láy. Không có sự phân biệt giữa từ láy và dạng láy nên các từ như: ai ai, đêm đêm, người người cũng được xếp vào danh sách các từ láy. Xét các hiện tượng láy trên quan điểm tâm và biên, rồng rồng, đom đóm, bòng bong, hay các từ kiểu như: bèo bọt, nghênh ngang, chập chồng chúng tôi đều coi là từ láy. 1.2. Vài nét về PNNB và từ láy trong PNNB Phương ngữ là một thuật ngữ của ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân và là biến thể của ngôn ngữ này ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác [10, tr.29]. 1.2.1. Đặc điểm của PNNB 1.2.1.1. Đặc điểm ngữ âm Về đặc điểm ngữ âm trước hết có thể thấy ở các dấu giọng (thanh điệu), PNNB chỉ có 5 dấu: ngang, huyền, hỏi, sắc, nặng (không có dấu ngã như PNBB). Chất của dấu giọng, đặc biệt 3 dấu: hỏi, ngã, nặng của PNNB được phát âm nhẹ, lướt, khác với PNBB phát âm gần nặng, nghẹn và rung mạnh thanh đới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
  27. - PNNB tận dụng 5 dấu giọng làm phương tiện tạo ra từ mới hoặc láy từ, VD: tăn măn, tằn mằn, tẳn mẳn, tắn mắn, tặn mặn đều mang ý nghĩa riêng gần nghĩa [1, tr.10]. - Cách phát âm phân biệt các âm đầu tr-ch, gi-d- r, s-x và cặp vần ăm-âm, ắp- ấp phản ánh đúng chữ viết của tiếng Việt. - Âm đầu v, ở PNNB chỉ tồn tại trong chữ viết, không tồn tại trong phát âm, v- d-gi đều phát âm thành d. (Hiện nay cách phát âm v đã phổ biến ở Nam Bộ, đó là điều hợp lý). - Phần vần có 3 điều đáng nói. Một là âm đệm o và u, như loan, luyến vốn là âm lướt nhẹ, hoặc bị lước bỏ. Hai là âm đôi iê, ươ, uô và các âm đơn o, ô, ơ khi đứng trước m và p thì, các âm đôi, mất yếu tố sau VD: tiêm-tim, lượm-lựm, luộm thuộm-lụm thụm; còn ở các âm đơn đều phát âm thành ôm, ốp, VD: nom-nơm = nôm, họp-hợp = hộp. Ba là phát âm không phân biệt ba cặp âm cuối n-ng, t-c, y-i, VD: tan-tang, tác-tát, tay-tai. 1.2.1.2. Đặc điểm từ vựng Việc nhận diện từ ngữ Nam Bộ chỉ có thể có khi so sánh với phương ngữ khác. Căn cứ vào tư liệu [47, tr.33-69] So sánh PNNB với PNBB để tìm ra những nét khác biệt về từ vựng-ngữ nghĩa giữa hai phương ngữ này, chúng ta có thể chia PNNB thành những kiểu nhóm sau: - Kiểu 1: Những từ khác âm, khác nghĩa + Nhóm những từ ngữ miền Nam không có từ ngữ tương đương trong tiếng Việt văn hóa, dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng hoàn cảnh vốn chỉ có ở Nam Bộ: chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, tràm, đước nhóm từ này, một mặt đặc trưng cho diện mạo riêng của PNNB, mặt khác chúng dần trở thành yếu tố từ vựng của toàn dân. + Nhóm những từ và từ tố hoàn toàn chỉ có ở PNNB: (cao) nhòng, (gầy) hều, (dơ) cảy - Kiểu 2: Nhóm những từ khác âm nhưng gần nghĩa với PNBB: vô (vào), lì xì (mừng tuổi), áo ngắn (áo cộc) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21
  28. - Kiểu 3: Nhóm những từ khác âm nhưng đồng nghĩa với PNBB: (bẩn) dơ, (ốm) đau, (đón) rước - Kiểu 4: Nhóm những từ gần âm nhưng khác nghĩa với PNBB: VD: kính và kiếng. Kiếng trong PNNB là biến âm của kính: tủ kiếng, cửa kiếng. Nhưng kiếng cũng được dùng để chỉ cái gương: coi kiếng (= soi gương). - Kiểu 5: Nhóm những từ gần âm và gần nghĩa với PNBB: VD: bệu và rệu. Bệu trong PNBB thường được dùng để nói người béo, nhưng nhão, không chắc thịt: béo bệu. Còn nói về nhà cửa, máy móc, tổ chức, hoạt động cũ kỹ, sắp sập, sắp rã, PNBB dùng rệu rã. Trong những trường hợp này, từ rệu trong PNNB có khả năng dùng độc lập. - Kiểu 6: Nhóm những từ là biến thể ngữ âm, là trường hợp của các biến thể ngữ âm ở hai phương ngữ. Các biến thể ngữ âm này có thể do hệ thống ngữ âm của từng phương ngữ tạo nên hoặc do biến đổi lịch sử của từng vùng mà có sự sai khác. Những sai khác này không đáng kể hoặc ở âm đầu, VD: dĩa/đĩa, lạt/nhạt, thẹo/sẹo, nhớn nhác/dớn dác, chánh/chính, sanh/sinh - Kiểu 7: Nhóm những từ đồng âm khác nghĩa, là những trường hợp của những từ đồng âm khác nghĩa ở hai phương ngữ. Những từ này không có quan hệ nguồn gốc gì với nhau, VD: té trong PNBB có nghĩa là “hắt nước”, còn té trong PNNB lại ứng với nhiều nghĩa: ngã, sinh ra, vãi ra - Kiểu 8: có hiện tượng giống âm giữa những từ có những bộ phận nghĩa giống nhau, chúng chỉ khác nhau ở một bộ phận nghĩa nào đó. + Nói đúng hơn, những từ này phải coi là một từ, nhưng qua diễn biến lịch sử của từng vùng đã có thêm một nghĩa phái sinh khác, hoặc đã thay đổi ít nhiều về nghĩa, VD: Phản ánh quan hệ họ hàng, từ cậu ở cả PNBB và PNNB đều được dùng để chỉ “người em trai của mẹ”. Nhưng ở Nam Bộ còn dùng “cậu” để chỉ “người anh trai của mẹ”, mà nghĩa này trong PNBB được thể hiện bằng một từ khác: bác (cũng có vùng gọi là cậu). Từ dì cũng tương tự như vậy. + Cùng một từ nhưng phạm vi ý nghĩa ở hai phương ngữ lại khác nhau, VD: PNNB có cả hai yếu tố: màn/mùng, mủ /nhựa, thuốc tẩy/thuốc sổ thì ở phương ngữ Bắc Bộ, ta chỉ gặp có yếu tố thứ nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22
  29. Ngược lại, trong khi PNBB có cả hai yếu tố, như: nón/mũ, bông/hoa, cây/gỗ thì ở PNNB, ta chỉ gặp có một-yếu tố thứ nhất. 1.2.2. Từ láy trong PNNB Trong phương ngữ học vấn đề xác định từ láy PNNB không phải là mới, có thể nêu ra một số công trình như: Từ láy tư trong phương ngữ Nam Bộ của Trần Thị Ngọc Lang in trong tạp chí ngôn ngữ số 3, 1992 (tr.55-59) và in trong chuyên luận Phương ngữ Nam Bộ những khác biệt về từ vựng-ngữ nghĩa so với phương ngữ Bắc Bộ (tr.107-136). Bài Về một hiện tượng láy trong phương ngữ miền Nam của Trịnh Sâm đăng trong tập Những vấn đề về ngôn ngữ học và các ngôn ngữ phương Đông, Viện Ngôn ngữ học, 1986 (tr.358-362). Yếu tố “cà” trong phương ngữ Nam Bộ, in trong ngôn ngữ SP1, 1982 Nhưng nhìn chung các công trình nghiên cứu về từ láy PNNB còn rất ít. Cho tới nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về các đặc điểm của từ láy PNNB. Vì vậy việc xác định từ láy là PNNB trong thơ văn cụ Đồ chiểu chắc chắn sẽ gặp những khó khăn nhất định. Tuy nhiên từ láy PNNB cũng như các lớp, loại từ khác ở các phương ngữ, từ láy cũng có những đặc điểm phương ngữ nhất định như đặc điểm ngữ âm, đặc điểm từ vựng Để tiện cho việc xác định từ láy là PNNB trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu chúng tôi căn cứ vào tài liệu [46, tr.121-127]. Sau đây là vài nét sơ lược về các kiểu từ láy trong PNNB. 1.2.2.1. Từ láy đôi a. Có những từ láy đồng nghĩa với PNBB, chỉ khác không đáng kể ở âm đầu, như: lạt lẽo/nhạt nhẽo, lẫm đẫm/lẫm chẫm, dớn dác/nhớn nhác hoặc ở khuôn vần, như: bạng nhạng/bạc nhạc, thung dung/thong dong, hỉ hả/hể hả, rần rộ/rầm rộ Sự chuyển hóa về vần của từ láy đôi trong PNNB tương ứng với từ láy đôi trong PNBB: ênh → inh: bình bồng/bềnh bồng, dình dàng/dềnh dàng, linh đinh/lênh đênh ang → ương, ư →ơ, ất → iết: phưởng phất/phảng phất, thơ thớ/thư thái, thiệt thà/thật thà. PNNB có những từ riêng nên cũng hình thành các từ láy khác với PNBB, dù vẫn theo cùng một khuôn vần, VD: mắc = đắt nên theo khuôn đắt đỏ ta cũng có mắc mỏ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
