Luận văn Liên kết các ngân hàng thương mại Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập

pdf 127 trang phuongnguyen 3560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Liên kết các ngân hàng thương mại Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_lien_ket_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam_de_nang.pdf

Nội dung text: Luận văn Liên kết các ngân hàng thương mại Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM VŨ THỊ HẢI MINH LIÊN KẾT CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Chuyên ngành: Kinh tế - Tài chính - Ngân hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LẠI TIẾN DĨNH TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2007
  2. MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG trang 1 1.1. Xu thế hội nhập 1 1.1.1. Tính tất yếu của việc hội nhập kinh tế quốc tế 1 1.1.2. Thời cơ và thách thức của hội nhập đối với các nền kinh tế đang phát triển 3 1.1.3. Hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng – cơ hội và thách thức đối với Việt Nam và các nền kinh tế đang phát triển 6 1.2. Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại 9 1.2.1. Những quan điểm về năng lực cạnh tranh 9 1.2.2. Những biểu hiện trong năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại 11 1.2.3. Hướng chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trên thế giới 14 1.3. Sự liên kết giữa các ngân hàng thương mại 17 1.3.1. Xu hướng tất yếu của việc liên kết 17 1.3.2. Những hình thức liên kết trong hoạt động ngân hàng trên thế giới 18 1.3.3. Ưu và nhược điểm của việc liên kết giữa các ngân hàng thương mại 23 1.3.4. Các mô hình liên kết tiêu biểu và kinh nghiệm trong việc xây dựng mỗi mô hình 24 1.3.4.1. Liên kết hoạt động giữa các ngân hàng 24 1.3.4.2. Sáp nhập giữa các ngân hàng 25 1.3.4.3. Hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng 26 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 29 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG NỖ LỰC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHUẨN BỊ CHO QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP trang 30 2.1. Ngành ngân hàng Việt Nam với WTO 30 2.1.1. Nghĩa vụ và quyền lợi của ngành ngân hàng sau khi Việt Nam gia nhập WTO 30
  3. 2.1.2. Lộ trình mở cửa của hệ thống ngân hàng Việt Nam 32 2.1.2.1. Các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng ( trong biểu cam kết dịch vụ) 32 2.1.2.2. Các cam kết đa phương (thể hiện trong báo cáo gia nhập của Ban công tác) 33 2.2. Kết quả của những nỗ lực chuẩn bị cho hội nhập của các NHTM Việt Nam 34 2.2.1. Vấn đề nhận thức về hội nhập tài chính – ngân hàng 34 2.2.2. Cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam 36 2.2.3. Thay đổi quan điểm phục vụ khách hàng 39 2.2.4. Tiềm lực tài chính 40 2.2.4.1. Phát hành cổ phiếu tăng vốn 40 2.2.4.2. Huy động vốn từ các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài 43 2.2.5. Cải thiện các hệ số an toàn tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động 44 2.2.6. Tập trung xây dựng thương hiệu ngân hàng 48 2.2.7. Tăng tốc hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng 50 2.2.8. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực 51 2.2.9. Thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các ngân hàng thương mại trong nước 53 2.3. Thực trạng và quan điểm về việc liên kết của các ngân hàng thương mại Việt Nam 53 2.3.1. Thực trạng về sự liên kết giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua 53 2.3.1.1. Thực trạng liên kết hoạt động của các NHTM Việt Nam 54 2.3.1.2. Thực trạng việc sáp nhập, hợp nhất giữa các NHTM Việt Nam 59 2.3.1.3. Hướng đi mới: hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng 63 2.3.2. Quan điểm về hướng liên kết và khả năng liên kết của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới 71 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 76 CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH LIÊN KẾT VÀ GIẢI PHÁP TĂNG TÍNH KHẢ THI TRONG VIỆC LIÊN KẾT GIỮA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM trang 77 3.1. Mô hình liên kết hoạt động 77 3.1.1. Ưu điểm của mô hình 77 3.1.2. Nhược điểm của mô hình 79 3.1.3. Giải pháp để sự liên kết hoạt động đạt hiệu quả 80 3.2. Sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng 80
  4. 3.2.1. Nguyên nhân khiến hoạt động sáp nhập ngân hàng chưa phổ biến ở Việt Nam 81 3.2.2. Những đề xuất đẩy mạnh việc sáp nhập, hợp nhất giữa các NHTM Việt Nam 82 3.3. Hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng 83 3.3.1. Định hướng và nguyên tắc xây dựng tập đoàn tài chính – ngân hàng Việt Nam 84 3.3.2. Lựa chọn mô hình tập đoàn cho các ngân hàng thương mại Việt Nam 85 3.3.3. Điều kiện hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng 88 3.3.4. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện mô hình tập đoàn 90 3.3.5. Giải pháp hỗ trợ sự phát triển của mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng 98 3.3.5.1. Các giải pháp vĩ mô 99 3.3.5.1.1. Làm rõ và thống nhất nhận thức về sự cần thiết khách quan và yêu cầu thúc đẩy xây dựng một số tập đoàn tài chính – ngân hàng VN 99 3.3.5.1.2. Thúc đẩy tiến độ cổ phần hóa 99 3.3.5.1.3. Nghiên cứu, soạn thảo Luật, văn bản dưới Luật về thành lập tập đoàn TC-NH 100 3.3.5.1.4. Xác định rõ cơ chế giám sát, đối xử của cơ quan quản lý nhà nước đối với các đơn vị thành viên trực thuộc tập đoàn tài chính – ngân hàng 101 3.3.5.1.5. Cần gắn chặt quyền lợi của người lãnh đạo tập đoàn với trách nhiệm trên cơ sở mức độ sở hữu thực tế của họ 102 3.3.5.1.6. Cần tập hợp ý kiến đóng góp của các chuyên gia và xây dựng mô hình thí điểm tập đoàn tài chính – ngân hàng 102 3.3.5.2. Các giải pháp vi mô 103 3.3.5.2.1. Tạo lập một nền tảng tài chính vững mạnh 103 3.3.5.2.2. Cơ cấu lại tổ chức 103 3.3.5.2.3. Tăng cường năng lực hoạt động và năng lực cạnh tranh 104 3.3.5.2.4. Quan tâm hơn đến công tác quản lý rủi ro, giám sát hoạt động tập đoàn 104 3.3.5.2.5. Vấn đề công nghệ thông tin 104 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 105 LỜI KẾT TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ Danh mục bảng STT Tên Trang CHƯƠNG 1 Bảng 1.1 Cơ cấu kinh tế của Việt Nam qua các năm 3 Bảng 1.2 So sánh hệ số tài chính của một số ngân hàng năm 2005 12 Bảng 1.3 10 vụ sáp nhập tài chính-ngân hàng lớn nhất thế giới từ năm 1995 16 5 tập đoàn ngân hàng xuyên quốc gia lớn nhất thế giới xếp hạng Bảng 1.4 20 theo tổng tài sản (năm 2006) Tỷ lệ đóng góp tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của các tập đoàn tài Bảng 1.5 21 chính vào GDP tại một số nước Châu Á CHƯƠNG 2 Bảng 2.1 Dư nợ cho vay của các NHTM NN với các DNNN 37 Bảng 2.2 Hiệu quả cho vay của các NHTM NN Việt Nam 37 Bảng 2.3 Kế hoạch tăng vốn điều lệ năm 2007 của một số NHTMCP VN 41 Bảng 2.4 Vốn điều lệ của các NHTM NN đến cuối năm 2005 42 Vốn chủ sở hữu của một số ngân hàng hàng đầu thế giới Bảng 2.5 42 (năm 2006) Bảng 2.6 Các ngân hàng nước ngoài mua cổ phần các NHTM Việt Nam 43 Bảng 2.7 Một số chỉ tiêu tiền tệ và hoạt động ngân hàng giai đoạn 2006-2010 44 Bảng 2.8 Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam 45 Bảng 2.9 Lợi nhuận trước thuế của một số NHTMCP 47 Bảng 2.10 Một số dự án đồng tài trợ tiêu biểu giữa các ngân hàng Việt Nam 58 Hoạt động chấn chỉnh hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn Bảng 2.11 60 1998-2001 CHƯƠNG 3 Một số tập đoàn tài chính ngân hàng trong khu vực thuộc tốp 2000 Bảng 3.1 83 công ty hàng đầu thế giới năm 2005 Bảng 3.2 Một số dự án trọng điểm của nền kinh tế Việt Nam 84 Bảng 3.3 Các công ty kiểm toán quốc tế lớn đã hoạt động tại Việt Nam 92 Bảng 3.4 Các công ty con của một số NHTM Việt Nam 96 Bảng 3.5 Cơ cấu lao động ở một số ngân hàng trên thế giới năm 2004 98
  6. Danh mục biểu đồ STT Tên Trang CHƯƠNG 2 Tốp 5 ngân hàng thương mại cổ phần về vốn điều lệ (tính đến Biểu đồ 2.1 40 năm 2006) Biểu đồ 2.2 Hệ số an toàn vốn của các NHTM NN Việt Nam 46 Biểu đồ 2.3 Thị phần cung cấp dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam 47 CHƯƠNG 3 Số lượng các công ty kế toán kiểm toán hoạt động tại Việt Nam Biểu đồ 3.1 92 qua các năm Danh mục sơ đồ STT Tên Trang CHƯƠNG 1 Sơ đồ 1.1 Các biểu hiện trong năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại 11 Sơ đồ 1.2 3 giai đoạn của kế hoạch liên kết giữa các tổ chức tài chính 17 Sơ đồ 1.3 Mô hình ngân hàng đa năng (Universal Banking) 21 Sơ đồ 1.4 Mô hình công ty quan hệ mẹ-con (parents-subsidiary relationship) 22 Sơ đồ 1.5 Mô hình công ty mẹ (Holding company) 22 Sơ đồ 1.6 Khái quát mô hình hoạt động của Citigroup 28 CHƯƠNG 2 5 nội dung chủ yếu của chương trình cải cách hệ thống ngân hàng Sơ đồ 2.1 38 Việt Nam trong những năm tới Sơ đồ 2.2 Mạng Banknetvn 54 Sơ đồ 2.3 Liên minh thẻ VCB 55 Sơ đồ 2.4 Mạng liên kết Bankcard-VNBC 55 Sơ đồ 2.5 Mạng liên kết ANZ-Sacombank 55 Sơ đồ 2.6 Mô hình tổ chức tập đoàn tài chính-bảo hiểm Bảo Việt 64
  7. LỜI MỞ ĐẦU # Thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng lần thứ IX về đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, sau gần 12 năm đàm phán, ngày 07/11/2006, Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO. Quá trình mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo các cam kết song phương và đa phương sẽ làm tăng số lượng các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý; gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng. Để khắc phục những khó khăn, yếu kém và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian ngắn nhất, rất nhiều giải pháp đã và đang được nghiên cứu, ứng dụng. Trong số các giải pháp đó, tôi đặc biệt quan tâm đến giải pháp liên kết giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam với nhau. Nhớ đến “câu chuyện bó đũa” khi xưa, bẻ từng chiếc thì rất dễ dàng, nhưng thật khó khăn nếu muốn bẻ gãy cả một bó đũa cùng một lúc. Đoàn kết luôn tạo nên một sức mạnh mà khó có đối thủ nào có thể dễ dàng vượt qua. Thay vì từng ngân hàng thương mại Việt Nam phát triển đơn độc, nhỏ lẻ, thiết nghĩ “liên kết các ngân hàng thương mại Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập” là một trong những xu hướng cần quan tâm. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài này để thực hiện luận văn của mình. Mục tiêu nghiên cứu: Với thực trạng của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị hội nhập đầy đủ trên lĩnh vực tài chính – ngân hàng, kết hợp với những kinh nghiệm của các quốc gia tiên phong, luận văn sẽ đề ra những hướng liên kết khả thi cho các NHTM Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trước sự tấn công mạnh mẽ từ các ngân hàng nước ngoài. Các hướng liên kết chủ yếu bao gồm: liên kết về hoạt động, sáp nhập - hợp nhất các ngân hàng, và thành lập các tập đoàn tài chính - ngân hàng vững mạnh. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh và các mô hình liên kết nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung Phương pháp nghiên cứu:
  8. Phương pháp khảo sát thực tế: thông qua bảng câu hỏi, ghi nhận và tổng hợp quan điểm về thực trạng và xu hướng liên kết của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới Phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu: Ý nghĩa khoa học: luận văn tổng hợp những vấn đề khái quát về tiến trình hội nhập của Việt Nam nói chung và lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng; hệ thống những quan điểm về năng lực cạnh tranh trên các cấp độ và giới thiệu những mô hình liên kết tiêu biểu đang được triển khai áp dụng phổ biến trên thế giới. Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đưa ra những mô hình liên kết có tính khả thi nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTM Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Ở mỗi mô hình, luận văn đều nêu lên thực trạng áp dụng mô hình đó tại Việt Nam, nguyên nhân mô hình chưa được áp dụng phổ biến và đưa ra giải pháp nhằm thực thi mô hình hiệu quả nhất. Những điểm nổi bật của luận văn: Những vấn đề lý luận về hội nhập, về năng lực cạnh tranh, về liên kết được tổng hợp và gắn kết chặt chẽ. Phân tích sâu thực trạng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và thực trạng của việc liên kết giữa các ngân hàng Việt Nam nói riêng. Tiến hành khảo sát thực tế với đối tượng khảo sát là các nhà nghiên cứu về lĩnh vực tài chính - ngân hàng và những nhà quản trị cũng như những cán bộ đang trực tiếp công tác trong ngành ngân hàng. Từ đó, đề ra hướng liên kết cho các NHTM Việt Nam. Đưa ra những thuận lợi, khó khăn và giải pháp cụ thể để có thể áp dụng đối với từng mô hình liên kết. Kết cấu luận văn: Luận văn gồm 3 chương Chương 1: Các vấn đề lý luận chung Chương 2: Thực trạng các NHTM Việt Nam trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh chuẩn bị cho quá trình hội nhập Chương 3: Đề xuất mô hình liên kết và giải pháp tăng tính khả thi trong việc liên kết giữa các NHTM việt Nam. Với mục đích cuối cùng là đề ra giải pháp khả thi nhằm tăng năng lực cạnh tranh cho các NHTM VN, tác giả đã rất nỗ lực đưa ra nhiều giải pháp cho việc liên kết. Tuy nhiên, đây là một vấn đề khá rộng và mới mẻ, hơn nữa luận văn có phạm vi hạn hẹp nên một số nội dung có thể chưa được giải quyết triệt để. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô.
