Luận văn Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt

pdf 143 trang phuongnguyen 9560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_net_dep_cua_nguoi_phu_nu_trong_ca_dao_co_truyen_ngu.pdf

Nội dung text: Luận văn Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––––––––––– LÊ THỊ NGUYỆT NÉT ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên tháng 9 năm 2008 Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––– LÊ THỊ NGUYỆT NÉT ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Huế Thái Nguyên tháng 9 năm 2008 Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  3. Lời cam đoan Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa cĩ ai cơng bố trong mọi cơng trình khác. Các thơng tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008 Tác giả luận văn Lê Thị Nguyệt Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  4. MỤC LỤC Mở đầu 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 9 6. Phương pháp nghiên cứu 10 7. Đĩng gĩp của luận văn 10 8. Cấu trúc của luận văn 11 Nội dung luận văn 12 Chương 1: NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN VÀ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT 12 1.1. VỊ TRÍ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN 12 1.1.1 Luật lệ " Tam tịng" 12 1.1.1.1. Ý thức " tại gia tịng phụ" 13 1.1.1.2. Ý thức " xuất giá tịng phu" 14 1.1.1.3. Ý thức " phu tử tịng tử" 15 1.1.2. Người phụ nữ với " Tứ đức" ( Cơng, Dung, Ngơn, Hạnh) 16 1.2. HÌNH ẢNH, VỊ THẾ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT 16 1.2.1. Hình ảnh,vị thế người phụ nữ trong Văn học dân gian 16 1.2.2. Hình ảnh, vị thế người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt 20 1.2.2.1. Nguyên nhân của vị thế người phụ nữ trong ca dao cổ truyền 20 1.2.2.2. Hình ảnh, vị thế người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt 25 TIỂU KẾT 31 Chương 2: NÉT ĐẸP HÌNH THỨC VÀ TINH THẦN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT 33 2.1.NÉT ĐẸP VỀ HÌNH THỨC CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT.33 2.1.1. Quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền 33 Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  5. 2.1.2. Nét đẹp về thể chất của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền 35 2.1.2.1. Thống kê các hình ảnh về nét đẹp thể chất của người phụ nữ 35 2.1.2.2. Ca ngợi nét đẹp thể chất của người phụ nữ 37 2.1.2.3. Nét đẹp thể chất của người phụ nữ trong tình yêu lứa đơi 42 2.1.3. Nét đẹp trang phục của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền 52 2.1.3.1.Thống kê các hình ảnh về trang phục của người phụ nữ 52 2.1.3.2. Trang phục truyền thống của người phụ nữ Việt 53 2.1.3.3 Nét đẹp trong trang phục của người phụ nữ 56 2.2. NÉT ĐẸP TINH THẦN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT 70 2.2.1. Người phụ nữ thuở con gái và nét đẹp tinh thần 70 2.2.2. Người phụ nữ khi thành gia thất và nét đẹp tinh thần 78 TIỂU KẾT 89 Chương 3: NGHỆ THUẬT BIỂU ĐẠT NÉT ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT 91 3.1. NHẬN THỨC VÀ HƯỚNG LÝ GIẢI 91 3.2. MỘT SỐ YẾU TỐ THI PHÁP 92 3.2.1. Đặc điểm cấu trúc 93 3.2.1.1. Kết cấu đối đáp 94 3.2.1.2. Kết cấu gợi mở 96 3.2.1.3. Hiệu quả của thể lục bát 99 3.2.2. Thế giới biểu tượng 102 3.2.2.1. Một số biểu tượng biểu đạt nét đẹp của người phụ nữ 102 3.2.2.2. Biểu tượng hoa với vẻ đẹp người phụ nữ 107 3.2.3. Thời gian, khơng gian nghệ thuật 114 3.2.3.1. Thời gian nghệ thuật 115 3.2.3.2. Khơng gian nghệ thuật 117 TIỂU KẾT 120 KẾT LUẬN 121 DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ TÀI LIỆU THAM KHẢO- PHỤ LỤC 125 Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  6. DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 1. Lê Thị Nguyệt (2008), " Biểu tượng hoa với vẻ đẹp người phụ nữ trong ca dao cổ truyền của người Việt", Tạp chí Khoa học & cơng nghệ, Đại học Thái Nguyên (2), tr.3-9. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Thị An (1990), “Về một phương diện nghệ thuật của ca dao tình yêu”,Tạp chí văn học (6), tr. 54 -59. 2. Đỗ Thị Bảy (1999), Sự Phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong tục ngữ, ca dao người Việt, ĐH Quốc Gia Hà Nội 3. Trần Đức Các (1978),“Tục ngữ với câu thơ lục bát trong ca dao dân ca”Tạp chí văn học ( 1), tr. 91- 102 4. Mai Ngọc Chừ (1989), " Vần, nhịp, thanh điệu & sức mạnh biểu hiện ý nghĩa của lục bát biến thể", Tạp chí Văn hĩa dân gian, số 2, Hà Nội. 5. Cao Huy Đỉnh(1974),Tìm hiểu tiến trình VHDG Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. 6. Nguyễn Thị Ngọc Điệp, (2001)“Thế giới biểu tượng sĩng đơi trong ca dao người Việt ", Văn hĩa dân gian, số 3, Hà Nội 7. Vũ Tố Hảo (1986), “ Điểm lại quá trình sưu tầm nghiên cứu ca dao dân ca từ xưa đến trước Cách \mạng tháng tám”, Văn hĩa dân gian (3) tr.45-52. 8. Lê Như Hoa ( 1996), Phát huy bản sắc văn hố Việt Nam trong bối cảnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, NXB Văn hố thơng tin, Hà Nội. 9. Nguyễn Thị Huế (1986), “Người phụ nữ trong sinh hoạt dân ca”, Tạp chí văn học ( 3), tr. 125 -136. 10. Nguyễn Thị Huế- Trần thị An, (2001), Tuyển tập tục nữ- ca dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 11. Trần đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn hố, Hà.Nội. Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  7. 12. Đinh Gia Khánh chủ biên( 2003), Văn học dân gian Việt Nam- NXB Giáo dục, Hà Nội. 13.Đinh Gia Khánh chủ biên(1995),Ca dao Việt Nam, NXB Tổng hợp, Đồng Tháp. 14. Đinh Gia Khánh (1996), “Nhận xét về đặc điểm của câu mở đầu trong thơ ca dân gian”, Đại học Tổng hợp Hà Nội ( 2), tr 61 - 72. 15. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 16. Nguyễn Xuân Kính (2001), “ Một thế kỷ sưu tầm, nghiên cứu ca dao người Việt”,Tạp chí văn học (1), tr. 32 – 45. 17.Nguyễn Xuân Kính (1998), “ Văn học dân gian thể hiện bản sắc văn hĩa dân gian”, Tạp chí văn hĩa dân gian ( 2), tr. 62 - 71 . 18. Nguyễn Xuân Kính ( 1983), “Qua ca dao, tục ngữ Hà Nội tìm hiểu cơng cuộc xây dựng đất nước, giữ gìn bản sắc văn hĩa dân tộc”, Văn hĩa dân gian (3+4), tr. 57- 67. 19. Nguyễn Xuân Kính (1987), “Ý nghĩa của hai từ trúc, mai trong văn chương bác học và trong ca dao dân ca”, Văn hĩa dân gian(4), tr 22- 29. 20.Nguyễn Xuân Kính (1990),“Qua tục ngữ ca dao tìm hiểu sự sành ăn khéo mặc của người Hà Nội”, Văn hĩa dân gian ( 2), tr. 44 - 52. 21. Nguyễn Xuân Kính (1992), “Thể thơ trong ca dao”, Văn hĩa dân gian (4), tr. 35 - 43. 22.Nguyễn Xuân Kính (1996), "Hai khuynh hướng trong ca dao người Việt về sự chính xác của các con số", Văn hĩa dân gian (4), tr. 32 -45. 23. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao người Việt ( tập 1), NXB Văn hĩa thơng tin, Hà Nội. 24. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao người Việt ( tập 2), NXB Văn hĩa thơng tin, Hà Nội. 25. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao người Việt ( tập 3), NXB Văn hĩa thơng tin, Hà Nội. 26. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao người Việt ( tập 4), NXB Văn hĩa thơng tin, Hà Nội. 27. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên ( 2002), Tổng tập VHDG người Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  8. Việt ( tập 15), NXB Văn hĩa thơng tin, Hà Nội. 28. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên ( 2002), Tổng tập VHDG người Việt ( tập 16, quyển thượng), NXB Văn hĩa thơng tin, Hà Nội. 29. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên ( 2002), Tổng tập VHDG người Việt ( tập 16 quyển hạ), NXB Văn hĩa thơng tin, Hà Nội. 30.Nguyễn Xuân Kính- Phan Thị Hoa Lý (1999),"Ý nghĩa và cách dùng những con số thường gặp trong ca dao, tục ngữ", Tạp chí văn hĩa dân gian (3), tr. 63 -78. 31. Nguyễn Xuân Lạc ( 2005), "Con số "mười " trong ca dao và những bài ca dao cĩ mơ típ " một đến mười ",Nghiên cứu văn học (4), tr.48 -57. 32. Nguyễn Xuân Lạc (1998), "Văn học dân gian với việc bồi đắp tâm hồn dân tộc cho thế hệ trẻ", Văn hĩa dân gian (3), tr. 73 -82. 33. Trần Kim Liên (2002), "Gĩp phần giữ gìn bản sắc văn hĩa dân tộc trong việc dậy- học văn học dân gian ở trường phổ thơng",Văn hĩa dân gian(1),tr. 64 -75. 34. Trần Kim Liên (2003), "Cách sử dụng từ xưng hơ trong ca dao tình yêu", Văn hĩa dân gian (2), tr. 54 - 64. 35. Nguyễn Tấn Long- Phan Canh (1970), Thi ca bình dân Việt Nam, NXB Sức sống mới, Sài Gịn. 36. Phạm Việt Long, (2000), Tục ngữ, ca dao và việc phản ánh phong tục tập quán người Việt, Đại học hoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. 37. Nguyễn Luân (1994), "Qua một bài ca dao, hiểu thêm về phẩm chất người phụ nữ xưa", Văn hĩa dân gian (4), tr. 36 -45. 38. Hồ Tuấn Niêm (1983), "Một truyền thống độc đáo và rực rỡ của văn học dân gian Việt Nam", Văn hĩa dân gian (3), tr. 64 -72. 39. Lưu Thị Nụ (1992), Người phụ nữ qua những hình ảnh so sánh trong ca dao Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp, Đại học tổng hợp Hà Nội. 40. Trần Đình Ngơn (1998), "Con mắt trong tục ngữ, ca dao với ngơn ngữ tạo diện hình ảnh", Văn hĩa dân gian (3), tr.54 -57. 41. Triều Nguyên (1996), "Thử khảo sát một số bài ca dao cĩ mơ hình cấu trúc một, hai- mười- thương ( yêu, lo ) = A", Văn hĩa dân gian,(1), tr. 43 -47. 42. Triều Nguyên (1998), "Người khơn qua các gĩc nhìn của ca dao", Văn hĩa dân Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  9. gian (3), tr.52- 60. 43. Nguyễn Ánh Nguyệt ( 2001), Nghiên cứu đặc điểm thi pháp cấu trúc ca dao trữ tình người Việt, luận văn thạc sĩ, đại học sư phạn, Thái Nguyên 44. Trương Thị Nhàn (1992), "Tìm hiểu ngơn ngữ nghệ thuật ca dao qua một tín hiệu thẩm mĩ", Văn hĩa dân gian, (4), tr. 38 -44. 45. Trần Quang Nhật (1964), "Mấy ý kiến về việc giảng dạy ca dao tình yêu trong chương trình lớp 8 phổ thơng", Tạp chí văn học (6), tr. 37 -42. 46. Bùi Mạnh Nhị (1997), "Cơng thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao- dân ca trữ tình", Tạp chí văn học (1), tr. 21 -26. 47. Vũ Ngọc Phan ( 1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. 48.Vũ Ngọc Phan (1997), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập I phần văn học dân gian, NXB văn học, Hà Nội. 49.Vũ Ngọc Phan(1968),"Sức truyền cảm của ca dao truyền thống",Báo văn hĩa (10). 50. Vũ Ngọc Phan (1966), "Tinh thần chống ngoại xâm của phụ nữ qua ca dao xưa và nay", Tạp chí văn học (9), tr. 34 -43. 51. Nguyễn Hằng Phương (2003), "Hai phương thức nghệ thuật trong ca dao cổ truyền người Việt", Tạp chí văn học (6), tr. 63 -69. 52. Nguyễn Hằng Phương ( 2001), "Cảm hứng chủ đạo trong ca dao ngườiViệt", Văn hĩa dân gian (3), tr. 46 -53. 53. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 54. Trần Đình Sử(1993), "Những tìm tịi mới về thi pháp ca dao", Tạp chí văn hĩa dân gian (2), tr. 21 -33. 55. Trần Ngọc Thêm ( 2006), Tìm về bản sắc văn hĩa Việt Nam, Nxb TPHCM. 56. Nguyễn Văn Thơng (2000), "Tìm hiểu văn hĩa ứng xử của người Việt qua tục ngữ", Văn hĩa dân gian (2), tr.34 -40. 57. Đỗ Thị Thu Thủy (2003), Chủ đề gia đình trong ca dao cổ truyền người Việt, Đại học sư phạm Thái Nguyên. 58. Đặng Diệu Trang (2005), "Sinh hoạt diễn xướng- mơi trường nảy sinh và phát Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  10. triển của ngơn ngữ ca dao", Văn hĩa dân gian (5), tr. 36 -45. 59. Đỗ Bình Trị, (2000), Nghiên Cứu tiến trình lịch sử Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội. 60. Đỗ Bình Trị- Trần Đình Sử (1998) Văn học- Giáo trình đào tạo giáo viên Tiểu học hệ Cao đẳng sư phạm và sư phạm 12+2 tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội 61. Vũ Anh Tuấn (1994), Mấy vấn đề hiện nay về việc nghiên cứu và giảng dậy văn học dân gian trong nhà trường, Đại học Sư Phạm Thái Nguyên. 62. Vũ Anh Tuấn- Nguyễn Xuân Lạc (1993), Giảng văn văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 63. Tạ Đăng Tuyên (1998), "Tục ngữ, ca dao và lời ru với việc giáo dục giá trị đạo đức- nhân văn", Văn hĩa dân gian (1), tr. 23 -28. 64. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao. NXB Giáo dục, Hà Nội . 65.Phương Yến" Lệ tục làng xã cổ truyền và những ảnh hưởng đối với người phụ nữ ở xã hội phong kiến, báo điện tử thongtinphapluatdansu.wrdpres. com, ngày 27-1-2008. Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  11. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Dân tộc Việt Nam cĩ một kho tàng ca dao vơ cùng phong phú, đa dạng. Ca dao là một bộ phận của văn học dân gian. Là dịng sữa ngọt nuơi dưỡng tâm hồn Việt Nam qua bao thế hệ. Từ cái thủa vẫn cịn nằm nơi, chúng ta đã được nghe những làn điệu dân ca ngọt ngào đằm thắm qua lời ru của bà, của mẹ. Cĩ thể nĩi ca dao cĩ một sức lơi cuốn hết sức mạnh mẽ đối với con người Việt Nam, bởi nĩ rất gần gũi với suy nghĩ, tâm hồn của nhân dân, gần với lời ăn tiếng nĩi hàng ngày của người lao động. Trong kho tàng văn học dân gian, ca dao trữ tình người Việt là nơi thể hiện rõ nhất "điệu tâm hồn dân tộc" (Tố Hữu), bởi cảm hứng cội nguồn, chức năng chủ đạo và nội dung căn bản của ca dao là sự phơ diễn trực tiếp thế giới tâm hồn của con người, biểu đạt những tình cảm, cảm xúc đa dạng của nhân dân. Do đĩ một trong những nét chủ đạo của ca dao truyền thống là sự thể hiện hết sức phong phú tư tưởng tình cảm của con người nĩi chung, người phụ nữ nĩi riêng. Ca dao viết về người phụ nữ là một vấn đề hết sức hấp dẫn và lơi cuốn, bởi qua đĩ phần nào ta hiểu được đời sống tâm hồn, tình cảm của họ trong xã hội xưa và nay. Ca dao viết về người phụ nữ, từ trước cho tới nay, đã cĩ nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và cĩ những bài viết cĩ giá trị đặc sắc. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu mới chỉ tập trung vào phản ánh từng khía cạnh, yếu tố riêng lẻ về hình ảnh người phụ nữ trong ca dao và hầu như mới chỉ tập trung làm rõ nỗi khổ của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Qua việc tìm hiểu bước đầu, chúng tơi nhận thấy hình ảnh của người phụ nữ được phản ánh trong ca dao cổ truyền khá đậm nét. Điều đĩ cho thấy người phụ nữ Việt Nam đã giữ một vai trị quan trọng đặc biệt trong lao động sản xuất nơng nghiệp và hoạt động xã hội. Từ nghìn xưa người phụ nữ đã cĩ một vị trí xứng đáng trong các hoạt động xã hội của nền sản xuất đĩ, mặc dù chế độ phong kiến đã cố tình đánh giá thấp kém vai trị của họ. Cùng với các thể loại Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
