Luận văn Phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_phat_trien_du_lich_nong_thon_o_tinh_thai_binh.doc
Nội dung text: Luận văn Phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình
- LUẬN VĂN Đề tài: PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG THÔN Ở TỈNH THÁI BÌNH Thành phố Hố Chí Minh, tháng năm 1
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 Chương I. Cơ sở lý luận về du lịch nông thôn 5 1.1. Khái quát chung về du lịch nông thôn 5 1.2. Vài nét về nông thôn Việt Nam 8 1.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở Việt Nam 13 1.4. Giới thiệu một số tuor du lịch nông thôn đang được khai thác trên thị trường Việt Nam 15 1.5. Một số tác động và ảnh hưởng của du lịch nông thôn đến đời sống kinh tế - xã hội của cư dân địa phương 17 Chương II. Tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình 20 2.1. Điều kiện chung để phát triển du lịch ở Thái Bình 20 2.2. Thế mạnh phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình 22 2.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình 47 Chương III. Định hướng, giải pháp và kiến nghị để phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình 52 3.1. Định hướng phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình .53 3.2. Một số giải pháp phát triển du lịch nông thôn tại Thái Bình 54 3.4. Các kiến nghị để phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình 59 KẾT LUẬN 62 2
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau nhiều năm thực hiện chính sách đổi mới đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và công nghiệp, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ những suy thoái lớn về môi trường cảnh quan và đạo đức văn hoá vì đất nước ta vốn có xuất phát điểm từ một nền kinh tế thuần nông. Một nguy cơ nữa là tình trạng mất dần đất canh tác nông nghiệp dẫn đến quá trình ly nông, ly hương và bần cùng hoá ở nông thôn đang ngày càng gia tăng. Vì vậy, phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân đang trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Nhìn ra thế giới, cách đây 30-40 năm tại các nước phát triển cũng đã xảy ra tình trạng tương tự. Chính phủ các nước đã triển khai rất nhiều biện pháp để ngăn chặn vấn đề này, trong đó có một hướng đã chứng minh được qua vài chục năm là rất có hiệu quả trong việc làm tăng thu nhập của dân cư nông nghiệp và thay đổi bộ mặt nông thôn. Đó chính là việc chính phủ hướng sự quan tâm của cộng đồng xã hội vào việc phát triển du lịch nông thôn. Mô hình du lịch nông thôn rất nên được tiến hành nghiên cứu ở nước ta với việc xây dựng các chính sách vĩ mô và ban hành các luật định cụ thể trong việc thực hiện như một sự hỗ trợ tích cực đối với sự phát triển bộ mặt nông thôn và gia tăng việc tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp nhất là trong quá trình phát triển hiện nay của đất nước ta, khi tư liệu sản xuất quan trọng trong nông nghiệp là đất đai đang dần bị thu hẹp, nhường chỗ cho các dự án công nghiệp, dịch vụ thì việc phát triển du lịch nông thôn tại những địa phương có tiềm năng du lịch cần được quan tâm nhiều hơn nữa để góp phần giải quyết việc làm, tạo nguồn thu nhập từ dịch vụ cho nông dân. Bước vào thời kì hội nhập, nông nghiệp và nông thôn Thái Bình có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội tại địa 3
- phương. Xuất phát từ việc khảo sát thực tế, nhận thấy Thái Bình là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nông thôn nhưng du lịch nông thôn ở đây lại chưa phát huy được hết những tiềm năng đó nên tôi chọn đề tài “Phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình” là đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. 2. Đối tượng nghiên cứu Tập trung nghiên cứu tất cả các tiềm năng phát triển du lịch nông thôn của các làng quê ở tỉnh Thái Bình từ đó đề xuất giải pháp phát triển du lịch nông thôn Thái Bình. 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: sử dụng phương pháp duy vật biện chứng làm nền tảng. Phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm: sử dụng các dữ kiện thông tin thứ cấp đã được công bố để phân tích, so sánh, khái quát , thực hiện các phán đoán suy luận. 4. Mục đích nghiên cứu Cung cấp cơ sở lý luận về du lịch nông thôn. Đánh giá tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình. Đưa ra một số giải pháp để phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình. 5. Kết cấu Nội dung đề tài gồm 3 chương: Chương I. Cơ sở lý luận về du lịch nông thôn Chương II. Tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình Chương III. Giải pháp phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình Sau đây là nội dung cụ thể của từng chương. 4
- Chương I. Cơ sở lý luận về du lịch nông thôn 1.1. Khái quát chung về du lịch nông thôn 1.1.1.Sự ra đời và phát triển của du lịch nông thôn Khái niệm du lịch nông thôn đã manh nha cùng với sự hình thành của ngành đường sắt ở Châu Âu. Tuy nhiên, mãi đến những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ XX, du lịch nông thôn mới được xem là một loại hình du lịch và được phổ biến ở hầu hết các quốc gia ở Châu Âu như Pháp, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Hà Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển Lúc bấy giờ khái niệm du lịch nông thôn được quan niệm tương đồng với các loại hình du lịch nông trại, du lịch di sản, du lịch xanh, du lịch nhà nghỉ ở nông thôn Sự khác biệt về du lịch nông thôn ở các quốc gia đang phát triển và quốc gia phát triển là ở chỗ: Tại các quốc gia đang phát triển, người ta xem du lịch nông thôn là đa dạng hoá thu nhập từ nông nghiệp, góp phần chống đói nghèo, phát huy sức mạnh nội lực của cộng đồng, bảo tồn các giá trị bản sắc, văn hoá truyền thống và bảo vệ môi trường. Vì vậy du lịch nông thôn ở các nước này phát triển theo chiều rộng. Còn ở các quốc gia phát triển thì loại hình du lịch này lại phát triển theo chiều sâu mà nguyên nhân chính là do các khu vực nông thôn ngày càng bị thu hẹp lại. Do những điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, nên hình thức du lịch nông thôn cũng khác nhau theo từng vùng, quốc gia, lãnh thổ. Chẳng hạn, ở Ô- xtrây-li-a, du lịch nông thôn chủ yếu tại các trang trại lớn; ở Nhật Bản, hình thức du lịch chủ yếu là các nhà nghỉ thân thiện ở nông thôn; ở Hàn Quốc, du lịch nông thôn được tổ chức theo các trang trại nhỏ; ở Đài Loan, du lịch nông thôn được tổ chức theo nhóm sở thích của cộng đồng; Trung Quốc và Ấn Độ là những quốc gia có nhiều làng nên du lịch nông thôn được tổ chức theo quy mô làng. Phát triển du lịch nông thôn sẽ góp phần bảo tồn di sản và bảo vệ môi trường; giảm đói nghèo thông qua phát triển kinh tế nông thôn, phát triển ngành, nghề; giúp phát triển du lịch sinh thái và các loại 5
- hình du lịch khác; giáo dục, huấn luyện và tăng cường kỹ năng cho cộng đồng; tạo việc làm cho phụ nữ và góp phần tiêu thụ các sản phẩm địa phương. 1.1.2. Đặc điểm của du lịch nông thôn Du lịch nông thôn có các đặc điểm căn bản sau: Nền tảng của du lịch nông thôn là nông nghiệp. Mô hình du lịch nông thôn có thể thay đổi theo thời gian và không gian cho phù hợp với tình hình. Du lịch nông thôn không cạnh tranh với các loại hình du lịch khác, sự phát triển của các ngành khác là tiền đề cho du lịch phát triển. Tuy nhiên, sự cạnh tranh trong ngành thì rất lớn. Dễ phát sinh những hình thái biến tấu của du lịch nông thôn. Có tính liên ngành và liên vùng cao. 1.1.3. Các nguyên tắc phát triển du lịch nông thôn Từ những đặc điểm trên, phát triển du lịch nông thôn phải bảo đảm các nguyên tắc sau: Bảo đảm tính công bằng cho các chủ thể tham gia Đem lại lợi ích cho người dân địa phương và phát huy nội lực ở từng địa phương. Bảo tồn, phát huy vốn di sản và bảo vệ môi trường. Luôn đổi mới và tạo sự khác biệt Tăng cường mối liên kết theo chiều dọc và chiều ngang để làm phong phú thêm sản phẩm. Giữ gìn bản sắc, xây dựng hình ảnh đẹp trong lòng du khách. 1.1.4. Đặc trưng của du lịch nông thôn Điều kiện tự nhiên: Các vùng nông thôn còn đậm đà hồn quê, là những nơi có không khí trong lành, cảnh vật thanh bình và không gian thoáng đãng. Du khách đến với các vùng nông thôn nước ta vì vẻ đẹp thiên nhiên tự nhiên và văn hoá nguồn 6
- cội không lai tạp. Vẻ đẹp thiên nhiên tự nhiên hoặc vẻ đẹp văn hoá mà bị suy giảm thì khó thu hút được họ. Điều kiện về môi trường: Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về việc hạn chế hoặc tuyệt đối không dùng các loại thuốc trừ sâu và phân bón tổng hợp đối với cây trồng cũng như chất phụ gia trong thức ăn dành cho gia súc, gia cầm. Điều kiện con người: Người dân ở các làng quê hiền lành, cởi mở và hiếu khách. Điều kiện an ninh: Khách du lịch đặc biệt coi trọng vấn đề an toàn trong quá trình du lịch. Vì vậy những làng quê họ lựa chọn làm điểm đến du lịch của mình phải là vùng có tình hình an ninh trật tự tốt. Các yếu tố khác: Đến làng quê, du khách không chỉ hoà mình vào cuộc sống của người nông dân mà còn có thể tham gia các lễ hội và tham quan các di tích lịch sử của địa phương vừa là nghỉ dưỡng vừa là khám phá. 1.1.5. Các hình thức du lịch nông thôn 5 hình thức du lịch nông thôn: Du lịch tự nhiên, mang tính giải trí. Du lịch văn hoá, quan tâm tới văn hoá, lịch sử và khảo cổ của địa phương. Du lịch sinh thái quan tâm tới việc bảo vệ nguồn lợi tự nhiên cũng như phúc lợi, giá trị văn hoá của người dân địa phương. Du lịch làng xã, trong đó du khách chia sẻ với cuộc sống làng xã và dân làng được hưởng các lợi ích kinh tế do các hoạt động du lịch mang lại. Du lịch nông nghiệp, trong đó khách du lịch tham quan và tham gia vào các hoạt động nông nghiệp truyền thống, không phá hoại, hay làm giảm năng suất cây trồng của địa phương. 7
- 1.2. Vài nét về nông thôn Việt Nam Ở Việt Nam, tính đến năm 2009, có 70,4% dân số sống ở vùng nông thôn, diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 90% diện tích lãnh thổ Việt Nam. Chính vì thế cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến toàn xã hội. Người dân Việt Nam dù sống khắp nơi trên thế giới vẫn giữ được nhiều nét đặc biệt của nông thôn Việt Nam. Nông nghiệp là hoạt động chính của kinh tế nông thôn, chiếm 68% tổng giá trị sản phẩm ở nông thôn. Nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất gạo hiện nay đang đóng góp nhiều cho xuất khẩu. Tuy nhiên thu nhập bình quân của người nông dân vẫn còn rất thấp. Các ngành dịch vụ tương đối yếu ở nông thôn do khó khăn trong vận chuyển và nhu cầu của địa phương thấp. Làng quê Việt Nam ngày nay tuy đã có nhiều thay đổi nhưng nhiều làng vẫn giữ được những nét truyền thống lâu đời. Nhắc đến làng quê Bắc Bộ là ta nhớ ngay đến hình ảnh của luỹ tre, đình làng, cây đa, cổng làng. Những hình ảnh đó đã in đậm trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam. Bất kỳ một làng quê nào trên đất nước Việt Nam cũng có một ngôi đình. Từ bao đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân Việt, là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt, lề thói và mọi thay đổi trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Kiến trúc đình làng mang đậm dấu ấn văn hoá, độc đáo và tiêu biểu cho kiến trúc điêu khắc Việt truyền thống. Từ xưa đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung là đình chùa, nhưng trên thực tế, đình và chùa không cùng một ý thức văn hoá. Chùa là nơi thờ Phật, ít nhiều có ảnh hưởng văn hoá Phật giáo đến từ Ấn Độ, Trung Hoa; còn đình là của cộng đồng làng xã Việt Nam, là nơi để thờ Thành Hoàng làng và những người có công với dân, cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống. Đình là biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi cân bằng phép tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng. Vào những ngày lễ, tết, dân làng lại thắp hương tế lễ cầu mong Thành Hoàng 8
