Luận văn Tình hình thực hiện bao thanh toán tại Việt Nam và một số giải pháp để đưa sản phẩm bao thanh toán vào ứng dụng taị Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

pdf 77 trang phuongnguyen 3400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tình hình thực hiện bao thanh toán tại Việt Nam và một số giải pháp để đưa sản phẩm bao thanh toán vào ứng dụng taị Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_tinh_hinh_thuc_hien_bao_thanh_toan_tai_viet_nam_va.pdf

Nội dung text: Luận văn Tình hình thực hiện bao thanh toán tại Việt Nam và một số giải pháp để đưa sản phẩm bao thanh toán vào ứng dụng taị Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

  1. Trang 1 MỤC LỤC Lời mở đầu Danh mục bảng biểu, đồ thị, lưu đồ Danh mục các chữ viết tắt Chương I : Lý luận về nghiệp vụ bao thanh toán và hoạt động bao thanh toán trên thế giới Trang 01 1.1. Giới thiệu về nghiệp vụ bao thanh toán Trang 02 1.1.1 Lịch sử hình thành sản phẩm bao thanh toán Trang 02 1.1.2.Khái niệm về bao thanh toán Trang 03 1.1.3.Các loại hình bao thanh toán Trang 05 1.1.4.Lợi ích khi sử dụng công cụ bao thanh toán Trang 10 1.2. Sự cần thiết phát triển bao thanh toán Trang 16 1.3. Hoạt động bao thanh toán thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Trang 19 1.3.1 Tình hình hoạt động bao thanh toán trên thế giới Trang 19 1.3.2.Bài học kinh nghiệm cho hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam Trang 23 Chương II : Thực trạng hoạt động bao thanh toán tại các NHTM tại Việt Nam hiện nay Trang 26 2.1. Các qui định về bao thanh toán tại Việt Nam Trang 27 2.1.1.Các văn bản pháp lý hiện hành Trang 27 2.1.2.Các điều kiện để được hoạt động bao thanh toán Trang 28 2.1.3.Đối tượng áp dụng Trang 28 1.1.4.Quy trình hoạt động bao thanh toán Trang 29 2.2. Thực trạng hoạt động bao thanh toán của các ngân hàng thương mại Trang 30 2.2.1.Tình hình hoạt động bao thanh toán hiện nay Trang 30 2.2.2.Một số quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán Trang 32 2.2.2.1 Quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán của NHTM CP Á Châu Trang 32 2.2.2.2 Quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu của Far East National Bank Trang 36 2.2.3.Một số khó khăn, tồn tại khi ứng dụng nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt NamTrang 38 Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  2. Trang 2 Chương III : Một số giải pháp triển khai thực hiện sản phẩm bao thanh toán tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - BIDV Trang 44 3.1.Sự cần thiết phải phát triển sản phẩm bao thanh toán tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam Trang 45 3.1.1.Giới thiệu sơ lược về Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam Trang 45 3.1.2.Sự cần thiết phải phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại BIDV Trang 46 3.1.3.Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bao thanh toán tại BIDV Trang 46 3.2. Một số giải pháp xây dựng quy trình thực hiện bao thanh toán tại BIDV Trang 48 3.2.1.Quy trình bao thanh toán nội địa Trang 48 3.2.1.1.Lựa chọn bên mua hàng và bên bán hàng Trang 48 3.2.1.2.Một số tiêu chí quan trọng khi thẩm định bên mua hàng/bên bán hàng Trang 49 3.2.1.3.Lưu đồ thực hiện bao thanh toán nội địa Trang 52 3.2.2.Quy trình bao thanh toán xuất khẩu Trang 52 3.3. Một số giải pháp nhận diện rủi ro và kiểm soát rủi ro bao thanh toán Trang 57 3.3.1.Nhận diện rủi ro Trang 58 3.3.1.Kiểm soát rủi ro Trang 59 3.3.3.Quy trình xử lý tranh chấp theo quy định của FCI Trang 62 Kết luận Tài liệu tham khảo. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  3. Trang 3 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ VÀ LƯU ĐỒ 1. Bảng biểu: Bảng 1: Doanh số bao thanh toán trên thế giới. Bảng 2: Doanh thu về bao thanh toán của các châu lục trên thế giới. Bảng 3: Doanh số bao thanh toán của các quốc gia hàng đầu Châu Á. Bảng 4: Doanh số bao thanh toán ở các nước Asean từ 2001-2005. Bảng 5: Doanh số các loại sản phẩm bao thanh toán. 2. Đồ thị: Đồ thị 1: Tỷ trọng doanh số bao thanh toán tại các châu lục năm 2005 3. Lưu đồ: Lưu đồ thực hiện bao thanh toán nội địa đối với bên mua hàng Lưu đồ thực hiện bao thanh toán nội địa đối với bên bán hàng Lưu đồ thực hiện bao thanh toán xuất khẩu. ℘℘℘℘℘℘℘℘ Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  4. Trang 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - FCI: Factors Chain International - Tổ chức bao thanh toán quốc tế - IF: Import Factor - Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu - EF: Export Factor - Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu - BIDV: Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - NHNN: Ngân hàng nhà nước - NHTM: Ngân hàng thương mại ℘℘℘℘℘℘℘℘ Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  5. Trang 5 Mở đầu Hội nhập vào nền kinh tế thế giới là một trong những động lực chính của cải cách kinh tế ở Việt Nam. Từ việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Asean đến việc thực hiện Hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ và sắp tới đây là việc tham gia vào WTO, quá trình hội nhập đã giúp cho thị trường trở nên cạnh tranh hơn và buộc các doanh nghiệp trong nước phải tăng năng suất và hiệu quả hoạt động. Gia nhập vào WTO đòi hỏi những thay đổi về thể chế, từ việc phải tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp, đến việc mở rộng cạnh tranh trong những lĩnh vực dịch vụ quan trọng như: tài chính ngân hàng hay cải thiện tiêu chuẩn vệ sinh và tăng cường quyền sở hữu trí tuệ. Từ nay đến năm 2008, ngành tài chính ngân hàng Việt Nam sẽ mở cửa hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Chính vì thế, đa dạng hóa và phát triển sản phẩm mới là một trong những chiến lược để tồn tại và phát triển của bất kỳ ngân hàng nào. Để đạt được mục tiêu đó, các ngân hàng phải nhanh chóng đưa vào áp dụng những sản phẩm tài chính mới đã được phát triển trên thế giới, trong đó có nghiệp vụ bao thanh toán – Factoring. Thực ra bao thanh toán không phải là một nghiệp hoàn toàn mới lạ, những lợi ích mà bao thanh toán đem lại cho thương mại trong phạm vi quốc gia và trên thế giới ngày càng được khẳng định và công nhận rộng rãi. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam dịch vụ này phát triển như thế nào, có bao nhiêu ngân hàng bán sản phẩm này và làm thế nào để bao thanh toán được ứng dụng rộng rãi tại các ngân hàng thương mại. Quan tâm đến sản phẩm này và mong muốn góp phần nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng, tôi đã chọn đề tài:” Tình hình thực hiện bao thanh toán tại Việt Nam và một số giải pháp để đưa sản phẩm bao thanh toán vào ứng dụng taị Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Để giải quyết nội dung cơ bản của đề tài trên, ngoài lời mở đầu và kết luận, bố cục của luận văn gồm các chương: ƒ Chương 1:Lý luận chung về nghiệp vụ bao thanh toán và một số kinh nghiệm trên thế giới. Trong chương này đề cập đến những lý luận cơ bản về nghiệp vụ bao thanh toán từ lịch sử hình thành, các khái niệm của sản phẩm đến quy trình thực hiện chung về bao thanh toán nội địa và quốc tế và tình hình hoạt động bao thanh Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  6. Trang 6 toán trên toàn thế giới. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết cho hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam. ƒ Chương 2: Thực trạng hoạt động bao thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Phần này nêu lên thực trạng hoạt động của bao thanh toán tại Việt Nam, những thành tựu đạt được, những khó khăn tồn tại cần khắc phục về cơ sở pháp lý, nhận thức của các tổ chức tài chính tín dụng và các doanh nghiệp. Nêu điển hình về thực tiễn hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu- ACB và Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là Far East National Bank. ƒ Chương 3: Một số giải pháp để đưa sản phẩm bao thanh toán ứng dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam –BIDV. Từ những lý luận và thực tiễn thực hiện tại các ngân hàng bạn đưa ra sự cần thiết phải phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại BIDV. Từ đó đưa ra một số giải pháp để đưa bao thanh toán vào hoạt động là xây dựng quy trình thực hiện bao thanh toán nội địa, xuất khẩu và một số giải pháp để kiểm soát rủi ro khi thực hiện nghiệp vụ này. Xin chân thành cảm ơn Cô- Tiến sĩ Bùi Kim Yến cùng các Thầy Cô trong khoa Tài chính ngân hàng đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn không tránh khỏi những sai sót và hạn chế về mặt kiến thức, rất mong nhận được sự lượng thứ và ý kiến đóng góp từ Quý Thầy, Cô và các bạn quan tâm đến lĩnh vực này. F G Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  7. Trang 7 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN TRÊN THẾ GIỚI 1.1- GIỚI THIỆU VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN (FACTORING) 1.1.1.Lịch sử hình thành sản phẩm bao thanh toán: Nghiệp vụ bao thanh toán ra đời từ thời trung cổ khi người ta bắt đầu giao thương với nhau và phát sinh các khoản nợ thương mại. Bao thanh toán xuất phát từ đại lý hưởng hoa hồng, những người thực hiện việc giao thương hàng hóa khoảng 2000 năm trước dưới thời đế chế La Mã. Là đại lý, họ nắm giữ quyền sở hữu của hàng hóa bên ủy nhiệm-bên cung ứng sản phẩm nước ngoài- rồi giao hàng đó cho người mua trong nước, ghi sổ và thu nợ khi đến hạn, chuyển dư nợ cho bên ủy nhiệm thu sau khi đã trừ phần hoa hồng của mình. Sự phát triển của ngành công nghiệp Anh ở thế kỷ 14, 15 đã nâng cao tầm quan trọng của các đại lý bao thanh toán. Khi các đại lý dần dần tin cậy vào khả năng trả nợ của người mua trong nước, họ bắt đầu cấp tín dụng cho người ủy nhiệm mình (nhà cung ứng sản phẩm) để lấy hoa hồng cao hơn. Thực tế là, với khoản hoa hồng nhiều hơn, đại lý bao thanh toán bắt đầu bảo đảm khả năng trả nợ của người mua bằng cách hứa trả đúng hạn cho người ủy nhiệm trong tương lai, kể cả trong trường hợp người mua không trả được nợ đúng hạn. Các đại lý thanh toán có đủ vốn bắt đầu ứng trước một phần cho người ủy nhiệm của mình dựa trên khoản thanh toán của người mua Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  8. Trang 8 trong tương lai. Do có những khoản ứng trước này mà đại lý hoa hồng tính thêm phí hoa hồng hay lãi suất. Vào thời điểm Columbus phát hiện ra Châu Mỹ năm 1942, đại lý bao thanh toán đã phát triển từ vai trò duy nhất với chức năng marketing thành đóng hai vai trò vừa có chức năng marketing vừa có chức năng tài chính. Thế kỷ 16 chứng kiến sự bắt đầu của chế độ thực dân Mỹ và cùng với nó là vai trò ngày càng tăng và nhiều cơ hội mới cho bao thanh toán, đặc biệt là đối với những người thiết lập hoạt động kinh doanh ở Mỹ. Đến cuối thế kỷ 19, một sự thay đổi quan trọng trong thế giới thương mại đã xảy ra. Ở trong nước, Mỹ đã phát triển thành một quốc gia chủ quyền và trở nên ít bị phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài, những nhà sản xuất Mỹ phát triển đội ngũ marketing của mình và vì vậy vai trò marketing mà trước đây các đại lý bao thanh toán thường thực hiện giảm đi. Tuy nhiên, một lần nữa các đại lý bao thanh toán lại phát triển và điều chỉnh theo nhu cầu kinh tế mới trong nước, tập trung vào tín dụng, thu nợ, kế toán và các chức năng tài chính. Đầu thế kỷ 20, khi các nhà sản xuất Mỹ mở rộng sang các sản phẩm may mặc và phụ kiện, đồ nội thất và thảm thì các đại lý bao thanh toán của Mỹ cũng mở rộng chuyên môn và dịch vụ sang ngành công nghiệp này. Đến giữa thế kỷ 20, bao thanh toán của Mỹ phát triển sang những ngành công nghiệp mới đang phát triển như điện, hóa chất và sợi tổng hợp. Ngày nay, bao thanh toán đã mở rộng sang nhiều ngành nghề kinh doanh khác như giao nhận, cung cấp nhân sự, quảng cáo, thiết kế đồ họa 1.1.2.Khái niệm về bao thanh toán: - Theo Điều 2 Chương 1 Công ước về bao thanh toán quốc tế UNIDROIT 1988 (Unidroit Convention on International Factoring) định nghĩa: Bao thanh toán là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung ứng, theo đó tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức năng sau: tài trợ bên cung ứng gồm cho vay và ứng trước tiền, quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu, thu nợ của các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán của bên mua hàng. - Theo Tổ chức Bao thanh toán quốc tế -FCI (Factors Chain International): Bao thanh toán là một dịch vụ tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  9. Trang 9 động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh toán (factor) và người cung ứng hàng hóa dịch vụ hay còn gọi là người bán hàng trong quan hệ mua bán hàng hóa (seller). Theo như thỏa thuận đơn vị bao thanh toán sẽ mua lại khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng trả nợ của người mua trong quan hệ mua bán hàng hóa (buyer) hay còn gọi là con nợ trong quan hệ tín dụng (debtor). - Theo Điều 1 Những quy định chung về