  12. khác của văn học dân gian, ca dao đã phản ánh vai trị và vẻ đẹp của người phụ nữ trong sản xuất lao động, trong gia đình và trong những sinh hoạt văn hĩa truyền thống của dân tộc. Trong xã hội phong kiến người phụ nữ khơng được coi trọng, họ khơng được tham gia vào các hoạt động xã hội. Nhưng trong văn học dân gian, nhất là ở ca dao người phụ nữ đã được ngợi ca cả về vẻ đẹp hình thức và tâm hồn. Vẻ đẹp của người phụ nữ đã gĩp phần làm nên vẻ đẹp của con người Việt Nam, khẳng định sức sống và bản sắc văn hĩa của dân tộc Việt Nam. Hơn nữa ca dao là thể loại được nghiên cứu và giảng dậy ở nhiều cấp học khác nhau. Cho nên là một nhà giáo, tơi thấy việc đi sâu nghiên cứu nét đẹp của con người, nhất là nét đẹp của người phụ nữ sẽ cĩ ý nghĩa thiết thực phục vụ cho việc giảng dạy và giáo dục nhân cách của học sinh trong sự nghiệp "trồng ngƣời". Ngồi ra, trong số những tài liệu mà chúng tơi bao quát được từ trước đến nay, chúng tơi nhận thấy chưa cĩ đề tài nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Do vậy chúng tơi đã chọn đề tài: Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt . 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu: Ca dao dân ca, xét về gĩc độ tư duy của dân tộc, là tấm gương bức xạ hiện thực khách quan của mỗi dân tộc với lối sống, điều kiện sống và những phong tục tập quán riêng. Hình ảnh về thiên nhiên, cuộc sống, về truyền thống dân tộc, quan hệ xã hội được phạm trù hĩa theo những cách khác nhau, bằng những hình thức ngơn ngữ khác nhau. Nghiên cứu về ca dao dân ca khơng chỉ cho thấy những nét đẹp văn hĩa của người Việt Nam mà cịn làm nổi bật lên tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu người thiết tha. Ca dao dân ca là kết tinh thuần tuý của tinh thần dân tộc, là nét đẹp trong văn hĩa dân gian Việt Nam. Do đĩ từ lâu các nhà nghiên cứu folklore nước ta đã đặt vấn đề và chú tâm nghiên cứu về ca dao dân ca. Trong đĩ ca dao người Việt hết sức phong phú và đa dạng, nên từ trước đến nay đã cĩ rất nhiều cơng trình nghiên cứu. Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
  13. Năm 1957 khi đề cập đến vấn đề hình tượng người phụ nữ trong ca dao, với Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (đến năm 2008 đã tái bản nhiều lần), ơng Vũ Ngọc Phan khẳng định: trong cuộc đời người phụ nữ phải chịu nhiều nỗi khổ quá và chịu nhiều thiệt thịi quá. Mặc dù cơng sức đĩng gĩp cho xã hội và gia đình khơng thua kém gì đàn ơng, nhưng trong thực tế người phụ nữ khơng cĩ quyền lực gì. Lý do đẩy người phụ nữ vào địa vị thấp kém là vì " chế độ hơn nhân đã xây dựng trên cơ sở kinh tế của xã hội cũ". [47,tr.231] Về mặt nghệ thuật, ơng Vũ Ngọc Phan nêu nhận xét rằng: những hình tƣợng ẩn dụ nhƣ hoa quả, con cị thƣờng đƣợc sử dụng để ví, để làm rõ nỗi khổ và vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ một cách hết sức tế nhị và kín đáo.[47,tr.254] Năm 1969, ở tập chuyên luận Thi ca bình dân Việt Nam, hai tác giả Nguyễn Tấn Long và Phan Canh đã phân tích một cách hết sức tỉ mỉ và sâu sắc về nỗi khổ của người phụ nữ trong ca dao. Hai ơng khẳng định về nội dung: Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thịi và áp bức nhất trong xã hội. Họ bị lệ thuộc vào người đàn ơng và bị tước hết mọi quyền lực. Họ phản ứng lại với những bất cơng bằng nhiều cách khác nhau. Họ dám chống lại luật lệ khe khắt, đi theo tiếng gọi của tình yêu đích thực.[35] Năm 1973, giáo trình Văn học dân gian Việt Nam do Đinh Gia Khánh chủ biên và các tác giả Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn cũng đã được tái bản bổ sung nhiều lần là một cuốn sách cĩ đĩng gĩp quan trọng cho việc học tập nghiên cứu văn học dân gian nĩi chung, ca dao nĩi riêng. Đặc biệt là chương 3: Các thể loại văn học dân gian Việt Nam phần C; Các thể loại trữ tình dân gian (phần II: Lịch sử và xã hội, đất nƣớc và con ngƣời trong ca dao dân ca Việt Nam ).Ở phần này các tác giả đã đề cập đến những vấn đề cĩ ý nghĩa :Ca dao dân ca phản ánh lịch sử; Ca dao dân ca trữ tình về sinh hoạt gia đình-Nhân vật chính là ngƣời phụ nữ lao động Việt Nam.[12,tr.445] Năm 1974, trong cơng trình nghiên cứu Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Cao Huy Đỉnh khẳng định rằng : Vấn đề thân phận con ngƣời, trƣớc hết là số phận ngƣời dân nơ lệ và ngƣời phụ nữ lao động là chủ đề chính Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
  14. của ca dao dân ca. Cuộc đời ngƣời phụ nữ là một chuỗi những nỗi khổ đau dài dằng dặc. Sống một mình cũng khổ, lấy chồng cũng khổ và khổ hơn nữa nếu nhƣ phải làm lẽ. [5,tr.64] Về nghệ thuật, Cao Huy Đỉnh cũng nêu một nhận xét: Hình tƣợng con cị thƣờng đƣợc sử dụng để miêu tả hình ảnh ngƣời phụ nữ với một âm điệu buồn man mác. [5,tr.78]. Năm 1978, trong cuốn Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam, nhà nghiên cứu văn học dân gian Đỗ Bình Trị cho rằng: hình tượng người phụ nữ thường được gặp nhiều nhất trong hai dạng thức là bài ca về sinh hoạt gia đình và bài ca trữ tình về tình yêu- hơn nhân( bài ca giao duyên). Những nội dung mà ơng Đỗ Bình Trị đề cập đến trong cơng trình này là: Bài ca về sinh hoạt gia đình chủ yếu diễn tả sâu sắc nỗi đau khổ của người phụ nữ ở trong gia đình và ngồi xã hội. Tác giả cơng trình đã khẳng định: sự phản kháng mãnh liệt đĩ bắt nguồn từ những mâu thuẫn với ách áp bức nặng nề của chế độ gia trưởng. Song mặt khác nĩ cịn cĩ cơ sở ở cách nhìn nhận vấn đề tình yêu và hơn nhân của người trong cuộc:" Đối với ngƣời phụ nữ, hơn nhân trên cơ sở tình yêu trong thời đĩ là viễn cảnh hạnh phúc của sự tự do tinh thần và đời sống sung sƣớng" [59,tr.123] Năm 1992 với Thi pháp ca dao, Nguyễn Xuân Kính đã đi sâu nghiên cứu một cách cĩ hệ thống các yếu tố thi pháp về các mặt: Ngơn ngữ, thể thơ, kết cấu thời gian khơng gian nghệ thuật, một số biểu tượng hình ảnh truyền thống trong ca dao [15]. Đây là cuốn sách cĩ giá trị rất lớn, cung cấp cho độc giả những tri thức cụ thể và khái quát về nhiều vấn đề, giúp ích cho việc nghiên cứu ca dao. Trên đây là những cơng trình nghiên cứu tiêu biểu cĩ đề cập một cách khái quát nhất về hình tượng người phụ nữ trong ca dao. Ngồi ra cĩ nhiều các bài viết của các nhà nghiên cứu viết về đề tài người phụ nữ trong ca dao, trong đĩ cĩ bài viết Ngƣời phụ nữ trong sinh hoạt dân ca, (1986) của Nguyễn Thị Huế. Tác giả đã khẳng định: " cĩ những bài ca dao dân ca đã nĩi lên vai trị phụ nữ trong sinh hoạt văn nghệ Những bài hát Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
  15. đĩ chứng tỏ tài năng của phụ nữ đã đƣợc đặt ở vị trí ngang bằng hoặc cĩ khi trội hơn cả nam giới trong sinh hoạt văn nghệ." [9,tr.125] Để rồi qua những cuộc hát đối đáp nam nữ " cĩ nhiều phụ nữ đã là những nghệ nhân tỏ ra xuất sắc nhƣ một tài năng "thiên bẩm" trong lĩnh vực sinh hoạt dân ca". Ta thấy được người phụ nữ trong sinh hoạt văn nghệ "đã gĩp phần phản ánh lối sống lành mạnh, phĩng khống của nhân dân lao động". "Giữ địa vị chủ yếu trong việc diễn xƣớng lối hị hát tâm tình, ngƣời phụ nữ ở đây đã nĩi về mình nhiều hơn, đã bộc lộ tâm trạng của mình một cách sâu lắng hơn".[9,tr.123] Nên chính qua lời ca tâm tình ấy mà " chủ đề về thân phận ngƣời phụ nữ đã nổi lên rõ rệt nhất".[9,tr.133] Ta thấy được tâm hồn của người phụ nữ " vừa rắn rỏi mà dịu hiền, kiên nghị mà đằm thắm thiết tha" [9,tr.133] và " khi nhắc tới mỗi làn điệu dân ca nổi tiếng nào, thƣờng tình ngƣời ta hay nhớ tới hình ảnh những cơ gái của quê hƣơng đĩ, nhƣ là biểu trƣng cho vẻ đẹp, những nét đặc thù của các làn điệu dân ca ấy".[9,tr.134]. Tác giả Nguyễn Thị Huế đã khẳng định " Sự nghiên cứu về lời ca đƣa đến những hiểu biết về tâm hồn ngƣời phụ nữ, sự nghiên cứu về hình thức diễn xƣớng dân ca cho ta thấy vai trị sáng tạo, sự đĩng gĩp phong phú của họ về mặt nghệ thuật trong lĩnh vực văn học dân gian" [9,tr.135]. Những nhận định này đã hướng chúng tơi đi vào nghiên cứu nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền cả về hình thức và tâm hồn. Năm 1994, tác giả Nguyễn Luân Qua một bài ca dao, hiểu thêm về phẩm chất của ngƣời phụ nữ xƣa, đã cho thấy những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ luơn tỏa sáng trong bất cứ hồn cảnh nào: " Một trái tim yêu thƣơng nồng thắm, một tâm hồn cao thƣợng nhƣ vậy lại bị đối xử một cách phũ phàng. Cảnh ngộ trớ trêu khiến ai nghe cũng cảm thấy thƣơng cho cơ gái. Càng cảm thƣơng cơ gái, ta càng căm giận ngƣời chồng nhẫn tâm. Nhƣng xét đến cùng thái độ của ngƣời chồng là sản phẩm của đạo lý ích kỷ của giai cấp thống trị. Trong hồn cảnh đĩ, phẩm chất cao đẹp của ngƣời phụ nữ vẫn tỏa sáng, càng tỏa sáng." [37,tr.38]. Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
  16. Năm 1996, tác giả Triều Nguyên trong bài Thử khảo sát một số bài ca dao cĩ mơ hình cấu trúc một, hai- mƣời- thƣơng ( yêu, lo ) //, khi tìm hiểu nhĩm chủ thể trữ tình là nam giới trong nhĩm những bài ca này đã thấy nét đẹp của người phụ nữ cĩ những điểm đáng yêu sau: "- Xinh đẹp, duyên dáng ( má lúm đồng tiền, răng nhánh hạt huyền kém thua ) - Trang phục đẹp ( cổ yếm đeo bùa, nĩn thƣợng quai tua; yếm đào, khăn thắm thêu hoa) - Ăn nĩi cĩ duyên, cĩ phẩm chất tốt, khơn khéo ( ăn nĩi mặn mà cĩ duyên, nết ở khơn ngoan, miệng chào cĩ duyên, nết na, hiền tài)- Cịn độc thân ( để cĩ thể cầu hơn) ( cơ chửa cĩ ai)". [41,tr.43] Cịn ở nhĩm chủ thể trữ tình là nữ giới, tác giả đã nhận xét: " Tình yêu của ngƣời phụ nữ đƣợc bộc lộ bằng sự quan tâm, lo lắng cho ngƣời bạn tình Đối với ngƣời bạn tình, đàn ơng chú ý nhiều đến cái đẹp bên ngồi, trong lúc phụ nữ lại quan tâm đến những khía cạnh thuộc về cuộc sống "[41,tr.45] Bài viết này cũng đã định hướng cho chúng tơi tìm hiểu một cách hệ thống, tồn diện về nét đẹp người phụ nữ xưa trong ca dao người Việt. Năm 1998, trong Những thế giới nghệ thuật của ca dao, Phạm Thu Yến cũng đã đã nêu lên cảm hứng về thân phận người phụ nữ trong ca dao truyền thống và trong thơ hiện đại. Tác giả đã cĩ cái nhìn khái quát về thân phận người phụ nữ trong ca dao truyền thống để nĩi lên nỗi khổ và vẻ đẹp tâm hồn của họ.[64] Năm 2005, với bài viết Con số " Mƣời" trong ca dao và những bài ca dao cĩ mơ típ " Một đến mƣời ”, Nguyễn Xuân Lạc đã đưa ra nhận xét " Nếu lễ giáo phong kiến quy định tứ đức của ngƣời phụ nữ là cơng, dung, ngơn, hạnh thì phải chăng bức tranh cơ gái trong Mƣời thƣơng là sự dân gian hĩa cái tứ đức ấy theo quan niệm của ngƣời lao động. Và cơ gái hiện lên thật dễ thƣơng biết bao khi cơ cĩ đủ cả " mƣời thƣơng" [31,tr.50]. Ý kiến này đã gợi ý cho chúng tơi đi vào tìm hiểu cái nhìn của người xưa về nét đẹp hình thể của người phụ nữ luơn phù hợp với cuộc sống người lao động và nét đẹp về hình thể lại rất hài hịa với vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