  9. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập CHƯƠNG 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1.1. Xu thế hội nhập 1.1.1. Tính tất yếu của việc hội nhập kinh tế quốc tế Từ nửa cuối thế kỷ XX, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế mạnh mẽ. Khi hội nhập kinh tế, mỗi quốc gia vẫn tồn tại với tư cách là quốc gia độc lập, tự chủ, tự nguyện lựa chọn các lĩnh vực và tổ chức thích hợp để hội nhập. Tuy nhiên, khi đã gia nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, khu vực hóa thì các quốc gia phải tuân thủ các nguyên tắc chung, phải thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của một thành viên, phải điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp với luật chơi chung. Hội nghị lần thứ 29 của Diễn đàn kinh tế Thế giới tại Davos (Thụy Sỹ) diễn ra từ 28/01 đến 02/02/1999 đã khẳng định, toàn cầu hóa không chỉ là xu thế tất yếu, nó đã trở thành một thực tế. Xu thế này cuốn hút tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt nước giàu - nước nghèo, nước lớn - nước nhỏ, nước đã phát triển - nước đang phát triển. Có thể thấy, động lực của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã được Karl Marx dự báo từ giữa thế kỷ 19 trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, mặc dù khi ấy khái niệm “toàn cầu hóa” vẫn chưa xuất hiện: “ Thay cho những nhu cầu cũ được thỏa mãn bằng những sản phẩm trong nước thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thỏa mãn bằng những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về. Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế ” (Marx – Engels, tuyển tập, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội 1980, trang 545-546). Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, việc lựa chọn con đường hội nhập kinh tế quốc tế là quyết tâm của Đảng và Chính phủ. Trong giai đoạn hiện nay, tại Việt Nam, có lẽ “hội nhập” và “tham gia vào quá trình toàn cầu hóa” là những cụm từ được các phương tiện thông tin đại chúng sử dụng phổ biến nhất. Đó cũng là điều dễ hiểu bởi thực tế đã chứng minh sự hội nhập mạnh mẽ của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới trong khoảng một thập niên trở lại đây. Đặc biệt, trong năm 2006 vừa qua, “Việt Nam” thực sự là một cái tên được báo chí thế giới ưu ái, nhắc đến một cách trân trọng trang 1
  10. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập với vai trò là quốc gia chủ nhà, tổ chức thành công Hội nghị APEC và với việc Việt Nam chính thức được gia nhập vào tổ chức thương mại Quốc tế WTO. Việt Nam đã nổi lên như một ví dụ điển hình của thế giới về những bước đi mạnh mẽ, vững chắc và sự khẳng định uy tín trên trường quốc tế. Để có được những kết quả khả quan như vậy, Việt Nam đã có những bước chuẩn bị rất kỹ lưỡng, nhất là trong việc quán triệt tư tưởng “hội nhập kinh tế quốc tế” là một xu thế tất yếu trong giai đoạn hiện nay của nền kinh tế thế giới. Đã là tất yếu, đã là một xu hướng không thể tránh khỏi thì Việt Nam cần chủ động hòa mình vào dòng chảy này. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu vì những lý do và những biểu hiện cụ thể sau: Thứ nhất, không một quốc gia nào có thể tồn tại, phát triển một cách vững chắc nếu không có những mối quan hệ gắn bó với các quốc gia khác trong và ngoài khu vực, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Đã qua rồi thời kỳ tự cung tự cấp, ngăn sông cấm chợ, bế quan tỏa cảng. Hiện nay, các quốc gia đều tập trung vào việc chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà quốc gia mình có lợi thế, sau đó tiến hành hoạt động giao thương để tất cả các bên cùng có lợi. Thậm chí, mỗi sản phẩm với những bộ phận, phụ tùng khác nhau có thể là sự hợp tác của rất nhiều quốc gia. Thứ hai, xu thế đối đầu giữa các quốc gia giảm dần, thay vào đó là sự đối thoại hòa bình, hợp tác, với sự can thiệp và hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Tất nhiên, điều đó không phải là hoàn toàn tuyệt đối bởi vẫn còn những cuộc chiến tranh, những vụ xung đột vũ trang, tình trạng cấm vận kinh tế tại một số quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Nhưng điều quan trọng là các quốc gia đều nhận thấy rằng sự đối đầu, sự cô lập các nước khác là không có lợi đối với tất cả các bên liên quan. Ví dụ như trường hợp của Mỹ trong cuộc chiến với Iraq. Mỹ là nước có ưu thế hơn, nhưng quốc gia này cũng phải gánh chịu nhiều tổn thất về người, về của và cả sự sút giảm về uy tín trên trường quốc tế. Tiến hành chính sách cấm vận đối với Cuba, Mỹ cũng phải đón nhận không ít sự phản đối từ chính các doanh nghiệp trong nước. Rõ ràng, cả thế giới đều ủng hộ sự hòa bình về chính trị và sự hợp tác, liên kết về kinh tế giữa các quốc gia. Thứ ba, nhu cầu của con người ngày càng tăng dần theo sự phát triển của nền kinh tế. Mỗi cá nhân đều có nhu cầu học hỏi, du lịch, chữa bệnh, khám phá tìm hiểu những vùng đất mình chưa biết đến. Do đó, sự gắn bó, hợp tác giữa Chính phủ các quốc gia sẽ là một điều kiện tiền đề thuận lợi để thỏa mãn những nhu cầu rất thiết yếu này. Thứ tư, sự ra đời của các tổ chức, hiệp hội mang tính khu vực và quốc tế ngày càng nhiều. Có thể nói, không một quốc gia nào hiện nay không phải là thành viên của một tổ trang 2
  11. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập chức kinh tế - chính trị khu vực và quốc tế nào đó. Thông thường, mỗi quốc gia là thành viên của nhiều tổ chức khác nhau (ví dụ như, Việt Nam là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, WTO, UN ). Mỗi tổ chức sẽ có những tiêu chí và những mục đích hoạt động riêng, nhưng tựu trung lại là bảo vệ quyền lợi của các quốc gia thành viên trong những lĩnh vực liên quan. Chính vì vậy, việc nỗ lực đáp ứng những yêu cầu để có thể trở thành thành viên của những tổ chức khu vực và quốc tế luôn được các quốc gia ưu tiên chú trọng. Và cuối cùng, vấn đề mấu chốt chính là lợi ích của việc hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi lẽ, chính các quốc gia sẽ nhận thức được những lợi ích mà họ nhận được từ quá trình hội nhập lớn hơn nhiều so với những thách thức mà họ phải đối đầu. Vấn đề gì cũng có hai mặt, và việc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu cũng thế. Không nên vì những khó khăn trước mắt mà các quốc gia bỏ qua những cơ hội thuận lợi sau này. Phân tích, nhận định và quyết định hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là quyết định khá kỹ càng và sáng suốt của các quốc gia. 1.1.2. Thời cơ và thách thức của hội nhập đối với các nền kinh tế đang phát triển Việc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế, chủ động hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là một trong những xu hướng tất yếu. Tuy vậy, những quyết định hội nhập vẫn là rất khó khăn đối với các nước đang phát triển, bởi lẽ các nước này phải cân nhắc rất nhiều giữa những thuận lợi, thời cơ mà mình nhận được với những thử thách, những rủi ro tiềm ẩn bên trong xuất phát từ vị thế của những nước đi sau. Nhìn chung, khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, các quốc gia đang phát triển có thể tận dụng những cơ hội sau: 9 Tham gia vào quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất, hòa nhập với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới. Trước đây, nền kinh tế các nước đang phát triển thu nhập từ nông nghiệp và công nghiệp là chủ yếu. Trong thời gian gần đây, cơ cấu này đã có sự thay đổi đáng kể với sự bứt phá mạnh mẽ của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Bảng 1.1: Cơ cấu kinh tế của Việt Nam qua các năm Đơn vị tính: % Năm 1990 1995 1997 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 GDP 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Nông - lâm - thủy sản 38,74 27,18 25,77 24,53 23,24 23,03 22,54 21,8 21,02 20,40 Công nghiệp và xây dựng 22,67 28,76 32,08 36,73 38,13 38,49 39,47 40,2 40,97 41,52 Dịch vụ 38,59 44,06 42,15 38,73 38,63 38,48 37,99 38,0 38,01 38,08 Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê trang 3
  12. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Hơn thế, nội bộ từng ngành cũng có những thay đổi đáng kể. Trong công nghiệp, có sự chuyển dịch từ loại hình cơ cấu tiêu hao nhiều năng lượng, lao động, tài nguyên sang loại hình cơ cấu có hàm lượng khoa học, tri thức và công nghệ cao. Ngành dịch vụ cũng ngày càng mở rộng về số lượng, quy mô, tốc độ, trở thành ngành có số người làm việc và giá trị sản xuất ngày càng lớn. Đến giai đoạn 2020, theo dự báo của WB, OECD, khoảng 80 - 85% lao động sẽ làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ, hoạt động trí tuệ có liên quan đến xử lý thông tin, tri thức. Đây là tiền đề rất quan trọng cho sự phát triển mới, hiện đại của con người. 9 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra khả năng phát triển cao, rút ngắn và đem lại những nguồn lực rất quan trọng và cần thiết cho các nước đang phát triển và chuyển đổi. Những nguồn lực này bao gồm nguồn vốn tư bản hữu hình và nguồn tri thức kinh nghiệm, cả về chiến lược dài hạn và tổ chức tiến hành trên tầm vĩ mô quốc gia cũng như tầm vi mô các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, các nước đang phát triển sẽ được chuyển giao trên quy mô lớn những thành quả mới mẻ, những đột phá sáng tạo về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất và kinh doanh. Xuất khẩu và chuyển nhượng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ của các nước phát triển cho các nước đang phát triển đã tăng từ 10% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1980 lên 17% năm 1989; khoảng trên 20% vào năm 2002. Việc chuyển nhượng này diễn ra nhiều nhất trong lĩnh vực sản xuất ô tô, xe máy, hoá chất và sản phẩm phi kim loại. Thông qua nhập khẩu kỹ thuật, Trung Quốc và Ấn Độ đã đạt nhiều thành tựu lớn trong công nghiệp sinh học, chế tạo ô tô, máy bay và thiết bị hàng không vũ trụ, phát triển phần mềm. 9 Hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy cải cách sâu rộng nền kinh tế của mỗi quốc gia để bắt kịp và nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tăng sự hỗ trợ tài chính, tín dụng cho phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Dòng vốn FDI vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn 2005 - 2008 được dự đoán sẽ vẫn tiếp tục gia tăng mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, môi trường chính sách đang ngày càng được cải thiện cùng với những cam kết chiến lược của các công ty đa quốc gia đối với khu vực là những nhân tố thúc đẩy dòng vốn FDI chảy vào khu vực này trong những năm tới. Trong số các nước châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ được coi là những địa điểm đầu tư hấp dẫn nhất, tiếp theo sau là Thái Lan, trang 4
  13. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Việt Nam và Singapore. Riêng đối với Việt Nam, năm 2006, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo dự án đạt 10,2 tỷ USD, tăng 52% so với năm 2005, đạt mức cao nhất kể từ năm 1987 khi Việt Nam công bố Luật Đầu tư nước ngoài. Đồng thời, tổng vốn đầu tư thực tế của nước ngoài vào Việt Nam năm 2006 cũng lập kỷ lục mới, đạt 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm 2005. 9 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thế và lực cho nền kinh tế các nước đang phát triển trên trường quốc tế. Từ việc có một vị thế bình đẳng với các nước phát triển, các nước đang phát triển có thể đóng góp tiếng nói xây dựng luật chơi chung, hưởng quyền lợi với tư cách quốc gia thành viên và được xử lý theo nguyên tắc không phân biệt đối xử khi có các tranh chấp thương mại. Hàng hóa và dịch vụ của các nước đang phát triển cũng sẽ được đối xử bình đẳng trên thị trường quốc tế. Gia nhập vào WTO, được hưởng các quy chế bình đẳng, công bằng, Việt Nam sẽ không còn phải căng thẳng đối phó với những vụ kiện bán phá giá tôm, cá basa, như trong giai đoạn vừa qua. Tuy vậy, các quốc gia đang phát triển cũng không thể coi thường những tác động tiêu cực, những thách thức của việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tiêu biểu là: 9 Quá trình hội nhập đòi hỏi các quốc gia phải phá bỏ hàng rào bảo hộ quốc gia, gỡ bỏ các biện pháp thuế quan và phi thuế quan cũng như các rào cản về thể chế. Chính vì vậy, các nền kinh tế kém phát triển hơn sẽ phải đối đầu với sức ép nặng nề hơn của các dòng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài tràn vào. Với các hiệp định của WTO, Việt Nam cam kết thực hiện các hiệp định cơ bản, trong đó có những hiệp định quan trọng về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia các hiệp định cắt giảm thuế quan theo ngành như Hiệp định Công nghệ thông tin, Hiệp định Hoá chất, Hiệp định Hàng không dân dụng và một số hiệp định khác. Về các cam kết cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan, Việt Nam cam kết cắt giảm mức trần đối với 10.689 dòng thuế trong toàn bộ biểu thuế. 9 Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nước đang phát triển với các nước đã phát triển ngày càng sâu sắc. Nói cách khác, các nước giàu ngày càng giàu thêm, và các nước nghèo ngày càng nghèo đi một cách tương đối. Một báo cáo gần đây của UNDP khẳng định “các thế lực chi phối quá trình toàn cầu hóa đã mang lại sự giàu có vô độ cho những người biết tận dụng lợi thế của các luồng hàng hóa, dịch vụ đang tràn qua các đường biên giới quốc gia”, trong khi đa số dân chúng bị đẩy ra ngoài xã hội. Trong số hơn 6 tỷ dân hiện nay của thế giới, 3 tỷ người sống dưới mức 2 USD/ngày, trang 5
