Luận văn Phát triển dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ hậu WTO
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phát triển dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ hậu WTO", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_phat_trien_dich_vu_ngan_hang_cua_ngan_hang_thuong_m.pdf
Nội dung text: Luận văn Phát triển dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ hậu WTO
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH LÊ ĐỨC THẮNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THỜI KỲ HẬU WTO LUẬN VĂN THẠ C SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪ N KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ MINH HẰNG TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2007 - 1 -
- MỤC LỤC Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Phần mở đầu Chương 1: Cơ sớ lý luận về dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng thương mại 1 1.1 Dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng thương mại 1 1.1.1 Thế nào là dịch vụ ngân hàng 1 1.1.2 Các loại dịch vụ ngân hàng 2 1.1.2.1 Dịch vụ ngân hàng truyền thống 3 1.1.2.2 Dịch vụ ngân hàng hiện đại 4 1.2 Tác động của hội nhập ảnh hưởng đến quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng 9 1.2.1 Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng 9 1.2.1.1 Môi trường kinh tế vĩ mô 9 1.2.1.2 Các chủ thể tham gia trên thị trường dịch vụ ngân hàng 10 1.2.1.2.1 Các ngân hàng thương mại 10 1.2.1.2.2 Các chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng 12 1.2.1.2.3 Giá cả của các dịch vụ ngân hàng 12 1.2.2 Tác động của hội nhập ảnh hưởng đến quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng 14 1.2.3 Môi trường pháp lý 16 1.2.4 Hội nhập thị trường dịch vụ ngân hàng 17 1.3 Kinh nghiệm của thế giới về phát triển dịch vụ ngân hàng thời kỳ hậu WTO 17 1.3.1 Kinh nghiệm của thế giới về phát triển dịch vụ ngân hàng thời kỳ hậu WTO 17 1.3.1.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc 17 1.3.1.2 Kinh nghiệm của Canada 20 1.3.2 Bài học rút ra cho VN trong việc mở cửa dịch vụ ngân hàng thời kỳ hậu WTO 21 Kết luận chương 1 24 - 2 -
- Chương 2: Thực trạng hoạt động dịch vụ ngân hàng trên đại bàn TP Hồ Chí Minh giai đoạn 2001 – 2006 25 2.1 Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại tại TPHCM 25 2.2 Khái quát hoạt động của Ngân hàng thương mại trên địa bàn TPHCM 27 2.3 Thực trạng hoạt động và phát triển của Ngân hàng thương mại trên địa bàn TPHCM những năm vừa qua 28 2.3.1 Hoạt động của các dịch vụ ngân hàng truyền thống 29 2.3.1.1 Hoạt động huy động vốn 29 2.3.1.2 Hoạt động tín dụng 32 2.3.1.3 Hoạt động thanh toán 36 2.3.1.4 Hoạt động dịch vụ ngoại hối 38 2.3.2 Hoạt động của các dịch vụ ngân hàng hiện đại 40 2.3.2.1 Tình hình chung 40 2.3.2.2 Hoạt động của các dịch vụ ngân hàng hiện đại 41 2.3.2.2.1 Dịch vụ thẻ ngân hàng 41 2.3.2.2.2 Dịch vụ khác 44 2.4 Đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng thương mại trên địa bàn TPHCM 47 Kết luận chương 2 53 Chương 3: Một số giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng của ngân hàng thương mại trên địa bàn TPHCM thời kỳ hậu WTO 54 3.1 Định hướng và mục tiêu phát triển dịch vụ ngân hàng trên địa bàn TPHCM thời kỳ hậu WTO 54 3.1.1 Cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính ngân hàng 54 3.1.2 Các mục tiêu và định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng trên địa bàn TPHCM giai đoạn 2006 – 2010 56 3.1.3 Diễn biến của tiến trình hội nhập lĩnh vực ngân hàng 57 3.2 Một số giải pháp cơ bản phát triển dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng thương mại trên địa bàn TPHCM thời kỳ hậu WTO 58 3.2.1 Giải pháp mang tính chiến lược lâu dài: Xây dựng các tập đoàn tài chính ngân hàng 58 - 3 -
- 3.2.2 Một số giải pháp cụ thể trước mắt 60 3.2.2.1 Tăng nhanh quy mô vốn 60 3.2.2.2 Nâng cao năng lực quản trị, điều hành và phát triển nguồn nhân lực 64 3.2.2.3 Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, hợp lý hoá lãi suất và các loại phí 66 3.2.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán 71 3.2.2.5 Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng 72 3.2.2.6 Xây dựng chiến lược tiếp thị, quảng bá sản phẩm và phát triển mạng lưới giao dịch 73 3.2.2.7 Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử 79 3.3 Những kiến nghị với cơ quan quản lý vĩ mô 81 Kết luận chương 3 84 Kết luận 85 - 4 -
- DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ TRONG LUẬN VĂN Thứ tự Nội dung Trang Bảng thể hiện hoạt động huy động vốn của các NHTM trên BẢNG 2.3.1.1 địa bàn TPHCM 29 Biểu đồ thể hiện hoạt động huy động vốn của các NHTM BIỂU ĐỒ 2.3.1.1 trên địa bàn TPHCM 30 Bảng thể hiện kết quả hoạt động dịch vụ tín dụng trên địa BẢNG 2.2.1.2 bàn TPHCM 33 Biểu đồ thể hiện kết quả hoạt động dịch vụ tín dụng trên địa BIỂU ĐỒ 2.2.1.2 bàn TPHCM 33 Sơ đồ thể hiện khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt SƠ ĐỒ 2.3.1.3 qua ngân hàng trên địa bàn TPHCM 36 Bảng thể hiện khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt BẢNG 2.2.1.3 qua ngân hàng trên địa bàn TPHCM 37 Bảng tổng hợp số liệu hoạt động ngoại hối trên địa bàn BẢNG 2.3.1.4 TPHCM 38 Sơ đồ tổng hợp số liệu hoạt động ngoại hối trên địa bàn SƠ ĐỒ 2.3.1.4 TPHCM 39 . - 5 -
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ATM Thẻ/máy rút tiền tự động ACB Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á DNNN Doanh nghiệp Nhà nước EXIMBANK Ngân hàng Thương Mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu GDP Tổng sản phẩm quốc nội GATS Hiệp định chung về thương mại dịch vụ HTX Hợp tác xã KTTĐPN Kinh tế trọng điểm phía Nam NH Ngân hàng NHLD Ngân hàng liên doanh NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần NHNN Ngân hàng nhà nước NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước NHNNg Ngân hàng nước ngoài NHTM Ngân hàng thương mại NHTMVN Ngân hàng thương mại Việt Nam PBOC Ngân hàng nhân dân Trung Quốc SACOMBANK Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín TMQD Thương mại quốc doanh TMCP Thương mại cổ phần TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh TW Trung ương TCTD Tổ chức tín dụng USD Đô la Mỹ VN Việt Nam VNĐ Đồng Việt Nam XHCN Xã hội chủ nghĩa WTO Tổ chức thương mại thế giới - 6 -
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dịch vụ ngân hàng là một ngành kinh tế đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Phát triển dịch vụ ngân hàng là phát triển năng lực phản ảnh quy mô, tính quy mô và xu thế phát triển chung của nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường của một quốc gia. Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế đất nước, ngành ngân hàng không ngừng trưởng thành, vững mạnh về quy mô, mạng lưới giao dịch, năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, số lượng, chất lượng sản phẩm ngày càng đa dạng. Sự phát triển này góp phần tích cực trong việc huy động vốn để cho vay, đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng tăng của sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ngành ngân hàng còn bộc lộ những hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế - xã hội của cả nước, ngành ngân hàng đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế thành phố. Tuy vậy việc phát triển các dịch vụ ngân hàng còn nhiều bất cập, từng dịch vụ của ngân hàng thương mại chưa tạo dựng được thương hiệu riêng, quy mô của từng dịch vụ còn nhỏ, chất lượng dịch vụ thấp, sức cạnh tranh yếu, đặt biệt tính tiện ích của một số dịch vụ đối với khách hàng còn chưa cao, hoạt động marketing ngân hàng chưa mạnh, chưa thường xuyên nên tỷ lệ khách hàng tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng còn hạn chế. Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, dịch vụ ngân hàng sẽ được dự báo là lĩnh vực cạnh tranh rất khốc liệt khi “vòng” bảo hộ cho ngân hàng thương mại trong nước không còn. Vậy điều gì đang chờ đón các ngân hàng thương mại Việt Nam? Các ngân hàng này phải chuẩn bị gì để không bị đẩy ra ngoài cuộc chơi? Phát triển dịch vụ ngân hàng như thế nào để đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế cả nước nói chung, của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, vừa phải đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả? Phát triển dịch vụ ngân hàng như thế nào để đảm bảo nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng đồng thời đảm bảo yêu cầu chuẩn mực hội nhập kinh tế quốc tế? Đó là những câu hỏi cần phải đi tìm lời giải đáp. Với mong muốn tìm một lời giải đáp, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính ngân hàng thương mại, đủ sức cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ hậu WTO, tác giả chọn đề tài: “Phát - 7 -
- triển dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ hậu WTO” là đề tài khoá luận tốt nghiệp cao học kinh tế. Hy vọng đề tài sẽ góp phần nhỏ giúp cơ quan hữa quan của thành phố định hướng và có cơ sở giải quyết các vấn đề về dịch vụ tài chính ngân hàng trong giai đoạn mới. 2. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở lý thuyết về phát triển các dịch vụ ngân hàng thương mại, đề tài phân tích cơ hội, thực trạng, thách thức của hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố, từ đó đưa ra được những giải pháp cơ bản nhằm phát triển dịch vụ ngân hàng thời kỳ hậu WTO. - Trình bày luận cứ khoa học và thực tiễn về sự phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay. - Điều tra, phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống NHTM trên địa bàn thành phố, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, nguyên nhân của những hạn chế yếu kém, những bài học kinh nghiệm trong phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng giai đoạn 2001-2006. - Đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Đề tài chủ yếu nghiên cứu các Ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2006. Từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực đảm bảo hoạt động ngân hàng trên địa bàn tiếp tục tăng trưởng và phát triển ổn định trong thời kỳ hậu WTO. 3. Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở của phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê, điều tra xã hội học, phỏng vấn, thu thập tài liệu trong phòng, phân tích, kế thừa, tổng hợp để đưa ra những kết luậntheo mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. 4. Nội dung đề tài: Nội dung đề tài được thể hiện qua kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về dịch vụ ngân hàng của ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2006 - 8 -
- Chương III: Một số giải pháp phát triển dịch vụ tài chính của ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ hậu WTO 5. Hạn chế của nghiên cứu: Hạn chế lớn nhất của luận văn nằm ở quy mô và đối tượng khảo sát. Do những hạn chế về thời gian và nhân lực, luận văn chỉ khảo sát được những khách hàng và doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh, đối tượng khảo sát không được chọn ngẫu nhiên. Do vậy tính bao quát của số liệu khảo sát bị hạn chế. Quá trình phân tích và nhập số liệu chủ yếu bằng phương pháp thủ công, không có sự hỗ trợ của các phần mềm nhập số liệu. Vì vậy số liệu không được kiểm tra chéo nên có thể có những sai sót trong việc nhập và phân tích số liệu khảo sát. 6. Điểm mới của đề tài: Đề tài đã phân tích tương đối toàn diện thực trạng dịch vụ ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra những giải pháp thiết thực có tính chiến lược lâu dài cũng như những giải pháp cần làm ngay sát với tình hình kinh tế xã hội của thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ hậu WTO. Những đóng góp của đề tài là những tư liệu để khảo sát thiết thực giúp cho các cơ quan hữu quan nghiên cứu và vận dụng. - 9 -
- CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Dịch vụ ngân hàng của ngân hàng thương mại 1.1.1 Thế nào là dịch vụ ngân hàng? Hiện nay, ở nước ta chưa có một khái niệm cụ thể nào về dịch vụ ngân hàng. Đối với hoạt động huy động vốn và cho vay, các Ngân hàng thường né tránh sử dụng thuật ngữ “dịch vụ” mà thường dùng thuật ngữ “sản phẩm”. Theo luật các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành, dịch vụ ngân hàng cũng không được định nghĩa và giải thích một cách cụ thể. Tại khoản 1 và khoản 7, điều 20 thì hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng bao gồm cả ba nội dung: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán nhưng không phân biệt rõ lĩnh vực nào là kinh doanh tiền tệ, lĩnh vực nào là dịch vụ ngân hàng. Theo quan niệm để xem xét lĩnh vực dịch vụ ngân hàng trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân của một quốc gia thì lĩnh vực dịch vụ ngân hàng là toàn bộ hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối của hệ thống ngân hàng đối với khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân. Tóm lại, dịch vụ ngân hàng là một bộ phận của dịch vụ tài chính và bao gồm toàn bộ hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối của hệ thống ngân hàng đối với khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân. Dịch vụ tài chính là một khái niệm mới, và cũng chưa có một định nghĩa thống nhất. Tuy nhiên do tính chất quan trọng của nó đối với phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì cần có cách hiểu chung và thống nhất, từ đó tạo điều kiện thuận lợi trong việc nghiên cứu, tìm giải pháp cho sự phát triển lĩnh vực này trong thời gian tới. Thị trường dịch vụ tài chính là một khái niệm mới do tổ chức thương mại thế giới (WTO) đưa ra nhằm hình thành các quy tắc ứng xử giữa các nước thành viên WTO trong hoạt động thương mại dịch vụ. Theo WTO: “Một dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi - 10 -
- dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch 1 vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm)” . Theo GATS: Các dịch vụ tài chính ngân hàng là: Nhận tiền gửi, cho vay, cho thuê tài chính, chuyển tiền và thanh toán, thẻ, séc, bảo lãnh và cam kết, mua bán các công cụ thị trường tài chính, phát hành chứng khoán, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, dịch vụ thanh toán và bù trừ, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, dịch vụ tư vấn và trung gian, hỗ trợ tài chính. Trong bảng danh mục phân loại các dịch vụ theo khu vực của WTO thì dịch vụ tài chính được xếp trong phân ngành thứ 7 trong 12 phân ngành dịch vụ. Trong dịch vụ tài chính có tất cả dịch vụ bảo hiểm và liên quan đến bảo hiểm, các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác. Như vậy dịch vụ ngân hàng là một bộ phận cấu thành trong dịch vụ tài chính nói chung. Nói đến dịch vụ ngân hàng, người ta thường gắn nó với hai đặc điểm: Thứ nhất: đó là các dịch vụ mà chỉ có các ngân hàng với những ưu thế của nó mới có thể thực hiện được một cách trọn vẹn và đầy đủ. Thứ hai: Đó là các dịch vụ gắn liền với hoạt động ngân hàng không những cho phép NHTM thực hiện tốt các yêu cầu của khách hàng, mà còn hỗ trợ tích cực để NHTM thực hiện tốt hơn chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán của NHTM. Như vậy, chúng ta có thể cho rằng toàn bộ hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối của hệ thống ngân hàng đều là hoạt động cung ứng dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. Quan niệm này phù hợp với cách phân ngành dịch vụ ngân hàng trong dịch vụ tài chính của WTO và hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng như nhiều nước phát triển khác. 1.1.2 Các loại dịch vụ ngân hàng Nhìn một cách tổng thể thì các NHTM hoạt động kinh doanh trên ba mảng dịch vụ lớn: Nghiệp vụ nguồn vốn, nghiệp vụ tín dụng và đầu tư và nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Mỗi nghiệp vụ đều có một vị trí và tác dụng khác nhau nhưng đều hướng tới mục tiêu chung và tổng quát của bất kỳ NHTM nào đó là đáp ứng được nhu cầu của khách hàng với hiệu quả cao nhất thông qua các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng - 11 -
- mang lại cho khách hàng. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng của NHTM gồm 2 loại: sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống và sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. 1 PGS-TS Thái Bá Cần – Phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập – NXB Tài Chính – 2004 – trang 21 1.1.2.1 Dịch vụ ngân hàng truyền thống Khi nói đến dịch vụ ngân hàng truyền thống của ngân hàng, chúng ta thường ngụ ý nói đến hoạt động của các sản phẩm đã thực hiện trên nhiều năm trên nền công nghệ cũ, quen thuộc với khách hàng. Có thể kể đến một số sản phẩm dịch vụ truyền thống của Ngân hàng như sau: ¾ Dịch vụ huy động vốn: Các NHTM triển khai dịch vụ huy động vốn trong tất cả các thành phần kinh tế để nhận tiền gửi và bảo quản hộ người gửi tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Vốn huy động theo tính chất được phân thành 2 nhóm: - Nhóm 1: Vốn huy động hoạt kỳ, bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế cá nhân, tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức tín dụng khác. Với loại tiền gửi này khách hàng có thể linh hoạt sử dụng, được lập thư chuyển tiền, phát hành séc rút tiền từ tài khoản một cách tự do. Các chủ tài khoản gửi tiền vào tài khoản không nhằm mục đích hưởng lãi, mà nhằm nhu cầu giao dịch thanh toán cho chính mình. Do đó đối với loại sản phẩm dịch vụ này ngân hàng cần phải có những thủ tục nhanh chóng, thuận lợi, an toàn thì khả năng thu hút khách hàng càng cao. - Nhóm 2: Vốn huy động định kỳ gồm tiền gửi định kỳ, tiền gửi tiết kiệm của cá nhân, tổ chức, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu Đặc điểm của loại nguồn vốn này là khách hàng chỉ được rút tiền khi đáo hạn (tuy nhiên trong điều kiện bình thường các ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền trước kỳ hạn. Đối với vốn huy động định kỳ, người gửi tiền có mục đích xác định là hưởng lãi, vì vậy họ sẽ chọn ngân hàng nào có lãi suất huy động cao hơn, chứ không đòi hỏi hệ thống dịch vụ hiện đại như đối với nguồn vốn hoạt kỳ. Với lý do đó các ngân hàng thường sử dụng công cụ lãi suất để thu hút nguồn vốn này, Cạnh tranh lãi suất trở thành một trong những loại cạnh tranh hợp lý và gay gắt trong giai đoạn hội nhập hiện nay, ngân hàng nào có lãi suất cao hơn, khuyến mãi nhiều hơn, tiếp thị tốt hơn thì sẽ có lợi thế trong việc thu hút tiền gửi của khách hàng. - 12 -
- ¾ Dịch vụ chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá: Việc ngân hàng mua các thương phiếu và chứng từ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán gọi là chiết khấu. Ngiệp vụ chiết khấu giúp các chủ sở hữu chứng từ khôi phục năng lực thanh toán. Đây là nghiệp vụ được ưa chuộng không những đối với khách hàng mà còn cả với ngân hàng vì đây là nghiệp vụ cho vay có đảm bảo bằng chứng từ có giá, rủi ro tín dụng ở mức độ thấp. ¾ Dịch vụ cho vay: Hoạt động cho vay bao gồm cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay chiết khấu chứng từ có giá Tùy theo nhu cầu về thời gian vay vốn của khách hàng mà ngân hàng áp dụng các hình thức cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Lãi suất cho vay áp dụng theo cung cầu trên thị trường hoặc theo quan hệ tín nhiệm lẫn nhau để áp dụng mức lãi suất cho vay phù hợp với từng đối tượng cho vay. ¾ Dịch vụ thanh toán: Hầu hết các giao dịch thanh toán giữa các khách hàng trong nước và nước ngoài đều được thực hiện qua ngân hàng. Nhờ việc nắm giữ tài khoản của khách hàng, đồng thời thông qua việc kiểm soát chứng từ thanh toán mà các ngân hàng hoàn toàn có khả năng thực hiện các dịch vụ thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. Hiện nay các NHTM ở Việt Nam sử dụng các dịch vụ thanh toán như: thanh toán séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, hối phiếu, lệnh phiếu, thẻ thanh toán ¾ Dịch vụ trao đổi ngoại tệ: Dịch vụ này rất phát triển trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi mua bán trong hoạt động ngoại thương, Ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này để lấy một loại tiền khác nhằm mục đích thu lợi nhuận. ¾ Dịch vụ uỷ thác: Ngân hàng nhận thực hiện các công việc mà khách hàng uỷ thác như: bảo quản tài sản cho các cá nhân, bảo quản chứng thư quan trọng, bảo quản và lưu giữ chứng khoán của khách hàng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu hộ, trả lãi, trả gốc, trả cổ tức cho các tổ chức phát hành chứng từ có giá. ¾ Ngoài ra còn có các sản phẩm dịch vụ truyền thống khác như dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ cung cấp các tài khoản giao dịch Các sản phẩm dịch vụ truyền thống của ngân hàng được cải tiến theo hướng hoàn chỉnh hơn, gọn về thủ tục, rút ngắn về thời gian giao dịch, các ngân hàng đã hướng tới việc xuất phát từ nhu cầu của khách hàng hơn là việc áp đặt sản phẩm mà mình có. 1.1.2.2 Dịch vụ ngân hàng hiện đại - 13 -
- Dịch vụ ngân hàng hiện đại là dịch vụ ngân hàng mới được đưa vào hoạt động của một số tổ chức tín dụng, được ra đời trên nền các công nghệ mới, đem lại các tiện ích mới cho khách hàng. Một số dịch vụ tài chính ngân hàng hiện đại như: ¾ Dịch vụ thẻ ngân hàng: Ngân hàng cấp thẻ cho khách hàng có tài khoản dùng để thanh toán tiền mua hàng, chi trả tiền mặt hay rút tiền mặt tự động thông qua các máy đọc thẻ, hay các máy rút tiền tự động ATM. Công nghệ thanh toán bằng thẻ có nhiều ưu điểm so với thanh toán bằng tiền mặt như: tập trung vốn tiền gửi vào ngân hàng, giảm thiểu rủi ro, chống tham nhũng và trốn thuế ¾ Dịch vụ quản lý tiền mặt (ngân quỹ): là hình thức quản lý thu, chi hộ cho khách hàng, đầu tư các khoản tiền mặt thặng dư để sinh lợi cho khách hàng. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hường đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Một ví dụ là tài khoản quản lý tièn mặt của Merrill Lynch, cho phép khách hàng của nó mua và bán chứng khoán, di chuyển vốn trong nhiều quĩ tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín dụng cho khoản vay tức thời. ¾ Dịch vụ thanh toán tiền điện tử: Dịch vụ này cho phép một doanh nghiệp, một cá nhân hay bất kỳ tổ chức nào khác dù có hay không có tài khoản tại ngân hàng có thể trả tiền vào tài khoản của một người khác ở ngân hàng đó hay tại một ngân hàng khác. Khách hàng là doanh nghiệp thường sử dụng dịch vụ này để thực hiện thanh toán cho các nhà cung cấp, các chủ nợ Khách hàng cá nhân thường sử dụng dịch vụ này để chuyển tiền cho người thân ở xa hay gửi tiền cho con đi học Dịch vụ này rất hữu ích do chi phí thấp, chuyển tiền nhanh, an toàn, tiện lợi. ¾ Dịch vụ ngân hàng tại nhà: Như chúng ta đã biết dịch vụ ATM và dịch vụ chuyển tiền điện tử là 2 dịch vụ ngân hàng điện tử có những ưu thế tại điểm - 14 -
- giao dịch, thì dịch vụ ngân hàng tại nhà có những ưu thế khác, đó là bằng những công cụ hỗ trợ như điện thoại, máy vi tính chúng ta có thể hoạt động giao dịch, thanh toán, xem thông tin tại nhà mà không cần phải đến ngân hàng. Mỗi khách hàng có một mã số riêng và một mật khẩu riêng do ngân hàng cung cấp và được giữ bí mật nhằm đảm bảo an toàn nhất cho các hoạt động giao dịch của mình. ¾ Dịch vụ bảo quản và ký gửi: Ngân hàng nhận bảo quản các cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các hợp đồng bảo hiểm, các chứng thư tài sản, di chúc và các tài sản có giá khác. Những thứ này có thể được bảo quản theo phương thức “mở” trong đó biên lai sẽ ghi chi tiết những gì được lưu giữ, hoặc theo phương thức “kín” được lưu giữ trong những hộp khoá kín hay những phong bì gián kín. ¾ Dịch vụ cho thuê tài chính: Đây là phướng thức mà các doanh nghiệp nhờ đó mà cò thể có được những cấu kiện máy, thiết bị, xe cộ mà không cần đầu tư vốn. Các doanh nghiệp thiếu vốn cần mua sắm tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, họ có thể đến các công ty thuê mua để thuê tài sản và trả một khoản phí theo thương lượng giữa hai bên, tài sản này vẫn thuộc quyền sở hữu của các công ty cho thuê, doanh nghiệp được sử dụng trong thời gian thuê. ¾ Dịch vụ thư bảo đảm dự thầu: Các khách hàng của ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng, khi tham gia đấu thầu phải cung cấp một thư bảo lãnh dự thầu trước khi được phép đấu thầu một hợp đồng. Thư bảo lãnh dự thầu cho biết rằng công ty sẽ thực hiện những cam kết thi công khi trúng thầu. Một ngân hàng thường được yêu cầu cung cấp một thư đảm bảo như vậy và khi cấp thư thường có cam kết đền bù những thiệt hại trong trường hợp khách hàng trúng thầu không thực hiện hợp đồng và ngân hàng bị yêu cầu thanh toán theo các điều khoản của thư. Ngoài ra còn có các loại thư bảo đảm khác như thư bảo đảm thực hiện hợp đồng, thư bảo lãnh bảo hành, thư bảo đảm thanh toán ¾ Dịch vụ tư vấn tài chính: Một số ngân hàng đã tập trung vào cung cấp dịch vụ tư vấn để đáp ứng các nhu cầu tư vấn tài chính và quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này đang gặp khó khăn về tài chính và vấn đề quản lý. Ngân hàng hướng dẫn và tư vấn cho doanh nghiệp kiểm soát chi phí, định giá, đánh giá đầu tư cơ bản, dự báo nguồn thu nhập và quản lý tài sản, chiến lược sản xuất kinh doanh Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế - 15 -
- hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ. ¾ Dịch vụ hợp đồng trao đổi tín dụng (Credit Swap): là hình thức hai tổ chức tín dụng ký kết hợp đồng trao đổi cho nhau một khoản tín dụng, chủ yếu là để đa dạng hoá danh mục cho vay, để thực hiện các danh mục tín dụng theo chính sách tín dụng. ¾ Hợp đồng quyền tín dụng (Credit Option): Ngân hàng ký một hợp đồng với tổ chức kinh doanh quyền (Option Dealer) với nội dung bán quyền sẽ thanh toán toàn bộ khoản tín dụng nếu khách hàng không trả được nợ và lãi, hoặc không trả hết nợ và lãi. Nếu khách hàng trả hết nợ và lãi, ngân hàng mua quyền sẽ mất phí mua quyền. ¾ Hợp đồng trao đổi các khoản tín dụng rủi ro: Ngân hàng mua một hợp đồng bán khoản tín dụng rủi ro cho một ngân hàng khác và do đó khi khách hàng không trả được nợ, lãi thì ngân hàng bán quyền sẽ thanh toán phần chênh lệch giữa nợ và lãi mà khách hàng không thanh toán được sau khi trừ đi giá trị tài sản đảm bảo đã được thanh lý. Giá trị thanh toán = (giá trị khoản tín dụng + lãi) – (giá trị khách hàng thanh toán + giá trị tài sản đảm bảo được thanh lý). ¾ Trái phiếu ràng buộc: Ngân hàng mua trái phiếu của doanh nghiệp và có cam kết rằng nếu dự án bị lỗ thì ngân hàng sẽ không thu lãi hoặc thu lãi một phần. Sản phẩm này nhằm nâng cao trách nhiệm của ngân hàng trong việc chia sẻ rủi ro của dự án mà ngân hàng tài trợ. ¾ Cho vay tiêu dùng: Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới những năm 1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng này gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu - 16 -
- dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất. ¾ Dịch vụ thuê mua thiết bị: Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì với tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế. ¾ Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân hàng thương mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. ¾ Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến. ¾ Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các - 17 -
- khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác. Ngoài ra còn có một số dịch vụ ngân hàng mới ngày càng được áp dụng rộng rãi tại các NHTM như: cung cấp dịch vụ hưu trí, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp, bán các dịch vụ bảo hiểm, home banking, phone banking, Electronic banking, internet banking Tóm lại, dịch vụ ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Bất kỳ một lĩnh vực bào có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, các ngân hàng đều sẵn sàng cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Có loại dịch vụ ngân hàng sẽ thu phí, có loại dịch vụ ngân hàng được hưởng hoa hồng, nhưng cũng có loại dịch vụ miễn phí hoàn toàn, điều này chứng tỏ dịch vụ ngân hàng là một mảng hoạt động kinh doanh có hiệu quả và góp phần tạo điều kiện để mở rộng và phát triển các mảng hoạt động kinh doanh cơ bản khác. 1.2 Tác động của hội nhập ảnh hưởng đến quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng 1.2.1 Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc phát triển dịch vụ ngân hàng 1.2.1.1 Môi trường kinh tế vĩ mô ¾ Toàn cầu hoá tác động đến nền kinh tế đất nước, sự liên kết để phát triển đòi hỏi phải có những bước chuẩn bị kỹ càng. Những tác động của toàn cầu hoá làm cho chúng ta không thể đóng cửa mãi, mà phải mở cửa hội nhập, và thực tế chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO. ¾ Việt Nam nằm trong vùng phát triển kinh tế năng động (khối ASEAN), khu vực có vốn đầu tư của các công ty xuyên quốc gia, những tập đoàn kinh tế lớn. Sự hiện diện của những tập đoàn này đã góp phần không nhỏ thúc đẩy sự phát triển dịch vụ ngân hàng. ¾ Điều kiện chính trị xã hội ổn định, nguồn lực tài chính tiềm tàng trong nhân dân cũng tác động rất lớn đến sự phát triển vững chắc của dịch vụ ngân hàng. ¾ Chất lượng nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng. Nhân lực giỏi sẽ giúp triển khai dịch vụ được nhanh chóng, chính xác. Đội ngũ cán bộ có trình độ giúp nâng cao vị thế của ngân hàng trong việc cạnh tranh. - 18 -
- Những nhân tố chung trên đây có tác dụng tích cực đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng, nếu nhận thức và làm tốt sẽ tạo điều kiện cho quá trình phát triển. 1.2.1.2 Các chủ thể tham gia trên thị trường dịch vụ ngân hàng 1.2.1.2.1 Các ngân hàng thương mại Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, các Ngân hàng thương mại đã có những đóng góp nhất định. Với sự tham gia kinh doanh của hệ thống NHTM theo chủ trương đa dạng hoá loại hình sở hữu kinh doanh ngân hàng nhằm thu hút các nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, đáp ứng cho quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước; đồng thời thực hiện việc tự do hoá, tăng tính cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính – ngân hàng cho nền kinh tế. Chúng ta sẽ tìm hiểu đến các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển dịch vụ ngân hàng: Về Vốn: Bất kể một ngân hàng nào trên thế giới, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển. Một ngân hàng có vốn lớn sẽ làm tăng khả năng huy động, có điều kiện để mở rộng phạm vi hoạt động, phát triển công nghệ ngân hàng và có điều kiện thu hút nguồn nhân lực. Từ đó, có thể phát triển các dịch vụ ngân hàng một cách tốt hơn. Mạng lưới phục vụ: Trên cơ sở quy định về việc mở, thành lập và chấm dứt họat động của sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của NHTM theo quyết định 888/2005/QĐ-NHNN, các NHTM trên địa bàn về cơ bản đã tổ chức, sắp xếp và điều chỉnh lại hệ thống mạng lưới theo đúng quy định và phù hợp với quy mô họat động. Nhìn chung, hệ thống NHTM hiện đang có mạng lưới giao dịch phân bố tương đối đều khắp nhằm cung cấp tín dụng và dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng tại các thị trường mục tiêu phù hợp với định hướng phát triển và điều kiện hoạt động (vốn tự có, năng lực điều hành, quản lý, kiểm soát ) của mình. Thời gian giao dịch và thái độ phục vụ: Thời gian giao dịch của ngân hàng thường tuỳ thuộc vào thói quen sinh hoạt của cư dân nhằm tạo sự thuận tiện cho khách hàng. - 19 -
- Đa số các NHTM đều hướng tới thực tuần làm việc 44 giờ với thời gian giao dịch 5,5 ngày/tuần (thứ bảy giao dịch buổi sáng): sáng 7:30’ – 11:30’; chiều 13:00’ – 17:00’. Ngoài ra cũng cần hướng tới khả năng phục vụ khách hàng 24/24 thông qua các máy rút tiền tự động (ATM), Thẻ rút tiền điện tử (ETC) hoặc hệ thống dịch vụ “Ngân hàng điện thoại tại nhà” và “Ngân hàng điện tử toàn cầu” Thái độ phục vụ khách hàng là nhân tố quan trọng, là tác nhân chủ yếu giúp ngân hàng lôi kéo và giữ chân khách hàng. Việc đào tạo nhân viên ngân hàng có phong cách phục vụ khách hàng là một yếu tố trọng yếu mà các ngân hàng thương mại cần quan tâm ngay từ bây giờ. Số lượng sản phẩm dịch vụ: Các Ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chủ yếu cung cấp các sản phẩm, dịch vụ truyền thống và đơn giản như nhận tiền gửi và cho vay với kênh phân phối qua các chi nhánh. Các dịch vụ có tính chất phức tạp như quản lý tài sản, quản lý danh mục đầu tư, các sản phẩm bán chéo hay các sản phẩm phái sinh, các sản phẩm phi tài chính như thanh toán, đầu tư, kinh doanh ngoại hối, tư vấn tài chính chưa phát triển. Các sản phẩm tiên tiến chưa trở nên phổ thông và tiện dụng, kênh phân phối điện tử như ATM, Internet Banking, Phone Banking chưa phát triển. Theo thống kê của Itellegent Economic Unit thì trung bình một ngân hàng đa doanh hoạt động toàn cầu (các tập đoàn tài chính) có khả năng cung cấp cho khách hàng trên 2 triệu sản phẩm. Trong khi đó tại Việt Nam, thống kê cho thấy số sản phẩm mà hệ thống NHTM Việt Nam có thể cung cấp cho khách hàng không quá 3 con số. Có thể thấy rõ điều này qua Phụ lục 1 (Danh mục các dịch vụ mà NHTMCP Á Châu cung cấp cho khách hàng). Chất lượng sản phẩm dịch vụ: Được biết, cho đến nay, Việt Nam chưa có cuộc khảo sát, nghiên cứu cụ thể nào để đưa ra số liệu chính thức về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, phục vụ của các ngân hàng. Tuy nhiên, theo nhận xét chung thì chất lượng dịch vụ do các ngân hàng cung cấp đã được chú trọng và nâng lên khá nhiều kể từ khi hệ thống ngân hàng Việt Nam được đa dạng loại hình sở hữu hoạt động kinh doanh tiền tệ. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng được đánh giá qua các tiêu chí như: kỹ năng giao tiếp khách hàng; kỹ năng nghiệp vụ, tốc độ xử lý yêu cầu của khách hàng; độ chính xác trong tác nghiệp và độ tin cậy của khách hàng - 20 -
- Các tiêu chí này đã và đang được các NHTMCP cải thiện rất nhiều, có khả năng cạnh tranh với các NHTMNN (như: ACB được tạp chí Global Finance bình chọn là ngân hàng tốt nhất VN) nhưng có phần giới hạn nhất định so với khối NHLD và NHNNg do hạn chế về kinh nghiệm hoạt động, quản lý, đào tạo nhân viên và cơ sở vật chất kỹ thuật 1.2.1.2.2 Các chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng ¾ Chính phủ: Chính phủ tham gia vào thị trường dịch vụ ngân hàng với tư cách là người cần dịch vụ ngân hàng trong trường hợp chính phủ tiến hành huy động các nguồn tài chính phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Với tư cách quản lý vĩ mô, chính phủ thông qua các cơ quan chuyên trách của mình giám sát, điều tiết thị trường trên cơ sở nền tảng pháp lý quốc gia và quốc tế nhằm duy trì sự phát triển bền vững của thị trường này. ¾ Các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội: Đây là những khách hàng quan trọng nhất của dịch vụ ngân hàng trên cả hai phương diện cung và cầu các nguồn tài chính. Trong điều kiện hội nhập, các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng ngày càng nhiều, đồng thời chính họ cũng trở thành lực lượng cung cấp động lực cho sự phát triển dịch vụ tài chính của các ngân hàng thương mại. ¾ Dân cư: tầng lớp dân cư tham gia vào thị trường tài chính thông qua việc sử dụng hiệu quả hơn lợi ích từ sự phát triển của dịch vụ ngân hàng như các hình thức gửi tiền, mua chứng chỉ tiền gửi, tín dụng tiêu dùng, tín dụng trả góp, vay vốn lập doanh nghiệp, du học, nhu cầu cá nhân, thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng Sự ủng hộ của khách hàng giúp cho ngân hàng củng cố niềm tin vào chiến lược phát triển sản phẩm của mình. 1.2.1.3 Giá cả của các dịch vụ ngân hàng Giá cả của dịch vụ ngân hàng là một vấn đề rất quan trọng, có tác động lớn đến sự phát triển của thị trường cũng như các chủ thể cung cấp dịch vụ ngân hàng. Giá cả các loại dịch vụ ngân hàng quá cao hay quá thấp đều có tác động tiêu cực đến sự phát triển của thị trường dịch vụ ngân hàng. Trong trường hợp giá cả các loại dịch vụ ngân hàng quá cao, khách hàng sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng các loại dịch vụ ngân hàng; ngược lại trong trường hợp giá cả các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng quá thấp thì các chủ thể cung cấp dịch vụ ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề kinh doanh, nhiều khả năng dẫn đến thua lỗ và phá sản. Như vậy, trong cả hai trường hợp nêu trên đề đưa đến tác động tiêu cực là thu hẹp thị - 21 -
- trường dịch vụ ngân hàng, do đó giá cả của các loại dịch vụ ngân hàng cần phải được xác định ở mức thích hợp theo sự phát triển của nền kinh tế xã hội, sự phát triển của thị trường dịch vụ ngân hàng. Trước hết, chúng ta tìm hiểu về lãi suất của hoạt động huy động vốn ¾ Lãi suất huy động vốn: Hiện nay với sự ổn định trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, cùng với việc thực hiện bảo hiểm tiền gửi đã tạo sự an tâm cho hầu hết dân chúng gửi tiền tiết kiệm. Vì vậy, ngoài các yếu tố: uy tín, mạng lưới huy động và sự đa dạng hoá các loại hình sản phẩm huy động vốn thì lãi suất tiền gửi được xem là yếu tố cạnh tranh khá nhạy cảm trong huy động vốn. Tham khảo biểu lãi suất trên địa bàn thời gian qua, có thể nhận xét: lãi suất huy động của các NHTMCP thường cao hơn các khối khác vì: 9 Các NHTMCP có nhu cầu sử dụng vốn nhiều nhưng nguồn vốn bị hạn chế do uy tín chưa cao, vốn tự có thấp; vốn sử dụng chủ yếu từ nguồn vốn huy động. 9 Các NHTMNN, nhất là Vietcombank, có điều kiện thực hiện nhiều dịch vụ thanh toán nên khả năng huy động nguồn vốn lãi suất thấp rất thuận lợi. 9 Các NHNNg bị giới hạn về đối tượng và tỷ lệ huy động vốn nên không mặn mà trong việc nâng lãi suất huy động. Tuy nhiên lúc cần, họ có thể vay “qua đêm” theo lãi suất thương lượng với các đơn vị kinh tế khác. ¾ Giá cả đối với nghiệp vụ tín dụng: Hiện nay với chủ trương kích cầu nhằm phát triển nền kinh tế, đồng thời, với sự linh hoạt trong chính sách điều hành tiền tệ nhằm cân đối quan hệ cung cầu tiền tệ trong lưu thông, trong đó việc áp dụng lãi suất cơ bản do NHNN quy định hàng tháng tạo cơ sở cho các NHTM ấn định lãi suất cho vay VNĐ trong phạm vi biên độ 0,3%/tháng (đối với cho vay ngắn hạn) và 0,5%/tháng (đối với cho vay trung, dài hạn) đã hình thành một thị trường cạnh tranh hết sức đa dạng về lãi suất cho vay. Thực tế lãi suất cho vay của các NHTMCP được xác định cụ thể đối với từng nhóm đối tượng khách hàng tuỳ theo tình hình nguồn vốn, độ an toàn vốn sử dụng và chính sách khách hàng Nhìn chung, lãi suất cho vay của các NHTMCP thường cao hơn cá NHTM khác, nhất là các NHTMNN vì: 9 Các NHTMCP có vốn tự có còn thấp, nguồn vốn huy động lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn làm cho giá thành đầu vào cao, buộc các NHTMCP phải cho vay với lãi suất cao để bảo đảm hiệu quả kinh doanh. - 22 -