  17. Tiếp tục việc nghiên cứu về ca dao dân ca, phải kể đến các luận án tiến sĩ luận văn thạc sĩ của các nghiên cứu sinh, học viên và luận văn, báo cáo khoa học của sinh viên khoa ngữ văn các trường đại học. Tiêu biểu cĩ luận án Tiến sĩ với đề tài Tục ngữ, ca dao và việc phản ánh phong tục tập quán ngƣời Việt, ( 2000) của Phạm Việt Long đã cho thấy vẻ đẹp về phong tục tập quán của người Việt trong sinh hoạt, lối sống, trang phục, quan hệ [36] Luận văn thạc sĩ Chủ đề gia đình trong ca dao cổ truyền ngƣời Việt (2003) của Đỗ Thị Thu Thủy. Tác giả đã cho thấy những quan niệm và cung cách ứng xử của người Việt trong phạm vi đời sống sinh hoạt gia đình. Nổi bật là vai trị,vị trí quan trọng của người phụ nữ ở cung cách ứng xử văn hĩa gia đình người Việt.[57] Đáng chú ý cĩ luận văn tốt nghiệp của Lưu Thị Nụ khoa ngữ văn ĐH tổng hợp Hà Nội với đề tài Ngƣời phụ nữ qua những hình ảnh so sánh trong ca dao Việt Nam ( 1992). Tác giả đã tìm hiểu hình tượng thơ ca là người phụ nữ với tất cả các biểu hiện về ngoại hình, về tính cách, về thân phận và đặc biệt là về tâm trạng của người phụ nữ được thể hiện qua thủ pháp nghệ thuật so sánh trong ca dao như thế nào. Bên cạnh đĩ cịn cĩ luận văn Tìm hiểu thân phận ngƣời phụ nữ qua ca dao với mơ típ thân em ( 2001) của tác giả Lê Lan Anh (Đại học Khoa học xã hội và nhân văn). Luận văn Thể thơ lục bát trong ca dao tình yêu ngƣời Việt ( 2002) của tác giả Phạm Thanh Huyền( ĐHSP Thái Nguyên) và Luận văn Diễn xƣớng ca dao tình yêu ngƣời Việt (2006) của tác giả Nguyễn Thị Huế (ĐHSP Thái Nguyên).v.v Qua các chuyên luận, các bài viết kể trên, chúng tơi cĩ thể rút ra những điểm sau: Hầu hết các tác giả nghiên cứu đều đề cập đến đề tài người phụ nữ trong ca dao dân ca chủ yếu về phương diện nội dung phản ánh của hình tượng này. Thân phận khổ đau của người phụ nữ trong xã hội cũ được đề cập nhiều nhất. Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu đều đi đến một nhận định chung thống nhất rằng : Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
  18. Qua ca dao, ngƣời phụ nữ Việt Nam hiện lên với một vẻ đẹp cao quý cả về phẩm chất lẫn tâm hồn. Họ luơn phải chịu những bất cơng, khổ cực trong xã hội cũ. Nhƣng họ đã chủ động bảo vệ tình yêu, hạnh phúc, đấu tranh với những lề luật và những bất cơng mà chế độ phong kiến đã gây ra. Về phương diện nghệ thuật, ta thấy các tác giả đã chú ý đến các hình tượng để miêu tả người phụ nữ trong ca dao, những hình tượng này thường là đẹp mà buồn. Như vậy khám phá vẻ đẹp của con người nhất là người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt vẫn luơn là đề tài cần được khai thác. 3. Mục đích nghiên cứu: 3.1. Đề tài nhằm gĩp phần vào việc tìm hiểu quan điểm thẩm mĩ của nhân dân lao động về vẻ đẹp của người phụ nữ xưa. 3.2. Đề tài cũng khẳng định những giá trị đã tạo nên vẻ đẹp, sức sống của người phụ nữ nĩi riêng và con người Việt Nam nĩi chung. Từ đĩ phát huy những vẻ đẹp đĩ để giữ gìn bản sắc văn hĩa của dân tộc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài luận văn của chúng tơi cĩ tên là :" Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt". Vì vậy đối tượng nghiên cứu của chúng tơi là nét đẹp của người phụ nữ được phản ánh trong ca dao cổ truyền trước năm 1945. Nhìn chung nét đẹp của người phụ nữ rất phong phú, nhưng chúng tơi tập trung đi sâu vào nghiên cứu những nét đẹp về hình thức và nét đẹp về tinh thần làm ngời sáng vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tư liệu về ca dao rất dồi dào, phong phú, đa dạng biểu hiện ở nhiều cơng trình. Nhưng với đề tài Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt, nên đối tượng khảo sát chính của chúng tơi là bộ phận ca dao cổ truyền của người Việt. Cụ thể tư liệu khảo sát được khai thác chủ yếu là: Tổng tập Văn học dân gian ngƣời Việt ( 2002), Nxb khoa học xã hội, H. Đây là một Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
  19. cơng trình tập thể được biên soạn cơng phu gồm 19 tập về tất cả các thể loại của văn học dân gian người Việt. Chúng tơi sử dụng tập 15,16 (quyển thượng, quyển hạ) là tập nĩi về ca dao người Việt. Ngồi ra chúng tơi cĩ tham khảo thêm Kho tàng ca dao ngƣời Việt(1995), 4 tập, do Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên, Nxb văn hĩa thơng tin, H; Tục ngữ ca dao dân ca (1957, tái bản 1998) của Vũ Ngọc Phan; Tuyển tập tục ngữ ca dao Việt Nam ( 2001) do Nguyễn Cừ, Nguyễn Thị Huế, Trần Thị An biên soạn, Nxb Văn học, H v.v Trong quá trình tiến hành thống kê và phân tích, đối chiếu, so sánh, chúng tơi cũng cĩ thể sử dụng thêm một số tư liệu cĩ sẵn, được trích dẫn lại trong các cơng trình cĩ liên quan. Các tư liệu này đều được chú thích rõ nguồn gốc, xuất xứ. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu : Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tơi xác định nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn này là: 5.1. Tìm hiểu những tiền đề lý luận chung cĩ liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn. Tìm hiểu vai trị vị thế của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền. 5.2.Từ Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 15,16 ( quyển thượng, quyển hạ) gồm 11.001 lời theo chín chủ đề lớn ( Đất nƣớc và lịch sử; Quan hệ gia đình, xã hội, Lao động và nghề nghiệp; Tình yêu lứa đơi; Sinh hoạt văn hĩa văn nghệ; Những lời bơng đùa, khơi hài, giải trí; Những nỗi khổ, những cảnh sống lầm than; Những thĩi hƣ tật xấu và các tệ nạn xã hội; Kinh nghiệm sống và hành động), chúng tơi đã tiến hành khảo sát, phân loại để lựa chọn ra những lời ca dao nĩi về nét đẹp hình thức và nét đẹp về tinh thần của người phụ nữ. 5.3. Nghiên cứu nét đẹp hình thức và nét đẹp tinh thần của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt. Trên cơ sở đĩ làm sáng rõ quan điểm thẩm mĩ ca ngợi nét đẹp tự nhiên, đề cao nét đẹp tinh thần và sự kết hợp hài hịa giữa nét đẹp hình thức với tinh thần. Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
  20. 6. Phương pháp nghiên cứu : Nhằm đạt được những mục đích đặt ra để triển khai đề tài này chúng tơi chú ý đến các phương pháp chủ yếu sau : Phƣơng pháp định lƣợng qua thống kê phân loại : Trước hết chúng tơi tiến hành thống kê tồn bộ số lượng những lời ca nĩi về người phụ nữ qua từng giai đoạn, thể hiện ở từng khía cạnh, sau đĩ chúng tơi phân loại, khảo sát cụ thể và cuối cùng định lượng về số lượng những lời ca ở từng khía cạnh. Đĩ là cơ sở khoa học cho những nhận định, kết luận của luận văn. Qua kết quả thống kê phân loại chúng tơi cĩ thể rút ra những nhận xét một cách chính xác, khách quan và khoa học. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp- bình: Trên cơ sở của việc thống kê, phân loại, chúng tơi tiến hành phân tích, hệ thống hĩa. Dựa vào kết quả của sự phân tích, chúng tơi sẽ tổng hợp để rút ra những kết luận khái quát. Trong quá trình đĩ chúng tơi cĩ sử dụng phương pháp bình. Đây khơng phải là phương pháp chủ yếu mà đây chỉ là cách tiếp cận sâu hơn khi cần khái quát tư duy của các tác giả dân gian. Ngồi những phương pháp cơ bản trên đây, trong quá trình nghiên cứu chúng tơi cịn vận dụng một số phương pháp liên ngành như: lí luận văn học, văn học sử, phong cách học, phương pháp so sánh.v.v 7. Đĩng gĩp của luận văn - Gĩp thêm một nhận thức về vẻ đẹp, quan điểm thẩm mĩ của nhân dân lao động trong ca dao. - Gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc để khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hĩa dân tộc trong nét đẹp người phụ nữ và con người Việt Nam. Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
  21. 8. Cấu trúc của luận văn : Luận văn ngồi phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung gồm 3 chương: Chương 1: Người phụ nữ trong xã hội phong kiến và trong ca dao cổ truyền người Việt Chương 2: Nét đẹp hình thức và tinh thần của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt Chương 3: Nghệ thuật biểu đạt nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
  22. néi dung Chương 1 ngƯêi phơ n÷ trong x· héi phong kiÕn vµ TRONG ca dao cỉ truyỊn ngƯêi ViƯt 1.1. VỊ TRÍ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN Dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ ý thức hệ của tư tưởng Trung Hoa, mà đối với người phụ nữ nặng nề nhất là đạo "Tam tịng". Nĩ là ba trách nhiệm quy định cho người phụ nữ phải theo và coi đĩ như là bổn phận. Bên cạnh đĩ chuẩn mực "Tứ đức" là yêu cầu phẩm hạnh phải cĩ của người phụ nữ. Những luật lệ, chuẩn mực của xã hội phong kiến đã hạn chế quyền hạn của người phụ nữ trong đời sống. Đối với gia đình người phụ nữ bị lệ thuộc, đối với xã hội lại càng khơng được coi trọng. Để thấy được vị trí của người phụ nữ trong xã hội phong kiến như thế nào, ta cùng đi vào tìm hiểu vài nét về luật lệ "Tam tịng" và chuẩn mực "Tứ đức". 1.1.1. Luật lệ " Tam tịng " "Ðiều bất bình đẳng đối với ngƣời phụ nữ xƣa chính là việc họ bị "gạt" ra khỏi cuộc sống rộng lớn của xã hội và "dồn" vào khuơn khổ chật hẹp của đời sống gia đình. Xã hội phong kiến, dƣới sự ảnh hƣởng mạnh mẽ của tƣ tƣởng Nho giáo đã thể chế hĩa điều này bằng" Đạo tam tịng": Tại gia tịng phụ; Xuất giá tịng phu; Phu tử tịng tử. ( Ở nhà theo cha; Lấy chồng theo chồng; Chồng chết theo con trai). Theo Ngơ Quốc Đơng Phụ nữ xƣa và nay báo điện tử nhândân.com.vn, ngày 22-10-2007. Thực chất sự ràng buộc tinh thần của " Đạo tam tịng" xuất phát từ cơ sở kinh tế của nĩ. Cơ sở ấy là quyền thừa kế tài sản. Ðây cũng là khởi nguồn của quan niệm phu tử tịng tử. Bị tước mất quyền thừa kế tài sản, tất cả tài sản đều thuộc sở hữu của người con trai, từ đĩ người phụ nữ bị rơi cảnh phụ thuộc, Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
  23. nương nhờ vào con trai để sống. Khơng những thế quan niệm tịng tử cịn trĩi buộc hạnh phúc của nhiều người phụ nữ. Trong khi "trai năm thê bảy thiếp" thì "gái chính chuyên chỉ cĩ một chồng". Ðơi khi sức sống, niềm khát khao của họ bị cái "chính chuyên" kiềm tỏa mà khơng thể thốt ra được. Tái giá được xem là "phản bội", vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội. Người tái giá đa số cũng chỉ làm tơi thiếp, bị thiệt thịi, hiếm cĩ được ý nghĩa thật sự của hai từ hạnh phúc. " Do pháp luật phong kiến cũng nhƣ lệ tục của làng xã, do ảnh hƣởng sâu sắc của tƣ tƣởng Nho giáo nên vị trí và vai trị của ngƣời phụ nữ trong xã hội rất mờ nhạt, thậm chí họ phải chấp nhận sự đối xử bất bình đẳng so với nam giới. Đạo tam tịng đã buộc chặt ngƣời phụ nữ vào những khuơn phép khắc nghiệt vơ hình" [65] Cho nên "Đạo Tam tịng" là một nghiêm lệnh tước đoạt hồn tồn quyền hạn của người phụ nữ trong đời sống. 1.1.1.1. Ý thức " tại gia tịng phụ" Nĩi tịng phụ tức phụ quyền được đề cao. Người cha cĩ quyền uy tuyệt đối trong gia đình. Người con gái phải nghe theo cha, phục tùng mệnh lệnh của cha mẹ mà ít cĩ những chính kiến cá nhân. " Khi cịn tại gia, mẹ thƣờng dạy con gái ăn ở làm sao cho tử tế, cho đƣợc tiếng gái lành. "Tứ đức" đặc biệt đƣợc chú trọng đƣa vào giáo dục con gái trong giai đoạn này. Với Tứ đức, bao giờ ngƣời con gái cũng phải thu mình với cơng, dung, ngơn, hạnh, luơn luơn phải giữ gìn tiết hạnh làm câu sửa mình" [65]. Người con gái trong gia đình xưa được giáo dục rất bài bản cách ăn ở cư xử trước khi về nhà chồng. Ý thức này bắt người con gái trong gia đình khi lớn lên phải phục tùng tuyệt đối cha mẹ. Sự phục tùng ấy một mặt do guồng máy phong kiến áp đặt thành một luật lệ, một mặt do quan niệm giáo điều của Nho giáo đã ăn sâu vào dân gian khiến cho mọi người con gái lớn lên đều cảm thấy tự mình cĩ nghĩa vụ như vậy và họ cho rằng sự định đoạt của cha mẹ là cái gì đĩ thiêng liêng cao cả. Khi đã tự mình cho khơng cĩ quyền hạn gì họ đem số phận của mình ủy thác vào cha mẹ. Đặc biệt là vấn đề hơn nhân. Và rồi từ đĩ người con gái cĩ cảm giác hơn nhân là sự may rủi, là Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