  14. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập 1,3 tỷ người dưới mức 1 USD/ngày. Các nước công nghiệp phát triển hiện đang chiếm 86% GDP toàn cầu, trong khi các nước nghèo nhất thế giới (chiếm 1/5 dân số thế giới) chỉ tạo ra 1% GDP toàn thế giới. 9 Việc hội nhập, tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa còn làm cho đời sống của con người trở nên kém an toàn hơn, từ kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội, môi trường đến chính trị; từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn quốc gia và an toàn của hệ thống tài chính toàn cầu. Bởi lẽ, hiệu ứng lan truyền rất mạnh mẽ thường xuyên xảy ra, sự bất ổn ở một nơi đều có những ảnh hưởng tiêu cực đến những nơi khác. Hơn nữa, khi các nền kinh tế lệ thuộc chặt vào nhau, chúng sẽ trở nên nhạy cảm và dễ tổn thương, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi có nhiều bất cập với tiến trình phát triển chung của thế giới. Điều đó đặc biệt nghiêm trọng trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á vào năm 1997. Xuất phát điểm của cuộc khủng hoảng này là ở Thái Lan, sau đó lan dần sang Philippines, Indonesia, Malaysia và các nước Đông Á đã gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nghiêm trọng, ảnh hưởng đến cả nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, không một quốc gia nào có thể nằm ngoài dòng chảy hội nhập mạnh mẽ này. Các vấn đề toàn cầu sẽ trở thành mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Quyền lợi và trách nhiệm của các bên sẽ được sẻ chia. Tất nhiên, với vị thế và quyền lực của mình, các nước phát triển có điều kiện thụ hưởng và thể hiện trách nhiệm đầy đủ hơn. Tuy vậy, các nước đang phát triển cũng không nên vì thế mà quay lưng với tiến trình toàn cầu hóa. Joseph Stiglits – nhà kinh tế hàng đầu của WB cho rằng, toàn cầu hóa có thể xem như một con sóng cả có khả năng lật các “con thuyền” quốc gia hoặc đẩy các quốc gia lên đầu con sóng. Một thực tế khách quan không thể phủ nhận là, sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội với sự tôn vinh con người là nguồn lực chính, với mối quan tâm đặc biệt đến môi trường sinh thái, đã nổi bật lên từ thập niên 1980 chính là do tiến trình toàn cầu hóa, khu vực hóa đem lại. 1.1.3. Hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng – cơ hội và thách thức đối với Việt Nam và các nền kinh tế đang phát triển Hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng và những nước đang phát triển nói chung đều tiếp nhận được những thời cơ và đối đầu với không ít thách thức từ việc hội nhập, nhất là hội nhập trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Phân tích cơ hội và thách thức đối với Việt Nam cũng là để chỉ ra những vấn đề chung đối với hệ thống tài chính – ngân hàng của những nước nhỏ, những nước đi sau khi bước vào một sân chơi lớn như WTO. trang 6
  15. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, những cơ hội của việc gia nhập WTO đem lại là rất lớn. Vấn đề là Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNNVN) và các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước cần sẵn sàng đón nhận và biến những cơ hội này thành những kết quả khả quan thực sự trong hoạt động kinh doanh của chính hệ thống ngân hàng. 9 Trước hết, việc hội nhập đòi hỏi Ngân hàng nhà nước Việt Nam phải nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ; đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá dựa trên cơ sở thị trường, tạo lực đẩy cho sự phát triển của thị trường tiền tệ. 9 Hai là, sự tăng cường phối hợp chính sách, trao đổi thông tin và phối hợp hành động giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng trung ương các nước, các tổ chức tài chính đa phương quốc tế sẽ giúp tăng cường sự an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam và tăng khả năng ứng phó với những biến động của thị trường tài chính, tiền tệ trong nước. 9 Ba là, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng quốc tế ngày càng tăng. Do các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường hàng hóa quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài cũng có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường Việt Nam nên các luồng vốn chu chuyển qua hệ thống tài chính-ngân hàng sẽ ngày càng tăng. 9 Bốn là, môi trường kinh doanh của ngân hàng sẽ có mức độ rủi ro thấp hơn, hoạt động của các ngân hàng sẽ an toàn, lành mạnh và hiệu quả hơn do chính các doanh nghiệp Việt Nam, khách hàng chủ yếu của các ngân hàng, buộc phải tự đổi mới, nâng cao năng lực và hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại được trước các đối thủ mạnh từ nước ngoài. 9 Năm là, quá trình hội nhập sẽ tạo ra những ngân hàng có quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả. Khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết, hợp tác với đối tác nước ngoài trong chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và khai thác thị trường. Sự tham gia điều hành, quản trị của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố quan trọng để cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh ở các ngân hàng trong nước. 9 Sáu là, các ngân hàng trong nước có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí trang 7
  16. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập cơ hội. Quan hệ đại lý quốc tế của ngân hàng trong nước có điều kiện phát triển rộng để tạo điều kiện cho các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại phát triển. 9 Hơn thế, hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy các ngân hàng thương mại trong nước tự cải cách, tăng cường năng lực cạnh tranh để tạo thế phát triển bền vững. Tuy vậy, việc tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng luôn đặt các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng vào một mối lo chung, đó là do sự yếu kém của hệ thống ngân hàng trong nước. Gia nhập vào WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những thách thức không nhỏ: 9 Việc mở cửa thị trường tài chính nội địa sẽ làm tăng rủi ro thị trường do các tác động từ bên ngoài, từ thị trường tài chính khu vực và thế giới. Hội nhập với thị trường tài chính thế giới, hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam sẽ cùng nằm trong một guồng máy khổng lồ. Bất cứ biến động nào trên thị trường đầy nhạy cảm này đều có thể gây ra những cú sốc đối với nền tài chính trong nước. Trong khi đó, năng lực điều hành chính sách tiền tệ và năng lực giám sát hoạt động ngân hàng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam vẫn còn hạn chế. 9 Tại những thị trường mới nổi như Việt Nam, những khó khăn của hệ thống ngân hàng liên quan đến vấn đề rủi ro ngoại hối và hậu quả từ sự rút lui ồ ạt của các dòng vốn nước ngoài trở nên ngày càng phổ biến. Việc các dòng vốn đổ vào các thị trường mới nổi trong thời gian gần đây có thể được xem là một sự thành công trong phát triển kinh tế của các nước tiếp nhận vốn. Tuy nhiên, IMF và WB luôn cảnh báo về sự hiện diện của các dòng vốn này, bởi những thay đổi trong lãi suất trên thế giới và các diễn biến bất lợi sẽ gây những ảnh hưởng lớn đến các nước nhập khẩu vốn lớn. Hơn nữa, các nước phát triển ở một trình độ cao, như Mỹ chẳng hạn, đang thông qua IMF và WB, lợi dụng số vốn lưu động của mình, tìm kiếm thị trường đầu tư nhằm chi phối thế giới. Vì vậy, khi mở cửa thị trường tài chính, Việt Nam cần thận trọng, tránh việc lệ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn nước ngoài, nhất là loại vốn đầu tư ngắn hạn. 9 Các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh rất lớn từ phía các ngân hàng nước ngoài. So với các ngân hàng thương mại Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài có năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ, trình độ quản lý cao hơn, hệ thống sản phẩm đa dạng và có chất lượng cao hơn, có thể đáp ứng những nhu cầu đa dạng của khách hàng. Như vậy, muốn tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải nỗ lực rất nhiều để tự nâng cao năng lực cạnh tranh. trang 8
  17. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập 1.2. Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại 1.2.1. Những quan điểm về năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh có thể được xem xét ở các góc độ khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ, Mỗi chủ thể, với từng mục đích khác nhau, sẽ hình thành những quan niệm khá khác biệt về năng lực cạnh tranh. Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh kết hợp cả các doanh nghiệp, ngành và quốc gia là: “khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Về năng lực cạnh tranh quốc gia, Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2002 đã định nghĩa là: “khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay đổi tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian”. Theo quan niệm của Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF), năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào 9 tiêu chí chủ yếu là: thể chế kinh tế, hệ thống cơ sở hạ tầng, năng lực kinh tế vĩ mô, hệ thống giáo dục và y tế phổ thông, trình độ giáo dục đại học, hiệu quả vận hành của cơ chế thị trường, mức độ sẵn sàng về công nghệ, mức độ hài lòng doanh nghiệp và mức độ sáng tạo. Với hệ thống tiêu chí nói trên, năm 2006, Việt Nam được WEF xếp hạng 77/125 quốc gia, tụt 3 bậc so với năm 2005. So sánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam với một số nước trong khối ASEAN mà WEF có xếp hạng cho thấy: Singapore xếp thứ 23, Malaysia xếp thứ 26, Thái Lan hạng 35, Indonesia xếp 50, Philippines xếp thứ 71, Campuchia hạng 103. Như vậy, Việt Nam chỉ được xếp trên Campuchia (trừ Lào, Brunei, Myanmar không được WEF xếp hạng). Ở cấp độ ngành, một ngành có năng lực cạnh tranh nếu có “năng lực duy trì lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước”. Những yếu tố chủ yếu quyết định tới năng lực cạnh tranh của ngành là năng suất lao động, năng lực quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học công nghệ. Tuy nhiên, tất cả các yếu tố này ở Việt Nam đều còn rất yếu. Lấy ngành công nghiệp Việt Nam làm ví dụ, kết quả so sánh với các nước ASEAN cho thấy: 9 Năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn so với các nước ASEAN từ 2-15 lần. 9 Mức tiêu hao năng lượng và nguyên liệu trên 1 đơn vị sản phẩm cao hơn 1,2-1,5 lần trang 9
  18. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập 9 Nhóm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh cao như hàng dệt may, da giày, thiết bị điện thường chủ yếu cạnh tranh ở giá bán thấp hơn sản phẩm nhập khẩu do có ưu thế về tài nguyên tự nhiên và nhân lực, lại có mức bảo hộ cao ở thị trường nội địa. 9 Một số nhóm sản phẩm có thể cạnh tranh trong tương lai nhưng cần được hỗ trợ có thời hạn như giấy, thép, nhựa, công nghệ thông tin. Ở một khía cạnh khác, theo Krugman (1994), cạnh tranh chỉ ít nhiều phù hợp ở cấp độ doanh nghiệp vì ranh giới rất rõ ràng, nếu công ty không bù đắp nổi chi phí thì chắc chắn sẽ phá sản. Trong khi đó, P.Samuelson cho rằng “cạnh tranh là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”. Như vậy, có thể hiểu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao. Năng lực cạnh tranh trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp, một cách riêng biệt mà cần so sánh với các đối thủ cạnh tranh đang hoạt động trên cùng một lĩnh vực, một thị trường. Trên cơ sở các so sánh này, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp phải tạo được lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ của mình. Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Vấn đề là doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Nhìn chung, có thể tổng hợp các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm và bao gói; kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến thương mại; năng lực nghiên cứu và phát triển; thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp; trình độ lao động; thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần; vị thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp. Nếu xét riêng đến từng sản phẩm, có thể hiểu năng lực cạnh tranh của một sản phẩm là sự thể hiện thông qua các lợi thế so sánh đối với các sản phẩm cùng loại. Lợi thế này bao hàm các yếu tố bên trong và bên ngoài tạo nên, như năng lực sản xuất, chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, dung lượng thị trường của sản phẩm, Nếu so sánh với sản phẩm nhập khẩu cùng loại thì yếu tố lợi thế được thể hiện cơ bản qua giá bán sản phẩm, giá trị sử dụng của sản phẩm và không thể không tính đến yếu tố tâm lý tiêu dùng. trang 10