- làng và trời đất cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Đây là lòng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam. Tuy đình là của dân làng nhưng thần không hẳn là người của làng. Vì người Việt Nam thừa hưởng nhiều tín ngưỡng cổ sơ, nguyên thuỷ, nên thờ và tôn kính rất nhiều vị thần như: thần núi, thần nước (thần Tản Viên) , ở Phù Ninh (Phú Thọ) thờ thần Đá Trắng, vùng đồng bằng thờ thần cá, thần rắn Tất cả những tín ngưỡng ấy, các thế hệ dân Việt Nam tiếp nối tạo thành một nền văn hoá hỗn hợp, đa dạng, có mặt nhiều thành phần tôn giáo khiến cho đình trở thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo một niềm tin, một niềm hy vọng, một sức mạnh vô hình của làng xã cộng đồng Việt Nam. Có lẽ những đình cổ nhất nước ta vẫn là những ngôi đình mang kiến trúc theo hình chữ Nhất như: đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh. Riêng đình Lỗ Hạnh, nguyên xưa là chữ Nhất nhưng qua các đời sau tu bổ đã thêm hậu cung nên đình thành chữ Đinh. Theo quan niệm kiến trúc, đình là một công trình kiến trúc công cộng, rộng mở chào đón bất kỳ người con nào của đất Việt. Với ý nghĩa như thế, đình làng Việt Nam chính là nơi không phân biệt giàu sang nghèo hèn, là nơi thể hiện rõ nhất văn hoá hiện thực của đời sống nhân dân. Mái cong của đình không giống bất cứ mái cong nào của vùng Đông Nam Á, kể cả Nhật, Trung Hoa và Thái Lan, vì góc đao của đình uốn cong và vút cao do một hệ thống cấu trúc đặc biệt có tên gọi riêng la tâu đao lá mái, không do vôi vữa đắp thành. Nhìn lại các đình Tây Đằng, Lỗ Hạnh, Cao Thương (Hà Bắc), Phù Lão, Chu Nguyên, đình Hương Lộc, Phùng Thượng, đình Thổ Tang, Ngọc Canh để thấy rằng, đình là một khối điêu khắc trong không gian, đầy chi tiết tinh tế, nhưng cũng đầy tính khoa học kiến trúc. Nói về đường nét, đình là nơi hội tụ những mô típ trang trí tuyệt hảo, gồm nhiều xu hướng: hiện thực, cách điệu, cách điệu và đồ hoạ. Sân đình là nơi tổ chức hội làng, trong hội làng dân làng thường diễn Hèm. Theo từ điển Tiếng Việt, Hèm có nghĩa là trò diễn lại sinh hoạt sự tích của vị thần thờ trong làng, những điều kiêng kỵ của thần Việc Việt hoá, dân dã hoá vị “Thành Hoàng” bằng cách triều đình “tấn phong” cho các thần linh của thôn xã chức Thành Hoàng làng đã góp phần thúc đẩy 9
- ngôi đình dần chiếm địa vị trung tâm sinh hoạt trong xã hội nông thôn Việt Nam để tới nay đình được coi là biểu tượng quê hương. Nhìn chung văn hoá đình Việt Nam có tính hoàn toàn độc lập của một cộng đồng xã hội biết tổng hợp dung hoà mọi nền văn hoá khác thành một nét văn hoá riêng nhằm phục vụ an ninh cho dân tộc mình, trong đó yếu tố chủ yếu vẫn là thờ cúng những người có công với xã, người anh hùng dựng lập nước và bảo vệ đất nước. Từ bao đời nay, người Việt cũng coi cây đa như một biểu tượng của làng quê truyền thống. Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Không phải ngẫu nhiên mà những bậc cao niên, những người đã có nhiều thành tựu ở một lĩnh vực nào đó thường được đồng nghiệp và xã hội coi là "cây đa, cây đề", biểu tượng cho sức làm việc quên mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú. Cũng với ý nghĩa trường tồn ấy, cây đa xuất hiện trong ca dao như một nhân chứng của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của đất trời, đôi khi là cả một vòng đời người. Trǎm nǎm dầu lỗi hẹn hò Cây đa bến cũ con đò khác đưa. Cây đa cũ, bến đò xưa Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ Hầu như làng quê truyền thống ở Bắc Bộ nào cũng có những cây đa cổ thụ thường ở đầu làng, cuối làng, giữa làng và ở bên cạnh các di tích. Cuộc sống sinh hoạt của làng diễn ra sôi động xung quanh gốc đa. Với người dân quê, gốc đa là nơi bình đẳng nhất, không có sự phân biệt ngôi thứ. Gốc đa là nơi trẻ nhỏ nô đùa, thỏa thích nhặt búp, hái lá, chơi những trò chơi dân gian. Gốc đa cũng là nơi dân làng ngồi nghỉ chân sau những giờ lao động mệt nhọc, trước khi về làng hoặc đi khỏi làng. Gốc đa còn là nơi hẹn hò của trai gái trong làng. Không chỉ có vậy, cây đa làng Việt còn là biểu tượng tâm linh của con người. Trong làng, cây đa có mặt ở nhiều vị trí khác nhau nhưng hầu như nó không vắng bóng ở các di tích, đặc biệt là đình chùa. Tục ngữ có câu: 10
- "Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề" Hay: "Cây thị có ma, cây đa có thần" Cây đa xanh tốt tỏa bóng làm cho các di tích trở nên linh thiêng hơn, con người khi bước đến di tích cũng cảm thấy được thư thái hòa đồng hơn với thiên nhiên. Cây đa được coi là nơi ngự trị của các thần linh dân dã và các linh hồn bơ vơ. Cây đa nào càng già cỗi, càng xù xì, rậm rạp thì càng gắn bó với thần linh. Gốc đa ở các di tích thường được dân chúng thắp hương chung để tỏ lòng tôn kính các vị thần linh dân dã hoặc cầu cho những linh hồn bơ vơ về nương nhờ lộc Phật không đi lang thang quấy nhiễu dân làng. Như vậy, cây đa luôn là biểu tượng đẹp với hầu hết các ý nghĩa chuẩn mực của biểu tượng: vừa hiện hữu, vừa tiềm ẩn, huyền bí, vừa mang hơi thở cuộc sống, vừa mang đậm yếu tố tâm linh. Phải chǎng chính sự kết hợp này đã tạo nên biểu tượng cây đa có sức sống bền lâu trong vǎn học dân gian, vǎn thơ bác học và trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Ở những làng quê Việt Nam, đặc trưng với những cây đa, bến nước, con đò, hay với những cánh cổng làng đơn sơ cổ kính. Mỗi cái cổng làng đều có một nét văn hoá riêng, tùy theo đặc điểm làng đó. Có làng giàu, có làng khoa bảng, có làng nghề tất cả những cái hay cái đẹp đều được các vị túc nho viết thành câu đối khắc trước cổng. Những cánh cổng ấy thường được gọi với cái tên làng, và tên làng được lấy theo đặc trưng của làng đó, hay một sự kiện, một di tích lịch sử . Ví dụ: làng lụa Vạn Phúc. Ở mỗi làng thường chỉ để một hoặc hai lối ra vào và cổng làng thường được dựng ở đây để làm ranh giới giữa các làng. Đối với những người xa quê đã lâu, khi về quê hương, còn cách khoảng 2, 3km là đã có thể nhìn thấy vòm cây đa và biết rằng mình đã sắp sửa về đến làng. Nhưng về tới gần hơn, qua cổng làng mới chính thức bước vào mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình, và coi như đã về tới nhà mình vì người trong làng thường đối xử với nhau như trong một gia đình. Cổng làng thường thấy nhiều ở các 11
- tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình , chủ yếu là những vùng trồng lúa và có văn hoá làng xã. Đối với mỗi người dân Việt Nam, cổng làng đã trở nên rất thân thuộc. Cổng làng thường là nơi hẹn hò của các đôi trai gái. Và với mỗi người con gái khi về làm dâu, bước qua cổng làng về nhà chồng, trở thành một thành viên trong cộng đồng dân cư của làng.Với niềm tin, suy nghĩ giữ làng tức là giữ nước, cổng làng là nơi đã chứng kiến biết bao thế hệ thanh niên đã không tiếc hi sinh than mình để gìn giữ cánh cổng làng. Cánh cổng làng là bộ mặt những làng quê Bắc bộ ngày nay đã biến đổi nhiều trước làn sóng đô thị hóa ồ ạt. Những cánh cổng làng có vẻ như không còn phù hợp với những con đường bê tông mở rộng. Nhưng trong một góc tâm thức nào đó của mỗi người dân, cổng làng vẫn tồn tại như một biểu tượng thân thuộc và là đặc trưng của mỗi làng quê, làng nghề của miền đồng bằng bắc bộ. Hơn nữa, cổng làng là một trong những biểu tượng văn hoá, bản sắc văn hoá của làng quê ở châu thổ Bắc bộ Việt Nam. Các làng xã ở vùng đồng bằng Nam Bộ khác hẳn so với các làng xã ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự khác biệt cơ bản nhất đó là tính mở ở các làng Nam Bộ cao hơn rất nhiều. Tính mở được thể hiện ở những điều sau đây: Làng không có lũy tre như là sự phân cách giữa làng này và làng khác nữa. Làng không nhất thiết phải tồn tại mãi mãi, có làng được lập một cách nhanh chóng, nhưng cũng có làng tan rã nhanh chóng. Giao thương buôn bán phát triển không còn bị gò bó ở tình trạng tự cung tự cấp. Tính tình người dân Nam bộ cũng phóng khoáng hơn, dễ chấp nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài. Chính vì những đặc điểm đó mà trong thời kỳ kinh tế thị trường, người dân ở các tỉnh miền Nam nhanh chóng thích nghi và phát triển kinh tế nhanh hơn các tỉnh miền Bắc. 12
- 1.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở Việt Nam Ở nước ta hiện nay, khái niệm du lịch nông thôn vẫn chưa được nhắc đến trong các văn bản pháp lý mặc dù nước ta có tiềm năng lớn để phát triển du lịch nông thôn: Với phong cảnh thiên nhiên đẹp, địa hình đa dạng gồm đồi, sông suối, biển đảo, hang động, hệ động, thực vật phong phú, vùng nông thôn với những làng quê cổ kính vùng Bắc Bộ, những nét văn hoá truyền thống đặc sắc, những vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời, nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử và truyền thống văn hoá tập tục của người xưa, những cánh đồng bát ngát, phì nhiêu ở Nam Bộ là những điều kiện để nước ta phát triển du lịch nông thôn. Người Việt Nam nhân hậu, thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình và giàu lòng mến khách cùng với đôi bàn tay khéo léo, trí thông minh, nhạy bén và giàu lòng quả cảm đã làm nên những nét văn hoá truyền thống đặc sắc Việt Nam từ chính tâm hồn mộc mạc ấy của mình. Một tiềm lực đáng kể ở nhiều vùng nông thôn là truyền thống làm hàng thủ công, như sản xuất đồ gốm sứ, hàng dệt, đồng, da, sơn mài, mây tre và nón Các mặt hàng này tuy có tiềm năng phát triển nhưng chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Du lịch đã được thiết lập như là một nguồn thu nhập và là công việc đáng kể ở một vài vùng nông thôn cụ thể. Du lịch có tiềm năng mang lại lợi ích trên phạm vi rộng hơn nếu được phát triển một cách bền vững. Ở Việt Nam, du lịch nông thôn đã xuất hiện ở Sa-Pa (Lào Cai), Khánh Hoà, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ nhưng mới chỉ dưới dạng những hoạt động mang dáng dấp du lịch nông thôn, rất lẻ tẻ. Những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam phát triển đa dạng các loại hình du lịch, nhưng du lịch nông thôn chưa phát triển bởi các lý do sau: Chưa có quy hoạch cụ thể cho từng địa phương để phát triển du lịch nông thôn, cụ thể là chưa có khung lý thuyết chung cho các khái niệm về loại hình du lịch này. 13
- Du lịch phát triển, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Sự phát triển của du lịch đã tác động đến đời sống con người, thiên nhiên và môi trường ở nông thôn về cả hai hướng tích cực lẫn tiêu cực, mà phần nhiều là tiêu cực. Phát triển du lịch chưa gắn kết với địa phương nên các tài nguyên thiên nhiên được ngành du lịch khai thác chưa hiệu quả và bền vững. Trong khi đó, người nông dân ở nông thôn vẫn đứng bên lề các quá trình vận động của ngành du lịch, những hoạt động du lịch chỉ mới mang lợi cho Nhà nước và khu vực tự nhiên. Chưa có sự chuẩn bị tốt về nhận thức cho cấp uỷ, chính quyền các cấp và người dân địa phương có tài nguyên du lịch nông thôn để họ sẵn sàng tham gia hoạt động này, từ đó giảm bớt được những tệ nạn thường gặp như chèo kéo khách, cung ứng sản phẩm và dịch vụ kém chất lượng, dần làm mất đi bản sắc văn hoá của địa phương. Nông dân là những người đưa di sản sinh thái và văn hoá của mình tham gia hoạt động du lịch nông thôn, nhưng trong thực tế lại thu được rất ít lợi từ hoạt động này. Nhân lực phục vụ du lịch vừa thừa, vừa thiếu. Các công ty du lịch và khách sạn thiếu lực lượng hướng dẫn viên cho khách quốc tế giỏi nghiệp vụ và ngoại ngữ, nhưng lại thừa lao động phổ thông không qua đào tạo. Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường sá, cung cấp nước tưới, tiêu, cung cấp điện và thông tin của khu vực hạ tầng còn yếu kém. Khi tham gia các tour về nông thôn ở Việt Nam, ban đầu, nhiều du khách có ấn tượng tốt nhưng rất ít người có ý định quay trở lại lần thứ hai.Vì Một trong những điều khiến họ không muốn quay lại là tình trạng giao thông ở nước ta quá tệ. Điển hình như, từ TP. Hồ Chí Minh xuống các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chỉ có con đường độc đạo là Quốc lộ 1A nên chuyện kẹt xe, kẹt phà xảy ra thường xuyên khiến tốc độ của xe thực tế chỉ còn 30 - 40km/giờ. Việc thiếu đường giao thông kết nối giữa các tỉnh làm cho khách phải đi lại quá nhiều lần trên cùng một tuyến đường, nên rất 14
- khó thu hút họ đến được các tỉnh xa mất cả ngày đường như Bạc Liêu, Cà Mau Ngoài đường bộ, không thể không nói tới giao thông đường thủy là thế mạnh của vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng tìm được chuyến tàu cao tốc chạy ổn định cũng không phải dễ. Ngoài đường bộ, đường thủy, chúng ta còn có đường hàng không nhưng đường hàng không thì chỉ có những chuyến bay nhỏ đến Cà Mau, Rạch Giá và đảo Phú Quốc, trong khi sân bay Cần Thơ (Trà Nóc) mới chuẩn bị đưa vào sử dụng. Các tỉnh ở nước ta rất thiếu các tour riêng biệt, nhưng lại thừa những sản phẩm trùng lắp. Ví du như một tuor du lịch nông thôn miền Tây Nam bộ, khách đến Tiền Giang đã vào thăm vườn, ngồi ăn trái cây hái sẵn, nghe đờn ca tài tử, thì sang Vĩnh Long, Cần Thơ hay đi Sóc Trăng cũng vẫn thấy các món này. Cách làm đơn điệu, thiếu sức hấp dẫn và không có điểm nhấn khiến các tour du lịch nông thôn không thể thuyết phục khách du lịch ở lại lâu hơn. Dịch vụ du lịch ở nông thôn vẫn còn ít lại không đạt tiêu chuẩn về chất lượng. Cơ sở lưu trú ở các làng quê đa phần có chất lượng trung bình, không có các khu nghỉ dưỡng cao cấp nên ít khi đón được khách sang ở lâu, có rất ít các loại hình vui chơi giải trí đặc sắc. Có thể khẳng định, du lịch nông thôn phát triển chậm, chắc chắn không phải vì thiếu tài nguyên, cũng chưa hẳn vì thiếu tiền, mà là thiếu cách làm phù hợp với cái khách cần. Lượng khách biết và đặt tuor du lịch nông thôn rất ít. Một phần do chưa được phổ biến quảng cáo rộng rãi, phần khác do điều kiện của nước ta chưa đủ, dù là nước nông nghiệp nhiều tiềm năng. 1.4. Giới thiệu một số tuor du lịch nông thôn đang được khai thác trên thị trường Việt Nam Tour 1. Hà Nội – Đường Lâm – Sơn Tây Thời gian: 1 ngày Phương tiện vận chuyển: xe ô tô Lịch trình tham quan: 15