  24. định mệnh trong đời mình : "Sự bất bình đẳng đối với ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến thể hiện rõ nét trong việc hơn nhân và những phong tục về hơn nhân. Con cái nĩi chung và ngƣời con gái nĩi riêng khơng cĩ quyền tự do đối với việc hơn nhân của mình mà hồn tồn do cha mẹ sắp đặt " Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy". Dù trai gái cĩ thƣơng nhau nhƣng cha mẹ khơng bằng lịng thì hơn nhân cũng bị tan vỡ. Và khi cha mẹ bằng lịng thì dù khơng thƣơng nhau cũng phải lấy nhau".[65] Hơn nữa pháp luật của Nhà nước phong kiến (được các làng tuân thủ thành lệ tục), người phụ nữ khơng phải là đại diện chính thức của quyền thừa kế. Ở hầu hết các làng, khi bố mẹ mất, những người con gái đã xuất giá khơng được chia và khơng cĩ quyền địi hỏi chia tài sản. Đối với ruộng đất hương hoả (và cả nhà thờ họ), nếu ngành trưởng tuyệt tự thì phải chuyển cho con trai của ngành thứ quản lý, cịn bản thân những người con gái của ngành trưởng khơng cĩ quyền sử dụng số tài sản đĩ. 1.1.1.2. Ý thức " xuất giá tịng phu" Rời nhà cha mẹ đẻ, phụ nữ bước vào cuộc đời xuất giá tịng phu. Bên cạnh trách nhiệm người vợ, người phụ nữ cịn làm thêm nghĩa vụ của người con trong gia đình mới. Cĩ thể nĩi, cơ con dâu mới phải quán xuyến hầu hết những cơng việc, vừa tham gia lao động sản xuất với nhà chồng. Đây là quy luật bắt buộc người phụ nữ cĩ chồng phải đi theo chồng, tuân theo mệnh lệnh của chồng. Ý thức này đã ăn sâu vào dân gian. Nếu người con gái lúc ở nhà cha mẹ đã khơng cĩ một quyền hạn nào định đoạt lấy thân phận của mình thì lúc lấy chồng cũng khơng cĩ quyền sống cho mình mà phải sống cho chồng, cho gia đình chồng. " Ý thức này gây cho phụ nữ một ấn tƣợng xem mình nhƣ kẻ phụ thuộc, sống nhờ vào ngƣời khác, cĩ tƣ tƣởng yếu đuối cầu an. Họ chỉ biết làm sao cho chồng thƣơng để nhờ vào sự che chở của chồng. Hơn nữa tình trạng đa thê đƣợc pháp luật và tập tục cơng nhận: Trai khơn năm, bảy vợ - Gái chính chuyên chỉ một chồng. Khơng phải chỉ khi vợ, chồng khơng cĩ con hoặc khơng cĩ con trai, ngƣời vợ vẫn phải chấp nhận để chồng cĩ thêm vợ lẽ hoặc nàng Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
  25. hầu" [65]. Tục đa thê đã gây nên rất nhiều khổ đau cho người phụ nữ trong xã hội. Chế độ "Tịng phu" đã làm cho người đàn ơng khơng chỉ cĩ đặc quyền được người vợ phục tùng mà cịn gây nhiều bất cơng như nạn chồng đánh vợ, nạn đàn ơng lấy vợ lẽ, mẹ chồng hành hạ nàng dâu.v.v 1.1.1.3. Ý thức " phu tử tịng tử" Đây là quy luật biến người phụ nữ thành của riêng người đàn ơng. Chẳng những họ phải thờ chồng như lúc sống mà cả đến lúc chết cũng phải một dạ thờ chồng. "Chế độ phụ quyền dùng đạo "Tam tịng" để bắt ngƣời phụ nữ phải sống trong khuơn khổ lệ thuộc đàn ơng. Trong quan hệ hơn nhân, xã hội cũng ít chấp nhận việc ly dị, nhất là khi phụ nữ là ngƣời chủ động" [65]. Dư luận xã hội luơn cĩ ác cảm đối với những người phụ nữ gặp phải điều bất hạnh này trong hơn nhân, dù trong nhiều trường hợp họ khơng phải là người cĩ lỗi. Nhiều người phụ nữ đã phải cam chịu một cuộc hơn nhân khơng cĩ hạnh phúc trong suốt cả cuộc đời. Lệ tục làng xã cịn cư xử đầy nghiệt ngã đối với những phụ nữ khơng chồng mà chửa, ngồi ra cịn tước đi quyền làm mẹ chính đáng của nhiều phụ nữ khơng may mắn cĩ được một mái ấm gia đình, buộc họ phải suốt đời sống trong cảnh cơ đơn. Nhiều người đã phải bỏ làng ra đi để giữ lấy thanh danh của gia đình, dịng họ.v.v Cĩ thể nhận thấy rằng, trong pháp luật phong kiến cũng như lệ tục của làng xã, do ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo nên vị trí và vai trị của người phụ nữ trong xã hội rất mờ nhạt, thậm chí họ phải chấp nhận sự đối xử bất bình đẳng so với nam giới. "Đạo tam tịng" đã buộc chặt người phụ nữ vào những khuơn phép khắc nghiệt vơ hình. Chế độ phụ quyền với tư tưởng Nho giáo hà khắc, nghiệt ngã thực sự đã gây ra cho người phụ nữ xưa vơ vàn những nỗi khổ đau cả về vật chất lẫn tinh thần. Đồng thời người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã bị chế độ phụ quyền áp đảo làm mất hết quyền hạn và giá trị nên cĩ một vị trí thấp kém trong xã hội phong kiến. Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
  26. 1.1.2. Người phụ nữ với "Tứ Đức" (Cơng, Dung, Ngơn, Hạnh). " Theo quan niệm xƣa, Cơng là sự khéo léo của phụ nữ trong việc làm tại gia đình. Họ phải biết sắp xếp cơng việc sao cho hợp lý, việc gì cũng cần chu đáo, khơng chỉ khéo léo về nữ cơng gia chánh, đảm đang nội trợ mà cịn phải biết “đối nội, đối ngoại” khơn khéo, nuơi dạy con cái khỏe mạnh, chăm ngoan. Dung là sự hịa nhã trong sắc diện. Đĩ là vẻ đẹp của sự hài hịa giữa hình thức và tâm hồn. Các cụ ta cĩ câu “Chim khơn kêu tiếng rảnh rang/Người khơn nĩi tiếng dịu dàng dễ nghe”, lời nĩi cĩ duyên bao giờ cũng gây đƣợc thiện cảm với ngƣời nghe. Ngơn trong Tứ Đức là lời nĩi dịu dàng, cĩ duyên. Khơng thể phủ nhận sức thuyết phục của ngƣời phụ nữ mỗi khi lên tiếng khuyên chồng, dạy con ở nhà, cho đến dàn xếp cơng việc, thƣơng lƣợng trong kinh doanh, buơn bán. Hạnh thể hiện phẩm chất đạo đức của ngƣời phụ nữ. Đĩ là thƣơng chồng, thƣơng con, giàu lịng nhân ái, đức hy sinh, son sắt thủy chung". Theo Vũ Thanh Phúc, Đơi điều về Cơng, Dung, Ngơn, Hạnh của phụ nữ, báo điện tử bacninh.gov.vn/Story ngày 20/3/2007. Do đĩ trong thước đo của xã hội phong kiến, Cơng, Dung, Ngơn, Hạnh là chuẩn mực quan trọng để đánh giá vẻ đẹp của người phụ nữ. Như vậy "Tứ đức" ngồi phần tích cực là khiến người phụ nữ tự rèn mình theo chuẩn mực để hướng tới cái đẹp, cịn cùng với luật " Tam tịng" trĩi buộc cuộc đời người phụ nữ vào những tư tưởng hà khắc của xã hội phong kiến, đồng thời đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém trong xã hội. 1.2. HÌNH ẢNH, VỊ THẾ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT 1.2.1 Hình ảnh, vị thế người phụ nữ trong văn học dân gian. "Văn học dân gian là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân dân lao động, ra đời từ thời kì cơng xã nguyên thủy, trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội cĩ giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại hiện nay".[12,tr.7] Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
  27. Từ khái niệm trên ta thấy văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật. Nĩi đến văn học dân gian là nĩi đến một thế giới nghệ thuật được sáng tạo nhằm phản ánh sinh động cuộc sống thực tế. Chất liệu chủ yếu để tạo nên tác phẩm văn học dân gian là ngơn từ. Ngơn từ đĩng vai trị quan trọng tạo nên nội dung ý nghĩa tác phẩm. Văn học dân gian ra đời, tồn tại và phát triển nhờ truyền miệng. Văn học dân gian là kết quả của quá trình sáng tác tập thể. Văn học dân gian gắn bĩ mật thiết với các hoạt động khác nhau trong đời sống cộng đồng. Do đĩ nội dung của văn học dân gian vơ cùng phong phú, khơng bị bĩ hẹp trong phạm vi phản ánh các hoạt động cụ thể của con người mà thường mở rộng ra những vấn đề của đời sống tự nhiên và xã hội liên quan đến cộng đồng, dân tộc, thậm chí tồn nhân loại. Cho nên bản sắc văn hĩa của con người Việt Nam, đặc biệt là vẻ đẹp của người phụ nữ đã được in đậm trong văn học dân gian. Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới, cĩ những thể loại chung và những thể loại riêng, hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Khác với hình ảnh thực trong xã hội phong kiến, hình ảnh người phụ nữ được phản ánh trong các thể loại của văn học dân gian luơn xuất hiện với giá trị, vẻ đẹp và được tơn vinh thể hiện khát vọng tự do, khát vọng được đề cao của người phụ nữ. Trong kho tàng thần thoại và truyền thuyết của người Việt, hình ảnh người phụ nữ luơn được đề cao. Truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ kể về sự ra đời của lồi người, trong đĩ coi bà Âu Cơ là Mẹ ( Mẹ Tiên). Quan niệm của người xưa cho rằng phụ nữ là mẹ của muơn lồi, người đàn bà kết hợp với tự nhiên để sinh ra con người. Với hình tượng bà Âu Cơ, rõ ràng là trong ý thức của người dân Việt Nam luơn luơn tồn tại hình tượng một người phụ nữ được coi như người sinh thành ra dân tộc Việt. Bên cạnh hình tượng Mẹ Âu Cơ, thần thoại dân tộc Việt cịn cĩ hình tượng Mẹ Lúa. Nữ thần lúa nước ở trên trời là người đầu tiên dạy người dân đồng bằng làm lúa nước, ổn định cuộc sống lâu dài. Thần thoại Mẹ Luá ghi lại cơng lao của người phụ nữ này, đánh dấu sự ra Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
  28. đời của một phương thức sản xuất mới. Mẹ Lúa cũng mang dịng dõi tiên. Cũng cĩ thể giả thuyết rằng hình tượng Mẹ Lúa được xây dựng vào những cơng đoạn của nghề trồng luá phần nhiều do bàn tay người phụ nữ đảm nhiệm. Hình tượng này đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam, hiển nhiên được coi như là nguồn gốc của nghề nơng ở nước ta. Cùng với hình tượng Mẹ này là hình tượng Phật Bà được thờ cúng ở khắp các chùa chiền trên mọi miền đất nước. Hình tượng Phật Bà nghìn tay nghìn mắt ngồi trên tịa sen là hình tượng hết sức đẹp đẽ, tức là Phật của người Việt cũng là phụ nữ. Những hình ảnh này in dấu ấn rõ rệt của chế độ mẫu hệ. Thực tế trong lịch sử dân tộc cũng xuất hiện rất nhiều hình tượng người phụ nữ trung liệt, tiêu biểu cho cái đẹp đã được ghi lại trong truyền thuyết như hình tượng Hai Bà Trưng. Đây là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã đứng lên lãnh đạo nhân dân giành độc lập tự do cho dân tộc. Hình tượng hai bà đã được nhiều sử sách ghi lại và nhân dân nhiều nơi thờ phụng. Cùng với Hai Bà Trưng, lịch sử đấu tranh giữ nước của người Việt xuất hiện hình tượng Bà Triệu tiêu biểu cho ý chí, nghị lực : " Tơi muốn cƣỡi cơn giĩ mạnh, đạp luồng sĩng dữ, chém cá kình ở biển Đơng". Rất nhiều thế hệ phụ nữ Việt Nam đã ru con bằng những lời ngợi ca người phụ nữ này: Con ơi con ngủ cho ngoan Để mẹ gánh nƣớc rửa bành con voi Muốn coi lên núi mà coi Coi bà Triệu tƣớng cƣỡi voi đánh cồng.[27,tr.251] Vẻ đẹp của bà Triệu là vẻ đẹp của một nữ tướng xơng pha trận mạc. Những hình tượng đẹp đẽ này đã được các thế hệ phụ nữ đời sau phát huy với những gương phụ nữ anh hùng mà trung hậu như hình tượng bà vợ Ba cai Vàng, bà Ba Đề Thám, giúp chồng đánh giặc. Họ trở thành những nhân vật huyền thoại trong lịch sử của người Việt Nam. Trong văn học dân gian, truyện cổ tích là hiện thân về những giấc mơ đẹp của người Việt cổ hướng tới một xã hội cơng bằng, con người được sống trong Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
  29. no ấm, dân chủ và hạnh phúc. Các tác giả dân gian đã thể hiện những ước mơ đĩ qua hai tuyến nhân vật rõ ràng đĩ là cái Thiện và cái Ác. Trong truyện cổ tích, tiêu chí về cái thiện nằm ở chính nghĩa. Cĩ chính nghĩa thì sẽ gặp được người tốt giúp đỡ, nhận được những phép màu kì diệu. Cịn cái ác (phi nghĩa) thì nhất định sẽ bị trừng phạt thích đáng. Bởi thế nhân vật nữ trong cổ tích người Việt thường cĩ sự phân tuyến rõ ràng theo tiêu chí “tuyệt đối”. Tuyệt đối tốt hoặc tuyệt đối xấu, khơng cĩ nhân vật nào phức tạp, bí ẩn. Nhân vật nữ đại diện cho lí tưởng tốt đẹp của nhân dân thường cĩ số phận bi thảm, tiêu biểu cho những con người “thấp cổ bé họng”. Đĩ thường là những kẻ mồ cơi, khơng nơi nương tựa, bị tước đoạt mọi quyền lợi, cĩ khi phải chết đi sống lại nhiều lần như cơ Tấm (Tấm Cám). Hình tượng cơ Tấm , tiêu biểu cho quan niệm " Ở hiền gặp lành" của cha ơng ta. Cơ Tấm gặp nhiều gian khổ nhưng cuối cùng được sống sung sướng. Hình tượng này sống với bao thế hệ người Việt Nam, tiêu biểu cho đức tính hiền thảo của người phụ nữ. Chính sự quan tâm đến số phận những con người nhỏ bé đã thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện cổ tích. Phẩm chất người phụ nữ trong cổ tích chính là đại diện cho những phẩm chất cao quý của nhân dân. Họ là những người phụ nữ giàu lịng nhân hậu, bao dung. Cơ Út lấy Sọ Dừa (Sọ Dừa), Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử (Chử Đồng Tử), cơ Tấm lấy Vua (Tấm Cám) đĩ chính là thể hiện ước mơ về sự cơng bằng và dân chủ, theo quan điểm của người Việt xưa kia. Các nhân vật phụ nữ trong truyện cổ tích dường như luơn được tác giả dân gian nâng niu, trân trọng và cĩ đời sống nội tâm phong phú. Đoạn đầu đời, họ cĩ thể gặp rất nhiều sự bất cơng, bị đe doạ, trắc trở, song cuối cùng bằng sự kiên trì nhẫn nại họ đều chiến thắng và hạnh phúc đã mỉm cười với những người phụ nữ ấy. Tấm mỗi lần hồi sinh lại duyên dáng hơn xưa (Tấm Cám), cơ Út chui ra từ bụng cá vẫn hồn nhiên tươi tắn (Sọ Dừa), người vợ của anh học trị nghèo khi trút bỏ lốt cĩc là một cơ gái thật xinh đẹp (Lấy vợ Cĩc). Bên cạnh đĩ ở truyện cổ tích sinh hoạt cịn cĩ chuyện Gái ngoan dậy chồng, Giết chĩ khuyên chồng, Truyện vợ chàng Trƣơng, đề cao vai trị người Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
