Luận văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Ngân Hàng TMCP Phát Triển Nhà TPHCM

pdf 96 trang phuongnguyen 3030
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Ngân Hàng TMCP Phát Triển Nhà TPHCM", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_nang_cao_nang_luc_canh_tranh_ngan_hang_tmcp_phat_tr.pdf

Nội dung text: Luận văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Ngân Hàng TMCP Phát Triển Nhà TPHCM

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH K PHẠM NGUYỄN HOÀNG THỤY KHANH NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN NHÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH MÃ SỐ : 60.34.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH CÔNG TIẾN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2007
  2. 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế “ Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Phát Triển Nhà Thành Phố Hồ Chí Minh ” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong luận văn tốt nghiệp này là trung thực. Tác Giả PHẠM NGUYỄN HOÀNG THỤY KHANH
  3. 3 MỤC LỤC Trang Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục hình và sơ đồ Mở đầu CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH 1.1 Một số khái niệm 1 1.1.1 Cạnh tranh 1 1.1.2 Năng lực cạnh tranh 3 1.1.3 Lợi thế cạnh tranh 5 1.2 Cạnh tranh trong ngành ngân hàng 5 1.2.1 Phân loại sản phẩm/dịch vụ của ngân hàng 5 1.2.2 Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ ngân hàng 6 1.2.3 Đặc điểm cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng 7 1.2.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM 8 1.3 Các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của một NHTM 9 1.3.1 Tiềm năng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng 9 1.3.2 Trình độ phát triển của các ngành, lĩnh vực liên quan và phụ trợ 10 1.3.3 Cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh 10 1.3.4 Các yếu tố nội tại của Ngân Hàng Thương Mại 11 1.4 Kinh nghiệm cải cách hệ thống nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh ngành ngân hàng tại một số nước và bài học cho Việt Nam 14 1.4.1 Kinh nghiệm các nước 14 1.4.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 15 1.5 Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của Eximbank 16 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGÂN HÀNG TMCP PHÁT TRIỂN NHÀ TPHCM 2.1 Quá trình hình thành và phát triển của HDB 19 2.2 Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của HDB 21 2.2.1 Tiềm năng về nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng 21
  4. 4 2.2.1.1 Về quy mô dân số và cơ cấu dân số 22 2.2.1.2 Về tốc độ tăng trưởng GDP và cơ cấu GDP 22 2.2.1.3 Về thu nhập của người dân 23 2.2.1.4 Về hoạt động đầu tư 24 2.2.1.5 Về cơ cấu tổng phương tiện thanh toán 26 2.2.2 Tác động của Chính Phủ và Ngân Hàng Nhà Nước đến môi trường cạnh tranh ngành ngân hàng 27 2.2.2.1 Về tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của các TCTD 27 2.2.2.2 Về hoạt động quản lý, điều hành chính sách tiền tệ 28 2.2.2.3 Về hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng 28 2.2.3 Các lĩnh vực phụ trợ và liên quan tới ngân hàng 29 2.2.3.1 Thị trường chứng khoán 29 2.2.3.2 Thị trường bảo hiểm 30 2.2.3.3 Công nghệ thông tin 32 2.2.4 Cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh 33 2.2.4.1 Về cấu trúc thị trường ngân hàng 33 2.2.4.2 Về đối thủ cạnh tranh 34 2.2.5 Điều kiện và yếu tố đầu vào của HDB 37 2.2.5.1 Năng lực tài chính 37 2.2.5.2 Uy tín ngân hàng 43 2.2.5.3 Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức 45 2.2.5.4 Nguồn nhân lực 49 2.2.5.5 Năng lực công nghệ 51 2.2.5.6 Mức độ đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và chất lượng phục vụ khách hàng 52 2.2.5.7 Chiến lược kinh doanh của HDB 54 2.3 Phân tích SWOT 55 CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGÂN HÀNG TMCP PHÁT TRIỂN NHÀ TPHCM 3.1 Mục tiêu phát triển HDB trong thời gian tới 56 3.2 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh HDB 57 3.2.1 Nhóm giải pháp tăng vốn điều lệ 57 3.2.1.1 Tăng vốn từ nội bộ 57
  5. 5 3.2.1.2 Tăng vốn từ bên ngoài 58 3.2.2 Nhóm giải pháp về mở rộng mạng lưới hoạt động, phát triển thị trường 59 3.2.2.1 Trong giai đoạn 2007 – 2010 59 3.2.2.2 Giai đoạn 2011 - 2015 60 3.2.3 Nhóm giải pháp về sản phẩm 61 3.2.3.1 Đối với sản phẩm truyền thống 61 3.2.3.2 Phát triển các sản phẩm dịch vụ mới 62 3.2.4 Nhóm giải pháp về công nghệ 64 3.2.4.1 Đối với hệ thống phần mềm 64 3.2.4.2 Đối với hệ thống phần cứng 64 3.2.4.3 Đối với việc sử dụng và khai thác công nghệ 65 3.2.5 Nhóm giải pháp về nhân lực 65 3.2.5.1 Đối với việc tuyển dụng và thu hút nguồn nhân lực 66 3.2.5.2 Đối với đào tạo và đào tạo lại nhân viên 67 3.2.5.3 Đối với việc bố trí, sử dụng nhân viên 68 3.2.5.4 Đối với chính sách lương, thưởng 68 3.2.5.5 Xây dựng văn hóa công ty 69 3.2.6 Nhóm giải pháp về marketing 70 3.2.6.1 Nghiên cứu thị trường 70 3.2.6.2 Phân khúc thị trường 71 3.2.6.3 Xác định thị trường mục tiêu 71 3.2.6.4 Thực hiện marketing mix 71 3.2.7 Nhóm giải pháp về năng lực quản trị rủi ro 73 3.2.8 Nhóm giải pháp về tái cấu trúc lại bộ máy tổ chức và hoàn thiện các quy trình, quy định về nghiệp vụ 75 3.2.8.1 Tái cấu trúc lại bộ máy tổ chức 75 3.2.8.2 Hoàn thiện quy trình, quy định về nghiệp vụ 76 Kết luận 78 Kiến Nghị 79 Tài liệu tham khảo 80 Phụ lục
  6. 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ACB Ngân Hàng TMCP Á Châu ASEAN Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á ATM Máy Rút Tiền Tự Động BTC Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Đào Tạo Nghiệp Vụ Ngân Hàng CAR Hệ Số An Toàn Vốn CIEM Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Quản Lý Trung Ương CNTT Công Nghệ Thông Tin DNNN Doanh Nghiệp Nhà Nước EXIMBANK Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam GDP Tổng Sản Phẩm Quốc Nội HDB Ngân Hàng TMCP Phát Triển Nhà Thành Phố Hồ Chí Minh HĐQT Hội Đồng Quản Trị KCN, KCX Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất NHTM Ngân Hàng Thương Mại NHNN Ngân Hàng Nhà Nước NHTMCP Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần NHTMVN Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam NHTMNN Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước NHCSXH Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội NHNNg Ngân Hàng Nước Ngoài NHNNVN Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam NDT Đồng Nhân Dân Tệ OECD Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh tế ROA Suất Lợi Nhuận Trên Tổng Tài Sản ROE Suất Lợi Nhuận Trên Vốn Chủ Sở Hữu SACOMBANK Ngân Hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín TCTD Tổ Chức Tín Dụng TPHCM Thành Phố Hồ Chí Minh VIETCOMBANK Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
  7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1 Một số kết quả họat động tài chính chủ yếu của HDB 2004 – 2006 20 Bảng 2.2. Các chỉ tiêu hoạt động của HDB 2007 21 Bảng 2.3 Quy mô dân số và cơ cấu dân số 22 Bảng 2.4 Tốc độ tăng GDP năm sau so với năm trước 22 Bảng 2.5 Tốc độ tăng GDP bình quân năm theo từng giai đoạn 23 Bảng 2.6 Tổng vốn đầu tư toàn xã hội phân theo thành phần kinh tế 2002-2006 .25 Bảng 2.7 Cơ cấu tổng phương tiện thanh toán giai đoạn 2002 – 2006 26 Bảng 2.8 Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình họat động thị trường bảo hiểm 31 Bảng 2.9 Thị phần huy động vốn và dư nợ tín dụng của các NHTM 2000-2006 .35 Bảng 2.10 Tình hình huy động vốn và dư nợ tín dụng các NHTM tại TPHCM 36 Bảng 2.11 Vốn điều lệ và hệ số an toàn vốn 37 Bảng 2.12 Các chỉ tiêu về tài sản có 39 Bảng 2.13 Các chỉ tiêu về lợi nhuận 40 Bảng 2.14 Các chỉ tiêu về khả năng thanh khoản 42 Bảng 2.15 Thông tin triển khai ứng dụng công nghệ của một số NHTMCP 51 Bảng 2.16 Cơ cấu thu nhập phi tín dụng trong tổng thu nhập 53 Bảng 3.1 Các mục tiêu hoạt động của HDB 56
  8. 8 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1.1 Nợ quá hạn của Eximbank qua các năm 17 Hình 2.1 GDP/người và GDP/lao động 24 Hình 2.2 Cơ cấu thu nhập phi tín dụng trong tổng thu nhập 53 DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1 Bộ máy tổ chức của HDB 46
  9. 9 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Theo cam kết với Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế ( WTO ) và các Hiệp Định Song Phương, Việt Nam có nghĩa vụ phải dỡ bỏ các rào cản trong lĩnh vực thương mại và tài chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường nội địa. Chính vì thế các doanh nghiệp Việt Nam, trong thời gian tới sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn xuất phát từ việc cạnh tranh mạnh mẽ hơn khi mở cửa thị trường. Đến cuối năm 2011, khi các ngân hàng nước ngoài được đối xử ngang bằng với các ngân hàng Việt Nam thì các ngân hàng của Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ cạnh tranh này. Với những áp lực như thế, đòi hỏi các NHTMVN phải nhanh chóng đưa ra những giải pháp để hoàn thiện mình và nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm chủ động đối mặt với những thách thức và tận dụng cơ hội mới. Việc phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh, đánh giá năng lực cạnh tranh và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời gian sắp tới là một vấn đề cần thiết đối với Ngân hàng TMCP Phát Triển Nhà TPHCM. Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài “ Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Ngân Hàng TMCP Phát Triển Nhà TPHCM” được tôi chọn làm luận văn. 2. Mục tiêu nghiên cứu − Khái quát lý luận cơ bản về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh, những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. − Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh, điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, nguy cơ đối với HDB. − Dựa trên cơ sở phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của HDB hình thành nên giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của HDB trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu − Đối tượng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh của ngân hàng TMCP Phát Triển Nhà TPHCM (HDB)
  10. 10 − Phạm vi nghiên cứu là hoạt động kinh doanh của HDB 4. Phương pháp nghiên cứu - Các nguồn thông tin Thông tin thứ cấp: luận văn sử dụng các thông tin thứ cấp từ sách, báo, tạp chí, website, các báo cáo được công bố của các ngân hàng, - Các phương pháp tiếp cận: luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận. Khi đánh giá năng lực cạnh tranh của HDB thì sử dụng phương pháp tiếp cận cá biệt, khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của HDB thì sử dụng phương pháp tiếp cận lịch sử, kết hợp phương pháp tiếp cận định tính và định lượng. - Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp: luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp điều tra, quan sát, phỏng vấn, chuyên gia. - Phương pháp xử lý thông tin: luận văn sử dụng các phương pháp mô hình hóa, phân tích nhân quả, thống kê mô tả. Kết hợp sử dụng phương pháp của các môn khoa học: Quản Trị Chiến Lược, Quản Trị Tài Chính, Quản Trị Nhân Sự, Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ, Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế. 5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Luận văn đã dựa trên cơ sở những lý luận liên quan đến cạnh tranh và vận dụng lý luận đó vào việc phân tích năng lực cạnh tranh của NHTMCP Phát Triển Nhà TPHCM. Từ phân tích thực trạng hoạt động mà đề ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho HDB trong những năm tiếp theo, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và sẽ thực thi đầy đủ các cam kết về lĩnh vực ngân hàng vào năm 2011.
  11. 11 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH 1.1 Một số khái niệm 1.1.1 Cạnh tranh Cạnh tranh trong kinh tế là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm cạnh tranh được sử dụng cho phạm vi doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia và khu vực liên quốc gia. Ở các cấp độ khác nhau thì mục tiêu được đặt ra khác nhau. Đối với quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho người dân, còn đối với doanh nghiệp thì mục tiêu chủ yếu là tồn tại và kiếm lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh quốc gia hay quốc tế. Các tác giả khác nhau với các tiếp cận khác nhau đã đưa ra những khái niệm khác nhau. Samuelson cho rằng “ Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường “ [ 18 ]. Theo Mác thì “ Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản với nhau để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch ” [ 9 ]. Theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam “ Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi các quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất ”[ 23 ]. Các tác giả trong cuốn Các Vấn Đề Pháp Lý Về Thể Chế Và Chính Sách Cạnh Tranh Kiểm Soát Độc Quyền Kinh Doanh, Thuộc Sự Án VIE/97/016 cho rằng “ Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể ” [ 28 ]. Tại diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ Chức Hợp Tác Và Phát Triển Kinh Tế ( OECD ) cho rằng “ Cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp, quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ” [ 2 ].
  12. 12 Từ những định nghĩa trên, ta có thể rút ra các điểm chung sau: 9 Nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua lẫn nhau của nhiều chủ thể cùng tham dự nhằm giành lấy phần thắng về mình. 9 Mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó mà các chủ thể tham dự đều muốn giành giật như một cơ hội, một dự án Mục đích cuối cùng là kiếm được lợi nhuận cao. 9 Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ như các điều kiện pháp lý 9 Trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau để cạnh tranh như cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm, bằng chất lượng sản phẩm . Với những điểm rút ra nêu trên, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp chiếm lĩnh thị trường, giành khách hàng và các điều kiện sản xuất có lợi nhất. Mục đích sau cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với các nhà sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với những người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi [ 3 ]. Cạnh tranh được phân thành nhiều loại với các tiêu thức khác nhau. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường thì có cạnh tranh giữa những nhà sản xuất, giữa người mua và người bán, giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, giữa người mua với nhau. Căn cứ theo tính chất của phương thức cạnh tranh thì có cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Căn cứ vào hình thái của cạnh tranh thì có cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh thì có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành [ 3 ]. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, cạnh tranh không chỉ có tranh giành lẫn nhau, mà cạnh tranh luôn đi với hợp tác, cạnh tranh trong sự hợp tác và bổ sung, hỗ trợ cho nhau.