  19. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Tóm lại, năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu thành bởi nhiều yếu tố, chịu sự tác động của cả môi trường vĩ mô và vi mô. Năng lực cạnh tranh không phải là bất biến mà có thể cải thiện được theo chiều hướng tốt hơn hoặc tự động sụt giảm trong mối tương quan so sánh với các nước khác, các doanh nghiệp khác hoặc các sản phẩm khác nếu không có sự đầu tư và quan tâm đúng mức. 1.2.2. Những biểu hiện trong năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Xét riêng trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại được biểu hiện cụ thể qua một số tiêu chí sau: Sơ đồ 1.1: Các biểu hiện trong năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Tiềm lực tài chính mạnh Nguồn nhân lực Khả năng chất lượng cao sinh lời cao NĂNG LỰC CẠNH TRANH Trình độ công nghệ hiện đại Đảm bảo độ an toàn tài chính Có uy tín cao, nắm thị phần lớn Thứ nhất, ngân hàng phải có tiềm lực tài chính mạnh. Tiềm lực tài chính thể hiện ở quy mô vốn của ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn tự có lớn chắc chắn sẽ tạo được một niềm tin nhất định từ công chúng. Hơn nữa, vốn tự có còn là cơ sở nền tảng để ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh khác như huy động tiền gửi và cho vay, vì các hệ số an toàn trong tỷ lệ huy động tiền gửi hay cho vay đều dựa vào yếu tố nguồn vốn tự có. Trong tiêu chí này, rõ ràng các ngân hàng thương mại Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh so với các ngân hàng nước ngoài. Ở Singapore, ngân hàng có vốn cao khoảng 8,5 tỷ USD, ngân hàng có vốn thấp khoảng 400 triệu USD. Trong khi đó, ngân hàng có vốn cao nhất ở Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn với hơn 6.000 tỷ đồng vốn (cuối năm 2005), tương đương chưa đến 400 triệu USD, nghĩa là chưa bằng ngân hàng có vốn thấp nhất của Singapore. Tổng vốn tự có của hệ thống ngân hàng thương mại Việt trang 11
  20. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Nam mới chỉ đạt khoảng trên 2,2 tỷ USD và chỉ tương đương với một ngân hàng trung bình khá trong khu vực. Như vậy, nâng vốn tự có để nâng cao năng lực cạnh tranh là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai, khả năng sinh lời của ngân hàng phải cao. Với mức sinh lời cao, các ngân hàng sẽ chứng minh cho các nhà đầu tư và khách hàng thấy khả năng hoạt động và sử dụng nguồn vốn của mình hiệu quả như thế nào. Rõ ràng, khi so sánh giữa các ngân hàng với nhau trước khi ra quyết định đầu tư, những bên có liên quan không thể không xét đến các hệ số về khả năng sinh lời của ngân hàng. Ngoài các hệ số thường được sử dụng như ROA và ROE, để có cái nhìn toàn diện hơn khi phân tích, hai tỷ lệ cần bổ sung là tỷ lệ lãi biên (NIM1) và tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập từ hoạt động (tỷ lệ thu phi lãi). Ở các hệ thống ngân hàng phát triển, tỷ lệ thứ nhất thường thấp và tỷ lệ thứ hai cao. Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, luận văn sử dụng số liệu năm 2005 của một số ngân hàng, và so sánh với ngân hàng nước ngoài như Ngân hàng UOB của Singapore và bình quân ngành ngân hàng ở các nước phát triển (NPT), cụ thể: Bảng 1.2: So sánh hệ số tài chính của một số ngân hàng năm 2005 Chỉ tiêu Sacombank ACB VCB UOB NPT ROA (%) 1,9 1,5 1,0 1,2 1,4 NIM (%) 3,9 2,8 2,9 2,0 1,8* Tỷ lệ thu phi lãi (%) 25,2 23,5 15,7 37,6 45,0* ROE (%) 20,6 30,0 15,4 12,4 16,8 Nguồn: Báo cáo thường niên của các ngân hàng; Reuter; Hawtrey (* Số liệu năm 2001) Nhìn vào suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) thì có vẻ như các ngân hàng Việt Nam hoạt động tốt hơn UOB và ngân hàng của các nước phát triển. Nguyên nhân là do tỷ lệ lãi biên (NIM) của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với mức bình quân chung. Với mức độ chênh lệch lãi suất cao như vậy, chỉ có nợ xấu nhiều mới có thể làm giảm thu nhập của các ngân hàng. Trái ngược với tỷ lệ lãi biên, tỷ lệ thu nhập phi lãi so với thu nhập từ hoạt động (gồm thu nhập ròng từ lãi, thu nhập ròng từ dịch vụ và chưa kể các chi phí chung) của các ngân hàng Việt Nam còn ở mức rất khiêm tốn so với tỷ lệ gần 50% của các nước phát triển và trên 30% của UOB. 1 NIM = (tổng doanh thu từ lãi - tổng chi phí trả lãi)/tổng tài sản có sinh lời bình quân trang 12
  21. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Nếu tỷ lệ lãi biên của các ngân hàng Việt Nam được kéo xuống ngang bằng mức bình quân chung của thế giới, tức là khoảng 2% hàng năm, thì gánh nặng về lãi cho các doanh nghiệp sẽ giảm được tổng cộng khoảng 1% GDP. Ngược lại, nếu như các ngân hàng Việt Nam tăng được phần thu dịch vụ lên mức 40% so với tổng thu nhập từ hoạt động thì sẽ tạo thêm gần 1% GDP giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Những con số về tốc độ tăng trưởng lợi nhuận mà các ngân hàng công bố năm 2006 vừa qua có vẻ rất cao (ACB đạt gần 70% - số liệu báo cáo tài chính 2006 của ACB. Vấn đề đặt ra là, khi cạnh tranh gay gắt hơn, biên lãi suất được đẩy xuống, và yêu cầu đủ vốn được áp dụng nghiêm ngặt hơn thì chắc chắn ROA và ROE của các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ giảm đáng kể, khó có thể cao đột biến như ở một vài ngân hàng hiện nay. Thứ ba, ngân hàng phải đảm bảo độ an toàn tài chính. Độ an toàn tài chính của một ngân hàng thương mại thể hiện rõ nhất qua hai hệ số: tỷ lệ nợ xấu và tỷ trọng vốn tự có trên tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro. Tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã giảm rõ rệt trong những năm qua. Theo tiêu chuẩn mới của quyết định 4932, tỷ lệ nợ xấu giữa năm 2005 do các ngân hàng thương mại tự xác định là trên 5%, do Ngân hàng Nhà nước phúc tra thì trên mức 7%; đến cuối năm 2005 giảm xuống chỉ còn 3,2%. Kết quả đó là do các tổ chức tín dụng đã sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý. Tuy nhiên, tỷ trọng vốn tự có trên tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro của toàn hệ thống chưa đạt được 8% (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu). Thực tế cho thấy, chính các ngân hàng thương mại cổ phần lại đạt được yêu cầu an toàn vốn tối thiểu 8% trong giai đoạn 2007 - 2008 theo hiệp ước Basel Việt Nam đã ký kết với IMF, trong khi 5 ngân hàng thương mại nhà nước lại cần rất nhiều nỗ lực mới đạt được tỷ lệ này. Sau khi các ngân hàng thương mại nhà nước được NHNN VN cấp bổ sung 12.000 tỷ đồng vốn điều lệ, các ngân hàng này mới đạt được yêu cầu an toàn vốn 4,5%. Các ngân hàng của Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản và Châu Âu đều đã đạt tỷ lệ từ 10 đến 14%. Thứ tư, các ngân hàng phải có uy tín cao và nắm giữ thị phần lớn trên thị trường. Tuy hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện đang giữ vai trò chủ đạo trong việc cung ứng dịch vụ ngân hàng so với các định chế tài chính khác trên thị trường dịch vụ 2 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, ban hành ngày 22/04/2005, về phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro. Đây là một thay đổi về chất, chuyển phân loại nợ từ định tính sang định lượng và tiến gần hơn theo chuẩn mực quốc tế. trang 13
  22. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập ngân hàng, nhưng thị phần huy động vốn và cho vay đang có xu hướng giảm. Hơn nữa, trong một cuộc khảo sát gần đây do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc UNDP phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư cho thấy uy tín của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang có nguy cơ giảm sút nghiêm trọng khi có đến 42% doanh nghiệp, 50% dân chúng được hỏi đều cho rằng họ sẽ lựa chọn vay ở các ngân hàng nước ngoài và 50% doanh nghiệp, 62% dân chúng sẽ lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền khi chúng ta hội nhập đầy đủ với thị trường tài chính trong khu vực và thế giới. Năm là, ngân hàng phải được trang bị trình độ công nghệ hiện đại. Quá trình triển khai thành công Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán – giai đoạn 1 đã giúp các ngân hàng từng bước đưa trình độ công nghệ ngân hàng Việt Nam tương đương các nước tiên tiến trong khu vực. Với quy trình và công nghệ hiện đại, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng tăng, chiếm 77% tổng lưu lượng thanh toán. Ngoài ra, hơn 85% các nghiệp vụ ngân hàng đã được tin học hóa, nhiều nghiệp vụ được xử lý trực tuyến trên mạng. Việc đổi mới công nghệ giúp ngân hàng ngòai việc đưa ra những sản phẩm mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong công tác quản lý và điều hành theo phương pháp hiện đại, đẩy nhanh tần suất kinh doanh trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên, các chỉ số ứng dụng công nghệ của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam còn thua kém khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sáu là, các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. So với các ngân hàng nước ngoài, trình độ cơ bản nguồn nhân lực của các NHTM Việt Nam còn khá thấp, đặc biệt là trong kỹ năng quản lý, điều hành và trình độ quản trị công nghiệp hiện đại. Sự hiện diện của các Trung tâm đào tạo trực thuộc các NHTM NN đã thể hiện rõ kỳ vọng không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực thông qua các hình thức đào tạo trong và ngoài nước, với mục tiêu nâng cao tầm và kỹ năng cán bộ lãnh đạo, xây dựng một đội ngũ cán bộ có kỹ năng sâu về chuyên môn, nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ, có khả năng về quản trị công nghệ hiện đại, có phẩm chất tốt về đạo đức nghề nghiệp nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn và có sức cạnh tranh trên thị trường và có đủ khả năng hội nhập vào hệ thống tài chính khu vực và thế giới. 1.2.3. Hướng chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trên thế giới Các ngân hàng thương mại trên thế giới đã có khá nhiều kinh nghiệm trong việc tìm ra những giải pháp để tăng cường năng lực cạnh tranh của chính ngân hàng. Một số biện pháp chủ yếu sau thường được áp dụng: trang 14
  23. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập 9 Mở rộng hoạt động ngân hàng mang quy mô toàn cầu. Các ngân hàng không chỉ giới hạn phạm vi hoạt động kinh doanh của mình trong lãnh thổ quốc gia mà ngày càng mở rộng quy mô hoạt động trên thị trường khu vực và quốc tế. Điển hình phát triển hoạt động ngân hàng mang quy mô toàn cầu phải nhắc đến là các ngân hàng Mỹ và Nhật Bản. Các ngân hàng này dường như có mặt tại tất cả các châu lục trên thế giới, trở thành những đối thủ đáng gờm không chỉ đối với hệ thống ngân hàng các nước đang phát triển mà ngay cả đối với hệ thống ngân hàng Châu Âu. Sự liên kết giữa các ngân hàng Châu Âu là một nhu cầu bức thiết đang được đặt ra để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng trong nước và khu vực. 9 Đẩy mạnh sử dụng công nghệ ngân hàng và công nghệ thông tin tiên tiến. Có thể nói, việc áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại là một trong những giải pháp thường được các ngân hàng lựa chọn đầu tiên để tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. Từ những công nghệ khá đơn giản bước đầu (như mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng, lắp đặt ATM, máy cà thẻ (cổng POS), tham gia hệ thống chuyển tiền quốc tế SWIFT, thanh toán bù trừ điện tử, thanh toán liên ngân hàng, trung tâm giám sát từ xa, ), công nghệ ngân hàng ngày càng được hiện đại hóa. Nhiều dịch vụ ngân hàng điện tử được phát triển như internet banking, mobile banking, phone banking, dịch vụ thẻ và thanh toán điện tử. 9 Liên kết vốn giữa lĩnh vực tài chính và công nghiệp: tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì các tổ chức sản xuất lớn đóng vai trò và chiếm vị trí rất lớn trong nền kinh tế quốc dân. Theo đánh giá của các chuyên gia, hiện nay có đến 40.000 tập đoàn tài chính – công nghiệp tại 150 quốc gia, kiểm soát từ 1/3 đến ½ tổng sản lượng sản xuất công nghiệp, hơn ½ tổng kim ngạch thương mại quốc tế và 4/5 bản quyền công nghệ - kỹ thuật của toàn thế giới. Tại Đức, tập hợp xung quanh DEUTSCHE Bank là những hãng công nghiệp nổi tiếng như BOSCH, SIEMENS. Các vệ tinh lớn này lại được cấu thành bởi rất nhiều hãng, công ty vừa và nhỏ. Trung bình một tập đoàn hàng đầu thường sở hữu cổ phần chi phối và kiểm soát hoạt động của khoảng 150 công ty con. 9 Sáp nhập các ngân hàng, hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng: Giai đoạn cuối của thế kỷ 20, trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, có thể nói, làn sóng sáp nhập (sáp nhập, mua lại, hợp nhất) doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển trang 15