  30. phụ nữ. Những nhân vật nữ trong truyện tiêu biểu cho ý chí, nghị lực của người phụ nữ Việt Nam đã cảm hĩa được những người chồng từ chỗ xấu đến chỗ tốt, từ chỗ nghi ngờ, khơng tin đến chỗ thương yêu, kính phục. Ở thể loại sân khấu dân gian cũng xuất hiện hình tượng những người phụ nữ với nhiều khía cạnh tình cảm khác nhau. Đặc biệt hơn cả là trong chèo "Quan âm thị Kính", tập trung ba hình tượng phụ nữ. Thị Kính là người con gái ngoan nhưng gặp nhiều oan ức đến phải đi tu rồi gặp rất nhiều rắc rối. Thị Kính là hình tượng tiêu biểu cho đức hy sinh của người phụ nữ Việt Nam. Thị Mầu, một cơ gái táo tợn, khát vọng yêu đương nồng nhiệt, lại là hình tượng người phụ nữ dám chống lại tục lệ cổ hủ, lên tiếng địi tự do yêu đương, sống cho bản thân mình. Bên cạnh hai hình tượng này cịn cĩ hình tượng Mẹ Đốp, người đàn bà sắc sảo, dùng lời nĩi của mình đánh vào bọn quan lại thống trị, lột trần bộ mặt thật của chúng. Như vậy trong văn học dân gian Việt Nam, hình tượng người phụ nữ rõ ràng cĩ một vị thế vơ cùng quan trọng, họ được đề cao, được nĩi lên tiếng nĩi khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc của mình. Mặc dù số phận, vị trí ,cuộc đời người phụ nữ trong xã hội cũ, xã hội phong kiến thường chịu nhiều bất cơng, oan khổ nhưng trong văn học dân gian hình tượng người phụ nữ vẫn là một hình tượng đẹp, thể hiện cái nhìn ưu ái của các nghệ sĩ dân gian. 1.2.2.Hình ảnh, vị thế người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt 1.2.2.1.Nguyên nhân của vị thế người phụ nữ trong ca dao cổ truyền Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam Việt Nam, ca dao cĩ một vị trí hết sức quan trọng. Hơn bất cứ một thể loại nghệ thuật dân gian nào khác, ca dao là tiếng nĩi tâm hồn của những người bình dân Việt Nam. Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi: "Ca dao là danh từ chung chỉ tồn bộ những bái hát lƣu hành phổ biến trong dân gian cĩ hoặc khơng cĩ khúc điệu" và " do tác động của hoạt động sƣu tầm nghiên cứu văn học dân gian, ca dao đã dần chuyển nghĩa. Từ một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã dùng danh từ Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
  31. ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngơn từ ( phần lời thơ) của dân ca ( khơng kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đƣa hơi). Với nghĩa này, ca dao là thơ ca dân gian truyền thống" Các tác giả của bộ sách Tổng tập Văn học dân gian ngƣời Việt do Nguyễn Xuân Kính chủ biên đã xác định rõ thuật ngữ ca dao, dân ca: "Dân ca bao gồm phần lời ( câu hoặc bài), phần giai điệu ( giọng hoặc làn điệu), phƣơng thức diễn xƣớng và cả mơi trƣờng, khung cảnh ca hát. Ca dao đƣợc hình thành từ dân ca. Khi nĩi đến ca dao, ngƣời ta nghĩ đến lời ca. Khi nĩi đến dân ca, ngƣời ta nghĩ đến cả làn điệu và những thể thức hát nhất định" [ 27,tr.20] Khi xem xét kho tàng ca dao cổ truyền trên một nguồn tư liệu rộng lớn, phong phú và đa dạng, chúng ta sẽ thấy sự xác định nội dung khái niệm ca dao được giới thuyết như trên về cơ bản là hồn tồn cĩ cơ sở thực tế. Cĩ thể nĩi: Ca dao là bộ phận chủ yếu và quan trọng bậc nhất của thơ ca dân gian cĩ phong cách riêng, cĩ thi pháp riêng đặc trƣng trong sự đối chiếu với thơ bác học. Qua ca dao đời sống tâm tƣ tình cảm của ngƣời lao động hiện lên với một vẻ đẹp giản dị và sinh động. Nhà nghiên cứu folklore Đỗ Bình Trị đã từng khẳng định: " Lĩnh vực nêu lên vấn đề con ngƣời một cách trực tiếp, sinh động và cảm động hơn cả là thơ ca dân gian, đặc biệt là ca dao"[59,tr.123]. Về vấn đề thân phận con người, nĩi như Cao Huy Đỉnh: " trƣớc hết là số phận ngƣời dân nơ lệ và ngƣời phụ nữ lao động" [5,tr.42] Những yếu tố nào đã làm nên vị thế quan trọng của người phụ nữ Việt Nam trong ca dao như vậy? Ta sẽ đi phân tích và đánh giá một số những nguyên nhân cơ bản cĩ ảnh hưởng đến vấn đề này. Trải qua các thời đại, ở lĩnh vực nào, người phụ nữ Việt nam đều cĩ những đĩng gĩp đáng kể cho sự tồn tại, phát triển và tiến bộ của dân tộc, vì thế họ đã chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong tâm thức của mọi người dân Việt Nam. Trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hĩa truyền thống, phụ nữ Việt Nam cũng giữ vai trị quan trọng và tích cực. Đối với xã hội phong kiến thì Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21
  32. người phụ nữ cĩ địa vị thấp kém, bị kinh rẻ, bị trĩi buộc bởi những luân lý hà khắc cịn trong sinh hoạt xã hội của người Việt Nam từ thời xưa, sự tơn trọng nể vì người phụ nữ xuất phát từ vai trị và địa vị thực tế của họ trong gia đình và ngồi xã hội. Bất kỳ người Việt Nam nào cũng ghi nhớ trong lịng: -Cơng cha nhƣ núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra Một lịng thờ mẹ kính cha, Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con.[27,tr.509] Người mẹ Việt Nam cĩ vai trị quan trọng và quyết định đối với sự phát triển, sự trưởng thành của người con cả về thể chất lẫn tinh thần cũng như về nhân cách. Nghĩa mẹ thường được đặt cao hơn: "Cha sinh khơng tày mẹ dƣỡng", "Phúc đức tại mẫu", "Đức hiền tại mẹ".v.v Ngay từ khi cịn trong bào thai của mẹ, đến khi ra đời, các thế hệ người Việt Nam đã nhận lấy bầu sữa mẹ cùng với sự dạy dỗ của mẹ. Qua những lời hát ru, những người bà, người mẹ, người chị dạy con em mình tình yêu đất nước, lịng biết ơn đối với tổ tiên: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây/ Ăn gạo nhớ kẻ đâm, say, giần, sàng"[27,tr.1084], hay "Làm trai đứng ở trên đời/ Sống cho xứng đáng giống nịi nhà ta"[27,tr.1092]. Mẹ dạy con phải thương yêu đồn kết: "Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại lên hịn núi cao".[27,tr.1156] Mẹ dạy con cách sống của người Việt Nam: " Tiền tài nay đổi mai dời/ Nghĩa nhân gìn giữ trọn đời với nhau"[27,tr.1126]. Mẹ dạy con phải yêu lao động như lẽ sống ở đời, khơng được lười lao động: "Trời nào cĩ phụ ai đâu/ Hay làm thì giàu cĩ chí thì nên".[27,tr.1106] Đối với con gái, mẹ cũng là người dậy con:" Con đừng học thĩi chua ngoa/ Họ hàng ghét bỏ, ngƣời ta chê cƣời".[27,tr.755], hay " Giàu đâu những kẻ ngủ trƣa/ Hay đâu những gái đong đƣa đến giờ".[27,tr.1104] Những lời ru ngọt ngào, đầm ấm, thiết tha của những người bà, người mẹ, người chị là một hình thức giáo dục rất độc đáo, khơng những giúp cho quá trình hình thành nhân cách của con người mà cịn truyền thu những bài học, Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22
  33. những kinh nghiệm được đúc kết qua hàng nghìn năm lịch sử. Lớn lên, trước khi vào đời và nhận những bài học của cộng đồng, quê hương làng xĩm, của xã hội, tất cả các thế hệ trẻ đều do mẹ dạy dỗ ở gia đình, nhận lấy từ mẹ những bài học bằng lời, bằng ý, bằng tình và bằng chính hành động của mẹ, vì vậy đã gĩp phần tạo nên tình cảm, tâm lý, đạo đức, thái độ, phong cách của người con, đồng thời làm phong phú thêm nền văn hĩa của xã hội, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trong nền văn hĩa vật chất, việc ăn mặc của phụ nữ bao giờ cũng là nhân tố phản ánh trung thực, đậm nét tính chất dận tộc. Là những người tự dệt ra vải lụa, tạo ra màu sắc, tự cắt may theo kiểu cách của mình, người phụ nữ đã thể hiện tâm hồn, tình cảm, nhận thức về tự nhiên và xã hội trên các sản phẩm mà họ làm ra. Từ chiếc khăn đội đầu đến màu áo yếm, cách ăn mặc, kiểu trang phục của người phụ nữ đã tạo nên những tình cảm đẹp, cĩ ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội: "Bao giờ cho hƣơng bén hoa/ Khăn đào bén túi thời ta lấy mình"[28,tr.22], hay " Hỡi cơ mặc áo yếm hồng/ Đi trong đám hội cĩ chồng hay chƣa?"[29,tr.200]. Đối với gia đình, người phụ nữ cịn phải đảm đương cơng việc nội trợ. Từ tương cà dưa muối thanh đạm, đến cua ốc, cá thịt đều là các mĩn ăn đậm đà hương vị dân tộc, đã được nâng lên thành nghệ thuật, trở thành phong tục và kinh nghiệm trong những cuộc thi ở các hội làng. Những cơng việc thường ngày mà người phụ nữ đảm nhiệm như nấu ăn, dệt vải, thêu thùa, may vá v. v tưởng như rất đơn giản, nhưng lại gĩp phần tích cực vào việc bảo tồn và phát triển nền văn hĩa vật chất của dân tộc. Bên cạnh đĩ phụ nữ Việt Nam cịn là những người tích cực trong việc bảo vệ và phát triển nền văn hĩa tinh thần của dân tộc. Các bài ca dao, tục ngữ mà người phụ nữ truyền khẩu khơng chỉ là sự phản kháng chế độ phong kiến, đả kích bọn vua chúa quan lại cường hào, châm biếm những thĩi hư tật xấu trong xã hội, mà cịn tổng kết những tri thức về sản xuất, chiến đấu và trao đổi tình cảm, lối ứng xử trong cuộc sống đời thường tạo nên nét đặc sắc trong kho Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
  34. tàng văn chương bình dân. Từ lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng, phụ nữ cịn là những nghệ sĩ sáng tác và biểu diễn những điệu múa dân tộc uyển chuyển, mềm mại, hát các làn điệu dân ca trong sáng, bình dị, thiết tha và tham gia xây dựng nền nghệ thuật sân khấu cổ truyền tài hoa, hiếm cĩ. Những người phụ nữ cĩ điều kiện được học hành đã đem tài nghệ và tâm hồn hịa chung vào các dịng văn thơ, gĩp phần vào việc phát triển nền văn chương của dân tộc. Tiêu biểu là Nàng Điểm Bích đời Trần Anh Tơng với bài thơ nổi tiếng và duy nhất bằng tiếng mẹ đẻ. Nữ học sĩ Ngơ Chi Lan đời Lê Thánh Tơng, nổi tiếng với chùm thơ "Tứ thời" (Vịnh bốn mùa); Nguyễn Thị Du, người làng Kiệt Đặc, Hải Dương cải trang nam giới đi thi Hội đã đỗ thủ khoa Triều Mạc (Tiến sĩ), làm đến chức Lễ sư ở triều đình nhà Hậu Lê; Bà Trịnh Thị Ngọc Trúc, giữa thời Lê Trịnh nhiễu nhương đã từ bỏ mọi vinh hoa phú quí để miệt mài hồn thành bộ từ điển Hán - Việt cổ nhất của Việt Nam: "Chỉ Nam Ngọc âm giải nghĩa". Đặc biệt trong nền văn chương Việt Nam ở các thế kỷ XVIII, XIX đã nở rộ một chùm hoa đẹp của "Văn học phụ nữ" với những cây bút nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, Đồn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan và Ngọc Hân Cơng chúa. Do đĩ trên cả lĩnh vực văn hĩa vật chất và văn hĩa tinh thần, người phụ nữ xưa đã biểu lộ sức sống dẻo dai, tinh thần dân tộc đậm đà, sức sáng tạo tinh tế và năng khiếu thẩm mỹ đặc biệt của họ. Trải qua hàng nghìn năm, các thế lực ngoại bang thù địch của dân tộc đã bao đời mưu toan thủ tiêu các giá trị văn hĩa Việt Nam bằng cách truyền văn hĩa nước ngồi vào Việt Nam: từ những giáo hĩa về hơn nhân gia đình của quan lại nhà Hán, đến chính sách đồng hĩa về y phục, phong tục của quan lại nhà Minh v.v Cùng với tồn dân tộc, phụ nữ Việt Nam khơng những cố gắng bảo vệ mà cịn phát triển bản sắc của mình, bằng cách học và tiếp thu, biến thành của mình nhiều điều hay lẽ phải của người. Bằng cách đĩ, những thế hệ phụ nữ Việt Nam đã gĩp phần tích cực bảo vệ và phát triển nền văn hĩa truyền thống của dân tộc. Do đĩ nĩi tới bản sắc văn hĩa cổ truyền người Việt khơng thể khơng Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
  35. khẳng định vị thế quan trọng của người phụ nữ trong ca dao. Bởi vì người phụ nữ trong ca dao vừa là đối tượng của cái đẹp, vừa sáng tạo ra cái đẹp, vừa giữ gìn cái đẹp vừa phát huy cái đẹp vào cuộc sống. 1.2.2.2 Hình ảnh, vị thế người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt Từ khái niệm chung về ca dao ta hiểu rằng ca dao cổ truyền là những câu hát, bài hát dân gian được sáng tác theo phương thức tập thể, được lưu truyền và tái sáng tạo thơng qua các hình thức diễn xướng ca hát khác nhau, để "phơ diễn tâm tình" của quần chúng, theo quan điểm thẩm mỹ của nhân dân. Ca dao trữ tình người Việt về bản chất thẩm mỹ thể loại chính là những bài ca trữ tình trị truyện- khác với chất trữ tình của thơ bác học. Theo đĩ cĩ thể nĩi, ca dao đã thể hiện được hết cái hay, cái đẹp của loại hình trữ tình của văn học dân gian. Là thứ nghệ thuật hướng nội, ca dao đã phản ánh, đã diễn tả một cách nhuần nhụy và tinh tế thế giới tâm hồn của con người. Trong ca dao "tƣ tƣởng tình cảm đƣợc chắp đơi cánh kỳ diệu của tƣởng tƣợng, thể hiện đƣợc đầy đủ hơn tất cả sự phong phú và tầm rộng lớn, cao cả của tâm hồn" [56,tr.34] Ca dao cổ truyền là hình thức để người xưa thổ lộ tâm tình. Mà phụ nữ thường hướng nội và cĩ nhu cầu tâm tình, cĩ lẽ vì thế trong ca dao những cung bậc về cõi lịng người phụ nữ thường được giãi bày nhiều hơn nam giới. Trong ca dao, nhân vật phụ nữ hiện lên thơng qua những tâm trạng, những nỗi niềm riêng tư và mang dấu ấn xã hội rất rõ nét. Hai tình cảm nổi bật trong những lời ca của người phụ nữ xưa cĩ thể tập trung trong hai từ “than” và “thƣơng”. Xã hội phong kiến với quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã xơ đẩy nhiều phụ nữ đến với sự bất hạnh và đắng cay. Họ phải sống trong cảnh phụ thuộc và khơng tự quyết định được số phận của mình, họ than: "Thân em là gái chƣa chồng/Tơ duyên cĩ chắc nhƣ dịng nƣớc khơng?"[28,tr.1010], hoặc "Thân em nhƣ tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"[28,tr.796], và: "Thân em nhƣ trái bịng trơi/ Giĩ đánh sĩng dồi, nƣơng tựa vào đâu".[28,tr.1011].v.v Ca dao cổ truyền cịn miêu tả thật thấm thía tâm trạng đau đớn của những cơ gái bị ép duyên, những người vợ cĩ chồng ăn chơi, bạc tình bạc nghĩa, cảnh Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
