Luận văn Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Xuyên Mộc

doc 57 trang phuongnguyen 2280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Xuyên Mộc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_van_cong_tac_giai_quyet_khieu_nai_to_cao_tren_dia_ban_h.doc

Nội dung text: Luận văn Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Xuyên Mộc

  1. z Chuyên đề thực tập  Luận văn ĐềĐề tài:tài: CôngCông táctác giảigiải quyếtquyết khiếukhiếu nại,nại, tốtố cáocáo trêntrên địađịa bànbàn huyệnhuyện XuyênXuyên MộcMộc
  2. Chuyên đề thực tập MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 NỘI DUNG 7 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI VÀ DU LỊCH BỀN VỮNG 7 1.1. Du lịch sinh thái 7 1.1.1. Khái niệm về du lịch sinh thái 7 1.1.2. Các đặc trưng của du lịch sinh thái 7 1.1.3. Các yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái 8 1.2. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác 12 1.2.1. Du lịch dựa vào thiên nhiên 12 1.2.2. Du lịch dựa vào văn hóa 12 1.2.3. Du lịch công vụ 13 1.2.4. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và du lịch bền vững 13 1.3. Các điều kiện để phát triển du lịch sinh thái 14 1.3.1. Tài nguyên tự nhiên, văn hoá bản địa phong phú còn tương đối nguyên sơ có tính đặc thù cao của hệ sinh thái 14 1.3.2. Sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư địa phương trong việc phát triển du lịch bền vững 15 1.3.3. Sự cam kết lâu dài và thiết lập hệ thống các nguyên tắc, giá trị đạo đức trong kinh doanh của các chủ thể quản lý Nhà nước và quản trị kinh doanh. 15 1.3.4. Có sự cố vấn giám sát từ các tổ chức môi trường phi chính phủ 16 1.3.5. Nguồn khách du lịch sinh thái có đặc điểm tiêu dùng tương thích với sản phẩm du lịch sinh thái 16
  3. Chuyên đề thực tập 1.4. Phát triển du lịch bền vững 17 1.4.1. Khái niệm phát triển du lịch bền vững 17 1.4.2. Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững 18 1.4.3. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và phát triển du lịch bền vững 20 Chương 2 : THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở CÁT BÀ 21 2.1. Khái quát về Cát Bà 21 2.2. Các điều kiện phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà 22 2.2.1.VỊ trí, địa lý 22 2.2.2. Lịch sử 22 2.2.3. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái 22 2.2.4. Tài nguyên nhân văn 24 2.2.5. Khu dự trữ sinh quyển 26 2.2.6. Điều kiện kinh tế-xã hội 26 2.2.7. Cơ sở vật chất kỹ thuật 27 2.3. Thực trạng phát triển du lịch sinh thái theo quan điểm phát triển du lịch bền vững tại Cát Bà 28 2.3.1. Đóng góp của du lịch vào sự phát triển kinh tế - xã hội 28 2.3.2. Các chủ thể tham gia tạo sản phẩm du lịch sinh thái 29 2.3.3. Thực trạng về các yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch sinh thái 30 2.3.4.Thị trường khách du lịch 36 2.4. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của du lịch sinh thái Cát Bà 36 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TẠI CÁT BÀ 39 3.1. Định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững tại Cát Bà 39
  4. Chuyên đề thực tập 3.2. Các giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững tại Cát Bà 40 3.2.1. Công tác quy hoạch tổng thể 40 3.2.2. Công tác giáo dục và tuyên truyền về du lịch sinh thái 41 3.2.3. Bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái 43 3.2.4. Phát triển cơ sở hạ tầng 49 3.2.5. Đẩy mạnh xúc tiến, quảng cáo du lịch. 50 3.2.6. Huy động vốn đầu tư và chính sách đầu tư 51 3.3. Các kiến nghị 51 3.3.1. Kiến nghị với Tổng cục Du lịch 51 3.3.2. Kiến nghị với bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 52 3.3.3. Uỷ ban nhân dân Huyện Cát Bà 52 3.3.4. Với các nhà đầu tư 52 3.3.5. Với cư dân địa phương 53 KẾT LUẬN 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO 55 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 56 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN 57