- 9 Các NHTMNN có chi phí vốn thấp, được tiếp nhận vốn ủy thác, ưu đãi do Nhà nước chỉ định nên có giá thành vốn thấp. Vì vậy có thể cho vay với lãi suất thấp. Chưa kể việc cho vay theo chỉ định hoặc theo cơ chế chính sách 9 Các NHNNg chủ yếu cho vay bằng vốn tự có. Mặt khác, tín dụng không là nguồn thu chủ yếu mà chỉ nhằm hỗ trợ kinh doanh dịch vụ nên mức lãi suất cho vay thường không cao. ¾ Phí dịch vụ Nhìn chung, mức dịch vụ của các NHTMCP thấp hơn và có khả năng cạnh tranh với các khối NHTM khác, nhất là NHNNg. Tuy nhiên, vấn đề còn chịu tác động của yếu tố khác như: chất lượng dịch vụ; năng lực và mạng lưới phục vụ 1.2.2 Tác động của hội nhập ảnh hưởng đến quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng Việt Nam gia nhập WTO đồng nghĩa với các cam kết về tự do hoá ngành tài chính nói chung và ngành ngân hàng nói riêng bắt đầu được thực hiện. Khi đó các NHTM VN phải đối diện với những áp lực cạnh tranh to lớn. Tự do hoá ngành ngân hàng là cơ hội hay thách thức đối với các NHTM Việt Nam, thật sự chúng ta khó tìm được câu trả lời thoả đáng cho vấn đề này. Tuy nhiên, chắc chắn rằng tự do hoá thị trường dịch vụ ngân hàng ở những quốc gia khác nhau sẽ có những mặt tích cực và tiêu cực chung nhất định Những mặt tích cực: Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động dịch vụ ngân hàng cũng giống như các hoạt động trao đổi mua bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác động tích cực đến thu nhập và sự tăng trưởng của tất cả các chủ thể tham gia. Có thể nhận thấy một số việc tích cực từ quá trình hội nhập mang lại như sau: ¾ Tự do hoá dịch vụ ngân hàng sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực dịch vụ ngân hàng hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các doanh nghiệp nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý. ¾ Tự do hoá dịch vụ ngân hàng sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ ngân hàng được cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và thời gian thấp nhất. ¾ Tự do hoá dịch vụ ngân hàng đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển giao công nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống. ¾ Tự do hoá dịch vụ ngân hàng tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính sách kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong điều - 23 -
- kiện một nền kinh tế mở, trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế trong nước và thế giới. Tóm lại, lợi ích tối thượng của tự do hoá dịch vụ ngân hàng là tạo ra một sự cạnh tranh bình đẳng trong một thị trường trước đây vốn được đặc trưng bằng những yếu tố độc quyền. Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy việc giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, phân tán rủi ro và tạo cơ hội phát huy lợi thế kinh tế quy mô, tăng cường chuyển giao công nghệ và tạo môi trường quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với những bất thường có thể xảy ra trên bình diện quốc tế. Những mặt tiêu cực: Tiềm năng lợi ích của tự do hoá dịch vụ ngân hàng là rất lớn, tuy nhiên tự do hoá cũng có những mặt tiêu cực nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt trong điều kiện ngành tài chính ngân hàng còn bộc lộ nhiều yếu kém như ở Việt Nam. Những mặt tiêu cực của quá trình tự do hoá dịch vụ ngân hàng thông thường được nhìn nhận trên hai góc độ: Thứ nhất, Tự do hoá dịch vụ ngân hàng có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng tài chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế. Mở cửa hội nhập và khủng hoảng tài chính ngân hàng đã từng là nỗi ám ảnh tưởng như có mối quan hệ nhân quả đối với các nước thi hành chính sách này trong khoảng thời gian trước đây. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới đã cho thấy 18 trong 25 trường hợp được nghiên cứu, khủng hoảng tài chính đã diễn ra theo sau việc tự do hoá tài chính khoảng 5 năm. Do vậy, nhiều người cho rằng khủng hoảng tài chính là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống tài chính theo hướng mở cửa. Thậm chí, nhiều chính phủ cho rằng đó là cái giá phải trả của tự do hoá tài chính. Trớ trêu thay, nhận định này dường như được minh chứng bởi các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra ở Argentina, Brazil, Chilê trong những năm 70, khủng hoảng tiền tệ ở Mêxico năm 1994-1995 và Thái Lan năm 1997. Những cuộc khủng hoảng như vậy đã làm cho chính phủ của các nước Đông Nam Á tỏ ra thận trọng khi cân nhắc vấn đề cải cách, mở cửa và tự do hoá tài khoản vốn. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc mở cửa thị trường ngân hàng, bản thân nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng tài chính ngân hàng. Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hoá có chăng chỉ lật tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thể chế và các chính sách tài chính vĩ - 24 -
- mô vốn dĩ đã tìm ẩn, và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn đến khủng hoảng tài chính. Những cải cách tài chính theo hướng mở cửa đã diễn ra ở những nước này thực chất không gây ra cản trở hoặc làm phương hại đến lợi ích thực thụ. Mà chỉ góp phần phơi bày những điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trước những điều kiện của hệ thống tài chính quốc tế mà thôi. Năm 1995 hai nhà nghiên cứu Kamisky và Reinhart và một số nhà nghiên cứu khác đã xác định một loạt các nhân tố đằng sau những vụ đổ vỡ ngân hàng trên thế giới. Những nhân tố này gồm: sự không ổn định có tính vĩ mô như sự thất thường của hoạt động thương mại; tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất; sự bùng nổ của hoạt động cho vay; sự sụt giá tài sản; sự du nhập vốn một cách ồ ạt; sự chuẩn bị chưa kỹ lưỡng để tiến hành mở cửa và sự không tuân thủ tính lôgic và trình tự của cải cách tài chính. Nói cách khác, nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính lại chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả và sự sai lệch trong đường lối cải cách, chứ không phải xuất phát từ bản thân quá trình tự do hoá tài chính. Thứ hai, tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực đặt biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều khiển thị trường tài chính của nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể làm phương hại đến mục tiêu chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đỗ vỡ gây thiệt hại đến lợi ích người tiêu dùng. 1.2.3 Môi trường pháp lý Hệ thống khung pháp luật do nhà nước thiết lập nhằm quy định các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường dịch vụ ngân hàng. Yêu cầu cơ bản đối với hệ thống khung pháp luật là phải thống nhất, ổn định, rõ ràng, minh bạch, phải kết hợp, vận dụng các tiêu chuẩn chung đã được thừa nhận trên phạm vi toàn thế giới. - 25 -
- Chủ trương chính sách của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến xu thế phát triển. Chủ trương có nhất quán mới làm cho những nhà đầu tư yên tâm đầu tư, chính sự nhất quán này cũng giúp cho các chủ thể tham gia định hình được chiến lược của mình. 1.2.4 Hội nhập thị trường dịch vụ ngân hàng Vấn đề cơ bản trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới về dịch vụ ngân hàng của các nước trên thế giới là mở cửa từng bước cho sự tham gia của nước ngoài. Điều này có nghĩa là nhà nước kiểm soát sự tham gia của các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài theo sự phát triển của thị trường nội địa. Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính có thể làm tăng tính cạnh tranh và hiệu quả trong toàn bộ nền kinh tế. Cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng sẽ đem lại lợi ích cho khách hàng thông qua việc tự do hơn khi lựa chọn các loại dịch vụ, lựa chọn được nhà cung cấp tốt nhất với giá cả cạnh tranh 1.3 Kinh nghiệm thế giới về phát triển dịch vụ ngân hàng thời kỳ hậu WTO 1.3.1 Kinh nghiệm của thế giới về phát triển dịch vụ ngân hàng thời kỳ hậu WTO Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống tài chính – ngân hàng cạnh tranh và mở cửa là những hệ thống hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh sẽ làm cho hệ thống ngân hàng vững mạnh, hiệu quả và lành mạnh hơn. Do vậy, các nước đang phát triển nói chung mong muốn hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập WTO để phát triển và cải cách hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao khả năng thu hút và phân bổ các nguồn lực, tạo thuận lợi cho các tổ chức kinh tế có thể tiếp cận các dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao hơn nhưng với chi phí thấp hơn. 1.3.1.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc bắt đầu chính sách mở cửa kinh tế vào năm 1979. Tuy nhiên trong 5 năm đầu tiên của thời kỳ mở cửa, công cuộc cải cách dường như chưa chạm đến hệ thống tài chính ngân hàng. Dấu hiệu cải cách trong hệ thống tài chính mới thực sự xuất hiện vào năm 1984 khi hệ thống ngân hàng tách thành hai cấp: Ngân hàng nhà nước (Ngân hàng nhân dân Trung Quốc) và ngân hàng thương mại. Kể từ đó mới xuất hiện dấu hiệu cạnh tranh giữa các ngân hàng và ở một mức độ thận trọng, các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập và hoạt động ở Trung Quốc. - 26 -
- Trung Quốc là trường hợp điển hình thực hiện hội nhập quốc tế khu vực ngân hàng thông qua các cam kết trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Tiến trình hội nhập quốc tế của Trung Quốc được tiến hành từng bước và được hỗ trợ bằng các chương trình cải cách nhằm củng cố khu vực ngân hàng và các khu vực tài chính khác, đồng thời với quá trình cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước. Trung Quốc chính thức gia nhập WTO vào ngày 11/12/2001, với điều kiện phải mở cửa lĩnh vực ngân hàng và chứng khoán. Đối với việc mở cửa dịch vụ ngân hàng, Trung Quốc cam kết bãi bỏ các hạn chế về địa lý đối với kinh doanh ngoại tệ, giảm dần các hạn chế về kinh doanh đồng bản tệ trong vòng 5 năm, sẽ không có hạn chế về số lượng giấy phép được cấp cho các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài sẽ được đối xử như các ngân hàng trong nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện do nhận thức chưa đủ về năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, nợ xấu của các ngân hàng nhất là 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, đồng thời thị trường tiền tệ, thị trường tài chính kém phát triển, năng lực quản lý - kiểm tra – giám sát của các ngân hàng kém nên chính phủ Trung Quốc đã thực hiện một số cải cách thận trọng trong khi gia nhập WTO và mở cửa dịch vụ ngân hàng. Cụ thể là: Quy định chặt chẽ điều kiện để thành lập ngân hàng nước ngoài, nhất là đưa ra yêu cầu về vốn rất cao: Thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên 20 tỷ USD, ngân hàng liên doanh đối tác với nước ngoài phải có vốn đăng ký tối thiểu 1 tỷ nhân dân tệ (khoảng 121 triệu USD). Chính phủ Trung Quốc chủ trương phát triển thị trường tài chính trong nước với lộ trình đến năm 2004 đã thành lập được thị trường chứng khoán thống nhất với quy mô khá lớn, cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng, các sản phẩm tham gia thị trường này được đa dạng hơn. Chính phủ Trung Quốc cũng cho phép các NHTM nhà nước mở chi nhánh ở nước ngoài để tăng thêm sức cạnh tranh cho hệ thống ngân hàng. Về công tác giám sát: Công tác giám sát được tăng cường, với sự hình thành uỷ ban quản lý thị trường chứng khoán, uỷ ban quản lý ngân hàng, uỷ ban quản lý bảo hiểm. Các uỷ ban này phối hợp với nhau để giám sát các sản phẩm liên ngành. Cũng theo quy định của Uỷ ban quản lý ngân hàng thì các ngân hàng nước ngoài phải thực hiện chế độ báo cáo 2 lần trong một năm. Tích cực xử lý nợ quá hạn: sau khi 4 ngân hàng thương mại nhà nước được tăng vốn 2,6 tỷ USD vào năm 1998 và việc thành lập 4 công ty quản lý tài - 27 -