- 7h30: Sau khi ăn sáng, xe khởi hành đi Đường Lâm – làng Việt cổ. 10h00: Đến Đường Lâm, du khách xuống xe và hành trình đi thăm Đường Lâm bao gồm: Thăm làng Cam Lâm – làng có hai vua, thăm làng cổ Mông Phụ, thăm cổng làng có niên đại hơn 200 năm, thăm đình làng Mông Phụ với niên đại cổ nhất hơn 400 năm lịch sử đã từng chứng kiến những hào hùng, những thăng trầm của ngôi làng hai vua. Du khách đạp xe vòng quanh làng trên những con đường gạch nghe hướng dẫn viên giới thiệu về hai vị vua của làng. 12h00: Du khách nghỉ ngơi, ăn trưa. 14h00: Thăm quan đình thờ vua Phùng Hưng, mộ vua Ngô Quyền.Sau đó đoàn lên xe về Hà Nội. Tour 2. Một ngày ở làng rau Trà Quế Thời gian: 1 ngày 7h30: Hướng dẫn viên đón quý khách tại điểm hẹn, đưa đến một hộ nông dân ở làng rau Trà Quế. 8h00 – 11h00: Du khách tham quan vườn rau, cùng nông dân tưới nước, đi lấy rong ở đầm Trà Quế về bón cho rau. 11h00 – 14h00: Du khách cùng gia đình làm cơm và dùng cơm trưa với các món ăn được chế biến từ rau trong vườn. 14h00 – 17h00: Du khách học cách làm đất, gieo hạt giống và thu hoạch rau. 17h00: Du khách tạm biệt gia đình, theo hướng dẫn viên trở về điểm hẹn. Tuor 3. Một ngày làm nông dân 07h30: Xe đón Quý khách tại điểm hẹn, khởi hành đi Trang Trại Ba Vì. 08h30: Tới Trang trại Đồng quê, Quý khách đi tham quan vườn trúc, khu chăn nuôi, trồng trọt nhỏ của trang trại. 10h00: Tham gia các hoạt động vui chơi giải trí đặc sắc dành cho người lớn, các em nhỏ hoặc theo gia đình do hướng dẫn viên tổ chức. 12h00: Quý khách ăn trưa tại nhà hàng Đồng quê và nghỉ ngơi tại trang trại. 16
- 14h00: Quý khách đạp xe đạp /đi xe công nông hoặc lội bộ qua các cánh đồng lúa bậc thang. Quý khách tham gia vào hoạt động cấy lúa, tát gầu sòng, lội suối bắt cá; hoặc có thể tới trang trại rau sạch để trồng, hái và thưởng thức rau ngay tại vườn. 16h30: Xe đưa Quý khách về điểm hẹn. Kết thúc chuyến đi, chia tay và hẹn gặp lại quý khách vào dịp gần nhất. 1.5. Một số tác động và ảnh hưởng của du lịch nông thôn đến đời sống kinh tế - xã hội của cư dân địa phương 1.5.1. Một số tác động tích cực Khi các tour du lịch nông thôn được thực hiện sẽ có những tác động ảnh hưởng đến cộng đồng địa phương. Du lịch nông thôn sẽ giúp cho địa phương có thêm công ăn việc làm, thu hút lao động tại địa phương. Ngoài việc tham gia sản xuất trên đồng ruộng, trong công việc hàng ngày thì người dân có thể là những hướng dẫn viên du lịch tại điểm, giúp cho các chương trình du lich nông thôn. Họ sẽ là những hướng dẫn viên du lịch lành nghề nhất, những người hướng dẫn tốt nhất về công việc của chính mình. Hơn nữa nhà người dân cũng là nơi lưu trú tuyệt vời nhất cho khách lưu trú qua đêm. Cư dân địa phương cũng là những người đầu bếp phục vụ cho khách những bữa ăn mang đặc trưng của quê hương mình, nhà mình. Chính những công việc thường ngày ấy sẽ giúp cho người dân địa phương tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống của chính mình, đồng thời góp phần vào phát triển kinh tế địa phương khi họ tham gia vào các chương trình du lịch nông thôn. Mặt khác khi muốn chương trình du lịch nông thôn được thực hiện dễ dàng hơn thì các công ty du lịch chính quyền địa phương, các doanh nghiệp sẽ bỏ vốn đầu tư nâng cao chất lượng cơ sở vật chất kĩ thuật tại các làng quê nơi diễn ra hoạt động du lịch nông thôn. Chính điều này sẽ góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn và tạo ra những bước phát triển mới. Đối với công ty du lịch đây cũng là loại hình du lịch mới có khả năng hấp dẫn du khách. Nếu đầu tư phát triển, các công ty du lịch có thể tạo ra sự phong phú cho các 17
- sản phẩm du lịch của mình. Một thị trường sẽ được mở ra để khai thác làm mới những hoạt động của công ty. Đồng thời điều đó cũng giúp cho các công ty du lịch tạo ra dấu ấn trên thị trường về khả năng của chính mình trong việc tổ chức những chương trình du lịch nông thôn nghe có vẻ đơn giản nhưng lại khó lấy long du khách. Không chỉ mang lại những mặt tích cực cho cộng đồng địa phương và các công ty du lịch, du lịch nông thôn còn thỏa mãn một lượng không nhỏ các du khách luôn muốn khám phá những nét văn hóa cổ truyền của Việt Nam. Họ có thể được thẩm nhận sâu sắc hơn cuộc sống của con người sau lũy tre làng. Đồng thời họ có thể trực tiếp tham gia vào công việc sản xuất của người nông dân. Họ được thử công việc của một người gánh mạ, cấy lúa, gặt lúa kể cả là cày ruộng. Họ có thể thử làm một người thợ thêu, chạm khắc đồ bạc, đục gỗ Và sau những giờ làm việc căng thẳng được giải trí bằng những điệu chèo truyền thống thấm đẫm tình dân tộc, được ăn những món ăn tuy thanh đạm đơn giản nhưng mang dấu ấn của quê lúa thân thương. Thoát khỏi những lo toan của cuộc sống hàng ngày, những công việc trí óc căng thẳng để tiếp xúc với một cuộc sống mới, làm những công việc chân tay mà du khách đã bỏ quên hay chưa từng làm. Điều đó sẽ mang lại cho du khách những cảm giác khác lạ và thư giãn bên ngoài cuộc sống hối hả của họ. 1.5.2. Một số tác động tiêu cực Khi du lịch làng quê phát triển nó sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia hoạt động này tuy nhiên nó cũng mang lại những ảnh hưởng tiêu cực. Trước hết cuộc sống của người dân sẽ bị xáo trộng nhiều khi các chương trình du lịch được thực hiện. Du khách sẽ đến mang theo văn hóa của họ. Họ sẽ làm cho người dân tò mò và đôi khi là học dòi theo lối sống đó. Điều này sẽ báo hiệu cho sự mất dấn nét truyền thống, bản sắc riêng trong các làng quê. Du khách về thăm làng không phải vì họ muốn nhìn thấy một nét văn hóa cũ mà họ đã biết, họ đã quen thuộc. Đồng hóa văn hóa của mình với của du khách là người dân địa phương đang đánh mất dần đi sự thu hút hấp dẫn của chính mình. Hơn nữa nó cũng làm mất dần những nét truyền thống 18
- của làng Việt, của văn hóa Việt của cả dân tộc. Bởi vậy giữ gìn văn hóa dân tộc là điều cần thiết và quan trọng khi muốn phát triển du lịch tại nông thôn. Mặt khác khi thấy du lịch nông thôn là loại hình du lịch có khả năng thu hút và hấp dẫn khách du lịch, mang lại một nguồn lợi ích kinh tế lớn thì sẽ có rất nhiều sự cạnh tranh của các công ty du lịch. Cạnh tranh là yếu tố dẫn đến sự phát triển trong nền kinh tế thị trường nhưng nó cũng mang lại nhiều tiêu cực trong môi trường nông thôn bình dị. Sự dồn dập chạy đua trong việc khia thác tài nguyên cũng như trong việc thực hiện tuor sẽ tạo nên sự quá tải, ảnh hưởng không tốt đến môi trường cũng như đời sống của cư dân địa phương. Một lượng khách thiếu ý thức trong du lịch sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến cuộc sống nơi thôn quê. Điều này có thể tạo nên ấn tượng không tốt với người dân cũng như chính quyền địa phương. Mỗi sự khám phá đều có 2 mặt tích cực và tiêu cực. Điều quan trọng là phải nhận thấy những mặt tiêu cực để từ đó hạn chế và khắc phục đồng thời phát triển những mặt tích cực của hoạt động đó. 19
- Chương II. Tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình 2.1. Điều kiện chung để phát triển du lịch ở Thái Bình 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1.Vị trí địa lý Thái Bình là tỉnh ven biển thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng. Phía Bắc giáp với tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và Hải Phòng; phía Tây và Tây Nam giáp với tỉnh Nam Định và Hà Nam; phía Đông giáp với vịnh Bắc Bộ. Diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 1.546,54 km 2. Toàn tỉnh gồm có 8 huyện, thành phố là: Hưng Hà, Đông Hưng, Quỳnh Phụ, Thái Thụy, Tiền Hải, Kiến Xương, Vũ Thư và thành phố Thái Bình với tổng số 284 xã, phường, thị trấn. Thái Bình cách Thủ đô Hà Nội 110km, cảng Hải Phòng 70km, nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế và trung tâm du lịch lớn Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, gần một số tỉnh có tiềm năng du lịch như Ninh Bình, Nam Định, Hải Phòng, là cầu nối quan trọng giữa miền Trung với cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân. Với vị trí địa lý, Thái Bình có những thuận lợi trong giao lưu kinh tế và mở rộng hành lang liên kết kinh tế và du lịch với hầu hết các trung tâm kinh tế, du lịch trong toàn quốc và một số nước Đông Nam Á. 2.1.1.2.Địa hình Thái Bình là một tỉnh đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1%; cao trình biến thiên phổ biến từ 1-2m so với mực nước biển, thấp dần từ bắc xuống đông nam. Thái Bình được bao bọc bởi một hệ thống sông, biển khép kín. Với bờ biển dài trên 50 km và 4 sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh: Phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35,3 km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 20
- km, phía tây và nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km, sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ tây sang đông dài 65 km. Đồng thời có 5 cửa sông lớn (Văn Úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân). Các sông này đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nước dâng nhanh, lưu lượng lớn, hàm lượng phù sa cao, mùa đông lưu lượng giảm nhiều, lượng phù sa không đáng kể. 2.1.1.3.Khí hậu Thái Bình chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23ºC- 24ºC. Nên mùa đông thường ấm hơn so với các tỉnh nằm sâu trong đất liền. Mùa hè nóng nhưng có gió biển mát mẻ. Thái Bình có nhiều bão, lũ lụt và một số hiện tượng thời tiết đặc biệt làm ảnh hưởng không tốt tới nhiều hoạt động du lịch. 2.1.1.4.Dân cư Thái Bình là tỉnh đông dân cư, nhân dân Thái Bình cần cù, khéo tay, chất phác và mến khách. Trong những năm qua kinh tế xã hội được ổn định và phát triển, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng cao, nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch, bồi dưỡng sức khoẻ tinh thần của người dân càng được thay đổi. Điều đó được thể hiện qua số lượng khách du lịch nội tỉnh tăng trên 10%/năm, đây là lợi thế quan trọng để ngành du lịch Thái Bình phát triển. 2.1.2.Điều kiện kinh tế - xã hội Cơ sở vật chất phục vụ phát triển du lịch được đầu tư nâng cấp ngày càng hoàn thiện. Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng Khu du lịch Đồng Châu với tổng số vốn trên 50 tỷ đồng, xây dựng đường và phục hồi các di sản thuộc Khu di tích lịch sử các Vua Trần tại Hưng Hà trên 70 tỷ đồng đã và đang được triển khai, 3 khách sạn lớn từ 3 - 4 sao đang được nâng cấp và xây dựng mới, hơn 20 khách sạn cỡ nhỏ và vừa với gần 600 phòng tiêu chuẩn đủ sức phục vụ trên 1.000 lượt khách/ngày. Trên địa bàn Thái Bình đã hình thành hệ thống cơ sở lưu trú du lịch gồm 57 khách sạn, nhà nghỉ với tổng số 851 phòng nghỉ, trong đó có 210 phòng loại 1 đạt tiêu chuẩn đón khách quốc tế. Các khách sạn, nhà nghỉ đã được đầu tư các trang thiết bị hiện đại, tiện nghi sang trọng. 21
- Hệ thống đường 10 đã hoàn thành, đường 39 đang được nâng cấp. Tỉnh cũng đã chỉ đạo chuẩn bị khởi công một số dự án cơ sở hạ tầng giao thông để thu hút vốn đầu tư như: đường và cầu nối Thái Bình - Hà Nam với đường cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình, có vốn đầu tư trên 4.000 tỷ đồng; đường 39B từ thị trấn Thanh Nê đến thị trấn Diêm Điền, vốn đầu tư trên 2.200 tỷ đồng; đường vành đai phía Nam Thành phố Thái Bình, vốn đầu tư trên 1.000 tỷ đồng Một số cầu đã được xây dựng như cầu Triều Dương nối với Hưng Yên, cầu Tân Đệ nối với Nam Định, hệ thống đường nông thôn đang phát triển là điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hoá xã hội, du lịch giữa Thái Bình với các tỉnh bạn. Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp với gần 90% dân số ở các vùng nông thôn và hơn 70% lao động nông nghiệp. Mặc dù diện tích đất trồng lúa giảm, nhiều dịch bệnh lúa mới xuất hiện, nhưng năm qua lại là năm nông nghiệp Thái Bình lập được nhiều kỷ lục: là năm đầu tiên được mùa lớn nhất từ trước đến nay với năng suất lúa cả 2 vụ đạt 132,35 tạ/ha, cao nhất từ trước đến nay và tốc độ tăng trưởng cũng đạt 6%, cao nhất cả nước, là lá cờ đầu về sản xuất nông nghiệp trong toàn quốc. Thái Bình đang phấn đấu xây dựng thương hiệu từ “quê hương 5 tấn” trong thời đánh Mỹ thành “quê hương 15 tấn” trong thời kỳ hội nhập. Ban lãnh đạo tỉnh Thái Bình đang thực hiện chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới, tạo ra đời sống mới cho người nông dân. Không chỉ có những bứt phá trong phát triển kinh tế, trong lĩnh vực văn hóa xã hội, Thái Bình cũng đã tạo được những dấu ấn đặc biệt: lần đầu tiên tỉnh tổ chức thành công Lễ hội Văn hóa Đồng bằng sông Hồng, quy tụ về đây 13 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Với truyền thống mến khách, người dân quê lúa đã để lại những thiện cảm lớn đối với các tỉnh bạn. Song, điều quan trọng hơn là Lễ hội đã khơi dậy những tinh hoa văn hóa, truyền thống hào hùng của miền đồng bằng châu thổ sông Hồng. 2.2. Thế mạnh phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình 2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên 22