hoạt động bao thanh toán quốc tế ấn bản tháng 06/2004 của FCI, hợp đồng bao thanh toán là một hợp đồng theo đó nhà cung cấp sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu (hay một phần các khoản phải thu) cho một đơn vị bao thanh toán, để thực hiện một trong các chức năng: kế toán sổ sách các khoản phải thu, thu nợ các khoản phải thu, phòng ngừa rủi ro nợ xấu. - Theo Điều 2 Chương 1 Công ước UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế còn bổ sung thêm một chức năng nữa của bao thanh toán là tài trợ cho người bán, bao gồm việc cho vay lẫn việc ứng tiền thanh toán trước. - Đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ bao thanh toán khác thì nghiệp vụ này được định nghĩa là việc mua lại các khoản phải thu hay việc cung cấp tài trợ tài chính ngắn hạn thông qua việc trả các khoản phải thu ngay lập tức bằng tiền mặt để cải thiện dòng ngân lưu của khách hàng (client) đồng thời nhận lấy rủi ro tín dụng (rủi ro khi người mua không thanh toán, người mua không nhận hàng ). Các dịch vụ đi kèm gồm có quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ. - Theo Quy chế hoạt động bao thanh toán ban hành theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Ngân hàng nhà nước: Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán hàng. Trong một nghiệp vụ bao thanh toán thông thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba bên: tổ chức bao thanh toán (factor), khách hàng của tổ chức bao thanh toán (client hay seller) và con nợ của tổ chức bao thanh toán (debtor hay buyer). • Người mua nợ hay đơn vị bao thanh toán (factor): là ngân hàng, công ty tài chính chuyên thực hiện việc mua bán nợ và các dịch vụ khác liên quan đến mua bán nợ. Trong nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế sẽ có hai đơn vị bao Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  10. Trang 10 thanh toán, một đơn vị bao thanh toán tại nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị bao thanh toán tại nước của nhà nhập khẩu. • Người bán nợ hay nhà xuất khẩu (client, seller, exporter): các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hoặc kinh doanh dịch vụ có những khoản nợ chưa đến hạn thanh toán. • Người mắc nợ hay nhà nhập khẩu (debtor, buyer, importer): hay còn gọi là người phải trả tiền, đó chính là người mua hàng hóa hay nhận các dịch vụ cung ứng. Mặc dù có nhiều diễn đạt khác nhau cho khái niệm về nghiệp vụ bao thanh toán, nhưng nói chung có thể hiểu nghiệp vụ bao thanh toán chính là hình thức tài trợ cho những khoản thanh toán chưa đến hạn (trong ngắn hạn) từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ, đó chính là hoạt động mua bán nợ. 1.1.3. Các loại hình bao thanh toán: ¾ Theo phạm vi thực hiện: - Bao thanh toán trong nước: là hình thức cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại hay công ty tài chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú trong phạm vi một quốc gia Ô Quy trình thực hiện: Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  11. Trang 11 1. Hîp ®ång b¸n hμng Ng−êi b¸n Ng−êi mua (Kh¸ch hμng) 6. Giao hμng (Con nî) 3. ThÈm3. ® 7. ChuyÓn nh 7. 9. Thu n Thu 9. Thanh to¸n 10. 2. Yªu cÇu tÝn d tÝn cÇu Yªu 2. 4. Tr¶ lêi tÝn d 5.KÝ H 11. Thanh to¸n øn Thanh to¸n 11. 8. Thanh to¸n tr Thanh to¸n 8. î § Þ khi ®Õn h khi nh tÝn d tÝn nh BTT − îng ho¸ ®¬n ô ô ô n n n g ¹ g g − n g íc tr − íc §¬n vÞ bao thanh to¸n 1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán hàng hóa. (2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán tài trợ với tài sản bảo đảm chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa. (3) Đơn vị bao thanh toán tiến hành thẩm định khả năng thanh toán tiền hàng của người mua. (4) Nếu xét thấy có thể thu được tiền hàng từ người mua theo đúng hạn hợp đồng mua bán, đơn vị bao thanh toán sẽ thông báo đồng ý tài trợ cho người bán. (5) Đơn vị bao thanh toán và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán. (6) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa. (7) Người bán chuyển nhượng hóa đơn, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán. (8) Đơn vị bao thanh toán ứng trước một phần tiền cho người bán theo thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán. (9) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán tiến hành thu hồi nợ từ người mua. (10) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán. (11) Sau khi đã thu hồi tiền hàng từ phía người mua, đơn vị bao thanh toán thanh toán nốt tiền chuyển nhượng khoản phải thu cho người bán. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  12. Trang 12 - Bao thanh toán xuất nhập khẩu: là nghiệp vụ bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, các khách hàng và con nợ là những doanh nghiệp ở các nước khác nhau. Đơn vị bao thanh toán cấp tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia. Ô Quy trình thực hiện: 1. H§ b¸n hμng Nhμ XK Nhμ NK (Ng−êi b¸n) 7. Giao hμng (Ng−êi mua) 2. Yªu cÇu tÝn dông tÝn Yªu cÇu 2. 5. Tr¶ lêi tÝn dông 8. Chu 8. 6. KÝ BTT H§ KÝ 6. tr to¸n Thanh 9. 13. Thanh to¸n øn Thanh to¸n 13. 11. Thanh to¸n Thanh 11. 10. Thu n Thu 10. 4. ThÈm4. ® y Ón nh − î khi ®Õn h ®Õn khi Þ nh tÝn d nh tÝn î n − g í ho¸ ®¬n ho¸ c g tr ô − ng ¹ íc n 3. Yªu cÇu tÝn dông 5. Tr¶ lêi tÝn dông §¬n vÞ BTT XK 8. ChuyÓn nh−îng §¬n vÞ BTT NK 12. Thanh to¸n, b¸o c¸o chuyÓn tiÒn (1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán hàng hóa. (2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tài trợ với tài sản đảm bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa. (3) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu đề nghị đơn vị bao thanh toán nhập khẩu cùng thực hiện hợp đồng bao thanh toán. (4) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và khả năng tài chính của bên mua hàng. (5) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu đồng ý tham gia giao dịch bao thanh toán với đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chấp thuận tài trợ cho người bán. (6) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán. (7) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  13. Trang 13 (8) Đơn vị xuất khẩu chuyển nhượng hóa đơn cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chuyển nhượng hóa đơn cho đon vị bao thanh toán nhập khẩu. (9) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chuyển tiền ứng trước cho người bán theo thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán. (10) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán nhập khẩu tiến hành thu hồi nợ từ người mua. (11) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. (12) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu trích trừ phí và lãi (nếu có) rồi chuyển số tiền còn lại cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. (13) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu trích trừ phí rồi chuyển số tiền còn lại cho người bán. - Sự giống nhau và khác nhau giữa bao thanh toán nội địa và bao thanh toán quốc tế: @ Sự giống nhau: có nhiều điểm giống nhau cấu thành nên bao thanh toán nội địa và bao thanh toán quốc tế, như: • Tài trợ về tài chính trên cơ sở các khoản phải thu. • Kiểm soát tín dụng và chấp nhận rủi ro tín dụng. • Theo dõi sổ cái bán hàng. • Thu nợ các hóa đơn bán hàng chưa thanh toán. Tuy nhiên, ngoài một số điểm giống nhau thì giữa bao thanh toán nội địa và bao thanh toán quốc tế cũng có nhiều điểm khác biệt đáng chú ý. Những sự khác nhau này được nhận xét theo cách vận hành của bao thanh toán theo tập quán quốc tế và sẽ có sự khác biệt nhất định khi áp dụng trong trường hợp của mỗi nước. Bao thanh toán (BTT) nội địa Bao thanh toán(BTT) quốc tế Đơn vị BTT theo dõi và quản lý sổ cái Đơn vị BTT theo dõi và quản lý sổ cái bán hàng theo một đơn vị tiền tệ duy nhất, bán hàng theo nhiều loại tiền khác nhau, cùng loại với loại tiền đã được ứng trước. nếu có sự khác nhau giữa các loại tiền thanh toán trong các hợp đồng mua bán hàng hóa. Thông thường thì khoản ứng trước sẽ theo đơn vị tiền tệ thanh toán Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  14. Trang 14 Bao thanh toán (BTT) nội địa Bao thanh toán(BTT) quốc tế trong hóa đơn. Đơn vị BTT chịu trách nhiệm đồng thời Dưới hệ thống 2 đơn vị BTT, trong khi về việc kiểm soát tín dụng và chấp nhận đơn vị BTT xuất khẩu cung cấp sự bảo vệ rủi ro. khỏi rủi ro tín dụng cho người bán theo sự đề nghị của đơn vị BTT nhập khẩu thì đơn vị BTT nhập khẩu chịu trách nhiệm kiểm soát tín dụng của nhà nhập khẩu địa phương. Thông thường được thực hiện trên cơ sở Hầu hết các giao dịch đều thực hiện trên BTT có truy đòi, đơn vị BTT không phải cơ sở không truy đòi, đơn vị BTT phải chịu rủi ro tín dụng. chấp nhận rủi ro tín dụng thay cho nhà xuất khẩu. Đơn vị BTT, người bán, người mua đều Có ít nhất là 2 hệ thống luật pháp chi phối bị chi phối chung bởi 1 hệ thống luật mối quan hệ của các bên. pháp trong nước. Đơn vị BTT, người bán, người mua đều Tập quán kinh doanh và ngôn ngữ khác cảm thấy tiện lợi về ngôn ngữ và tập quán nhau ở mỗi quốc gia, hệ thống 2 đơn vị kinh doanh. BTT cho phép nhà xuất khẩu sử dụng được kỹ năng thị trường bản xứ của đơn vị BTT nhập khẩu. Đơn vị BTT chịu trách nhiệm thu tiền từ Trong hệ thống 2 đơn vị BTT, đơn vị người mua BTT nhập khẩu chịu trách nhiệm này. ¾ Theo ý nghĩa bảo hiểm rủi ro: - Bao thanh toán có quyền truy đòi (recourse factoring): là nghiệp vụ bao thanh toán theo đó nếu người mua hàng không trả được nợ hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì người bán hàng có trách nhiệm hoàn trả khoản tiền đã được ứng trước cho đơn vị bao thanh toán. - Bao thanh toán miễn truy đòi (Non-recourse factoring) là loại nghiệp vụ bao thanh toán mà đơn vị bao thanh toán phải chịu mọi rủi ro về tín dụng và không Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  15. Trang 15 được đòi lại khoản tiền đã ứng cho người bán hàng trong trường hợp người mua hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. ¾ Theo thời hạn: - Bao thanh toán ứng trước (bao thanh toán chiết khấu): là loại hình bao thanh toán theo đó đơn vị bao thanh toán chiết khấu các khoản phải thu trước ngày đáo hạn và ứng trước tiền cho đơn vị bán hàng (có thể đến 80% trị giá hóa đơn). - Bao thanh toán khi đến hạn: là loại bao thanh toán theo đó đơn vị bao thanh toán sẽ trả cho các khách hàng của mình (người bán hàng) số tiền bằng giá mua của các khoản bao thanh toán khi đáo hạn. ¾ Theo phương thức bao thanh toán: - Bao thanh toán từng lần: đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thực hiện các thủ tục cần thiết và ký hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải thu của bên bán hàng. - Bao thanh toán theo hạn mức: đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và xác định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. - Đồng bao thanh toán: hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng thực hiện hoạt động bao thanh toán cho một hợp đồng mua, bán hàng, trong đó một đơn vị bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ chức đồng bao thanh toán. 1.1.4. Lợi ích khi sử dụng công cụ bao thanh toán: Ô Lợi thế của bao thanh toán so với các loại hình thanh toán khác: Từ trước tới nay thư tín dụng – L/C (Letter of Credit) do ngân hàng phát hành theo yêu cầu của nhà xuất khẩu ràng buộc ngân hàng có trách nhiệm thanh toán khoản tiền nhất định cho nhà xuất khẩu được coi là phương thức thanh toán phổ biến nhất trong các quan hệ thương mại quốc tế. Tuy nhiên, các hình thức thanh toán thông dụng như : L/C, nhờ thu, trả tiền trước khi giao hàng đã bộc lộ những nhược điểm. Một số hạn chế khi thực hiện các phương thức thanh toán khác: - Trả tiền trước khi giao hàng: người mua phải trả tiền trước khi người bán giao hàng. Trong phương thức này người bán được đảm bảo an toàn nhưng người mua lại gặp rủi ro nếu người bán vi phạm hợp đồng. Thường thì Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  16. Trang 16 người mua chỉ chấp nhận hình thức này nếu đây là các loại hàng hóa độc quyền. - Tín dụng thư (L/C): khi người bán yêu cầu phương thức thanh toán L/C xác nhận họ đảm bảo chắc chắn được thanh toán nếu bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với điều khoản của L/C. Tuy nhiên, thực tế không như vậy người mua thường đưa ra các điều khoản nghiêm ngặt trong L/C để đảm bảo việc giao hàng đúng thời hạn và chất lượng hàng hóa. Bất kỳ sự không chính xác nào sẽ dẫn đến việc chậm trễ vì bộ chứng từ cần được chỉnh sửa và kiểm tra lại. Việc này sẽ là tăng chi phí và mất thời gian. Đứng trên quan điểm của người mua, điểm bất lợi chính người mua bị thắt chặt tín dụng với ngân hàng của mình để mở L/C hoặc phải ký quỹ, trả phí L/C. Nếu người mua có thể mua được hàng hóa tương tự ở nơi khác mà không cần phải mở L/C thì người bán sẽ có nguy cơ mất khách hàng. - Nhờ thu/ Hối phiếu: đối với hình thức thanh toán này không có gì đảm bảo người mua sẽ thanh toán và do đó người bán