  30. Một số từ láy khác ở khuôn vần và thanh, như: chặt chịa/chặt chẽ, nhiều nhỏi/ nhiều nhặn, sơ sịa/sơ sài Hoặc đơn thuần khác ở thanh điệu: dọ dẫm/dò dẫm, khắng khít/khăng khít, nhân nha/nhẩn nha, bợ ngợ/bỡ ngỡ b. Có những từ láy đồng nghĩa với PNBB nhưng không liên quan gì về ngữ âm: nguôi ngoai/khuây khỏa, bể nghể/bải hoải, bươn bả/vội vã, cắc cớ/trớ trêu, xửng vửng/choáng váng c. Có những từ láy đồng âm nhưng không đồng nghĩa với PNBB, như: bông lông trong PNBB có nghĩa là “lung tung, không đâu vào đâu về nghề nghiệp, tính cách” nhưng trong PNNB còn là “ăn nói trống không”. d. Ở lớp từ láy bao giờ cũng có hiện tượng phát triển khá tự do, hiện tượng này có thể thấy dễ dàng trong PNBB cũng như PNNB. Người nói có thể dựa vào ngữ âm mà phát âm biến dạng đi, hoặc nói trại đi một bộ phận nào đó trong âm tiết, miễn là âm hưởng chung không biến khác hoàn toàn thì người nghe vẫn nhận ra được từ láy gốc, như: nhễu nhãi/nhễu nhẽo cùng có nghĩa chỉ động tác nhai lại cỏ của loài trâu, thúng thắng/khúng khắng/húng hắng đều nói về sự ho rời rạc, chút ít, chốc chốc lại ho. Trong PNNB, hiện tượng phát triển khá tự do các từ láy, phần lớn là do phát âm chưa ổn định, dẫn đến chữ viết chính tả chưa nhất quán được, như: do không phân biệt vần ai/ay, nên có hiện tượng dùng mại mại hoặc mạy mạy; do phát âm không phân biệt d/gi/v nên có thể viết dục dặc hay giục giặc Do đó PNNB có nhiều từ láy hầu như đồng nghĩa: người ta có thể nói hệch hoạc hay hịch hoạc, bồn chồn hay bôn chôn, gọ gạy hay rọ rạy e. Trong số các từ láy PNNB, chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều từ phản ánh cách đánh giá của người Nam Bộ về sự vật, hiện tượng hay tính cách. Vì thế có nhiều từ láy Nam Bộ độc đáo, khó thấy mà người ở các phương ngữ khác khó có thể hình dung được, VD: trái với lộng lạc thì có xập xệ, xập xụi, lèn xèn, lài xài, lùi xùi; trái với gọn gàng thì có bầy hày, tầy huầy, lượt bượt, xấp xải, tùm lum Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
  31. Từ những đặc điểm trên, dẫn đến từ láy trong PNNB chẳng những nhiều về số lượng mà còn còn đa dạng về hình thức. Cho nên có nhiều từ láy không thấy các từ điển ghi lại. Đây cũng là trường hợp bình thường. Các khuôn láy trong PNNB cũng rất đa dạng và đặc sắc nên việc hình dung và đoán nhận về nghĩa cần phải đặt trong ngữ cảnh xuất hiện. 1.2.2.2. Từ láy ba, tư Từ láy ba trong PNNB không cấu tạo theo kiểu: cỏn con → cỏn còn con, sạch sanh → sạch sành sanh, dửng dưng → dửng dừng dưng như trong PNBB. Có thể do PNNB đã dùng nhiều từ chỉ mức độ và từ láy tư để nhấn mạnh, chẳng hạn, để diễn tả ý “mất sạch”, “hết sạch” như sạch sành sanh, PNNB có: sạch bách, sạch bóc, sạch bon, sạch ráo, sạch trơn, sạch trọi, sạch trụi và các lối nói: sạch trơn sạch trọi (sạch trọi sạch trơn), hết trơn hết trọi (hết trọi hết trơn) Về từ láy tư, hầu hết các công trình nghiên cứu đều cho rằng từ láy tư là “loại từ láy xây dựng trên cơ sở từ láy đôi” [4, tr.131], là “kết quả của phép nhân đôi từ láy dưới sự chi phối của quy tắc điệp và đối” [32, tr.66]. Tuy nhiên Hải Dân đã chứng minh có có một kiểu láy đặc biệt trong PNNB, như “cà dịch cà tang”, “cà xịch cà đụi” [17], ở đó “dịch tang”, “xịch đụi” không phải là một từ láy. Ta cũng cần phân biệt với cụm từ 4 âm tiết có hình thức điệp lại một từ nào đó nhưng không phải từ láy tư, như: “ăn đứng ăn ngồi” đã có sự điệp lại của ăn, nhưng cơ cấu nghĩa của chúng khác hẳn cơ cấu nghĩa của từ láy tư. Trong kiểu này từng cụm đôi đều có nghĩa: “ăn đứng”, “ăn ngồi”, đều là những tổ hợp có nghĩa và đối lập nhau. Khi kết hợp lại sẽ tạo ra ý nghĩa toàn khối. “ăn đứng ăn ngồi” nói về tư cách, tư thế ăn uống. Còn “cà dịch cà tang”, tuy cũng có một ý nghĩa khái quát nào đó, nhưng không phải là ý nghĩa của cà, bản thân yếu tố cà chỉ như những hình vị có tác dụng làm rõ nghĩa hơn và bổ sung nghĩa cho cặp từ mà nó đi kèm. Như vậy, có một hình thức của từ láy tư cũng giống hình thức của quán ngữ 4 âm tiết, ở đó có sự điệp lại yếu tố đứng đầu: abac. Từ láy được xác định như sau: Nếu đứng riêng, có ít nhất một trong hai cặp ab hoặc ac không có nghĩa nhưng cả khối abac có một nghĩa khái quát nào đó thì đó là một từ láy tư. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
  32. Tóm lại, từ láy tư thường được xây dựng qua từ láy đôi nhưng cũng có thể qua một “phép điệp từ đặc biệt”. 1.3. Cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng của Nguyễn Đình Chiểu 1.3.1. Con người và cuộc đời Về vấn đề tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu là vấn đề được bàn luận và tranh cãi từ hơn một trăm năm mươi năm nay, cho đến nay vẫn còn khá nhiều ý kiến bàn luận. Tuy nhiên đa số các tài liệu đều thống nhất: Nguyễn Đình Chiểu tục gọi là Đồ Chiểu, sinh ngày mười ba tháng năm năm Nhâm Ngọ (1-7-1822) tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha ông là Nguyễn Đình Huy, giữ chức thơ lại tại Văn hàn ty tả quân dinh Lê Văn Duyệt ở Gia Định, lấy người vợ lẽ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định và sinh được bốn trai, ba gái, Nguyễn Đình Chiểu là con đầu lòng. Cuộc đời ông sớm gặp bất hạnh. Vừa lớn lên, ông đã gặp cơn binh lửa. Năm 12 tuổi Nguyễn Đình Chiểu đã phải theo cha từ Nam ra Huế vì cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi. Cha ông đã gửi ông cho một người bạn ở Huế để ăn học. Khoảng 1840, Nguyễn Đình Chiểu trở về Nam và đến 1843 thi đỗ tú tài, đúng vào năm ông 21 tuổi. Có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông. Thành công bước đầu và niềm vui hứa hôn đã là động lực lớn cho ông thêm nỗ lực, ra công đèn sách. Năm 1847, ông lại ra Huế để chuẩn bị dự thi năm Kỷ dậu (1849). Ngày thi vừa đến thì ông được tin mẹ mất tại Sài Gòn. Ông bỏ thi để về Nam chịu tang mẹ. Dọc đường vất vả lại khóc thương mẹ nhiều, ông bị ốm nặng và mù cả hai mắt, ông đã phải xin trọ tại nhà của một thầy thuốc thuộc dòng ngự y ở Quảng Nam để chữa bệnh. Nhưng vì bệnh nặng, đôi mắt của ông đã vĩnh viễn không còn nhìn được nữa. Cũng chính trong thời gian này ông đã nghĩ đến cuộc đời, nghĩ đến con người, và mặc dù đã mù nhưng ông vẫn cố công học nghề thuốc, đó cũng là mục đích cao cả của ông, học thuốc không phải để mưu sinh hay màng danh lợi mà học để cứu người: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26