  24. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập diễn ra mạnh mẽ. Sáp nhập doanh nghiệp, theo phân tích của các chuyên gia kinh tế thì, đó là một trong những giải pháp tổ chức lại các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong ngành ngân hàng, thời gian qua đã chứng kiến rất nhiều vụ sáp nhập của các ngân hàng trên thế giới. Bảng 1.3: Mười vụ sáp nhập tài chính – ngân hàng lớn nhất thế giới từ năm 1995 Giá trị hợp đồng Đối tượng sáp nhập Chủ thể sáp nhập Năm sáp nhập (tỷ USD) UFJ Holdings Mitsubishi Tokyo Financial Group 2005 59,1 Bank One JP Morgan Chase 2004 56,9 Fleet Boston Financial Bank of America 2003 47,7 Bank America Natios Bank 1998 43,1 Citicorp Travelers Group 1998 36,3 MBNA Bank of America 2005 35,2 NatWest Royal Bank of Scotland 1999 32,4 Wells Fargo Norwest 1998 31,7 JP Morgan Chase Manhattan 2000 29,5 Sakura Bank Sumotomo Bank 2000 25,8 Nguồn: The economist, May 20th 2006 – A survey of International Banking – P.4 Qua kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trên thế giới, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau: Thứ nhất, việc bị các ngân hàng nước ngoài cạnh tranh, giành mất thị phần không chỉ là nguy cơ riêng cho hệ thống ngân hàng các nước kém phát triển mà còn là nguy cơ chung cho hệ thống ngân hàng của tất cả các quốc gia trên thế giới. Thứ hai, có nhiều giải pháp được lựa chọn, ngoài việc bản thân các ngân hàng tự tăng cường năng lực cho bản thân, mở rộng phạm vi hoạt động trên thị trường quốc tế, tăng cường áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ thì việc liên kết với ngành khác, và liên kết giữa các ngân hàng với nhau là một giải pháp hiệu quả mà các ngân hàng đều hướng đến. Trong phần tiếp theo, luận văn sẽ nghiên cứu về một trong những xu hướng trên, đó chính là việc liên kết giữa các ngân hàng thương mại. trang 16
  25. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập 1.3. Sự liên kết giữa các ngân hàng thương mại 1.3.1. Xu hướng tất yếu của việc liên kết Trong hoạt động kinh doanh, liên kết là một yêu cầu tự nhiên để tăng năng suất lao động của mỗi doanh nghiệp. Ngày nay, trong xu thế hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, để có thể tồn tại và cạnh tranh với những đối thủ khổng lồ thì việc liên kết với nhau để khắc phục yếu kém, tăng năng lực cạnh tranh lại càng trở thành một vấn đề cấp bách. Việc liên kết không chỉ giúp doanh nghiệp giảm giá thành, tăng chất lượng hàng hóa, còn có thể giúp doanh nghiệp nhận những đơn hàng lớn mà mỗi doanh nghiệp không thể đáp ứng, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp trong tương lai. Chính trong tình hình này, vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, hội ngành nghề càng cần được khẳng định và phát huy. Có rất nhiều phương thức liên kết: giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau, giữa doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể liên kết để hỗ trợ trong từng khâu của quá trình kinh doanh, cũng có thể liên kết để tăng quy mô doanh nghiệp, hình thành những tập đoàn kinh tế lớn. Sơ đồ 1.2:Ba giai đoạn của kế hoạch liên kết giữa các tổ chức tài chính Giai đoạn 1: 9 Xác định mục tiêu hoạt động Xác định mục 9 Lựa chọn phương hướng cơ bản của chiến lược hoạt động tiêu liên kết 9 Xác định cơ cấu - vị thế trong tương lai của tổ chức mới 9 Xác định nguyên tắc điều hành nhân lực 9 Hình thành - phân tích kịch bản liên kết phù hợp với cơ cấu Giai đoạn 2: tổ chức, đặc điểm của từng ngân hàng Xây dựng cụ 9 Làm sáng tỏ lợi ích của việc liên kết (tài chính, nghiệp vụ, thể chương nhân lực, cơ cấu tổ chức, hệ thống thông tin) trình liên kết 9 Xác định mô hình tổ chức mới sau khi liên kết 9 Xây dựng kịch bản tối ưu hóa hệ thống dữ liệu, thông tin 9 Đưa ra lộ trình thực hiện nhiệm vụ, giải pháp đã đặt ra Giai đoạn 3: 9 Xử lý vấn đề nhân sự Thực hiện quá 9 Giải quyết vấn đề tài chính, cơ cấu tổ chức, vị thế pháp lý, trình liên kết hệ thống thông tin, kiểm soát trang 17
  26. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Đối với các ngân hàng thương mại, trong công cuộc hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay, việc liên kết thực sự trở thành một xu hướng tất yếu, có nghĩa là việc cạnh tranh và hợp tác sẽ đan xen với nhau. Vấn đề ở chỗ, tùy vào quy mô của mỗi ngân hàng, tùy vào chiến lược hoạt động và định hướng của ngân hàng trong tương lai, mỗi ngân hàng sẽ tự đề ra cho mình một hướng liên kết phù hợp: chỉ là liên kết trong từng mảng nghiệp vụ hoạt động, hay sáp nhập giữa các ngân hàng với nhau, hay là hình thành những tập đoàn tài chính – ngân hàng hùng mạnh khi liên kết với nhiều định chế tài chính khác. 1.3.2. Những hình thức liên kết trong hoạt động ngân hàng trên thế giới Xu hướng liên kết trong hoạt động ngân hàng trên thế giới thường được thực hiện chủ yếu dưới các hình thức sau: 9 Liên kết hoạt động giữa các ngân hàng Các ngân hàng có thể liên kết với nhau trong một số hoạt động cụ thể nhằm những ích lợi nhất định. Ví dụ như, trong dịch vụ thẻ thanh toán, thay vì thẻ của ngân hàng nào chỉ có thể sử dụng tại máy của ngân hàng đó thì các ngân hàng có thể liên kết với nhau thành những liên minh thẻ, hoặc cùng tham gia vào một hiệp hội thẻ quốc gia. Như vậy, chi phí đối với từng ngân hàng sẽ được giảm thiểu; tiện ích khách hàng được hưởng sẽ tăng lên rất nhiều vì chỉ cần sở hữu một thẻ thanh toán là có thể sử dụng được tại bất kỳ máy ATM hoặc điểm chấp nhận thẻ nào trên toàn lãnh thổ. Hơn thế, việc liên kết này sẽ đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của nền kinh tế. 9 Sáp nhập - hợp nhất (Consolidation) Sự tăng trưởng nhanh của các Ngân hàng thương mại và quá trình tự động hóa trong bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ đòi hỏi các ngân hàng phải duy trì ở quy mô lớn nhằm giảm thiểu chi phí. Sự sáp nhập, hợp nhất giữa các ngân hàng đã vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia và mở rộng ra toàn cầu. Sáp nhập ngân hàng có thể hiểu là một hoặc một số ngân hàng (ngân hàng bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một ngân hàng khác (ngân hàng nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang ngân hàng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của ngân hàng bị sáp nhập. Và, hợp nhất ngân hàng có thể hiểu là hai hoặc một số ngân hàng (ngân hàng bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một ngân hàng mới (ngân hàng hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang ngân hàng hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các ngân hàng bị hợp nhất. trang 18
  27. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Các ngân hàng thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất với nhau do nhiều nguyên nhân. Sự phát triển của hệ thống công nghệ thông tin, sự cắt giảm những quy định của Chính phủ, xu hướng toàn cầu hóa kinh tế thế giới nói chung và áp lực của các cổ đông tăng lợi nhuận đầu tư là những động cơ chủ yếu khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất giữa các ngân hàng (theo điều tra về ngành ngân hàng ở những nước G10). Khủng hoảng ngành ngân hàng và tư nhân hóa các ngân hàng quốc doanh cũng là nguyên nhân của việc sáp nhập, hợp nhất ngân hàng (nghiên cứu của BIS và IMF năm 2001). Tại Nhật, FUJI Bank, Dai-ichi Kangyo Bank và Industrial Bank of Japan hợp nhất thành tập đoàn tài chính MIZUHO FINANCIAL GROUP (tháng 9/2000). Sự kết hợp giữa SAKURA Bank và SUMITOMO Bank hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng SUMITOMO MITSUI BANKING CORP. Chính sự ra đời của những tập đoàn tài chính – ngân hàng này đã tạo nên một vị thế mới cho các ngân hàng Nhật Bản, đưa họ trở thành đối trọng của các ngân hàng Mỹ trong cuộc đua tranh giành thị phần hoạt động. Tại Mỹ, 10 ngân hàng thương mại lớn nhất kiểm soát 49% tổng giá trị tài sản ngành ngân hàng trong nước, so với mức 29% cách đây 10 năm. Sự sáp nhập giữa CHASE MANHATTAN Corp. và JP MORGAN thành ngân hàng mới JP MORGAN CHASE đã đưa ngân hàng này trở thành một trong những ngân hàng hàng đầu nước Mỹ nói riêng và thế giới nói chung. Tại Châu Âu, sáp nhập ngân hàng nhằm mục đích chủ yếu là cạnh tranh với các ngân hàng Mỹ. Theo cơ quan phân tích kinh tế Eurogroup, điểm yếu thứ nhất của các ngân hàng châu Âu là nhỏ lẻ. 10 ngân hàng hàng đầu của Mỹ chiếm gần 70% thị trường vốn ở nước này, trong khi các ngân hàng Châu Âu chỉ chiếm 38% thị phần ở Châu Âu. Các ngân hàng lớn của Châu Âu như BNP Paribas của Pháp, Deutsche Bank của Đức, HSBC của Anh phần lớn tập trung hoạt động chủ yếu tại Tây Âu. Chỉ xét riêng trên lĩnh vực tài sản, các thị trường ngân hàng ở Anh, Hà Lan và một phần thị trường Pháp là những mắt xích yếu, dễ bị 10 ngân hàng hàng đầu của Mỹ tấn công. Hiện nay, các ngân hàng Citigroup, Bank of America và JP Morgan Chase đang là các ngân hàng Mỹ hoạt động tích cực tại thị trường Châu Âu. Trước sự cạnh tranh mạnh mẽ này, các ngân hàng Châu Âu đang xúc tiến hợp nhất thành các tập đoàn ngân hàng xuyên quốc gia để có thể bảo vệ thị trường của họ tại Châu Âu. Quá trình sáp nhập ngân hàng không chỉ diễn ra trong phạm vi một quốc gia mà còn diễn ra giữa nhiều nước, gọi là quá trình quốc tế hóa hoạt động ngân hàng (Internationalisation). Smith và Water (1998) đã ghi nhận sự tăng trưởng trong các giao dịch trang 19
  28. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập mua bán giữa các quốc gia trong những năm 1985-1995, trong đó 15% các giao dịch là những thương vụ ngân hàng của các quốc gia phát triển mua lại các tổ chức tài chính ở các quốc gia mới nổi. Xu thế quốc tế hóa diễn ra ở những thị trường đang phát triển thể hiện ở việc gia tăng về số lượng các ngân hàng nước ngoài tại các quốc gia (theo báo cáo của BIS năm 2001). 9 Hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng Hợp nhất và sáp nhập ngân hàng chính là những bước đi tất yếu trên con đường hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng. Trên thế giới, mô hình “tập đoàn” không phải là mới. Hiện nay có rất nhiều tập đoàn tài chính nổi tiếng có tác động đến nền kinh tế toàn cầu: Citigroup Inc., Deutsche Bank AG, ING – Hà Lan, HSBC Holdings. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, “tập đoàn” thực sự là một mô hình tổ chức hoàn toàn mới mẻ. Khó có thể xác định một định nghĩa thống nhất về tập đoàn tài chính, nhưng về nguyên tắc, tập đoàn tài chính là một tổ chức phải đáp ứng được các yêu cầu sau: (1) bao gồm ít nhất hai mảng hoạt động tài chính quan trọng (ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm); (2) hoạt động kinh doanh chính của tổ chức này là hoạt động tài chính. Tập đoàn tài chính có mô hình kinh doanh khá phức tạp, khác biệt nhiều so với mô hình giản đơn của một ngân hàng thương mại thông thường, và có những nét đặc trưng sau: Hầu hết các tập đoàn tài chính có lịch sử phát triển từ một ngân hàng thương mại hoặc đầu tư hay từ công ty bảo hiểm Sau khi phát triển đến độ cần thiết, các ngân hàng đều vươn ra hoạt động đa năng và hướng ra toàn cầu. Bảng 1.4: 5 tập đoàn ngân hàng xuyên quốc gia lớn nhất thế giới xếp hạng theo tổng tài sản (năm 2006) Số lượng quốc gia TỔNG TÀI STT TÊN NGÂN HÀNG NH đã mở chi SẢN (tỷ USD) nhánh 1 Citigroup (Mỹ) 1.884,32 77 2 HSBC (Anh) 1.860,76 48 3 UBS (Thụy Sĩ) 1.776,89 48 4 ING (Hà Lan) 1.615,05 34 5 Bank of America (Mỹ) 1.459,74 (không có số liệu) Nguồn: World Investment Report (2005), xếp hạng của Forbes (2006) trang 20