cần hiểu rõ tình hình tài chính và uy tín của người mua. Người mua có thể từ chối thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu mặc dù người bán đã phải chịu phí vận chuyển và lưu kho. Nhiều người mua không thích phương thức nhờ thu kèm chứng từ trả ngay (D/P ) vì họ bị buộc phải trả tiền trước khi nhận hàng. Người mua do đó phụ thuộc vào việc người bán có tuân theo các điều khoản của hợp đồng hay không. Trước thực trạng đó, hình thức tín dụng mà các ngân hàng cấp cho các nhà xuất khẩu thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán của bao thanh toán đã khắc phục được những nhược điểm trên. Những điểm lợi thế của bao thanh toán so với các hình thức thanh toán khác: Lợi thế về thanh toán - Người bán hàng thông qua việc bán lại các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán đã làm giảm đi rất nhiều việc theo dõi, thu hồi các khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán sẽ thực hiện tất cả nhiệm vụ cho người bán như: Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  17. Trang 17 theo dõi những khoản phải thu đến hạn, thực hiện kiểm tra giám sát khả năng thanh toán của người mua hàng - Đối với mua bán ngoại thương, khi thực hiện bao thanh toán quốc tế đơn vị bao thanh toán xuất khẩu phải tạo mối quan hệ với đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Chính điều này đảm bảo cho khoản phải thu của nhà xuất khẩu sẽ được thanh toán đúng hạn thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Đây là tính ưu việt của bao thanh toán so với các loại hình thanh toán khác, nó làm giảm nhẹ gánh nặng về khả năng thu hồi tiền cho người bán. - Theo các nhà chuyên môn, đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, việc thiếu thông tin về thị trường và bên mua, đặc biệt khả năng thu hồi nợ nhanh là những trở ngại rất lớn khi phải quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm cho khách hàng nước ngoài. Đồng thời hiện nay, trước áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, bên mua hàng ngày càng đòi hỏi các phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với phương thức thanh toán truyền thống (L/C, nhờ thu). Do vậy, bao thanh toán trở thành một công cụ rất hiệu quả giúp doanh nghiệp xuất khẩu có thể áp dụng phương thức bán hàng trả chậm mà vẫn an toàn. Lợi thế về tài chính: - Bao thanh toán giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có tài sản thế chấp vẫn có thể vay vốn từ ngân hàng, đồng thời giúp họ tăng hạn mức tín dụng rất nhanh, có lợi cho sự phát triển. Về phía mình, ngân hàng hoàn toàn yên tâm khi biết rõ nguồn vốn của mình đang được sử dụng như thế nào. - Ngoài ra, vốn lưu động hạn chế cũng là một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước, đặc biệt khi họ bán hàng trả chậm. Vì vậy, khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán, các doanh nghiệp sẽ được ứng trước một số tiền của khoản phải thu để tiếp tục quay vòng vốn lưu động và kinh doanh hiệu quả hơn. Ô Lợi ích của các bên khi sử dụng bao thanh toán: ¾ Đối với người bán: Thứ nhất, cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng nhanh hơn: Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  18. Trang 18 Bao thanh toán là một quá trình chuyển hóa các khoản phải thu thành tiền mặt, không phân biệt khách hàng là ai, mỗi một đơn vị bao thanh toán, với kinh nghiệm dày dạn trong rất nhiều lĩnh vực, sẽ là một cộng tác đắc lực hỗ trợ cho công việc làm ăn của khách hàng ngày càng thuận lợi và phát triển hơn. Lượng tiền mặt sẵn có tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Thứ hai, giảm thiểu rủi ro thu hồi khoản phải thu của người bán: Người bán có thể yên tâm vì các đơn vị bao thanh toán hoàn toàn có đủ năng lực chuyên môn, hệ thống mạng lưới rộng khắp cũng như là sự hiểu biết thông thái về từng lĩnh vực chuyên môn để có thể thực hiện tốt công việc của mình. Ở một số tổ chức bao thanh toán chuyên nghiệp, người bán thậm chí có thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị bao thanh toán. Các tổ chức bao thanh toán giúp người bán lấp được lỗ hỗng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến khi được người mua thanh toán. Rất nhiều chủ thể kinh tế rơi vào tình trạng càng phát triển kinh doanh lại càng thiếu tiền. Khi đó, bao thanh toán sẽ là phương tiện rất hiệu quả giúp họ vượt qua khó khăn. Người mua nào cũng mong muốn mua hàng từ một người bán đưa ra giá thấp nhất mà lại có nguồn hàng dồi dào nhất. Nhưng chính điều đó lại đẩy người bán vào tình thế khó xử, càng phát triển lại càng phải bán chịu nhiều hơn. Thật không may là phần lớn người bán không thể nào xoay xở được với tất cả các khoản bán chịu này. Dù việc buôn bán có phát đạt đến thế nào thì tới một lúc nào đó người bán cũng nhận thấy rằng mình đang rơi vào một tình thế rất nguy hiểm. Các tổ chức bao thanh toán sẽ giảm thiểu rủi ro này bằng cách chuyển các hóa đơn chưa thu được tiền thành tiền mặt, nhờ đó mà người bán có thể tiếp tục cấp tín dụng thương mại cho người mua mà không cần phải lo rủi ro thanh khoản nữa. Hệ quả trực tiếp của việc này là người bán nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình nhờ sẵn sàng chấp nhận khoảng thời gian bán chịu hấp dẫn người mua hơn. Thứ ba, không phụ thuộc vào hạn mức tín dụng tại các ngân hàng: Điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng không phụ thuộc vào hạn mức tín dụng đem lại nhiều thuận lợi hơn cho người bán khi quan hệ với ngân hàng. Là một đối tác tài chính, các tổ chức bao thanh toán như ngân hàng sẽ đem lại cho người bán nguồn lực tài chính để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn trữ thêm nhiều hàng tồn Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  19. Trang 19 kho, cung ứng nhiều đơn hàng hay chỉ đơn giản là tìm kiếm các cơ hội làm ăn mới. Các tổ chức bao thanh toán luôn khẳng định mình sẽ luôn sát cánh với khách hàng, thấu hiểu mọi nhu cầu của họ, và thiết lập một chương trình hỗ trợ tài chính để giúp đỡ họ. Các tổ chức bao thanh toán cam kết tận dụng sự thông thạo trong lĩnh vực tín dụng, thu hồi nợ, cung ứng nguồn tiền mặt hay tài trợ giúp cho người bán nâng cao được hiệu quả hoạt động, vừa tăng doanh số vừa giảm được mất mát do không thu hồi được nợ, đồng thời cải thiện rõ rệt dòng lưu chuyển tiền tệ. Do mọi rắc rối kể trên đã được chuyển sang cho tổ chức bao thanh toán nên người bán có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào việc sản xuất hay cung ứng hàng hóa. Thứ tư, tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất: Bên cạnh việc sản xuất kinh doanh mặt hàng chính yếu, người bán còn phải mất thời gian quản lý các khoản phải thu từ người mua. Nếu người bán sử dụng bao thanh toán, công việc này sẽ được chuyển cho đơn vị bao thanh toán. Người bán không còn phải tốn chi phí để duy trì và điều hành một bộ phận chuyên trách việc xem xét khách hàng có đủ điều kiện mua chịu hay không, cũng như phải kiểm tra và thu hồi các khoản nợ này nữa. Với kinh nghiệm, nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực được đào tạo bài bản của mình, các tổ chức bao thanh toán sẽ giải quyết nhanh chóng, chuyên nghiệp và hiệu quả mọi vấn đề liên quan đến các hóa đơn và việc thu hồi nợ. Tựu trung lại, khi thực hiện bao thanh toán người bán càng thêm có nhiều cơ hội làm ăn nhờ: - Sẵn sàng bán chịu cho người mua mà không sợ ảnh hưởng đến dòng lưu chuyển tiền tệ; - Hạn mức tín dụng được cấp cho người mua vì vậy có thể đẩy nhanh tiến độ giao đặt hàng; - Bảo vệ được các tổn thất tín dụng trong thương mại; - Loại trừ được các tổn thất xảy ra khi phải thương lượng về L/C và chi phí ít hơn so với sử dụng công cụ L/C; - Cải thiện được dòng tiền của các doanh nghiệp thông qua việc thu hồi nhanh các khoản thanh toán; Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  20. Trang 20 - Có thể sử dụng các nguồn tài trợ vốn lưu động linh hoạt hơn bằng đồng nội tệ hoặc ngoại tệ và thúc đẩy doanh số xuất khẩu; - Tiết giảm các cơ quan quản lý do nhà xuất khẩu chỉ cần quan hệ với một đơn vị bao thanh toán trong giao dịch kinh doanh với các quốc gia liên quan; - Tăng cường khả năng vay vốn và có cơ hội sử dụng những khoản chiết khấu của các nhà cung cấp; - Các cản ngại về ngôn ngữ được giải quyết nhờ đơn vị bao thanh toán xuất khẩu ¾ Đối với người mua Cho tới thời điểm hiện tại, L/C vẫn là phương thức thanh toán được chấp nhận phổ biến nhất trên toàn cầu, bảo đảm rằng nhà xuất khẩu sẽ cung cấp hàng đúng như quy định trong L/C và nhà nhập khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình. Nhưng nếu hàng đến chậm hay ghé vào nơi không định trước, không theo lệ thường thì L/C sẽ gây khó khăn rất lớn cho nhà nhập khẩu. Nói tóm lại, sử dụng bao thanh toán quốc tế, nhà nhập khẩu có những lợi ích sau đây: Thứ nhất, được mua chịu hàng dễ dàng; không cần phải mở L/C; Thứ hai, tăng sức mua hàng mà vẫn không vượt quá hạn mức tín dụng cho phép; Thứ ba, có thể nhanh chóng đặt hàng mà không bị trì hoãn, không tốn phí mở L/C, hay phí thương lượng; Thứ tư, các cản ngại về ngôn ngữ được giải quyết bởi đơn vị bao thanh toán ¾ Đối với đơn vị bao thanh toán Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, các đơn vị bao thanh toán cũng có được một thuận lợi là được hưởng lợi ích kinh tế theo quy mô: - Các đơn vị bao thanh toán cung cấp dịch vụ này cùng lúc cho nhiều khách hàng nên xét về quy mô sẽ giảm được chi phí cố định liên quan đến các khách hàng đó; - Đơn vị bao thanh toán lớn nhất và nhiều kinh nghiệm nhất sẽ đứng ra làm đơn vị cung cấp thông tin về tín dụng quy mô nhất, bổ sung vào các dịch vụ tương tự hiện có của các trung tâm dữ liệu tín dụng thương mại tư nhân và quốc doanh. Đơn vị này cũng sẽ hưởng được lợi ích kinh tế theo quy mô nhờ trao đổi thông tin với các trung tâm trên; Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  21. Trang 21 - Thông qua nghiệp vụ bao thanh toán có thể thu được các loại phí và lệ phí, cung cấp thêm các dịch vụ kèm theo, từ đó góp phần tăng doanh số, đa dạng hóa sản phẩm và lợi nhuận hoạt động. Đơn vị bao thanh toán có thể tiếp quản việc quản lý sổ cái bán hàng của khách hàng, sau đó gửi các hóa đơn và bảo đảm nhận được tiền thanh toán. Nhờ vậy có thể kiểm soát được các khoản phải thu giúp giảm thiểu rủi ro thu hồi nợ. - Phát triển mạng lưới khách hàng: khi đưa bao thanh toán vào áp dụng đã tạo thêm sản phẩm mới cho người tiêu dùng lựa chọn. Một khi dịch vụ bao thanh toán mang lại hiệu quả đích thực cho khách hàng thì dần dần sẽ tạo cho khách hàng thói quen sử dụng dịch vụ. Chính điều này sẽ giúp cho ngân hàng hay tổ chức bao thanh toán phát triển được mạng lưới khách hàng. Ô Những nhược điểm của bao thanh toán: - Bao thanh toán cũng là một hình thức cấp tín dụng nên dễ gây cho người sử dụng nhầm lẫn với hình thức cho vay thông thường khác. - Trong nghiệp vụ bao thanh toán có truy đòi, thì người bán vẫn phải còn chịu trách nhiệm rủi ro từ phía người mua , khi người mua mất khả năng thanh toán thì người bán phải có trách nhiệm hoàn trả số tiền ứng trước cho tổ chức bao thanh toán. - Để tham gia vào bao thanh toán quốc tế, nhà xuất khẩu phải chứng minh với đơn vị thực hiện bao thanh toán (thường là các ngân hàng) về uy tín của bên mua hàng hóa, đây thực sự là khó khăn cho nhà sản xuất bởi sự hiểu biết về thị trường xuất khẩu còn hạn chế. - Bao thanh toán chỉ được áp dụng ở một số ngành hàng nhất định không áp dụng rộng rãi như các phương thức thanh toán khác. Với những ưu điểm nổi bật, dịch vụ bao thanh toán mang lại những lợi ích thiết thực cho cả người mua, người bán và đơn vị bao thanh toán. Do đó ngày càng nhiều các doanh nghiệp lựa chọn dịch vụ này trong giao dịch thương mại. 1.2- SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM Giai đoạn 2003-2005 tình hình kinh tế thế giới và khu vực cơ bản là thuận lợi, kinh tế phục hồi sau khủng hoảng tiền tệ Đông Nam Á. Xu thế hội nhập và phát triển Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  22. Trang 22 Trong những năm qua, tình hình chính trị xã hội đất nước ổn định, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao bình quân giai đoạn 2003-2005 đạt 7.5%, trong năm 2005 GDP đạt mức tăng trưởng 8.4%. Tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2006 tiếp tục ổn định, tốc độ tăng trưởng khá cao. GDP 6 tháng đầu năm dự kiến trên 7.7% so với cùng kỳ năm 2005. Tài chính ngân hàng là một trong những lĩnh vực xếp ở vị trí đầu trong nhóm dịch vụ có tính đột phá nhằm phát triển kinh tế. Các ngân hàng thương mại tiếp tục phát triển và ngày càng khẳng định vai trò, vị thế trên thị trường tài chính tiền tệ. Hệ thống ngân hàng Việt Nam thực hiện mạnh việc cơ cấu lại để nâng cao năng lực cạnh tranh chuẩn bị các điều kiện cho hội nhập theo tiến trình Hiệp định thương mại Việt Mỹ và Việt Nam gia nhập WTO. Phát triển các dịch vụ ngân hàng thành lĩnh vực mũi nhọn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn là mục tiêu hàng đầu