  33. “Đứa ăn mày cũng trời sinh, Bệnh còn cứu được, thuốc dành cho không” Trở về quê nhà trong cảnh mù lòa, gia đình họ Võ trước kia hứa gả con gái cho ông nay kiếm cớ từ hôn. Những nỗi buồn lớn kế tiếp nhau đó cũng khó làm cho Nguyễn Đình Chiểu gục ngã. Không thể lập thân bằng con đường thi cử thì ông về quê mở trường dạy học và làm thuốc. Học trò theo ông rất đông, trong số học trò của ông có Lê Tăng Quýnh, cảm thông với nỗi nhà neo đơn và tình cảnh éo le của thầy, đã xin gia đình gả em gái thứ năm của mình cho thầy học. Khoảng năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu lấy vợ là bà Lê Thị Điền (người làng Thanh Ba, huyện Phước lộc, tỉnh Gia Định). Gần ngót chục năm ông vừa dạy học, vừa làm thuốc và cũng vừa sáng tác truyện “Lục Vân Tiên” và “Dương Từ Hà Mậu”, sống yên vui bên gia đình ấm cúng và trong tình yêu thương quý trọng của nhân dân và môn sinh của mình. Năm 1859, quân Pháp sau khi đánh chiếm Đà Nẵng đã kéo vào Sài Gòn, tràn vào sông Bến Nghé, quan quân triều đình chống trả yếu ớt. Thành Gia Định bị giặc chiếm đóng (17-2-1859). Từ đây, cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu chuyển sang trang để bắt đầu ghi nhận những sự kiện oai hùng của đất nước chống ngoại xâm. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Sài Gòn cho đến khi thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định (17-2-1859) ông lui về quê vợ tại làng Thanh Ba huyện Cần Giuộc. Bị mù, không trực tiếp cầm gươm giết giặc nhưng ông vẫn cùng với các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định, Đốc binh Là bàn mưu định kế. Giặc đánh vào quê hương ông, ông lui về quê vợ. Khi giặc chiếm hết lục tỉnh, ông sức yếu lại bệnh tật, đành ở lại trong vùng giặc chiếm. Biết ông là người có uy tín lớn, giặc Pháp tìm mọi cách mua chuộc, nhưng ông vẫn nêu cao khí tiết, không chịu khuất phục. Ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, tức ngày 3 tháng 7 năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu trút hơi thở cuối cùng. Nhân dân Ba Tri, trẻ già, gái trai cùng đông đảo bạn bè, học trò và các con cháu xa gần đến đưa tiễn ông rất đông. Cánh đồng Ba Tri rợp khăn tang khóc thương Đồ Chiểu. Có thể nói cuộc đời Đồ Chiểu là một tấm gương sáng ngời về nghị lực và đạo đức, đặc biệt là về thái độ suốt đời gắn bó và chiến đấu không mệt mỏi cho lẽ phải, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27
  34. cho quyền lợi của nhân dân, đất nước. Trong một Đồ Chiểu có ba con người đáng quý: một nhà giáo mẫu mực, đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ, một thầy lang lấy việc chăm lo sức khỏe của nhân dân làm y đức, một nhà văn coi trọng chức năng giáo huấn của văn học trên cơ sở sáng tạo nghệ thuật và là ngọn cờ tiêu biểu của nền văn học yêu nước chống ngoại xâm đầu thời Pháp thuộc. 1.3.2. Sự nghiệp văn chương 1.3.2.1. Quan điểm sáng tác Trong sự nghiệp văn chương của mình Nguyễn Đình Chiểu đã để lại nhiều tác phẩm văn học quý báu. Có ba tác phẩm dài: Lục Vân Tiên, Dương Từ-Hà Mậu, Ngư Tiều Y thuật vấn đáp. Có một số bài văn tế nổi tiếng như: Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế nghĩa sỹ trận vong lục tỉnh và nhiều bài thơ Đường luật. Văn chương của Đồ Chiểu không có loại thuần túy giải sầu, mà nhằm mục đích chiến đấu, bảo vệ đạo đức của nhân dân và quyền lợi của tổ quốc. Học theo ngòi bút chí công, Trong thơ cho ngụ tấm lòng xuân thu. Hay: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. Đồ Chiểu còn viết: Văn chương ai chẳng muốn nghe Phun châu nhả ngọc báu khoe tinh thần Nghĩa là văn chương vừa phải có ý đẹp, vừa phải có lời hay. 1.3.2.2. Nội dung sáng tác Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu chia làm hai giai đoạn liên quan khá mật thiết với hai giai đoạn trong đời sống riêng của ông và trong vận mệnh chung của cả dân tộc: giai đoạn trước và sau khi đế quốc Pháp đánh chiếm Việt Nam. Giai đoạn đầu là những năm 50 của thế kỷ XIX. Trong thời gian này ông vừa dạy học vừa làm thuốc và sáng tác hai tập truyện dài là Lục Vân Tiên và Dương Từ- Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28
  35. Hà Mậu. Theo nhận định của Nguyễn Thạch Giang thì đây là thời kỳ tiếp tục hoàn thành và khẳng định tư tưởng yêu nước yêu dân, tư tưởng nhân nghĩa coi như một bộ phận của triết lý nhân sinh của ông. Lục Vân Tiên là sáng tác đầu tiên bằng thơ Nôm, trong đó thông qua các mối quan hệ tích cực và tiêu cực trong gia đình và xã hội, thông qua những nhân vật lý tưởng như: Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Tử Trực, Hớn Minh, Tiểu Đồng, những người lao động giàu lòng nhân nghĩa như vợ chồng ông Ngư, ông Tiều Nguyễn Đình Chiểu muốn khẳng định cuộc sống của con người tương thân tương ái với nhau trên cơ sở nhân nghĩa. Đó cũng là khúc ca của những người kiên quyết vì chính nghĩa mà hành đạo. Người đọc xưa nay yêu quý Lục Vân Tiên vì chàng là người con hiếu thảo, người thanh niên có lý tưởng cao cả sẵn sàng quên hết mọi lợi ích riêng tư, dũng cảm đánh cướp Phong Lai cứu dân, đánh giặc Ô Qua bảo vệ đất nước; yêu quý Kiều Nguyệt Nga vì nàng có tấm lòng thủy chung son sắt; yêu quý Hớn Minh vì chàng là người bất chấp quyền uy, thẳng tay trừng trị hạng người ỷ thế làm càn; yêu quý ông Quán vì ông Quán yêu ghét rạch ròi theo lợi ích của nhân dân Quán rằng: “Ghét việc tầm phào, Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm. Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm Để dân đến nỗi sa hầm sẩy han Ghét đời U, Lệ đa đoan, Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần” (Lục Vân Tiên) Tác phẩm Lục Vân Tiên cũng là bản án kết tội những kẻ bất nhân, phi nghĩa, những kẻ ỷ thế cậy quyền hãm hại người lương thiện như vợ chồng nhà Võ Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm Dương Từ-Hà Mậu. Theo Nguyễn Thạch Giang cũng như kết quả nghiên cứu của nhiều người, thì Dương Từ-Hà Mậu có thể được soạn từ năm 1851 và hoàn chỉnh vào những năm trước khi thành Gia Định rơi vào tay giặc Pháp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29
  36. Trong giai đoạn này nước ta đang đứng trước thảm họa xâm lược của quân đội viễn chinh Pháp. Bọn chúng đã âm mưu lợi dụng hội truyền giáo, cho các giáo sỹ sang trước để làm nhiệm vụ quan sát, dò la tình hình, hoặc để mê hoặc, chia rẽ hàng ngũ đấu tranh của nhân dân. Bọn chúng đã ru ngủ quần chúng bằng những giáo lý huyễn hoặc về thiên đường, địa ngục nhằm làm họ quên mất nhiệm vụ đối với tổ quốc, nhằm tạo ra một thế đối lập bằng cách đề cao xui giục các hành động cuồng tín “tử vì đạo” để từ đó làm bình phong “bảo vệ công giáo” cho các cuộc viễn chinh xâm lược của chúng. Nguyễn Đình Chiểu đã thấy trước điều đó, ông đã lên tiếng, vạch rõ âm mưu của kẻ thù, thức tỉnh nhân dân cứu nguy cho tổ quốc. Dương Từ-Hà Mậu ra đời với một tinh thần yêu nước thiết tha, chiến đấu sôi nổi, ông kêu gọi đồng bào nhận rõ kẻ thù chung của dân tộc đồng thời chỉ rõ trách nhiệm của mọi người dân đối với tổ quốc mình. Có thể nói Dương Từ-Hà Mậu là một tác phẩm lớn với một tinh thần yêu nước yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc, đồng thời còn là một lời kêu gọi mọi người trở về với chính đạo trở về với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, tinh thần ấy đã có từ ngàn đời, đó là tinh thần bất khuất, chống giặc ngoại xâm của cha ông ta. Giai đoạn thứ hai giai đoạn này là những năm 60 và 70 của thế kỷ XIX từ khi giặc Pháp bắt đầu tràn vào sông Bến Nghé cho đến khi cả sáu tỉnh Nam Kỳ bị chiếm đóng. Giai đoạn này thơ văn Đồ Chiểu chuyển hẳn sang đề tài đánh giặc cứu nước. Tư tưởng yêu nước vốn có trong Lục Vân Tiên-một tư tưởng yêu nước thuần túy lý tưởng thông qua nhân vật trong tưởng tưởng và kẻ thù cũng là bọn giặc trong tưởng tượng của nhà văn, giặc “Ô Qua”. Đến lúc này tư tưởng yêu nước đó được bộc lộ trực tiếp, được đem thể nghiệm trong thực tế xã hội Việt Nam với kẻ thù là bọn thực dân xâm lược Pháp và vì vậy ngọn bút của ông càng hăng hái “chở đạo” và “đâm gian”, nó trở thành một vũ khí sắc bén như gươm, như giáo đâm thẳng vào quân thù cướp nước và bè lũ tay sai bán nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30