  13. 13 1.1.2 Năng lực cạnh tranh OECD đã đưa ra một định nghĩa về năng lực cạnh tranh: “ Năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp, các ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ” [ 2 ]. Năng lực cạnh tranh được xem xét dưới các cấp độ khác nhau: năng lực cạnh tranh của quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ 9 Ở cấp độ quốc gia, các tác giả đã đưa ra các khái niệm về năng lực cạnh tranh như sau: Theo M. Porter thì “ Khái niệm có ý nghĩa nhất về năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động ” [ 16 ]. Theo định nghĩa của Diễn đàn kinh tế thế giới “ Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác ” [ 27 ]. Báo cáo về Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Toàn Cầu năm 2002, định nghĩa năng lực cạnh tranh đối với một quốc gia là “ Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay đổi tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) trên đầu người theo thời gian” [ 20 ]. Từ những khái niệm nêu trên ta có thể hiểu “ Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới ” [ 20 ]. 9 Ở cấp độ doanh nghiệp thì có một số khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như sau: Theo Lý Thuyết Tổ Chức Công Nghiệp thì: “ Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp duy trì được vị thế trên thị trường so với nhà sản xuất khác và
  14. 14 + Đưa ra sản phẩm thay thế hoặc sản phẩm cùng loại với sản phẩm của doanh nghiệp khác nhưng với mức giá thấp hơn. + Hoặc cung cấp sản phẩm ( dịch vụ ) tương tự với nhà cung cấp khác nhưng có đặc tính về chất lượng ngang bằng hoặc cao hơn” [ 15 ]. Theo quyển Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp Trong Điều Kiện Toàn Cầu Hóa “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững ” [ 19 ]. Một định nghĩa khác về năng lực cạnh tranh “ Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển chính bản thân doanh nghiệp ” [ 1 ] Từ những định nghĩa trên ta có thể hiểu “ Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là những yếu tố thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn ” [ 5 ]. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nếu hiểu tổng quát nó sẽ là khả năng của doanh nghiệp chống lại các lực lượng cạnh tranh trên thị trường. Theo mô hình 5 tác lực của Michael E.Porter thì có 5 lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành. Các lực lượng đó là: các đối thủ hiện tại, các đối thủ tiềm năng, người cung ứng, người mua, sản phẩm thay thế [ 16 ]. 9 Ở cấp độ sản phẩm Theo Hà Thị Ngọc Oanh, “Năng lực cạnh tranh của hàng hóa là sức mạnh hoặc tính vượt trội của hàng hóa đó trên thị trường, nó có thể thay thế hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác cung cấp để chiếm lấy vị trí thống lĩnh thị trường tại cùng một thời điểm.” [ 15 ]. Theo Vũ Anh Tuấn, “Một sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh và có thể đứng vững khi có mức giá thấp hơn hoặc khi cung cấp các sản phẩm tương tự với chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hay cao hơn” [ 22 ].
  15. 15 Như thế thì năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng thị trường. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng của nó, giá cả, dịch vụ đi kèm, thương hiệu, điều kiện mua bán . Giữa 3 cấp độ cạnh tranh nêu trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, phụ thuộc vào nhau. Điều này thể hiện ở chỗ năng lực cạnh tranh của hàng hóa là tế bào của năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, và là nền tảng tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia. 1.1.3 Lợi thế cạnh tranh Theo tài liệu của Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Châu Á – Thái Bình Dương năm 2006 thì “Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp được đo lường bằng cách so sánh mức tiến bộ của tính hiệu lực và hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực, tính chủ động và khả năng triển khai các hoạt động đầu tư, khả năng cải tiến công nghệ và bộ máy tổ chức trong tương quan với các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đó” [ 1 ]. Theo Nguyễn Hữu Lam “Lợi thế cạnh tranh là những năng lực phân biệt của công ty mà những năng lực phân biệt này được khách hàng xem trọng, đánh giá cao vì nó tạo giá trị cao cho khách hàng” [ 8 ]. “Lợi thế cạnh tranh của sản phẩm được hiểu là những thế mạnh mà sản phẩm có hoặc có thể huy động để đạt thắng lợi trong cạnh tranh” [ 22 ]. Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra một số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. 1.2 Cạnh tranh trong ngành ngân hàng. 1.2.1 Phân lọai sản phẩm/dịch vụ của ngành ngân hàng 1.2.1.1 Phân lọai theo nhu cầu của khách hàng Theo nhu cầu của khách hàng, ta có thể chia sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thành sáu nhóm cơ bản :
  16. 16 - Nhóm sản phẩm dịch vụ thỏa mãn nhu cầu về vốn và tài trợ vốn như các khoản cho vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh phát hành cổ phiếu - Nhóm sản phẩm dịch vụ thỏa mãn nhu cầu về thu nhập như tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ đầu tư - Nhóm sản phẩm dịch vụ thỏa mãn nhu cầu về thanh toán và chuyển tiền như séc, thẻ, chuyển tiền nhanh - Nhóm sản phẩm dịch vụ thỏa mãn nhu cầu về quản lý rủi ro như hợp đồng kỳ hạn, bảo quản tài sản, ký thác. - Nhóm sản phẩm dịch vụ thỏa mãn nhu cầu về thông tin, tư vấn như dịch vụ thông tin thị trường. - Nhóm sản phẩm dịch vụ thỏa mãn nhu cầu về nhu cầu chuyên môn sâu như tư vấn đầu tư 1.2.1.2 Phân loại theo bảng cân đối tài sản Dựa và bảng cân đối, ta có thể chia thành 2 nhóm sản phẩm dịch vụ như sau: - Nhóm các sản phẩm dịch vụ nội bảng như nhận tiền gửi, cho vay - Nhóm các sản phẩm dịch vụ ngoại bảng như các dịch vụ tư vấn, mua bán ngoại hối, bảo lãnh. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng rất đa dạng, phong phú. Việc phát triển thêm các sản phẩm dịch vụ mới luôn được các ngân hàng quan tâm nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn và nâng cao năng lực cạnh tranh của chính bản thân ngân hàng [ 7 ]. 1.2.2 Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ ngân hàng Để có thể xây dựng các hoạt động marketing hướng tới khách hàng và thông qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng, trước hết ta cần phải biết các đặc điểm của sản phẩm. Sản phẩm ngân hàng được thể hiện dưới dạng dịch vụ nên nó có những đặc điểm: 1.2.2.1 Tính vô hình Là đặc điểm chính để phân biệt sản phẩm dịch vụ ngân hàng với các sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác. Sản phẩm ngân hàng thường thực hiện theo một quá trình, không phải là vật có thể quan sát, nắm giữ được. Chính vì đặc tính
  17. 17 này mà khách hàng không thể đánh giá chất lượng và so sánh như các sản phẩm khác trước khi quyết định mua. Do đặc tính vô hình của sản phẩm dịch vụ, nên trong kinh doanh, ngân hàng phải dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng cần phải thấy được yếu tố này và có những hoạt động nghiên cứu về khách hàng trong khi họ mua các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. 1.2.2.2 Tính song hành của quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm Đây là sự khác biệt rõ nét của sản phẩm dịch vụ ngân hàng so với sản phẩm của các lĩnh vực khác. Đối với các loại sản phẩm vật chất khác thì sản xuất ra thành phẩm rồi mới bán cho người tiêu dùng. Trong khi đó đối với sản phẩm dịch vụ ngân hàng thì sản xuất và tiêu dùng xảy ra đồng thời, đặc biệt là có sự tham gia trực tiếp của người tiêu dùng vào trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Sản phẩm được cung ứng trực tiếp cho người tiêu dùng và chỉ khi khách hàng có nhu cầu. Chính vì quá trình sản xuất và tiêu dùng xảy ra đồng thời nên đối với sản phẩm dịch vụ ngân hàng không thể có sản phẩm tồn kho. Chính vì không thể có sản phẩm tồn kho nên đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẻ giữa các bộ phận trong việc cung ứng sản phẩm dịch vụ, đồng thời phải xác định nhu cầu của khách hàng và cách thức lựa chọn sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng của khách hàng, tạo sự ăn khớp giữa đầu vào và đầu ra nhằm tối thiểu hóa chi phí. 1.2.2.3 Khó ổn định và khó xác định về chất lượng Chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như trình độ đội ngũ nhân viên, kỹ thuật công nghệ và cả khách hàng. Các yếu tố này đan xen chi phối tới chất lượng sản phẩm dịch vụ, nhưng lại thường xuyên biến động. Đội ngũ giao dịch viên giao dịch trực tiếp với khách hàng là yếu tố quyết định và tạo ra sự không ổn định và khó xác định về chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. 1.2.3 Đặc điểm cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng Như đã trình bày trong phần đặc điểm sản phẩm dịch vụ ngân hàng, ta thấy ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt, mua và bán một lợi ích liên quan đến tài chính song không tồn tại dưới dạng vật chất, hoạt động ngân hàng mang tính
  18. 18 hệ thống và liên kết chặt chẽ. Chính vì vậy mà cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng có những đặc điểm riêng so với các loại hình kinh doanh khác. Những đặc điểm đó là: - Các NHTM cung cấp các dịch vụ đặc thù đã giữ vai trò quyền lực tài chính rất lớn, sự thất bại của một ngân hàng sẽ ảnh hưởng xấu tới an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, ảnh hưởng xấu này diễn ra rất nhanh và có tính lan truyền cao, phạm vi ảnh hưởng lớn, mở rộng ra ngoài ngành ngân hàng. Điển hình là khủng hoảng tài chính 1998-1999. Chính vì thế cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng không phải là cạnh tranh một mất một còn. - Trong quá trình cạnh tranh, các ngân hàng còn có sự hợp tác với nhau để thực hiện quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng và sự hợp tác này là tất yếu, bởi không một TCTD nào có thể hoạt động bình thường trong thị trường nếu không có hợp tác với nhau. Điều này thể hiện rõ nhất ở quá trình cung ứng nhóm sản phẩm dịch vụ liên quan đến nhu cầu thanh toán, chuyển tiền. - Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp được giám sát chặt chẻ nhất, buộc phải quản lý theo luật và các quy định đã ban hành. Vì thế các ngân hàng cạnh tranh trong điều kiện chịu sự chi phối rất mạnh từ các chính sách tài chính, tiền tệ của nhà nước, sự tác động của các yếu tố môi trường cả vi mô lẫn vĩ mô và công nghệ. - Chi phí sản xuất trực tiếp cho một số dịch vụ không phụ thuộc vào tổng lợi ích của khách hàng ví dụ như khi khách hàng chuyển tiền từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, tại mỗi ngân hàng vẫn thu cố định tiền điện phí và phần trăm phí dịch vụ trên tổng số tiền được chuyển đến. 1.2.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân Hàng Thương Mại. Các NHTM Việt Nam cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của chính bản thân mình vì: - Thị trường tài chính Việt Nam đang được tự do hóa để hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tự do hóa tài chính sẽ thúc đẩy cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính, đánh dấu việc chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa các loại
  19. 19 hình tổ chức khác nhau. Bên cạnh đó, hiện nay hoạt động ngân hàng trên thế giới đã chuyển dịch từ xu hướng ngân hàng quốc tế sang ngân hàng toàn cầu hóa. Các ngân hàng toàn cầu thâm nhập vào thị trường nước ngoài thông qua việc thiết lập các chi nhánh và các ngân hàng con để thu hút vốn và cung cấp các khoản vay ngay tại nước bản địa. Các ngân hàng này cung cấp các dịch vụ như cho vay tiêu dùng, nhận thế chấp, cho vay doanh nghiệp, quản lý tài sản và tham gia vào thị trường vốn. Nếu các NHTMVN không đủ sức cạnh tranh thì nguy cơ bị mất thị phần, khách hàng vào tay các NHNNg là điều khó tránh khỏi. - Sự thay đổi môi trường cạnh tranh, môi trường pháp lý làm cho thị trường tài chính có những đặc điểm mới, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức tài chính, buộc các ngân hàng phải tái cơ cấu lại cho phù hợp. Ngoài ra sự tăng trưởng nhanh của các NHTM và quá trình tự động hóa trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay đòi hỏi các ngân hàng phải duy trì ở quy mô lớn để giảm thiểu chi phí. Các ngân hàng lớn đang tìm cách mua lại các ngân hàng nhỏ để biến những ngân hàng này trở thành mạng lưới của họ. Các ngân hàng hiện đang đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt cả trong thị trường nội địa và quốc tế. Để tồn tại và phát triển, các NHTM không còn sự lựa chọn nào khác ngoài vấn đề tự nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình. 1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của một Ngân Hàng Thương Mại Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của một NHTM trong luận văn này được xây dựng trên cơ sở mô hình “ Viên Kim Cương ” của tác giả Michael.E.Porter [ Xem phụ lục ]. Theo đó năng lực cạnh tranh của một ngân hàng phụ thuộc vào 4 nhóm yếu tố sau: 1.3.1 Tiềm năng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng Đây là yếu tố có tác động rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của bất cứ loại hình kinh doanh nào. Phân tích những yếu tố dưới đây có thể cho ta biết được nhu cầu về dịch vụ ngân hàng trong tương lai:
  20. 20 - Sự biến đổi về cơ cấu dân cư, sự gia tăng dân số (đặc biệt là khu vực thành thị), sự tăng lên của các khu công nghiệp, khu đô thị mới dẫn đến số doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu cần dịch vụ ngân hàng sẽ tăng lên. - Thu nhập bình quân của người Việt Nam qua các năm. Khi thu nhập được nâng lên thì các dịch vụ về ngân hàng cũng có những bước phát triển tương ứng. - Các hoạt động kinh doanh và đầu tư giữa Việt Nam với nước ngoài. - Chỉ số cơ cấu tổng phương tiện thanh toán, chỉ số này sẽ phản ánh mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng của người dân. Quy mô cầu của khách hàng lớn, ngân hàng có thể tận dụng được lợi thế theo quy mô, cải thiện hoạt động kinh doanh và dịch vụ của mình. 1.3.2 Trình độ phát triển của ngành, lĩnh vực liên quan và phụ trợ Sự phát triển của ngành ngân hàng không thể tách rời khỏi sự phát triển của các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ như chứng khoán, bảo hiểm, công nghệ thông tin. Vì những lĩnh vực này cung cấp đầu vào cho ngành ngân hàng. Trình độ phát triển của các lĩnh vực này có tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngành ngân hàng. Chứng khoán, bảo hiểm, công nghệ thông tin phát triển tạo ra kênh huy động vốn và đầu tư mới cho ngân hàng, giảm bớt rủi ro, giảm thiểu chi phí giao dịch. Công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm tiện ích của ngân hàng như thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự có mặt và phát triển của các lĩnh vực liên quan và phụ trợ sẽ làm tăng năng suất cũng như năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. 1.3.3 Cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh Những quyết định chiến lược của doanh nghiệp và ngân hàng có tác động ảnh hưởng tới tính cạnh tranh trong tương lai của họ. Sự phát triển các hoạt động của doanh nghiệp sẽ thành công nếu như có được cách quản lý và tổ chức trong môi trường phù hợp, phát huy được các lợi thế cạnh tranh. Các doanh nghiệp có chiến lược, cơ cấu phù hợp với các định chế, chính sách của quốc gia, họat động
  21. 21 trong môi trường cạnh tranh trong nước cao hơn thì sẽ có năng lực cạnh tranh quốc tế mạnh hơn. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau sẽ là yếu tố thúc đẩy sự cải tiến và thay đổi nhằm hạ chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ. Cơ cấu lành mạnh của ngân hàng và mức độ tập trung cao của đối thủ cạnh tranh trong ngành sẽ quyết định lợi thế cạnh tranh của một ngân hàng nói riêng và của cả ngành nói chung. Khả năng cạnh tranh tổng hợp sẽ hỗ trợ các ngân hàng trong nước cạnh tranh với các đối thủ từ bên ngoài. Lĩnh vực kinh doanh ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro, mỗi biến động bất lợi từ môi trường kinh tế vĩ mô đều có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Nếu nền kinh tế phát triển ổn định, các chỉ số về lạm phát, lãi suất ổn định thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành ngân hàng. Ngược lại sự bất ổn tạo những khó khăn cho hoạt động ngân hàng. 1.3.4 Các yếu tố nội tại của Ngân Hàng Thương Mại Ngân hàng là một ngành dịch vụ phức tạp, nhiều rủi ro, chính vì thế ngành ngân hàng đòi hỏi rất cao đối với các điều kiện về cung như: nguồn nhân lực, nguồn vốn, cơ sở công nghệ và khoa học Yếu tố nội tại của ngân hàng được đánh giá qua các chỉ tiêu như: Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu ở bất kỳ tổ chức nào. Năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực thể hiện ở những yếu tố như: trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ, động cơ phấn đấu, mức độ gắn bó với doanh nghiệp, ý thức và tác phong làm việc. Trình độ hay kỹ năng của nhân viên là chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng nguồn nhân lực, nhưng động cơ phấn đấu và mức độ gắn bó của nhân viên cũng là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh ngân hàng có lợi thế về nguồn nhân lực của mình hay không. Nếu một ngân hàng có tốc độ lưu chuyển nhân viên cao thì sẽ không có lợi thế vì việc tuyển dụng và đào tạo nhân viên ngân hàng rất tốn kém cả về thời gian và công sức. Chính vì vậy đánh giá về nguồn nhân lực cũng bao gồm cả việc đánh giá các chỉ tiêu: mức lương bình quân, chế độ thưởng.