của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Phát triển dịch vụ ngân hàng phải vừa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của kinh tế đồng thời đảm bảo ngân hàng hoạt động hiệu quả và an toàn, nâng cao sức mạnh cạnh tranh để hội nhập. Theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, các rào cản trung gian giữa các định chế tài chính của Mỹ và Việt Nam đang dần được dỡ bỏ. Đến năm 2010 có bốn “không” mà các tổ chức tín dụng phải chú ý: không hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng; không hạn chế tổng giao dịch các giao dịch giá trị về dịch vụ ngân hàng; không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên nước ngoài dưới hình thức tỷ lệ phần trăm tối đa số cổ phiếu nước ngoài được nắm giữ. Do chúng ta đã chính thức gia nhập vào WTO nên có khả năng việc thực hiện các điều khoản “không” này còn được đẩy lên sớm hơm có thể là 2008-2009. Các ngân hàng Việt Nam hiện nay, ngoài việc hoàn thiện các dịch vụ truyền thống như: huy động vốn, cho vay, kinh doanh ngoại tệ còn phải ứng dụng triển khai các loại hình dịch vụ, các sản phẩm mới. Bao thanh toán là một trong những nghiệp vụ mới mà các ngân hàng cần chú ý phát triển. Theo ông Trần Ngọc Minh – Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng nhà nước Tp.Hồ Chí Minh: “ Trong 3 năm 2006- Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  23. Trang 23 Do đó, sự cần thiết áp dụng bao thanh toán tại Việt Nam xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất: Bao thanh toán phát triển rất lâu trên thế giới và đã được áp dụng rộng rãi ở khắp các châu lục thông qua các công ty tài chính và đặc biệt là hệ thống ngân hàng. Là một công cụ tài chính thể hiện những ưu điểm nổi bật, đặc biệt trong nền kinh tế hội nhập đặt ra những yêu cầu về gia tăng nhu cầu vốn lưu động, các dịch vụ nhờ thu và quản lý rủi ro. Dịch vụ này không chỉ được áp dụng ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển mà cả những quốc gia đang phát triển cũng sử dụng loại hình này. Ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương như các nước : Singapore, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc Dịch vụ này không chỉ đem lại lợi ích cho các công ty lớn mà còn cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu kinh doanh dựa trên ghi sổ, những doanh nghiệp muốn tạo điều kiện thuận lợi để phát triển mạng lưới cung cấp hàng hoá của mình. Những lợi ích này rất thích hợp cho các doanh nghiệp tại Việt nam. Thứ hai: Nền kinh tế Việt Nam đang trên đường hội nhập và phát triển, các doanh nghiệp tại Việt Nam còn nhiều hạn chế về tiềm lực vốn, nhân lực, thông tin thị trường, trình độ quản lý rủi ro Theo Bộ kế hoạch và đầu tư, hiện nay số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 97% trong tổng số 200.000 doanh nghiệp đã thành lập trên toàn quốc. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoản 26% tổng sản phẩm xã hội, 31% giá trị sản lượng công nghiệp, 78% mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá. Mặc dù, với những đóng góp tích cực cho nền kinh tế nhưng các doanh nghiệp này luôn bị phân biệt đối xử trong vấn đề tiếp cận vốn ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh. Với những đặc điểm về tình hình tài chính doanh nghiệp yếu, hệ thống kế toán không đầy đủ và thiếu minh bạch, tâm lý lo sợ thủ tục rườm rà khó khăn, không có tài sản bảo đảm đã cản trở rất nhiều cho các doanh nghiệp này tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. Bao thanh toán sẽ giúp cho cả phía ngân hàng và doanh nghiệp giải quyết được những vướng mắc, khó khăn mà hình thức cho vay truyền thống không thể thực hiện được. Khi sử dụng dịch vụ này nguồn vốn của doanh nghiệp sẽ được cải thiện và ngân hàng sẽ đa dạng hoá được sản phẩm của mình. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  24. Trang 24 Thứ ba: đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, việc thiếu thông tin về thị trường và bên mua, đặc biệt là khả năng thu hồi nợ nhanh là những trở ngại rất lớn khi phải quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm cho khách hàng nước ngoài. Đồng thời hiện nay, trước áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, bên mua hàng ngày càng đòi hỏi các phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với phương thức thanh toán truyền thống (L/C, nhờ thu). Do vậy, bao thanh toán trở thành một công cụ rất hiệu quả giúp doanh nghiệp xuất khẩu có thể áp dụng phương thức bán hàng trả chậm mà vẫn an toàn. Ngoài ra, vốn lưu động hạn chế cũng là một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước, đặc biệt khi họ bán hàng trả chậm. Vì vậy, khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán, các doanh nghiệp sẽ được ứng trước một số tiền của khoản phải thu để tiếp tục quay vòng vốn lưu động và kinh doanh hiệu quả hơn. Số còn lại sẽ được thanh toán sau khi các ngân hàng hoàn tất khoản thu với bên mua hàng. Tại các ngân hàng đang thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán mức ứng trước có thể lên tới 80% nếu các hợp đồng mua bán được đánh giá cao. Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, cũng cho rằng: “Trong điều kiện hiện nay, doanh nghiệp xuất khẩu thường phải chấp nhận thanh toán ghi sổ, trả sau có nghĩa là sẽ bị chiếm dụng vốn một thời gian nhất định. Càng trở ngại hơn đối với nhiều doanh nghiệp là khi bán hàng vào thị trường mới thường trong tình trạng thiếu thông tin nên rủi ro cao ” Vì vậy sử dụng dịch vụ bao thanh toán là một giải pháp tốt, nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ tư: khi gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài sẽ hoạt động bình đẳng như các ngân hàng trong nước, hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ, công nghệ tiên tiến sẽ vào Việt Nam. Với thực trạng sản phẩm của các ngân hàng trong nước còn khiêm tốn, ít ỏi để có thể đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các ngân hàng phải không ngừng đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu tài chính cho khách hàng. Do đó, việc ứng dụng triển khai sản phẩm bao thanh toán tại Việt Nam là điều rất cần thiết . Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  25. Trang 25 1.3- HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 1.3.1. Tình hình hoạt động bao thanh toán trên thế giới: Theo số liệu thống kê mới nhất của Tổ chức Bao thanh toán thế giới (FCI), doanh số bao thanh toán trên toàn thế giới trong năm 2005 tăng hơn 18% so với năm 2004. Doanh số bao thanh toán trên toàn thế giới năm 2004 đạt 860.000 triệu EUR đến năm 2005 đạt 1.016.547 triệu EUR. Những con số trên đã cho ta thấy lĩnh vực bao thanh toán tiếp tục gia tăng ở mức hai con số hàng năm, trong đó có sự tăng trưởng đầy ấn tượng của bao thanh toán quốc tế, với mức tăng trưởng gần 27% trong năm ngoái và giữ vững mức tăng trưởng ổn định trong suốt những năm qua. Điều này cho thấy rằng nhà xuất khẩu và nhập khẩu trên toàn thế giới ngày càng trở nên quen thuộc với những tiện ích mà sản phẩm bao thanh toán đem lại như: tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng và các dịch vụ nhờ thu cho người xuất khẩu, về phía nhà nhập khẩu bao thanh toán đem lại những lợi ích được mua hàng bằng hình thức ghi sổ mà không cần phải mở L/C hay sử dụng những hình thức thanh toán với những điều khoản ràng buộc khắt khe. Tổ chức Bao thanh toán thế giới FCI đã tăng trưởng với 212 thành viên của 61 quốc gia khắp năm châu, doanh số bao thanh toán nội địa chiếm 56% và doanh số bao thanh toán quốc tế chiếm 46%. Với tư cách là tổ chức dẫn dắt thị trường toàn cầu, FCI là tổ chức duy nhất tạo ra các con số về tăng trưởng bao thanh toán trên toàn thế giới hàng năm. Châu Á là khu vực tăng trưởng bao thanh toán rất mạnh mẽ, điển hình như: Hồng Kông tăng 60%, Đài Loan tăng 57%, Trung Quốc tăng 35% và Ấn Độ tăng 22%. Đáng kể hơn hết là sự chuyển biến tại Hàn Quốc nơi bao thanh toán được giới thiệu lại với điểm nhấn là các dịch vụ bao thanh toán quốc tế, doanh số bao thanh toán tại Hàn Quốc năm 2005 (850 triệu EUR) gấp gần 2.6% so với năm 2004 (32 triệu EUR). Ở Châu Mỹ, Chi Lê là nước phát triển mạnh nhất với mức tăng trưởng 126%, tiếp theo là Argentina, Mexico và Brazil, Brazil là nước có sự tăng trưởng chỉ liên quan đến bao thanh toán nội địa. Châu Âu là nơi có nhiều các quốc gia đạt được nhiều thành tựu to lớn trong nghiệp vụ bao thanh toán, doanh số thực hiện dịch vụ này đều tăng qua các năm, ngoại Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  26. Trang 26 Một số thị trường phát triển khác như Úc và Thổ Nhị Kỳ bao thanh toán tiếp tục tăng trưởng cao. Tại Hội nghị bao thanh toán quốc tế lần thứ 38 tại Antwerp, Bỉ với sự hiện diện của 265 đại biểu đến từ 52 quốc gia, điểm nổi bật của Hội nghị là phần trình bày của 13 thành viên mới, các trình bày về Tổ chức hỗ trợ tài chính toàn cầu (Global supply Chain Finance), về RESCUE – một chương trình mới mang đến cho các thành viên của FCI các dịch vụ tăng thêm trong hoạt động bao thanh toán xuất khẩu trực tiếp của họ. Hội nghị bàn tròn thảo luận về nhiều chủ đề bao gồm: Marketing phi truyền thống (Reverse marketing), Basel II và việc lấy ý kiến tán thành của các thành viên về chính sách đào tạo, huấn luyện mới. Giải thưởng FCI Service Quality Awards trong năm 2005 được trao cho: - Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu xuất sắc nhất: Koo Faktoring của Thổ Nhĩ Kỳ - Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu xuất sắc nhất : Nordisk Factoring của Đức - Giải thưởng quan trọng nhất: Đơn vị bao thanh toán xuất sắc nhất đã trao cho Chailease Credit Services của Đài Loan. Giải thưởng về marketing và xúc tiến sản phẩm (FCI Marketing Promotion Award ) của FCI được trao tặng cho tổ chức tài trợ thương mại toàn cầu ở Ấn Độ về thành tích phát triển trang web xuất sắc của họ. Trên thế giới hiện nay có khoảng 1.066 đơn vị bao thanh toán hoạt động đạt doanh số hơn 930 tỷ EUR bao thanh toán nội địa và hơn 86 tỷ EUR bao thanh toán xuất nhập khẩu. Bảng 1: Doanh số bao thanh toán trên thế giới Đvt: triệu EUR Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 BTT quốc tế 44,843 41,023 42,916 47,735 68,265 86,486 BTT nội địa 578,997 644,659 681,281 712,657 791,950 930,061 Tổng số 623,840 685,682 724,197 760,392 860,215 1,016,547 (Nguồn: www.factors-chain.com) Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  27. Trang 27 Doanh số thực hiện bao thanh toán tăng trưởng qua các năm, trong tổng doanh số bao thanh toán thì bao thanh toán nội địa chiếm tỷ trọng tuyệt đối với hơn 90%. Điều này cho thấy rằng trong mua bán nội địa rất thích hợp để sử dụng dịch vụ bao thanh toán bởi vì trong phạm vi quốc gia người mua, người bán, đơn vị bao thanh toán trực tiếp quan hệ với nhau, việc thẩm định uy tín, khả năng kinh doanh, tài chính của các đối tác dễ dàng hơn và tốn chi phí ít hơn so với bao thanh toán quốc tế. Đối với các tổ chức bao thanh toán như Ngân hàng hay các tổ chức tài chính có thể chủ động hơn trong việc cấp tín dụng và theo dõi các khoản phải thu. Doanh số bao thanh toán quốc tế còn chiếm tỷ trọng nhỏ do giao thương thế giới đã quá quen thuộc với những phương thức thanh toán cổ điển như L/C, nhờ thu, D/A, D/P , tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng bao thanh toán quốc tế đang có sự tăng trưởng đều qua các năm từ 6% năm 2001 lên 8.51% năm 2005. Bảng 2: Doanh thu về bao thanh toán của các châu lục trên thế giới (Đvt: triệu EUR) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Châu Âu 414,383 468,326 522,851 546,935 612,504 715,486 Châu Mỹ 126,517 127,157 115,301 104,542 110,094 135,630 Châu Phi 5,655 5,801 6,203 5,840 7,586 6,237 Châu Á 69,865 76,078 69,850 89,096 111,614 135,814 Châu Úc 7,420 8,320 9,992 13,979 18,417 23,380 Tổng số 623,840 685,682 724,197 760,392 860,215 1,016,547 Ñoà thò 1: Tỷ trọng doanh soá BTT taïi caùc chaâu luïc naêm 2005 Châu Á, 13.36% Châu Úc, 2.30% Châu Phi, 0.61% Châu Mỹ, 13.34% Châu Âu, 70.38% (Nguồn: www.factors-chain.com) Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  28. Trang 28 Châu Âu là châu lục có bao thanh toán phát triển nhất thế giới với 575 tổ chức bao thanh toán chiếm tới 70.38% doanh số bao thanh toán thế giới. Trong 5 thị trường bao thanh toán hàng đầu thế giới gồm Anh ( 237.295 triệu EUR), Ý (111.175 triệu EUR), Mỹ (94.160 triệu EUR), Pháp (89.020 triệu EUR), Nhật Bản (77.220 triệu EUR) thì đã có 3 đại diện là Châu Âu với quốc gia đứng đầu là nước Anh với 100 đơn vị bao thanh toán. Tiếp theo là Châu Á và Châu Mỹ với hai đại diện là Nhật Bản và Mỹ. Không chỉ ở các nước phát triển như Anh, Ý, Pháp, Mỹ mới phát triển nghiệp vụ này mà ngay cả ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ dịch vụ này cũng được sử dụng rất thành công và mang lại những kết quả đáng kể. Bảng 3: Doanh số bao thanh toán của các quốc gia hàng đầu Châu Á (Đvt:triệu EUR) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nhật