  29. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của tập đoàn tài chính chiếm tỷ lệ khá lớn trong GDP. Bảng 1.5: Tỷ lệ đóng góp tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của các tập đoàn tài chính vào GDP tại một số nước Châu Á Nước Trung Quốc Hàn Quốc Malaysia Thái Lan Tổng tài sản (%) 31 26 40 22 Vốn chủ sở hữu (%) 2.1 1.1 2.7 1.5 Nguồn: Tạp chí Ngân hàng Cơ cấu tổ chức phức tạp: Trong một số tập đoàn, các công ty con vẫn giữ nguyên tính độc lập về mặt pháp lý, việc huy động vốn và các hoạt động kinh tế được duy trì bằng hợp đồng kinh tế, các chủ sở hữu của công ty thành viên vẫn có quyền điều hành công ty của mình và vẫn có tư cách pháp nhân riêng. Trong khi đó, một số tập đoàn khác lại tước quyền độc lập của các công ty con, các chủ sở hữu trở thành cổ đông của công ty mẹ. Sản phẩm kinh doanh đa năng trên nhiều lĩnh vực khác nhau: cấp tín dụng, tư vấn, dịch vụ, bảo hiểm, quản lý tài sản, quản lý tài chính, dịch vụ ngân hàng điện tử, Hiện nay, trên thế giới có một số cấu trúc tổ chức tập đoàn tài chính khác nhau: mô hình ngân hàng đa năng, mô hình công ty quan hệ mẹ - con và mô hình công ty mẹ (công ty sở hữu). Sơ đồ 1.3: Mô hình “ngân hàng đa năng” (Universal Banking) Các cổ đông Ngân hàng Kinh doanh Kinh doanh Kinh doanh Ngân hàng Chứng khoán Bảo hiểm trang 21
  30. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Trong mô hình ngân hàng đa năng, các cổ đông điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán). Mô hình tập đoàn theo kiểu ngân hàng đa năng phổ biến nhất ở Châu Âu. Một ngân hàng bao gồm tất cả các hoạt động kinh doanh tài chính của ngân hàng, không có sự phân biệt về quản lý vốn giữa các lĩnh vực. Như vậy, sẽ khó xác định rủi ro của mỗi lĩnh vực, và rủi ro của lĩnh vực này có thể kéo theo rủi ro của những lĩnh vực khác. Sơ đồ 1.4: mô hình công ty quan hệ mẹ - con (parents – subsidiary relationship) Các cổ đông Ngân hàng Công ty chứng khoán Công ty bảo hiểm Mô hình công ty quan hệ mẹ - con có nghĩa là các công ty tài chính khác là công ty con của ngân hàng. Khi đó, các cổ đông điều hành trực tiếp hoạt động ngân hàng và gián tiếp điều hành các công ty chứng khoán và bảo hiểm. Vốn của ngân hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm được quản lý một cách độc lập nhưng rủi ro của các lĩnh vực vẫn có thể gây ra rủi ro dây chuyền. Ở Mỹ, mô hình này chỉ được chấp thuận khi các ngân hàng quốc gia kinh doanh bảo hiểm hay chứng khoán. Mô hình này cũng được cho phép thực hiện ở Nhật. Sơ đồ 1.5: Mô hình công ty mẹ (Holding Company) Các cổ đông Công ty mẹ (Holding Company) Ngân hàng Công ty chứng khoán Công ty Bảo hiểm trang 22
  31. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Trong mô hình này, một công ty mẹ chịu trách nhiệm quản lý các công ty con trên toàn bộ các lĩnh vực tài chính. Các cổ đông gián tiếp điều hành các công ty con (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm). Mỗi lĩnh vực tự quản lý vốn riêng, rủi ro của lĩnh vực này không ảnh hưởng đến lĩnh vực khác. Mô hình này khá phổ biến ở các tập đoàn tài chính quốc tế, nhất là Mỹ và Nhật Bản. 1.3.3. Ưu và nhược điểm của việc liên kết giữa các ngân hàng thương mại Khi các ngân hàng liên kết với nhau, dưới hình thức này hay hình thức khác, chúng sẽ tạo thành một tổ chức mới, một liên minh mới có quy mô lớn hơn và khả năng đa dạng hóa rủi ro tốt hơn. Việc mở cửa biên giới đối với các nguồn vốn, sự thay đổi giới hạn góp vốn, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đã đưa nhiều tổ chức đến quyết định sáp nhập, hợp nhất với nhau, tạo nên những tập đoàn tài chính khổng lồ. Nhìn chung, khi liên kết với đích cuối cùng là hình thành các tập đoàn tài chính, các tổ chức sẽ thấy nhiều lợi điểm: 9 Quy mô nguồn vốn: các tổ chức tài chính sau khi liên kết sẽ có quy mô nguồn vốn lớn hơn rất nhiều, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ chức sau liên kết, vừa đáp ứng được những yêu cầu pháp lý về nguồn vốn tối thiểu (nếu có). Hơn nữa, nguồn vốn nhàn rỗi sẽ được phân bố và sử dụng hiệu quả nhất trong nội bộ tập đoàn, đem đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn cao nhất. 9 Các hệ số tài chính sẽ được cải thiện một cách đáng kể. Việc liên kết sẽ giúp các tổ chức thành viên và tập đoàn cải thiện được ROA và ROE, giảm thiểu chi phí nghiệp vụ liên ngân hàng trong nội bộ tập đoàn, giảm chi phí hành chính, giảm giá thành vốn. Không thể không kể đến việc tiết giảm một cách đáng kể chi phí nhân sự. Nguồn nhân lực được chọn lọc kỹ hơn, với nhiều ưu đãi hơn, nhiều cơ hội thăng tiến hơn sẽ là những điều kiện hấp dẫn trong việc thu hút nhân tài và các nhà quản lý cấp cao. 9 Khả năng quản trị rủi ro được nâng cao bởi lẽ việc liên kết giúp cho cả tập đoàn nói chung và các thành viên nói riêng mở rộng quy mô, lĩnh vực và phạm vi hoạt động. 9 Uy tín và vị thế của tập đoàn và từng thành viên đều gia tăng, giúp tăng cường khả năng huy động thêm các nguồn vốn đầu tư mới. 9 Thương hiệu của tổ chức sẽ ngày càng được phát triển. Thế mạnh thương hiệu sẽ được phát huy một cách xuyên suốt thông qua việc sử dụng thương hiệu của một công ty lớn và có uy tín của tập đoàn cho tất cả các sản phẩm, dịch vụ tài chính của tập đoàn. trang 23
  32. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập 9 Chất lượng phục vụ khách hàng được nâng cao. Bằng việc cung cấp dịch vụ đa dạng thông qua các tổ chức thành viên/chi nhánh tại nước ngoài và việc hợp nhất hóa cơ chế, phương thức phục vụ khách hàng sẽ giúp cho các tập đoàn nâng cao được chất lượng phục vụ đối với cả khách hàng trong nước và khách hàng quốc tế. Tuy vậy, kết quả từ việc liên kết giữa các ngân hàng không chỉ toàn là những cơ hội thuận lợi. Việc tập trung nhiều nguồn vốn nhỏ thành một nguồn vốn lớn cũng đem đến khá nhiều rủi ro và thách thức nếu không có cơ chế và khả năng quản trị tốt. 9 Khi bắt đầu quá trình liên kết, chi phí liên kết sẽ rất cao, đòi hỏi các bên phải dành ra một khoản vốn đáng kể để đầu tư phù hợp. 9 Cùng với sự phát triển về quy mô của tập đoàn, tính linh hoạt và khả năng kiểm soát của các tổ chức thành viên có thể giảm sút. 9 Xét trên khía cạnh cạnh tranh, nếu các ngân hàng có nền tảng khách hàng tương đối giống nhau thì thị phần của chúng rất có khả năng bị thu hẹp vì một phần khách hàng muốn đa dạng hóa rủi ro của mình sẽ tìm đến các ngân hàng khác. 9 Một vấn đề mà các nước Tây Âu đã mắc phải là khả năng thanh tra, giám sát trong phạm vi quốc gia và quốc tế trước những hoạt động tiêu cực như rửa tiền, gian lận tài chính, trốn thuế, của các tập đoàn. Muốn kiểm soát được tất cả các vấn đề cần phải giám sát trên cơ sở thống nhất tổng thể. Như vậy, xu hướng liên kết giữa các định chế tài chính – ngân hàng cũng kéo các cơ quan quản lý nhà nước cùng vào cuộc. 9 Các tập đoàn thường hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, có quy mô hoạt động rộng, vốn lớn nên bất cứ biến động xấu nào trong hoạt động của chúng đều ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Không ít các tập đoàn trên thế giới có khả năng khuấy đảo, thao túng và gây ảnh hưởng đến nền kinh tế không chỉ của một quốc gia. 9 Các vấn đề về kế toán, chuyển đổi tài sản, phân chia lợi nhuận, trách nhiệm giải quyết các khoản nợ chưa thanh toán, giải quyết lao động dư thừa, môi trường văn hóa doanh nghiệp đều là những vấn đề đáng bàn bạc khi đưa ra các quyết định liên kết. 1.3.4. Các mô hình liên kết tiêu biểu và kinh nghiệm trong việc xây dựng mỗi mô hình 1.3.4.1. Liên kết hoạt động giữa các ngân hàng China Union Pay là mạng liên kết thanh toán thẻ của toàn bộ hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc, với hơn 300 triệu thẻ đang lưu hành tại quốc gia này. Đây là công ty chuyên doanh thẻ do các ngân hàng thương mại khác nhau là cổ đông. Phí thu từ dịch vụ thẻ của trang 24
  33. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập khách hàng một phần được trả cho các NHTM phát hành thẻ đó và thanh toán, còn lại trả cho công ty liên doanh thẻ. Mô hình kết nối mạng ATM của Trung Quốc là mô hình liên kết kiểu ngôi sao, nghĩa là bộ chuyển mạch nằm ở mọi điểm. Mô hình này rất thuận lợi ở chỗ, nếu một điểm bị trục trặc do quá tải hay các lỗi kỹ thuật khác, thì mạng tự động chuyển sang điểm kết nối khác. Như vậy, một ngân hàng quá tải sẽ được các ngân hàng khác chia sẻ. Tuy nhiên, thời gian và chi phí triển khai mô hình này là rất lớn. Trung Quốc mất 17 năm triển khai dịch vụ liên kết thẻ như trên, với số vốn đầu tư 22 tỷ USD trong điều kiện dân số 1,3 tỷ người. Kinh nghiệm từ mô hình liên kết của China Union Pay: 9 Thời gian và vốn đầu tư cho sự liên kết là rất lâu và tốn kém. 9 Tuy nhiên, lợi ích đạt được lại rất lớn và lâu dài đối với cả nền kinh tế nói chung: giảm chi phí đầu tư cho từng ngân hàng; tạo sự tiện lợi, thoải mái và an toàn đối với người tiêu dùng và thu hút người dân đến với dịch vụ thẻ, tạo cơ sở cho một hệ thống thanh toán hiện đại. 1.3.4.2. Sáp nhập giữa các ngân hàng Năm 2004, sự kiện Mitsubishi Tokyo Financial Group Inc. và UFJ Holdings Inc. tuyên bố nỗ lực đi đến các thỏa thuận cơ bản để sáp nhập vào năm 2005, trở thành ngân hàng lớn nhất thế giới, vượt qua tập đoàn tài chính khổng lồ Citigroup của Mỹ đã góp phần củng cố hệ thống tài chính Nhật Bản. Theo nhận định của chuyên gia kinh tế cơ quan chứng khoán ING ở Tokyo, vụ sáp nhập này thực sự đem lại nhiều lợi ích cho các bên. 9 Với UFJ, năm 2003, họ đã thua lỗ khoảng 3,7 tỷ USD và dường như ngân hàng lớn thứ 4 Nhật Bản này không có khả năng đáp ứng được mục tiêu theo yêu cầu của Chính phủ là giảm một nửa số cho vay xấu 34,5 tỷ USD vào tháng 3/2005. Như vậy, việc sáp nhập sẽ giảm nguy cơ phá sản của UFJ và khôi phục lòng tin cho người dân. 9 Với Mitsubishi Tokyo, mua được UFJ đồng nghĩa với việc sở hữu một ngân hàng chuyên cấp tín dụng cho tư nhân và công ty nhỏ có trụ sở tại thành phố Nagoya sôi động của Nhật Bản. Hơn thế, đa dạng hóa các nguồn thu sẽ nâng Mitsubishi Tokyo lên một vị thế tốt hơn so với các đối thủ còn lại, chẳng hạn như tập đoàn tài chính Mizuho Financial Group Inc., ngân hàng lớn nhất của Nhật xét về mặt tài sản và Sumitomo Mitsui Financial Group Inc. trang 25
  34. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập 9 Nền kinh tế Nhật có cơ hội phục hồi vì vụ sáp nhập này có thể tạo ra làn sóng sáp nhập cho các ngân hàng trong nước, lan sang các ngân hàng nhỏ và yếu hơn của Nhật Bản, tạo cơ hội cho các quỹ đầu tư nước ngoài, khôi phục niềm tin của công chúng. Tuy nhiên, các nhà kinh tế cũng cho rằng vụ sáp nhập này cũng sẽ phải đối mặt với một số khó khăn, nhất là sự khác biệt về cơ cấu và cách quản lý giữa hai ngân hàng, do Mitsubishi Tokyo có xu hướng truyền thống, bảo thủ trong khi UFJ thì ngược lại. Kinh nghiệm rút ra từ vụ sáp nhập, hợp nhất giữa các ngân hàng trên thế giới 9 Hoạt động sáp nhập, hợp nhất giữa các định chế tài chính có thể xuất phát từ nhiều vị thế khác nhau. Bên thôn tính thường nhắm đến một thị trường rộng lớn và mạng lưới cơ sở khách hàng phong phú hơn. Bên bị thôn tính (bị mua) không thể tự cứu mình trước ngưỡng cửa của sự suy thoái hoặc phá sản, phải bán tài sản để di chuyển hướng hoặc thay đổi nơi đầu tư. Nói chung, hầu hết các cuộc sáp nhập diễn ra khi phải cứu vãn tình thế tài chính hoặc mở đường cho một chiến lược làm ăn lớn hơn. 9 Lợi thế của một cuộc sáp nhập thường nghiêng về phía định chế tài chính nào nắm cổ phần chi phối. Vì thế, các pháp nhân là ngân hàng thương mại nước ngoài ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển không bao giờ chỉ mua cổ phần ở tỷ lệ quá nhỏ để chấp nhận vị thế không có vai trò quan trọng trong Hội đồng quản trị và càng không bao giờ chỉ mua cổ phiếu ưu đãi để đóng vai trò là người đầu tư hưởng lợi tức thuần túy. 9 Sáp nhập không phải lúc nào cũng ưu việt, nhưng nói chung đó là con đường mà các bên phải chọn trong điều kiện phát triển thị trường và nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Bởi lẽ, hầu hết các vụ sáp nhập đều dẫn đến xu hướng giảm chi phí vốn đầu vào và mở rộng thị trường kinh doanh ở đầu ra. 9 Chống lại sự suy thoái hoặc yếu kém của các bên bằng việc tự nguyện tham gia sáp nhập cũng là cách để làm cho quy mô thị trường được mở rộng và mang tính bền vững chung. Các định chế tài chính có thể tự cứu mình bằng những cách này trước khi nhờ đến bàn tay can thiệp của Nhà nước. 1.3.4.3. Hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng Mô hình tập đoàn ngân hàng lớn nhất thế giới, Citigroup, sẽ là một minh chứng cụ thể và thuyết phục nhất cho hiệu quả hoạt động của mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng. Tập đoàn Citigroup của Mỹ là sự hợp nhất của hai tổ chức riêng lẻ, đó là Citicorp và Travelers Insurance. Citicorp là một tập đoàn ngân hàng đa quốc gia, hoạt động ở gần 100 trang 26