  36. làm lẽ, cảnh những nàng dâu cĩ mẹ chồng ác nghiệt v.v Chú ý đi sâu mơ tả những nỗi niềm riêng, những khổ sở bất hạnh của người phụ nữ, ca dao xứng đáng là những bài ca mẫu mực về giá trị nhân đạo. Người phụ nữ trong ca dao cịn là biểu tượng của vẻ đẹp truyền thống, họ ý nhị và kín đáo: "Miệng cƣời nhƣ thể hoa ngâu/ Cái khăn đội đầu nhƣ thể hoa sen"[29,tr.107]. Đặc biệt vẻ đẹp tâm hồn (biết hi sinh vì hạnh phúc gia đình, biết “thƣơng" ) của người phụ nữ luơn được ca dao đề cao. Khi đang yêu, họ biết thương bạn tình, khi làm vợ họ tiếp tục thương chồng - thương đến cháy lịng: "Bồng con ngồi tựa trên non/Trăng thu vằng vặc dạ cịn nhớ trơng". [27,tr.316] Trong tình yêu lứa đơi họ yêu thiết tha, say đắm, chân chất và biết vượt khĩ: "Lên non thiếp cũng lên theo/ Tay vịn chân trèo hái trái nuơi nhau". [27,tr.407] Đặc biệt trong hơn nhân, họ là những người nhân hậu, vị tha và chung thuỷ hết mực:" Trồng cây cũng muốn cây xanh/ Gá duyên cũng muốn với anh trọn đời".[27,tr.466], hoặc: "Bơng gì thơm bằng bơng hoa lí/ Nghĩa nào thâm thúy bằng nghĩa thiếp với chàng".[28,tr.531] Trong sinh hoạt dân gian nhất là ca hát thì người phụ nữ cĩ một vị thế rất quan trọng. Đi vào cụ thể của sinh hoạt dân ca trữ tình ta thấy hầu hết các bài ca dao cổ truyền đều được sáng tác trong quá trình lao động, vì vậy nĩ in đậm dấu ấn của người sáng tác ra nĩ. "Phần lớn thơ ca trữ tình dân gian là những lời hát giao duyên nam nữ Hình thức là hát đối đáp" [12,tr.431] Hát đối đáp ra đời một phần do quan điểm của cha ơng ta từ xưa, quan điểm lưỡng hợp, mọi vật trên trái đất đều phải cĩ đơi. Cĩ con trống thì phải cĩ con mái: Nghê đá đình làng cũng phải một đơi; voi phục cổng chùa cũng là hai con. Quan niệm này tạo ra sự tương xứng, cân bằng trong mọi lĩnh vực, dẫn đến những yếu tố tự nhiên cho sự ra đời của hát đối : cĩ nam thì phải cĩ nữ. Trong quá trình lao động người dân thường hát lên những câu ca cĩ khi là cĩ sẵn, cũng cĩ khi tự họ sáng tác, và bao giờ cũng thế nếu bên nam lên tiếng trước thì bên nữ sẽ đối lại hoặc ngược lại. Lực lượng tham gia hát đối chủ yếu là thanh niên nam nữ "Họ là hƣơng vị của thơn quê, là linh hồn của những đêm Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26
  37. trăng"[35,tr.97]. Cũng từ những cuộc hát đối đáp này mà tình yêu trai gái ra đời lại làm phong phú thêm cho ca dao. Lối hát đối đáp này cịn in rõ dấu ấn trong kết cấu của nhiều bài ca dao, kiểu như : - Gặp đây Mận mới hỏi Đào: Vƣờn hồng đã cĩ ai vào hay chƣa ? Mận hỏi thì Đào xin thƣa : Vƣờn hồng cĩ lối nhƣng chƣa ai vào.[29,tr.529] Căn cứ vào cả nội dung và nghệ thuật, câu trên đây tiêu biểu cho lối hát đối đáp. Từ hát vặt, hát đối đến hát phường, hát hội, bất kỳ đâu cũng cĩ sự tham gia của người phụ nữ. Người phụ nữ trong sinh hoạt dân ca vừa là đối tượng của cái đẹp, vừa sáng tạo ra cái đẹp, vừa giữ gìn cái đẹp vừa phát huy cái đẹp vào cuộc sống. Tác giả Nguyễn Thị Huế trong bài viết Ngƣời phụ nữ trong sinh hoạt dân ca đã cho thấy người phụ nữ đĩng vai trị quan trọng trong sinh hoạt dân ca và bộc lộ tâm tình của mình :"Giữ địa vị chủ yếu trong việc diễn xƣớng lối hị hát tâm tình, ngƣời phụ nữ ở đây đã nĩi về mình nhiều hơn, đã bộc lộ tâm trạng của mình một cách sâu lắng hơn ở lối hát đối đáp nam nữ. Với lối hát tự tình này họ đã gửi gắm lịng mình tới nhiều đối tƣợng, nhiều ngƣời để nhằm gián tiếp nĩi tới nhiều vấn đề xã hội. Họ nhắn tới những ngƣời xa vắng nhƣ bạn tình hay cha mẹ những tình cảm yêu thƣơng, mong, nhớ, họ nhắn với chồng con những điều khuyên nhủ, dặn dị, họ nĩi về thân phận của họ, cùng với những ƣớc mong một cuộc sống tốt đẹp hơn " [9,tr.133] Cho nên trong các lễ hội dù của một làng hay là của cả một miền thì tiếng hát về người phụ nữ bao giờ cũng ngân vang. Người phụ nữ qua những lời ca câu hát trong hội hè luơn luơn được tơn trọng, yêu thương dưới con mắt của các chàng trai- bạn hát của họ. Những yếu tố của sinh hoạt trữ tình dân gian khẳng định vị trí của người phụ nữ trong ý thức của nhân dân là rất quan trọng. Hát đối đáp giao duyên nam nữ là một trong những hình thức sinh hoạt văn nghệ được yêu thích nhất của trai Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27
  38. gái nơng thơn xưa kia. Loại hát này cĩ thể xuất hiện lẻ tẻ trong cuộc sống hàng ngày hoặc cĩ thể được hát cĩ tổ chức trong những dịp hội hè đình đám. Khi tham gia vào cuộc hát, thành phần tham gia bao giờ cũng là một bên nam và một bên nữ, hoặc ít nhất là từ hai người trở lên. Họ bất chợt gặp nhau giữa đường hay trong lúc cầy cấy, gặt hái, người con gái cĩ thể hát đối đáp với người con trai dăm ba câu hay nhiều hơn nữa. Đĩ chính là những cuộc hát lẻ. Bên cạnh những cuộc hát đối đáp tình cờ trong đời sống lao động, sinh hoạt thường ngày là những cuộc hát đối nam nữ cĩ tổ chức, cĩ lề lối. Những cuộc hát đĩ ở mỗi điạ phương mang những tên gọi khác nhau như : hát Quan họ Bắc Ninh, hát Ghẹo Vĩnh Phú, hát Phường vải Nghệ Tĩnh, hát Đúm Hải Phịng, hát Trống Quân Hải Hưng, Thanh Hĩa, hát hị đáp Mái Nhì, Mái Đẩy, hị Giã Gạo, hị Đâm Vơi, hị Đạp Xe nước.v.v Dù dưới bất kỳ hình thức nào, khi hát đối đáp rõ ràng là vai trị phía nam và phía nữ về căn bản đều phải cân bằng nhau. Trong một cuộc hát, nếu bên nam đưa ra một câu hát để hỏi thì bên nữ bắt buộc phải cĩ ngay một câu đáp, hoặc ngược lại. Câu hát hay sẽ gây được hứng khởi và cuộc hát tiếp tục, câu hát đáp dở thì cuộc hát sẽ khĩ mà tiếp tục được. Chẳng hạn bất chợt gặp nhau giữa đường, chàng trai đã nắm tay chặn cơ gái hỏi : - Gặp đây anh nắm cổ tay Ai nặn nên trắng ai day nên trịn [28,tr.534] - Sang đây anh nắm cổ tay Hỏi rằng duyên ấy tình này làm sao? Cái gì là mận là đào Cái gì là nghĩa tƣơng giao hỡi nàng.[29,tr.198] Trong hồn cảnh đĩ, muốn để chàng trai buơng tay mình ra, người con gái sẽ buộc phải hát, những câu tha thiết : - Xin chàng bỏ tay em ra Ngày mai em sẽ lại qua chốn này Chàng mà nắm mãi cổ tay Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28
  39. Ngày mai em biết chốn này là đâu.[28,tr.534] - Chàng là mận thiếp là đào Chúng mình kết nghĩa tƣơng giao ở đời.[29,tr.198] Hay: - Truyện Kiều cĩ mấy ngƣời hay Đố chàng giảng đƣợc cầm tay thì cầm v.v [28,tr.843] Khi làm việc dưới đồng nếu thấy một chàng trai đi ngang qua, người phụ nữ cĩ thể hát ra những câu như: - Hỡi anh đi đƣờng cái quan Dừng chân đứng lại em than đơi lời [29,tr.897] Trong các cuộc hát, để làm cho các chàng trai buộc phải đối lại, nếu các chàng trai hát hỏi một cách bĩng bẩy : - Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?.[29,tr.554] thì các cơ gái nếu đồng tình sẽ trả lời bằng câu hát rất duyên dáng: - Đan sàng thiếp cũng xin vâng Tre non đủ lá, non chăng hỡi chàng ?.[29,tr.554] Nếu các chàng trai hỏi với giọng trách mĩc sỗ sàng : - Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở Anh đến tìm đị đị đã sang sơng Anh đến tìm em em đã cĩ chồng.[29,tr.664] thì các cơ gái sẽ đáp lại khá đanh đá : - Hoa đến thì hoa phải nở Đị đã đầy đị phải sang sơng Đến duyên em phải lấy chồng Em yêu anh thế cịn mặn nồng tùy anh ![29,tr.664] Với một số trường hợp được dẫn ra trên đây, chúng ta thấy rằng bên nữ đã khơng kém bên nam trong việc đối đáp bằng văn nghệ cũng như sáng tác và lưu truyền dân ca. Những cuộc hát như vậy đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa đối và Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29
  40. đáp, giữa cá nhân và tập thể. Tác giả Nguyễn Thị Huế tìm hiểu qua những cuộc hát đối đáp nam nữ đã nhận xét : "cĩ những nghệ nhân nổi lên do tài thuộc đƣợc nhiều câu hát và tài ứng đối thơng minh của họ, trong đĩ cĩ nhiều phụ nữ đã là những nghệ nhân tỏ ra xuất sắc nhƣ một tài năng "thiên bẩm" trong lĩnh vực sinh hoạt dân ca. Chẳng hạn trong cuốn sƣu tầm "Hát dặm Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Đổng Chi cĩ hơn 30 nghệ nhân dân gian, những "tay kể chuyện" cĩ tiếng, thì nữ nghệ nhân lại chiếm đa số và cĩ ngƣời cịn trên tài nam giới nhƣ dì Tƣơng, Tiu Hào và o Sĩ " [ 9,tr.133] Vì thế qua hình thức sinh hoạt đối đáp người phụ nữ quả đã gĩp phần hình thành trong thơ ca dân gian một quy luật cấu tứ thơ trữ tình. Đĩ là quy luật cấu tứ theo lối đối đáp- phản ánh phương thức sáng tác thơ ca mà trong đĩ thi hứng đã nẩy ra do nhu cầu trao đổi tình cảm trực tiếp. Người phụ nữ cũng đã gĩp phần phản ánh lối sống lành mạnh, phĩng khống của của nhân dân lao động Việt Nam. Họ đã vượt ra ngồi khuơn khổ giáo lý "nam nữ thụ thụ bất thân" của phong kiến, tích cực đáp ứng nhu cầu địi giải phĩng tình cảm con người, và phần nào đĩ thể hiện lý tưởng dân chủ được nẩy sinh ra trong thực tiễn lao động và cuộc sống. Chính từ sự tham gia vào các hình thức diễn xướng dân ca đối đáp trên đây mà người phụ nữ cịn gĩp phần tham gia vào truyền thống hị hát tâm tình như hị Mái Nhì, Mái Đẩy, hát Đị Đưa, hát Ví trên đồng, hát Ru, hát Lý đã xuất hiện nhiều nơi trên đất nước ta. Lối hát này thường được phụ nữ hát lên khi họ đảm nhiệm những cơng việc như: chở đị trên sơng, cấy gặt trên đồng, nuơi dậy trẻ nhỏ trong nhà đĩ chính là hị hát tâm tình. Trên sơng nước giọng hị phải ngân vang, trong suốt, bay bổng. Cĩ lẽ vì thế mà những giọng hị trên thuyền đi ngược về xuơi thường là của các cơ gái. Trên sơng Lam giọng hát Đị Đưa êm đềm thường là các cơ gái miền Nghệ Tĩnh, cịn trên sơng Hương phẳng lặng cĩ giọng hị Mái Nhì, man mác của những cơ gái Huế, trên sơng Hậu, sơng Tiền là giọng hị Đồng Tháp, hị Cần Thơ của các cơ gái Nam Bộ thanh Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30
  41. nhẹ Loại hát Ví trên đồng, cũng là một lối hát tâm tình của người phụ nữ trong lúc lao động như loại hị hát trên sơng nước. Hát ru đĩ là loại hát hầu như của riêng phụ nữ. Đấy là lối hát trong gia đình, được những người phụ nữ hát lên khi họ dỗ con, dỗ cháu ngủ. Hát ru là lối hát vốn rất phổ biến ở nước ta, nhưng ở mỗi địa phương, cĩ những giai điệu khác nhau và cĩ những tên gọi khác nhau như hát Khúc Tĩnh Gia (Thanh Hĩa), hát Dặm, hát Lý miền Trung và hát Đưa em, hát ầu ơ Nam Bộ Do đĩ vì giữ địa vị chủ yếu trong việc diễn xướng lối hị hát tâm tình, người phụ nữ ở đây đã nĩi về mình nhiều hơn, đã bộc lộ tâm trạng của mình một cách sâu lắng hơn ở lối ca hát đối đáp nam nữ. Với lối hát tự tình này họ đã gửi gắm lịng mình tới nhiều đối tượng, nhiều người để nhằm gián tiếp nĩi tới nhiều vấn đề xã hội đồng thời cũng là khẳng định cả vẻ đẹp hình thức và tâm hồn của họ. Bằng ca dao đối đáp giao duyên và những lối hát tâm tình, người phụ nữ đã gĩp cho thơ ca truyền thống tiếng nĩi của tình yêu, mang yếu tố dân chủ, và thể hiện được sự bình đẳng nam nữ trong một chừng mực nhất định. Nhà thơ Xuân Diệu cĩ nĩi: " Khơng ở đâu bằng trong văn học dân gian, trong ca dao, ngƣời phụ nữ đã ngang nhiên và dĩ nhiên thi hành cái quyền tự do diễn đạt tâm tình của mình". Và văn học bình dân, khơng biết từ bao lâu, đã là một nền văn học dân chủ, bình đẳng giữa nam và nữ. Với những điệu hị hát tâm tình, những lời hát ru, hát lý người phụ nữ đã khẳng định nét đẹp của chính mình và cịn gĩp thêm vào đĩ tiếng nĩi trữ tình, sâu lắng của người dân lao động trước cuộc sống. Trong những tiếng nĩi ấy cĩ cả tiếng nĩi đấu tranh cho một số phận vốn bị đè nén trong xã hội cũ. TIỂU KẾT Bằng việc tìm hiểu những nét cơ bản về vị trí của người phụ nữ trong xã hội phong kiến và hình ảnh, vị thế người phụ nữ trong văn học dân gian, ca dao cổ truyền người Việt, chương viết đã cho thấy: Đối với pháp luật phong kiến cũng như lệ tục của làng xã, do ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo nên vị Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31
  42. trí và vai trị của người phụ nữ trong xã hội xưa là rất mờ nhạt, thậm chí họ phải chấp nhận sự đối xử bất bình đẳng so với nam giới và bị đẩy xuống địa vị thấp kém. Các giáo lý cổ điển như "Tam tịng", "Tứ đức" đã xác định vị trí tối thượng của người cha, người chồng trong gia đình và trĩi buộc người phụ nữ vào một cuộc sống hồn tồn phụ thuộc, khơng cĩ tự do và nhất là khơng được làm chủ chính cuộc đời mình . Ngược lại, hình ảnh người phụ nữ được phản ánh trong các thể loại của văn học dân gian luơn xuất hiện với giá trị, vẻ đẹp và được tơn vinh. Mặc dù số phận, cuộc đời người phụ nữ được phản ánh trong các tác phẩm dân gian rất đúng với hiện thực của xã hội cũ, xã hội phong kiến. Họ vẫn phải chịu nhiều nỗi khổ, bất cơng, oan trái, nhưng họ được các tác giả dân gian đồng cảm, đề cao và nhất là họ được nĩi lên tiếng nĩi khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc chính đáng của mình. Trong văn học dân gian và trong ca dao cổ truyền người Việt vẻ đẹp của người phụ nữ đã được phản ánh một cách tồn diện nhất cả về hình thức và tâm hồn. Bởi vì ca dao là hình thức để con người thổ lộ tâm tình mà người phụ nữ thường hướng nội và cĩ nhu cầu bày tỏ tình cảm. Do giữ địa vị chủ yếu trong việc diễn xướng lối hị hát tâm tình, người phụ nữ ở đây đã nĩi về mình nhiều hơn, đã bộc lộ tâm trạng của mình một cách sâu lắng hơn ở lối ca hát đối đáp nam nữ. Cho nên cùng với những lời ca đối đáp khi giao duyên là lời ca tự tình của những khúc hát Ru, hát Ví, hát Lý.v.v người phụ nữ đã gửi gắm lịng mình tới nhiều đối tượng, nhiều người để nhằm gián tiếp nĩi tới nhiều vấn đề xã hội đồng thời cũng là khẳng định cả vẻ đẹp hình thức và tâm hồn của họ. Như vậy vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của những lời ca nên trong ca dao cổ truyền người Việt, vẻ đẹp của người phụ nữ luơn được khẳng định, trân trọng và ngợi ca. Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32