Bản 58.473 61.566 50.380 60.550 72.535 77.220 Đài Loan 3.650 4.511 7.919 16.000 23.000 36.000 HongKong 2.400 2.690 3.029 3.250 4.800 7.700 Trung Quốc 212 1.234 2.077 2.640 4.315 5.830 Singapore 2.100 2.480 2.600 2.435 2.600 2.880 Hàn Quốc 115 85 55 38 32 850 (Nguồn: www.factors-chain.com) Bao thanh toán tại Châu Á đang rất phát triển, năm 2003 Châu Á xếp vị trí thứ 3 sau Châu Âu và Châu Mỹ thì đến năm 2004 Châu Á đã vượt Châu Mỹ lên hàng thứ 2. Thị trường đang lên này hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng trưởng. Bảng 4: Doanh số bao thanh toán ở các nước Asean từ 2001-2005 (Đvt: triệu EUR) Nước 2001 2002 2003 2004 2005 Indonesia 0 1 1 0 1 Philipines 0 0 0 0 141 Sigapore 2.480 2.600 2.435 2.600 2.880 Thái Lan 1.240 1.274 1.425 1.500 1.640 Việt Nam 0 0 0 0 2 (Nguồn: www.factors-chain.com) Tại các nước Asean dịch vụ bao thanh toán phát triển còn thấp, Indonesia còn bị giảm sút từ 33 triệu EUR năm 1999 xuống còn 1 triệu EUR năm 2005, Philippines sau Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  29. Trang 29 5 năm gián đoạn 2001-2004 không có doanh số đến năm 2005 đã khởi động lại với doanh số đạt 141 triệu EUR so với 10 triệu EUR năm 1999. Singapore là quốc gia có dịch vụ bao thanh toán phát triển nhất khu vực Đông Nam Á với 2.880 triệu EUR, tiếp theo là Thái Lan với 1.640 triệu EUR. Bảng 5: Doanh số các loại sản phẩm bao thanh toán (Đvt: triệu EUR) Loại 2001 2002 2003 2004 2005 Chiết khấu hoá đơn 67.759 74.815 77.516 97.543 160.141 Bao thanh toán có truy đòi 60.925 63.830 73.169 89.808 116.626 Bao thanh toán miễn truy đòi 152.738 156.510 177.173 191.467 232.683 Nhờ thu 10.318 15.640 12.836 15.549 13.120 (Nguồn: www.factors-chain.com) 1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam: Bao thanh toán là phương thức thanh toán đã được áp dụng từ lâu trên thế giới nhưng chưa thực sự được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam. Mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng biệt về lãnh thổ, con người, điều kiện kinh tế do đó bao thanh toán tại các nước cũng có những đặc điểm riêng biệt. Không phải quốc gia nào cũng áp dụng một cách đầy đủ và chính thống các nghiệp vụ về bao thanh toán. Ở nhiều nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ nghiệp vụ này chưa được áp dụng đầy đủ, thường hạn chế ở một số ngành hàng nhất định hoặc cho quyền truy đòi người bán trong trường hợp người mua không trả nợ cho đơn vị bao thanh toán. Hình thức này phù hợp với thị trường Việt Nam nơi có mức độ rủi ro thị trường còn cao. Sản phẩm này còn khá mới mẽ cho người sử dụng lẫn đơn vị thực hiện bao thanh toán nên trong thời gian đầu ứng dụng nghiệp vụ bao thanh toán nội địa trước, sẽ dễ dàng hơn cho các đơn vị bao thanh toán. Sau khi có kinh nghiệm mới thực hiện bao thanh toán quốc tế, vì bao thanh toán quốc tế đòi hỏi các đơn vị bao thanh toán phải có quan hệ đối tác rộng lớn với các đơn vị bao thanh toán trên thế giới mới có khả năng thu hồi nợ và quản lý rủi ro. Sử dụng bao thanh toán nội địa đơn vị bao thanh toán chủ động hơn trong việc thẩm định người mua, người bán và đây sẽ là cơ hội thực hành tốt nhất các nghiệp vụ về quản lý sổ sách các khoản phải thu, lựa chọn các loại hình doanh nghiệp thực hiện bao thanh toán Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  30. Trang 30 Còn đối với các doanh nghiệp khi tham gia vào bao thanh toán sẽ đem lại nhiều lợi ích, sản phẩm này giúp cải thiện rất nhiều nguồn vốn kinh doanh đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bao thanh toán giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có tài sản bảo đảm vẫn có thể vay vốn ngân hàng, đồng thời giúp họ tăng hạn mức tín dụng rất nhanh, còn về phía ngân hàng hoàn toàn yên tâm khi biết rõ nguồn vốn của mình đươc sử dụng như thế nào. Bao thanh toán là việc cấp tín dụng dựa trên việc quản lý các khoản phải thu và không có tài sản bảo đảm nên để tránh rủi ro các tổ chức tín dụng và tài chính nên có sự chọn lọc ngành hàng để áp dụng chứ không áp dụng đối với tất cả các ngành hàng. Chi phí cho dịch vụ này cũng tốn kém đối với nhà xuất khẩu, những đơn vị bao thanh toán cần tính toán kỹ lưỡng đối với những mặt hành nhiều rủi ro như nông sản, thực phẩm bởi đây là sản phẩm khó bảo quản và rất dễ hỏng. Từ những hoạt động bao thanh toán trên thế giới rút ra một số bài học kinh nghiệm cụ thể cho Việt Nam: Thứ nhất: về tổ chức thực hiện, các ngân hàng thương mại là các tổ chức thực hiện vai trò là đơn vị bao thanh toán tốt nhất . Với các kinh nghiệm về cho vay, quản lý rủi ro, thanh toán quốc tế và số lượng khách hàng hiện hữu, các ngân hàng thương mại sẽ có những điều kiện thuận lợi hơn các tổ chức tài chính khác khi triển khai thực hiện sản phẩm. Thứ hai: do thị trường của Việt Nam chưa đi vào quy củ, mức độ rủi ro của thị trường còn cao nên trong thời gian đầu khi triển khai sản phẩm nên thực hiện bao thanh toán nội địa trước. Đến khi có được kinh nghiệm, số lượng khách hàng nhất định thì mới thực hiện bao thanh toán quốc tế. Đối tượng khách hàng nhắm đến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có các đơn đặt hàng ổn định của các công ty lớn, có uy tín. Thứ ba: chọn lựa mặt hàng để thực hiện bao thanh toán. + Những ngành hàng thích hợp để thực hiện bao thanh toán: bao thanh toán thích hợp cho một phạm vi rộng các ngành dịch vụ và sản xuất. Tuy nhiên, tốt nhất mỗi khách hàng không sản xuấtquá nhiều sản phẩm hoặc dịch vụ, mặt khác họ nên bán cho càng nhiều loại khách hàng càng tốt. Những người bao thanh toán cũng thích những công ty bán sản phẩm của họ thật nhanh và những sản phẩm đó không cần dịch vụ hậu mãi. Những ngành sản xuất đặc thù được phục vụ bởi các nhà bao Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  31. Trang 31 thanh toán là dệt, đồ gỗ, hàng xa xỉ, vật liệu xây dựng, cao su, hàng kim loại, hàng nhựa, quần áo và giày dép. Ngành in, xuất bản và chế biến thực phẩm là những điển hình về các ngành, dịch vụ được các nhà bao thanh toán phục vụ. Nói chung, các nhà bao thanh toán ưa chuộng các công ty có sổ sách ghi chép tốt và đã kinh doanh trong nhiều năm. Những ngành hàng không thích hợp với dịch vụ bao thanh toán gồm: những công ty có một số lượng lớn khách hàng nợ những món tiền nhỏ, những công ty đầu cơ, những công ty chuyên định giá cổ phiếu, những công ty quản lý kém, những công ty có một vài các thương vụ độc nhất, những công ty xây dựng. Thêm vào đó, các đơn vị bao thanh toán không thích chiết khấu các chứng từ của các công ty có nợ quá hạn quá cao. Thỉnh thoảng họ cần kiểm tra đối với các công ty là khách hàng mua hàng, những đơn vị bao thanh toán có thể đánh giá rủi ro của những khách hàng, những người được phép trả chậm. Nếu không thể làm việc đó, họ cũng không thể cấp các dịch vụ bao thanh toán cho người cung cấp- bán hàng. Trên đây là những lý luận cơ bản về nghiệp vụ bao thanh toán, từ những kinh nghiệm hoạt động bao thanh toán trên thế giới rút ra những bài học kinh nghiệm khi triển khai ứng dụng bao thanh toán tại Việt Nam. Trong chương tiếp theo sẽ đề cập đến thực trạng thực hiện bao thanh toán ở nước ta hiện nay. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  32. Trang 32 Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  33. Trang 33 2.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ BAO THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM 2.1.1. Các văn bản pháp lý hiện hành: Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng thông qua hệ thống ngân hàng và các công ty tài chính. Trong phạm vi chương này chỉ đề cập đến hoạt động bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Theo định nghĩa của Ngân hàng nhà nước, bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng nên sản phẩm này chịu sự chi phối bởi luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội ban hành và các quy định, quy chế của Ngân hàng nhà nước. Một số văn bản pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp hướng dẫn thực hiện và chế tài đến nghiệp vụ bao thanh toán hiện nay: 1. Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 ngày 15/06/2004. 2. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Ngân hàng nhà nước về việc ban hành qui chế cho vay của các tổ chức tín dụng; Quyết định sửa đổi bổ sung quy chế cho vay số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005. 3. Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Ngân hàng nhà nước ban hành quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng. 4. Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 của Ngân hàng nhà nước ban hành Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. 5. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Ngân hàng nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. 6. Công văn số 676/NHNN-CSTT ngày 28/06/2005 của Ngân hàng nhà nước về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng . Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Ngân hàng nhà nước ban hành quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng là cơ sở pháp lý rõ ràng và riêng biệt cho hoạt động bao thanh toán hiện nay. Tất cả các đơn vị bao thanh toán trong và ngoài nước đều phải dựa vào quy định này để thực hiện. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  34. Trang 34 Trong Quy chế hoạt động bao thanh toán quy định các khoản phải thu không được bao thanh toán như sau: - Các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa bị pháp luật cấm; - Các khoản phải thu phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp; - Các khoản phải thu phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận đang có tranh chấp; - Các khoản phải thu phát sinh từ các hợp đồng bán hàng dưới hình thức ký gửi; - Các khoản phải thu phát sinh từ các hợp đồng mua, bán hàng có thời hạn thanh toán còn lại dài hạn hơn 180 ngày; - Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp; - Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua, bán hàng. Quy chế bao thanh toán 1096 được xem là kim chỉ nam về bao thanh toán của các tổ chức tín dụng, tuy nhiên trong quy chế này cũng còn nhiều bất cập nên khi áp dụng trong thực tế gây khó khăn cho các ngân hàng. Một số khó khăn khi áp dụng Quy chế 1096 được trình bày ở phần sau. 2.1.2 Các điều kiện để được hoạt động bao thanh toán: 1. Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện hoạt động bao thanh toán trong nước khi tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện sau: a. Có nhu cầu hoạt động bao thanh toán; b. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay tại thời điểm cuối tháng của 3 tháng gần nhất dưới 5%; không vi phạm các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng; c. Không thuộc đối tượng đang bị xem xét xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng nhưng đã khắc phục được hành vi vi phạm. 2. Đối với hoạt động bao thanh toán xuất - nhập khẩu: Ngoài các điều kiện quy định tại Khoản 1 nêu trên, tổ chức tín dụng xin hoạt động bao thanh toán xuất - nhập khẩu phải là tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối. 2.1.3 Đối tượng áp dụng Ô Tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán là các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng, bao gồm: - Ngân hàng thương mại nhà nước; - Ngân hàng thương mại cổ phần; Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  35. Trang 35 - Ngân hàng liên doanh; - Ngân hàng 100% vốn nước ngoài; - Chi nhánh ngân hàng nước ngoài; - Công ty tài chính. Ô Khách hàng được tổ chức tín dụng bao thanh toán là các tổ chức kinh tế Việt Nam và nước ngoài cung ứng hàng hoá và được thụ hưởng các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hoá theo thỏa thuận giữa bên bán hàng và bên mua hàng tại hợp đồng mua, bán hàng (sau đây được viết tắt là bên bán hàng). 2.1.4. Quy trình hoạt động bao thanh toán: 1. Hoạt động bao thanh toán được thực hiện theo các bước chính như sau: a. Bên bán hàng đề nghị đơn vị bao thanh toán thực hiện bao thanh toán các khoản phải thu; b. Đơn vị bao thanh toán thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và khả năng tài chính của bên bán hàng và bên mua hàng. c. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thoả thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán. d. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên có liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán hàng chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán. đ. Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán hàng và đơn vị bao thanh toán xác nhận về việc đã nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán cho đơn vị bao thanh toán. e. Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán; g. Đơn vị bao thanh toán chuyển tiền ứng trước cho bên bán hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán; h. Đơn vị bao thanh toán theo dõi, thu nợ từ bên mua hàng. i. Đơn vị bao thanh toán tất toán tiền với bên bán hàng theo quy định trong hợp đồng bao thanh toán. k. Giải quyết các vấn đề tồn tại phát sinh khác. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  36. Trang 36 2. Đối với hoạt động bao thanh toán xuất - nhập khẩu: quy trình nghiệp vụ bao thanh toán có thể được thực hiện theo quy định tại khoản 1 nêu trên hoặc được thực hiện thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu chịu trách nhiệm phân tích khoản phải thu, tình hình hoạt động, khả năng tài chính của bên mua hàng là bên nhập khẩu trong hợp đồng xuất - nhập khẩu; thực hiện việc thu nợ theo uỷ quyền của đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và cam kết sẽ thanh toán thay cho bên nhập khẩu trong trường hợp bên nhập khẩu không có khả năng thanh toán khoản phải thu. Trường hợp hoạt động bao thanh toán thực hiện qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu, đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và đơn vị bao thanh toán nhập khẩu phải thỏa thuận và ký kết một hợp đồng riêng phù hợp với quy định của pháp luật, trong đó quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên. 2.2- THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN CỦA CÁC NGÂN HÀNG 2.2.1- Tình hình hoạt động bao thanh toán hiện nay: Ở Việt Nam ngày từ cuối thập kỷ 90, nghiệp vụ này đã được một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam giới thiệu cho các ngân hàng thương mại trong nước, các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam. Đặc biệt Chi nhánh Ngân hàng Credit Lyonnair tại Hà Nội đã giới thiệu nghiệp vụ tín dụng người mua hàng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác giới thiệu nghiệp vụ bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Song nghiệp vụ này quá mới mẻ nên chưa được áp dụng. Trong một số năm gần đây nghiệp vụ bao thanh toán bắt đầu thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp và ngân hàng trong nước. Trước nhu cầu của thực tế, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã ban hành Quyết định số 1096/2004/QĐNHNN, ngày 06/09/2004 về nghiệp vụ bao thanh toán. Nhiều ngân hàng thương mại của Việt Nam và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh liên doanh tại Việt Nam cũng đã giới thiệu, tiếp thị và triển khai nghiệp vụ bao thanh toán cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. Kể từ khi ban hành Quyết định số 1096/2004/QĐNHNN nói trên, NHNN chưa thống kê đầy đủ và chưa tổng hợp, đánh giá kết quả chính xác về tổng doanh số bao thanh toán, tổng số Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  37. Trang 37 Tại Việt Nam hiện nay đã có 11 ngân hàng (trong đó có 7 ngân hàng nước ngoài) đang thực hiện loại hình dịch vụ này. Bốn ngân hàng trong nước gồm ACB, Sacombank, Techcombank và Vietcombank là các ngân hàng đầu tiên nghiên cứu và tổ chức cung cấp dịch vụ bao thanh toán tại Việt Nam. Bốn ngân hàng này cũng là những thành viên đầu tiên của VN tham gia Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế - FCI. Nhưng 4 ngân hàng VN mới chỉ dừng lại ở dịch vụ bao thanh toán mua bán trong nước với doanh số thực hiện còn thấp. Đơn vị tiên phong triển khai dịch vụ chính là ACB, với 20 hợp đồng đã thực hiện và 30 khách hàng tiềm năng. Dự kiến trong Quý 4/2006, 4 đơn vị trên sẽ triển khai dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu, nhằm giúp doanh nghiệp VN tránh rủi ro khi bán hàng và xoay vòng vốn sản xuất. Một số ngân hàng nước ngoài như Deutsche Bank của Đức, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài Far East National Bank của Mỹ - FENB (đặt tại TP.HCM), Citibank của Mỹ, Bank of Tokyo Mitsubishi Ltd của Nhật Bản cũng giới thiệu dịch vụ này. Với mục đích mở rộng hoạt động bao thanh toán, ngày 20/01/20065, tại TPHCM, lần đầu tiên đã diễn ra "Hội thảo về Bao thanh toán xuất khẩu" do Hiệp hội Bao thanh toán Quốc tế tổ chức. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới doanh nhân, các chuyên gia lĩnh vực ngân hàng trong và ngoài nước. Ở Việt Nam hiện nay rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa biết đến dịch vụ bao thanh toán. Trong khi đó, tiện ích của dịch vụ này rất quan trọng đối với nhà sản xuất, nhất là những đơn vị chuyên làm hàng xuất khẩu. Hiện các nhà nhập khẩu quy mô, ưu thế thường chỉ chấp nhập hình thức trả sau và từ chối yêu cầu mở L/C của nhà xuất khẩu. Điều này sẽ khiến các doanh nghiệp VN mất đơn hàng xuất khẩu, nếu không có khả năng về vốn. Tuy nhiên, thực tế chi phí cho dịch vụ này cũng tốn kém đối với nhà xuất khẩu. Do vậy, các nhà chuyên môn khuyến cáo những đơn vị thực hiện dịch vụ bao thanh toán cần tính toán kỹ lưỡng đối với những mặt hàng nhiều rủi ro như nông sản, thực phẩm tươi, bởi đây là sản phẩm khó bảo quản và rất dễ hỏng. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  38. Trang 38 Phí bao thanh toán xuất khẩu gồm phí tài trợ vốn, tương tự như lãi suất tín dụng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu phí dịch vụ khoảng 1-2%, tùy thuộc vào tổng doanh số xuất khẩu, giá trị bình quân của mỗi hóa đơn, thời hạn thanh toán và uy tín của nhà nhập khẩu. Riêng phí chuyển nhượng mỗi hóa đơn mất từ 10 đến 20 USD. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam cho rằng: hiện ở VN dịch vụ bao thanh toán của các ngân hàng vẫn chưa thật tiện lợi. Ngân hàng thường đòi hỏi cao đối với đối khách hàng. Ngoài phí dịch vụ, nhà xuất khẩu phải chứng minh với ngân hàng về uy tín của bên mua hàng hoá. Đây là khó khăn lớn cho nhà sản xuất, bởi sự hiểu biết về thị trường xuất khẩu của còn hạn chế, sự thiếu thốn thông tin về thị trường xuất khẩu là mối lo chính đối với nhà xuất khẩu khi phải quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm. Sản phẩm bao thanh toán hiện nay tại Việt Nam đang trong giai đoạn sơ khai, vừa triển khai thăm dò thị trường, vừa hoàn thiện quy trình sản phẩm. Trong số 04 ngân hàng thương mại thực hiện sản phẩm bao thanh toán, doanh số thực hiện rất ít mang tính thăm dò khách hàng, Ngân hàng Á Châu ACB là ngân hàng trong nước hiện nay đi đầu trong việc phát triển về quy mô và doanh số thực hiện. 2.2.2. Một số quy trình thực hiện thực tế nghiệp vụ bao thanh toán: Trong phạm vi bài luận văn giới thiệu về quy trình thực hiện bao thanh toán của Ngân hàng Á Châu ACB và Ngân hàng Far East National Bank SinoPac: 2.2.2.1 Quy trình thực hiện bao thanh toán tại Ngân hàng Á Châu - ACB: Ông Võ Trọng Thủy, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng ACB cho biết: "Khi tham gia bao thanh toán người bán hàng nhận được tiền ngay lập tức khi họ xuất hàng và họ đưa hoá đơn cho chúng tôi thì họ nhận được ngay 80%. Và sau khi chúng tôi nhận được đầy đủ tiền từ người mua hàng, chúng tôi chuyển tiếp 20% cho người bán hàng". ACB cung cấp 2 loại hình bao thanh toán: Bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất khẩu. a) Lợi ích ACB đem lại cho khách hành khi tham gia bao thanh toán: Có thể thu tiền hàng ngay thay vì phải đợi đến kỳ hạn trả chậm. Tăng nguồn vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh số bán hàng càng cao thì khoản ứng trước càng nhiều. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  39. Trang 39 Được sử dụng khoản phải thu để đảm bảo một phần hoặc toàn bộ khoản ứng trước. Tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc theo dõi, thu hồi khoản phải thu. Được ACB hỗ trợ đánh giá tình hình kinh doanh của bên mua hàng/nhà nhập khẩu. b) Quy trình thực hiện: u Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước 1.Bên bán hàng và ACB ký kết hợp đồng bao thanh toán. 2.Bên bán hàng và ACB cùng gửi thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng, trong đó nêu rõ việc chuyển nhượng khoản phải thu cho ACB. Có nghĩa là khi đến hạn thanh toán người mua có trách nhiệm phải thanh toán cho ACB thay vì thanh toán cho người bán 3.Bên mua hàng xác nhận về việc đã nhận thông báo và cam kết thanh toán cho ACB. 4.Bên bán hàng giao hàng cho bên mua. 5.ACB ứng trước cho bên bán hàng. 6.Bên mua hàng thanh toán khoản phải thu cho ACB khi đến hạn. 7.ACB thu phần ứng trước và thanh toán phần còn lại cho bên bán hàng u Quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu: 1.Nhà xuất khẩu ký kết hợp đồng bao thanh toán xuất khẩu với ACB. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  40. Trang 40 2.Nhà xuất khẩu thông báo cho nhà nhập khẩu về việc chuyển nhượng khoản phải thu cho ACB. 3.Nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu. 4.Nhà xuất khẩu giao bộ chứng từ liên quan đến khoản phải thu cho ACB. 5.ACB ứng trước cho nhà xuất khẩu. 6.Nhà nhập khẩu thanh toán khoản phải thu cho ACB khi đến hạn thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu – đối tác của ACB. 7. ACB thu phần ứng trước và chuyển phần còn lại cho nhà xuất khẩu. c) Các điều kiện, thủ tục khi tham gia bao thanh toán tại ACB: * Đối với phương thức thanh toán của doanh nghiệp - Đối với hợp đồng mua bán trong nước: thanh toán trả chậm. - Đối với hợp đồng ngoại thương: T/T trả chậm hoặc D/A. - Bên bán hàng/nhà xuất khẩu chỉ cần ký kết 1 hợp đồng bao thanh toán với ACB cho tất cả các bên mua hàng/nhà nhập khẩu. - Nhà nhập khẩu có thể sử dụng bất cứ phương thức thanh toán nào ngoại trừ L/C và phương thức thanh toán tiền mặt đổi lấy chứng từ (Cash Against Document). * Thời gian thực hiện Không quá 5 ngày đối với bao thanh toán trong nước và không quá 10 ngày đối với bao thanh toán xuất khẩu kể từ ngày bên bán hàng/nhà xuất khẩu cung cấp đủ thông tin cho ACB. Sau khi được cấp hạn mức bao thanh toán, các lần xuất trình chứng từ để được ứng trước chỉ trong một buổi làm việc. * Tài sản bảo đảm Tài sản bảo đảm không phải là điều kiện bắt buộc để bên bán hàng/nhà xuất khẩu được ACB bao thanh toán. * Cách tính lãi bao thanh toán Lãi bao thanh toán sẽ được tính dựa trên số tiền ứng trước từ ngày ứng cho đến khi ACB nhận thanh toán từ bên mua hàng/nhà nhập khẩu. Lãi bao thanh toán = lãi suất bao thanh toán*số tiền ứng trước* số ngày ứng trước/30 * Mức phí thực hiện bao thanh toán Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  41. Trang 41 @ Bao thanh toán trong nước: STT Giao dịch Mức phí Mức phí tối thiểu Mức phí tối đa BAO THANH TOÁN TRONG NƯỚC 1. Phí bao thanh toán 0,5% 500.000 đ 2. Phí gia hạn 0,5% 500.000 đ (www.acb.com.vn) @ Bao thanh toán xuất khẩu Mức phí của ACB = 0.25%* thời hạn thanh toán * hệ số k 45 k = 1 : doanh số 1 triệu - 2 triệu USD/năm k = 0.8 : doanh số > 2 triệu – 3 triệu USD/năm Mức phí của đơn vị bao thanh toán nhập khẩu: các đơn vị bao thanh toán nhập khẩu ở nước ngoài sẽ báo cụ thể khi trả lời hạn mức sơ bộ và mức phí tùy uy tín của bên mua hàng khoảng từ 0.8%-1.5%. * Ứng trước các khoản phải thu: - Tỷ lệ ứng trước: tối đa 80% đối với các khoản phải thu đã được ACB duyệt - Số tiền ứng trước: Số tiền ứng trước = tỷ lệ ứng trước x trị giá khoản phải thu được duyệt - Thời hạn ứng trước (T): T= thời hạn thanh toán còn lại + 30 ngày Trong đó : thời hạn thanh toán còn lại là số ngày còn lại kể từ ngày ứng trước đến ngày đến hạn thanh toán khoản phải thu. Thời hạn thanh toán còn lại của khoản phải thu không quá 90 ngày. d) Kết quả hoạt động bao thanh toán tại ACB: ACB bắt đầu đưa sản phẩm bao thanh toán vào hoạt động vào cuối quý 3/2005, doanh số hoạt động tính đến tháng 6/2006 như sau: Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  42. Trang 42 (Đvt: triệu đồng) Bao thanh toán nội địa 2005 6 tháng 2006 Doanh số bao thanh toán 27.597 59.251 Số lượng bên bán 9 20 Ngân hàng Á Châu ACB hiện nay là ngân hàng thương mại có nghiệp vụ bao thanh toán phát triển nhất trong hệ thống các ngân hàng thương mại trong nước. Bắt đầu từ bao thanh toán nội địa, qua hơn 6 tháng doanh số bao thanh toán nội địa của ACB đã tăng gần gấp đôi so với lúc mới thực hiện. ACB đã cấp hạn mức bao thanh toán bên mua cho nhiều công ty ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau. ACB đang xúc tiến quảng bá rộng rãi sản phẩm này và đã hoàn thiện quy trình bao thanh toán xuất khẩu, mặc dù đến nay ACB chưa thực hiện bao thanh toán xuất khẩu nào nhưng theo dự kiến trong Quý 4 ACB sẽ thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu đầu tiên của mình cho các doanh nghiệp thuộc ngành gỗ và dệt may. 2.2.2.2 Quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu của Far East National Bank a) Quy trình đánh giá sơ bộ khách hàng: 1. HĐ ngoại thương Nhà xuất khẩu Nhà khẩu () 6. 4. 2. Đồ Đ đề ánh giá tín d ng ý ho ặ ngh ị tín d c t ừ ụ ụ ng ch ng ố i 3. Đề nghị tín dụng Far East SinoPac National bank (Nhà BTT nhập khẩu) (Nhà BTT xuất khẩu) 5.Đồng ý hoặc từ chối 1. Nhà xuất khẩu ký hợp đồng với nhà nhập khẩu. 2. Nhà xuất khẩu gửi yêu cầu tín dụng đến ngân hàng FENB đề nghị bao thanh toán 3. FENB gửi yêu cầu tín dụng ngân hàng Sinopac là ngân hàng cùng quốc gia với nhà nhập khẩu. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  43. Trang 43 4. Ngân hàng Sinopac tiến hành phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và khả năng tài chính của nhà nhập khẩu. 5. Sau khi đánh giá tín dụng Sinopac sẽ trả lời đồng ý hay từ chối cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu đến FENB. 6. Ngân hàng FENB sẽ trả lời nhà xuất khẩu của mình là đồng ý hay từ chối cấp tín dụng. Nếu FENB từ chối cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu thì giao dịch bao thanh toán không thực hiện, nếu đồng ý cấp tín dụng thì sẽ tiến hành theo quy trình tiếp theo. b) Quy trình thực hiện bao thanh toán quốc tế tại FENB: 1. Hợp đồng bán hàng Nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu (Seller) 2. Giao hàng (Buyer) 12. Thanh toán 3. Chuy 11. Báo cáo s 6.Ứng trước 7. Thu n ể 8. Thanh toán n nh Ngân hàng cho vay ợ ượ khi ổ sách k 5. Thông ng hoá đơ báo số tiền đế n h ạ ế 10.Thanh toán toán n n 4. Chuyển nhượng hoá đơn Far East SinoPac National bank (Nhà BTT nhập khẩu) (Nhà BTT xuất khẩu) 9. Thanh toán 1. Nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ký hợp đồng mua bán hàng hoá. 2. Nhà xuất khẩu tiến hành giao hàng. 3. Nhà xuất khẩu chuyển nhượng hoá đơn bán hàng cho FENB là nhà bao thanh toán xuất khẩu. 4. FENB chuyển nhượng hoá đơn đó cho SinoPac là nhà bao thanh toán nhập khẩu. 5. Đồng thời với việc chuyển nhượng hoá đơn cho nhà bao thanh toán nhập khẩu, FENB thông báo số tiền cần thanh toán đến ngân hàng cho vay. 6. Ngân hàng cho vay sẽ ứng trước tiền cho nhà xuất khẩu theo tỷ lệ đã thoả thuận với FENB. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  44. Trang 44 7. Khi đến hạn thu tiền nhà bao thanh toán nhập khẩu sẽ thông báo đòi tiền nhà nhập khẩu. 8. Nhà nhập khẩu sẽ tiến hành thanh toán tiền cho nhà bao thanh toán nhập khẩu bằng đúng giá trị hoá đơn mua hàng do người bán phát hành. 9. Nhà bao thanh toán nhập khẩu sẽ thanh toán cho FENB. 10. FENB sẽ thực hiện thanh toán tiền cho ngân hàng cho vay. 11. FENB thông báo thực hiện khoản phải thu cho người bán. 12. Ngân hàng cho vay sẽ thanh toán tiếp phần còn lại của hoá đơn cho nhà xuất khẩu. Trong quy trình trên chúng ta nhận thấy FENB chỉ đóng vai trò trung gian tài chính, thực hiện nghiệp vụ của nhà bao thanh toán xuất khẩu nhưng không phải là đơn vị cung cấp tiền trực tiếp cho nhà xuất khẩu mà qua ngân hàng cho vay trung gian. c) Cách tính phí: • Bao thanh toán trong nước: phí được tính là 0.45% trên doanh số bao thanh toán của mỗi món. • Bao thanh toán quốc tế: phí là 0.5% trên doanh số bao thanh toán của mỗi món. d) Điều kiện để được cấp dịch vụ bao thanh toán : FENB cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu vốn, các khoản phải thu phát sinh nhiều. Các đơn vị được cung cấp dịch vụ bao thanh toán phải là những đơn vị có tình hình hoạt động kinh doanh tốt, tài chính lành mạnh. 2.2.3. Một số khó khăn, tồn tại khi ứng dụng ngiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam Trên lý thuyết, bao thanh toán là một nghiệp vụ đơn giản, nhưng điều kiện để nó thực sự đơn giản là được sự hỗ trợ bởi một hành lang pháp lý minh bạch, đầy đủ Chính vì điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng những yêu cầu trên nên nghiệp vụ bao thanh toán vẫn chưa được triển khai rộng rãi. Kể từ khi Quy chế hoạt động bao thanh toán được ban hành cho đến khi nghiệp vụ bắt đầu được triển khai là cả một thời gian dài im hơi lặng tiếng, sau đó là những hoạt động cầm chừng và nặng về hình thức hơn là chất lượng dịch vụ. Cho đến nay, sau hơn hai năm kể từ ngày thống đốc NHNN ký quyết định, theo như thống kê ở trên thì VN hiện nay chỉ mới có 9 tổ chức tín dụng tham gia đăng ký cung cấp dịch vụ, trong đó hết 3 tổ chức là chi nhánh ngân hàng nước ngoài, còn 6 tổ chức còn lại là Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  45. Trang 45 ngân hàng VN mà doanh số giao dịch vẫn còn rất khiêm tốn, đối tượng khách hàng thì hạn chế. Những khó khăn được nêu ra dưới đây mà các ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam gặp phải khi quyết định triển khai bao thanh toán: 2.1.3.1 Một số khó khăn, vướng mắc khi thực hiện bao thanh toán theo quy chế 1096/2004/QĐ-NHNN: ™ Thứ nhất, về hạch toán kế toán: không có văn bản hướng dẫn những chuẩn mực hạch toán kế toán chung cho sản phẩm bao thanh toán đã gây lúng túng cho các các tổ chức tín dụng. Hạch toán kế toán cho hoạt động bao thanh toán là vấn đề rất quan trọng đối với đơn vị bao thanh toán. Không có hướng dẫn riêng cho hạch toán bao thanh toán sẽ gây khó khăn cho các cơ quan ban ngành hữu quan trong việc kiểm soát hoạt động bao thanh toán. ™ Thứ hai, quy định về thuế : theo nhiều chuyên gia kinh tế trên thế giới để bao thanh toán hoạt động hiệu quả và ổn định thì không nên áp dụng thuế chuyển nhượng vì bản thân các đơn vị thực hiện bao thanh toán đã phải tuân thủ theo đúng qui định của các luật thuế khác. Theo Điều 18 của Quy chế 1096 “ Các quy định về thuế đối với hoạt động bao thanh toán được thực hiện theo quy định của pháp luật”, quy định trên quá chung chung, đến hiện nay chưa có quy định cụ thể rõ ràng nào cho việc áp dụng thuế đối với các sản phẩm bao thanh toán. Vì vậy các đơn vị bao thanh toán khó nhận biết rằng sản phẩm bao thanh toán có chịu thuế chuyển nhượng hay không? Mức thuế suất áp dụng như thế nào? Cơ sở để tính toán khoản thuế này ra sao để các đơn vị bao thanh toán có thể tính toán lại giá vốn hoạt động của mình. ™ Thứ ba, quy định về an toàn tín dụng: - Theo điều 20 của Quy chế bao thanh toán 1096: tổng số dư bao thanh toán của 1 khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán; - Theo điều 8 của Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN về giới hạn cho vay, bảo lãnh của tổ chức tín dụng: tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với 1 khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng; Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  46. Trang 46 - Theo quy định 493/2003/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ thì “nợ “ bao gồm: các khoản cho vay, ứng trước , thấu chi, cho thuê tài chính; các khoản chiết khấu, tái chiếu khấu; các khoản bao thanh toán, các hình thức tín dụng khác. Vậy thì, giới hạn bao thanh toán nằm trong giới hạn tổng dư nợ, các ngân hàng vừa cho vay, vừa thực hiện bao thanh toán cho mỗi khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của mình, quy định về đảm bảo an toàn tín dụng đã trói buộc các đơn vị bao thanh toán lẫn các doanh nghiệp tham gia bao thanh toán. Theo quy định trên thì khi thực hiện bao thanh toán thì hạn mức tín dụng của các doanh nghiệp sẽ bị giảm đi, điều này trái với tính chất của sản phẩm bao thanh toán là không ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng của khách hàng. 2.1.3.2 Một số khó khăn, vướng mắc khi tác nghiệp: Thứ nhất, các doanh nghiệp vẫn quen dùng các phương thức thanh toán truyền thống như chuyển tiền T/T, và phổ biến hơn nữa là L/C. Nhận thức của phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cộng với môi trường kinh tế không ổn định khiến rất khó thuyết phục được họ nhận biết được những lợi ích mà bao thanh toán có thể đem lại về lâu dài qua các dịch vụ phong phú, đa dạng của nó như tư vấn về khách hàng, thu nợ hộ, quản lý các khoản phải thu của khách hàng, bảo hiểm rủi ro. Chính tâm lý dè dặt trước sản phẩm mới của doanh nghiệp cũng góp phần làm thui chột đi sự năng động, sáng tạo và tìm kiếm các sản phẩm dịch vụ mới của ngân hàng. Thứ hai, bao thanh toán không chỉ tham gia vào công đoạn đầu là cho vay đối với người bán, mà còn đi sâu vào cả quá trình tiếp theo nhằm mục đích để cho đơn vị bao thanh toán có thể kiểm soát được cả bên mua và nhất là kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay của doanh nghiệp.Chính đặc điểm này đã tạo ra rào cản ngăn trở quá trình đơn vị bao thanh toán tiếp xúc với các doanh nghiệp. Tâm lý các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa muốn công khai tình hình hoạt động, càng không muốn một tổ chức bất kỳ nào can thiệp vào quá trình kinh doanh của họ. Vì vậy, các đơn vị bao thanh toán gặp nhiều khó khăn khi tiếp thị sản phẩm mới với khách hàng. Thứ ba, khi thực hiện bao thanh toán hiện nay, các ngân hàng không chỉ cấp hạn mức bao thanh toán cho người bán mà còn phải cấp hạn mức bao thanh toán cho cả phía người mua. Người bán để được ngân hàng bao thanh toán thì người mua của họ cũng phải được ngân hàng chấp nhận và cấp hạn mức bao thanh toán thì lúc đó Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  47. Trang 47 i) Người mua chưa hiểu hết về các lợi ích mà bao thanh toán mang lại cho họ. ii) Khi tham gia bao thanh toán họ phải công khai tài chính, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh để ngân hàng của người bán thẩm định, đây là việc rất là khó khăn vì thói quen ngại công bố thông tin của các doanh nghiệp VN hiện nay. iii) Không có ngân hàng tham gia bao thanh toán họ vẫn được người bán cho thanh toán chậm. Thứ tư, dù xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên thế chấp của tín dụng ngân hàng, nhưng thực tế ở Việt Nam thì chưa hẳn vậy. Các ngân hàng Việt Nam, và kể cả các ngân hàng nước ngoài, vẫn coi trọng tài sản đảm bảo. Về điều này cũng không thể đổ lỗi các ngân hàng được vì đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro không cho phép họ mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài chính chưa đủ độ tin cậy cao. Thứ năm, hoạt động của nghiệp vụ bao thanh toán tại ngân hàng cũng chưa được tách bạch khỏi hoạt động tín dụng mà hầu như theo sự quản lý thì lại gần như giống nhau. Trong khi đó, yêu cầu để phát triển dịch vụ bao thanh toán ở các nước trên thế giới là việc tài trợ trong bao thanh toán sẽ “không thiên về khuynh hướng từng giao dịch cũng như không phải là hoạt động “chiết khấu” từng khoản phải thu riêng biệt”, việc lựa chọn tiêu chí khách hàng của các đơn vị bao thanh toán phải có sự khác biệt chứ không phải giống hoàn toàn như tiêu chí của ngân hàng khi cho vay (có thể dựa vào tài sản đảm bảo và việc thẩm định người bán hàng). Tuy nhiên thực tế hiện nay, hai tiêu chí này lại gần như giống nhau, điểm khác biệt cơ bản mà các ngân hàng tham gia bao thanh toán hiện nay thực hiện là thẩm định thêm khả năng thanh toán người mua để làm cơ sở bao thanh toán cho người bán. Thứ sáu, một điểm còn yếu trong hệ thống luật của Việt Nam về hoạt động bao thanh toán được nêu ra trong báo cáo tại hội thảo bao thanh toán được tổ chức tại Tp.Hồ Chí Minh đó là trong hoạt động bao thanh toán sẽ diễn ra một bước quan trọng: Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  48. Trang 48 Thứ bảy, môi trường thông tin của nền kinh tế chưa được minh bạch hóa, cơ sở thông tin dữ liệu về khách hàng đã có nhưng vẫn còn thiếu, yếu và chưa được tập trung. Hiện nay, mới chỉ có Trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN là đầu mối tập trung thông tin nhiều nhất phục vụ cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Tuy nhiên, thông tin từ CIC vì một số lý do khách quan vẫn chưa phản ánh đúng mức độ an toàn tín dụng của khách hàng. Chưa có sự nhận thức đồng bộ giữa các cơ quan Bộ, ngành như Ngân hàng, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp Nếu xảy ra tranh chấp, ngân hàng sẽ rất vất vả để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Qua phần trình bày thực trạng về tình hình hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam, chúng ta có thể thấy kết quả hoạt động nghiệp vụ này tại Việt Nam còn rất khiêm tốn. Kết quả này do nhiều nguyên nhân khác nhau từ phía nhà nước, doanh nghiệp và đơn vị thực hiện bao thanh toán như: hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh, thói quen của các doanh nghiệp, hạn chế về mặt kiến thức và nghiệp vụ của các ngân hàng Để sản phẩm bao thanh toán nhanh chóng phát triển tại thị trường Việt Nam, nhà nước cần hoàn thiện các quy định cho phù hợp với thực tế, cần có sự ra đời của nhiều đơn vị bao thanh toán hơn nữa, phải thúc đẩy việc quảng bá sản phẩm rộng rãi đến các doanh nghiệp. Để phát triển sản phẩm bao thanh toán hệ thống các ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai, quảng bá, ứng dụng sản phẩm này để góp phần đa dạng hóa sản phẩm ngân hàng cũng như tạo thêm công cụ tài chính cho các doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình Do vậy, đối với các ngân hàng chưa triển khai ứng dụng sản phẩm bao thanh toán phải nhanh chóng nghiên cứu và đưa sản phẩm này vào hoạt động để bắt kịp sự phát triển của ngành và hội nhập với xu hướng phát triển của thế giới. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  49. Trang 49 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN SẢN PHẨM BAO THANH TOÁN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - BIDV Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  50. Trang 50 3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1.1. Giới thiệu sơ lược về Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - BIDV: BIDV là một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu tại Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 177/TTg ngày 26/04/1957 của Thủ tướng Chính phủ. BIDV là một doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình tổng công ty nhà nước (tập đoàn) mang tính hệ thống thống nhất bao gồm hơn 112 chi nhánh và các công ty trong toàn quốc, có 03 đơn vị liên doanh với nước ngoài, hùn vốn với 05 tổ chức tín dụng. BIDV là một ngân hàng chủ lực thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và phục vụ đầu tư phát triển. Quá trình 43 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển luôn gắn liền với từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Trọng tâm hoạt động và nghiệp vụ truyền thống của BIDV là phục vụ đầu tư phát triển, các dự án thực hiện các chương trình phát triển kinh tế then chốt của đất nước. BIDV cũng thực hiện đầy đủ các mặt nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, phục vụ các thành phần kinh tế, có quan hệ hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp, tổng công ty. BIDV không ngừng mở rộng quan hệ đại lý với hơn 400 ngân hàng và quan hệ thanh toán với 50 ngân hàng trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2003-2005 bình quân là 16.7%, cuối năm 2005 dư nợ thương mại đạt 75.314 tỷ đồng tăng 74% so với năm 2003 (đạt 43.046 tỷ đồng). Dư nợ kế hoạch nhà nước và chỉ định đã giảm dần cả về số tuyệt đối và tương đối (từ năm 12.6% năm 2003 xuống còn 6.1% năm 2005 trong tổng dư nợ). Tỷ trọng cho vay ngoài quốc doanh trên tổng dư nợ tăng dần: năm 2003 là 30%, năm 2004 là 36% và năm 2005 là 48%. Hoạt động thanh toán quốc tế: doanh số thanh toán quốc tế năm 2005 đạt 2.89 tỷ USD, 6 tháng 2006 đạt 5.4tỷ USD tăng 76.4% so với cùng kỳ năm ngoái. Doanh số xuất nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2006 đạt 2.279 triệu USD tăng trưởng 20% so với cùng ký năm ngoái. Tỷ trọng thanh toán xuất nhập khẩu so với kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 6%. Phí dịch vụ thanh toán quốc tế đạt 48 tỷ đồng tăng 51% so với cùng kỳ năm ngoái. Các dịch vụ thanh toán quốc tế điển hình: chuyển tiền, nhờ thu, thanh toán séc du lịch, chiết khấu bộ chứng từ, L/C Trong dịch vụ L/C có: các giao Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  51. Trang 51 3.1.2. Sự cần thiết phải phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại BIDV: Với những thành quả đã đạt được BIDV vẫn không ngừng cố gắng để ngày càng hoàn thiện trở thành một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu tại Việt Nam, BIDV đang nổ lực hết mình trong quá trình thực hiện cổ phần hóa. Mục tiêu hoạt động của BIDV trong những năm kế tiếp đẩy mạnh và tập trung hoàn thiện căn bản hệ thống quản lý rủi ro theo thông lệ quốc tế là cơ sở tập trung chỉ đạo nâng cao toàn diện chất lượng các mặt hoạt động kinh doanh, đẩy mạnh tăng trưởng toàn diện trên nền tảng bền vững, tập trung đầu tư đồng bộ tạo sự bứt phá phát triển dịch vụ, lấy công nghệ là cốt lõi tạo đà phát triển hoạt động dịch vụ, tăng trưởng cả về quy mô, chất lượng, đa dạng sản phẩm và tiện ích. Cổ phần hóa là phương thức động lực hạt nhân để cải cách đổi mới hướng đến 2010 trở thành ngân hàng hiện đại tiên tiến trong khu vực Asean. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay đang phát triển mạnh kéo theo các nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp. Do đó, hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng phải được chuyển dịch để phù hợp với khách hàng, thu hút được khách hàng tốt và tăng thu từ dịch vụ. Bao thanh toán là một trong những hình thức tín dụng đang được một số ngân hàng trong và ngoài nước đưa vào ứng dụng như Ngân hàng Á Châu, Sài Gòn Thương Tín, Citibank, Far East National Bank Việc nghiên cứu để triển khai sản phẩm bao thanh toán vào hoạt động BIDV là một nhu cầu bức thiết nhằm đa dạng hóa sản phẩm và tăng năng lực cạnh tranh của mình nhất là khi Việt Nam đã gia nhập vào WTO 3.1.3. Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bao thanh toán tại BIDV: ™ Những thuận lợi: BIDV đã hoàn thành giai đoạn 1 của dự án Hiện đại hoá Ngân hàng do World Bank tài trợ, cơ sở hạ tầng hiện có của BIDV như trang thiết bị, máy chủ, hệ thống thanh toán, đội ngũ nhân viên hiện nay hoàn toàn có thể triển khai sản phẩm bao thanh toán. Một số thuận lợi khi triển khai sản phẩm bao thanh toán. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  52. Trang 52 Về khách hàng: tổng số khách hàng vay vốn tại BIDV đến 31/12/2005 là 196.778 khách hàng, trong đó khách hàng là doanh nghiệp 10.776 khách hàng. BIDV cho vay trong nhiều lĩnh vực khác nhau như xây lắp, điện, xi măng, dầu khí, than, khoáng sản, thép, chế biến xuất khẩu thủy sản, nông sản, chế biến xuất khẩu gỗ, dệt may, da giầy, công nghiệp tàu thuỷ, bưu chính viễn thông, thương mại Trong số những lĩnh vực cho vay kể trên một số ngành nghề như: chế biến xuất khẩu gỗ, dệt may, da giầy, nhựa, thương mại rất thích hợp để sử dụng bao thanh toán. Trong thời gian đầu BIDV sẽ giới thiệu sản phẩm đến các khách hàng này mà không phải mất nhiều thời gian để tìm kiếm khách hàng. Về quan hệ đối tác: BIDV có quan hệ đại lý với hơn 400 ngân hàng và quan hệ thanh toán với 50 ngân hàng trên thế giới là một điều kiện thuận lợi để tìm kiếm các đơn vị bao thanh toán nhập khẩu khi thực hiện bao thanh toán quốc tế. Bởi vì, thường các ngân hàng ở các nước phát triển đều là các IF nên việc tìm kiếm quan hệ đối tác sẽ dễ dàng hơn. Về nhân sự: bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng, do đó việc thẩm định và cấp hạn mức tín dụng có những điểm cơ bản tương đồng với việc cho vay. Thẩm định khách hàng và thẩm định dự án là một thế mạnh của BIDV, trình độ chuyên viên tín dụng của BIDV hoàn toàn có thể đáp ứng được các yêu cầu của bao thanh toán. Bên cạnh đó, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của ngân hàng ngày càng phát triển doanh số xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng, do đó việc tiếp cận bao thanh toán tại BIDV cũng sẽ không quá khó khăn do BIDV cũng đã tiếp cận và ứng dụng các phương thức thanh toán quốc tế hiện hành. ™ Một số khó khăn: - Do đặc điểm của bao thanh toán là mua lại các khoản phải thu, người mua hàng sẽ là người trả tiền cuối cùng cho ngân hàng. Nhu cầu bao thanh toán chủ yếu xuất phát từ bên bán hàng vì vậy việc tiếp cận và lấy thông tin bên mua hàng là khá khó khăn. Bởi vì hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam rất hạn chế việc công khai thông tin, trong khi đó việc thẩm định năng lực thanh toán của bên mua hàng là một trong các yếu tố cơ bản nhất để thực hiện bao thanh toán. - Hạn chế nhất định về trình độ thực hiện và quản lý nghiệp vụ của phần lớn các ngân hàng hiện nay trong đó có cả BIDV. Nghiệp vụ bao thanh toán đòi hỏi phải Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  53. Trang 53 am hiểu về nghiệp vụ, có khả năng phân tích, nhận định thị trường, nhận định khách hàng. Do đây là nghiệp vụ mới nên đội ngũ nhân viên tại BIDV chưa có kinh nghiệm thực tiễn thực hiện nghiệp vụ điều này làm hạn chế khả năng cung cấp dịch vụ cho khách hàng. - Cũng như các ngân hàng thương mại khác, BIDV cũng sẽ gặp khó khăn khi triển khai bao thanh toán do quy định về an toàn tín dụng của ngân hàng nhà nước. Hiện nay theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN về giới hạn cho vay, bảo lãnh của tổ chức tín dụng thì tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với 1 khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có. Nếu NHNN qui định bao thanh toán cũng là một phần của tổng dư nợ thì quy định về bảo đảm an toàn tín dụng đã trói buộc các ngân hàng lẫn các doanh nghiệp tham gia bao thanh toán. Cho vay và bao thanh toán phải là hai sản phẩm ở hai “rổ hàng” khác nhau thì mới tăng quy mô sản phẩm chứ hai sản phẩm cùng một “rổ hàng”thì tăng doanh số của sản phẩm này thì sẽ giảm doanh số của sản phẩm khác. 3.2- MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG QUY TRÌNH THỰC HIỆN BAO THANH TOÁN TẠI BIDV Một trong những khâu quan trọng nhất để đưa một sản phẩm vào ứng dụng trong thực tế là phải xây dựng được quy trình thực hiện ở từng giai đoạn và bộ phận. Trong phạm vi luận văn xin đưa ra một số giải pháp xây dựng qui trình bao thanh toán nội địa và bao thanh toán xuất khẩu để thúc đẩy nhanh chóng việc ứng dụng nghiệp vụ này tại BIDV 3.2.1- Qui trình bao thanh toán nội địa: 3.2.1.1/ Lựa chọn bên mua hàng và bên bán hàng: ’Lựa chọn bên mua hàng tiềm năng: đặc điểm của sản phẩm bao thanh toán là bên mua hàng sẽ là người thanh toán nợ đến hạn cho đơn vị bao thanh toán, do vậy việc xác định bên mua hàng để thực hiện bao thanh toán là một việc rất quan trọng. - Trong thời gian đầu khi triển khai sản phẩm việc lựa chọn bên mua hàng dựa vào những khách hàng có uy tín đã hoặc đang quan hệ tín dụng với BIDV hoặc các doanh nghiệp có quy mô và uy tín trên thị trường nhưng chưa có quan hệ với BIDV. Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  54. Trang 54 - Bộ phận phát triển sản phẩm bao thanh toán sẽ phối hợp cùng với Phòng Tín dụng thu thập thông tin, lập danh sách các bên mua hàng dự kiến triển khai bao thanh toán dựa vào quy mô hoạt động, ngành nghề kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp. - Bộ phận phát triển sản phẩm bao thanh toán sẽ tiếp xúc với bên mua hàng, giới thiệu sản phẩm bao thanh toán, tìm hiểu thông tin về các bên bán hàng liên quan. - Định kỳ, hàng quý bộ phận này có trách nhiệm cập nhật, điều chỉnh danh sách bên mua hàng được hội đồng tín dụng cấp hạn mức bao thanh toán để thông báo đến các Phòng Tín dụng liên quan. ’Lựa chọn bên bán hàng: - Căn cứ vào bên mua hàng đã được xác định, bộ phận phát triển sản phẩm bao thanh toán sẽ chọn bên bán hàng. Phòng Tín dụng tiếp xúc và giới thiệu sản phẩm đến bên bán hàng. - Trường hợp bên bán hàng có bên mua hàng không thuộc đối tượng các bên mua hàng được ngân hàng cấp hạn mức thì Phòng tín dụng yêu cầu bộ phận phát triển sản phẩm bao thanh toán cung cấp thông tin về bên mua hàng thỏa mãn các điều kiện về vốn kinh doanh, doanh thu thuần nằm gần nhất, bên mua hàng này không thuộc đối tượng hạn chế cho vay hoặc không cho vay theo quy định của BIDV. Chuyên viên tín dụng tiến hành thẩm định bên mua hàng, nếu đáp ứng đủ các điều kiện thì chấp thuận bao thanh toán nếu không thì từ chối. - Để hạn chế rủi ro trong thời gian đầu triển khai sản phẩm ngân hàng nên lựa chọn bên bán hàng là các khách hàng đang quan hệ tín dụng tại ngân hàng và các doanh nghiệp đã có thương hiệu mạnh và uy tín trên thị trường. Hình thức bao thanh toán áp dụng là bao thanh toán có truy đòi. 3.2.1.2/ Một số tiêu chí quan trọng khi thẩm định bên mua hàng/bên bán hàng: ™ Nhìn chung cách thức thẩm định doanh nghiệp, cấp hạn mức bao thanh toán có một số qui tắc chung giống như cách thức thẩm định để cấp hạn mức tín dụng ngắn hạn như: - Thẩm định năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự; - Thẩm định uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng; - Quá trình hình thành và phát triển; - Tình hình hoạt động và sản xuất kinh doanh; Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân
  55. Trang 55 - Tình hình tài chính và dự phóng vốn lưu động Ngoài những qui tắc trên, điểm khác biệt khi thẩm định bao thanh toán so với thẩm định cho vay ngắn hạn là: - Thẩm định khoản phải thu. - Thẩm định, đề xuất cấp hạn mức bao thanh toán cho bên mua hàng. - Thẩm định, đề xuất cấp hạn mức bao thanh toán cho bên bán hàng. ™ Thẩm định khoản phải thu : - Thẩm định sự phù hợp về các điều kiện của các khoản phải thu được BIDV mua lại. + Phát sinh từ Hợp đồng mua bán hàng hoá hợp pháp. Trong hợp đồng mua bán hàng, hoá đơn phải có qui định: khoản phải thu được chuyển nhượng hoặc không có qui định việc không được chuyển nhượng khoản phải thu. + Thời hạn thanh toán còn lại theo Hợp đồng mua bán hàng hoá : ≤ 180 ngày. + Không thuộc các trường hợp cấm của Quy chế 1096/2004/Qđ-NHNN: ƒ Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá bị pháp luật cấm. ƒ Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp. ƒ Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận đang có tranh chấp. ƒ Phát sinh từ hợp đồng bán hàng dưới hình thức ký gửi. ƒ Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá có thời hạn thanh toán còn lại > 180 ngày. ƒ Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố. ƒ Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng hoá. - Thẩm định đặc tính khoản phải thu: + Đặc tính, đặc điểm của sản phẩm, hàng hoá. + Số lượng, chất lượng, chủng loại, quy cách, tính đồng bộ của sản phẩm, hàng hoá. + Giá cả, phương thức thanh toán. + Điều kiện giao nhận, nghiệm thu, bảo lãnh - Tiến độ thực hiện, hiện trạng các khoản phải thu. ™ Thẩm định, đề xuất cấp hạn mức bao thanh toán cho bên mua hàng: Luận văn thạc sĩ GVHD: TS Bùi Kim Yến HVTH: Nguyễn Thái Bảo Luân