  35. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập quốc gia. Travelers là một tổ chức hợp nhất bởi nhiều công ty khác nhau, bắt đầu từ tín dụng thương mại đến hỗ trợ tiêu dùng, môi giới và bảo hiểm. Tập đoàn Citigroup ra đời gắn liền với quá trình hình thành tập đoàn Citicorp. Citicorp là một trong những tập đoàn hàng đầu của Mỹ có trụ sở chính tại New York với công ty mẹ là Citibank. 9 Những năm đầu của thế kỷ 20, ngân hàng đã mở những chi nhánh đầu tiên ở nước ngoài (tại London, năm 1902 và tại Buenos Aires, năm 1914). Ngân hàng đã chuyển hướng mạnh sang hoạt động ngân hàng bán lẻ, phục vụ khách hàng cá nhân và trở thành ngân hàng thương mại đầu tiên cho cá nhân người tiêu dùng vay tiền. 9 Những năm 1920 – 1940, các hoạt động quốc tế của ngân hàng phát triển rất nhanh, đạt 100 văn phòng đại diện và chi nhánh tại nước ngoài. 9 Năm 1955, ngân hàng sáp nhập với First National (New York) để trở thành một tổ hợp ngân hàng lớn với tên gọi First National City Bank. 9 Năm 1968, ngân hàng cải tổ để trở thành một công ty mẹ (Holding Company) và hình thành một tập đoàn ngân hàng lấy tên là First National City Corp (đổi tên là Citicorp vào năm 1974), cung cấp dịch vụ tài chính và ngân hàng bán lẻ là chủ yếu. 9 Năm 1977, Citibank là ngân hàng đầu tiên giới thiệu máy rút tiền tự động (ATM) với hơn 500 chiếc tại New York. 9 Cuối năm 1980, Citibank vượt qua Bank America để trở thành ngân hàng lớn nhất nước Mỹ. 9 Những năm 1980, Citibank đã mua được một số tổ chức tài chính ở San Francisco, Chicago, Miami và Washington DC. 9 1998, sáp nhập với hãng Travelers Group, một công ty kinh doanh thẻ nổi tiếng để trở thành tập đoàn ngân hàng – tài chính hàng đầu thế giới, tập đoàn Citigroup ngày nay. Citigroup Inc. là một công ty mẹ cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng toàn cầu với các hoạt động kinh doanh cung cấp một mạng lưới dịch vụ rộng khắp cho người tiêu dùng và các công ty. Citigroup có hơn 200 triệu tài khoản khách hàng và kinh doanh trên hơn 100 quốc gia. Citigroup được ra đời theo luật công ty mẹ kinh doanh lĩnh vực ngân hàng năm 1956 và chịu sự giám sát của Ban thống đốc Hệ thống dự trữ Liên bang (FRB). Một số chi nhánh của công ty chịu sự giám sát của các chính quyền bang tương ứng. Citigroup có các nhóm hoạt động kinh doanh chính: nhóm tiêu dùng toàn cầu, nhóm quản lý tài sản toàn cầu, nhóm các dịch vụ ngân hàng về đầu tư và cho vay doanh nghiệp, trang 27
  36. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập nhóm mua bán nợ và bất động sản. Trong đó, nhóm tiêu dùng toàn cầu thường chiếm tỷ trọng chi phối và thị trường tại Mỹ chiếm tỷ trọng chủ yếu và lớn nhất. Sơ đồ 1.6: Khái quát mô hình hoạt động của Citigroup Citigroup Trụ sở chính Citigroup Globank Corporate Citigroup Global Wealth and Alternative Consumer Manage - Investment Investment Group ment Banking (Nhóm (Nhóm (Nhóm Group mua bán tiêu dùng quản lý tài (chuyên nợ và bất toàn cầu) sản toàn kinh động sản) cầu) doanh bán buôn) Một số kinh nghiệm rút ra từ mô hình tập đoàn Citigroup Thứ nhất, việc xuất hiện các mô hình tổ chức và vận hành doanh nghiệp là một phạm trù lịch sử, có tính độc lập khách quan. Không thể dùng mệnh lệnh hành chính để chuyển đổi hoạt động của một ngân hàng thương mại, cho dù đó là việc chuyển đổi một ngân hàng thương mại thành một tập đoàn tài chính – ngân hàng. Vì thế, việc hình thành các tập đoàn tài chính một cách nóng vội khi chưa thực sự hội đủ những điều kiện tối cần thiết không những không có hiệu quả mà đôi khi còn gây ra những hậu quả không nhỏ bởi tài chính – ngân hàng luôn là một lĩnh vực nhạy cảm và có ảnh hưởng mạnh đến toàn bộ nền kinh tế. Thứ hai, cần phải có một nền tảng pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động của tập đoàn kinh tế nói chung và tập đoàn tài chính – ngân hàng nói riêng, trong đó cần đặc biệt chú ý đến cơ chế quản lý tài chính và các chuẩn mực kế toán. Thứ ba, cần đảm bảo vai trò chi phối và kiểm soát của công ty mẹ (ngân hàng) đối với các công ty con thông qua mối quan hệ tài chính, không phải là bằng các quyết định hành chính. Công ty mẹ có thể chi phối các công ty con bằng các quan hệ kinh tế (thông qua trang 28
  37. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập tỷ lệ góp vốn), sử dụng thương hiệu hoặc qua việc hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ, thị trường. Hoạt động điều chuyển vốn của các ngân hàng thương mại và công ty bảo hiểm thực chất là điều chuyển vốn huy động chứ không phải vốn điều lệ của công ty mẹ. Thứ tư, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các tập đoàn tài chính – ngân hàng không nên mở rộng hoạt động vào quá nhiều lĩnh vực, chỉ nên tập trung vào một số chuyên ngành có khả năng phát triển nhất, sau khi ổn định sẽ từng bước mở rộng sang các lĩnh vực khác. Như vậy, nguồn vốn tập trung sẽ góp phần tăng sức mạnh tài chính và tạo dựng được thương hiệu ổn định cho tập đoàn. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Hội nhập là một xu hướng tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới trong giai đoạn hiện nay. Hội nhập trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng càng thực sự là một vấn đề đáng quan tâm bởi tính chất nhạy cảm và vai trò quan trọng của lĩnh vực này trong nền kinh tế. Khi hội nhập tài chính, các ngân hàng luôn chú trọng đến những biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của chính các ngân hàng trước sự xâm nhập mạnh mẽ của các ngân hàng nước ngoài. Một trong những giải pháp mà các ngân hàng đã, đang và luôn dành nhiều thời gian và kinh phí là hướng liên kết giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Trên thực tế, có nhiều hình thức và cấp độ liên kết. Ở cấp độ đơn giản, các ngân hàng liên kết với nhau đơn thuần trong từng mảng nghiệp vụ của mình. Ở cấp độ cao hơn, các ngân hàng có thể tiến tới việc sáp nhập, hợp nhất với nhau để hình thành một định chế có quy mô lớn hơn về vốn, rộng hơn về lĩnh vực kinh doanh, và mạnh hơn trong vấn đề khẳng định thương hiệu. Hướng đến một tập đoàn tài chính – ngân hàng khổng lồ sẽ là đích ngắm của rất nhiều ngân hàng trên thế giới. trang 29
  38. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG NỖ LỰC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHUẨN BỊ CHO QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP 2.1. Ngành ngân hàng Việt Nam với WTO 2.1.1.Nghĩa vụ và quyền lợi của ngành ngân hàng sau khi Việt Nam gia nhập WTO Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS), văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên WTO, đã quy định những nghĩa vụ và nguyên tắc hoạt động trong thương mại dịch vụ. Theo đó, khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, ngành ngân hàng sẽ phải tuân thủ những nghĩa vụ quy định trong GATS, cụ thể như sau: 9 Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): Theo nguyên tắc này, Việt Nam có nghĩa vụ đối xử như nhau với tất cả các nước hoặc nếu Việt Nam dành ưu đãi cho một nước thì phải dành ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên (trừ khi Việt Nam có những miễn trừ MFN được nêu trong danh mục cam kết của mình khi gia nhập WTO). Ví dụ, khi Việt Nam dành ưu đãi cho Hoa Kỳ trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng theo Hiệp định thương mại song phương đã ký kết thì Việt Nam cũng phải dành những ưu đãi tương tự trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cho tất cả các nước thành viên còn lại trong WTO. 9 Minh bạch: Việt Nam có nghĩa vụ công bố ngay các biện pháp áp dụng trong tất cả các lĩnh vực cam kết. Ít nhất mỗi năm một lần, các nước thành viên có nghĩa vụ thông báo cho Hội đồng thương mại dịch vụ về việc ban hành hoặc bất kỳ sửa đổi nào trong các luật, quy chế hoặc hướng dẫn hành chính có tác động cơ bản đến thương mại dịch vụ thuộc các cam kết cụ thể theo GATS. Các nước thành viên phải trả lời không chậm trễ tất cả các yêu cầu của bất kỳ một thành viên nào khác về những thông tin cụ thể liên quan đến các biện pháp được áp dụng. Trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước có nghĩa vụ thông báo và cung cấp các thông tin liên quan về các quy định pháp luật ngân hàng hiện hành và việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật ngân hàng. 9 Đãi ngộ quốc gia: Việt Nam có nghĩa vụ đối xử như nhau giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài. Trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, các trang 30
  39. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập tổ chức tín dụng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam sẽ không bị phân biệt đối xử với các tổ chức tín dụng trong nước. Ví dụ như, các ngân hàng thương mại trong nước được phép đặt máy rút tiền tự động (ATM) bên ngoài trụ sở chính thì các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng được phép làm như vậy. 9 Tiếp cận thị trường: Theo nguyên tắc này, Việt Nam phải bỏ dần các biện pháp hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ; về tổng giá trị các giao dịch trong dịch vụ; về tổng số các giao dịch dịch vụ hoặc về tổng số lượng sản phẩm dịch vụ; hạn chế về tổng số nhân viên có thể được tuyển dụng; hạn chế về loại hình pháp nhân hoạt động trong từng lĩnh vực, dịch vụ; hạn chế về tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài. 9 Thanh toán và chuyển tiền: Theo nguyên tắc này, các nước thành viên không được áp dụng các hạn chế đối với chuyển khoản và thanh toán quốc tế trong các giao dịch vãng lai liên quan đến các cam kết cụ thể của GATS. Tuy nhiên, trong trường hợp cán cân thanh toán quốc tế gặp khó khăn thì sẽ áp dụng tạm thời một số hạn chế và sẽ căn cứ vào những điều kiện cụ thể. 9 Quy định về thông lệ kinh doanh, quy định về thừa nhận lẫn nhau, Bên cạnh những nghĩa vụ mà Việt Nam phải thực hiện trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, tất nhiên Việt Nam cũng sẽ được hưởng nhiều quyền lợi xuất phát từ vị thế là quốc gia thành viên của tổ chức WTO: 9 Tham gia WTO, Việt Nam có những quyền lợi xuất phát từ chính những nghĩa vụ mà các nước thành viên WTO phải thực hiện như đã đề cập ở trên. Ví dụ như Việt Nam sẽ được đối xử bình đẳng như các thành viên khác theo nguyên tắc tối huệ quốc, Việt Nam có quyền giám sát việc thực thi các hiệp định WTO của các nước thành viên thông qua việc cập nhật thông tin về hệ thống thương mại của các nước, qua đó xây dựng chiến lược thương mại của chính Việt Nam. Hoặc theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, các ngân hàng Việt Nam hoạt động tại các nước thành viên WTO sẽ được đối xử như các ngân hàng bản xứ tại quốc gia đó. 9 Là thành viên WTO, Việt Nam được tham gia, đóng góp ý kiến trong quá trình soạn thảo hoặc điều chỉnh các nguyên tắc thương mại áp dụng chung cho tất cả các nước. Vì vậy, Việt Nam sẽ giảm thiểu được tình trạng bị phân biệt đối xử trên thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. 9 Có nhiều cơ hội thu hút vốn đầu tư dưới các hình thức khác nhau. trang 31
  40. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập 9 Môi trường kinh doanh của Việt Nam ổn định hơn thông qua mối quan hệ thương mại ràng buộc chặt chẽ và các quy định rõ ràng. Hội nhập thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước vì các doanh nghiệp nói chung, các ngân hàng nói riêng được đặt vào một môi trường kinh doanh cạnh tranh, tiếp cận với công nghệ, trình độ và chất lượng quốc tế. 2.1.2.Lộ trình mở cửa của hệ thống ngân hàng Việt Nam 2.1.2.1. Các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng( trong biểu cam kết dịch vụ) Các cam kết về tiếp cận thị trường: a. Các tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được phép thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức sau: 9 Đối với các ngân hàng thương mại nước ngoài: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài, ngân hàng thương mại liên doanh trong đó tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài không vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh và công ty tài chính 100% vốn nước ngoài. Kể từ ngày 01/04/2007, ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập. 9 Đối với công ty tài chính nước ngoài: văn phòng đại diện, công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài. 9 Đối với các công ty cho thuê tài chính nước ngoài: văn phòng đại diện, công ty cho thuê tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài. b. Trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi bằng VND từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh phù hợp với lộ trình sau: 9 Ngày 01/01/2007: 650% vốn pháp định được cấp 9 Ngày 01/01/2008: 800% vốn pháp định được cấp 9 Ngày 01/01/2009: 900% vốn pháp định được cấp 9 Ngày 01/01/2010: 1000% vốn pháp định được cấp 9 Ngày 01/01/2011: đối xử quốc gia đầy đủ c. Tham gia cổ phần: trang 32