- sản để xử lý 1,4 tỷ USD nợ xấu của các ngân hàng này vào năm 1999, kết quả đã đem lại những tín hiệu sáng hơn trong việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng của Trung Quốc không ngừng nâng cao năng lực quản lý kinh doanh nhằm đáp ứng sự thay đổi trong quá trình hội nhập như: sàn lọc, tinh giản bộ máy quản lý, nâng cao trình độ của đội ngũ nhân viên, cho phép thành lập các uỷ ban để đánh giá tín dụng và quản lý, thuê kiểm toán độc lập nước ngoài kiểm toán kết quả hoạt động, mời chuyên gia nước ngoài tham gia ban lãnh đạo, cho phép bán 10% cổ phiếu cho một ngân hàng nước ngoài (khoảng 1-2 triệu USD). Mở cửa cho ngân hàng nước ngoài vào Trung Quốc: Tính đến tháng 01/2005 chính phủ Trung Quốc đã cho phép 116 ngân hàng nước ngoài, kinh doanh tại 18 tỉnh, thành phố. Theo bản cam kết của chính phủ Trung Quốc khi vào WTO thì tất cả các hạn chế về địa lý sẽ được xoá bỏ vào cuối năm 2006. Quan điểm của Trung Quốc là mở cửa từ từ, không quá thổi phồng lợi ích của việc cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài. Do đó Trung Quốc chủ động đưa ra các rào cản đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài để đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng và kinh tế phát triển bền vững. Một số rào cản được đưa ra đó là: ¾ Đưa ra yêu cầu về tỷ lệ an toàn về vốn ¾ Hạn chế cho vay bằng ngoại tệ ¾ Hạn chế lãi suất tiền gửi ngoại tệ ¾ Thực hiện chính sách tỷ giá thận trọng, chưa tự do hoá tài khoản vốn ¾ Tập trung phát triển thị trường các công cụ phái sinh trong nước nhằm hạn chế các biến động tỷ giá khi dỡ bỏ chế độ tỷ giá NEO. Các quy định của chính phủ Trung Quốc nêu trên cho thấy cần thiết phải có một quy chế bảo đảm an toàn để hội nhập WTO và mở cửa dịch vụ ngân hàng. Việc đặt ra một rào cản đối với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được xem là phù hợp với hiệp định chung về thương mại và dịch vụ GATS vì các biện pháp được sử dụng cho các mục tiêu chính sách tiền tệ được xem là “ngoại trừ về đảm bảo an toàn”. Sau hơn 5 năm hội nhập WTO, kinh tế Trung Quốc không ngừng tăng trưởng, nền tài chính lành mạnh, các ngân hàng vững bước trong môi trường cạnh tranh chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi của chính phủ Trung Quốc là đúng đắn. Đến nay, hầu hết các cam kết mở cửa đã có hiệu lực, một kết quả vượt kỳ vọng đối - 28 -
- với ngành ngân hàng Trung Quốc đã xảy ra. Nhìn vào các bản tin tài chính tiền tệ thế giới trong một năm trở lại đây sẽ thấy rằng, về góc độ vĩ mô, một trong những thông tin được nhắc đến nhiều nhất là chính sách điều hành tỷ giá đồng nhân dân tệ của ngân hàng trung ương Trung Quốc. Còn về góc độ kinh doanh, thông tin về việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán của ngân hàng Trung Quốc (BOC) và Ngân hàng xây dựng Trung Quốc (CCB) đã chiếm hầu hết các mặt báo về kinh tế, tài chính tiền tệ trong một thời gian dài. Nhờ việc niêm yết cổ phiếu mà hai ngân hàng này đã được định giá theo giá trị thị trường và nằm trong nhóm 10 ngân hàng có giá trị thị trường lớn nhất thế giới. Năm 2006, BOC thu lợi nhuận ròng lên tới 32,3 tỷ NDT (4 tỷ USD) so với mức 27,5 tỷ NDT năm 2005. Tuy vậy, kỷ lục này có thể bị phá vỡ bới kế hoạch niêm yết sắp tới của Ngân hàng thương mại công nghiệp Trung Quốc (ICBC). Nếu tính theo giá trị thương mại, Ngân hàng này sẽ trở thành một trong mười ngân hàng hàng đầu thế giới với lợi nhuận kinh doanh năm 2006 vượt 100 tỷ NDT (12,5 tỷ USD). Thông tin trên phần nào phản ánh sức mạnh của ngân hàng trung ương, cũng như sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng Trung Quốc. 1.3.1.2 Kinh nghiệm của Canada Canada là một trong những nước có trình độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới (là thành viên của khối G7) với tư cách thành viên lâu đời của OECD, GATT và gần đây là NAFTA. Vì vậy, lĩnh vực tài chính không những phát triển và có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế Canada, mà còn có tính chất cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Năm 1997, khu vực tài chính ở Canada chiếm tới 5,2% GDP và thu nạp 4,5% lao động của toàn bộ nền kinh tế. Do việc mở cửa thị trường nên hoạt động dịch vụ tài chính ở Canada mang tính quốc tế hoá cao, nhiều tổ chức, công ty nước ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh tại Canada và ngược lại. Hoa Kỳ là đối tác kinh doanh lớn nhất chiếm tới hơn 50% giá trị dịch vụ kể cả nhập khẩu và xuất khẩu. Tuy mức độ mở cửa thị trường ngày càng trở nên thông thoáng trong thời gian gần đây, song việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở Canada cũng không có nghĩa là tự do hoá hoàn toàn. Trước khi tham gia ký kết hiệp định về thương mại dịch vụ tài chính giữa các nước thành viên WTO (năm 1997), cả một thời kỳ dài Canada áp dụng luật 10/25 trong lĩnh vực ngân hàng. Luật này quy định cá nhân (tổ chức) nước ngoài không được phép sở hữu quá 10% (25%) bất kỳ loại cổ phiếu nào của một ngân hàng nhất định được thành lập theo một điều khoản riêng (Schedule I). Bên cạnh đó, việc mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện trực tiếp từ ngân hàng nước ngoài là điều không - 29 -
- thể. Các ngân hàng nước ngoài muốn hoạt động tại Canada phải thành lập dưới hình thức công ty con hoạt động bằng vốn độc lập của chính công ty con đó theo một điều khoản riêng (Schedule II) và không được tham gia vào hoạt động dịch vụ bán lẻ. Những hạn chế này là những trở ngại đáng kể đối với sự thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài, nhưng đồng thời được coi là những biện pháp an toàn cho sự hoạt động của các ngân hàng nội địa tránh được sự cạnh tranh và đảm bảo tính chủ quyền điều hành của chính phủ trong một chừng mực nhất định. Các ngân hàng được thành lập theo Schedule I đều là những ngân hàng lớn có mạng lưới toàn quốc với hơn 8.000 chi nhánh, nắm giữ trên 90% tài sản của toàn bộ ngành ngân hàng và chủ yếu do người Canada sở hữu. Những công ty con của những ngân hàng nước ngoài được thành lập theo Schdule II chỉ chiếm một thị phần nhỏ và chuyên biệt trong một số lĩnh vực như dịch vụ đầu tư, dịch vụ vay trả, thanh toán đối với các doanh nghiệp kinh doanh. Sau hiệp định FSA, một số hạn chế đối với hoạt động của các Ngân hàng nước ngoài đã được loại bỏ. Chẳng hạn luật sở hữu không quá 10% cổ phần nay được áp dụng chung cho cả cá nhân trong nước và nước ngoài, luật sở hữu không quá 25% cổ phần (đối với tổ chức hoặc nhóm cá nhân) được loại bỏ, các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh trực tiếp tại Canada Tuy nhiên một số hạn chế cần thiết vẫn được giữ nguyên, chẳng hạn: chi nhánh của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng cho vay hoặc dịch vụ) không được phép thực hiện các hoạt động thuộc về chức năng chuyên biệt của các công ty tài chính được quy định trong luật ngân hàng. Chi nhánh của ngân hàng nước ngoài thực hiện chức năng dịch vụ chỉ được phép nhận những khoản tiền gửi dưới 150.000 đô la Canada Một số bang còn đòi hỏi đa số thành viên của hội đồng quản trị phải là cư dân Canada hoặc quy định người nước ngoài có thể không được hưởng quyền bầu cử khi họ nắm giữ cổ phiếu của ngân hàng Canada trong một số trường hợp nhất định. 1.3.2 Bài học rút ra cho Việt Nam trong việc mở cửa thị trường dịch vụ Ngân hàng thời kỳ hậu WTO Mức độ phát triển tài chính góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Các chính sách hạn chế tăng trưởng kinh tế sẽ làm giảm cơ hội cho các ngân hàng. Tương tự như vậy, các chính sách hạn chế khả năng của khu vực tài chính – ngân hàng để đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế sẽ làm giảm triển vọng phát triển kinh tế bền vững. - 30 -
- Các chính sách của chính phủ duy trì sự kiểm sóat “trực tiếp” đối với họat động ngân hàng có xu hướng làm giảm khả năng và các động lực đổi mới và do vậy giảm lợi thế so sánh của các ngân hàng trong nước. Một khuôn khổ đảm bảo an tòan, quản trị kinh doanh, giám sát phù hợp và các chính sách khuyến khích thị trường là những yếu tố quan trọng để họat động ngân hàng đạt kết quả tốt trong dài hạn. Để hội nhập quốc tế thành công cần phải xây dựng một môi trường pháp lý ngân hàng trong nước hấp dẫn với các cơ chế chính sách nhất quán, có quy định quyền sở hữu rõ ràng, công tác thanh tra giám sát an tòan với mức độ độc lập cao, chế độ báo cáo và kiểm tóan minh bạch, tạo lập một sân chơi bình đẳng và hỗ trợ cho các họat động kinh doanh để tất cả các ngân hàng (trong nước và nước ngòai) phát triển. Trình tự hội nhập quốc tế tối ưu tùy thuộc vào mức độ phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng. Tự do hóa tài khỏan vốn mang lại nhiều lợi ích về mặt tiếp cận các nguồn vốn, nhưng từ cuộc khủng hỏang tài chính Châu Á cho thấy việc tự do hóa như vậy cũng tạo ra các rủi ro ở các nước có họat động thanh tra hệ thống ngân hàng yếu kém và công tác quản trị doanh nghiệp thiếu hiệu quả. Hệ quả là phải điều chỉnh các vấn đề này trước khi tiến hành tự do hóa tài khỏan vốn cho các luồng vốn ngắn hạn chảy vào. Kinh nghiệm của các nước phát triển và đang phát triển cho thấy sự tham gia thị trường của các NHNNg không gây tác động lớn đến sự luân chuyển vốn ngắn hạn. Hội nhập quốc tế với nguyên tác chung là tiến tới đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc và thực hiện các chính sách khuyến khích cạnh tranh. Cho phép các ngân hàng con và các chi nhánh NHNNg tham gia với lộ trình phù hợp (đặc biệt là đối với dịch vụ ngân hàng bán lẻ), đồng thời cho phép thực hiện sáp nhập và mua lại các ngân hàng trong nước. Khuyến khích sử dụng các yêu cầu về vốn tối thiểu căn cứ theo mức độ rủi ro là bằng với các yêu cầu về vốn quy định trong thỏa thuận Basel I. Tăng cường năng lực thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa, phối hợp giữa các cơ quan thanh tra. NHTW cần nghiên cứu tách biệt giữa trách nhiệm đối với chính sách tiền tệ và thanh tra, giám sát khu vực ngân hàng. Trì hõan để có thời gian cho các ngân hàng trong nước cải cách bằng cách hạn chế sự tham gia của NHNNg là một chiến lược không phù hợp từ khi các cam kết về cải cách là chắc chắn. Một khi đã cho phép NHNNg vào họat động thì việc hạn chế sự tham gia trên cơ sở nguồn gốc quốc gia sẽ giảm áp lực cạnh tranh. Những hạn chế làm tăng chi phí tương đối của các NHNNg trong quá trình tham gia thị - 31 -
- trường có thể tạo ra lợi thế cho các ngân hàng trong nước nhưng lại dẫn đến họat động kém hiệu quả và mức độ cạnh tranh thấp trên thị trường. Một hệ thống ngân hàng hiệu quả cần có mức độ cạnh tranh cao. Do vậy, sở hữu Nhà nước chi phối trong các ngân hàng cần được nắm giữ ở mức phù hợp sao cho không ảnh hưởng đến mức độ cạnh tranh của hệ thống ngân hàng, nếu các ngân hàng có sở hữu Nhà nước chi phối thì các ngân hàng này cần phải có khả năng họat động như một pháp nhân độc lập. - 32 -
- KẾT LUẬN CHƯƠNG I Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự gia nhập này sẽ mang lại nhiều cơ hội cho lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng như những ngành kinh tế khác của đất nước. Nghiên cứu về sự phát triển của loại hình dịch vụ ngân hàng trong thời kỳ này là yêu cầu cấp thiết đối với những nhà quản lý kinh tế nói chung và những nhà quản trị ngân hàng nói riêng. Dịch vụ ngân hàng là một trong những dịch vụ quan trọng trên thị trường dịch vụ tài chính. Thông qua các sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng chúng ta thấy rằng các sản phẩm này rất đa dạng và phong phú. Phát triển dịch vụ ngân hàng sẽ tạo điều kiện huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, phân bổ và sử dụng một cách hiệu quả nhất cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Cũng qua việc nghiên cứu này cũng cho thấy những sản phẩm tài chính ngân hàng hiện đại sẽ là một trong những tiềm lực to lớn mà các ngân hàng cần phải khai thác trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới. Trên cơ sớ kinh nghiệm về sự phát triển dịch vụ ngân hàng Trung Quốc và Canada cùng với sự phân tích các nhân tố tác động đến sự phát triển dịch vụ ngân hàng trong điều kiện hội nhập, ngành ngân hàng Việt Nam cần phải xây dựng cho mình lộ trình phát triển thích hợp nhằm phát huy thế mạnh và khắc phục những nhược điểm, từng bước tạo ra một hệ thống ngân hàng hiện đại, an toàn, hiệu quả, đạt được những chuẩn mực quốc tế và khu vực. - 33 -
- CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TRÊN ĐỊA BÀN TP HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2001 – 2006. 2.1 Sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại tại TPHCM Trong những năm cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 là thời kỳ sôi động ở TP.HCM cũng như trong cả nước trong việc khiển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần VI (1986) và lần VII (1991) về đổi mới nền kinh tế đất nước. Chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vào thời điểm đó, hoạt động tiền tệ – ngân hàng được xác định có vai trò là mũi nhọn, động lực góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới. Nghị quyết TW 3 (khóa VI), Quyết định 218/HĐBT (1987) và Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng đã chỉ đạo chủ trương chuyển hoạt động ngân hàng từ cơ chế bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Thực hiện chủ trương đó, hệ thống NHNN được tách ra và thành lập các ngân hàng chuyên doanh, từng bước vừa nghiên cứu vừa làm, đi từ thí điểm, thực nghiệm để xây dựng mô hình tổ chức và xây dựng cơ chế hoạt động hạch toán kinh doanh đối với ngân hàng là nhiệm vụ mới mẻ và gặp không ít khó khăn. Mở đầu từ TP.HCM cùng với việc xây dựng các ngân hàng chuyên doanh thì Nhà nước đã thí điểm xây dựng NHTMCP, đầu tiên là NHTMCP Sài Gòn Công Thương (1987) và kế tiếp là NHTMCP Xuất nhập khẩu (1988). Đó bước khởi đầu đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hàng trên địa bàn TP.HCM. Hình thành mạng lưới ngân hàng thực hiện cơ chế hạch toán kinh doanh, tách khỏi hệ thống NHNN (một cấp) tiếp cận dần với nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần. Cũng trong thời kỳ này đã có sự bộc phát hình thành một hệ thống các hợp tác xã (HTX) tín dụng và các tổ chức doanh nghiệp huy động vốn kinh doanh khác, cùng hoạt động, kinh doanh tiền tệ rộng khắp trên địa bàn TP.HCM với gần 200 cơ sở. Trong lúc tiền Đồng VN đang ở thời kỳ lạm phát cao, trình độ quản lý kinh doanh yếu kém, chưa có hành lang pháp lý và sự hoạt động của các tổ chức này đã vượt quá tầm kiểm soát của Nhà nước. Chính vì vậy mà hệ thống này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, đến cuối năm 1989 và đầu năm 1990 đã bị đổ vỡ, tan rã để lại hậu quả rất xấu về kinh tế xã hội, phải mất rất nhiều công sức, của cải vật chất để khắc phục hậu quả này. - 34 -
- Đến tháng 05/1990, Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và Công ty tài chính ra đời đã tạo hành lang pháp lý đầu tiên cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, đánh dấu một bước ngoặt mới trong tiến trình đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hàng VN. Từ đó từng bước hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp, phân định rõ chức năng quản lý của NHNN và chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM. Trên cơ sở đó, ở địa bàn TP.HCM đã tích cực tổ chức triển khai thực hiện việc điều chỉnh hoạt động của các NHTMNN và các NHTMCP. Thành lập các NHTMCP trên cơ sở hợp nhất các HTX tín dụng và thành lập thêm một số NHTMCP mới. Trong một thời gian ngắn tổ chức và sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, các NHTMCP hình thành và hoạt động cùng với các NHTMNN tạo điều kiện phát huy tính cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường; qua đó góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Tính đến 1/1/2007 hệ thống NHTM VN gồm 32 NHTMCP, 5 NHTMNN, 5 NHLD, 35 chi nhánh NHNNg. Năm 2006 là năm đánh dấu bước tiến bộ vượt bậc của ngành ngân hàng trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái, tăng nhanh dự trữ ngoại tệ (thêm 2,5 tỷ USD), tích cực cải cách thể chế và hiện đại hoá công nghệ phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt, hệ thống các NHTM, nhất là NHTMCP đã có những bước tiến lớn về quy mô hoạt động, mạng lưới và năng lực cạnh tranh Tổng tài sản của các NHTM VN đã đạt xấp xỉ gần 1.200 nghìn tỷ đồng, tăng 33% so cuối năm 2005 và lần đầu tiên vượt mức GDP (gần bằng 120% GDP). Vốn tự có đạt 83.000 tỷ đồng, tăng 36% so cuối năm 2005 và về cơ bản đã chuyển toàn bộ các NHTMCP nông thôn thành NHTMCP đô thị, ngân hàng có vốn điều lệ thấp nhất cũng đạt đến 250 tỷ đồng. Nhờ đó đã nâng tỷ lệ an toàn vốn bình quân toàn ngành đạt xấp xỉ tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu (8%). Chất lượng tài sản đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ nợ tồn đọng tính trên cùng một chuẩn mực kế toán đã giảm từ khoảng 5% cuối năm 2005 xuống còn 3,5% cuối năm 2006. Hàng loạt sản phẩm ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ thông tin đã được áp dụng và hoạt động kinh doanh bán lẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử, thanh toán và chuyển tiền Năm 2006 là năm các NHTM đạt mức sinh lời rất cao: tỷ lệ lãi ròng trên vốn tự có bình quân 17%- 18%. Một số NHTMCP đạt trên mức 30%. Tuy nhiên, hoạt động của mỗi NHTMCP cũng có những kết quả rất khác nhau, có ngân hàng đã và đang hoạt động rất tốt với hiệu quả kinh doanh và uy tín - 35 -
- cao nên có khả năng cạnh tranh cao với các loại hình sở hữu ngân hàng khác, tuy nhiên cũng có NHTMCP hoạt động rất yếu kém, không đủ sức cạnh tranh trong kinh doanh và đang trong tình trạng được “kiểm soát đặc biệt”, xử lý để vực dậy hoặc phải thu hồi giấy phép hoạt động để thanh lý giải thể hoặc phá sản theo đề án củng cố, sắp xếp NHTMCP đã được chính phủ phê duyệt. 2.2 Khái quát hoạt động của Ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương hoạt động kinh tế năng động nhất, là một trong những tỉnh, thành phố đi đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nếu như năm 2001 tốc độ tăng GDP của thành phố là 7,4% thì đến năm 2005 tăng lên 12,2%. Phát triển kinh tế với tốc độ cao đã tạo ra mức đóng góp GDP lớn cho cả nước. Có thể nói thành phố là hạt nhân trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (KTTĐPN) và trung tâm đối với vùng Nam Bộ. Với mức đóng góp GDP là 66,1% trong vùng KTTĐPN và đạt mức 30% trong tổng GDP của cả khu vực Nam Bộ. Những năm vừa qua tình hình kinh tế thành phố có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Năm 2005, năng suất lao động bình quân toàn nền kinh tế thành phố đạt 63,63 triệu đồng/người/năm, thành phố là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất cả nước, kể từ khi luật đầu tư được ban hành. Số dự án đầu tư vào thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng số dự án đầu tư nước ngoài trên cả nước. Về thương mại, dịch vụ, thành phố là trung tâm xuất nhập khẩu lớn nhất cả nước. Cơ sở vật chất ngành thương mại được tăng cường với khoảng 400 chợ bán lẻ, 81 siêu thị, 18 trung tâm thương mại, 3 chợ đầu mối. Khu vực dịch vụ tăng trưởng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Hoạt động du lịch của thành phố phát triển mạnh, chưa bao giờ thành phố Hồ Chí Minh đón nhiều du khách như năm 2005. Lượt khách du lịch quốc tế đến thành phố trên 2 triệu lượt, tăng 27% so với năm 2004. Doanh thu ngành du lịch đạt 13.250 tỷ đồng, tăng 23%. Đến nay, có 142 khách sạn được xếp hạng, trong đó có 35 khách sạn từ 3 đến 5 sao với 5.740 phòng và 346 doanh nghiệp lữ hành đủ điều kiện kinh doanh. Chính những điều kiện kinh tế xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho thành phố trở thành trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam, thành phố dẫn đầu trong cả nước về số lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính – tín dụng. Doanh thu của hệ thống ngân hàng thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng doanh thu toàn quốc. - 36 -
- Theo Nghị quyết đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ chí Minh lần thứ VII thì mục tiêu cơ bản của chương trình phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng trên đại bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2005 và định hướng đến năm 2010 là: “Dịch vụ tài chính ngân hàng trở thành một ngành kinh tế chủ lực của thành phố, huy động vốn cho đầu tư và phát triển, góp phần thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của thành phố trong thời gian tới, đưa thành phố Hồ Chí Minh trở thành một trung tâm tài chính của phía Nam và cả nước”. Trên cơ sở đó ngân hàng nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng chương trình mục tiêu lộ trình phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2001-2005, một số nội dung về nguyên tắc phát triển dịch vụ ngân hàng được thể hiện đó là: phải đảm bảo hiệu quả cho ngân hàng và cho nền kinh tế, các dịch vụ ngân hàng phải đảm bảo nhanh chóng, tính tiện ích cao, an toàn và bảo mật thông tin, nâng cao tính cạnh tranh nghiệp vụ cho ngân hàng. Trong chương trình này, một số yêu cầu để phát triển dịch vụ ngân hàng đó là: Phát triển dịch vụ ngân hàng phải vừa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế của cả nước nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, vừa phải đảm bảo hoạt động của ngân hàng được an toàn và hiệu quả, đáp ứng được những tiện ích tối cao cho khách hàng và cho nền kinh tế. Quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng phải đảm bảo nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng đồng thời bảo đảm yêu cầu chuẩn mực hội nhập kinh tế quốc tế. Qua những phân tích tình hình kinh tế xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh, cùng với những chủ trương của Đảng bộ, chính quyền thành phố trong phát triển ngành ngân hàng. Chúng ta thấy rằng ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh có những cơ sở khá thuận lợi để phát triển các dịch vụ tài chính ngân hàng. Tuy nhiên, sự phát triển này có vững chắc hay không, còn có những thuận lợi hoặc khó khăn gì, chúng ta cần đi sâu vào phân tích thực trạng hoạt động của NHTM trên địa bàn thành phố trong những năm gần đây. 2.3 Thực trạng hoạt động và phát triển các dịch vụ ngân hàng của NHTM khu vực thành phố Hồ Chí Minh những năm vừa qua. Năm 2005 là năm kết thúc chương trình mục tiêu lộ trình phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng giai đoạn 2001-2005. Sau 5 năm thực hiện, các hoạt động dịch vụ ngân hàng phát triển đáng kể cả về số lượng và chất lượng, góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, thể hiện rõ nét trong hoạt động của các ngân hàng, của khách hàng cá nhân cũng như khách hàng doanh nghiệp được cung ứng dịch vụ. - 37 -
- 2.3.1 Hoạt động của các dịch vụ ngân hàng truyền thống 2.3.1.1 Hoạt động dịch vụ huy động vốn: Trong những năm qua với các hình thức huy động vốn khác nhau, các tổ chức tín dụng cạnh tranh nhau gay gắt trong việc thu hút vốn, thu hút khách hàng. Nhiều hình thức huy động vốn đa dạng, mới lạ, phong phú về kỳ hạn, về loại tiền gửi cũng như hình thức gửi tiền, lãi suất linh hoạt, hấp dẫn cùng các hình thức khuyến mãi có cơ cấu giải thưởng hấp dẫn đã thực sự thu hút khách hàng đến với ngân hàng cộng với thái độ phục vụ khách hàng ân cần, chuyên nghiệp hơn, thủ tục nhanh gọn hơn đã đem lại những tiện ích cho khách hàng đến giao dịch. Chính những nguyên nhân trên đã thúc đẩy tốc độ huy động vốn tăng trưởng cao trong những năm qua. Chúng ta có thể tham khảo một số kết quả hoạt động của dịch vụ huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. BẢNG 2.3.1.1 HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM ĐVT: tỷ đồng Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng huy động 65.716 85.996 114.572 150.337 188.876 285.503 vốn Tốc độ tăng 16,9% 30,9% 33,2% 31,2% 25,6% 51.2% trưởng% Nguồn: Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh TPHCM. - 38 -