  37. Trong giai đoạn này, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác một số thơ, văn tế và một tập truyện dài là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư Tiều y thuật vấn đáp). Thơ-Văn tế của Nguyễn Đình Chiểu mang tính chất thời sự, tính chiến đấu cao và trực tiếp. Ông đã tố cáo tội ác của giặc ngoại xâm và vạch trần bộ mặt xấu xa của bè lũ tay sai bán nước, đồng thời nói lên mơ ước của nhân dân về nước nhà được giải phóng và nói lên lòng căm thù vô hạn của quần chúng đối với bọn giặc xâm lược. Nhân nhân miền Nam đã anh dũng đứng lên chống lại kẻ thù, họ là những người dân lao động nghèo khổ, thuần phác. Hình ảnh của họ đã được Nguyễn Đình Chiểu “chạm khắc” rõ nét qua những cuộc chiến đấu chống Pháp. Có thể nói đến Nguyễn Đình Chiểu cuộc chiến tranh nhân dân, hình ảnh người nông dân, người du kích chống Pháp với ý thức trách nhiệm của mình đối với tổ quốc lần đầu tiên đi vào những trang văn học hết sức hào hùng và đẹp đẽ. Đối với những lãnh tụ nghĩa quân xả thân vì đất nước như Trương Định, Phan Công Tòng, ông cũng đã dành cho họ những lời thơ hết sức rung cảm và đạt đến mức nghệ thuật về trữ tình và anh hùng ca. Trong cuộc kháng chiến không cân sức này, Nguyễn Đình Chiểu đã thấy được mối quan hệ giữa lãnh tụ nghĩa quân với quần chúng, tình yêu thương của quân sỹ đối với lãnh tụ cũng như lòng ưu ái của lãnh tụ đối với quân sỹ. Đó là quan niệm rất mới về anh hùng của ông, rất khác với các quan niệm phong kiến về trung quân ái quốc. Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, vẫn gọi là Ngư tiều y thuật vấn đáp là tác phẩm được ra đời sau khi ông lánh về Ba Tri (1862), lúc đó cả ba tỉnh miền đông rộng lớn rơi vào tay giặc. Đây là một cuốn sách với nội dung dạy nghề thuốc chữa bệnh được sáng tác bằng văn vần. Mục đích của Nguyễn Đình Chiểu là thông qua câu chuyện vấn đáp giữa hai nhân vật ông Ngư và ông Tiều để tiếp tục biểu dương đạo đức làm người. Ông đã mượn lời những nhân vật trong truyện để nói lên tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc, sự khinh ghét bọn người vô sỉ, cam tâm làm tay sai sai cho quân xâm lược. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31
  38. Có thể khẳng định thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu là mảng sáng tác có giá trị lớn nhất của ông, ông đã khái quát được hiện thực lịch sử của một giai đoạn với những nét bi hùng bề thế, xứng đáng là những trang sử biên niên đầy oanh liệt của dân tộc ta “một thời khổ nhục nhưng vĩ đại”. Đó còn là một bức tranh biếm họa sắc sảo, sinh động về hiện thực xã hội lúc bấy giờ trong đó nổi bật lên là hai hình ảnh tương phản, một bên là triều đình nhà Nguyễn phong kiến thối nát, ươn hèn, chối bỏ trách nhiệm trước bước ngoặt lịch sử; một bên là hình ảnh nhân dân và sỹ phu yêu nước đang chiến đấu hết mình vì sự bình yên của đất nước, của nhân dân. 1.3.2.3. Đặc điểm ngôn ngữ văn chương Tác giả Hồng Dân trong bài viết “Nguyễn Đình Chiểu, cái mốc lớn trên tiến trình của tiếng việt văn học” [58,tr.544] đã nhận định: “Mặt chủ yếu góp phần tạo ra cái bản sắc riêng, độc đáo ở Nguyễn Đình Chiểu là ở chỗ cụ làm cho ngôn ngữ của tác phẩm văn học gần gũi hơn nữa với ngôn ngữ sinh động, phong phú và đa dạng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của đại chúng, của nhân dân”. Tác giả ví cái đẹp của ngôn từ trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu có phần giống với cái đẹp của cây đa, cây đề mọc ở đầu làng, ở giữa cánh đồng, ở một bến nước, bờ sông nào đó của thôn quê Việt Nam, mộc mạc và bình dị, chân thực và hồn nhiên lạ thường. Đặc điểm này quán xuyến toàn bộ văn thơ Nguyễn Đình Chiểu. Ta có thể bắt gặp trong thơ văn ông những từ ngữ cửa miệng, những từ ngữ phương ngôn, những thành ngữ, tục ngữ, những cách nói quen thuộc trong lối nói năng hằng ngày của đại chúng nói chung, của nhân dân Nam Bộ nói riêng. Ta cũng còn có thể tìm thấy ở đây những từ ngữ dù chỉ mới xuất hiện trong đời sống xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, nhưng đã được Nguyễn Đình Chiểu nhanh chóng đưa vào trong văn học; và chính những từ nhữ này, đến lượt nó, lại góp phần làm cho thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, nhất là những áng thơ văn yêu nước chống Pháp chứa chan hơi thở của đời sống hiện thực, cả về phương diện ngôn từ. Có thể nói ngôn ngữ trong các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đã không tỏ ra xa lạ với ngôn ngữ trong nền văn học hiện thực của chúng ta ngày nay. Chính đặc điểm trên đây đã tạo nên nét độc đáo trong phong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32
  39. cách ngôn ngữ của Nguyễn Đình Chiểu [81, tr.400-401]. Nghiên cứu về “Tiếng địa phương miền Nam trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu” Các tác giả Hoàng Tuệ, Phạm Văn Hảo, Lê Văn Trường cũng nhận định “Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu thật đậm đà tiếng nói miền Nam thêm vào đó, những từ láy có tư cách ngữ pháp là động từ, tính từ hay phó từ thường quen dùng ở miền Nam như băng xăng; bĩ bế, bĩ bàng; chào rào; chàng rang; ganh ghẻ; chộn rộn; dể duôi; chuyển chê; xửng vửng; nhộn nhàng Đây là những từ mà tính chất đặc phương ngữ có thể coi là rõ hơn ở chỗ chúng không có những đơn vị tương ứng về âm hay về nghĩa ở phương ngữ khác. Như vậy phương ngữ miền Nam chính là một yếu tố trong giá trị hiện thực của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu [80, tr.537- 538]. Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu sáng tác bằng chữ Nôm, tuy nhiên bất kỳ một nhân vật nào trong lịch sử cũng chỉ là sản phẩm của thời đại cho nên việc Nguyễn Đình Chiểu còn sử dụng nhiều tiếng Hán là điều hiển nhiên. Đó cũng là điều mà nhà nghiên cứu Nguyễn Thạch Giang đã nhận xét về ngôn ngữ trong văn chương Đồ Chiểu: Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Chiểu thường hay nói, kể lại những vấn đề lịch sử và văn hóa Trung Hoa song nói như vậy không có nghĩa là ông đã dùng quá nhiều tiếng Hán. Nguyễn Đình chiểu đã có những cố gắng trong việc hạn chế dùng tiếng Hán, bằng cách cố dịch sát từng chữ ra tiếng Việt. Ví như: chín trùng, chăn dân, sâu dân mọt nước, dân gầy nước ốm, vóc dê da cọp, thờ trên nuôi dưới, vòng danh xiềng lợi, ngồi giếng xem trời, hình hươu lốt chó. v.v Và phần lớn trong số này đã nhập vào tiếng của ta một cách tự nhiên, làm giàu thêm cho tiếng nói của dân tộc. Bên cạnh đó là một số từ phổ thông của tiếng Việt có mang sắc thái ngữ nghĩa riêng của Nam Bộ. Ví dụ: Ầm ầm trong các câu “Lưng eo đau nhức ầm ầm tai kêu”, “Phong môn cây gió ầm ầm”, “Làm ngôi phong mộc ầm ầm gió cây” có một nghĩa mới mẻ, không như nghĩa bây giờ Hàng loạt từ ngữ dân gian Nam Bộ được đưa vào tác phẩm văn học làm giàu vốn từ ngữ chung của tiếng nói dân tộc, góp phần giao lưu văn hóa giữa hai miền [81, tr.414]. Biện pháp tu từ như phép điệp và đối cũng là một trong những đặc điểm đáng lưu ý trong ngôn ngữ văn chương Nguyễn Đình Chiểu. Nhà nghiên cứu Hồ Lê trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33
  40. bài viết “Phép điệp và đối với ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu” [81, tr.419-426], đã chỉ ra một trong những nguyên nhân làm nên nét cá tính nổi bật đáng quý ở Nguyễn Đình Chiểu đó là “Cái sở trường sử dụng phép đối và phép điệp rất linh hoạt của nhà thơ” và ông cũng đã đưa ra những dẫn chứng điệp, đối gây ấn tượng sâu trong tác phẩm của Đồ Chiểu: Quán rằng: “ghét việc tầm phào” Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm. Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm, Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang Hồ Lê còn chỉ ra trong thơ Đồ Chiểu không chỉ có sự điệp và đối trong từng đoạn thơ mà còn có cả sự điệp và đối trong từng câu thơ: - Dữ răn việc trước, lành dè thân sau. - Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa. - Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không. Nhà nghiên cứu còn nhấn mạnh hiện tượng này còn xuất hiện trong cả từng cụm từ: Tính thiệt so hơn, Má đào mày liễu, Lũ kiến chòm ong, Tấc đất ngọn rau Ở lĩnh vực này Nguyễn Đình Chiểu không phải là người đi đầu, song cái độc đáo của ông là ở nội dung của sự điệp và ở tần số sử dụng hình thức này. Hồ Lê đã khẳng định thông qua kết quả nghiên cứu rằng: Trong ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu phép điệp và đối đã trở thành một vũ khí sắc bén, có thể xem đây là một trong những nét độc đáo của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Qua kết quả cũng như sự nhận định trên về đặc điểm ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Đình Chiểu, các nhà nghiên cứu đã cho chúng ta thấy những đóng góp hết sức quan trọng của ông về mặt ngôn ngữ đối với sự phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc. Trong thơ văn Đồ Chiểu, không phải không có ít nhiều hạn chế. Nhưng với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật như trên, thơ văn đồ chiểu xứng đáng là “ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” [văn 11], là ngọn cờ tiêu biểu của thơ văn chống thực dân Pháp thời kỳ nửa sau thế kỷ XIX. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34
  41. 1.4. Tiểu kết chƣơng 1 Trong chương 1 chúng tôi đã trình bày toàn bộ những vấn đề về cơ sở lý luận có liên quan đến luận văn như: Vấn đề về từ láy tiếng Việt, PNNB và từ láy trong phương ngữ Nam Bộ, Nguyễn Đình Chiểu con người và sự nghiệp văn chương. Chúng tôi có thể khái quát lại toàn bộ vấn đề trên như sau: Về vấn đề từ láy tiếng Việt: Chúng tôi đã trình bày một số khái niệm từ láy và các quan niệm về từ láy của các nhà nghiên cứu trong lịch sử. Đó là cơ sở lý luận đầu tiên giúp chúng tôi nhìn nhận và đánh giá một cách đúng đắn về trạng thái hiện nay của từ láy tiếng Việt. Đó cũng là cơ sở để chúng tôi tiến hành khảo sát thống kê từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Từ các khái niệm và các quan niệm về từ láy của các nhà nghiên cứu chúng tôi đã có một cách hiểu khái quát về từ láy của mình để làm việc: Đó là từ đa âm tiết được cấu tạo theo phương thức láy mà trong đó quan hệ giữa các âm tiết phải thể hiện được sự hòa phối và lặp lại về mặt ngữ âm, có giá trị biểu trưng hóa và sắc thái hóa về ngữ nghĩa. Để nhận diện và xác định được từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chúng tôi đã khái quát lại ý kiến của một số nhà nghiên cứu đang tồn tại trong thực tế về từ láy. Chúng tôi quan niệm những từ láy chân chính xét cả về nội dung ý nghĩa lẫn hình thức cấu tạo của từ thì đó là những từ mà cả hai tiếng đều vô nghĩa hoặc chỉ một tiếng có nghĩa trên quan điểm đồng đại. Không có sự đối lập giữa từ với dạng thức của từ có nghĩa là không nên phân biệt sự khác nhau giữa từ láy và dạng láy. Sự phân loại từ láy trong tiếng Việt được dựa trên hai tiêu chí hình thức ngữ âm và ngữ nghĩa của từ láy bởi cấu tạo từ láy trong tiếng Việt là rất đa dạng, phong phú về kiểu loại. Từ láy là một lớp từ quan trọng và đặc sắc của tiếng Việt, sự tồn tại của nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các sáng tác văn chương bởi các giá trị mà nó hàm chứa. Khi sử dụng từ láy vào sáng tác thì hiệu quả nghệ thuật của từ láy sẽ rất cao. Bên cạnh đó chúng tôi cũng đi vào tìm hiểu khái quát về PNNB và vấn đề từ láy trong PNNB, từ đó giúp chúng tôi xác định được các từ láy là PNNB và đi vào tìm hiểu các giá trị của từ láy mang đặc điểm phương ngữ trong các tác phẩm của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35
  42. Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc nhưng với nhân dân Nam Bộ ông còn là một nhà thơ lớn của quê hương mình, cho nên ngôn ngữ văn chương của ông trong đó có từ láy cũng mang màu sắc phương ngữ Nam Bộ. Đây chính là một trong những đặc điểm trong ngôn ngữ văn chương của ông. Tìm hiểu về con người và sự nghiệp thơ văn cũng như những đặc điểm ngôn ngữ trong văn chương của Đồ Chiểu là cơ sở cho chúng tôi hiểu được giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Từ những cơ sở trên, chúng ta có điều kiện đi sâu khám phá ý nghĩa, tác dụng của việc sử dụng từ láy trong các tác phẩm văn chương của ông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36