- Đất đai Thái Bình phì nhiêu màu mỡ, nổi tiếng “bờ xôi ruộng mật” do được bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Hệ thống các công trình thuỷ lợi tưới tiêu thuận lợi, góp phần làm nên cánh đồng 14-15 tấn/ha và đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp để xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha trở lên. Tổng diện tích tự nhiên là 153.596 ha. Trong đó: Diện tích cây hàng năm là 94.187 ha; diện tích ao hồ đã đưa vào sử dụng là 6.018 ha. Hầu hết đất đai đã được cải tạo hàng năm có thể cấy trồng được 3-4 vụ, diện tích có khả năng làm vụ đông khoảng 40.000 ha. Ngoài diện tích cấy lúa, đất đai Thái Bình rất thích hợp cho các loại cây: Cây thực phẩm (khoai tây, dưa chuột, sa lát, hành, tỏi, lạc, đậu tương, ớt xuất khẩu), cây công nghiệp ngắn ngày (cây đay, cây dâu, cây cói), cây ăn quả nhiệt đới (cam, táo, ổi bo, vải thiều, nhãn, chuối), trồng hoa, cây cảnh Đến với Thái Bình không ai là không biết những vườn cây cảnh, cây ăn quả rộng hàng chục hécta tại xã Bách Thuận, xã Hoàng Diệu. Đây là một lợi thế của Thái Bình để phát triển du lịch nông thôn. Thái Bình có triền cỏ ven đê, ven sông và hệ thống kênh mương ao hồ rộng khắp điều kiện để phát triển chăn nuôi trâu, bò, bò sữa, lợn, gà, vịt, cá 2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn Du khách tham gia du lịch nông thôn không chỉ được chiêm ngưỡng những nét đặc sắc trong cuộc sống đời thường, cảnh quan thiên nhiên phong phú, môi trường trong lành, khí hậu mát mẻ, làm quen với những người dân chất phác, hiền hoà mà họ còn được thực tế khi tham gia cuộc sống sinh hoạt thường ngày cũng như lao động sản xuất trực tiếp cùng người dân bản địa. Thái Bình có tiềm năng lớn trong việc phát triển du lịch nông thôn đặc biệt là du lịch làng xã. Nhiều làng xóm còn giữ được nét quê đặc trưng của nền văn minh lúa nước đồng bằng sông Hồng với cây đa, giếng nước, sân đình. 2.2.2.1. Các làng nghề truyền thống 23
- Thái Bình là địa phương thu hút khách du lịch bởi có những làng nghề nổi tiếng và có truyền thống lâu đời như: làng chạm bạc Đồng Xâm, làng dệt Phương La, làng thêu Minh Lãng, làng đúc đồng An Lộng. Nghề chạm bạc Đồng Xâm Làng chạm bạc Đồng Xâm nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương thuộc xã Hồng Thái. Ðồng Xâm với những sản phẩm vàng bạc tuyệt mỹ, có một không hai, nổi tiếng và lâu đời ở Việt Nam. Nghề chạm bạc Ðồng Xâm đã tồn tại gần 400 năm nay. Buổi đầu dân làng chỉ làm nghề hàn đồng, gò thùng chậu, đánh dao kéo, chữa khoá, làm quai và vòi ấm tích, điếu bát , về sau mới làm đồ kim hoàn, trong đó chuyên sâu về việc chạm bạc. Cũng như nhiều nghề thủ công cao cấp khác như đúc đồng, luyện kim , nghề kim hoàn có kỹ thuật hết sức phức tạp nhưng mang lại thu nhập cao cho người thợ nên suốt mấy trăm năm người Ðồng Xâm luôn giữ bí mật nghề. Ðến nay, kỹ thuật này không còn là độc quyền của thợ Ðồng Xâm nữa, nhưng một số thủ pháp kỹ thuật và nghệ thuật tinh xảo nhất vẫn được giữ bí truyền. Làng chạm bạc xưa đã qui định chặt chẽ trong hương ước của làng rằng: người nào đem bí quyết nghề chạm bạc của làng truyền dạy cho người làng khác, hay làm đồ giả để lừa người khác, gây sự bất tín thì phải phạt tiền thật nặng, hoặc đem đánh đòn trước nhà thờ Tổ, hoặc phải xoá tên trong làng. Các hàng chạm bạc Ðồng Xâm khác hẳn và nổi trội so với hàng bạc của các nơi khác về hình khối, dáng vẻ sản phẩm, về thủ pháp xử lý sáng-tối nhờ tận dụng đặc tính phản quang của chất liệu bạc, nhất là ở các đồ án trang trí của Đồng Xâm tinh vi mà cân đối, lộng lẫy mà nổi rõ chủ đề chính. Ðặc trưng của sản phẩm Ðồng Xâm là sự điêu luyện, tinh tế và hoàn hảo tới mức tối đa. Có thể nói rằng tài năng và tính cẩn trọng của nghệ nhân bạc Ðồng Xâm có thể đáp ứng được mọi yêu cầu về đồ chạm bạc của những khách hàng khó tính và am tường nghệ thuật nhất. Suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), nghề chạm bạc của làng bị đình đốn. Sau ngày hoà bình lập lại, từ năm 1955 trở lại đây, sản xuất đồ vàng bạc được phục hồi và 24
- phát triển. Nhưng các sản phẩm của thời kỳ bao cấp nhìn chung ít sáng tạo, nhỏ lẻ và khá đơn điệu. Phải đợi đến thời kỳ đổi mới, mấy năm nay, người thợ chạm bạc mới thực sự được tự làm, tự kinh doanh theo kiểu các doanh nghiệp nhỏ, qui mô gia đình, được trực tiếp xuất khẩu Vận hội mới đang quay trở lại với người Ðồng Xâm và nghề chạm bạc. Thợ Ðồng Xâm hiện nay phần lớn vẫn làm nghề tại làng và nhờ nghề chạm bạc mà nhiều gia đình trong làng trở nên giàu có. Ở môi trường nào cũng vậy, từ xa xưa đến nay, thợ bạc Ðồng Xâm luôn lấy chữ Tín làm trọng. Họ giữ phẩm chất, lương tâm của người thợ và tinh hoa kỹ thuật nghề nghiệp của đất nước quê hương. Vì vậy, sản phẩm của họ vẫn giữ được niềm tin của khách hàng ở khắp mọi nơi. Làng dệt Phương la Nghề dệt có ở làng Phương La, xã Thái Phương, huyện Hưng Hà từ nhiều đời nay, làng còn có tên khác là làng Mẹo nổi tiếng khắp cả nước. Nghề dệt của làng Mẹo tuy có từ lâu đời nhưng mới bắt đầu khởi sắc từ thập niên 80. Khi đó mặt hàng chính của làng là vải sa tanh, đũi, hàng làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Những năm gần đây, mặt hàng chủ yếu lại là khăn vì có sức tiêu thụ lớn nên 90% máy dệt của làng tập trung vào sản xuất loại hàng này. Ngoài ra, làng Mẹo còn dệt lụa tơ tằm, dệt thổ cẩm và đũi. Ngày xưa, làng Mẹo có những bãi dâu xanh tốt nằm bên cạnh con sông Hồng. Vào thời nhà Trần, người dân nơi đây từng dệt lụa tơ tằm để tiến vào hoàng cung. Công cụ dệt là khung con phượng, sản phẩm làm hoàn toàn bằng thủ công. Trải qua nhiều thế kỷ, giờ khung dệt được cải tiến nhiều. Một số bộ phận bằng gỗ, độ bền thấp nay được thay thế bằng sắt, nhôm. Nhưng cuộc “cách mạng” lớn nhất ở làng Mẹo chính là việc thay sức người bằng động cơ điện. Từ đây, người thợ không phải dùng chân để quay khung dệt. Nhờ có động cơ điện mà năng suất tăng gấp nhiều lần giúp cho nghề dệt ở Phương La ngày càng phát triển. Làng đúc đồng An Lộng Các sản phẩm chính của đồng An Lộng là đồ tế khí, lư hương và những đồ gia dụng như nồi, xoong, ấm, chảo Dân An Lộng không khỏi tự hào: 25
- Muốn ăn cơm trắng cá trôi Thì về An Lộng đúc nồi với anh Theo các bậc cao niên trong làng, nghề đúc đồng ở An Lộng vốn được du nhập từ Thanh Hoá từ cuối thế kỷ XIX. Đời nọ nối tiếp đời kia phát triển mở rộng thành làng nghề. Những năm 50, 60 của thế kỷ trước, An Lộng từng có tới trên 100 cơ sở làm nghề đúc đồng. Quy trình đúc đồng cầu kỳ và phức tạp vô cùng. Trước hết phải chọn đất làm khuôn. Mà đất để làm khuôn thì chỉ đất ở vùng này mới đảm bảo cho ra lò những chiếc lư đạt tiêu chuẩn: nước da lư bóng, hoa văn sắc, gọn, những con vật như Long, Ly, Quy, Phụng trông phải thật oai nghiêm, hùng dũng. Sau khi mang về, đất được xay nhuyễn, lọc bằng túi rồi đem ra phơi. Kế tiếp, lại phơi trộn đất với tro trấu, pha nước sền sệt, đợi cho đất quyện lại, lúc đó mới làm khuôn. Tuỳ ý đồ, kinh nghiệm cũng như sự khéo léo của người thợ mà người ta sẽ nặn theo khuôn mẫu. việc cuối cùng trong khâu làm khuôn là người thợ phải đắp thêm một lớp đất bên ngoài, bao phủ lên tất cả phần sáp. Khi khuôn hoàn thành, phơi chừng một đến hai nắng gắt mới đưa vào lò nung. Làng thêu Minh Lãng Làng thêu Minh Lãng thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Thời kỳ Pháp thuộc nghề thêu của làng chỉ chủ yếu là sản xuất ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu của nhân dân trong nước. Những năm gần đây xã Minh Lãng nổi lên như một điểm sáng về sản xuất kinh doanh của thời kỳ đổi mới. Ngoài hai hợp tác xã thêu chuyên nghiệp với hơn 800 lao động còn có một hợp tác xã nông nghiệp có kiêm cả nghề thêu với trên 1.500 lao động. Với nỗ lực của chính mình, những người thợ thêu Minh Lãng đã được đền đáp xứng đáng bởi nhiều khách hàng từ Châu Âu, Châu Á tìm đến ký hợp đồng ngày càng nhiều. Đặc biệt với các khách hàng khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc thì thêu Minh Lãng là một sản phẩm được ưa chuộng bởi tính mỹ thuật cao. Nghề thêu Minh Lãng đang từng bước hội nhập và phát triển với những điều kiện và định hướng phát triển đất nước chắc chắn nghề thêu Minh Lãng ngày càng có bước phát triển hơn nữa. 26
- Làng vườn Bách Thuận Làng Bách Thuận thuộc huyện Vũ Thư nằm cách Thành phố Thái Bình 10km theo hướng cầu Tân Đệ đi Nam Định. Đây là một làng vườn trù phú, rìa làng là bãi phù sa nơi trồng dâu nuôi tằm. Trong làng là những vườn cây ăn quả, cây cảnh. Đến với Bách Thuận, du khách như lạc vào công viên thu nhỏ với đủ các gam màu đậm, nhạt dọc theo hai bên đường làng là màu xanh của cây hoè, cây táo. Thiên nhiên ưu đãi cho Bách Thuận phát triển nghề vườn truyền thống, ở đây có đủ các loại hoa quả bốn mùa: táo, ổi, cam, chanh, hồng xiêm, roi, chuối; bên cạnh những vườn cây ăn quả là những vườn cây cảnh, cây thế. Mỗi loại cây cảnh đều mang một dáng, một nét riêng với những tên gọi khác nhau tuỳ theo sự uốn tỉa của chủ nhân của nó. Du khách trong và ngoài nước rất thích thú với cảnh quan, môi trường sinh thái ở làng vườn Bách Thuận này. Hiện nay, 100% các hộ gia đình trong xã đều tham gia trồng hoa và cây cảnh với tổng diện tích trên 200 ha (chiếm trên 40% diện tích đất canh tác toàn xã). Cây cảnh Bách Thuận đã có mặt khắp trong ngoài tỉnh, giá cả rất đa dạng, từ vài trăm nghìn đến vài chục triệu đồng/cây, tuỳ thuộc vào thế và độ tuổi, xấu đẹp của cây. Trồng cây cảnh trở thành nghề chính của các hộ gia đình trong xã. Với lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, lại có nghề trồng hoa và cây cảnh phát triển, năm 2002, Bách Thuận chính thức được công nhận là khu du lịch làng vườn của tỉnh Thái Bình, du khách đến thăm làng vườn ngày một tăng. Bách Thuận đang trên đường đổi mới, không lâu nữa sẽ trở thành vùng nông thôn trù phú, điểm du lịch làng vườn hấp dẫn nhất tỉnh Thái Bình. Làng nghề dệt đũi Nam Cao Cách huyện lỵ Kiến Xương không xa, Nam Cao nổi lên như một điển hình về phát triển làng nghề của tỉnh Thái Bình. Người già nhất làng cũng không xác định được nghề có từ khi nào. Chỉ biết rằng nghề dệt đũi đã làm thay da đổi thịt của mảnh đất này. Làng quê ở đây sung túc hơn rất nhiều những làng quê khác. Nhiều năm trước đây nghề nuôi tằm, kéo tơ và dệt đũi đã sớm về gắn bó với đất này. Lúc đầu vải đũi được 27
- dùng để may thành quần áo tiêu thụ trong nước cho các nhu cầu của nhân dân và dùng trong các lễ hội. Sau này vải đũi đã được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Đến thời kỳ Pháp thuộc, vải đũi Tuýt So đã được xuất khẩu sang Pháp với số lượng lớn. Đến những năm 80 của thế kỷ trước, đũi Nam Cao đã nổi đình nổi đám, mỗi năm tiêu thụ 4050 nghìn mét vuông. Khi thị trường Đông Âu mất đi, đũi Nam Cao cũng ắng lại. Song đũi Nam Cao đã nhanh hơn các sản phẩm khác, kịp thời chuyển hướng sang thị trường Lào, Campuchia và các nước Tây Á. Nghề dệt đũi lại phát triển và còn có sức mạnh hơn xưa, vươn ra toàn xã Nam Cao, tới cả các xã lân cận như Lê Lợi, Đình Phùng, Quốc Tuấn. Đũi Nam Cao đã trở thành hàng độc nhất vô nhị trong làng dệt Việt Nam. Về Nam Cao hôm nay, chưa qua đất Bình Minh đã có thể cảm nhận thấy làng đũi ở rất gần. Nghề dệt đũi với trung tâm là xã Nam Cao, giờ đã lan tỏa ra 15 xã vệ tinh lân cận. Nghề dệt đũi đã có hơn 2.700 khung dệt, tạo việc làm cho gần 10.000 lao động ở các xã. Các khung dệt thủ công này hầu hết đã được cơ giới hóa, điện khí hóa vừa giảm sức người lại cho năng suất cao hơn. Trong làng dệt đã hình thành 13 doanh nghiệp tư nhân, 30 tổ hợp dệt và 780 hộ cá thể chuyên dệt. Các khâu cung ứng nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm đều đã có những doanh nghiệp chuyên lo. Thợ dệt chỉ cần tăng năng suất, đảm bảo chất lượng là có thu nhập 500-800 nghìn đồng/người/tháng. Ngày nay, người dân Nam Cao vẫn không ngừng cố gắng để đưa nghề dệt đũi Nam Cao đi xa hơn, nhiều hơn và không chỉ ở Lào, Thái Lan, Tây Á mà cả ở Đông Á, Châu Âu. 2.2.2.2. Di tích lịch sử Thái Bình là vùng địa linh nhân kiệt, hiện còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng mang nhiều ý nghĩa quốc gia như khu di tích nhà Trần, chùa Keo Khu di tích nhà Trần Mảnh đất Hưng Hà-Thái Bình là nơi chứa đựng những dấu ấn lịch sử gắn chặt với triều đại nhà Trần (1226-1400), các vua khai sáng nhà Trần đều được sinh ra tại đây, gia tộc nhà Trần dựa vào đây mà dấy nghiệp. Khi đã thành vương triều Trần, vùng đất 28