  43. Chương 2 NÉT ĐẸP HÌNH THỨC VÀ TINH THẦN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT 2.1. NÉT ĐẸP VỀ HÌNH THỨC CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT 2.1.1.Quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền Từ xa xưa sự đề cao sắc đẹp người phụ nữ vẫn là câu chuyện hàng đầu được đề cập tới. Điều này được biểu hiện rõ rệt trong văn chương bình dân đặc biệt là ca dao. Nhưng thế nào là một phụ nữ đẹp, điều này thiết nghĩ khĩ mà đưa ra một mẫu số chung của tiêu chuẩn, bởi thẩm mỹ quan mỗi người một khác nhau. Hơn nữa mỗi thời đại người ta nhận định khác nhau về định mức sắc đẹp. Nhưng dù xưa hay nay quan niệm người phụ nữ đẹp, đương nhiên cả tinh thần lẫn thể xác, người ta dường như vẫn khơng sai khác quan niệm mấy: -Tốt gỗ hơn tốt nƣớc sơn Xấu ngƣời đẹp nết cịn hơn đẹp ngƣời.[27,tr.1170] Trong văn chương bình dân, hình ảnh người con gái cĩ nhan sắc đã được các tác giả dân gian diễn tả bằng những câu đơn sơ nhưng thắm đượm ý tình, khơi gợi nơi mỗi con người những ý niệm ngút ngàn lan tỏa: Cơ kia má đỏ hơng hồng Cơ chửa lây chồng cịn đợi chờ ai.[29,tr.105] Bài ca dao nĩi về "Mƣời Thƣơng ", đã phác họa cho chúng ta thấy quan niệm về nhan sắc của người phụ nữ xưa như thế nào: - Một thƣơng tĩc bỏ đuơi gà Hai thƣơng ăn nĩi mặn mà cĩ duyên Ba thƣơng má lúm đồng tiền Bốn thƣơng răng lánh hạt huyền kém thua Năm thƣơng cổ yếm đeo bùa Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33
  44. Sáu thƣơng nĩn thƣợng quai tua dịu dàng Bảy thƣơng nết ở khơn ngoan Tám thƣơng miệng nĩi lại càng thêm xinh Chín thƣơng cơ ở một nơi Mƣời thƣơng con mắt hữu tình với ai.[29,tr.238] Xem như vậy tĩc dài mới thật đẹp. Phải nuơi tĩc sao cho dài, quấn quanh đầu trong mảnh khăn nhung hay nhiễu Tam giang vẫn cịn lĩ ra ngồi một đoạn gọi là tĩc bỏ đuơi gà, cho đúng thời và hợp ý thích của các chàng trai thời bấy giờ. Nhan sắc của người thiếu nữ đẹp lộng lẫy, kiêu sa bao nhiêu, bản thân họ đã tự cảm nhận thấy, bởi vậy họ khơng dễ gì chấp nhận ở đối tượng mọi sự dễ dàng, họ đã cĩ điều kiện rõ rệt: Lấy chồng cho đáng tấm chồng Bõ cơng trang điểm má hồng răng đen.[27,tr.405] Ngươì phụ nữ xưa thường nhuộm răng đen, một phong tục cổ mà ngày nay ít ai cịn áp dụng: -Răng đen nhoẻn miệng em cƣời Dẫu trời đƣơng nực cũng nguơi cơn nồng.[29,tr.307] Người phụ nữ phải kín đáo, giữ được sự đoan trang những khi ăn nĩi, khơng cười toe toét, dễ bị người ta chê cười : - Vơ duyên chƣa nĩi đã cƣời Cĩ duyên hỏi chín hỏi mƣời chƣa thƣa.[28,tr.183] Nĩi đến thân hình người phụ nữ thì từ xưa cho đến nay người ta đều ưa vẻ đẹp thanh tú, duyên dáng: - Những ngƣời thắt đáy lƣng ong Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuơi con.[27,tr.1160] Kinh nghiệm dân gian cho thấy, thường lưng ong đã đẹp (đẹp người) thì những cái khác cũng theo đĩ mà đẹp luơn (đẹp nết). Chọn vợ thì chọn cái lưng ong trước hết, vừa xinh giịn lại đảm đang vén khéo cho giang sơn nhà chồng, đẹp người đi liền với đẹp nết. Thật cĩ lí khi dân gian Việt phân tích: vẻ đẹp Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34
  45. “lƣng ong” thường lây lan sang vẻ đẹp tâm hồn và tính cách, biểu hiện ở hai phẩm chất đẹp nhất của người đẹp Việt Nam: " chiều chồng", " nuơi con". Rồi nữa, người đã lưng ong xinh, thì cái gì cũng xinh: Ngƣời xinh cái bĩng cũng xinh/ Ngƣời giịn cái tỉnh tình tinh cũng giịn.[24,tr.1620] Chưa hết, người xinh cũng là người khỏe mạnh, đầy sức sống, được ca ngợi: Trúc xinh trúc mọc bờ ao/ Em xinh em đứng một mình cũng xinh.[25,tr.2280] Và người phụ nữ cĩ cái nết đẹp phải là: Gái thì giữ việc trong nhà/ Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa.[24,tr.2156] Chính vì thế các tác giả dân gian trong ca dao đã ca ngợi nét đẹp hình thức người phụ nữ, nhưng họ cũng luơn chú trọng tới vẻ đẹp của tâm hồn, phẩm chất bên trong theo quan điểm" Cái nết đánh chết cái đẹp"[10,tr.22] 2.1.2. Nét đẹp về thể chất của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt 2.1.2.1. Thống kê các hình ảnh về nét đẹp thể chất của người phụ nữ Bộ sách Tổng tập văn học dân gian ngƣời Việt, tập 15, 16 (quyển thượng, quyển hạ) do Nguyễn Xuân Kính ( chủ biên) là tư liệu chính chúng tơi dùng để khảo sát nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt. Bộ sách này, theo các tác giả, cĩ 11.001 lời ca dao, chúng tơi đã lựa chọn ra 1.612 lời ca dao nĩi về nét đẹp thể chất của người phụ nữ, chiếm tỷ lệ 14,6%. Dưới đây là sự thống kê cụ thể nét đẹp về thể chất của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt: Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35
  46. Bảng thống kê nét đẹp về thể chất người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt STT Tên Số lượng hình ảnh 1 Tĩc 153 hình ảnh / 11.001 lời ca 2 Lơng mày 12 hình ảnh / 11.001 lời ca 2 Mắt 125 hình ảnh / 11.001lời ca 3 Răng 129 hình ảnh /11.001 lời ca 4 Mũi 3 hình ảnh /11.001 lời ca 5 Miệng 123 hình ảnh / 11.001 lời ca 6 Má 81 hình ảnh /11.001 lời ca 7 Tai 59 hình ảnh /11.001 lời ca 8 Cổ 6 hình ảnh /11.001lời ca 8 Ngực 4 hình ảnh /11.001 lời ca 9 Vú 21 hình ảnh /11.001 lời ca 10 Tim 6 hình ảnh / 11.001 lời ca 11 Gan 72 hình ảnh / 11.001 lời ca 12 Ruột 78 hình ảnh / 11.001lời ca 11 Vai 13 hình ảnh / 11.001 lời ca 12 Thắt lưng 6 hình ảnh / 11.001 lời ca 12 Bụng 26 hình ảnh / 11.001 lời ca 13 Mơng 4 hình ảnh / 11.001 lời ca 14 Tay 539 hình ảnh / 11.001 lời ca 15 Chân 142 hình ảnh / 11.001lời ca 16 Nước da 10 hình ảnh / 11.001 lời ca Qua bảng số liệu thống kê các hình ảnh mơ tả về nét đẹp thể chất của người phụ nữ, chúng tơi thấy rằng nét đẹp về thể chất con người được biểu hiện rõ nhất ở trên khuơn mặt với 3 hình ảnh nổi bật " Tĩc- Răng- Mắt " . Cụ thể ta thấy các hình ảnh này tương đối đồng đều nhau: + Tĩc: 153 hình ảnh/ 1.612 lời ca = 9,49 % + Răng: 129 hình ảnh/1.612 lời ca = 8,0 % + Mắt : 125 hình ảnh/1.612 lời ca = 7,75 % Các hình ảnh này tương đương, sĩng đơi nhau, cịn các hình ảnh khác như : Má: 81 hình ảnh/1.612 lời ca = 5,0 %, cịn Mũi; Tai; Ngực chiếm số lượng ít; Chân cĩ 142 hình ảnh/ 1.612, bằng 8,8 % và nhiều nhất là Tay cĩ 539 hình Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36
  47. ảnh/1.612, bằng 33%, được mơ tả như những hình ảnh đẹp nhưng chủ yếu mang nghĩa gợi tả để diễn tả hành động, gĩp phần thể hiện tình cảm yêu thương của người phụ nữ. 2.1.2.2 .Ca ngợi nét đẹp thể chất của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền Ca dao là khúc hát tâm tư sâu lắng của người bình dân. Xuất phát từ quan điểm thẩm mĩ của người bình dân xưa: "Cái răng cái tĩc là gĩc con ngƣời"[10,tr.23], nên trong việc thể hiện nét đẹp thể chất của người phụ nữ, ca dao thường chú ý nhiều tới vẻ đẹp của Mái tĩc- Hàm răng- Đơi mắt, sau là Má hồng và các dáng vẻ khác. Do đĩ nét đẹp về thể chất của người phụ nữ trong cuộc sống thường được ca dao mơ tả qua vẻ đẹp của " Ánh mắt- mái tĩc- nụ cƣời". Vẻ đẹp của đơi mắt được diễn tả: - Nghe đồn cặp mắt long lanh Ai ai khơng ngĩ cứ anh em nhìn [25,tr.1710] - Trời xanh con mắt là gƣơng Ngƣời ghét ngĩ ít ngƣời thƣơng ngĩ hồi. [28,tr.318] - Nhác trơng con mắt đáng trăm Miệng cƣời đáng chục, hàm răng đáng nghìn Nhác trơng con mắt ƣa nhìn Đáng trăm cũng chuộng, đáng nghìn cũng mua.[28,tr.223] Đĩ là vẻ đẹp của mái tĩc thề ngang vai hay mái tĩc dài trong duyên gặp gỡ : - Duyên là tĩc, tĩc là tơ Xe tơ kết tĩc, tĩc đà ngang vai. [29,tr.644] - Tĩc em dài em cài hoa lý Miệng em cƣời cĩ ý em thƣơng. [29,tr.347] Cịn đây là vẻ đẹp của nụ cười : - Năm quan mua lấy miệng cƣời Mƣời quan chẳng tiếc tiếc ngƣời răng đen Răng đen ai nhuộm cho mình Cho răng mình đẹp cho tình anh say.[29,tr.236] Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37
  48. - Nhớ khi khăn mở trầu trao Miệng thì cƣời nụ biết bao nhiêu tình.[25,tr.1667] Đi sâu vào tìm hiểu, khám phá lối miêu tả, biểu hiện trực tiếp của ca dao ta thấy rõ vẻ đẹp của lối diễn tả giản dị, ngơn ngữ bình dân, quan niệm thẩm mĩ dân gian sâu sắc, đặt bên cạnh vẻ đẹp ý nhị, ngầm ẩn và đa nghĩa. Chẳng hạn ca ngợi đơi mắt đẹp của người con gái : -Những ngƣời con mắt lá dăm Lơng mày lá liễu đáng trăm quan tiền.[27,tr.1160] Từ thực tiễn cuộc sống, người nghệ sĩ dân gian đã dùng hình ảnh" lá dăm" để so sánh với hình tượng đơi mắt mà khơng cần đến những từ "nhƣ", "tựa", "hơn"," kém"," bằng" mà vẫn đạt được những dụng ý nghệ thuật sâu sắc." Mắt lá răm" theo quan niệm của nhân dân ta là mắt dài và đẹp. Hình ảnh chiếc lá rau răm xinh tươi, hay lá liễu dài mềm mại thường được ví tương ứng với con mắt, lơng mày của người thiếu nữ. Hay khi miêu tả miệng cười : Nhác trơng thấy một bĩng ngƣời Răng đen nhƣng nhức miệng cƣời nhƣ hoa.[29,tr.610] Câu ca thật cụ thể, rõ ràng dễ hiểu. Ví miệng cười như hoa nở thì khơng gì hay hơn. Đồng thời cịn biểu đạt một thái độ trân trọng, ngưỡng mộ và yêu thương. Người nghệ sĩ dân gian cịn sử dụng gam màu thật đậm, thật sắc nét đặt trong thế tương phản "trắng phau phau" và "đen nhƣng nhức"để miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ : - Hai má nàng trắng phau phau Răng đen nhƣng nhức nhƣ màu hạt dƣa[29,tr.188] Bên cạnh đĩ chúng ta cũng phải thấy rằng con mắt của người đương đại khơng hồn tồn giống với con mắt của người nghệ sĩ dân gian xưa từ gĩc độ thẩm mĩ tới gĩc độ tâm lí. Do đĩ mà ta phải hiểu răng đen là tiêu chuẩn cái đẹp của người xưa khi nĩi về người phụ nữ đẹp về thể chất. Cịn trong quan niệm của người bình dân thời đĩ ai cĩ "răng trắng " là khơng đẹp và bị lên án : Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38
  49. -Cơ kia răng trắng hạt bầu Hẳn cơ ở khách bên Tàu mới sang Cổ cơ đeo chuỗi hạt vàng Bây giờ cơ lại vơ quàng vơ xiên.[29,tr.425] Ngược lại trong thời đại ngày nay, hàm răng trắng bĩng lại là tiêu chí của cái đẹp. Nếu ngày xưa răng đen nhánh nhai trầu mơi đỏ thì ngày nay răng trắng lại giúp con người làm đẹp. Sự thay đổi trong quan niệm từ "răng đen đến răng trắng" là cả một quá trình thay đổi về nhận thức. Ngày nay vẫn cịn nhiều mái tĩc dài đen mượt của hoa lý mà cịn cĩ thêm những mái tĩc cắt tỉa gọn gàng, phù hợp với thời đại cơng nghiệp. Khơng cịn nụ cười răng đen lấp lánh mà thay vào đĩ là một hàm răng trắng bĩng. Nhưng ta cũng nhận thấy rằng tất cả sự thay đổi đĩ dù nhằm mục đích gì đi chăng nữa thì cái tồn tại mãi với thời gian vẫn là nét duyên dáng, vẻ đẹp nữ tính dịu dàng, bình dị của người phụ nữ Việt Nam. Chẳng hạn nét đẹp nụ cười là yếu tố quan trọng giúp người con gái luơn tươi trẻ, ca ngợi nụ cười cũng hàm ý khen vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống: -Anh chỉ quen một cơ nàng da trắng tĩc dài Miệng cƣời nhƣ nhánh hoa nhài nở nang.[29,tr.46] Hoa nhài là lồi hoa đẹp nhưng nhẹ nhàng bình dị, nĩ khơng cáo quý như hoa cúc, hoa lan mà gần gũi với cuộc sống, cho nên nĩi "Miệng cƣời nhƣ nhánh hoa nhài nở nang" là muốn nĩi đến vẻ đẹp khỏe khoắn bình dị của người lao động. Nụ cười bình dị ấy lấp lánh vẻ đẹp của sắc màu cuộc sống, cho nên khơng chỉ được so sánh với hoa nhài mà cịn là " hoa quế" hay " tai hoa hồng" : - Miệng em cƣời nhƣ cánh hoa nhài Nhƣ nụ hoa quế nhƣ tai hồng.[29,tr.162] Hình ảnh tĩc- răng- mắt được khắc họa nhiều khi nĩi về nét đẹp thể chất của người phụ nữ ngồi lí do là theo quan niệm của người bình dân, cịn do phương thức hát đối giao duyên nặng tình. Vào những đêm trăng thanh giĩ mát, những câu hị câu hát chứa chân tình cảm đã được cất lên. Trai- gái gặp nhau nơi " đầu mày cuối mắt", họ ấn tượng về nhau với một ánh mắt tha thiết, một nụ Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39