  22. 22 Năng lực về công nghệ là thành phần quan trọng nhất trong các yếu tố về cơ sở hạ tầng cần thiết trong ngân hàng. Máy móc thiết bị tự động giúp rút ngắn thời gian thao tác, tăng độ chính xác, tiện lợi của các dịch vụ ngân hàng, công nghệ là điều kiện mang tính cơ sở để các ngân hàng triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Công nghệ trong ngân hàng còn bao gồm cả hệ thống thông tin quản lý, hệ thống báo cáo rủi ro trong nội bộ ngân hàng. Năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại mà còn bao gồm cả khả năng đổi mới của các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế. Năng lực tài chính: tiềm lực tài chính là thước đo sức mạnh về tài chính của một ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Tiềm lực tài chính thể ở các chỉ tiêu sau: − Quy mô vốn điều lệ, hệ số an toàn vốn, tính đa dạng của các kênh huy động vốn, mức độ tiếp cận các nguồn vốn và quy mô vốn có khả năng huy động qua các kênh của ngân hàng. − Chất lượng tài sản có: thể hiện qua các chỉ tiêu như tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản có, mức độ tập trung đa dạng hóa các danh mục tín dụng. − Mức sinh lời: là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng, đồng thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Mức sinh lời có thể phân tích qua các chỉ tiêu như: cơ cấu lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có. − Khả năng thanh khoản: thể hiện thông qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán nhanh, khả năng quản lý rủi ro thanh khoản. Uy tín của ngân hàng: như đã trình bày ở phần 1.2.2. Do sản phẩm dịch vụ ngân hàng có đặc tính vô hình, nên trong kinh doanh, ngân hàng phải dựa trên cơ sở lòng tin. Uy tín của ngân hàng sẽ tạo niềm tin khách hàng để họ đến giao dịch. Chính vì thế một ngân hàng có uy tín cao sẽ có lợi thế trong cạnh tranh thu hút khách hàng.
  23. 23 Mức độ đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và chất lượng phục vụ khách hàng: một ngân hàng có nhiều chủng loại sản phẩm và nhiều loại hình dịch vụ cung cấp phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực quản lý của ngân hàng sẽ là ngân hàng có lợi thế cạnh tranh. Sự đa dạng hóa về sản phẩm, dịch vụ vừa tạo cho ngân hàng phát triển ổn định hơn vừa giúp ngân hàng phát huy lợi thế nhờ quy mô. Vấn đề đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ cũng phải phù hợp với nguồn lực hiện có nếu không sẽ không mang lại hiệu quả cao. Ngoài ra, hệ thống mạng lưới hoạt động cũng rất quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hiện nay khi các dịch vụ truyền thống của ngân hàng vẫn còn phát triển và hệ thống công nghệ thông tin vẫn chưa đáp ứng được cho khả năng triển khai hệ thống ngân hàng hiện đại. Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức: Năng lực quản lý thể hiện ở mục tiêu, động cơ, mức độ cam kết của ban điều hành cũng như hội đồng quản trị đối với việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Chính sách tiền lương và thu nhập đối với tập thể nhân viên, chính sách và quy trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ. Cơ cấu tổ chức là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của một ngân hàng có phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của ngân hàng, phù hợp với đặc trưng của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Cơ cấu tổ chức của một ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng ban chức năng, các bộ phận tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc, mối quan hệ giữa các bộ phận . Hiệu quả của cơ chế quản lý không chỉ phản ánh ở số lượng phòng, ban, sự phân cấp giữa các phòng mà còn phụ thuộc vào mức độ phối hợp giữa các phòng, các đơn vị trong việc triển khai chiến lược kinh doanh, các nghiệp vụ thực hiện hàng ngày và khả năng thích nghi của cơ cấu trước những biến động của ngành hay biến động của môi trường vĩ mô. Ngoài bốn nhóm yếu tố trên, còn có hai nhóm yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của NHTM là những cơ hội và vai trò của Chính Phủ. Những cơ hội như: các phát minh, sáng chế mới Vai trò của Chính Phủ có tác động rất lớn tới
  24. 24 khả năng cạnh tranh của các ngân hàng bởi vì Chính Phủ có thể có những chính sách tác động đến cung, cầu, các điều kiện sản xuất, các lĩnh vực liên quan và phụ trợ của ngành ngân hàng để tạo sự kìm hãm hay thuận lợi cho sự phát triển của ngành ngân hàng, ngoài ra chính bản thân của các ngân hàng cũng phải chịu sự giám sát rất chặt chẽ từ NHNN. 1.4 Kinh nghiệm cải cách hệ thống nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh tại một số nước và bài học cho Việt Nam. 1.4.1 Kinh nghiêm các nước 1.4.1.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001 và cam kết đến đầu năm 2007 sẽ mở cửa hoàn toàn khu vực tài chính ngân hàng. Do đó vấn đề đặt ra là phải cải cách cả NHTM lẫn cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ - tài chính – hoạt động ngân hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng trong nước. Trước hết là cải cách các ngân hàng thương mại, trong giai đoạn từ 1998 – 2002, Trung Quốc đã tập trung cải cách và xử lý nợ xấu bốn NHTMNN lớn nhất Trung Quốc bằng việc lấy nguồn tiền từ Quỹ Dự Trữ Quốc Gia chi cho các NHTM này với mục đích chính là tăng cường các chỉ số phản ánh năng lực cân đối về vốn, sau đó chuyển đổi các ngân hàng này từ sở hữu nhà nước thành NHTMCP. Nợ xấu của các NHTMCP được xử lý thông qua việc thành lập các công ty quản lý tài sản, các công ty này chịu trách nhiệm quản lý, khai thác tất cả các khoản nợ của 4 ngân hàng quốc doanh. Kế đến là Trung Quốc cho phép các ngân hàng nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ bằng đồng NDT cho doanh nghiệp Trung Quốc tại một số thành phố lớn nhưng các dịch vụ này chưa được phép cung cấp cho tư nhân. Ngoài ra tỷ lệ cổ phần tối đa một nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ trong một ngân hàng của Trung Quốc được nâng từ 15% lên 20% Các bước thay đổi của ngành ngân hàng Trung Quốc là khá chậm so với yêu cầu thực tiễn, tuy nhiên việc cải cách này đã đem lại những kết quả khá tốt, cụ thể là tỷ lệ nợ xấu giảm, lợi nhuận tăng lên.
  25. 25 Tuy nhiên trong tiến trình cải cách của mình, Trung Quốc đã tập trung quá nhiều vào việc đổi mới hệ thống ngân hàng, bỏ qua việc đổi mới thị trường tài chính. Chính vấn đề này đã gây khó khăn cho việc cải tổ hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Trung Quốc nói chung. 1.4.1.2 Kinh nghiệm Hàn Quốc Khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á xảy ra, nền kinh tế Hàn Quốc bị ảnh hưởng khá nặng, hệ thống ngân hàng bộc lộ rõ những yếu kém. Nhằm vực dậy và thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Chính Phủ Hàn Quốc thực hiện chương trình cải tổ toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trước hết là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thông qua biện pháp: đình chỉ hoạt động của tất cả các ngân hàng không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu về vốn, khuyến khích các ngân hàng hợp nhất với nhau để tạo ra những ngân hàng lớn có sức cạnh tranh cao . Đối với các khoản nợ khó đòi và vấn đề tái cấp vốn, cơ quan quản lý tài sản Hàn Quốc mua lại những khoản nợ không sinh lời. Bên cạnh đó, Chính Phủ Hàn Quốc cũng đã chi một số tiền khá lớn để trợ giúp hệ thống ngân hàng tái cơ cấu lại nguồn vốn và duy trì hệ số an toàn vốn thận trọng từ 10 -13% vốn. Ngoài ra Chính Phủ Hàn Quốc lên kế hoạch tư nhân hóa các NHTM mà hiện chính phủ đang nắm giữ quyền sở hữu để hạn chế dần sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Tuy nhiên, ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính, buộc các doanh nghiệp trong nước cũng phải tái cơ cấu lại vì thế không đủ tài chính để mua lại các ngân hàng nên Chính Phủ Hàn Quốc bán cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một bất lợi cho hệ thống ngân hàng Hàn Quốc vì sau khủng hoảng, khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước còn yếu, dễ bị các ngân hàng nước ngoài chiếm lĩnh thị trường, song nó cũng mang lại kinh nghiệm và nguồn vốn từ bên ngoài cho hệ thống ngân hàng. 1.4.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Từ kinh nghiệm đổi mới của Trung Quốc và Hàn Quốc, ta rút ra bài học:
  26. 26 - Trung Quốc và Hàn Quốc đã thành công trong việc xử lý nợ xấu thông qua các công ty Quản Lý Tài Sản, trong khi đó Việt Nam hiện cũng đang thực hiện theo phương thức này nhưng hiệu quả hoạt động của các công ty Quản Lý Tài Sản ở nước ta còn quá thấp. Chính vì vậy cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của những công ty này, từ đó sẽ xử lý một cách có hiệu quả các khoản nợ xấu. Ngoài ra việc giải quyết vấn đề nợ xấu phải đi liền với vấn đề cải cách các DNNN bởi vì các doanh nghiệp này thường chiếm phần lớn tỷ lệ nợ khó đòi trong các NHTMNN. - Bên cạnh thực hiện đổi mới hệ thống ngân hàng thì cũng cần phải đổi mới hệ thống tài chính, vì hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính có mối quan hệ hỗ trợ. - Hiện nay tại Việt Nam, các NHTMNN chiếm trên 60% thị phần tín dụng, đóng vai trò chủ lực cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, đẩy nhanh việc cải cách và cổ phần hóa các ngân hàng này là việc làm cấp bách hiện nay. Nếu chậm chân trong việc thay đổi những NHTMNN hàng đầu này sẽ kéo theo sự thay đổi chậm của toàn hệ thống ngân hàng. 1.5 Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của Eximbank Eximbank được thành lập ngày 24/05/1989 và đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Trong khoảng thời gian từ 1990–1996 Eximbank hoạt động rất tốt, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu chỉ đứng sau Vietcombank. Khủng hoảng tài chính Châu Á 1997–2000, hoạt động kinh doanh của Eximbank bị thua lỗ, nợ cho vay và bảo lãnh không đòi được. NHNN phải kiểm soát đặc biệt hoạt động kinh doanh của Eximbank. Trước tình hình đó Eximbank thực hiện các biện pháp để chấn chỉnh lại hoạt động ngân hàng. Đối với khối nợ, vào 2000 khi thực hiện chấn chỉnh củng cố, Eximbank còn tồn đọng số dư nợ quá hạn là 1.170 tỷ đồng, chiếm 62% trên tổng dư nợ. Để có thể xử lý khối nợ này, Eximbank rất kiên nhẫn và thận trọng, một mặt tham khảo ý kiến của các chuyên gia xử lý nợ ngành ngân hàng, một mặt Eximbank tự mình lo tất cả các giấy tờ thủ tục pháp lý có liên quan đến phát mãi các tài sản thế chấp, chủ yếu là đất đai, nhà xưởng nhằm thu hồi lại vốn. Đến quý 3 năm 2004, sau khi công ty mua bán nợ của Bộ Tài Chính mua lại một số khoản nợ có thế chấp của Eximbank thì
  27. 27 ngân hàng mới gần như sạch nợ xấu. Đến nay, Nợ quá hạn/tổng dư nợ tính đến 30/09/2006 của Eximbank là 1,95%. Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ là 1,25% giảm hơn 7,3 lần so với năm 2000, thấp hơn mức quy định chung 5% của NHNN Hình 1.1. Nợ quá hạn của Eximbank qua các năm. ĐVT: Tỷ đồng NỢ QUÁ HẠN 1,400 1,200 1,000 800 NỢ QUÁ HẠN 600 400 200 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 9/2006 (Nguồn: Báo Thanh Niên Thứ Ba, 24/10/2006 ) Đối với hoạt động kinh doanh, Eximbank bắt đầu đổi mới các hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối. Trong năm 2000 – 2001, khi giá mua ngoại tệ niêm yết hàng ngày của các NHTM khác luôn thấp hơn giá mua của Vietcombank thì Eximbank cạnh tranh bằng cách chào mua giá cao hơn và bán thấp hơn giá của Vietcombank. Phí dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu của Eximbank cũng cạnh tranh hơn so với các ngân hàng khác. Dần dần các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lớn quay lại với Eximbank. Hoạt động tín dụng được mở rộng dần dần một cách thận trọng, phát triển thêm các sản phẩm mới về kinh doanh vàng, ngoại tệ Đối với việc đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng thêm khu nhà mới phục vụ cho kinh doanh ngoại tệ, lập sàn, đặt bảng điện tử ghi nhận sự biến động giá cả ngoại tệ như bảng điện tử cổ phiếu. Eximbank đã kết nối mạng với Vietcombank và các giao dịch trực tuyến giữa hai ngân hàng gần như là giao dịch nội bộ. Ngoài ra Eximbank cũng đã đầu tư cho công nghệ giai đoạn hai là 2,5 triệu đôla Mỹ, dự kiến nâng cấp máy chủ, phần mềm để kết nối trực tuyến với các khách hàng.