- này được chọn làm nơi xây dựng các đền thờ, lăng tẩm của Hoàng tộc nhà Trần. Nơi đây có di chỉ khảo cổ mộ các vua Trần (xã Tiến Đức); khu lăng mộ thái su Trần Thủ Độ, đình Khuốc, đình Ngừ thờ thái sư, mộ và đền thờ Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung (xã Liên Hiệp); Tam đường – là nơi lưu giữ hài cốt của các tổ tiên triều Trần như: Thuỷ tổ Trần Kinh, Thái tổ Trần Hấp, Nguyên tổ Trần Lý, Thái thượng hoàng Trần Thừa Các vị vua nhà Trần như Trần Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cùng các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp tang tại các lăng mộ có tên Thọ lăng, Chiêu lăng, Dự lăng, Quy Đức lăng Cùng với lăng mộ, nhà Trần còn cho xây dựng các cung điện như điện Tịnh Cương, điện Hưng Khánh, điện Thiên An, điện Diên Hiền. Chùa Keo Chùa Keo thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng bậc nhất Việt Nam. Từ thành phố Nam Định, qua cầu Tân Đệ rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi khoảng 10km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng, chùa Keo với gác chuông như một hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh rờn. Chùa ban đầu có tên là Nghiêm Quang, được Không Lộ Thiền sư xây dựng từ năm 1067. Sau khi Không Lộ Thiền sư qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. Chùa có quy mô kiến trúc rộng lớn trên một khu đất khoảng 58.000m2. Hiện nay toàn bộ kiến chúc của chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm rồng chầu (thế kỷ 16). Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Sau điện Phật có đền thờ Thiền sư Không Lộ. Công trình kiến trúc nổi tiếng nhất của chùa là gác chuông. Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời kỳ Hậu Lê. Được xây dựng trên một nền gạch vuông vắn, gác chuông cao 11,04m, có 3 tầng mái, kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Tầng 29
- một có treo một khánh đá dài 1,20m; tầng hai có quả chuông đồng cao 1,30m đường kính 1m đúc vào thời Lê Hy Tông năm 1688; tầng ba và tầng thượng treo chuông nhỏ cao 0,62m đường kính 0,69m đúc năm 1796. Đến thăm chùa, du khách có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc long lánh như dát vàng mà người ta kể lại rằng do chính Không Lộ nhặt được thưở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành. 2.2.2.3. Nghệ thuật dân gian Nghệ thuật chèo Thái Bình không chỉ nổi tiếng là quê hương của “Chị Hai năm tấn” mà từ xưa tới nay Thái Bình vẫn được nhắc tới là cái “nôi chèo”, “đất chèo”. Hát chèo đã trở thành nghệ thuật đặc sắc ở Thái Bình. Thái Bình là một tỉnh đồng bằng sông nước với môi trường sinh thái tự nhiên thuận lợi cho nghệ thuật chèo nảy mầm và phát triển. Cùng với quá trình mở đất lập làng đã tạo cho cư dân Thái Bình có điều kiện để tiếp thu học hỏi những tinh hoa văn hoá mang tính tự nguyện hoặc bắt buộc, nhưng vẫn giữ được “bản sắc riêng đậm đà”. Đó là văn hoá của vùng đồng bằng Bắc Bộ và phụ cận, cùng với các đợt di dân từ các miền khác tới Thái Bình, mà đặc biệt là từ Thanh Hoá và ngược lại. Đó là sự học hỏi tinh hoa văn hoá Trung Quốc trong suốt thời kì Bắc thuộc và nhiều thập kỷ sau. Tiếp đến là sân khấu Pháp thế kỷ 20, và nhiều sân khấu hiện đại sau cách mạng tháng Tám được bổ sung, chắt lọc, và học hỏi nghiêm túc của bao thế hệ nghệ nhân với ý thức giữ gìn và làm giàu thêm bản sắc văn hoá địa phương. Sở dĩ chèo Thái bình ra đời và tồn tại đến ngày nay trước hết vì nó dựa trên nền tảng của những trò diễn xướng dân gian từ xa xưa và của dân ca dân vũ đồng bằng Bắc Bộ. Những trò diễn, điệu múa, lời ca, lời ru hiện còn thấy được ở hội làng Thái Bình có quan hệ đến sự ra đời và tồn tại của chèo, đến hát chèo, múa chèo. Để nghệ thuật chèo phát triển và lưu giữ tới ngày nay là cả một sự nỗ lực không ngừng của bao thế hệ nghệ nhân chèo truyền đời “giữ 30
- lửa” tạo nên nét riêng có của chèo Thái Bình. Âm nhạc chèo nói chung và âm nhạc chèo Thái Bình nói riêng là sự kết tinh từ chất liệu những điệu hát, nói, hát bỏ bộ trong sinh hoạt nghệ thuật dân gian vùng châu thổ sông Hồng: Xoan ghẹo, chèo tàu tương, hát giặm bằng cách thức bẻ nắn làn điệu, tức là theo nội dung thơ rồi dựa vào những âm điệu sẵn có để tạo nên những khúc hát mới. Những nét nghệ thuật riêng hay có người gọi là phong cách chèo Thái Bình có lẽ là những sáng tạo về quy cách của phần đệm. Cùng một làn điệu như nhau nhưng phong cách chèo Thái Bình hát mộc mạc giản dị hơn, phụ âm hư tự và nguyên âm luôn cân bằng âm lượng. Cùng một tiết tấu nhưng chèo Thái Bình rộn rã, xáo động hơn. Lối hát Thái Bình không đi sâu vào nhịp phách phức tạp, không nhả chữ theo lối khôn ngoan nhà nghề, không làm lẫn phụ âm. Nghệ thuật múa rối nước Thái Bình cũng là quê hương của nghệ thuật múa rối nước. Múa rối nước xuất hiện từ thời Lý (1010 - 1225), là một nghệ thuật kết hợp tinh vi giữa các nghệ nhân, quân rối, buồng trò Múa rối nước Thái Bình có 7 phường hội cổ truyền ở các làng Nguyễn, Tăng, Tuộc, Đống, Kỳ Hội thuộc huyện Đông Hưng. Con rối được làm bằng gỗ mít, bên ngoài phủ sơn để chống thấm nước. Mỗi con rối là một tác phẩm điêu khắc dân gian, mỗi con một vẻ thể hiện một tính cách. Nhân vật tiêu biểu nhất là Chú Tễu, thân hình được cải trang bụ bẫm với nụ cười hóm hỉnh, lạc quan. Một buổi biểu diễn rối nước bắt đầu bằng màn bắn pháo hoa rồi Chú Tễu ra giới thiệu. Với bộ mặt nghịch ngợm, trang phục ngộ nghĩnh, hai tay chỉ trỏ, miẹng hát lời dọn đám. Chú Tễu sẽ mang lại tràng cười sảng khoái ngay từ phút đầu. Nghệ nhân khi biểu diễn phải ngâm mình dưới nước để điều khiển con rối theo các diễn biến của vở diễn. Nhạc đệm cho cuộc diễn là bộ gõ gồm trống, mõ, thanh la. 2.2.2.4. Lễ hội truyền thống Ở Thái Bình có rất nhiều lễ hội truyền thống có sức thu hút đặc biệt đối với du khách thập phương. 31
- Lễ hội ông Đùng – bà Đà Làng Quang Lang xưa thuộc huyện Thụy Vân, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam Hạ thời Trần. Ngày nay, là một làng thuộc xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình- nơi nổi tiếng với nhiều lễ hội đặc sắc như: Hội rước nước (ngày 25 tháng giêng), Hội tế Thành hoàng (ngày 27-7 âm lịch), đặc biệt là hội ông Đùng, bà Đà được tổ chức vào ngày 14- 4 âm lịch hàng năm - đúng vào mùa hoa Đùng nở rộ. Hội được tổ chức tại một ngôi đền thờ bà chúa Muối - có tên thật là Nguyệt Ánh. Theo truyền thuyết kể lại rằng: Một hôm, khi chở muối trên một chuyến đò, Nguyệt Ánh gặp thuyền của vua Trần Anh Tông trên sông Hồng. Mấy người chèo thuyền khát nước, liền gọi đò cô bán muối đến và xin nước uống. Nàng e lệ sượng sùng, khép nép, nước cầm tay, tà áo che mặt. Chợt thấy đôi bàn tay xinh xắn của nàng, vua đón sang thuyền mình và sau đó lập làm vợ ba. Sống trong cung điện nhưng nàng không nguôi nhớ về quê nhà, nhà vua đành phải đồng ý xuất lụa là, vàng bạc rồi cho quân lính đưa Nguyệt Ánh về quê. Không lâu, bà lâm bệnh nặng, rồi qua đời vào ngày 14/4. Nhà vua được tin thương tiếc đã sắc phong cho bà làm Phúc thần, người dân làng Quang Lang biết ơn bà lập đền thờ để con cháu đời đời tưởng nhớ công lao của bà - đó là đền thờ bà chúa Muối ngày nay. Đã bao đời nay, hàng năm cứ đúng vào ngày 14/4 lại diễn ra lễ hội ông Đùng, bà Đà với điệu múa ông Đùng, bà Đà mang đậm bản sắc văn hóa địa phương nhằm cầu mong sự sinh sôi, thịnh vượng. Theo các vị lão làng, hình ông Đùng, bà Đà được đan bằng tre mỏng, đan theo kiểu mắt cáo. Thân hình cao tới 1,5m - 2m, hình chóp nón, đường kính phía dưới rộng, đủ cho một người chui lọt vào. Sáng sớm ngày 14/4 âm lịch, các thôn trong làng mang các hình nộm ông Đùng, bà Đà vào Đền thờ bà chúa Muối để tiến hành các nghi thức tế lễ một cách nghiêm trang thành kính. Tục chính của lễ hội là múa Đùng được diễn ra vào lúc nhập nhoạng tối cùng ngày. Trong khi múa người ta xướng vang những câu tụng ca công đức của bà chúa Muối như: "Lạy chúa! Muối của chúa năm nay được mùa lắm! Lạy chúa, lạy chúa ". 32
- Dưới góc nhìn văn hoá dân gian, Lễ hội ông Đùng, bà Đà là một mô típ quen thuộc trong các lễ hội dân gian của người Việt, giống như hội Trám (Phú Thọ), hội múa mo Sơn Đồng (Hà Tây), hội cướp kén làng Dị Nậu (Phú Thọ) .Người ta thường nói "có nam có nữ mới nên xuân", trong lễ hội các hình nộm mang cả dáng dấp ông Đùng và bà Đà. Khi múa lúc nghiêng ngả, quay sang phải, sang trái, cho ông bà có cơ hội "bày tỏ" tình cảm vui mừng với nhau. Các vai ông Đùng, bà Đà phải phối hợp sao cho những lần giáp mặt, thân chập vào nhau. Người Quang Lang giải thích đó là lúc ông bà đang "ăn nằm" với nhau. Càng về sau các động tác múa càng mạnh hơn và hưng phấn hơn. Sau đó, đoàn múa ra khỏi Đền và đi quanh làng, các Đùng con quấn quýt xung quanh Đùng bố mẹ. Dân làng đi theo nhộn nhịp, vừa đi vừa hát múa. Lúc đám rước quay về tới Đền thì dân làng vội vã xô nhau vào để lấy cho được một nan nứa trên hình nộm hai ông bà về cắm vào ruộng, vào vườn, trên thuyền để lấy may. Lễ hội ông Đùng bà Đà là nơi gửi gắm ước vọng của những người dân làng muối về sự sản sinh, sinh sôi, dồi dào. Nơi đó có sự giao hoà của con người cùng sông nước đất trời làm lòng người thêm tươi trẻ, cây cối thêm xanh tươi, thóc lúa thêm nhiều, báo hiệu một mùa muối dồi dào, bội thu. Lễ hội bơi trải trên sông Diêm (12 tháng giêng hàng năm) Cứ vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch hàng năm, tại Thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy lại tưng bừng tổ chức lễ hội bơi trải truyền thống trên dòng sông Diêm lịch sử - quê hương người tiền bối cách mạng Nguyễn Đức Cảnh. Theo lời các bậc cao niên nơi này kể lại, lễ hội bơi trải trên sông Diêm không biết có từ bao giờ, chỉ biết rằng nó là một nét văn hoá thể thao đặc sắc, thể hiện tinh thần thượng võ của người dân quê biển Diêm Điền mà các thế hệ cha ông truyền lại để tưởng nhớ các bậc tiền nhân đã có công chống giặc ngoại xâm và chinh phục biển cả. Trước đây, làng Diêm Điền được chia thành 5 xóm: Tiền- Trung- Tả- Hữu- Hậu và hội bơi trải xưa cũng là cuộc đua tài giữa 5 chải của 5 xóm trong làng. Người trong làng cho rằng, chải của làng nào đua tài giành được giải nhất thì năm ấy cả làng sẽ làm 33
- ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn. Phát huy truyền thống anh dũng trong đấu tranh cách mạng, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, năng động, nhạy bén trong kinh doanh, ngày nay Diêm Điền đã trở thành một thị trấn biển sầm uất, một trung tâm kinh tế quan trọng của tỉnh. Bên cạnh đó, địa phương còn có tập đoàn đánh cá với những đôi tàu xa bờ đánh bắt dài ngày trên biển, mỗi năm đưa về hàng ngàn tấn tôm cá phục vụ cho 2 làng nghề chế biến hải sản Tân Sơn và Vĩnh Trà phục vụ tiêu dùng trong nhân dân và xuất khẩu ra nước ngoài. Quy mô bơi trải cũng vì thế mà thay đổi nhưng vẫn dựa trên nền bản sắc xưa, giữ được màu sắc văn hoá dân gian và được coi là lễ ra quân đầu năm của toàn thể cán bộ, nhân dân và các thành phần kinh tế, nhất là hai ngành kinh tế: khai thác và vận tải biển. Lễ hội bơi trải truyền thống 12 tháng giêng còn là điểm hẹn gặp mặt hàng năm của những người con trên đất biển Diêm Điền dù đang gắn bó với biển cả hay sinh sống trên khắp mọi miền tổ quốc, là nơi giao lưu gặp gỡ để các doanh nghiệp tìm hướng đi mới trong kinh doanh, là cơ hội để các nhà đầu tư đến với những môi trường đầu tư đầy tiềm năng và triển vọng. Vì thế, ngay từ buổi sáng sớm của lễ hội, trong khung cảnh cờ hoa rực rỡ hàng ngàn người dân địa phương, khách thập phương từ khắp nơi đã trở về đây, vào dâng hương tại nhà tưởng niệm. Các tay chèo của các trải bơi trong trang phục chỉnh tề sớm tề tựu tại cửa sông chuẩn bị cho cuộc đua. Khi Hiệu lệnh phát ra, các tay chèo dồn sức lên cánh tay chèo theo lệnh cờ sai, theo nhịp trống giục, mõ thúc, sục chèo, đẩy nước đẩy thuyền. Hàng trăm chiếc thuyền treo cờ đỏ cổ động, hàng ngàn ánh mắt ở hai bên bờ sông dõi theo từng nhịp chèo. Tiếng trống đánh liên hồi càng dồn dập, những làn điệu quan họ, điệu hát chèo hoà cùng với tiếng reo hò cổ vũ của người xem làm huyên náo, vang vọng cả một khúc sông. Các tay chèo ngày thường vốn là những thanh niên trai tráng, quanh năm bôn ba “ăn sóng nói gió” trên những chuyến vận tải biển, tàu đánh bắt xa bờ, nay lại về đây gặp mặt tranh tài, ai cũng nỗ lực hết mình, quyết tâm vững tay chèo, mạnh tay lái. Lễ hội bơi chải trên sông Diêm để lại biết bao lưu luyến, bồi hồi trong tâm khảm những người con đất biển Diêm và 34