  43. Chƣơng 2 ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG CÁC TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 2.1. Kết quả khảo sát thống kê chung Căn cứ vào cuốn “Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu”, Nxb Văn học, Hà Nội-1971 chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả như sau: - Lượng tác phẩm sử dụng từ láy là: 23/29 tác phẩm, chiếm 79,31% tác phẩm sử dụng từ láy. - Số lượng từ láy mà Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng trong các tác phẩm là: 346 từ/ 695 lần sử dụng, trong đó láy hoàn toàn là 88 từ, số lần xuất hiện là 170. Láy bộ phận là 258 từ, số lần xuất hiện là 525. Sau đây chúng ta sẽ xem xét từng mặt của các từ láy trong thơ văn của ông về đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ý nghĩa, đặc điểm ngữ pháp. 2.2. Đặc điểm cấu tạo 2.2.1. Phân loại từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu 2.2.1.1. Phân loại từ láy theo số lượng âm tiết Theo kết quả khảo sát, chúng tôi thấy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có cả ba loại láy lớn: láy đôi, láy ba và láy tư. Tuy nhiên trong tổng số 346 từ với 695 lần xuất hiện thì chỉ có 1 từ láy ba với 2 lần xuất hiện, và 1 từ láy bốn với 1 lần xuất hiện. Như vậy từ láy đôi chiếm số lượng gần như tuyệt đối với 344 từ và 692 lần xuất hiện. 2.2.1.2. Phân loại từ láy theo quy tắc điệp và đối Dựa trên sự đồng nhất hay khác biệt trong thành phần cấu tạo của các thành tố trong từ láy do cách phối hợp ngữ âm tạo nên (quy tắc điệp và đối), từ láy trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu được chia thành các loại nhỏ sau: a. Từ láy hoàn toàn Theo kết quả thống kê có 88 từ với 170 lần xuất hiện, từ láy hoàn toàn chiếm 25,43% tổng số từ láy và chiếm 51,76% tổng số lần xuất hiện. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37
  44. Xét về mặt ngữ âm, các từ láy hoàn toàn trong thơ văn Đồ Chiểu có những đặc điểm chung của quy luật hòa phối ngữ âm trong từ láy (lặp lại hoàn toàn hay lặp lại nhưng có sự biến đổi về thanh điệu và phụ âm cuối theo quy tắc nhất định). Hình thức này được biểu hiện cụ thể như sau: * Từ láy có hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau Từ láy có hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có 76 đơn vị, chiếm 86,36% tổng số từ láy hoàn toàn. Có thể kể ra một số từ như: Ai ai, nơi nơi, ngùi ngùi, vơi vơi, bon bon, thôi thôi, phừng phừng, chừ chừ, sao sao, làu làu, song song, xa xa, chênh chênh, dàu dàu, dòng dòng, xanh xanh, người người, bôn bôn, ràng ràng, rưng rưng, trơ trơ, nằng nằng, xàng xàng Đặc trưng của từ láy thuộc loại này điệp toàn bộ âm tiết. Trong điều kiện ấy trọng âm trở thành nét dị biệt trong quan hệ giữa tiếng gốc và tiếng láy, đồng thời cũng tạo nên vế đối trong từ. Ở các từ này trọng âm thường rơi vào tiếng thứ hai, khiến cho tiếng này được nhấn mạnh và có trường độ dài còn tiếng thứ nhất được đọc lướt nhẹ và ngắn hơn. * Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng có sự biến đổi về thanh điệu Theo kết quả thống kê cho thấy có 9 từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng nhưng khác nhau về thanh điệu, chiếm 10,23% tổng số từ láy hoàn toàn trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Đó là cá từ: Bòng bong, đom đóm, hơn hớn, ngài ngại, sồ sộ, thăm thẳm, văng vẳng, vò võ, vòi vọi. Sở dĩ có hiện tượng từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng có sự khác nhau về thanh điệu là do hiện tượng phát âm lướt nhẹ ở tiếng đầu, nên có thể xảy ra hiện tượng biến thanh theo quy luật chặt chẽ: - Đối lập bằng-trắc: Thanh bằng gồm có thanh ngang và thanh huyền; thanh trắc gồm có thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngã, thanh nặng. - Đối lập âm vực cao thấp theo quy tắc cùng âm vực, thuộc về âm vực cao có thanh không, thanh hỏi, thanh sắc; thuộc về âm vực thấp có thanh huyền, thanh ngã và thanh nặng. Với sự phối hợp thanh điệu tuân theo quy luật trên đã hình thành quy tắc hài thanh giữa các tiếng của từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Đối lập các thanh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38
  45. điệu bằng-trắc cùng âm vực, tức là trong từ láy hoàn toàn nếu cả hai tiếng đều là thanh trắc thì bao giờ một tiếng cũng chuyển sang thanh bằng cùng âm vực. VD: Sồ sồ → sồ sộ Lặng lặng → lẳng lặng Ngại ngại → ngài ngại Vẳng vẳng → văng vẳng Việc biến đổi thanh điệu ở từ láy hoàn toàn trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu giúp cho người tiếp cận tác phẩm dễ đọc hơn, nghe thuận tai, và dễ nhớ, tức là tăng cường sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hóa. * Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng có sự khác nhau về âm cuối Trong tổng số 88 từ láy hoàn toàn trong thơ văn Đồ Chiểu, chỉ có 3 từ biến đổi phụ âm cuối, kèm biến thanh trong những trường hợp cụ thể, chiếm 3,41%. Đó là các từ láy: rậm rạp, sùng sục, sớn sát. Đặc trưng của các từ láy thuộc loại này là sự chuyển âm cuối theo những quy tắc nhất định: các phụ âm tắc vô thanh -p, -t, -k sẽ chuyển thành những phụ âm mũi cùng cặp -m, -n, -ŋ (quy tắc đồng khác thanh tính). Sự chuyển đổi này diễn ra ở ba cặp: m-p, n-t, ŋ- k. Sự chuyển đổi trong hai từ trên cũng diễn ra theo quy luật phù trầm. Đây là hệ quả tất yếu của sự chuyển đổi phụ âm cuối khi cấu tạo từ láy. Do đặc điểm như vậy, nên tiếng láy được đọc lướt với trường độ ngắn hơn tiếng gốc, mặc dù trường độ của tiếng gốc đã bị giảm đi do khuôn vần khép. Trong các âm: âm đệm, âm chính, âm cuối (yếu tố nằm trong phần vần) thì âm chính có chức năng quan trọng nhất bởi nó làm nên đỉnh âm tiết và quy định âm sắc chủ yếu của âm tiết, là hạt nhân của âm tiết. Do đó nếu âm chính đã khác nhau thì diện mạo của âm tiết cũng khác nhau. Với chức năng kết thúc âm tiết, âm cuối chỉ làm thay đổi âm sắc của âm tiết chứ không làm thay đổi âm tiết. Vì vậy sự biến đổi âm phụ cuối không làm cho âm tiết thay đổi về diện mạo ngữ âm và âm sắc chủ yếu của âm tiết vì vậy hai từ láy trên tuy có biến đổi về phụ âm cuối nhưng vẫn được coi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39
  46. là từ láy hoàn toàn. Tuy nhiên kết quả khảo sát cho ta thấy từ láy thuộc loại này chiếm số lượng ít ỏi trong thơ văn Đồ Chiểu. b. Từ láy bộ phận Từ láy bộ phận trong thơ văn Đồ Chiểu có 258 từ với 525 lần xuất hiện, chiếm 74,56% trong tổng số từ láy và chiếm 49,14% tổng số lần xuất hiện. Căn cứ vào sự phối hợp các bộ phận khác nhau của âm tiết, có thể chia từ láy bộ phận trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu thành hai kiểu sau: * Từ láy âm Từ láy âm là những từ láy trong đó âm đầu được điệp lại, vần của hai tiếng trong từ láy là đối nhau. Theo khảo sát thống kê kết quả thu được của từ láy thuộc loại này là 179 từ, với 384 lần xuất hiện, chiếm 69,38% tổng số từ láy bộ phận và chiếm 46,61% tổng số lần xuất hiện. Các từ láy âm được sử dụng nhiều là: bàn bạc, dở dang, nhọc nhằn, ngỡ ngàng, dặn dò (3 lần), ngẩn ngơ, lạ lùng, sẵn sàng, hỏi han, lỡ làng, (4 lần), phôi pha (8 lần), vội vã, lạnh lùng (9 lần), rõ ràng (16 lần), vội vàng (17 lần). Các từ láy âm được sử dụng trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu phụ âm đầu kết hợp với nhau khá phong phú, đa dạng, hầu hết các phụ âm đầu đều có mặt: - Phụ âm môi |b|: Báo bổ, bàn bạc, bạn bè, bầu bạn, bịt bùng, bộn bề, bĩ bàng |m|: mặn mà, mơ màng, mê man, mùa màng, máy móc, mắc mớ, mỉa mai, mặn mòi. |f|: phỉnh phờ, phanh phui, phập phồng, phảng phất, phôi pha |v|: vội vã, vội vàng, vui vầy, vẵng vẻ, vang vầy, vui ve, vấy vá, vui vầy, vẽ vời, vững vàng, vấn vương, vất vơ, vậy vay, vật vờ, ve vãn. - Phụ âm đầu lưỡi (bẹt) |t'|: thanh thao, thẹn thùng, thơm tho, thật thà, thao thức, thấm thoắt, thấp thoáng, thong thả, thỉnh thoảng. |t|: tuổi tác, tan tành, tối tăm. |d|: đẹp đẽ, đùng đùng, đùm đậu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40