  28. 28 Tóm lại sau 6 năm thực hiện chấn chỉnh củng cố, những kết quả mà Eximbank đạt được như sau: - Nguồn vốn hoạt động không ngừng tăng trưởng với tốc độ cao, bình quân 36%/năm. - Tính đến 30/09/06, tổng nguồn vốn của Eximbank đạt 15.029 tỷ đồng, tăng gấp 5,6 lần so với thời điểm 2000 - Vốn huy động đạt 11.076 tỷ đồng, tăng gấp 5,4 lần so với thời điểm 2000 - Tốc độ tăng trưởng tính dụng bình quân là 26%/năm, trong đó mức độ tăng trưởng nợ trong hạn bình quân là 46%/năm. - Giải quyết dứt điểm các khoản nợ đọng của Eximbank. Trên cở sở hoạt động có hiệu quả, tăng trưởng cao và an toàn trong tất cả các hoạt động, ngày 03/10/2006 Thủ Tướng Chính Phủ đã ký quyết định số 1562/TTg- KTTH đồng ý kết thúc thực hiện phương án chấn chỉnh củng cố Eximbank, đưa Eximbank trở lại hoạt động bình thường như những NHTM khác, mở ra giai đoạn mới trong lịch sử hoạt động của Eximbank, giai đoạn tăng tốc phát triển. Bài học rút ra: - Eximbank đặt mục tiêu rõ ràng không chỉ là lợi nhuận mà là thị phần trên thị trường tài chính. Để có thể lấy lại thị phần đã mất, Eximbank đưa ra mức phí cạnh tranh đồng thời tăng chất lượng dịch vụ thông qua đào tạo nhân viên, tăng cường tiếp thị, phân khúc khách hàng để có chính sách cho từng khách hàng cụ thể. - Xác định được thế mạnh của mình là kinh doanh ngoại tệ và thanh toán xuất nhập khẩu, từ đó chuyên sâu vào mảng này. Điều này đã đem lại lợi nhuận không nhỏ cho Eximbank, cụ thể năm 2005 lợi nhuận kinh doanh tiền tệ chiếm 22% trong tổng lợi nhuận [ 26 ]. - Eximbank xác định việc tiếp cận và sử dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại là một ưu tiên quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Từ đó có những đầu tư đúng hướng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng.
  29. 29 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGÂN HÀNG TMCP PHÁT TRIỂN NHÀ TPHCM 2.1 Quá trình hình thành và phát triển của HDB Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP. Hồ Chí Minh (HDB) được thành lập ngày 04/01/1990. Là một trong những ngân hàng TMCP đầu tiên của Việt Nam với vốn điều lệ ban đầu là 3 tỷ đồng, HDB đã mang lấy sứ mệnh “Phát triển nhà ở và chỉnh trang đô thị, góp phần xây dựng TP. Hồ Chí Minh văn minh hiện đại”, HDB có chức năng thực hiện kinh doanh tổng hợp, đa dạng trong lĩnh vực nhà ở; kinh doanh tiền tệ, tín dụng thông qua việc đầu tư vốn, cung ứng tín dụng và dịch vụ nhà; tập trung huy động vốn và quản lý tất cả các nguồn vốn để phục vụ chương trình phát triển nhà và chỉnh trang đô thị; tư vấn cho Uỷ Ban Nhân Dân TP. Hồ Chí Minh về chương trình, kế hoạch phát triển nhà và chỉnh trang đô thị. Ngành nghề kinh doanh là huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn với các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi. Tiếp nhận vốn đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước. Vay vốn các tổ chức tín dụng khác. Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá. Hùn vốn và liên doanh. Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng, kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc theo tiêu chuẩn quốc tế ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, huy động vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ với nước ngoài. Cho đến ngày 01/04/2007 vốn điều lệ của HDB là 500 tỷ đồng. Qua nhiều đợt thanh tra chặt chẽ của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, HDBank đã hoàn toàn đáp ứng được các tiêu chí về sự phát triển lành mạnh của một ngân hàng thương mại cổ phần. Trong năm 2006, HDB đã chi tỷ lệ cổ tức 16%/năm, tăng 33% so với cam kết trả cổ tức tối thiểu 12%/năm của HDB trước cổ đông. Trong năm tài chính 2007, HDB tiếp tục cam kết trước cổ đông thực hiện chỉ tiêu chi trả cổ tức tối thiểu
  30. 30 12%/năm, đồng thời đảm bảo thực hiện nhanh, hiệu quả các dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu càng cao và đa dạng của các đối tượng khách hàng. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, HDB trải qua không ít những khó khăn nhưng HDB đã khắc phục và ngày càng phát triển về quy mô hoạt động và kết quả kinh doanh. Trong năm 2006, do sức hút của thị trường chứng khoán đã làm giảm lượng vốn nhàn rỗi, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng trong việc huy động vốn diễn ra gay gắt, giá vàng liên tục biến động. Tất cả điều này tạo ra sức ép khá lớn cho công tác huy động vốn của HDB. Với một số biện pháp tích cực như tăng lãi suất, khuyến mãi tổng vốn huy động của HDB đạt được 3.244 tỉ, bằng 99% kế hoạch năm 2006, tăng 1.356 tỉ, vượt 72% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó huy động từ tiết kiệm dân cư chiếm 32% tăng 31%, tổ chức kinh tế chiếm 30% tăng 96% và tổ chức tín dụng chiếm 38% tăng 4% so với cùng kỳ năm trước. Bảng 2.1. Một số kết quả hoạt động tài chính chủ yếu của HDB 2004–2006 ( ĐVT: Tỷ đồng ) Tỷ lệ tăng giảm ( +/- ) Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2004/2003 2005/2004 2006/2005 Tổng tài sản 1.326 2.307 4.041 41,67% 73,9% 75,16% Vốn huy động 1.092 1.871 3.244 41,82% 71,34% 73,38% Dư nợ cho vay 1.065 1.375 2.678 69,86% 29,11% 94,76% Lợi nhuận trước thuế 25 49 94 23,76% 96,00% 91,84% Suất lợi nhuận/vốn tự có 21% 18% 21% 40,37% -14,29% 16,67% ( ROE )% ( Nguồn: Báo cáo thường niên của HDB 2004 – 2006 ) HDB xác định năm 2007 là một năm chuẩn bị cho việc đổi mới toàn diện từ con người đến kỹ thuật. Đây là bước ngoặt cho việc hình thành một cơ chế năng động, hiện đại và chuyên nghiệp hơn, đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả cao, ổn định và phát triển bền vững.
  31. 31 Bảng 2.2. Các chỉ tiêu hoạt động của HDB 2007 ĐVT: Tỷ đồng Tỷ lệ tăng giảm so với Chỉ tiêu Năm 2007 năm 2006 Vốn điều lệ 2.000 300% Tổng tài sản 7.930 96% Vốn huy động 6.200 91% Dư nợ cho vay 4.560 70% Thu phí dịch vụ phi tín dụng 184 126% Lợi nhuận trước thuế (không tính thu bất thường) 167 100% Mở mới thêm tối thiểu 22 địa điểm giao dịch ( Nguồn: Phòng Kế Hoạch ) Bên cạnh những hiệu quả về lợi nhuận, HDB cũng rất quan tâm đến việc xây dựng và quảng bá thương hiệu của mình, đưa thương hiệu HDB trở thành một thương hiệu có giá trị cao trong thị trường tài chính. 2.2 Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của HDB Phần này sẽ phân tích năng lực cạnh tranh của HDB theo 2 bước: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của HDB dựa trên cơ sở mô hình viên kim cương của Michael Porter. Kế đến là phân tích SWOT, đưa ra những đánh giá ngắn gọn về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ đối với HDB. 2.2.1 Tiềm năng về nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng Nhu cầu về dịch vụ ngân hàng của khách hàng là rất quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng. Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ hội nhập và tự do hóa thị trường tài chính, tiền tệ thì vấn đề cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày sẽ càng gay gắt hơn.
  32. 32 2.2.1.1 Quy mô dân số và cơ cấu dân số Quy mô dân số cả nước năm 2006 ước tính 84.110 nghìn người, tăng 1,19% so với năm 2005. Cơ cấu dân cư có sự thay đổi theo hướng gia tăng dân thành thị do tốc độ đô thị hóa những năm gần đây rất nhanh. Bảng 2.3. Quy mô dân số và cơ cấu dân số Tổng số dân Tốc độ tăng Cơ cấu dân Cơ cấu dân Năm (Nghìn người) dân số (%) thành thị (%) nông thôn (%) 2002 79.727 1,32 25,11 74,89 2003 80.902 1,47 25,8 74,20 2004 82.032 1,40 26,50 73,50 2005 83.120 1,33 26,97 73,03 Ước 2006 84.110 1,19 27,10 72,90 Dự tính 2020 90.000 35 - 50 65 - 50 (Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Tạp chí Ngân hàng số 3/2006) Qua bảng số liệu trên cho thấy, cơ cấu dân thành thị tăng đều qua các năm. Nếu như trong năm 2002 dân thành thị chỉ chiếm 25,11% tổng số dân cả nước, đến năm 2006 tăng lên 27,10% và dự báo dân số vào năm 2020 khoảng 90.000 nghìn người, trong đó tỷ lệ dân thành thị chiếm khoảng 35 – 50%. Quy mô dân số và cơ cấu dân số có ảnh hưởng không nhỏ đến tiềm năng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Hiện nay Việt Nam là nước đang phát triển, người dân vẫn chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là ở nông thôn. Chính vì thế khi quy mô dân số tăng và cơ cấu dân số chuyển dịch theo hướng gia tăng dân thành thị sẽ làm cho nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng cũng tăng theo. 2.2.1.2 Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu GDP Bảng 2.4. Tốc độ tăng GDP năm sau so với năm trước ĐVT:% Ước Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tốc độ tăng GDP 4,9 6,79 6,9 7,08 7,34 7,8 8,43 8,2 (Nguồn: Chuyên Đề Nghiên Cứu Nghị Quyết Đại Hội X của Đảng-2006)
  33. 33 Bảng 2.5. Tốc độ tăng GDP bình quân năm theo từng giai đoạn Giai đoạn 1986-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005 Tốc độ tăng bình quân GDP năm (%) 4,4 8,2 7,0 7,5 (Nguồn: Tổng Cục Thống Kê) Năm 1986 đánh dấu quá trình đổi mới kinh tế của cả nước, từ chỗ hầu như không có tăng trưởng trong giai đoạn 1976 – 1985. Giai đoạn 1986 – 1990, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi và phát triển nhưng tốc độ chưa cao. Từ năm 1990 - 1995, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng cao, trung bình hàng năm đạt 8.2%, xấp xỉ tăng gấp đôi giai đoạn 1986 - 1990. Năm 1999, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã giảm xuống còn 4,9%. Tăng trưởng giảm sút ở hầu hết các ngành kinh tế chủ chốt như công nghiệp, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, đến năm 2000, nền kinh tế đã hồi phục nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã đạt ở mức 6,79% và liên tiếp tăng trong các năm tiếp theo đạt 7,08% năm 2002, 7,34% năm 2003, 7,8% năm 2004, 8,43% năm 2005 và 8,2% năm 2006. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn để đầu tư trang thiết bị với công nghệ tiên tiến, hiện đại để có thể phục vụ cho việc mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, việc đầu tư không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia mà còn xuyên quốc gia làm phát sinh mạnh mẽ các nhu cầu dịch vụ đòi hỏi ngân hàng cung cấp, từ dịch vụ thanh toán, bảo lãnh dự thầu, thuê mua đến chuyển đổi tiền tệ, ngoại hối Chính vì thế khi kinh tế tăng trưởng thì nhu cầu về dịch vụ ngân hàng cũng sẽ gia tăng. 2.2.1.3 Về thu nhập của người dân Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng lên, mức sống tăng nên người dân có tích lũy sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư các khoản thu nhập của mình để sinh lời, cũng như nhu cầu vay để tiêu dùng trước. Tất cả họ phải tìm đến thị trường dịch vụ tài chính, từ tư vấn, đến kênh đầu tư hay quản lý danh mục đầu tư, đầu tư