- những du khách tham quan và mong muốn mùa xuân sang năm lại được sống trong không khí tiếng trống hội rộn rã, tiếng mõ thúc, tiếng hò chèo gợi nhắc một thời quá khứ hào hùng của cha ông và cầu chúc một năm mới bình an, hạnh phúc. Hội làng La Vân Làng La Vân xưa còn có tên là làng La Miên, thuộc tổng Quỳnh Ngọc, gồm hai thôn: Đồn Xá và thôn Thượng. Năm Thiệu trị Nguyên niên (1841) vì kiêng tên húy vua Hiến Tổ nhà Nguyễn, làng đổi tên là La Vân. Ngày nay, La Vân là một thôn của xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình- nơi nổi tiếng ở Châu thổ Bắc Bộ với nghề ương bèo hoa dâu vào thập niên 1970 trở về trước. Trên mảnh đất có bề dày lịch sử ấy, nằm giữa làng là quần thể di tích đình- đền- chùa La Vân. Trong dân gian, di tích này còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau như "Đền La Miên", "Đình Miên", "La Miên linh từ", "Bảo Long am từ", "Quốc sư từ" Vị Thánh tổ được thờ ở Đền La Vân là Quốc sư Nguyễn Minh Không. Ông tên thật là Nguyễn Chí Thành, quê làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ông là học trò của của sư Dương Không Lộ, Từ Đạo Hạnh và Giác Hải. Ông là một vị cao tăng triều Lý giỏi pháp thuật, trừ mọi tai ách cho thiên hạ, đã từng giữ chức Thái sư. Trong cuộc đời tu luyện Phật học và cứu nhân độ thế, sư Minh Không có nhiều công lao trong việc xây dựng chùa tháp, đặc biệt là đúc tượng- đỉnh của các công trình kiến trúc Phật giáo nổi tiếng ở nước ta thời Lý. Dân gian còn tôn ông là ông tổ nghề đúc đồng ở Việt Nam. Tục truyền rằng Thành hoàng làng là Uy Minh đại vương Lý Nhật Quang, con Lý Hành, em vua Lý Anh Tôn. Theo bản văn tế tại miếu (văn tế được sao từ nguyên bản năm 1886) cho biết còn một Thành hoàng khác tên là Thiên Đê đại vương- người có công "giáo dân dưỡng nghệ bình cầm" dạy cho dân ươm gây bèo hoa dâu, làm cho "dân khang vật thịnh". Hàng năm làng mở hội hai lần vào ngày mồng 4 tháng giêng và từ ngày 20 đến ngày 26 tháng 3 âm lịch. Trong sử sách không ghi chép chính xác ngày sinh của Quốc sư Nguyễn Minh Không- vị thánh tổ thờ ở đền. Tục truyền, ngày mồng 35
- 1 tháng 8 âm lịch mới là ngày mất của ông. Do vậy, thời gian mở hội và kết thúc hội không có liên quan gì tới vị thánh tổ thờ ở đền. Đình gắn liền với chùa trong quần thể kiến trúc di tích nên đình là nơi tế lễ Thành hoàng và cũng là nơi thờ thần, nhưng là hậu thần, không phải chính thần (chính thần là Thành hoàng). Hậu thần được tôn thờ ở đình là bà Vũ Thị Ngọc Tấn- người có công bỏ của ra tu sửa đình cũ; tu sửa xong, đến kỳ cầu phúc (tháng 3 âm lịch) bà tổ chức rước tổ Phật (Nguyễn Minh Không) ra đình trung xem hát chờ ngày "mãn tịch" rước về chùa. Sau này, con cháu lập khoán ước tạc bia, gọi đó là ngày "vui giỗ đình". Việc làm ấy được nhà vua đồng ý. Bà Ngọc Tấn sinh ngày 26 tháng 10, mất ngày 20 tháng 1 âm lịch, không rõ năm. Có lẽ vì thế mà dân làng chọn ngày mở hội (20) và kết thúc hội (26) vào tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ công ơn của bà đối với dân làng chăng? Lệ đó được duy trì cho đến ngày nay. Hội mùng 4 tháng Giêng ở La Vân là hội "trình nghề" với những hình thức diễn xướng dân gian độc đáo như một bức tranh thu nhỏ phản ánh xã hội xưa với đầy đủ thành phần sĩ, nông, công, thương Làng La Vân xưa có 7 giáp cùng chung lo tổ chức hội làng. Vào cuối tháng một đầu tháng chạp, các giáp trong làng vừa lo chuẩn bị tết Nguyên Đán, vừa tất bật đưa bèo giống ra ương, lại vừa lo lực lượng, phương tiện đua tài trong hội; nhưng chuẩn bị công phu nhất vẫn là việc chọn người và phương tiện ra dự trò tứ dân "sĩ- nông- công - cổ" trong ngày hội làng- đây là một trò trình nghề xuyên suốt các hoạt động hội. Trước tết nửa tháng, làng bầu chọn ông chủ hội, các giáp bầu chọn ông chiềng cờ. Chiềng cờ là người chịu trách nhiệm tổ chức cho các thành viên của giáp mình vào thi tài ở các lớp diễn. Sáng mồng 4 tết, dân làng xem hội đứng chật sân đình, chính giữa sân giành chỗ cho đội múa lân, múa cờ Bắt đầu hội là màn múa lân độc đáo, hấp dẫn giành được nhiều tình cảm của dân làng và dưới sự điều hành của ông chủ hội, 7 vị chiềng cờ của 7 giáp xuất hiện múa cờ một vòng quanh sân và đọc lời giới thiệu về 36
- giáp mình. Các thành viên trong giáp theo ông chiềng cờ ra tập trung ở giữa sân. Sau lời giới thiệu của ông chiềng cờ, các lớp diễn trò bắt đầu. Lớp trò "sĩ": ông thầy đồ mặc bộ quần áo trùng màu đen trông oai nghiêm, chân đi guốc mộc, một tay chống nách, tay kia cầm chiếc roi mây vừa đi vừa quất vào không khí nghe vun vút. Cậu học trò mặc bộ quần áo màu nâu với nhiều miếng vá chằng chịt, quần ống thấp ống cao, chân tay bê bết mực, nách cắp chiếc tráp xộc xệch chạy theo thầy; trên đường đi tỉnh thoảng lại đánh rơi sách, rơi bút, bị thầy quát, thầy đánh đòn, vừa nhặt vừa chạy vừa xoa mông cho đỡ đau. Thầy ngồi khoanh chân lên chiếc chiếu trải sẵn góc sân đình, sách để trên tráp, một tay mở sách, một tay quất roi; trò khép nép đứng bên. Thầy đọc trước, trò đọc theo; thầy đọc sai trò cãi, thầy đánh; thầy hỏi một đằng, trò trả lời một nẻo, những lúc như thế từng tràng cười giòn giã vang lên khuyến khích lớp diễn hấp dẫn. Góc sân đình bên cạnh là lớp trò "công" với vai ông thợ mộc. Bộ đồ nghề của ông thợ gồm cưa, đục, rìu Ông thợ cứ hì hục làm, khi thì đẽo một cái chày giã cua, khi thì cưa tre đóng một cái chuồng gà, lúc thì nhổ đinh, vừa làm vừa nghe tiếng đế theo của khán giả tạo ra không khí vui nhộn. Ở một góc sân khác, lớp trò "cổ" (hay "thương") diễn ra tấp nập giữa kẻ bán và người mua. Kẻ bán quẩy đôi quang gánh trong đó có đủ thứ: mắm, muối, rau củ, hoa quả, bánh trái đi rao, rao thế nào để gây cười và bán được càng nhiều hàng càng tốt. Tiếng người mua ngã giá, mặc cả, tiếng người bán chanh chua, ngoa ngoắt khi người mua trả giá quá rẻ đan xen lẫn nhau tạo ra nhiều tràng cười vui vẻ. Náo nhiệt nhất vẫn là lớp trò "nông". Trên một góc sân đình, một "mảnh ruộng" nhỏ đã được be bờ, tát nước và thả sẵn bèo hoa dâu. Đàn ông hóa trang thành bà cấy, đầu chít khăn mỏ quạ, mặc yếm đào, độn ngực, váy cuốn cao như các cô thôn nữ đi làm đồng. Người nữ đóng ông thợ cày đầu chít khăn mỏ rìu, vác cày hoặc bừa làm bằng bẹ chuối và lá dọc dừa, quần xắn cao quá đầu gối, tay cầm roi tre, vừa đi vừa quát "trâu". Người đóng vai "trâu cày" là khổ nhất, đi phải cúi khom lưng, thỉnh thoảng lại 37
- bị ông thợ cày quất cho một roi vào mông vì không cày thẳng hàng. Đầu "trâu" làm bằng chiếc gầu giai phất giấy màu đen, thân "trâu" là chiếc bồ. Khi bị đánh "trâu" lồng lên té ướt cả bà cấy và người xem, có lúc "trâu" tỏ ra ngoan ngoãn, thong thả bước, có lúc còn trêu ghẹo "cắn" vào mông bà cấy, bà cấy giật mình chạy té ướt mọi người; mấy ông vạc bờ cuốc góc thỉnh thoảng lại ve vãn bà cấy gây cười, hoặc đối đáp hát ví von. Trước đây, trò diễn có chấm giải, chủ yếu dựa vào sự chuẩn bị công phu và tính hài hước của từng trò mà đánh giá. Nay trò diễn không chấm điểm, không xếp hạng nhưng giáp nào cũng lo chuẩn bị công phu, độc đáo để còn nhận được tiếng thơm của dân làng và trò diễn luôn được thôn La Vân 1-2-3 duy trì đều đặn và nhận được sự cổ vũ nhiệt tình của dân làng. Hoạt động hội từ 20 đến 26 tháng ba âm lịch đã trở thành sức sống mãnh liệt trong mỗi dịp làng mở hội. Trong hội có rất nhiều các nghi lễ cổ, các trò chơi, trò diễn dân gian hết sức phong phú như tục rước tế, chơi cờ người, tổ tôm điếm, chọi gà, đấu vật thu hút sự tham gia của dân làng và các du khách gần xa. Sau màn múa lân, múa rồng rộn rã, lễ rước Thành hoàng làng về dự hội được tiến hành . Đám rước được bắt đầu từ hậu cung đình ra miếu và chùa cổng sau đó trở về đình làm lễ. Đường đi của đám rước theo một vòng quanh làng. Đội múa lân đi trước dọn đường, kế là đội cờ, phường bát âm, đoàn người mang cờ, trống, đồ bát bảo, nhang án, võng lọng. Tiếp đến là kiệu Thánh (Nguyễn Minh Không), kiệu Thần, kiệu Quan, kiệu Phật, kiệu Mẫu, đoàn quân hội múa kéo chữ, đoàn hành lễ, đoàn đại biểu và dân chúng dự hội. Các vị trong đội tế chân đi hia, đầu đội mũ cánh chuồn, quần áo tế sặc sỡ, đủ màu sắc. Đám rước đi một đường, về một đường, đi trong tiếng chiêng, tiếng trống vang động, tiếng nhạc của phường bát âm rộn rã cùng tiếng người dự hội tạo nên không khí sôi động, nhộn nhịp. Sau khi đi vòng đường làng, qua những bờ ngô bãi mía xanh tươi, đám rước trở về đình. Trên sàn tế, chính giữa đình nghi lễ được bắt đầu. Kiệu và tượng Thánh được đặt vào vị trí trang trọng nhất tại đình. Kế theo là lễ dâng hương nghiêm cẩn 38
- để tế Thánh. Lễ vật tế Thánh ngoài hương, nến, trầu cau, rượu, mâm ngũ quả còn có một mâm xôi trắng và sỏ lợn. Trong đình làng khói hương nghi ngút, người trong làng, khách thập phương ra vào lễ Thánh tấp nập cầu chúc năm mới nhiều may mắn, người khang, vật thịnh, mưa thuận gió hòa ngoài sân đình các trò chơi, trò múa kéo chữ, trò diễn dân gian như chơi cờ người, đấu vật, đua thuyền, chọi gà, đánh đu cũng đồng thời được tiếp diễn. Người ta đua nhau vui chơi, thi thố tài năng để giành giải thưởng, thử vận may. Chiều ngày 26 tháng ba, dân làng tổ chức rước kiệu Thánh từ đình về miếu và làm lễ yên vị, kết thúc một mùa hội tưng bừng, náo nhiệt trong sự cộng cảm, hào hứng của hàng ngàn người lao động trong vùng và du khách thập phương. Bao hàm những nội dung mang tính lịch sử và văn hóa truyền thống, hội làng La Vân đã và đang được phát huy tác dụng tích cực trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở một vùng quê lúa. Hội đền Đồng Bằng Đền Đồng Bằng xã An Lễ (Quỳnh Phụ-Thái Bình) là nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, người có công lớn trong việc bình thục giữ nước và chiêu dân lập ấp xây dựng giang sơn xã tắc từ buổi sơ khai. Đền có sắc phong: Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương Thượng Đẳng Thần (vào đời Vua Hùng thứ 18). Tới thời Tiền Lê, đền được xây dựng mở rộng thành năm cung và bốn ban thờ Công Đồng khang trang và được liệt vào “Tứ cố cảnh”. Từ cuối thế kỷ 13, đền Đồng Bằng còn là nơi tưởng niệm Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng các danh tướng Hoàng thân Quốc thích nhà Trần trong 3 lần đại phá quân Nguyên Mông và lập nên 8 trang Đào Động xưa. Đã thành thông lệ, hàng năm đền Đồng Bằng khai hội vào ngày 20/8 (âm lịch). Trong lễ hội ngoài phần “lễ” là các nghi lễ tế thần, dâng hương, diễn lại tích xưa vua cha đi đánh giặc, còn phần “hội” cũng diễn ra khá sôi động với những trò chơi mang đậm tính dân gian như: hát văn, kéo co, bơi trải, chọi gà, cờ tướng thu hút rất đông người dân tham gia. Đến với lễ hội, du khách không chỉ bái vọng mà còn được tham quan, chiêm 39
- ngưỡng nhiều đồ tế khí có giá trị, cùng các bài vị từ thời Nguyễn, những công trình kiến trúc đồ gỗ độc đáo như: cuốn thư, hoành phi, câu đối, đại tự từ thời Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn. Trải qua thăng trầm của lịch sử, giặc dã tàn phá song đền vẫn giữ được nét xưa. Quần thể di tích đền Đồng Bằng gồm 1 đền chính (đền Đức Vua) và 5 đền nhỏ khác: đền Sinh, quan Đệ Nhị, quan Đệ Tam, quan Điều, quan Đệ Bát trong khuôn viên rộng 11.000m2. Từ khi được Bộ Văn hoá thông tin cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1986, đền đã được các cấp uỷ đảng, chính quyền cùng du khách phát tâm, góp công tôn tạo di tích ngày càng uy nghi, tráng lệ. Mỗi năm đền đón hàng chục vạn lượt khách thập phương trong và ngoài nước đến thăm quan, chiêm bái dự hội, đóng góp hàng tỷ đồng cho ngân sách địa phương. Các ban ngành chức năng đang quan tâm đầu tư xây dựng gắn lễ hội Đồng Bằng với tuyến du lịch làng nghề chiếu cói trong vùng trong thời gian tới. Hội Sáo Đền - một lễ hội thả diều độc đáo Về Thái Bình người ta thường chỉ biết đến hội chùa Keo, ít ai biết được trên đường đi hội chùa Keo còn có một lễ hội khá độc đáo còn tồn tại đến ngày nay- đó là hội Sáo Đền. Hội Sáo Đền diễn ra từ ngày 20 đến 27 tháng 3 hàng năm tại xã Song An, huyện Vũ Thư. Những ngày diễn ra lễ hội bà con địa phương cùng du khách thập phương về với lễ hội trong niềm vui hân hoan. Vì về nơi đây người ta còn tìm về một trong những cái nôi của làn điệu chèo ngọt ngào nổi tiếng. Sáo Đền được biết đến với trò chơi thả diều độc đáo. Cũng như mọi lễ hội khác, ngoài phần lễ là phần hội. Phần hội với đủ các trò chơi như: chọi gà, cờ người, bắn cung, bắt vịt và trò thi diều sáo. Đã từ hàng trăm năm nay luật chơi không hề thay đổi. Người chủ diều chọn đúng hướng gió kéo dây. Ban tổ chức cắm hai cây sào trên đầu có buộc hai lưỡi mác rất bén, cắm hai cây sào đó hai bên dây diều, khoảng cách của hai cây sào là 50cm. Việc đó được làm với tất cả cánh diều nào vào cuộc thi. Khi nghe hồi trống lệnh nổi lên, các chủ diều chỉnh diều kéo căng dây và đâm lên. Cánh 40