  47. |n|: nết na, nặng nề, nói năng, no nao, não nùng, nôm na. |s|: xót xa, xốn xang, xong xả, xây xoa, xăm xỉ. |z|: dở dang, dặn dò, dầm dề, dãi dầu, dật dờ, dùng dằng, dáo dát, dỗ dắc, dể duôi. |l|: lạnh lùng, lạ lùng, lặng lẽ, lỡ làng, lân la, lạnh lẽo, lẫy lừng, líu lo, lén lút, leo lét, lây lất, lưu luyến, lòn lỏi. - Phụ âm đầu quặt lưỡi |ş|: sẵn sàng, sửa sang, sơ sài, sợ sệt, sụt sùi, se sua, săn sóc, sùi sụt, sảng sốt, sung sục, sớn sát |z|: rõ ràng, rắp ranh, rỡ ràng, rao rân, rậm ri, rẽ ròi, rửa rạch, rập rình, rềnh rang, rổn rảng, ràng rạc. |t|: trớ trinh, trăng trói, trằn trọc - Phụ âm mặt lưỡi |c|: chứa chan, chống chỏi, chiu chít, chùa chiền | |: nhọc nhằn, nhiễu nhương, nhảy nhót, nhăn nhó, nhảy nhôn, nhúm nhem, nhộn nhàng - phụ âm gốc lưỡi |k|(c-q): côi cút, quày quả, cặn kẽ |ŋ|: ngẩn ngơ, ngỡ ngàng, nguôi ngoai, ngâm nga, ngao ngán, ngạt ngào, nghênh ngang, nghêu ngao, ngõ ngàng, ngậm ngùi, nghẽ ngóc, ngỏa nguê, ngập ngừng. |χ|: khoe khoang, khách khí, khắt khe, khao khát, khoe khoan. | |: gượng gạo, gai gốc, gập ghềnh - Phụ âm thanh hầu |h|: hẳn hoi, hãi hùng, hẹp hòi, hung hăng, hôi hám, hớn hở, hào hoa, hiu hắt, hồi hộp. Theo kết quả thống kê về các phụ âm đầu trong từ láy âm cho thấy phụ âm thanh hầu | | không có mặt. Trong việc tạo từ vai trò của các phụ âm là không như nhau, có những phụ âm đầu có khả năng tạo thành nhiều từ láy âm cụ thể như các âm: |z| (9 từ), |m| (10 từ), |z| (11 từ), |ŋ| (13 từ), |v|, |l| (15 từ) trong khi đó phụ âm |t|, |k| (c-q) chỉ có 3 từ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41
  48. * Từ láy vần Từ láy vần là từ láy trong đó phần vần lặp lại ở cả hai âm tiết, còn phụ âm đầu khác biệt nhau. Căn cứ vào đặc điểm này chúng tôi thống kê được 79 từ láy vần với 141 lần xuất hiện, tương đương với 30,62% tổng số từ láy bộ phận trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Các từ láy vần được sử dụng nhiều nhất là: bối rối, bôn chôn, đồ sộ, lênh chênh (3 lần), chàng ràng, hoạn nạn, lênh đênh, luông tuồng (4 lần), lao đao (6 lần), bơ vơ (7 lần), bâng khuâng, lao xao (8 lần). Nguyên tắc cấu tạo của từ láy vần là phần vần trong thành tố gốc và phần vần trong thành tố láy phải giống nhau hoàn toàn, thanh điệu giữa hai thành tố phải tuân theo nguyên tắc cùng âm vực. Khảo sát văn thơ Nguyễn Đình Chiểu có 79 từ láy vần, nhưng lại rất đa dạng về phụ âm đầu. Các phụ âm đầu thường kết hợp với nhau theo quy luật: Trong mỗi cặp, hai phụ âm đầu phải khác nhau về phương thức và bộ vị cấu âm. Đáng chú ý là có đến 29 từ láy vần có phụ âm đầu là |l| ở tiếng thứ nhất trên tổng số 79 từ láy vần. Có thể do |l| là một phụ âm bên, đối lập với tất cả phụ âm khác còn lại làm phụ âm đầu trong tiếng Việt, nên nó có thể kết hợp rộng rãi với hầu hết các phụ âm khác trong việc cấu tạo từ láy vần. VD: l-ch: lanh chanh, lao chao, lênh chênh l-d: lâm dâm, lây dây l-đ: lác đác, lao đao, lận đận, lật đật, lênh đênh, lừ đừ l-m: liêm miên l-ng: lăng nhăng, lam nham l-nh: lằng nhằng l-q: lầy quầy l-r: liu riu l-t: le te, lung tung, luông tuồng, l-th: lạo thảo, l-s: lơ sơ l-x: lao xao, lài xài, lổm xổm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42
  49. Các phụ âm đầu khác gặp ở từ láy vần trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng rất đa dạng: b-x: bái xái b-nh: bàu nhàu b-ng: bát ngát b-r: bình rĩnh, bối rối, bịn rịn b-h: bàng hoàng, bồi hồi b-kh: bâng khuâng b-ch: bôn chôn b-v: bơ vơ ch-r: chàng ràng, chào rào, chộn rộn ch-nh: chộn nhộn ch-l: cheo leo ch-b: chề bê đ-r: đành rành đ-n: đinh ninh đ-h: đoái hoài đ-s: đồ sộ ø-h:ê hề gi-n: gian nan h-đ: hồ đồ h-n: hoạn nạn ø-l:im lìm k-d: kinh dinh kh-l: khéo léo, khép lép m-t: mường tượng ng-t: ngang tàng ø-t: om sòm th-v: thon von Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43
  50. th-d: thong dong, thung dung th-l: tham lam, thình lình, thuồng luồng t-d: tiêu diêu t-b: tưng bừng v-c: vô cô x-v: xăng văng x-r: xơ rơ x-m: xếu mếu Sự đối lập của các phụ âm đầu ở từ láy vần trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu tương đối đều đặn. Điều này được thể hiện rõ ở mỗi quan hệ giữa các phụ âm b, ch, l, (đứng trước) với phần lớn các phụ âm khác (đứng sau). Tuy nhiên vẫn chưa đủ dữ liệu để giải thích rõ vì sao có đặc điểm như vậy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và trong từ láy tiếng Việt nói chung. “Phải chăng hiện tượng này là kết quả không chỉ của quy tắc dị hóa, mà còn là kết quả của quá trình chia tách và phân bố nhóm phụ âm đầu để tạo ra thế đối [32, tr.50]. 2.2.2. Thanh điệu trong từ láy Các thanh điệu trong từ láy tiếng Việt bao giờ cũng kết hợp với nhau theo nguyên tắc cùng âm vực. Theo đó thuộc âm vực thấp là những thanh: huyền, ngã, nặng; còn thuộc âm vực cao là những thanh: ngang, hỏi, sắc. Nguyên tắc thanh điệu cùng âm vực trong từ láy tiếng Việt được thể hiện nghiêm ngặt, chặt chẽ đến mức nếu sự phân bố thanh điệu không tuân theo quy luật này thì các từ láy như vậy đều bị các nhà nghiên cứu coi không phải là từ láy chân chính. Theo kết quả khảo sát cho thấy có 26 từ láy có sự kết hợp không theo quy tắc thanh điệu cùng âm vực, chiếm 7,51%, trong đó có 1 từ láy hoàn toàn. Đó là từ: lẳng lặng, lẳng (âm vực cao) lặng (âm vực thấp). 25 từ còn lại là từ láy bộ phận có sự kết hợp thanh điệu không theo quy tắc cùng âm vực, cụ thể là: - Ngang-huyền: im lìm, luông tuồng, mơ màng, ngang tàng, om sòm, sơ sài, tan tành, tưng bừng, vui vày, vang vày. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44