  34. 34 hộ, môi giới, quản lý ngân quỹ, bảo hiểm Từ đó nhu cầu về các dịch vụ tài chính ngân hàng sẽ tăng nhanh. Những năm trở lại đây, sự ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế của nước ta làm cho GDP bình quân đầu người và GDP bình quân một lao động hàng năm liên tục tăng năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể là năm 2006, GDP/người ước tính khoảng 11.578 nghìn đồng, tăng gần gấp hai lần so với năm 2001 và GDP/lao động ước tính khoảng 22.419 nghìn đồng, cũng tăng gần gấp hai lần so với năm 2001. Hình 2.1. GDP/người và GDP/lao động ĐVT: Nghìn đồng/người 25000 20000 15000 GDP/người 10000 GDP/lao động 5000 0 2001 2002 2003 2004 2005 Ước 2006 ( Nguồn: Tổng Cục Thống Kê ) Việc GDP bình quân đầu người và GDP bình quân một lao động tăng là một trong những chỉ báo quan trọng phản ánh mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao. Khi đời sống xã hội nâng cao sẽ tạo điều kiện phát triển lĩnh vực tài chính ngân hàng. 2.2.1.4 Về hoạt động đầu tư Trong những năm trở lại đây, việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Chính phủ đã từng bước cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Nhờ đó, vốn đầu tư toàn xã hội đã có sự gia tăng đáng kể. Nhiều thị trường xuất nhập khẩu mới mở ra như thị trường Mỹ, đã trở thành một trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
  35. 35 Việc mở rộng quy mô thương mại và đầu tư đòi hỏi phải có một hệ thống ngân hàng thích hợp để hỗ trợ các doanh nghiệp yêu cầu cung cấp dịch vụ tài chính tốt hơn, các công ty đa quốc gia cũng muốn có các dịch vụ tài chính trong nước hỗ trợ cho vốn đầu tư của mình. Điều này thúc đẩy sự phát triển của các ngân hàng trong nước mở rộng quy mô và chất lượng dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất và đầu tư của các doanh nghiệp. Bảng 2.6. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội phân theo thành phần kinh tế 2002 – 2006 ĐVT: Nghìn tỷ đồng 2002 2003 2004 2005 2006 Thành phần kinh tế Tỷ Tỷ Tỷ Tỷ Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Số tiềnTỷ trọng trọng trọng trọng trọng Kinh tế Nhà 112,2 56,4% 125,1 54,0% 147,5 53,6% 174,4 53,1% 197,2 50,1% nước Kinh tế ngoài 52,1 26,2% 68,7 29,7% 84,9 30,9% 106,4 32,4% 132,2 33,6% Nhà nước Khu vực có vốn đầu tư 34,8 17,5% 37,8 16,3% 42,6 15,5% 47,6 14,5% 64,1 16,3% nước ngoài Tổng số 199,1 100% 231,6 100% 275,0 100%328,4 100% 393,5 100% ( Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Báo cáo Chính Phủ năm 2005,2006 ) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2006 đạt 393,5 ngàn tỷ đồng đưa tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP đạt 40%, tăng 19,8% so với thực hiện năm 2005. Đây là mức cao nhất trong nhiều năm qua. Trong ba khu vực kinh tế phân theo thành phần sở hữu thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhất, 2006 tăng 12,41% so với 2005. Nguồn vốn của khu vực kinh tế ngoài nhà nước năm 2006 cũng tăng 3,7% so với năm 2005. Trong khi đó vốn đầu tư ở khu vực nhà nước giảm 5,6% so với năm 2005. Tuy vốn đầu tư thuộc khu vực nhà nước là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, nhưng tỷ trọng của nguồn vốn này có xu hướng giảm dần qua các năm, từ 56,4% năm 2002 xuống còn 50,1% năm 2006. Đây cũng là một tín hiệu tốt cho thấy nền kinh tế nước ta với sự ổn định chính trị, hành lang pháp lý được cải thiện
  36. 36 ngày càng thông thoáng hơn đang thực sự là điểm đến đầu tư an toàn hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. 2.2.1.5 Về cơ cấu tổng phương tiện thanh toán Bảng 2.7. Cơ cấu tổng phương tiện thanh toán giai đoạn 2002 – 2006 ĐVT: Nghìn tỷ đồng 2002 2003 2004 2005 Ước 2006 Chỉ tiêu Tỷ Tỷ Tỷ Tỷ Tỷ Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền trọng trọng trọng trọng trọng Tổng phương tiện 329,2 100% 411,2 100% 536,2 100% 683,5 100% 887,9 100% thanh toán Thanh toán qua hệ 254,9 77,4% 320,6 78,0% 427,1 79,7% 559,6 81,9% 758,3 85,4% thống ngân hàng Thanh toán bằng 74,3 22,6% 90,6 22,0% 109,1 20,3% 123,9 18,1% 129,6 14,6% tiền mặt (Nguồn:Báo cáo thường niên 2003 - 2005 NHNN,Tạp Chí Ngân Hàng số 2 /2007) Về cơ cấu, tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng phương tiện thanh toán và có xu hướng tăng dần qua các năm từ 77,4% năm 2002 tăng lên khoảng 85,4% năm 2006. Ngược lại, tỷ trọng tiền mặt năm 2006 tiếp tục giảm so với các năm trước. Điều này cho thấy cơ cấu tổng phương tiện thanh toán toàn xã hội được cải thiện theo hướng giảm dần tỷ lệ tiền mặt trong nền kinh tế, đồng thời cũng phản ánh việc ngày càng mở rộng và phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư của hệ thống ngân hàng như thẻ ATM đã góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong thanh toán, tạo thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng trong dân chúng. Từ những yếu tố trên cho thấy tiềm năng về nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn tới là rất lớn. Bản thân các ngân hàng cung cấp dịch vụ cũng nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích của việc phát triển, mở rộng các dịch vụ ngân hàng phi truyền thống. Với tiềm năng từ phía cầu, kỳ vọng từ phía các nhà cung cấp, cùng với chính sách mở cửa hội nhập từ phía nhà nước, ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào tiềm năng nhu cầu về dịch vụ ngân hàng trong thời gian tới.
  37. 37 Tuy nhiên, hiện nay thực trạng sử dụng dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam còn rất thấp. Các nhu cầu về dịch vụ ngân hàng còn hạn chế bởi các nguyên nhân sau: - Thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng còn chưa phổ biến - Dân cư và doanh nghiệp khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng do còn hạn chế như năng lực tài chính yếu, thiếu điều kiện giao dịch đảm bảo ngân hàng, hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn không cao, khả năng trả nợ thấp, rủi ro cao. - Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu Nhìn chung môi trường hoạt động ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thu nhập bình quân đầu người hiện so với các nước trong khu vực vẫn còn thấp để tạo ra mức cầu lớn về dịch vụ ngân hàng hiện đại. Cơ sở kinh tế, doanh nghiệp còn chưa nhiều, có quy mô chủ yếu là vừa và nhỏ, vì thế chưa có sức hấp thụ vốn và nhu cầu về dịch vụ ngân hàng lớn so với khả năng cung ứng của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế, kỹ thuật công nghệ phát triển, sự gia tăng mức sống và tác động của quá trình toàn cầu hoá kinh tế sẽ mở ra nhiều cơ hội cho khách hàng sử dụng ngày càng nhiều dịch vụ ngân hàng, không chỉ có các dịch vụ truyền thống mà cả những sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu sống và làm việc mới. 2.2.2 Tác động của Chính Phủ và Ngân Hàng Nhà Nước đến môi trường cạnh tranh ngành ngân hàng 2.2.2.1 Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của các TCTD Khung pháp lý cho hoạt động của ngành ngân hàng từng bước được cải thiện để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu quả hoạt động tiền tệ ngân hàng, cụ thể là Luật NHNN và Luật Các TCTD đã được bổ sung và sửa đổi trong năm 2003 và 2004. Những sửa đổi này nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng hiện đại, phù hợp hơn với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan quản lý vào hoạt động của các ngân hàng. Khung pháp lý không ngừng đổi mới và hoàn thiện theo hướng nới lỏng kiểm soát dịch vụ ngân hàng và thị trường tài chính như Luật Công Cụ Chuyển Nhượng số 49/2005/QH11 được Quốc Hội ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, Luật Chứng Khoán số 70/2006/QH11 được Quốc
  38. 38 Hội ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006, Luật Giao Dịch Điện Tử số 51/2005/QH11 được Quốc Hội ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005 2.2.2.2 Về hoạt động quản lý, điều hành chính sách tiền tệ Trong hoạt động quản lý và điều hành, NHNN đã thành công trong việc điều hành chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng. Các công cụ của chính sách tiền tệ được sử dụng là các công cụ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, hoán đổi ngoại tệ đã thay thế cho các công cụ kiểm soát tiền tệ mang tính hành chính. Lãi suất dần dần được tự do hoá, tỷ giá được chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá linh hoạt có điều tiết dựa trên cơ sở thị trường. Cơ chế về quản lý ngoại hối, tín dụng, hoạt động thanh toán ngày càng linh hoạt, thông thoáng hơn, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng. 2.2.2.3 Về hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định hiện tại, Ngân Hàng Nhà Nước đã ban hành nhiều quy định mới để đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng như: tỷ lệ an toàn vốn, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Các ngân hàng hiện nay đã sử dụng kiểm toán độc lập như một công cụ nhằm khẳng định và đánh giá tính minh bạch của các thông tin tài chính mà mình cung cấp. Tại các ngân hàng, Bộ Phận Kiểm Toán Nội Bộ, Kiểm Soát Nội Bộ đã được tách biệt với Ban Điều Hành và Hội Đồng Quản Trị, các phương pháp kiểm toán đã dần dần được cải thiện dựa trên cơ sở áp dụng thông lệ chung và phù hợp với điều kiện thực tiễn. Tuy nhiên, hệ thống quy chế quản lý và giám sát ngân hàng còn kém xa so với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, chưa thúc đẩy được các ngân hàng nâng cao năng lực quản trị rủi ro. Phương thức giám sát chưa có khả năng đánh giá và cảnh báo sớm rủi ro. Hệ thống pháp luật giám sát ngân hàng còn khá nhiều bất cập so với yêu cầu, trì hoãn việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn là một vấn đề quan trọng để bảo hộ các ngân hàng trong nước trước sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài. Thực tế thiếu nhiều thông tin liên quan đến chuẩn mực kế toán quốc tế là do chưa có một kế hoạch chi tiết thực hiện chuẩn mực, chưa có một cơ chế hiệu quả giám sát
  39. 39 việc thực hiện. Chính vì thế cần phải nỗ lực nhiều hơn để có một hệ thống giám sát các ngân hàng ở các cấp một cách hiệu quả hơn. 2.2.3 Các lĩnh vực phụ trợ và liên quan tới ngân hàng 2.2.3.1 Thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán hình thành và đi vào hoạt động từ năm 2000. Đến nay sau 6 năm hoạt động đã có 2 trung tâm giao dịch, 55 công ty chứng khoán, 1 trung tâm và 6 ngân hàng lưu ký chứng khoán, 1 ngân hàng thanh toán, 18 công ty quản lý quỹ, 7 công ty kiểm toán, 193 công ty niêm yết cổ phiếu, tổng giá trị vốn đạt 221.156 tỷ đồng, chiếm khoảng 22,7% GDP. Gần 400 loại trái phiếu Chính Phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng được niêm yết với tổng giá trị trên 70.000 tỷ đồng, đạt khoảng 7,7% GDP của năm 2006. Các nhà đầu tư đã mở khoảng 100.000 tài khoản trong đó có 500 nhà đầu tư là tổ chức, 1.700 tài khoản đầu tư nước ngoài, sở hữu 25 – 30% khối lượng niêm yết. Chỉ số VNI-Index tăng mạnh, đạt 751,77 điểm vào phiên cuối cùng của năm (vào ngày 29/12/2006 ), tăng 144% so với 307,5 điểm của phiên giao dịch cuối cùng trong năm 2005. Các sản phẩm trên thị trường chứng khoán đã được đa dạng, thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cùng với sự gia tăng về số lượng, chất lượng các loại hình dịch vụ, những tiện ích phục vụ cho nhà đầu tư cũng được nâng cấp và đa dạng hóa. Ngoài ra thị trường chứng khoán thứ cấp cũng đang hoạt động sôi nổi. Mặc dù có nhiều bước phát triển nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam còn những hạn chế sau : - Chưa phát huy hết vai trò huy động vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế. Việc phát triển thị trường chứng khoán còn phụ thuộc quá nhiều vào cổ phiếu của các công ty và trái phiếu chính phủ, đây là nguồn hàng hóa chủ yếu hiện nay của thị trường chứng khoán. - Quy mô thị trường nhỏ bé cả về cung cầu, chưa tổ chức được thị trường thứ cấp có hiệu quả.