- diều nào không chuẩn đảo qua đảo lại, dây diều sẽ chạm phải hai lưỡi mác trên hai ngọn sào là đứt dây ngay. Như vậy cánh diều đó bị loại khỏi cuộc chơi, cứ thế diều nào đậu được đến ngày cuối cùng của hội thì chủ diều đó đoạt giải. Những người cao tuổi trong làng cho biết: mỗi năm chỉ duy nhất một người đoạt giải, có năm không có ai đoạt được giải diều. Thi diều phải nhờ ở gió trời, vậy mà có năm vào ngày hội mà không có gió trời hoặc gió không đủ mạnh để đâm diều sáo, đến ngày 25 mà vẫn không có gió, sáng 26 là chính hội gió chỉ hiu hiu. Mọi người đến với lễ hội đã biểu hiện tâm trạng buồn vì có lẽ năm nay không được thi và xem thi thả diều. Nhưng đúng 11 giờ 15 phút trưa ngày 26 năm đó bắt đầu có từng cơn gió và sang đầu chiều gió đã đủ để tổ chức hội thi diều. Quả thực điều này khiến nhiều người phải ngạc nhiên, khó giải thích, theo các cụ nói đó là ''gió thần'', vậy là nhờ ''gió thần'' hội Sáo Đền không năm nào bị gián đoạn. Diều được giải nhất ngoài việc đậu đến hết hội ở giữa hai lưỡi mác thì sáo diều phải thật hay. Sáo hay là bộ sáo gồm 2 sáo trở lên, tiếng sáo trong trẻo, âm thanh giữa các sáo trong bộ sáo phải phối hợp cho nhau hài hoà, ngọt ngào, du dương Nói về sáo, ngày xưa chơi diều còn buông bằng dây tre, làm cánh diều khung bằng 4 cây tre nối lại. Bộ sáo của chiếc diều có 2 chiếc. Chuyện còn kể lại rằng khi diều bổ xuống cánh đồng, chủ diều chưa kịp mang về, có người ăn xin đã chui được lọt vào chiếc sáo to của diều đó ngủ. Câu chuyện này được người dân nơi đây lấy làm tự hào và luôn kể cho khách thập phương về dự lễ hội. 2.2.2.5. Đặc sản địa phương Ổi Bo Thái Bình nổi tiếng là quê hương của trái ổi Bo. Đã từ lâu, ổi Bo Thái Bình đã trở nên quen thuộc với mọi người không chỉ đối với những người con sinh ra ở đất Thái Bình mà còn được biết đến ở nhiều tỉnh thành khác. Ổi Bo đã trở thành "đặc sản” được nhắc đến trong văn hoá ẩm thực của người Thái Bình. 41
- Ổi thì dường như ở miền quê nào cũng có, nhưng ổi Bo Thái Bình không bị hoà trộn với bất cứ loại ổi nào, bởi dường như nó đã hội tụ những gì tinh tuý nhất của đồng đất và con người quê hương Thái Bình. Những ai đã từng một lần thưởng thức ổi Bo hẳn sẽ rất ấn tượng với vị thơm ngọt man mát, cùi dầy, ít hạt, thơm dòn. Quả ổi Bo cũng có nhiều loại: có loại quả nhìn giống như quả cam dẹt, có loại quả lại như quả lê (hay quả đu đủ nhỏ), lại có quả giống như quả găng có năm múi và năm khe. Nhưng chất lượng và vị ngon của giống ổi Bo chính hiệu - tức là loại quả được trồng trên đất nguyên thổ của làng Bo, với chất đất phù sa nhẹ tốt, mỗi năm chỉ cho thu hoạch một vụ vào tháng 7 hằng năm thì không giống ổi ở đâu sánh bằng. Cũng là giống ổi Bo nhưng khi trồng ở vùng đất khác, quả không được thơm ngon mà thường thì chát hơn, rắn hơn và không to. Cây ổi Bo cũng thể hiện nét riêng đặc biệt của mình đối với người trồng và thưởng thức nó: khi hái ổi phải hái bằng nèo không được trèo lên cây, và cành ổi cũng không được rũ xuống gần đất có như vậy ổi mới không bị chua. Khi ăn ổi Bo không nên dùng dao để cắt như vậy ăn miếng ổi sẽ thấy chua, phải ăn một cách bình dị dân dã là dùng răng và cắn vào thịt quả ổi thì mới cảm nhận được hương vị đặc trưng của nó. Đầu tiên là thấy vị chát, sau là chua dịu, rồi vị ngọt thấm dần vào đầu lưỡi, vào khoang miệng và lưu lại trong cổ họng. Chính những hương vị đặc trưng đó, mà ổi Bo đã trở thành một thứ đặc sản mang đậm hồn quê, như nhắc nhở những người xa luôn nhớ về quê lúa Thái Bình. Bánh cốm Thanh Hương Dù ai đó không thích đồ ngọt đi chăng nữa, nhưng đã nếm bánh cốm Thanh Hương một lần hẳn nhớ mãi hương vị. Những hạt nếp xanh màu lá lúa, thơm nức, ngọt ngào, từ bao đời làm nên thứ bánh ''quốc tuý, quốc hồn'' dân tộc là bánh chưng, bánh dầy. Cái tinh tuý của hạt gạo mới ấy thời kinh tế thị trường vẫn có cơ hội nổi trội giữa trăm ngàn loại bánh ngon, của lạ trong ngoài nước. Bánh cốm Thanh Hương, thành lễ vật ngày ăn hỏi, chạm ngõ nối duyên chồng vợ. Thưởng thức món quà từ hạt gạo quê, 42
- nào mấy ai biết rằng, những hạt cốm đó lại có xuất xứ từ làng Thanh Hương, xã Đồng Thanh (Vũ Thư), một xã nằm ven sông Hồng êm ả, vốn thanh bình như tên gọi. Mỗi rằm tháng 8 đón tết Trung thu, mỗi gia đình trong làng đều không thể thiếu đĩa cốm xanh gói lá sen ăn với chuối tiêu trứng cuốc, hay chục hồng Thanh Hương khi ngắm trăng rằm lồng lộng. Tháng 10 mùa gặt nếp cái hoa vàng, tiếng chày giã cốm rải hương lúa mới khắp làng. Quanh năm, chồng cày, vợ cấy, mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày, đón tay hạt cốm thơm lành cũng là đón mùa vàng no ấm. Muốn có cốm dẻo ngon, không thể không kén thóc. Nhà nào cấy nếp, thợ làm cốm đến xem tận ruộng, trả giá rồi định ngày gặt. Vì quen nghề, nên phải gặt lúc thóc vừa đỏ đuôi. Non quá khó giã bết dính, già quá, khi rang thóc nở thành nẻ. Gặt về, tuốt thóc đem đãi sạch sẽ, hạt lép, đem rang bằng chảo gang vũm lòng, đun bằng củi. Rang xong cho ngay vào cối giã, rồi sàng sảy sạch. Để tạo màu xanh của hạt cốm có nhiều cách, nhưng chủ yếu vẫn là dùng lá cơm nếp, lá lúa, lá gừng hoặc lá cau, giã lấy nước cốt rồi hoà vào cốm, đảo đều tay. Thóc già đã phơi nỏ, đem về ngâm nước lã hoặc nước ấm tay trong một đêm. Vớt ra thúng hoặc rá cho ráo nước. Mỗi mẻ rang không nhiều, chỉ miệng bơ đong gạo 8 lạng là vừa. Chảo rang đặt trên bếp than, phía trên chảo có dụng cụ cải tiến, đảo liên tục cho thóc chín đều. Khi nào nghe thấy tiếng nổ tách tách của hạt thóc là xúc ra cho vào máy giã. Cần cối làm bằng gỗ nhóm 4, nhóm 5, có bộ phận cắm điện, để cối giã tự động. Một người ngồi đầu cối dùng 1 đĩa sắt tây đảo liên tục. Sau khi giã cho vào máy gần giống máy sát, thổi hết vỏ trấu và loại các phôi thóc. Để tạo ra thành phẩm sạch hơn, còn phải sàng sảy hoàn toàn thủ công. Từng đó công đoạn mới cho ra hạt cốm mộc, không nhuộm màu. Nếu chủ hàng cần cốm màu vàng thì nhuộm nước dành dành, nghệ, cốm màu xanh dùng màu thực phẩm. Tốt nhất vẫn là dùng nước cốt của lá nếp để nhuộm, vừa thơm vừa dẻo và an toàn. Với gần 100 hộ gắn bó với nghề làm cốm quanh năm và chuyên tráng bánh cuốn, làm đậu, làng Thanh Hương nay đã và đang vươn lên thoát khỏi đói nghèo từ chuyển đổi cây trồng vật nuôi, khôi phục nghề truyền thống. 43
- Thanh Hương được công nhận là làng nghề chế biến lương thực năm 2004. Trên trục đường về UBND xã, xuất hiện ngày càng nhiều những ngôi nhà cao tầng kiểu dáng Thành phố của những đại lý nghề cốm Cấp uỷ, chính quyền và nhân dân ở đây rất mong huyện và ngành chức năng của tỉnh giúp bà con xây dựng thương hiệu cho hạt cốm Thanh Hương, để hạt gạo nếp thơm của quê nhà được khách xa gần biết đến. Bánh Cáy Từ các sản vật nông nghiệp dễ có đến hàng nghìn loại bánh, kẹo hoặc hơn nữa được làm ra ở các vùng quê Việt Nam. Bánh chưng, bánh dầy thì đã trở thành bánh của cả dân tộc. Nhưng cũng có những loại bánh được gắn liền với từng vùng quê nơi sinh ra nó như: bánh đậu xanh Hải Dương, mè xửng Huế, bánh phu thê, bánh xèo, kẹo dừa, kẹo cu đơ. Bánh cáy cũng là một loại bánh dân dã mà ngoài quê lúa Thái Bình thì chưa thấy ở đâu có. Ngay cả ở trong tỉnh Thái Bình, chỉ bánh cáy được làm bởi những nghệ nhân làng Nguyễn (huyện Đông Hưng) mới là loại ngon nhất và có tiếng nhất. Từ thành phố Thái Bình theo quốc lộ 10 tới thị trấn Đông Hưng, rẽ trái sang quốc lộ 39, đi một đoạn là tới làng Nguyễn quê hương của bánh cáy. Làng Nguyễn rất nổi tiếng với các sản phẩm của nghề dệt, nghề chế biến thực phẩm song đồ quí tiến vua thì chỉ có bánh cáy. Các cụ già trong làng kể lại: ngày xưa khi quan đại thần triều đình đi kinh lý vùng châu thổ, khi qua làng Nguyễn được dân dâng lên tiến vua vào mỗi dịp tết đến. Làm bánh cáy khá phức tạp. Nguyên liệu chính của bánh cáy là gạo nếp, nhưng các nguyên liệu phụ thì rất nhiều như: gấc, quả hoặc là lá dành dành, lạc, vừng, cà rốt, gừng, vỏ quýt, mỡ lợn. Gạo nếp làm bánh được chia làm hai phần, một phần đồ xôi với nước quả gấc tạo nên màu hồng thắm; phần còn lại đồ xôi với nước quả dành dành tạo nên màu vàng tươi. Hai loại xôi này đều được giã bằng chày như làm bánh giầy. Sau khi giã nhuyễn 44
- đều, cán mỏng, cắt thành lát như mứt bí rồi sấy khô. Sấy xong cho vào chảo mỡ lợn đang sôi đảo đều tới khi lát bánh thơm giòn. Các nguyên liệu phụ như lạc, vừng được rang chín ròn, xát bỏ vỏ. gạo nếp hoa vàng được rang nổ bỏng, nở tung, sạch trấu, dậy mùi thơm. Mỡ lợn khẩu muối đường hơn nửa tháng, đem ra thái nhỏ như hạt lựu, xào ngọt lấy độ trong, giòn. Cà rốt xào nước đường, nước gừng, vở quýt tươi được chuẩn bị đầy đủ. Cho các nguyên liệu đã chuẩn bị trộn đều với đường mía, hâm nóng trên chảo đến khi đạt tới mùi thơm kỹ thuật thì đưa vào khuôn gỗ được chuẩn bị sẵn có lót vừng bên trong, nhồi nén cho bánh trở nên cứng, sau đó lấy ra cho vào bao bì, ta sẽ được bánh cáy thành phẩm. Bánh không phơi nắng, không sấy qua lửa nhưng để được rất lâu nếu làm đúng kỹ thuật. Nghe tên bánh cáy nhiều người ngỡ đây là loại bánh làm từ con cáy biển, nhưng không phải. Bánh cáy được làm hoàn toàn bằng gạo nếp, lạc, vừng và các gia vị cũng như các loại hoa lá để tạo mầu cho bánh. Dân gian có truyền thuyết rằng loại bánh này là do thần cáy biển ban cho. Thuở ấy, cả một vùng phía tây tỉnh Thái Bình vẫn còn là những bãi lầy ven biển. cửa biển Đan Nhai cách không xa làng Nguyễn là mấy Không biết truyền thuyết kia đúng được bao nhiêu phần nhưng nếu nhìn kỹ lát bánh cáy, những màu vàng trắng xen lẫn hồng cam cho ta cảm giác nó giống như trứng cáy. Cũng có thể đây là lý do mà loại bánh cổ truyền này có tên là bánh cáy. Nhưng có lẽ do loại bánh cổ truyền này có vị hơi cay khi ăn nên gọi là bánh cay, rồi dần dần gọi lệch sang thành bánh cáy. Những hôm tiết thời se lạnh, có đĩa bánh cáy xắt miếng, ăn nhẩn nha bên ấm trà xanh nóng thì thật tuyệt vời. Cảm giác ngọt, bùi, béo đan chen độ giòn lép xép, độ dẻo, độ dai mềm mại, người ăn thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Vị gừng hơi cay, nhưng nóng làm cho người ăn cảm giác như khỏe ra, tiết trời như ấm lại. Những món ăn truyền thống, những sản vật địa phương sẽ rất hấp dẫn với du khách tham gia du lịch nông thôn. 45
- Canh cá Quỳnh Côi Canh cá Quỳnh Côi là món ăn dân tộc, dân dã mang hương vị thơm ngon của vùng quê Quỳnh Côi Thái Bình. Xưa cư dân địa phương chỉ làm canh cá. Món bánh đa nghe chừng đơn giản, nhưng đúng bánh đa Quỳnh Côi phải là thứ bánh sợi nhỏ mà đều tăm tắp, và cái màu trong suốt của bánh khi nấu lên lại trở màu trắng tinh, giòn dai và thơm thơm mùi gạo Người Quỳnh Côi có nghề làm bánh đa, đó là những chiếc bánh đa gạo tròn to đem nướng giòn chia cho trẻ con hay bánh đa thái sợi, phơi khô để nấu món ăn với thịt, cá, tôm Bánh đa Quỳnh Côi là bí quyết nhà nghề ít nơi nào sánh được, sợi nhỏ đều tăm tắp, chỉ nhỉnh hơn chiếc tăm tre một chút, được phơi khô có màu trong suốt. Thế rồi khi nấu, sợi bánh nở ra màu trắng tinh, giòn dai và thơm thơm mùi gạo. Thứ bánh đa này là nguyên liệu quan trọng làm nên hương vị món bánh đa cá Quỳnh Côi. Cũng cá, cũng rau, cũng chừng ấy gia vị nhưng không có bánh đa Quỳnh Côi thì món canh bánh đa chưa ra chất đặc sản. Những sợi bánh trắng ngần ấy không dễ kiếm ở các đô thị lớn, cũng không hiện diện trong nhà hàng, khách sạn, chỉ có chợ quê mới tìm được, lại rẻ như một thứ thức ăn bình dân. Nguyên liệu chính của món ăn này là cá quả hoặc cá trắm, trắm đen càng ngon. Người ta đem làm sạch, lóc phần thịt nạc, khéo léo lách bỏ xương, rồi đem thái thành miếng dày chừng hơn nửa phân, ướp với chút nước mắm ngon, tiêu bột và nước cốt nghệ. Để đạt hương vị của món ăn, nhất thiết phải dùng nghệ tươi giã nhuyễn bỏ xác chứ không phải thứ bột nghệ người ta bán sẵn ngoài chợ. Cá được tẩm ướp chừng nửa giờ cho thấm, khi xong lại được cho lên vỉ nướng qua than hoa cho thơm và chín tới, sao cho lớp vỏ ngoài vừa se lại, thịt cá bên trong vừa chín thì bỏ ra khỏi vỉ đem chiên lên tới khi vàng sẫm. Để miếng cá vừa giòn, vừa dai, vừa thơm, chan nước không bị nhũn ra mà giữ nguyên được độ thơm ngon của cá người ta phải nướng lên trước khi rán. Phần cá dính chút xương vây, người ta đem băm nhuyễn với hành khô, tiêu và ớt quả tươi, nhuyễn đến độ xương không còn lạo xạo mà quyện vào với thịt cá. Khi cá đã nhuyễn, người ta 46
- nặn thành từng viên chả đem chiên vàng hai mặt. Chả chiên xong mỏng và xốp, giòn giòn, thơm cay rất đặc trưng. Phần đầu và xương sống cá được ninh để lấy thứ nước dùng trong và ngọt đậm đà. Thêm ít rau gia vị là hành lá, thìa là, rồi cứ mùa nào thức nấy khi thì thêm rau rút vào mùa nóng, khi thì thêm rau cần hoặc rau cúc tần vào mùa lạnh. 2.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình 2.3.1. Giới thiệu một số chương trình du lịch nông thôn đang được khai thác ở tỉnh Thái Bình. Chương trình 1: THÀNH PHỐ THÁI BÌNH - VŨ THƯ - THÀNH PHỐ THÁI BÌNH (2 ngày, 1 đêm) Ngày1: 08h00: Xuất phát tại Thành phố Thái Bình, tới thăm DTLSVH Chùa Keo - công trình kiến trúc nghệ thuật bằng gỗ độc đáo tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thế kỷ XVII, gác chuông chùa Keo là biểu tượng vĩnh hằng cho văn hoá Thái Bình. 14h30: Thăm quan Làng vườn Bách Thuận, làng nghề trồng dâu - nuôi tằm - dệt vải. Trên đường về Thành phố ghé thăm đình - đền Bổng Điền thờ Quế Hoa (nữ tướng thời Hai Bà Trưng). 18h00: Ăn tối, tự do dạo chơi dọc sông Trà Lý thơ mộng, ngắm cảnh Thành phố về đêm, nghỉ tại Khách sạn Ngày 2: 08h00: Tham quan Bảo tàng tỉnh, Quảng trường Nguyễn Đức Cảnh, sau đó ghé thăm chùa Tiền. 14h00: Tham quan Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh - xã Tân Hoà, Làng nghề thêu Minh Lãng, mua sắm quà lưu niệm. 17h00: Trở về, kết thúc chuyến đi. 47