- BIỂU ĐỒ 2.3.1.1 HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM Hoạt động huy động vốn khu vực TPHCM 300000 200000 Tỷ đồng 100000 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Năm Như chúng ta đã nói ở trên, dịch vụ huy động vốn của các NHTM ở TPHCM đã không ngừng phát triển qua các năm. Đến 31/12/2005 huy động vốn đạt 188.876 tỷ đồng, tăng 25.6% so với năm 2004. Trong năm 2006, hoạt động huy động vốn đạt 285.503 tỷ đồng, tăng 51.2% so với năm 2005. Để đạt được kết quả này phải kể đến sự chủ động, sáng tạo của các ngân hàng trong việc thu hút khách hàng. Ngoài những hình thức truyền thống thì những hình thức mới, lần đầu được áp dụng như hình thức huy động vốn với lãi suất bậc thang của Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn hay chương trình Tiết Kiệm Ổ Trứng Vàng của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam đã làm cho nhiều khách hàng chủ động trong việc gửi tiền và rút tiền. Theo kết quả điều tra của tác giả, trong 125 phiếu thăm dò các khách hàng cá nhân sử dụng dịch vụ của NHTM khu vực TPHCM thì có 67 khách hàng (chiếm 53,6%) sử dụng dịch vụ tiền gửi tiết kiệm. Tỷ lệ này có thể là chưa cao nhưng cũng nói lên sự quan tâm của khách hàng cá nhân đến loại hình dịch vụ này. Cũng trong cuộc điều tra này, khi tiếp xúc với khách hàng Hàn Nguyệt Thu Hương, là khách hàng sử dụng dịch vụ gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Quốc Tế Việt Nam, chị Hương cho biết chị sử dụng tiền nhàn rỗi của gia đình để gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Quốc Tế Việt Nam vì chị thấy hình thức huy động của Ngân hàng rất hấp dẫn, với nhiều giải thưởng khi tham dự rút thăm trúng thưởng và nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn khác, đội ngũ nhân viên chăm sóc khách hàng của Ngân hàng này là rất tốt Nếu ngân hàng giải quyết được sự gắn kết giữa sản phẩm huy động vốn với sản phẩm thanh toán, các chứng từ có giá khác, làm tăng thêm tính thanh khoản của sản phẩm thì khách hàng tham gia loại hình huy động vốn sẽ cao hơn nữa. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại hạn chế là bên cạnh những ngân hàng thực hiện khá tốt khâu tiếp xúc với khách hàng thì còn một số nhân viên của một vài ngân hàng (nhất là NHTM quốc - 39 -
- doanh) còn có những thái độ chưa làm cho khách hàng hài lòng như không nhiệt tình, hướng dẫn khách hàng không chu đáo, giao tiếp thiếu lịch sự Đi sâu vào phân tích các loại kỳ hạn của hình thức huy động vốn, chúng ta thấy rằng chủ yếu nguồn vốn huy động được là từ nguồn huy động ngắn hạn và không kỳ hạn, còn vốn huy động trung và dài hạn chiếm tỷ trọng ít. Theo kết quả điều tra của tác giả, với câu hỏi:” Đối với hoạt động gửi tiền ngân hàng, anh/chị thường gửi tiền với loại kỳ hạn nào?”, kết quả thu được là: gửi không kỳ hạn: 52/125 phiếu chiếm tỷ lệ 41,6%, gửi ngắn hạn 48 phiếu chiếm tỷ lệ 38,4%, gửi trung hạn 21 phiếu chiếm tỷ lệ 16,8%, gửi dài hạn 4/125 phiếu chiếm tỷ lệ 3,2%. Tìm hiểu lý do vì sao nhiều khách hàng chọn kỳ hạn gửi tiền ngắn hạn và không kỳ hạn, tác giả thấy rằng khách hàng chọn loại kỳ hạn này vì mong muốn chủ động rút tiền trong quá trình gửi, khách hàng có thể điều chỉnh được các hình thức đầu tư có lợi cho mình nhất, có thể rút tiền ra để đầu tư vào những loại hình kinh doanh khác khi có điều kiện thuận lợi. Một số thuận lợi ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động ngày càng tăng của hệ thống NHTM ¾ Nền kinh tế phát triển tương đối ổn định với tốc độ tăng khá và tương đối rõ nét ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. ¾ Hoạt động kinh doanh của NHTM ngày càng đi vào nề nếp và có hiệu quả góp phần làm tăng uy tín với dân chung trong giao dịch, ký thác. ¾ Quan hệ khách hàng được xây dựng ổn định, lâu dài với các chính sách riêng. ¾ NHNN từng bước thực hiện tự do hoá trong điều hành lãi suất thông qua lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn. Lãi suất huy động của NHTM được điều chỉnh linh hoạt theo quan hệ cung cầu thị trường tiền tệ và yêu cầu khách hàng. ¾ Cơ sở vật chất, trang thiết bị, công nghệ ngân hàng ngày càng được nâng cấp. Đồng thời, trình độ đội ngũ nhân viên NHTM ngày càng nâng lên, có tính chuyên nghiệp hơn giúp việc xử lý tác nghiệp được nhanh chóng, chính xác. ¾ Mạng lưới giao dịch được mở rộng, đều khắp tại các vùng kinh tế trọng điểm nhằm cung cấp dịch vụ ngân hàng và thu hút vốn nhàn rỗi. ¾ Các sản phẩm ngân hàng ngày càng được cải tiến. Các hình thức huy động và đối tượng huy động được đa dạng hoá tăng tính tiện nghi cho khách hàng. ¾ Việc tham gia bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng và khả năng quản lý, kiểm soát của NHNN ngày càng cao và chặt chẽ giúp người gửi tiền an tâm. Bên cạnh đó, hoạt động huy động vốn của NHTM cũng gặp một số khó khăn: ¾ Hoạt động của các NHTM chưa thực sự “đều tay” về nhiều mặt: vốn điều lệ; trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ, nhân viên; - 40 -
- quan điểm nhận thức khi tham gia điều hành kinh doanh ngân hàng; cơ sở vật chất kỹ thuật; mạng lưới giao dịch; sản phẩm, loại hình tiền gửi; dịch vụ hỗ trợ ¾ Một vài NHTMCP có hiệu quả kinh doanh thấp, hoạt động đang trong tình trạng bị kiểm soát đặc biệt đã ít nhiều làm giảm uy tín của toàn hệ thống. ¾ Trong cơ cấu nguồn vốn, nguồn vốn có lãi suất thấp (Tiền gửi thanh tóan, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, vốn ủy thác ) chiêm tỉ trọng thấp; trong khi nguồn vốn lãi suất cao (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn) có tỷ trọng lớn làm chi phí đầu vào cao, làm giảm khả năng cạnh tranh trong sử dụng vốn, giảm lợi nhuận kinh doanh. ¾ Môi trường kinh doanh càng ngày càng khó khăn. Ngoài việc cạnh tranh trong ngành; còn phải cạnh tranh với các hình thức huy động của các tổ chức phi ngân hàng khác như: bảo hiểm, tiền gửi tiết kiệm bưu điện, Công ty tài chính ngày càng tăng. Các yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao,khắt khe hơn. ¾ Sản phẩm tiền gửi của một vài NHTM còn nghèo nàn, mạng lưới giao dịch chưa đủ rộng, chưa tạo được tính hấp dẫn khách hàng gửi tiền. ¾ Cơ sở vật chất, công nghệ trong thanh toán dù có được cải tiến nhưng hầu hết vẫn chưa đạt yêu cầu về tính tiện nghi, tốc độ xử lý, tính chính xác ¾ Quan hệ giữa lãi suất huy động – lạm phát và sự điều tiết của Nhà nước (chủ yếu qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc) làm phí tổn huy động vốn tăng, tăng rủi ro lãi suất 2.3.1.2 Hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng nhằm cung ứng vốn cho nền kinh tế. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có vốn đầu tư nước ngoài rất lớn. Các khu công nghiệp, khu chế xuất là khu vực có nhiều doanh nghiệp hoạt động, là nơi giải quyết được nhiều việc làm cho công dân thành phố và những tỉnh thành khu vực miền Nam. Đây là khu vực có nhu cầu cao về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, do đó đây cũng là địa bàn hoạt động của các ngân hàng. Để tiếp cận và phát triển sản phẩm tín dụng, các ngân hàng không ngừng đưa ra các hình thức đầu tư đa dạng và phong phú, những đổi mới và hoàn thiện trong hoạt động nghiệp vụ như quản lý và hoạt động theo sổ tín dụng, theo quy trình tín dụng chuẩn mực gắn liền với quá trình nâng cao chất lượng tín dụng, đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư như: cho vay trực tiếp, tài trợ dự án, góp vốn, đầu tư giấy tờ có giá Hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng ngày càng phát triển với nhiều hình thức tín dụng: Tín dụng kích cầu, tín dụng tiêu dùng, tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn đã tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng tốt hơn. Theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh đến hết năm 2006 kết quả hoạt động tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn có nhiều khả quan, cụ thể: - 41 -
- BẢNG 2.2.1.2 KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ TÍN DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM ĐVT: Tỷ đồng Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Dư nợ cho vay 56.189 74.243 101.006 136.624 175.759 229.747 Tốc độ tăng 7,7% 32,1% 36% 35,3% 28,6% 30.7% trưởng% Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước - Chi nhánh TPHCM. BIỂU ĐỒ 2.2.1.2 KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ TÍN DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM Hoạt động dịch vụ tín dụng trên địa bàn TPHCM 250000 200000 150000 Tỷ đồng 100000 50000 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Năm Theo kết quả trên, chúng ta thấy rằng bình quân tín dụng tăng trưởng 24% - 27%/năm. Trong đó, năm 2005 dư nợ tín dụng đạt 175.759 tỷ đồng, tăng 28,6% so với năm 2004. Năm 2006, dư nợ cho vay của các NHTM trên địa bàn thành phố đạt 229.747 tỷ đồng tăng 30.7% so với năm 2005. Phân tích sâu hơn những kết quả đạt được trong dịch vụ tín dụng của ngân hàng, chúng ta thấy rằng tốc độ tăng trưởng của loại dịch vụ này không ngừng tăng, nhất là trong giai đoạn hội nhập. Khi mà nền kinh tế mở cửa, các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, ngoài nguồn vốn tự có của doanh nghiệp thì vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn mà doanh nghiệp hướng tới. Trong kết quả cuộc điều tra của tác giả, với câu hỏi: “Cơ quan anh/chị sử dụng dịch vụ ngân hàng nhằm mục đích gì?” thì có đến 49/65 đơn vị tham gia (chiếm tỷ lệ 75,38%) trả lời là cơ quan của họ vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Điều này càng khẳng định là dịch vụ tín dụng sẽ ngày càng phát triển. Tuy nhiên, một vấn đề làm hạn chế sự tiếp cận - 42 -
- nguồn vốn vay này của các doanh nghiệp đó là vấn đề lãi suất cho vay và yêu cầu phải có tài sản đảm bảo. Thực sự với lãi suất cho vay cho doanh nghiệp vay hiện nay (gần 12%/năm đối với vay ngắn hạn) là một vấn đề đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những chính sách thích hợp trong phát triển sản xuất. Nếu kinh doanh hiệu quả không cao thì lợi nhuận làm ra sẽ chạy hết vào túi của các ngân hàng. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ làm tăng rủi ro tín dụng của các ngân hàng, do đó các ngân hàng cần phải có hướng tiếp cận, tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp phát triển ngày càng tốt hơn. Cũng tho kết quả điều tra của tác giả, thì có đến 40% doanh nghiệp được hỏi cho rằng lãi suất hiện nay là quá cao, 32,3% trả lời là cao, chỉ có 24,62% cho rằng lãi suất như vậy là trung bình. Điều này càng khẳng định vấn đề lãi suất là vấn đề các doanh nghiệp rất quan tâm. Khi hội nhập, các ngân hàng nước ngoài hoạt động ở Việt Nam sẽ tiên phong đi vào vấn đề lãi suất cho vay để tiếp cận các doanh nghiệp. Với tiềm lực về vốn lớn, các ngân hàng sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh, chiếm thị phần thong qua bài toán lãi suất, do đó các NHTM trong nước cần có những phương án khả thi hơn để giữ vững thị phần của mình. Khi được hỏi doanh nghiệp đánh giá như thế nào về chất lượng hoạt động dịch vụ tín dụng của các ngân hàng, có nhiều quan điểm khác nhau nhưng tựu trung lại thì có những mặt ngân hàng đã làm cho doanh nghiệp hài lòng, nhưng cũng có những khâu, bộ phận đã làm giảm niềm tin yêu của khách hàng dành cho ngân hàng. Cụ thể khi hỏi về sự hài lòng về thủ tục hành chính khi giải quyết các vấn đề tín dụng, chỉ có 23,16% khách hàng hài lòng với thủ tục hành chính, còn lại 67.9% cho rằng thủ tục hành chính của các ngân hàng là tạm được, 8.95% cho rằng thủ tục hành chính còn quá chậm. Sự hài lòng về giải quyết thủ tục hành chính ở các NHTM cổ phần được đánh giá cao hơn các NHTM quốc doanh vì trong 67.9% doanh nghiệp hài lòng về thủ tục hành chính thì có đến 68,97% các doanh nghiệp này quan hệ với các NHTM cổ phần. Khi điều tra số liệu thực tế tại Công ty Cổ Phần Dịch Vụ Công Nghệ Tin Học HPT, là một trong những công ty hàng đầu ở lĩnh vực công nghệ thông tin, Công ty có quan hệ tín dụng với Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam – Chi nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh và Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam – Chi nhánh Sài Gòn. Theo Bà Đinh Hà Duy Trinh, Phó Tổng Giám Đốc kiêm Giám đốc tài chính công ty thì thủ tục giải ngân của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam là rất chậm, thông thường phải mất 2-3 ngày mới hoàn thiện thủ tục kiểm duyệt tín dụng, sự thay đổi nhân viên tín dụng làm chậm trễ việc vay vốn của công ty. Trong quá trình cho vay để thực hiện các dự án, Ngân hàng đòi hỏi quá nhiều giấy tờ chính những yếu tố này đôi khi làm căng thẳng mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Cũng theo bà Trinh, nếu ngân hàng cởi mở hơn trong thủ tục xét - 43 -