  40. 40 - Khả năng phân tích thông tin về diễn biến thị trường của nhà đầu tư cá nhân còn hạn chế nên thời gian qua đã dẫn đến hiện tượng đầu tư theo tâm lý làm cho thị trường không ổn định. - Chênh lệch về khả năng tài chính giữa nhà đầu tư tổ chức trong nước và nước ngoài, có thể dẫn đến tình trạng một số nhà đầu tư tìm cách thao túng thị trường để trục lợi. Ảnh hưởng của thị trường chứng khoán đến hoạt động của các NHTM Việc phát triển của thị trường chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng. - Các công ty chứng khoán đóng vai trò bảo lãnh phát hành cho các NHTM khi các ngân hàng phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn, nhằm phục vụ mục tiêu tăng vốn điều lệ, ví dụ như công ty Chứng Khoán Sài Gòn đã bảo lãnh phát hàng cổ phiếu cho Sacombank, công ty TNHH Chứng Khoán Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam sẽ bảo lãnh phát hành cổ phiếu cho Eximbank. - Thị trường chứng khoán đóng vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM khi các ngân hàng cần tăng vốn điều lệ như vào ngày 12/07/2006 Sacombank niêm yết 189.947.299 cổ phiếu phổ thông, mệnh giá 10.000 đồng nhằm huy động vốn [Nguồn: Chứng Khoán Bảo Việt 13/06/2006]. - Ngược lại khi các NHTM phát hành trái phiếu và cổ phiếu đã góp phần làm tăng hàng hóa cho thị trường chứng khoán, ngoài ra các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phát sinh như hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu. Sự kết hợp giữa ngân hàng và chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường. 2.2.3.2 Thị trường bảo hiểm Thị trường dịch vụ bảo hiểm hiện nay đã có những tiến bộ đáng kể. Ngành bảo hiểm được hình thành với đầy đủ các yếu tố thị trường. Tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP tăng từ 0,37% năm 1993 lên 2% năm 2005, đặc biệt là từ năm 1999 – 2002, tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm tăng gần 1% trên GDP, tốc độ tăng
  41. 41 trưởng bình quân 29% năm. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm được cải thiện, sản phẩm được đa dạng hóa, hiện có trên 600 sản phẩm. Tổng số vốn điều lệ ngành bảo hiểm tăng lên đáng kể. Bảng 2.8.Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình hoạt động thị trường bảo hiểm 2004-2006 ĐVT: Tỷ đồng Năm 19931996199920022003200420052006 Doanh thu 700 1.264 2.091 6.992 10.390 12.400 13.616 17.752 Số tiền ngành Bảo Hiểm 46 1.232 2.664 9.955 14.602 23.002 26.276 34.400 đầu tư vào nền kinh tế Đóng góp của ngành Bảo 0,37% 0,49% 0,57% 1,46% 1,86% 2,00% 2,05% 1,82% Hiểm vào GDP ( Nguồn: Hiệp Hội Bảo Hiểm Việt Nam, Tạp Chí Ngân Hàng 11/2005 ) Thị trường bảo hiểm đã hình thành riêng cho mình một khuôn khổ hoạt động hoàn chỉnh để quản lý và giám sát. Các chủ thể tham gia đa dạng hóa về cơ cấu sở hữu và loại hình doanh nghiệp gồm 7 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 21 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 8 công ty môi giới, 1 công ty tái bảo hiểm, tạo ra phân đoạn thị trường gồm bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ và môi giới bảo hiểm, vừa hợp tác vừa cạnh tranh gay gắt với nhau để phát triển. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài tại Việt Nam góp phần gián tiếp phát triển FDI, cung cấp thêm nhiều sản phẩm bảo hiểm mới, tăng sự lựa chọn cho khách hàng và tăng doanh thu bảo hiểm toàn thị trường. Trong hoạt động đầu tư, các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng khẳng định vai trò của mình là một kênh huy động vốn quan trọng, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nếu như vào năm 1999, ngành bảo hiểm đầu tư trở lại nền kinh tế 2.664 tỷ đồng thì trong năm 2002 là 9.955 tỷ, tăng gấp 3 lần. Từ năm 2003 trở lại đây số tiền đầu tư này gia tăng không ngừng Tuy nhiên, hiện nay thị trường bảo hiểm vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quy mô thị trường còn nhỏ bé. Tổng doanh thu phí bảo hiểm/GDP của Việt Nam hiện nay khoảng 2% trong khi mức trung bình trên thế
  42. 42 giới là 8%, trong khu vực là từ 2,5% - 7%. Năng lực tái bảo hiểm thấp chỉ đạt trên 40% doanh thu. Ảnh hưởng của ngành bảo hiểm đối với hoạt động của ngành ngân hàng - Là kênh huy động vốn của hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm ngoài việc phải trả tiền gốc cho người được bảo hiểm khi hợp đồng đến hạn, còn phải trả bảo tức cho họ. Bảo tức càng cao càng thu hút người bảo hiểm tham gia càng nhiều. Điều này đã buộc các nhà bảo hiểm phải đầu tư sao cho đảm bảo an toàn và sinh lời cao thì tất yếu họ phải bước sang lĩnh vực kinh doanh ngân hàng – tín dụng, và đầu tư vào cổ phiếu ngân hàng thường là lựa chọn ưu tiên của các doanh nghiệp này. - Bảo hiểm giúp tạo sự an tâm cho khách hàng khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là đối với sản phẩm tiền gửi khách hàng. Sự hỗ trợ nhau để cùng kinh doanh và phát triển giữa ngành ngân hàng và ngành bảo hiểm ngày càng thể hiện rõ trên thị trường thế giới ngày nay. 2.2.3.3 Công nghệ thông tin Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và công nghệ cao ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế tri thức, tạo môi trường thuận lợi để quá trình hội nhập và liên kết tài chính quốc tế ngày càng sâu rộng. Chính vì thế, để có thể phát triển bền vững và đảm bảo hoạt động ổn định, các ngân hàng Việt Nam không ngừng đầu tư đổi mới công nghệ, hợp tác với các ngân hàng nước ngoài để có thể nhận sự hỗ trợ phát triển công nghệ hiện đại. Đến Tháng 10/2006, khoảng 85% các thao tác nghiệp vụ ngân hàng được xử lý trên máy tính, nhiều nghiệp vụ được thực hiện 100% các công đoạn trên máy tính, mạng máy tính. Hiện nay, việc xử lý trên mạng đã được thực hiện ở hầu hết các nghiệp vụ ngân hàng thay thế cho việc xử lý trên các máy tính đơn. Nhiều nghiệp vụ được xử lý trực tuyến, theo hướng tự động hóa. Các phần mềm sử dụng trong các ngân hàng ngày càng được nâng cấp hoặc xây dựng mới hoàn toàn nhằm đáp ứng cho việc xử lý các nghiệp vụ, mở rộng dịch vụ ngân hàng điện tử phục vụ khách hàng.
  43. 43 Ứng dụng CNTT trong lĩnh vực quản lý của NHNN cũng đã thực hiện ngày càng phát triển hơn như việc các NHTM gửi báo cáo hàng ngày, tháng cho NHNN bằng việc truyền File dữ liệu thay cho báo cáo bằng văn bản như trước, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng do NHNN chủ trì hiện nay đã có đến 71 ngân hàng tham gia với hơn 300 chi nhánh. Số lượng giao dịch trong năm 2006 là 4.500.000 giao dịch, tổng giá trị giao dịch lên đến 3.700.000 tỷ đồng vượt gần 50% so với năm 2005. CNTT còn được ứng dụng trong hệ thống đấu thầu tín phiếu kho bạc, nghiệp vụ thị trường mở cũng thực hiện giao dịch tự động qua mạng tạo thuận tiện và dễ dàng cho các thành viên, hay cả trong hệ thống máy ATM. Bên cạnh sự phát triển của các ngành nói trên, ngành giáo dục và đào tạo cũng phát triển khá mạnh. Ngoài hệ thống các trường công lập, hệ thống các trường dân lập ngày càng nhiều, hiện ở các trường hầu như đều có các ngành đào tạo nhân lực cho ngành ngân hàng. Hiệp Hội Ngân Hàng và Trung Tâm Đào Tạo Ngân Hàng cũng thường xuyên mở các khóa huấn luyện nhằm giúp cho các nhân viên của các NHTM cập nhật kiến thức thường xuyên. 2.2.4 Cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh 2.2.4.1 Về cấu trúc thị trường ngân hàng Năm 1990 chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Ngân Hàng Nhà Nước thực hiện chức năng quản lý và Ngân Hàng Thương Mại thực hiện chức năng kinh doanh. Xây dựng được hệ thống ngân hàng đa dạng về loại hình sở hữu. Chính sự đa dạng về sở hữu đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm tính minh bạch, công khai của hoạt động ngân hàng. Năm 2000 cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và NHTMCP. Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn quốc tế đối với các ngân hàng thương mại. Thành lập NHCSXH trên cơ sở ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường.
  44. 44 Tính đến hết năm 2006, hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay chia làm năm nhóm sau: - 5 Ngân hàng thương mại nhà nước: Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam, Ngân Hàng Công Thương Việt Nam, Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, Ngân Hàng Phát Triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long. - Một Ngân Hàng Chính Sách phục vụ dân nghèo - 33 Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần đang hoạt động, gồm 29 Ngân Hàng TMCP Đô Thị, 4 Ngân Hàng Cổ Phần Nông Thôn. - 6 Ngân Hàng Liên Doanh: Vinasiam Bank, Indovina, Chohungvina Bank, VID PUBLIC Bank, Ngân Hàng Liên Doanh Lào Việt và Ngân Hàng Liên Doanh Việt Nga - 32 Chi Nhánh Ngân Hàng Nước Ngoài Đến cuối năm 2005, 4 NHTMNN vẫn giữ vị trí chi phối, chiếm tới 74% thị phần nhưng thị phần của các NHTMNN đã giảm gần 5% so với năm 2000, chủ yếu chuyển dịch cho các NHTMCP. Trong khi đó, các ngân hàng nước ngoài vẫn chiếm thị phần ổn định trên dưới 10%. Điều này thể hiện thị trường ngân hàng tập trung cao vào các NHTMNN 2.2.4.2 Về đối thủ cạnh tranh Các NHTM đều có chiến lược phát triển thành các NHTM đa năng, mỗi một ngân hàng đều có những điểm mạnh của riêng mình về sức cạnh tranh vượt trội ở một số lĩnh vực khác nhau: Ngân Hàng Ngoại Thương dẫn đầu về thanh toán quốc tế, dịch vụ thẻ và nguồn vốn ngoại tệ rất dồi dào, Ngân Hàng Công Thương có quan hệ mật thiết với các khách hàng công nghiệp, thương mại Các NHTMNN là nhóm các ngân hàng chiếm thị phần huy động vốn và cho vay nhiều nhất trong hệ thống ngân hàng. Các NHTM này có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn các loại hình ngân hàng khác vì chưa phải tuân thủ ngay các quy định về an toàn vốn, được Chính Phủ đảm bảo hoàn toàn về khả năng thanh toán, có mạng lưới rộng khắp. Tuy nhiên do năng lực về quản trị điều hành, chất lượng tài sản, hiệu quả
  45. 45 kinh doanh yếu kém nên có thể gây ảnh hưởng lớn đến an toàn hệ thống ngân hàng trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO. Bảng 2.9. Thị phần huy động vốn và dư nợ tín dụng của các NHTM 2000 – 2006 ĐVT: % Thị phần huy động vốnThị phần dư nợ tín dụng Loại hình ngân hàng Ước Ước 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2006 Ngân hàng 77,00 80,10 79,30 78,10 75,20 74,24 67,80 76,70 79,00 79,90 78,60 76,90 74,15 68,00 TMNN Ngân hàng 11,30 9,20 10,10 11,20 13,20 16,72 21,20 9,20 9,30 9,50 10,80 11,60 14,76 20,00 TMCP Chi nhánh NHNNg và 10,30 10,00 9,40 9,30 9,70 7,93 9,70 12,30 10,50 8,80 8,90 9,60 9,48 10,20 Liên Doanh Các trung gian tài chính 1,40 0,70 1,20 1,40 1,90 1,11 1,30 1,80 1,20 1,80 1,70 1,90 1,61 1,80 khác Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 ( Nguồn: Báo Cáo Thường Niên NHNN, Tạp Chí Thị Trường Tài Chính Tiền Tệ ) Trong khi đó các NHTMCP hiện đang hoạt động rất hiệu quả và năng động trong việc phát triển các sản phẩm mới, có khả năng thích ứng nhanh và điều chỉnh chiến lược kinh doanh một cách linh hoạt theo sự thay đổi của thị trường. Quy mô vốn đang được tăng lên đáng kể, mức tối thiểu năm 2008 là 1.000 tỷ đồng và năm 2010 là 3.000 tỷ đồng, tăng cường mở rộng quy mô mạng lưới giao dịch để chiếm lĩnh thị trường và khách hàng trước khi các ngân hàng nước ngoài nhảy vào. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng TMCP có năng lực tài chính khá tốt so với quy mô hoạt động của chính mình. Hệ số an toàn vốn đủ chuẩn theo thông lệ quốc tế (từ 8% trở lên). Các NHTMCP lớn như Sacombank, ACB có sự tham gia góp vốn của các ngân hàng nước ngoài. Thị phần huy động vốn và tín dụng của nhóm ngân hàng TMCP đã tăng dần qua các năm, đặc biệt là trên địa bàn TPHCM trong năm 2006 các NHTMCP đã phát triển vượt bậc chiếm gần một nửa thị phần về cả lĩnh vực huy động vốn và cho vay tín dụng.
  46. 46 Bảng 2.10. Thị phần huy động vốn và Dư nợ tín dụng của các NHTM tại TPHCM ĐVT: Tỷ đồng Doanh số huy động vốn và thị phần huy động vốn Dư nợ tín dụng và thị phần dư nợ tín dụng Loại hình 2004 2005 Ước 2006 2004 2005 Ước 2006 ngân hàng Thị Thị Thị Thị Thị Thị Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền phần% phần% phần% phần% phần% phần% Ngân hàng 70.927 47,25 87.362 46,25 112.947 43,75 61,599 45.13 73,731 41.95 77,560 36,45 TMNN Ngân hàng 48.113 32,05 67.157 35,56 99.013 38,35 41,020 30,06 58,578 33,33 82,978 39,00 TMCP Chi nhánh NHNNg và 31.084 20,70 34.356 18,19 46.215 17,90 33,859 24.81 43,450 24,72 52,248 24,55 Liên Doanh Tổng 150.124 100 188.875 100 258.175 100 136,478 100 175,759 100 212,786 100 ( Nguồn: Cục Thống Kê TPHCM, Tạp Chí Thị Trường Tài Chính Tiền Tệ ) Đối với nhóm chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh đang hoạt động tại Việt Nam thì bắt đầu có sự tăng trưởng khá về vốn huy động và dư nợ tín dụng khi Ngân Hàng Nhà Nước có những dỡ bỏ giới hạn về huy động vốn VNĐ đối với nhóm này. Đặc biệt là chất lượng tín dụng của các ngân hàng đều tốt, nợ xấu của nhóm này rất thấp trung bình khoản 0,16%. Thế mạnh của nhóm ngân hàng này là chất lượng dịch vụ cao, uy tín toàn cầu, công nghệ theo tiêu chuẩn quốc tế, trình độ quản lý vượt trội so với các NHTM Việt Nam, chi phí hoạt động của họ thấp, hiện nay thị phần của nhóm này ngày càng lớn. Nhóm này hiện đóng vai trò cầu nối thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, là đối thủ cạnh tranh của các NHTM trong nước, nhưng đồng thời cũng là kênh dẫn công nghệ ngân hàng hiện đại, những kiến thức quản trị tốt nhất và nguồn tài chính không nhỏ để bổ sung cho thị trường tài chính Việt Nam. Mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đưa đến cạnh tranh mạnh mẽ hơn, không chỉ giữa các ngân hàng trong nước với nhau mà với cả ngân hàng nước ngoài. Các NHTM nước ngoài theo đuổi chiến lược cạnh tranh nâng cao chất lượng dịch vụ và đưa ra dịch vụ mới thay vì cạnh tranh bằng giá với các ngân hàng Việt Nam.
  47. 47 2.2.5 Điều kiện và yếu tố đầu vào của HDB 2.2.5.1 Năng lực tài chính: Năng lực tài chính được coi là yếu tố quyết định đảm bảo năng lực cạnh tranh của một ngân hàng. Dưới đây là phần đánh giá các chỉ tiêu phản ánh tiềm lực tài chính của HDB. Phân tích vốn Bảng 2.11. Vốn điều lệ và hệ số an toàn vốn ĐVT: Tỷ đồng HDB SACOMBANK ACB Chỉ tiêu Bình Bình Bình 2004 2005 2006 2004 2005 2006 2004 2005 2006 quân quân quân Vốn điều lệ 150 300 500 317 740 1.250 2.089 1.360 481 948 1.100 843 Tổng tài sản 1.326 2.307 4.041 2.558 10.395 14.456 24.764 16.538 15.420 24.247 44.347 28.005 Tốc độ tăng 114,3% 100% 66,7% 93,7% 46,5% 68,9% 67,1% 60,9% 13,4% 97,1% 16,0% 42,2% vốn điều lệ Tốc độ tăng 41,7% 74% 75% 63,6% 42,3% 39,1% 71,3% 50,9% 42,1% 57,2% 82,9% 60,7% tài sản Tỷ lệ an toàn 11,2% 18,2% 23,0% 17,5% 10,5% 15,4% 11,8% 12,6% 8,1% 12,0% 10,9% 10,3% vốn tối thiểu (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của HDB, ACB,Sacombank) Năng lực tài chính thể hiện trước hết ở quy mô vốn điều lệ của ngân hàng, thành phần chính của vốn chủ sở hữu.Với vốn điều lệ ban đầu là 3 tỷ đồng, HDB không ngừng tăng vốn. Trong năm 2005 HDB đã thực hiện 2 lần tăng vốn điều lệ để nâng mức vốn từ 150 tỷ đồng lên 300 tỷ đồng. Năm 2006 từ 300 tỷ đồng lên 500 tỷ đồng, tăng 66,7% so với năm 2005, gấp 3,3 lần so với năm 2004. Nguồn tăng vốn chủ yếu là do các cổ đông chính đóng góp vào như Tổng Công Ty Thương Mại Sài Gòn, Tổng Công Ty Địa Ốc Sài Gòn. Đầu tháng 4/2007 HDB thực hiện tăng vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng và đến cuối năm 2007 sẽ tăng lên mức 2.000 tỷ đồng. Điều này đã phản ánh nỗ lực của HDB trong việc duy trì tăng vốn nhằm nâng cao năng lực tài chính, đáp ứng cho yêu cầu mở rộng qui mô hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh.