- Chương trình 2: THÀNH PHỐ THÁI BÌNH - HƯNG HÀ - THÀNH PHỐ THÁI BÌNH (2 ngày, 1 đêm) Ngày 1: 08h00: Khởi hành tới thăm DTLSVH đền Tiên La - thờ nữ tướng anh hùng của thời Hai Bà Trưng - Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục. 13h00: Thăm quan Khu mộ cổ các Vua Trần - mảnh đất Thái Đường xưa - nơi phát tích, đất lăng mộ tôn miếu của một dòng họ, một triều đại hơn 700 năm về trước đã làm vẻ vang lịch sử phong kiến nước nhà. 15h30: Thăm làng nghề chiếu Hới - nơi phát triển nghề dệt chiếu từ thế kỷ X, thăm đền Quan Trạng - thờ Quan Trạng Phạm Đôn Lễ (Thế kỷ XV) - người có công lao lớn canh tân kỹ nghệ dệt chiếu cổ truyền của làng. 18h30: Ăn tối, nghỉ tại Khách sạn. Ngày 2: 08h00: Tham quan Nhà lưu niệm Bác Hồ, Từ đường Lê Quý Đôn - nhà bác học lỗi lạc lớn nhất Việt Nam thế kỷ XVIII. 14h00: Tham quan Làng nghề dệt Phương La, mua sắm đồ lưu niệm. Sau đó trở về kết thúc chuyến tham quan. Chương trình 3: THÀNH PHỐ THÁI BÌNH - QUỲNH PHỤ - ĐÔNG HƯNG - THÀNH PHỐ THÁI BÌNH (1 ngày) 08h00: Thăm Khu DTLSVH đền Đồng Bằng - một bảo tàng mỹ thuật điêu khắc gỗ đầu thế kỷ XX, thăm khu di tích A Sào và Khu sinh thái Miễu Sổ - một khu rừng nguyên sinh giữa đồng bằng. 11h00: Ăn trưa, thưởng thức đặc sản canh cá Quỳnh Côi. 14h00: Ghé thăm Làng kháng chiến và múa rối nước Nguyên Xá (làng Nguyễn): thưởng thức nghệ thuật múa rối nước với các tích trò hấp dẫn, hơn nữa du khách còn được thưởng thức Bánh Cáy - món quà đặc sản độc đáo mang hương vị của làng quê 48
- truyền thống Thái Bình. Sau đó quý khách có thể tới thăm làng Khuốc, thưởng thức chiếu chèo - một loại hình sân khấu truyền thống của người Thái Bình. Chiều tối trở về, kết thúc chương trình tham quan. 2.3.2. Đánh giá về tiềm năng và thực trạng khai thác du lịch nông thôn tại Thái Bình. Điểm mạnh Điểm yếu Thái Bình là tỉnh có rất nhiều tiềm - Cơ sở vật chất kĩ thuật ở nông thôn còn năng để phát triển du lịch nông thôn: chưa phát triển. Đường sá váo các làng quê - Vị trí địa lý thuận lợi trong giao tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn nhiều lưu kinh tế và mở rộng hành lang nơi gây khó khăn trong việc đi lại, tham liên kết kinh tế và du lịch với hầu quan. hết các trung tâm kinh tế, du lịch - Nhân lực phục vụ du lịch ở các làng quê trong toàn quốc và một số nước trình độ còn kém trong khi nhân lực chưa Đông Nam Á. qua đào tạo thì lại đang thừa. Tỷ lệ đội ngũ - Thái Bình nổi tiếng là vùng đất đai cán bộ được đào tạo đúng chuyên ngành phì nhiêu màu mỡ, nông nghiệp phát chưa cao, đội ngũ hướng dẫn viên tại một triển đạt được năng suất cao. số điểm du lịch chưa được đào tạo bài bản. - Cư dân cần cù, chất phác và mến - Vệ sinh môi trường tại các làng quê còn khách. kém. - Hệ thống chính trị ổn định, điểm - Chưa tạo ra được thương hiệu cho du lịch đến an toàn. nông thôn ở địa phương. - Thái Bình có nhiều làng nghề nổi - Các dịch vụ phục vụ du lịch tại các điểm tiếng và có truyền thống lâu đời du lịch còn ít và không đạt chất lượng - Thái Bình còn là quê hương của - Các sản phẩm du lịch còn chưa đa dạng, hát chèo và múa rối nước phong phú về mẫu mã, chủng loại nên - Ở đây có rất nhiều những lễ hội không thu hút được nhu cầu mua sắm của truyền thống và di tích lịch sử. khách du lịch. 49
- - Những món ăn truyền thống, - Sự liên kết giữa các doanh nghiệp kinh những sản vật địa phương như: ổi doanh du lịch và chính quyền địa phương Bo, bánh cáy, cốm rất thu hút chưa chặt chẽ. khách du lịch. - Vốn ngân sách dành cho đầu tư phát triển hạ tầng du lịch gặp nhiều khó khăn. - Cơ chế ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh du lịch còn chưa phù hợp. - Sự phối kết hợp giữa các ngành, địa phương trong việc quản lý, phát triển hoạt động du lịch chưa chặt chẽ, đồng bộ. Thời cơ Thách thức - Trong những năm gần đây, loại - Nhu cầu của khách hàng luôn luôn thay hình du lịch nông nghiệp rất được đổi, rất phong phú. Vì vậy luôn đòi hỏi phải khách du lịch quan tâm đặc biệt là đổi mới sản phẩm để đáp ứng kịp thời nhu du khách nước ngoài. cầu của khách du lịch. - Du lịch ngày càng được nhà nước - Cơ sở vật chất kĩ thuật ở các làng quê đòi và chính quyền địa phương quan hỏi sự đầu tư một nguồn vốn lớn. tâm, là một trong những ngành kinh - Đã có rất nhiều nước, nhiều tỉnh thành tế mũi nhọn, đặc biệt những làng trong cả nước phát triển thành công du lịch quê ngày càng được quan tâm đưa nông thôn nên thị trường khách du lịch vào khai thác du lịch. nông thôn ở Thái Bình không còn nhiều. - Sự đa dạng của một sản phẩm: mỗi - Môi trường nông thôn đang dần bị ô một làng quê, mỗi vùng mang một nhiễm gây ảnh hưởng rất lớn đến sự bền vẻ đẹp riêng, một nét văn hoá riêng vững của du lịch nông thôn. biệt vì vậy có thể đáp ứng tốt hơn - Các điểm di tích lịch sử có dấu hiệu nhu cầu rất đa dạng của khách du xuống cấp nhưng nguồn vốn dành cho đầu 50
- lịch. tư, tôn tạo chưa nhiều nên việc nâng cấp để bảo tồn các di tích lịch sử còn chậm. Việc phối hợp giữa khai thác và bảo tồn di tích chưa được nhịp nhàng. Thái Bình là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nông thôn và hiện nay các chương trình du lịch nông thôn cũng đang được khai thác trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, du lịch nông thôn của tỉnh vẫn chưa thực sự phát triển. Để làm được điều này, chúng ta cần phải thực hiện rất nhiều biện pháp. 51
- Chương III. Định hướng, giải pháp và kiến nghị để phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình 3.1. Định hướng phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình 3.1.1. Phát triển du lịch nông thôn gắn với phát triển cộng đồng Phát triển du lịch nông thôn phải đi đôi với hoạt động chú trọng vào việc nâng cao đời sống người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Du lịch nông thôn phải được quy hoạch và quản lý với sự tham gia, ủng hộ và nhất trí của các cộng đồng địa phương, trong đó đảm bảo rằng hoạt động du lịch được tiến hành phù hợp với các nguyện vọng và giá trị của cộng đồng và hoạt động du lịch cũng phải được lồng ghép vào đời sống kinh tế và các hệ thống hành chính của địa phương ở mức độ hợp lý và phù hợp với các mục tiêu phát triển đề ra tại địa phương. Theo đó phát triển du lịch nông thôn phải theo hướng tạo điều kiện cho những hộ gia đình nông dân, ngư dân thành chủ thể cung cấp dịch vụ cho hoạt động du lịch làng quê. Thông qua những hoạt động đó các hộ gia đình có thể sử dụng được các lao động dư thừa lúc nông nhàn, khai thác phát huy được giá trị sử dụng của các cơ sở vật chất hiện có, bán và tiêu dùng được các nông sản và các sản phẩm khác, từ đó người dân địa phương có thêm thu nhập, nâng cao được mức sống, góp phần cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho cộng đồng. Điều đặc biệt quan trọng là hình thức và quy mô của hoạt động du lịch nông thôn phải phù hợp với môi trường và đời sống tại địa phương. Để xác định được điều này đòi hỏi phải: xác định những mong muốn và ưu tiên của địa phương, đánh giá tạm thời sức tải hay mức độ thay đổi mà địa phương có thể chấp nhận được; xác định mức độ dự kiến sẽ lồng ghép du lịch vào các hoạt động cộng đồng và xác định vấn đề quản lý và sử dụng đất tại địa phương. Xem xét các mối quan ngại và nguyện vọng của 52
- địa phương và thảo luận những tiềm năng và khó khăn tiềm ẩn là những việc cần thiết để xác định triển vọng phát triển du lịch và xây dựng sự đồng thuận của cộng đồng. 3.1.2. Phát triển du lịch nông thôn gắn với việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của làng quê Việc đề cao và bảo tồn các giá trị văn hóa, truyền thống và tín ngưỡng của địa phương có vai trò quan trọng đối với việc phát triển du lịch nông thôn cũng như đối với các cộng đồng địa phương. Một khi các cộng đồng làm mất đi những điều khiến họ trở nên đặc biệt thì sự độc đáo của họ bị giảm đi và nguồn du lịch của họ bị cạn kiệt. Sự phụ thuộc lẫn nhau về quyền lợi này sẽ khiến mọi người phải sử dụng một cách bền vững những nguồn tài nguyên này. Nếu được phát triển với những mục đích kém sáng suốt, du lịch nông thôn có thể làm hủy hoại những khía cạnh nông thôn quan trọng thông qua quá trình thương mại hóa và cái gọi là “hiệu ứng thể hiện” (do người dân địa phương muốn bắt chước theo du khách tới mức từ bỏ tập quán và truyền thống của chính họ và từ bỏ phương thức kiếm sống truyền thống của mình). Tình trạng thương mại hóa dẫn tới hủy hoại các giá trị văn hóa nông thôn thường là kết quả của việc người ngoài địa phương (hoặc người địa phương) khai thác kinh tế từ các cộng đồng địa phương không được tổ chức. 3.1.3. Phát triển du lịch nông thôn gắn với việc bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên Những năm gần đây, trước xu hướng hội nhập cùng với tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình đã tập trung phát triển các làng nghề, phát triển kinh tế trang trại. Bên cạnh những mặt tích cực thì người nông dân cũng đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm môi trường. Tình trạng ô nhiễm không khí, mùi hôi từ nước thải và phân gia súc không được xử lý, ô nhiễm ở các làng nghề đang là vấn đề nan giải. Vì vậy, toàn tỉnh cần phải tập trung vào việc giải quyết tình trạng ô nhiễm để giữ cho môi trường và cảnh quan luôn sạch đẹp từ đó mới có thể phát triển được du lịch nông thôn bền vững. 53
- 3.1.4. Phát triển theo phương châm mỗi làng một sản phẩm Du lịch nông thôn dựa trên cơ sở phát huy những tài nguyên vốn có của người dân địa phương. Để du lịch nông thôn phát triển hơn nữa, việc đa dạng hóa các sản phẩm du lịch làng quê, mỗi làng phát triển một sản phẩm đặc thù sẽ có vai trò rất quan trọng. Yếu tố này sẽ giúp thu hút khách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể phát triển hệ thống sản phẩm du lịch nông thôn đa dạng hơn. 3.2. Một số giải pháp phát triển du lịch nông thôn tại Thái Bình 3.2.1. Giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng Trước hết chúng ta phải cải thiện tiêu chuẩn tại các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng. Để phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình có thể xây dựng các homestay. Đây không phải là các nhà mới xây dựng với tiện nghi hiện đại mà là các nhà cổ truyền có ngăn các phòng cho khách ở với các tiện nghi vệ sinh tối thiểu. Các nhà phải giữ được phong cách địa phương. Nông dân nào muốn tham gia vào mạng lưới du lịch nông thôn phải sửa chữa nhà cửa của mình cho phù hợp với tiêu chuẩn do chính quyền địa phương đưa ra. Thái Bình có thể xây dựng các loại sau: Nhà khách: tiếp khách như “bạn” của gia đình, có phòng ngủ, bàn ăn với món ăn cổ truyền. Nhà đón tiếp trẻ em: đón từng nhóm khoảng 10 trẻ em thành thị muốn sống ở nông thôn vài ngày để biết thế nào là nông thôn. Trẻ em được vui chơi, ăn ngủ với trẻ em nông thôn và có người phụ trách. Trại hè: là một miếng đất gần một di tích văn hóa, lịch sử được tổ chức để có thể căng lều trại, nhà vệ sinh, bếp ăn ngoài trời có thể tiếp các nhóm khoảng 20 thanh thiếu niên về ở và du lịch quanh vùng. Trạm dừng chân: là nhà nghỉ chân trên các lộ trình du lịch đi bộ, xe đạp, xe máy gần các di tích lịch sử để các đoàn du lịch có thể nghỉ chân, ăn uống. Nhà nghỉ: có thể đón tiếp các gia đình về nghỉ ở nông thôn trong vài ngày. 54
- Nhà sàn vui chơi: tổ chức các nhóm 3 đến 25 nhà sàn có thể tiếp 6 người ăn, ngủ. Xung quanh có các nơi vui chơi như đi câu, đi xe đạp, dạo chơi ở các di tích lịch sử, văn hóa. Ngoài ra, chính quyền địa phương Thái Bình cần đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật như hệ thống đường sá ở nông thôn, hệ thống giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng. 3.2.2. Đổi mới sản phẩm du lịch Để phát triển du lịch nông thôn bền vững, chúng ta cần xây dựng sản phẩm du lịch nông thôn ở Thái Bình mới lạ, hấp dẫn, bền vững. Du khách được trực tiếp tham gia vào những công việc rất giản dị như lội ruộng, tát cá, trồng rau, làm ra các sản phẩm thủ công truyền thống ở các làng quê như làm vườn (ở làng Bách Thuận), thêu (ở làng Minh Lãng), dệt đũi (ở làng Nam Cao) , được trải nghiệm để trở thành nông dân, thợ thủ công thực thụ. Ví dụ sản phẩm: Tour du lịch cụm làng Vũ Thư Ngày Chương trình 1 Buổi sáng, du khách lên xe trâu dạo quanh làng vườn Bách Thuận. Du khách tham gia làm vườn cùng nông dân như cắt tỉa cây, bắt sâu, tưới nước, nhặt cỏ, tạo dáng cây cảnh. Buổi trưa, du khách về nghỉ tại nhà dân ở làng Bách Thuận, cùng nấu nướng và thưởng thức bữa trưa. Buổi chiều, du khách ra đồng mò cua bắt ốc, gặt lúa, tát cá. Nghỉ tối tại nhà dân ở làng Bách Thuận. 2 Buổi sáng, du khách đi tham quan chùa Keo, tham gia lễ hội chùa Keo. Buổi chiều, tham quan làng thêu Minh Lãng. Du khách sẽ được hướng dẫn thêu một số sản phẩm. Buổi tối, du khách nghe hát chèo, xem múa rối nước. 55