- duyệt thì công ty bà sẽ thuận lợi hơn trong quá trình vận hành, điều này không chỉ đem lại hiệu quả cho công ty bà mà còn có lợi cho ngân hàng, ngân hàng sẽ thu nhanh, thu đủ và tài trợ cho nhiều dự án hơn. Khi xem xét đến vấn đề tín dụng nông thôn, qua khảo sát dân cư trên địa bàn Quận Tân Bình, khu tiểu thương chợ Tân Bình, tác giả được biết việc vay tiền để hoạt động kinh doanh của người dân không phải là chuyện đơn giản. Muốn vay tiền, người vay phải nhờ đến cò tín dụng (đôi khi là nhân viên tín dụng) và phải trả tiền hoa hồng ngay sau khi nhận tiền. Khoản hoa hồng đó khoảng 50.000 đồng đến 100.000 đồng cho món vay nhỏ và hàng trăm ngàn đồng cho giá trị vay lớn. Dĩ nhiên là ngân hàng cho vay không biết điều này, chỉ có người giao tiền và người vay biết với nhau. Cũng là vấn đề tín dụng dân cư, một số ngân hàng trên địa bàn thành phố đang chuyển từ bán buôn sang bán lẻ hiệu quả. Sau khi quan hệ với doanh nghiệp, ngân hàng nước ngoài bắt đầu đặt vấn đề phục vụ nhân viên các doanh nghiệp này. Họ có thể cho nhân viên của doanh nghiệp vay tín chấp đến 200 triệu đồng. Từ hàng trăm khách hàng doanh nghiệp họ có hàng chục ngàn khách hàng cá nhân. Phương thức phát triển khách hàng theo kiểu “vết dầu loang” đã thành công và vẫn đang phát triển. Như vậy trong quá trình phát triển dịch vụ tín dụng, các ngân hàng trong nước cần phải tìm hiểu những cách tiếp cận của các ngân hàng nước ngoài trong thâm nhập thị trường. Một vấn đề tiếp cận của các ngân hàng nước ngoài khác ngân hàng trong nước có thể kể đến là: ¾ Thứ nhất, ngân hàng nước ngoài cho vay tín chấp, các ngân hàng trong nước cho vay thế chấp. Cụ thể, các ngân hàng nước ngoài cho doanh nghiệp vay tiền thuê đất lập xưởng sản xuất, buôn bán. Khi doanh nghiệp mua bán hàng hoá, ngân hàng sẽ thu hoặc trả tiền hộ. Nghĩa là ngân hàng góp phần tạo ra thành công từ đầu và cũng từ đó tạo ra sự gắn bó với khách hàng. Còn các doanh nghiệp muốn vay tiền của ngân hàng trong nước phải có quyền sử dụng đất hay nhà xưởng, bất động sản để thế chấp. Chính điều này đã làm cho ngân hàng trong nước mất đi một phần thị phần của mình. ¾ Thứ hai, ngân hàng nước ngoài tuân thủ triệt để phương châm:”Khách hàng luôn luôn đúng” trong việc xử lý tranh chấp. Phương thức kinh doanh của ngân hàng nước ngoài đặt khách hàng lên hàng đầu, họ xem khách hàng là cầu nối dẫn đến lợi nhuận, là vốn kinh doanh lớn nhất. Nếu kinh doanh 5 lời - 44 -
- 5 lỗ thì ngân hàng nước ngoài vẫn tính là lời vì họ được khách hàng. Năm nay khách hàng chưa mang lợi nhuận cho ngân hàng, nhưng năm sau, năm sau nữa sẽ đến. Cứ như thế khi họ có quyền huy động tiền gửi và cung ứng tất cả các dịch vụ cho các cá nhân như ngân hàng trong nước, họ chỉ cần dùng thương hiệu vốn có từ lâu để chinh phục khách hàng. Qua những phân tích trên, chúng ta thấy rằng ngành ngân hàng cần phải có những thay đổi trong quá trình phục vụ khách hàng, một mặt là giữ thị trường, mặt khác là tăng tính cạnh tranh để phát triển thêm thị phần mới, nhất là khi quá trình thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài trong điều kiện hội nhập ngày càng đến gần. 2.3.1.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán: Đây là hoạt động dịch vụ có bước phát triển nhanh và đạt được những kết quả rất tích cực. Chính quá trình phát triển và ứng dụng những công nghệ hiện đại trong hoạt động thanh toán đã tạo ra khả năng thanh toán nhanh, chính xác, an toàn và bảo mật. Với những ưu điểm đó hoạt động dịch vụ thanh toán đã mang lại lợi ích kinh tế thực sự cho khách hàng và cho nền kinh tế, thu hút và hấp dẫn nhiều khách hàng quan hệ giao dịch và thanh toán với ngân hàng, nổi bật nhất là hoạt động dịch vụ chuyển tiền điện tử, dịch vụ thẻ, thanh toán trực tuyến. Bên cạnh đó mô hình giao dịch một cửa cũng đem lại sự thuận tiện cho khách hàng trong quá trình giao dịch, tạo cho hoạt động thanh toán của các tổ chức tín dụng trên địa bàn có ưu thế trong cạnh tranh và phát triển. BIỂU SƠ ĐỒ 2.3.1.3 BIỂU ĐỒ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT QUA NGÂN HÀNG TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM. Khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt 2500000 2000000 1500000 tỷ đồng 1000000 500000 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Năm - 45 -
- BẢNG 2.2.1.3 BẢNG THỂ HIỆN KHỐI LƯỢNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM1 ĐVT: Tỷ đồng Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 T10/2006 KLTT không dùng 840.744 1.099.613 1.118.012 1.750.600 1.953.238 2.473.500 tiền mặt + Thanh toán thẻ, 204 7.900 9.039 11.430 18.590 26.469 ngoại tệ quy đổi + Thanh toán séc 2.948 4.480 5.921 9.450 - - + UNT 33.269 43.035 35.641 44.064 47.154 - + UNC 648.244 846.509 807.072 1.170.871 1.215.649 - + Khác 156.079 197.689 260.339 514.785 - - Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước - Chi nhánh TPHCM. Theo số liệu ở trên, chúng ta thấy rằng khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt tăng lên theo thời gian. Điều này chứng minh rằng dịch vụ thanh toán của các NHTM ngày càng phát triển theo sự phát triển của công nghệ ngân hàng. Sự phát triển này đã góp phần lưu chuyển nhanh nguồn vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, lưu thông, giảm tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt. Đặc biệt sau thành công việc nối mạng thanh toán liên ngân hàng của 6 ngân hàng (Ngoại thương, Đầu Tư, Công Thương, Nông nghiệp, Á Châu, Eximbank) bắt đầu từ ngày 02/05/2002, thực hiện một khoản thanh toán không quá 10 giây. Đến năm 2006, đã có 72 đơn vị thành viên (trong đó có 6 đơn vị NHNN và 45 TCTD) với gần 200 đơn vị thành viên đã tham gia thanh toán liên ngân hàng. 1Số liệu báo cáo thể hiện (-): Do thực hiện theo chế độ báo cáo thống kê 477/QĐ-NHNN, Ngân hàng nhà nước chi nhánh TPHCM chưa khai thác được số liệu các chỉ tiêu này. - 46 -
- Theo số liệu thống kê, lượng giao dịch thanh toán liên ngân hàng trung bình là 9.000-10.000 món/ngày, có ngày lên đến 17.000 món với gần 11.000 tỷ đồng. Nhiều phương tiện thanh toán khác đã đáp ứng được yêu cầu chi trả của nền kinh tế như: Ủy nhiệm thu, Ủy nhiệm chi, séc có nhiều nội dung mới, thuận tiện cho người sử dụng. Cũng chính sự thuận tiện của các phương tiện thanh toán đã làm cho số lượng tài khoản cá nhân tăng nhanh qua các năm. Đến nay số lượng tài khoản cá nhân đạt 938.000 tài khoản (số liệu đến tháng 12/2005), tăng 8 lần so với năm 2001, tốc độ mở rộng và phát triển tài khoản cá nhân trên địa bàn TPHCM ngày càng tăng, góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng phát triển. 2.2.1.4 Hoạt động dịch vụ ngoại hối Trên lĩnh vực hoạt động ngoại hối với cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Với những điều chỉnh, thay đổi linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế như: thay đổi trong hoạt động xác nhận vay trả nợ, chuyển tiền cá nhân, kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Sự phát triển của loại hình dịch vụ này đã tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố phát triển, góp phần nâng cao đời sống xã hội của toàn thành phố. Đi sâu vào tìm hiểu các số liệu về dịch vụ ngoại hối, chúng ta thấy rằng doanh số kinh doanh ngoại tệ tăng theo thời gian. Chúng ta có thể tham khảo thông qua bảng tổng hợp sau đây: BẢNG 2.3.1.4 BẢNG TỔNG HỢP SỐ LIỆU HOẠT ĐỘNG NGOẠI HỐI TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM ĐVT : Triệu USD Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Doanh số mua ngoại t ệ 6.834 7.175 9.214 13.924 20.407 29.392 Doanh số bán ngoại t ệ 6.607 7.008 8.198 13.048 19.628 29.760 Kiều hối 829 1.057 1.690 1.891 2.200 2.400 Thu đổi ngoại tệ 906 1.283 1.324 1.537 2.108 2.312 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh TPHCM. - 47 -
- SƠ ĐỒ 2.3.1.4 TỔNG HỢP SỐ LIỆU HOẠT ĐỘNG NGOẠI HỐI TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM Doanh số mua bán ngoại tệ 30000 20000 triệu USD 10000 Doanh số mua 0 Doanh số bán 2001 2003 2005 Năm Theo số liệu thống kê ở trên, chúng ta thấy rằng tổng số mua ngoại tệ năm 2005 đạt 20.407 triệu USD, gần bằng 2 lần so với năm 2004. Tổng doanh số bán ngoại tệ năm 2005 đạt 19.628 triệu USD, bằng 3 lần so với năm 2001. Đến năm 2006, tổng doanh số mua đạt 29.392 triệu USD, tổng doanh số bán đạt 29.760 triệu USD. Để đạt được kết quả trên phải kể đến quá trình đầu tư vốn của nước ngoài vào nền kinh tế của nước ta ngày càng tăng, bên cạnh đó vấn đề đầu tư của hệ thống của ngân hàng ra nước ngoài có xu hướng tăng. Dịch vụ kiều hối đã có bước phát triển rất lớn. Sau khi chính phủ ra quyết định số 170/1999/QĐ-TTg về vận hành cơ chế huy động và chi trả kiều hối theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người nước ngoài chuyển tiền về đầu tư trong nước và khuyến khích việc chi trả kiều hối qua hệ thống ngân hàng. Tiếp theo đó, thống đốc NHN đã ban hành thông tư số 02/2000/TT-NHNN và quyết định số 878/2002/QĐ-NHNN hướng dẫn thực hiện quyết định số 170/1999/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ. Chính những thông tư hướng dẫn trên đã tạo điều kiện kích thích và thu hút nguồn kiều hối từ nước ngoài chuyển về. Theo đó lượng kiều hối chuyển về tăng cao qua các năm. Các ngân hàng tiến hành chi trả đến tận nhà, chi trả theo yêu cầu của khách hàng. Một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển dịch vụ ngoại hối đó là những năm vừa qua ngành du lịch, ngành dịch vụ, thương mại phát triển khá mạnh. Nhiều du khách đến tham quan, du lịch, các ngành thương mại dịch vụ có quan hệ quốc tế ngày càng tăng. Du khách có nhu cầu chi tiêu cao, do đó nhu cầu thu đổi ngoại tệ được xây dựng rộng khắp trên địa bàn thành phố, hiện nay có khoảng 524 bàn thu đổi ngoại tệ đáp ứng được nhu cầu của du khách. Về dịch vụ chuyển tiền cá nhân: trong những năm gần đây nhu cầu học tập, khám chữa bệnh và du lịch của người dân tăng cao. Chính những yếu tố này giúp cho dịch vụ chuyển tiền cá nhân phát triển nhanh. Số tiền chuyển đi chủ yếu đáp ứng - 48 -
- nhu cầu học phí, sinh hoạt phí cho du học sinh, lượng tiền chiếm hơn 70% trong tổng số chuyển tiền cá nhân. Tính đến thời điểm 31/12/2005 tổng số chuyển tiền cá nhân đạt 69,35 triệu USD, bằng 3,2 lần so với năm 2002, trong đó chuyển tiền qua tài khoản chiếm 89% tổng số chuyển tiền đi trong năm. 2.3.2 Hoạt động của các dịch vụ ngân hàng hiện đại 2.3.2.1 Tình hình chung Trong những năm qua, việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực ngân hàng đã đem lại những kết quả hết sức to lớn. Lĩnh vực công nghệ thông tin và điện tử, tin học đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố ứng dụng và phát triển các phần mềm quản lý, quản trị và kinh doanh trong các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng. Đến nay tất cả các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố đã phát triển và trang bị máy tính cùng hệ thống mạng được kết nối. Với nền tảng công nghệ đó nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử ra đời như: home banking, internet banking, e banking trong đó hoạt động ngân hàng qua mạng điện thoại di động (Mobilbanking) được các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố phát triển với nhiều tiện ích như: cung cấp thông tin về tài khoản qua nhắn tin, thông tin thị trường, tỷ giá, lãi suất, giá cả, giao dịch chứng khoán, nhà đất Có thể kể đến ngân hàng tự động của ngân hàng TMCP Đông Á, VCBmoney của ngân hàng Ngoại Thương, trên nền tảng công nghệ hiện đại với đối tượng khách hàng là doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng, đáp ứng được nhu cầu thanh toán cho các tổ chức này thông qua các lệnh về UNC, UNT, lệnh chuyển tiền, thanh toán mua bán ngoại tệ hoặc thanh toán lương tự động. Cụ thể ngân hàng Á Châu đã đưa vào khai thác Homebanking để thực hiện một số giao dịch như chuyển khoản, chuyển tiền cho người không có tài khoản ở ngân hàng, thanh toán hoá đơn tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại cho khách hàng. Đến nay có khoảng 140 doanh nghiệp tham gia giao dịch qua homebanking của Ngân hàng Á Châu, trong đó có 50 doanh nghiệp là khách hàng thường xuyên với doanh số giao dịch khoảng 2-3 tỷ đồng mỗi tuần. Một số công ty điện lực, bưu điện đã phối hợp với một số ngân hàng để thực hiện thu tiền điện, điện thoại qua dịch vụ nhờ thu của ngân hàng. Giai đoạn đầu doanh số thanh toán chưa nhiều nhưng đã thể hiện được bước tiến mới và đạt được yêu cầu đặt ra trong chương trình phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng. Một vấn đề đặt ra là việc xã hội hoá các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đây là những dịch vụ tương đối mới nên số khách hàng sử dụng còn chưa nhiều, do đó ngân hàng cần phải có những chính sách tiếp thị thật tốt để khách hàng biết đến sản phẩm của mình. Theo kết quả điều tra của tác giả, khách hàng chủ yếu biết đến các - 49 -