  48. 48 Tuy tốc độ tăng vốn điều lệ bình quân của HDB trong giai đoạn 2004–2006 khá cao đạt 93% so với ngân hàng khác như Sacombank 69%, ACB 42%. Nhưng nếu xét về mức vốn điều lệ của HDB hiện nay vẫn còn quá thấp. Nguyên nhân chính là do trong giai đoạn từ 2001-2003, trong khi các NHTMCP trong nước liên tục tăng vốn như Sacombank từ 190 tỷ năm 2001 tăng lên 505 tỷ năm 2003 thì HDB hầu như không tăng vốn điều lệ, tập trung toàn bộ nguồn lực để xóa lỗ, vì thế dù tốc độ tăng vốn hiện nay cao nhưng khoảng cách về vốn giữa HDB và các ngân hàng vẫn còn khá xa. Trong thời điểm hiện nay, các NHTMCP khác hiện đang tăng tốc trong việc tăng vốn điều lệ nhằm thực hiện đúng theo quy định của NHNN và tăng năng lực cạnh tranh, cụ thể là ACB tăng vốn điều lệ lên 2.630 tỷ đồng trong năm 2007, Sacombank tăng lên 4.450 tỷ đồng. Nếu HDB chưa có kế hoạch cụ thể cho vấn đề tăng vốn điều lệ của mình thì với vốn điều lệ thấp như hiện nay sẽ làm giảm khả năng mở rộng tín dụng và tăng khả năng rủi ro tín dụng của HDB. Đối với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số thể hiện khả năng chịu đựng của vốn tự có đối với các rủi ro trong kinh doanh. Theo quyết định 457/2005/QĐ- NHNN của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước ban hành ngày 19/04/2005 về việc quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD thì các tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ này tối thiểu là 8%. Trong 3 năm vừa qua, HDB luôn duy trì trên mức 8% theo đúng như quy định, cụ thể là năm 2004 11,2%, năm 2005 18,2% và năm 2006 tăng lên 23%, bình quân hàng năm hệ số này là 17,5% khá cao so với Sacombank 12,6% và ACB 10,3%. Hệ số an toàn vốn của HDB cao là do tốc độ tăng tài sản không theo kịp tốc độ tăng vốn điều lệ, dẫn đến đồng vốn của chủ sở hữu bị nhàn rỗi. Vấn đề được đặt ra là, HDB cần phải cân đối hài hòa giữa các yếu tố nguồn vốn cổ đông – vốn huy động – cơ cấu sử dụng vốn để vừa đảm bảo an toàn vốn, vừa tối ưu hóa lợi nhuận cho cổ đông.
  49. 49 Về chất lượng tài sản có Tài sản có của HDB liên tục tăng qua các năm với tốc độ tăng trưởng khá cao, điều này cho ta thấy quy mô hoạt động kinh doanh của HDB ngày càng được mở rộng. Bảng 2.12. Các chỉ tiêu về tài sản có ĐVT: Tỷ đồng HDB SACOMBANK ACB Chỉ tiêu Bình Bình Bình 2004 2005 2006 2004 2005 2006 2004 2005 2006 quân quân quân Tổng vốn 1.092 1.871 3.244 2.069 9.201 12.260 21.338 14.266 14.354 22.341 39.548 25.414 huy động Tổng tài sản 1.328 2.307 4.041 2.559 10.395 14.456 24.764 16.538 15.420 24.247 44.347 28.005 có Tổng dưnợ 1.065 1.375 2.678 1.706 5.987 8.425 14.394 9.602 6.760 9.563 17.116 11.146 Trong đó nợ quá hạn 5 27 19 17 64 74 137 92 49 37 116 67 Tổng dư nợ/vốn huy 97,5% 73,5% 82,6% 84,5% 65,1% 68,7% 67,5% 67,1% 47,1% 42,8% 43,3% 44,4% động Tổng dư nợ/tổng tài 80,2% 59,6% 66,3% 68,7% 57,6% 58,3% 58,7% 58,2% 43,8% 39,4% 38,6% 40,6% sản có Nợ quá hạn/ 0,5% 0,8% 0,7% 0,7% 1,1% 0,9% 1,0% 1,0% 0,7% 0,4% 0,7% 0,6% tổng dư nợ ( Nguồn: Báo Cáo Thường Niên Các NHTMCP 2004 – 2006 ) Tỷ lệ tổng dư nợ trên vốn huy động của HDB giảm từ 97,5% năm 2004 xuống còn 82,6% năm 2006 và đạt bình quân là 84,5%, chứng tỏ HDB đã rất nỗ lực trong thực hiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình. Nhưng số liệu này cũng chứng minh rằng tín dụng là lĩnh vực đầu tư chủ yếu của HDB. Nói cách khác hoạt động của HDB hiện nay là rất đơn điệu, ngân hàng chủ yếu huy động vốn là để cho vay. Trong khi đó cũng với chỉ tiêu này, hoạt động cho vay bình quân của Sacombank chỉ chiếm 67,1% trong tổng vốn huy động, ACB chỉ có 44,4%, cho thấy Sacombank và ACB đã thực hiện rất tốt vấn đề đa dạng hóa các hoạt động sử dụng vốn của mình. Tín dụng là một nghiệp vụ có độ rủi ro cao. Chính vì thế mà trong
  50. 50 thời gian tới HDB cần phải đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ mà ngân hàng đang thực hiện, đồng thời nên mở rộng nhiều loại hình dịch vụ mới để phân tán rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời cho ngân hàng Đối với hệ số tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, theo đánh giá của NHNN, một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ lớn hơn 7% được xem là ngân hàng yếu kém. Ta nhận thấy chất luợng các khoản cho vay của HDB là khá tốt so với yêu cầu trên. Cụ thể trong năm 2004 tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là 0,5%, năm 2005 tỷ lệ này ở mức 0,8% và năm 2006 tiếp tục được kiểm soát ở mức 0,7%. Mặc dù tỷ lệ tổng dư nợ trên tổng tài sản có chiếm đến 68,7%, cao hơn Sacombank 10,7% và hơn ACB 28,1% nhưng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của HDB thấp hơn Sacombank 0,3% và xấp xỉ ngang bằng với ABC. Chứng tỏ HDB, tuy nổ lực trong việc tăng trưởng tín dụng nhằm đảm bảo thực hiện đúng theo kế hoạch đã đề ra, nhưng vẫn luôn quan tâm và đặt chất lượng tín dụng lên hàng đầu, thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, thực hiện đúng quy trình, đánh giá và phân loại khách hàng theo định kỳ kiểm soát khá tốt. Về hiệu quả kinh doanh Từ năm 2004 trở lại đây, kết quả hoạt động kinh doanh của HDB tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Bảng 2.13. Các chỉ tiêu về lợi nhuận ĐVT: % HDB SACOMBANK ACB Chỉ tiêu Bình Bình Bình 2004 2005 2006 2004 2005 2006 2004 2005 2006 quân quân quân Hệ số ROA 1,5 2,0 2,4 2,0 1,7 1,9 2,1 1,9 2,1 1,9 1,9 2,0 Hệ số ROE 18,8 18,0 21,0 19,3 23,7 20,6 20,6 21,6 33,4 29,6 33,8 32,3 Thu nhập ròng từ lãi/Thu 4,1 3,1 2,2 3,1 2,2 2,3 2,1 2,2 3,0 3,3 2,7 3,0 nhập ròng ngoài lãi ROE/ROA 12,2 9,0 8,8 10,0 14,3 11,1 9,9 11,8 15,9 15,6 17,8 16,4 (Nguồn: Báo cáo thường niên của HDB, Sacombank, HDB qua các năm)
  51. 51 Chỉ tiêu suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) phản ánh hiệu quả kinh doanh của một đồng tài sản có. Ta thấy rằng hệ số ROA của HDB được cải thiện dần qua các năm, đạt bình quân là 2% trong giai đoạn 2004 – 2006, tương đương với hệ số ROA của ACB và cao hơn 0,1% so với Sacombank. ROA ngày càng được cải thiện khẳng định hiệu quả kinh doanh tốt. Cũng như ROA, hệ số suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) trong năm 2004 là 18,8%, năm 2005 tuy bị giảm xuống còn 18% nhưng qua năm 2006 suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của HDB đã được cải thiện, tăng lên 21%. Điều này nói lên khả năng sinh lời trên một đồng vốn chủ sở hữu của HDB ngày càng cao. Nếu so sánh ROE và ROA giữa 3 ngân hàng trên, ta thấy mặc dù ROA của Sacombank và ACB thấp hơn HDB nhưng vì Sacombank và ACB đều sử dụng nhiều nợ hơn, tức tỷ lệ tài sản trên vốn chủ sở hữu lớn hơn HDB, nên đạt được ROE cao hơn. Trong đó, đặc biệt là ACB chỉ số ROA trong năm 2006 vẫn được duy trì ở mức 1,9% như năm 2005 nhưng suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của ACB thể hiện qua chỉ số ROE được cải thiện, tăng 4,2% so với năm 2005, đạt tới 33,8%. Như vậy với khả năng sinh lời như hiện nay, HDB có thể tăng ROE của mình lên nếu sử dụng nhiều nợ hơn và rủi ro cũng tăng tương ứng. Về khả năng thanh khoản Khả năng thanh khoản của HDB đảm bảo đúng quy định về an toàn thanh khoản của NHNN, Hội Đồng Quản Trị. Hiện nay HDB quản lý thanh khoản hàng ngày, dựa trên chiến lược do Hội Đồng Quản Trị đề ra, các hạn mức và giới hạn về thanh khoản được Ban Lãnh Đạo thông qua. Ta có bảng số liệu như sau:
  52. 52 Bảng 2.14. Chỉ tiêu về khả năng thanh khoản ĐVT: Tỷ đồng 2004 2005 2006 Bình Chỉ tiêu Số tiềnTỷ trọng Số tiềnTỷ trọng Số tiềnTỷ trọng quân 1.Tài sản có có thể thanh toán ngay 111 100% 214 100% 666 100% 100% -Tiền mặt tại quỹ 15 13,5% 11 5,1% 30 4,5% 8% -Vàng tồn kho 12 10,8% 83 38,8% 299 44,9% 31% -Tiền gửi không kỳ hạn tại NHNN 58 52,3% 61 28,5% 21 3,2% 28% -Tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD 5 4,5% 13 6,1% 40 6,0% 6% -Trái phiếu 21 18,9% 46 21,5% 276 41,4% 27% 2.Tài sản nợ phải thanh toán ngay 269 100% 339 0% 465 100% 100% -Tiền gửi không kỳ hạn 269 100% 286 84,4% 439 94,4% 93% -Vay ngắn hạn của các TCTD khác 0 0,0% 53 15,6% 26 5,6% 7% 3.Tài sản có có thể thanh toán ngay/tài sản 41,3% 63,1% 143,2% 83% nợ phải thanh toán (Nguồn Báo cáo hoạt động kinh doanh và Báo cáo tổng kết tài sản HDB các năm) Số liệu của các thời kỳ cho thấy HDB đã nỗ lực để cải thiện khả năng thanh toán của mình ở mức an toàn ngày càng cao. Cụ thể là tỷ lệ khả năng chi trả năm 2004 là 41,3%, năm 2005 63,1% và năm 2006 tăng lên 143,2%, bình quân tỷ lệ này là 83%. Điều này chứng minh HDB không những quan tâm đến hiệu quả kinh doanh mà còn luôn thận trọng trong việc sử dụng nguồn vốn của cổ đông và của khách hàng. Tuy nhiên trong cơ cấu tài sản có có thể thanh toán ngay, ta có thể thấy rằng khoản tài sản có không sinh lời gồm tiền mặt tại quỹ và vàng tồn kho chiếm tỷ lệ khá cao và tăng dần lên qua các năm, năm 2004 là 24,2%, sang năm 2005 tăng lên 43,9% và đặc biệt là trong năm 2006 tỷ lệ tăng lên 49,4%, trong khi phần còn lại là các tài sản sinh lời chỉ chiếm 50,6%. Điều này chứng tỏ ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của đồng vốn, làm ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Nguyên nhân của việc tiền mặt tại quỹ và vàng tồn kho tăng cao trong năm 2005 và 2006 là do khách hàng tất toán nợ vay và vàng gửi trên thị trường liên ngân hàng đến hạn thu hồi. Trong khi đó, thị trường bất động sản còn
  53. 53 đóng băng, giá vàng biến động liên tục đồng thời huy động vàng từ dân cư tăng trong khi dư nợ cho vay vàng tăng trưởng không đáng kể. Trái ngược với tỷ lệ tiền mặt tại quỹ, tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn tại NHNN và các TCTD bị giảm dần qua các năm. Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn là khoản tiền vừa có khả năng sinh lời vừa có khả năng đảm bảo khả năng thanh khoản tốt cho ngân hàng. Chính vì thế, HDB cần phải giảm bớt tỷ lệ tiền mặt và vàng tồn kho bằng cách tìm đầu ra như cho vay hay gửi không kỳ hạn tại các TCTD hoặc gửi tại NHNN nhằm tăng tỷ lệ tài sản có sinh lời trong tổng tài sản có có thể thanh toán ngay. HDB cũng đã đầu tư vào trái phiếu chính phủ, tỷ lệ đầu tư này được cải thiện qua các năm, từ 1,98% năm 2005 tăng vọt lên 6,83% năm 2006, đạt bình quân 3,46% trên tổng tài sản. Tài sản này tạo nguồn dự trữ thứ cấp, đáp ứng nhu cầu thanh khoản, cơ cấu lại tài sản có sinh lời theo hướng tích cực hơn, tăng hiệu quả trong đầu tư kinh doanh và đảm bảo an toàn thanh khoản cho HDB. 2.2.5.2 Uy tín ngân hàng HDB là một trong những ngân hàng được thành lập sớm nhất trong hệ thống các NHTMCP Việt Nam. Hiện nay hình ảnh và thương hiệu HDB ngày càng được nhiều người biết đến do những phát triển của HDB cả về chất và lượng. Để đáp ứng tốt nhu cầu của khách, HDB xác định việc tiếp cận và sử dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại là một ưu tiên quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Chính vì thế, HDB đã đầu tư rất nhiều vào công nghệ ngân hàng hiện đại như năm 2005 tham gia mạng SWIFT, 2006 triển khai Core Banking, tham gia mạng Reuter Tất cả những nỗ lực của HDB đã để lại những ấn tương tốt đẹp cho khách hàng và các tổ chức tài chính uy tín trên thế giới. Vừa qua, Ngân Hàng TMCP Phát Triển Nhà TPHCM (HDB) đã vinh dự nhận được giải thưởng về chất lượng điện thanh toán quốc tế năm 2006 do Wachovia Bank N.A New York trao tặng cho những ngân hàng có tỷ lệ điện thanh toán cao và xuyên suốt qua Wachovia Bank trong năm 2006. Đây là giải thưởng nhằm đánh giá cao những ngân hàng có quá trình xử