  51. - Huyền-ngang: chề bê, rềnh rang - Huyền-sắc: thề thốt - Hỏi-huyền: hẳn hòi, phỉnh phờ - Huyền-hỏi: lòn lỏi, mình mẩy, quày quả - Hỏi-nặng: rửa rạch - Nặng-hỏi: lạo thảo - Nặng-Ngang: rậm ri - Ngang-ngã: ve vãn - Ngã-ngang: ngỗ ngang, nhiễu nhương - Ngã-sắc: nghẽ ngóc Như vậy trong toàn bộ sáng tác thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu với 26 từ láy, có tới 11 cặp kết hợp thanh điệu giữa hai thành tố không đúng theo quy tắc cùng âm vực. Theo Hà Quang Năng trong tiếng Việt có khoảng 350 từ láy có sự kết hợp thanh điệu không đúng luật âm vực. Đây là con số không nhiều so với vốn từ láy của tiếng Việt, nhưng cũng cần được nghiên cứu và có lý giải thỏa đáng. Tuy nhiên cho đến nay cũng chưa có cơ sở khoa học nào để lý giải hiện tượng trên. 2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa 2.3.1. Quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trong từ láy So với việc nhận diện từ láy thông qua một số đặc điểm về cấu tạo (phụ âm đầu, khuôn vần, thanh điệu), thì việc phân loại và xác định những thuộc tính chung của từ láy về mặt ngữ nghĩa, có phần phức tạp hơn. Song khi xem xét quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trong từ láy trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu chúng ta có thể phân thành các mối quan hệ cơ bản sau: 2.3.1.1. Từ láy xác định được thành tố gốc Đây là loại từ láy đôi có một thành tố có nghĩa và một thành tố không có nghĩa. Thành tố có nghĩa là thành tố làm nòng cốt, dựa vào nó thành tố láy được tạo thành bằng cách láy lại toàn bộ hay bộ phận các yếu tố của thành tố gốc như: lặng lẽ, mê man, nhiễu nhương Về mặt ngữ nghĩa, thành tố gốc quy định ý nghĩa của từ láy cũng như quy định đặc điểm ngữ pháp của nó. Nếu thành tố gốc chỉ màu sắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45
  52. thì ý nghĩa của từ láy cũng chỉ màu sắc, nếu thành tố gốc chỉ tính chất, hành động, thì ý nghĩa của toàn bộ từ láy cũng biểu thị tính chất, hành động. Khảo sát thống kê toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu có 108 từ láy xác định được thành tố gốc, chiếm 31,21% tổng số từ láy trong tác phẩm. Đó là các từ: lẳng lặng, ngài ngại, văng vẳng, rậm rạp, báo bổ, bàn bạc, xót xa, vội vã, lặng lẽ, hãi hùng, rõ ràng Căn cứ vào vị trí của thành tố gốc trong từ láy đôi, có thể phân ra làm hai loại: a. Từ láy có thành tố gốc đứng trước, thành tố láy đứng sau Khảo sát thống kê văn thơ Nguyễn Đình Chiểu chúng tôi thấy 87 từ láy có thành tố gốc đứng trước, chiếm 80,56% trên tổng số108 từ láy xác định được thành tố gốc. Trong loại từ láy đang xét, do tiếng gốc là tiếng có nghĩa nên nó có thể tách riêng ra để sử dụng một cách độc lập mà không cần đến yếu tố láy, nó được xem là từ đơn tồn tại song song với từ láy. VD: xót > xót xa, vội > vội vã, lạnh > lạnh lùng, nặng > nặng nề, lạ > lạ lùng, đẹp > đẹp đẽ, nhọc > nhọc nhằn, vội > vội vàng, rộn > rộn ràng, vui > vui vày, hẹp > hẹp hòi quan hệ giữa hai thành tố trong từ láy kiểu này là quan hệ chính phụ, thành tố gốc có vai trò chính còn thành tố láy có vai trò phụ. Có thể biểu thị quan hệ này trong từ láy như sau: xót xa b. Từ láy có thành tố láy đứng trước, thành tố gốc đứng sau Theo thống kê toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu có 21 từ láy thuộc kiểu này, chiếm 19,44% trên tổng số 108 từ láy xác định được thành tố gốc, gồm cả từ láy hoàn toàn và từ láy bộ phận như: thao thức, sung sướng, thấm thoắt, ngao ngán, thấp thoáng, mịt mù, mịt mờ, lẳng lặng, ngài ngại, thăm thẳm, văng vẳng Quan hệ chính phụ giữa các thành tố trong từ láy loại này có thể hình dung như sau: thao thức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46
  53. Ý nghĩa của tiếng gốc bao giờ cũng mang tính chất khái quát tổng hợp còn ý nghĩa của từ láy xác định được thành tố gốc bao giờ cũng mang tính chất cụ thể, rõ ràng, với những sắc thái biểu trưng hóa khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ tính chất này qua các dẫn chứng về từ láy trong thơ văn Đồ Chiểu: 1. Thao thức Nguyệt nga trong dạ như bào Canh chày chẳng ngủ những thao thức hoài (C1400-LVT). - Từ láy thao thức trong câu thơ trên có thành tố gốc là thức với nghĩa “ở trạng thái không ngủ hoặc chưa ngủ, trong thời gian thông thường dùng để ngủ” [61, tr.1505] - Khi thành tố gốc thức kết hợp với thành tố láy thao tạo thành từ láy thao thức thì có nghĩa là “trằn trọc, trăn trở không sao ngủ được vì có điều phải suy nghĩ, không yên” [61, tr.1418]. 2. Vội vã Nàng bèn tỏ thiệt một khi Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay (C1854-LVT) - Thành tố gốc của từ láy này là vội có nghĩa thứ nhất là (làm việc gì) hết sức nhanh cho kịp, do bị thúc bách về thời gian hay (làm việc gì) sớm hơn bình thường do không muốn chờ hoặc sợ để chậm” [61, tr.1732]. - Khi thành tố gốc vội kết hợp với thành tố láy tạo thành từ láy vội vã thì nghĩa của từ đã được nhấn mạnh hơn nhiều về sự vội và mang một sắc thái cụ thể là “Tỏ ra rất vội, hết sức muốn tranh thủ thời gian cho kịp hay với nghĩa thứ hai là tỏ ra vội, không kịp có sự suy nghĩ, cân nhắc” [61, tr.1732]. 3. Ngao ngán Ngao ngán bầy cái thân chuột thối, biết ngày nào Ô thước phanh phui; nực cười thay cái bụng chuột tham, trông bao thủa Hoàng-hà ráo cạn. (C29-Thảo thử hịch) - Thành tố gốc ngán có nghĩa là “Ở trạng thái không thể tiếp nhận, không thể chịu đựng thêm được nữa. 2. ngại đến mức sợ” [61, tr.1033]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47
  54. - Từ láy ngao ngán đã nhấn mạnh hơn nghĩa gốc, có nghĩa cụ thể là buồn rầu, chán nản, không còn thấy thích thú gì nữa [61, tr.1035]. Qua việc phân tích một số ví dụ về nghĩa của từ láy xác định được thành tố gốc, có thể nói thành tố láy không thể tách ra khỏi thành tố gốc hay nói khác đi là không có cơ sở để tồn tại nếu tách ra khỏi thành tố gốc, bởi vì khi đứng một mình bản thân nó hoàn toàn không có ý nghĩa về mặt từ vựng. Nhưng khi đi vào cơ chế cấu tạo từ láy thì những yếu tố này không chỉ quan hệ về mặt ngữ âm với thành tố gốc mà nó còn mang tính chất khu biệt và giá trị biểu trưng của từ. Dù thành tố gốc đứng trước hay đứng sau thì nghĩa của từ láy không phải chỉ dựa vào thành tố gốc và do yếu tố gốc mang lại. Thành tố láy cũng có vai trò quan trọng tạo nên ý nghĩa của từ. Vì vậy Hoàng Văn hành đã khẳng định “Khi đi vào phân tích nghĩa của từ láy, không thể chỉ dựa vào nghĩa của tiếng gốc” [32, tr.96]. 2.3.1.2. Từ láy không xác định được thành tố gốc Là những từ láy mà các thành tố tạo nên nó hoàn toàn không có nghĩa, nghĩa của từ láy không thể giải thích nhờ vào từng thành tố trong cấu trúc của bản thân nó. Theo thống kê, từ láy không xác định được thành tố gốc có 170 từ, chiếm 49,13% trên tổng số 346 từ láy trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Đó là các từ: bịt bùng, bôn ba, bộn bề, dãi dầu, dật dờ, giăng giỏi, hẩm hút, phôi pha, mênh mông, ngạt ngào, nghêu ngao, ngơ ngáo, sụt sùi, thảnh thơi, quày quả, vật vờ, vất vơ, vò võ, xăng văng, xong xả, xốn xang, xửng vửng, trằn trọc, thơ thẩn, trớ trinh Tuy các thành tố tạo nên từ láy loại này không thể tồn tại độc lập, vì các thành tố này đều không rõ nghĩa từ vựng nhưng khi chúng kết hợp với nhau trong một từ thì lại tạo nên một nội dung ý nghĩa rất rõ ràng. VD: 1. Lơ sơ, dáo dát Bỏ nhà lũ trẻ lơ sơ chạy Mất ổ bầy chim dáo dát bay (Chạy giặc) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48