  50. cười của hàm răng đen, một mái tĩc, để rồi nhớ, rồi thương, rồi yêu nhau. Lẽ vậy nên khi nhớ nhau, họ thường ấn tượng nhất với một nét ngoại hình nào đĩ. Hình ảnh đơi mắt vừa mang lại nét đẹp, vừa mang lại giá trị cho người phụ nữ : -Những ngƣời con mắt lá răm Lơng mày lá liễu đáng trăm quan tiền.[25,tr.1675] Đơi mắt được đề cao "đáng trăm quan tiền" vì là " lá răm, lá liễu " và cịn bởi đơi mắt ấy đã thể hiện cho tất cả nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ: - Trời xanh con mắt là gƣơng Ngƣời ghét ngĩ ít ngƣời thƣơng ngĩ nhiều.[28,tr.318] Cho nên thơng qua các cuộc hát giao duyên mà ấn tượng khĩ phai về mái tĩc- hàm răng - nụ cƣời - ánh mắt trao thương gửi nhớ đã được nĩi nhiều để ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ. Mỗi người phụ nữ lại cĩ một nét duyên, một sự hấp dẫn riêng để làm say đắm lịng người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của người phụ nữ cũng khơng ngồi những điều đã được ca dao truyền tụng. Cĩ người phụ nữ đẹp nhờ mái tĩc rậm dài, bồng bềnh, và đơi chân mày cong vịng như viền trăng non : -Chân mày vịng nguyệt cĩ duyên Tĩc mây gợn sĩng đẹp duyên tơ hồng.[23,tr.879] Cĩ khi là một mái tĩc dài : -Tĩc đến lƣng vừa chừng em búi Để chi dài bối dối dạ anh ?[29,tr.347] Hay một nụ cười : -Ngƣời bao nhiêu tuổi hỡi ngƣời Ngƣời bao nhiêu tuổi miệng cƣời nở hoa.[25,tr.2109] Cĩ người phụ nữ lại đẹp nhờ hai má cĩ hai lúm đồng tiền, mỗi khi nĩi nĩi, cười cười tạo nên một cái duyên hấp dẫn lạ thường: - Hai má cĩ hai đồng tiền Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ƣa.[29,tr.379] - Mắt xanh tƣơi thắm mơi trầu Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40
  51. Miệng cƣời lúm má, cho cầu thêm xinh.[23,tr.372] Hay vì cĩ nước da trắng nõn, đơi gị má đỏ au, đơi mơi hồng hào và chiếc cổ cao ba ngấn làm nét mặt trở nên tươi thắm vơ ngần, khiến các chàng trai vừa thống thấy đã phải chú ý rồi đem lịng trộm dấu thầm yêu: -Ai xui má đỏ, mơi hồng Để anh nhác thấy đem lịng thƣơng yêu.[29,tr.21] - Cổ cao ba ngấn cổ cao Răng đen hột đỗ miệng chào cĩ duyên.[29,tr.107] Sau hết phải kể tới vĩc dáng. Người phụ nữ đẹp là người cĩ thân hình thon thả, thanh tú : -Ngƣời thanh tiếng nĩi cũng thanh Chuơng kêu kẽ đánh bên thành cũng kêu.[27,tr.1160] Người thanh tất nhiên sẽ khơng phải là người béo, cũng khơng phải là người gầy, vì người đẹp phải là người cĩ da, cĩ thịt, cổ tay phải trịn lẳn: -Cổ tay em trắng lại trịn Để cho ai gối đã mịn một bên Gối chăn gối chiếu khơng êm Gối lụa khơng mềm bằng gối tay em.[29,tr.107] Cộng vào đĩ người phụ nữ đẹp phải cĩ eo thon, tạo nên sự cân đối và làm nổi bật được những đường nét yêu kiều cho vĩc dáng : - Hỡi ngƣời tĩc tốt xanh non Lƣng ong thắt đáy nhƣ con tị vị.[29,tr.148] - Những ngƣời thắt đáy lƣng ong Vừa khéo chiều chồng, lại khéo nuơi con.[27,tr.1160] Như vậy, ta thấy rằng khi khắc họa vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt, người bình dân đã chú trọng nhiều tới nét đẹp trên khuơn mặt: tĩc- răng- mắt- má - miệng rồi mới đến giọng nĩi , vĩc dáng, làn da Qua đơi mắt yêu thương trìu mến của những người khác phái, người phụ nữ hiện lên khơng phải với vẻ đẹp yểu điệu ước lệ như trong văn học viết kiểu : Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41
  52. " Hoa cƣời ngọc thốt đoan trang Mây thua nƣớc tĩc tuyết nhƣờng màu da". ( Truyện Kiều- Nguyễn Du) Cái đẹp thể chất của người phụ nữ trong ca dao là cái đẹp khỏe mạnh, tươi tắn, bình dị, gần gũi, tự nhiên và gắn bĩ với cuộc sống lao động. Khi miêu tả nét đẹp về thể chất của người phụ nữ nhân dân ta đã xuất phát từ quan niệm rất lành mạnh: Cái đẹp phải gắn với lao động, với thiên nhiên đất nước. " Cái đẹp chính là cuộc sống" (Tsecnưsepxk) 2.1.2.3. Nét đẹp thể chất của người phụ nữ trong tình yêu lứa đơi Trong tình yêu đơi lứa nét đẹp của người phụ nữ về thể chất được khắc họa nhiều nhất. Bởi vì theo quy luật tâm lý, các chàng trai khi yêu thường chú ý đến nhan sắc của người con gái : Đầu năm ăn quả chanh yên Cuối năm ăn bƣởi cho nên đèo bịng Vì cam cho quýt đèo bịng Vì em nhan sắc cho lịng anh thƣơng.[29,tr.129]. Trong buổi đầu gặp gỡ làm quen thì ánh mắt, nụ cƣời, mái tĩc luơn để lại ấn tượng khĩ quên: - Nhác trơng con mắt ƣa nhìn Đáng trăm cũng chuộng đáng nghìn cũng mua.[28,tr.223] -Mình về mình nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cƣời[29,tr.236] -Tĩc xanh tƣơi tốt rậm rà Răng đen nhanh nhánh tƣởng là hạt na.[28,tr.220] Hơn thế nữa nét đẹp về thể chất trên khuơn mặt của người con gái đã làm xao xuyến trái tim của các chàng trai: Gặp em thấy khéo miệng cƣời Thấy xinh con mắt thấy tƣơi má hồng Gặp nhau giữa cánh đồng này Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42
  53. Bốn mắt liếc lại lơng mày đƣa ngang.[29,tr.291] Từ việc ca ngợi nét đẹp tự nhiên về thể chất của người con gái mà cĩ chàng trai đã tỏ tình thật mạnh bạo: Nhìn em đơi má ửng hồng Răng đen nhƣng nhức mà lịng anh say.[29,tr.278] Vẻ đẹp thể chất tự nhiên của người con gái cịn bất chấp cả thời gian : Má hồng cịn cĩ khi phai Răng đen da trắng mái tĩc dài anh yêu.[29,tr.221] Các chàng trai khi yêu khơng ngại ngần khi bầy tỏ sự ngưỡng mộ vẻ đẹp thể chất của người con gái : Cổ tay em trắng nhƣ ngà Con mắt em liếc nhƣ là dao cau Miệng cƣời nhƣ thể hoa ngâu Cái khăn đội đầu nhƣ thể hoa sen.[29,tr.107] Ấn tưọng bởi những nét đẹp về thể chất của người phụ nữ, cho nên vì yêu cái duyên trời mà cĩ chàng trai đã đưa ra mười tiêu chuẩn: -Một thƣơng tĩc bỏ đuơi gà Hai thƣơng ăn nĩi mặn mà cĩ duyên Ba thƣơng má lúm đồng tiền Bốn thƣơng răng lánh hạt huyền kém thua Năm thƣơng cổ yếm đeo bùa Sáu thƣơng nĩn thƣợng quai tua dịu dàng Bảy thƣơng nét ở khơn ngoan Tám thƣơng ăn nĩi lại càng thêm xinh Chín thƣơng cơ ở một mình Mƣời thƣơng con mắt cĩ tình với ai. [29,tr.238] Trong mười tiêu chuẩn yêu thương ở bài ca dao trên thì tiêu chuẩn của hình thức cũng chiếm phần đa số 7câu /10 câu ( 1,2,3,4,5,6,8). Đi vào tìm hiểu một số bài ca dao, ta thấy rằng các chàng trai khi yêu bao giờ cũng cĩ cảm tình Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43
  54. từ hình thức của người mình yêu nên dân gian mới nĩi " Con trai yêu bằng mắt". Họ xao xuyến tâm hồn và muốn kết duyên cùng người đẹp mỗi khi cĩ sự gặp gỡ : -Thấy em hân hấn má đào Thanh tân mày liễu dạ nào chẳng thƣơng.[10,tr.741] Trước nhan sắc của người phụ nữ họ cịn táo bạo thổ lộ : - Nƣớc trong ai chẳng rửa chân Cái má trắng ngần ai chẳng muốn thơm.[24,tr.1521] - Cơ nào mặt ngọc má hồng Tơi đây muốn kết làm chồng nên chăng?[29,tr.310] Tình yêu lứa đơi lại cũng vơ cùng kỳ diệu, như cĩ phép mầu làm nhan sắc của người phụ nữ thêm duyên dáng, đơi mắt thêm long lanh, nét mặt thêm rạng rỡ, mái tĩc thêm mềm mại xanh mướt : - Vì chƣng ăn miếng trầu anh Cho nên má đỏ, tĩc xanh đến giờ.[28,tr.859] - Nhấp nhánh là nhấp nhánh ơi Mắt ngƣời lấp lánh nhƣ sao trên trời.[28,tr.226] Hơn nữa, theo bản tính tự nhiên, người phụ nữ Việt Nam xưa cũng biết cách làm tăng thêm vẻ đẹp sẵn cĩ của mình. Họ được bác mẹ dậy rằng "Cái răng cái tĩc là gĩc con ngƣời " nên luơn gắng gìn giữ và làm đẹp thêm vẻ đẹp tự nhiên. Suối tĩc xanh trẻ trung được họ ướp hương bằng bơng hoa lý thơm ngát : -Tĩc em dài em cài hoa lý Miệng em cƣời cĩ ý anh thƣơng.[29,tr.347] Cịn đây là nụ cười, ai cũng biết nụ cười, khĩe mắt là hai yếu tố tạo nên vẻ linh động, duyên dáng nhất trên khuơn mặt người phụ nữ. Và nhiều cơ gái cũng sớm biết cho mình một cái duyên bằng nụ cười: -Trăng rằm mƣời sáu trăng nghiêng Thƣơng ai chúm chím cƣời duyên một mình.[25,tr.2102] Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44
  55. - Gặp em thấy khéo miệng cƣời Thấy xinh con mắt, thấy tƣơi má hồng.[29,tr.291] Đĩ là nụ cười đầu mơi như nụ hoa ngâu nhỏ xíu, khum khum hàm tiếu: - Miệng cƣời nhƣ thể hoa ngâu Cái khăn đội đầu nhƣ thể hoa sen.[29,tr.107] Hay như búp hoa sen hồng, như ánh bình minh tinh khơi : -Ngĩ lên lỗ miệng em cƣời Nhƣ búp hoa sen nở, nhƣ mặt trời mới lên.[29,tr.258] Nụ cười duyên dáng ấy chẳng những dễ dàng gây được thiện cảm với các chàng trai ngay trong buổi đầu gặp gỡ, mà cịn mãi lưu lại tình quyến luyến trong ký ức của người yêu dấu: -Nhớ khi khăn mở trầu trao Miệng thì cƣời nụ biết bao nhiêu tình.[25,tr.1667] Trong tình yêu khi trao thương gửi nhớ bao giờ cũng bắt đầu từ ánh mắt. Người ta thường nĩi rằng :" Con mắt là cửa sổ tâm hồn", cửa sổ tâm hồn ấy là nơi giãi bày tâm sự tình cảm một cách ý tứ và kín đáo. Theo số liệu thống kê tìm được gần 125 hình ảnh để diễn tả về đơi mắt. Cĩ " đơi mắt lim dim, mắt lừ đừ, mắt bồ câu, mắt lá răm, mắt xanh màu liễu, mắt thần, mắt tình, mắt đen sì, mắt ƣa nhìn, mắt lĩng lánh, mắt phƣợng ". Mỗi hình ảnh đơi mắt lại mang hình dáng và sắc thái biểu hiện nét đẹp khác nhau. Đĩ là đơi mắt đẹp bởi chất chứa nỗi nhớ thương trong tình yêu : -Thƣơng em con mắt lá răm Lơng mày lá liễu thƣơng năm nhớ mƣời. [25,tr.2119] Đơi mắt đẹp cũng chính là nơi để bộc lộ trao thương gửi nhớ của người con gái khi yêu : - Thấy ngƣời yểu điệu đi qua Trùng trình mắt phƣợng cho ta mến tình.[10,tr.740] Một ánh mắt trao tình : -Yêu nhau đứng ở đằng xa Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45
  56. Con mắt liếc lại bằng ba đứng gần.[24,tr.1460] Khi đã mạnh dạn trao lời, ánh mắt nhìn nhau tâm đầu ý hợp : Ngọn đèn dọi tỏ lơ phơ Mắt tình hơi liếc lịng ngơ ngẩn lịng.[24,tr.1579] Ánh mắt làm say đắm lịng người: - Hoa thơm hoa ở trên cây Đơi con mắt em lúng liếng dạ anh say lừ đừ.[29,tr.190] Khi " mắt tình liếc " chính là lúc người ta yêu, ý tứ và mê đắm trong đơi mắt ấy. Bởi đơi mắt đã ẩn chứa bao điều. Cịn đây là "mắt bồ câu, mắt phƣợng, con mắt sắc nhƣ dao": - Con mắt bồ câu Làm cho phải khổ.[29,tr.347] - Thấy em mắt phƣợng mơi son Mày ngài da tuyết đào non trên trời.[29,tr.330] - Con mắt sắc nhƣ dao cau Quả cau tiện chũm chào nhau ăn cùng.[29,tr.542] Đĩ là con mắt mơ tả hình thức, để rồi khi tình cảm đến đơi mắt gợi tả đã nhường chỗ cho đơi mắt tâm trạng. Tác giả Trần Đình Ngơn với" Con mắt trong tục ngữ, ca dao với ngơn ngữ tạo hình điện ảnh", nhận xét: " Khác với tục ngữ, thành ngữ, con mắt trong ca dao thì lại đặc biệt thiên về biểu hiện tâm tƣ tình cảm của con ngƣời, nhất là trong tình yêu đơi lứa." [40,tr.56] Cho nên hình ảnh đơi mắt " lim dim, lừ đừ, lửng lơ" là con mắt của tâm trạng nhớ thương, hồi tưởng: - Nhớ ai con mắt lim dim Chân đi thất thểu nhƣ chim tha mồi.[25,tr.1660] - Thƣơng ai con mắt lừ đừ Sầu riêng nhớ mãi đến giờ chƣa nguơi.[25,tr.2118] - Nhớ chàng mắt lửng lơ trơng Dạ bồi hổi tƣởng chân rong rã hồi.[25,tr.1665] Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46
  57. Nỗi nhớ tình yêu đong đầy trong đơi mắt xanh đĩ và cả những âu lo, trăn trở cũng được bộc bạch và giãi bầy : - Ngồi nhà dựa bĩng đèn xanh Mắt xanh xanh biếc, nhớ ngày thanh xuân.[25,tr.1715] Tác giả Trần Đình Ngơn cịn chỉ ra:" Con mắt xuất hiện nhiều nhất vẫn là để biểu lộ tình cảm nhớ thƣơng, buồn tủi, giận hờn, khao khát trong tình quê, tình nhà, tình yêu đơi lứa. Và trƣớc các đối tƣợng giao tiếp, sức truyền cảm của con mắt thật là mạnh mẽ: Yêu nhau đứng ở đằng xa/Con mắt liếc lại bằng ba đứng gần. So với chuyện " ra đụng vào chạm để mà nhớ thƣơng" thì con mắt liếc lại cịn mãnh liệt hơn nhiều, cuốn hút hơn nhiều. Chả thế mà cĩ ngƣời đã phải thốt lên: Gớm ghê thay con mắt hữu tình/Làm cho đổ quán xiêu đình nhƣ chơi, hay :Lúng liếng là lúng liếng ơi/ Xiêu đình đổ quán nhƣ chơi cũng là! " [40,tr.56]. Tác giả khẳng định nét đẹp về thể chất của người phụ nữ Việt được mơ tả qua ánh mắt hiện lên thật đẹp, vì " cái nhìn của con mắt trong ca dao chẳng những thể hiện các trạng thái tâm tƣ, tính cách con ngƣời mà cịn chứa đựng phần nào cái bản sắc dân tộc nơi tâm hồn Việt Nam." [40,tr.58] Cái nhìn ban đầu qua ánh mắt trao thương gửi nhớ khiến biết bao chàng trai và cơ gái nhớ nhung rồi yêu nhau. Trong nỗi nhớ đằm sâu ấy, ngồi ánh mắt nụ cười cịn cĩ hình ảnh của mái tĩc. "Mái tĩc" trong quan niệm của người bình dân đĩ là sự dịu dàng, duyên dáng- một vẻ đẹp chân mộc của người phụ nữ xưa. Qua thống kê chúng tơi thấy cĩ 153 hình ảnh nĩi về mái tĩc. Đây là nét đẹp về thể chất được mơ tả nhiều nhất trên khuơn mặt người phụ nữ. Những hình ảnh về mái tĩc được lặp lại nhiều lần là: "Tĩc đuơi gà, tĩc xanh, tĩc dài, tĩc ngang vai, tĩc mai, tĩc kết, tĩc búi, tĩc mây xanh, tĩc tơ, tĩc bạc, tĩc sƣơng". Điều đĩ chứng tỏ rằng mái tĩc của người phụ nữ đã trở thành một nét đẹp, sự quyến rũ rất ấn tượng. Chẳng hạn dùng hình ảnh "tĩc xanh" để nĩi về sự trẻ trung, về tình yêu chung thủy của người con gái: - Đèn năm canh, ngày cũng năm canh Thƣơng ngƣời tuổi trẻ tĩc xanh lỡ chừng.[23,tr.453] Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47