  54. 54 lý nghiệp vụ thanh toán tự động nhanh chóng, chính xác và kịp thời trong dịch vụ điện thanh toán quốc tế qua mạng thanh toán viễn thông liên ngân hàng. Ngày 01/03/2006, HDB đã nhận danh hiệu “DOANH NGHIỆP VIỆT NAM UY TÍN – CHẤT LƯỢNG 2006” trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng do Mạng Doanh nghiệp Việt nam (Vietnam Enterprises) tổ chức với mục tiêu “Danh hiệu nhà cung cấp đáng tin cậy được trao cho những doanh nghiệp Việt Nam đáng tin cậy”. Thông qua các tiêu chí xét chọn chính như : Khảo sát mức độ uy tín và thị trường của thương hiệu doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ được khảo sát thông qua các khách hàng của doanh nghiệp để đảm bảo được rằng các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp đáp ứng được đa số nhu cầu và yêu cầu của khách hàng. Xác định được sự đầu tư và nỗ lực của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín – thương hiệu của doanh nghiệp Danh hiệu là biểu trưng khẳng định HDB là nhà cung cấp các sản phẩm và dịch vụ đáng tin cậy trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Việc được trao danh hiệu này chính là sự tôn vinh những nỗ lực và thành công của HDB trong việc xây dựng uy tín thương hiệu và chất lượng sản phẩm, dịch vụ của HDB trong năm hoạt động vừa qua, khẳng định cho uy tín thương hiệu HDB ở thị trường trong nước và hỗ trợ khả năng hội nhập thương mại quốc tế của HDB trong tiến trình hội nhập chung của kinh tế Việt Nam khi tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới. Ngoài ra, HDB cũng đã nhận giải thưởng “Ngân hàng hoạt động thanh toán xuất sắc năm 2005” do Citigroup - là tập đoàn tài chính ngân hàng hàng đầu của Mỹ - trao tặng. Đây là giải thưởng hàng năm của Citigroup nhằm vinh danh những nỗ lực và thành tích của các ngân hàng thương mại trên toàn cầu trong lĩnh vực hoạt động thanh toán quốc tế. Mặc dù thanh toán quốc tế là nghiệp vụ còn rất trẻ của HDB, nhưng năm 2005 tổng giá trị thanh toán quốc tế của HDB đạt xấp xỉ 22 triệu USD, mức tăng trưởng tăng gấp 5 lần so với năm 2004. Hiện tại, toàn bộ các điện thanh toán quốc tế của HDB đã được thực hiện trực tiếp trên mạng SWIFT, giành được sự tín nhiệm của khách hàng với mức độ chính xác, nhanh chóng và an toàn cao, tiết kiệm thời gian và chi phí cho khách hàng với mức phí cạnh tranh và các
  55. 55 chế độ ưu đãi trọn gói. Tổng giá trị thanh toán quốc tế trong 06 tháng đầu năm 2006 đạt tương đương trên 35 triệu USD. Sau hai năm thực hiện nghiệp vụ này, HDB đã đạt được sự công nhận và đánh giá cao từ các đối tác và khách hàng đối với chất lượng dịch vụ mà HDB đã cung cấp và phục vụ trong nghiệp vụ thanh toán. Trong giai đoạn khó khăn sau khủng hoảng tài chính Châu Á, uy tín và thương hiệu của HDB đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Tuy nhiên trong khoảng thời gian 2000 – 2003, với kết quả hoạt động kinh doanh tốt của mình, HDB đã nỗ lực xử lý những khoản nợ quá hạn và dùng lợi nhuận có được để xóa lỗ. Đến nay HDB đã dần khôi phục lại hình ảnh của mình trong hệ thống NHTMCP. Với Ban Điều hành có năng lực quản lý tốt, kinh nghiệm lâu năm trong ngành ngân hàng, và đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên nghiệp, nhiệt huyết, HDB hoàn toàn có khả năng đạt được mục tiêu đề ra là đến năm 2015 trở thành một ngân hàng có trình độ trung bình trong khu vực. 2.2.5.3 Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức Hiện nay bộ máy tổ chức của HDB bao gồm: - Tổng Giám Đốc là người trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Phụ việc cho Tổng Giám Đốc, hiện nay có 3 Phó Tổng Giám Đốc. - 9 Phòng chuyên môn nghiệp vụ - Có 10 chi nhánh, HDB đã chuyển đổi toàn bộ các chi nhánh cấp 2 của HDB thành chi nhánh trực thuộc HDB và đã được NHNN VN cấp giấy phép thành lập thêm 4 chi nhánh mới. Dưới đây là sơ đồ bộ máy tổ chức của HBD
  56. 56 Sơ Đồ 2.1 : Bộ Máy Tổ Chức Của HDB Hội Đồng Quản Trị Ban Kiểm Soát Hội Đồng Quản Lý Tài Sản Tổng Giám Đốc Hội Đồng Nhân Sự Hội Đồng Tín Dụng Phó Tổng Giám Đốc Phó Tổng Giám Đốc Phó Tổng Giám Đốc Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Ki ểm Kế Thanh Dịch Nhân Kinh Kế Thanh Tin Tra Hoạch Toán Vụ Địa Sự & Doanh Toán Toán Học Ki ểm & Phát & Ốc Hành (Thực & Tài Quốc Soát Triển Ngân Chánh hiện việc Chính Tế Nộ i Bộ Quỹ cho vay) Chi Nhánh Phú Nhuận Chi Nhánh Lãnh Binh Thăng Chi Nhánh Nguyễn Trãi Chi Nhánh Cần Thơ Chi Nhánh Hiệp Phú Chi Nhánh Hà Nội Chi Nhánh Cộng Hòa Chi Nhánh Bình Dương Chi Nhánh Phú Thọ Chi Nhánh An Lạc
  57. 57 Mô hình tổ chức hiện nay của HDB là mô hình truyền thống với việc tổ chức phân định theo chức năng như: Hội Đồng Quản Trị, Ban Kiểm Soát, Tổng Giám Đốc, Phòng Kế toán, Phòng Thanh Toán Quốc Tế Trong điều kiện quy mô nhỏ, tính chất nghiệp vụ đơn giản như hoạt động trước đây của HDB thì mô hình truyền thống tỏ ra phù hợp với mức độ tập trung quyền lực cao. Tuy nhiên với sự mở rộng mạng lưới chi nhánh, sự gia tăng khối lượng khách hàng cũng như nhu cầu phong phú về sản phẩm dịch vụ ngân hàng của khách hàng. Mô hình tổ chức này có những nhược điểm sau: 9 Có thể dẫn đến việc quản lý khách hàng không chặt chẻ do không có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các phòng, ban khi quản lý cùng một đối tượng khách hàng. 9 Xây dựng chính sách lãi suất, phí dịch vụ từ trên xuống, mọi chi nhánh đều giống nhau, điều này là rất cứng nhắc. 9 Việc tổ chức phòng, ban dựa vào nghiệp vụ chuyên môn như Phòng Kinh Doanh (thực hiện nghiệp vụ cho vay), Phòng Kế Toán sẽ gây khó khăn và mất thời gian cho khách hàng vì phải tiếp xúc rất nhiều phòng ban. 9 Việc phân chia phòng, ban theo chuyên môn nghiệp vụ nên nhân viên phòng ban này không biết hoặc không nắm rõ nghiệp vụ của phòng ban khác, dẫn đến việc hướng dẫn khách hàng gặp nhiều sai sót. Đồng thời khó tiếp thị sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đến với khách hàng. Vì các nhược điểm nêu trên, HDB cần phải tái cấu trúc lại bộ máy tổ chức của mình. Năng lực quản lý Với mục tiêu tập trung củng cố lại hoạt động để nâng cao năng lực cạnh tranh, trong suốt 6 năm qua toàn thể Ban Lãnh Đạo và nhân viên của HDB hoàn thành mục tiêu này với những kết quả khả quan và góp phần không nhỏ cho bước phát triển tiếp theo của HDB: 3 Cơ cấu lại nợ và lành mạnh hóa tài chính: trong giai đoạn 2001 – 2003 cơ cấu lại nợ, kiên quyết xử lý nợ quá hạn, giảm và thu hồi nợ đối với DNNN kinh
  58. 58 doanh không hiệu quả, tập trung đẩy mạnh công tác thu hồi nợ bằng các biện pháp nghiệp vụ và dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý. Kết quả đã xử lý toàn bộ nợ quá hạn của giai đoạn trước, đưa nợ quá hạn của năm 2002 và 2003 về 0% và không để phát sinh thêm nợ quá hạn mới. Hiện nay tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức nhỏ hơn 1%. Hệ số an toàn vốn ( CAR ) được cải thiện đáng kể, cao hơn mức quy định tối thiểu của NHNN (theo Quyết Định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/0/2005 thì hệ số an toàn vốn tối thiểu của các TCTD là 8%, trừ Chi Nhánh Ngân Hàng Nước Ngoài). 3 Hệ thống quản trị, điều hành của HDB từng bước được cải thiện theo hướng phù hợp hơn với thông lệ quản trị ngân hàng trên thế giới. 3 HDB đã xây dựng được hệ thống mạng tin học nội bộ để phục vụ cho hoạt động thanh toán, thông tin báo cáo và quản trị điều hành trong hệ thống HDB. 3 Hoạt động quản trị điều hành đã được tin học hóa và từng bước đổi mới theo hướng áp dụng các thông lệ, chuẩn mực quản trị doanh nghiệp. 3 Đã ban hành phương án cải cách chế độ lương thưởng xứng với trình độ, kinh nghiệm công tác của người lao động Tuy nhiên hiện nay vẫn còn những bất cập mà HDB phải hoàn thiện như: 3 Năng lực quản trị điều hành còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp. 3 Chưa tách bạch được quyền hạn của Hội Đồng Quản Trị và quyền hạn của Ban Điều Hành trong kinh doanh. 3 Chậm đổi mới phương thức kiểm soát các mặt nghiệp vụ theo hướng quản lý tập trung để xử lý kịp thời khi rủi ro phát sinh. 3 Kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn bất cập. Hiện nay hoạt động kiểm soát nội bộ vẫn còn những yếu kém, chậm phát hiện những tồn tại và sai phạm trong nội bộ đơn vị, chất lượng hoạt động chưa đáp ứng nhu cầu. Kiểm tra nội bộ chỉ kiểm tra, vẫn chưa thực hiện kiểm toán để đánh giá tổng thể quy trình nghiệp vụ nhằm đưa ra những kiến nghị kịp thời ngăn chặn sai phạm và phòng ngừa rủi ro phát sinh.
  59. 59 3 Bộ máy tổ chức chưa theo định hướng khách hàng, thiếu bộ phận thiết kế, nghiên cứu và phát triển sản phẩm, không có bộ phận chăm sóc và giải đáp thắc mắc khách hàng. 3 Đặc biệt là vấn đề quản lý rủi ro vẫn còn do các phòng tự kiểm soát. 2.2.5.4 Nguồn nhân lực Tổng số nhân viên đến ngày 31/12/2006 là 401 nhân viên, tăng 43% so với đầu năm, trong đó 80% cán bộ nghiệp vụ có trình độ đại học và trên đại học. Là một NHTMCP có tiềm năng, HDB đang và sẽ cần rất nhiều yếu tố để vươn lên khẳng định và phát triển thương hiệu của mình trên thị trường. Một trong những yếu tố quan trọng nhất để quyết định sự thành công hay thất bại trong chiến lược phát triển của HDB chính là yếu tố nguồn nhân lực. Trong đó đặc biệt là nhân lực cấp cao, những nhà quản lý có khả năng hoạch định chiến lược phát triển của HDB trong thời kỳ hội nhập. - Chất lượng nguồn nhân lực đầu vào luôn được nâng cao không ngừng. Tất cả các nhân viên khi ứng tuyển vào HDB phải qua khâu sơ tuyển hồ sơ, thi tuyển chất lượng đầu vào gồm các môn như nghiệp vụ, kiến thức tổng quát về ngân hàng, ngoại ngữ và IQ. Sau khi các ứng viên vượt qua vòng thi tuyển, HDB có một Hội Đồng Nhân Sự để khảo sát khả năng ứng xử của các nhân viên tương lai. Chính vì thế mà chất lượng đầu vào của HDB là khá cao. HDB đặc biệt chú trọng chất lượng cán bộ chủ chốt và nhân viên quản lý, họ được cử luân phiên đi tham dự các khóa đào tạo ngắn ngày, hội thảo do Việt Nam hoặc nước ngoài tổ chức, tham quan học tập kinh nghiệm tại các tổ chức tín dụng ở nước ngoài về các dịch vụ ngân hàng hiện đại, cách thức tổ chức hoạt động của các ngân hàng này trong thị trường tài chính tiền tệ. Chú trọng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho các mảng nghiệp vụ phức tạp, sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Nhân viên mới vào sẽ được theo học các khóa đào tạo nghiệp vụ ngắn ngày cụ thể là trong năm 2006 đã thực hiện công tác đào tạo cho 662 lượt người, với 36 lớp được tổ chức. Phương thức đào tạo là mở lớp mời giáo viên thỉnh giảng, tham dự các lớp do đơn vị đào tạo tổ chức như Hiệp Hội Ngân Hàng, PACE, BTC. Nếu như