  41. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập 9 Việt Nam có thể hạn chế việc tham gia cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam được cổ phần hóa như mức tham gia cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. 9 Đối với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng số cổ phần được phép nắm giữ bởi các thể nhân và pháp nhân nước ngoài tại mỗi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng, trừ khi luật pháp của Việt Nam có quy định khác hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. d. Một chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài không được phép mở các điểm giao dịch khác ngòai trụ sở chi nhánh của mình. e. Kể từ khi gia nhập, các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối xử quốc gia. Các cam kết về đối xử quốc gia 9 Các điều kiện để thành lập một chi nhánh của một ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam: ngân hàng mẹ có tổng tài sản có trên 20 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. 9 Các điều kiện để thành lập một ngân hàng liên doanh hoặc một ngân hàng 100% vốn nước ngoài: ngân hàng mẹ có tổng tài sản có trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. 9 Các điều kiện để thành lập một công ty tài chính 100% vốn nước ngoài hoặc một công ty tài chính liên doanh, một công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài hoặc công ty cho thuê tài chính liên doanh: tổ chức tín dụng nước ngoài có tổng tài sản có trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. 2.1.2.2. Các cam kết đa phương (thể hiện trong báo cáo gia nhập của Ban công tác) a. Việt Nam sẽ thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với các vấn đề về ngoại hối theo các quy định của hiệp định WTO và các tuyên bố và quyết định liên quan của WTO có liên quan đến IMF. Việt Nam sẽ không áp dụng bất cứ luật, quy định hoặc các biện pháp nào khác, kể cả bất cứ yêu cầu nào liên quan tới các điều khoản hợp đồng, mà có thể hạn chế nguồn cung cấp ngoại tệ cho bất kỳ cá nhân hay doanh nghiệp nào để thực hiện các giao dịch vãng lai quốc tế trong phạm vi lãnh thổ nước mình ở mức liên quan đến nguồn ngoại tệ chuyển vào thuộc cá nhân hay doanh nghiệp đó. trang 33
  42. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập b. Chính phủ Việt Nam dự kiến rằng các quy định cấp phép của Chính phủ trong tương lai đối với các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ mang tính thận trọng và sẽ quy định về các vấn đề như tỷ lệ an toàn vốn, khả năng thanh toán và quản trị doanh nghiệp. Thêm vào đó, các điều kiện đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử. Một ngân hàng thương mại nước ngoài có thể đồng thời có một ngân hàng 100% vốn nước ngoài và các chi nhánh. Một ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam không được coi là một tổ chức hay cá nhân nước ngoài và được hưởng đối xử quốc gia đầy đủ như một ngân hàng thương mại của Việt Nam, về việc thiết lập hiện diện thương mại. c. Việt Nam sẽ tích cực điều chỉnh cơ chế quản lý của Việt Nam đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bao gồm các yêu cầu về vốn tối thiểu phù hợp với thông lệ quốc tế được thừa nhận chung. d. Việt Nam không hạn chế về số lượng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được hưởng đầy đủ đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia về lắp đặt và vận hành các máy ATM. 2.2. Kết quả của những nỗ lực chuẩn bị cho hội nhập của các NHTM Việt Nam Làn sóng của hội nhập đang từng bước tiến đến rất gần các ngân hàng thương mại Việt Nam. Có thể nhận thấy sự chuẩn bị gấp rút, khẩn trương nhưng không kém phần vững chắc của các ngân hàng Việt Nam trước làn sóng này. Từng ngân hàng đang không ngừng nỗ lực trang bị những nền tảng cần thiết nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, trước một cuộc đua quyết liệt mà phần ưu thế có vẻ nghiêng về các đối thủ - các ngân hàng nước ngoài - nhiều hơn. 2.2.1. Vấn đề nhận thức về hội nhập tài chính – ngân hàng Vào WTO là cuộc hội nhập lớn của cả nền kinh tế. Có thể coi năm 2006 là giai đoạn cuối của những công tác chuẩn bị cho hội nhập và hầu như tất cả các NHTM Việt Nam đều nhận thức rõ những thời cơ, thuận lợi cũng như những thách thức, trở ngại của tiến trình hội nhập đối với ngành ngân hàng nói chung và từng ngân hàng nói riêng. Một trong những biểu hiện cụ thể nhất là các ngân hàng Việt Nam đang cố gắng phát huy những mặt mạnh và hạn chế những mặt yếu của bản thân, đồng thời nỗ lực tìm hiểu ưu và nhược của những đối thủ cạnh tranh để có được những bước đi thích hợp. Tự nhận định về bản thân, các ngân hàng trong nước đã phân tích được nhiều điểm yếu: tiềm lực tài chính còn nhỏ bé, kinh nghiệm quản trị chưa cao, khả năng công nghệ còn trang 34
  43. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập yếu, Đây chính là những “gót chân Asin” của hệ thống ngân hàng Việt Nam mà các ngân hàng nước ngoài có thể tập trung khai thác. Với nhận thức như vậy, năm 2006 thực sự là năm các ngân hàng dồn sức khắc phục những điểm yếu. Về cơ bản, nhiều ngân hàng trong nước đã có được sự chủ động cần thiết và đang rất tự tin để nhập cuộc. Tuy vậy, phần lớn các ngân hàng chưa có chiến lược dài hạn mang tính cạnh tranh và khác biệt cao. Mô hình ngân hàng chủ yếu đều định hướng là ngân hàng bán lẻ nhưng thực tế vẫn hoạt động đa năng, thiếu tính chuyên nghiệp cao. Đối tượng khách hàng mà đa số các ngân hàng đang nhắm đến là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân nhưng thực tế vẫn chưa có những hoạt động ưu tiên và mang tính khuyến khích rõ ràng cho các đối tượng này. Hoạt động theo khuôn mẫu cũ và theo trào lưu vẫn là hướng các ngân hàng đang tiến hành. Tình trạng như vậy sẽ rất khó tạo lập năng lực cạnh tranh cao cho các ngân hàng thương mại nội địa trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO. Về phía đối thủ - các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng Việt Nam cần phải nhận diện được đúng thực lực, khả năng, cũng như những chiến lược phát triển đầy tham vọng của họ. Thời gian đầu, các ngân hàng nước ngoài chưa quan tâm nhiều đến hoạt động tín dụng bởi độ rủi ro cao do sự thiếu hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước và sự thiếu minh bạch trong kinh doanh của khu vực doanh nghiệp tư nhân. Có ngân hàng nước ngoài khi huy động được vốn nhiều đã phải cho ngân hàng trong nước vay lại chứ không tìm được địa chỉ để cho vay. Trong khi đó, các ngân hàng nước ngoài lại rất quan tâm đến các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực còn độc quyền cao như viễn thông, hàng không và đặc biệt chú trọng đến dịch vụ bán lẻ. Các dịch vụ bán lẻ có hàm lượng công nghệ cao sẽ được các ngân hàng nước ngoài ưu tiên phát triển như tư vấn tài chính và đầu tư, môi giới tài chính, quản lý danh mục đầu tư, quản lý tài sản. Đây cũng chính là những lĩnh vực mà các ngân hàng trong nước chưa làm được nhiều. Hiện nay, một số ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam như ANZ, HSBC, Citibank đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc đua này. Lĩnh vực thẻ cũng rất thu hút được sự quan tâm của các ngân hàng nước ngoài, theo hướng phát triển dịch vụ gia tăng trên thẻ. Để giảm chi phí đầu tư ban đầu, các ngân hàng nước ngoài sẽ tìm cách khai thác ngay cơ sở hạ tầng hiện có của hệ thống thẻ thanh toán của các ngân hàng Việt Nam bằng các biện pháp liên kết dọc, ngang trên thị trường. Mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng nước ngoài khi vào thị trường Việt Nam là sẽ nhanh chóng mở rộng thị phần. Như vậy, giải pháp tối ưu của họ trong lúc này là tìm mọi cách mua cổ phần của các ngân hàng trong nước, tiến tới khả năng chi phối. Như vậy, họ sẽ trang 35
  44. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập tận dụng và phát triển ngay trên thị phần và cơ sở hạ tầng hiện có của các ngân hàng Việt Nam, thay vì thành lập chi nhánh hay thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài quá tốn kém. Với cách làm này, các ngân hàng nước ngoài đồng thời khắc phục được những nhược điểm của họ như thiếu kinh nghiệm thị trường, khác biệt về văn hóa. Trong tương lai sẽ có nhiều vụ mua bán, sáp nhập ngân hàng, đồng thời sẽ có những cuộc cạnh tranh nhằm thu hút nhân tài từ các ngân hàng trong nước, đặc biệt là từ các ngân hàng quốc doanh. 2.2.2. Cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam Công cuộc cải cách lần thứ nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tính từ thời điểm các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đô thị tiến hành việc tái cơ cấu vào năm 1997, và các ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTM NN) bắt đầu thực hiện tái cơ cấu từ sau khi có quyết định 149 năm 2001 của Chính phủ, đó là việc xử lý nợ xấu và tăng vốn. Cuộc cải cách lần thứ hai của các ngân hàng thương mại Việt Nam được đánh dấu từ mốc hoàn thành việc xử lý nợ xấu, cơ cấu một bước về tổ chức của các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Theo “Đề án phát triển ngành ngân hàng tới năm 2010 và định hướng tới 2020”, trước năm 2008 sẽ phải cổ phần hóa Vietcombank và Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long, đến năm 2010 cổ phần hóa phần lớn các ngân hàng thương mại nhà nước. Riêng ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, do đặc thù hoạt động, sẽ tiến hành cổ phần hóa theo đề án riêng. Tuy nhiên, quá trình cổ phần hóa phải được thực hiện theo nguyên tắc thận trọng, đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội, cho phép nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là ngân hàng có trình độ công nghệ, tiềm lực tài chính, trình độ quản lý mua cổ phần và tham gia quản trị điều hành các ngân hàng trong nước. Đặc biệt, về lâu dài, Nhà nước chỉ cần nắm cổ phần chi phối hoặc tỷ lệ cổ phần lớn tại một số ít NHTM NN mới được cổ phần hóa. Sở dĩ việc thực hiện cổ phần hóa các NHTM NN là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong đề án phát triển ngành ngân hàng vì các ngân hàng này thường có kết quả hoạt động kém và mức độ phát triển chậm. Chính sự khác nhau trong phân bố tín dụng cho nền kinh tế giữa hai loại hình NHTM NN và các NHTMCP là nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém. Các NHTMCP cho vay trên cơ sở thương mại thực sự, cân nhắc hợp lý hơn giữa lợi nhuận và rủi ro khi quyết định cho vay; các NHTM NN lại thực hiện cho vay trên nguyên tắc chính sách, theo mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương hoặc kém tính thương mại hơn. Thực tế cho thấy danh mục cho vay của các NHTM NN tập trung quá nhiều vào các lĩnh vực kinh tế nhiều rủi ro. trang 36
  45. Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập Bảng 2.1: Dư nợ cho vay của các NHTM NN với các Doanh nghiệp nhà nước DNNN (theo các ngành sản xuất) Tổng nợ ngân hàng (tỷ đồng) Ngành mía đường 3.881 Ngành sắt thép 896 Ngành phân bón 858 Ngành xi măng 2.900 Ngành giấy 746 Nguồn: Thời báo kinh tế - Nguyễn Đức (14/05/2003) Hơn thế, vấn đề thông tin trong các NHTM NN thường chậm chạp, không hiệu quả do hệ thống quá rộng lớn và việc thiết lập hệ thống thông tin quản lý còn kém. Chế độ tài chính lại không minh bạch và thường đặt trong chế độ bảo mật cao nên hệ thống thông tin hầu như không được thông suốt. Các vấn đề khác như tham nhũng hoặc tâm lý “DNNN vay NHTM NN thì khoản vay nợ là khoản tiền nhà nước hỗ trợ, nên cứ vay mà không cần nghĩ đến việc trả nợ” cũng góp phần không nhỏ làm giảm hiệu quả hoạt động của các NHTM NN. Hiện nay, cho vay DNNN vẫn chiếm gần 40% trong tổng dư nợ và tiềm ẩn nhiều rủi ro về nợ quá hạn. Trước tình hình như vậy, việc cổ phần hóa các NHTM NN để tăng cường hiệu quả hoạt động của các NH này là một yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Bảng 2.2: Hiệu quả cho vay của các NHTM NN Việt Nam Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng tài sản (tỷ VND) 215.914 238.537 266.501 300.867 337.200 378.953 Tổng dư nợ (tỷ VND) 131.677 152.252 176.942 206.569 239.315 278.189 Tổng nợ khó đòi (tỷ VND) 38.938 41.532 44.645 48.380 52.528 57.582 Tổng nợ khó đòi/Tổng dư nợ (%) 29,57 27,28 25,23 23,42 21,95 20,70 Nguồn: Đoàn Ngọc Phúc, 2006 - Những hạn chế và thách thức của hệ thống NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 337 – tháng 6/2006 Đối với các NHTMCP, trên tinh thần là các ngân hàng sẽ được xếp cùng các NHTM NN đóng vai trò nòng cốt của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhưng bên cạnh đó vẫn khuyến khích sáp nhập, hợp nhất, mua lại để tăng quy mô các ngân hàng thương mại ngang tầm khu trang 37