  5. Chuyên đề thực tập MỞ ĐẦU Những năm gần đây, đã có nhiều bước phát triển trong lĩnh vực du lịch, du lịch sinh thái và bảo tồn trên thế giới. Quan trọng nhất là việc du lịch sinh thái không chỉ tồn tại như một khái niệm hay một đề tài để suy ngẫm. Ngược lại, nó đã trở thành một thực tế trên toàn cầu. Ở một số quốc gia, nó không được quan tâm phát triển. Song ở nhiều nước khác, thì vấn đề phát triển du lịch sinh thái lại rất được chính phủ quan tâm, thường xuất hiện trên các bản tin chính hay các quảng cáo thương mại công cộng. Du lịch sinh thái mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở Costa Rica và Velezuela, một số chủ trang trại chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ rừng mà họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái. Chính phủ Ba Lan cũng tích cực khuyến khích du lịch sinh thái và gần đây đó thiết lập một số vùng Thiên nhiên và Du lịch của quốc gia để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia. Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi có các hoạt động du lịch sôi nổi. Việt Nam có những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên phong phú, kinh tế và giao lưu quốc tế giúp cho sự phát triển du lịch phù hợp với xu thế của thế giới và khu vực. Tại Việt Nam, du lịch đang dần dần trở thành ngành kinh tế quan trọng và trong tương lai gần hoạt động du lịch được coi là con đường hiệu quả nhất để thu ngoại tệ và tăng thu nhập cho đất nước. Cát Bà - Hải Phòng, còn gọi là đảo ngọc, được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cát Bà được thiên nhiên ban tặng với rừng nguyên sinh nhiệt đới có nhiều động thực vật quý hiếm, nhiều hang động, bãi tắm đẹp Thiên nhiên Cát Bà vẫn còn giữ được nét hoang sơ rất có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái. Do vậy, em đã chọn đề tài:” Phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà theo hướng phát triển du lịch bền vững” , với mong muốn có thể hiểu về du lịch sinh thái, và nghiên cứu về tình hình phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà, từ đó đưa ra một số
  6. Chuyên đề thực tập kiến nghị những giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà theo hướng phát triển bền vững. Mục tiêu của đề tài - Nghiên cứu tổng quan về du lịch sinh thái, mối quan hệ giữa du lịch sinh thái và phát triển du lịch bền vững. - Đánh giá thực trạng phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà. - Đưa ra những giải phát nhằm phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà theo hướng phát triển bền vững. Nhiệm vụ của đề tài - Tìm kiếm và thu thập thông tin chính xác và đầy đủ để phục vụ cho việc trình bày và làm sáng tỏ đề tài. - Sau khi thu thập thông tin đầy đủ, sẽ tiến hành tổng hợp và phân tích tài liệu để hoàn thành đề tài. Đối tượng nghiên cứu - Điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của Cát Bà. - Các tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà, từ đó để khai thác hợp lý và ứng dụng vào việc phát triển du lịch sinh thái ở đây. Phạm vi nghiên cứu Khu du lịch Cát Bà- Cát Hải- Hải Phòng. Phương pháp nghiên cứu - Thu thập thông tin, tài liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội, đặc biệt là nét đặc trưng của khu du lịch sinh thái Cát Bà qua sách, báo, internet - Phương pháp nhiên cứu phân tích,tổng hợp. - Phương pháp thực địa.
  7. Chuyên đề thực tập NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI VÀ DU LỊCH BỀN VỮNG 1.1. Du lịch sinh thái 1.1.1. Khái niệm về du lịch sinh thái Du lịch sinh thái xuất hiện như một khái niệm vào cuối thập niên 1960. Sau này có rất nhiều định nghĩa về du lịch sinh thái. Du lịch sinh thái là du lịch mà chủ yếu là đi đến những vùng thiên nhiên tương đối chưa ai đụng tới hay chưa bị ô nhiễm với mục đích cụ thể là nghiên cứu, ngưỡng mộ, và thưởng thức phong cảnh cùng với các loại thực vật và động vật hoang dã của nó, cũng như bất cứ biểu hiện về văn hóa nào (cả quá khứ lẫn hiện tại) được tìm thấy trong các vùng này Điểm chính yếu là người đi du lịch sinh thái có cơ hội đắm mình vào thiên nhiên theo một cách thức thường không có sẵn trong môi trường đô thị. Du lịch sinh thái là một cuộc du lịch có trách nhiệm đến những vùng thiên nhiên mà bảo tồn môi trường và duy trì bền vững phúc lợi của nhân dân địa phương (Hội Du lịch Sinh thái) Du lịch sinh thái là một trải nghiệm du lịch thiên nhiên mang lại thông tin bổ ích mà góp phần vào việc bảo tồn hệ thống sinh thái, trong khi đó tôn trọng tình trạng nguyên vẹn của các cộng đồng chủ nhà (Hội đồng Tư vấn Môi trường Canada). Du lịch sinh thái là đi du lịch đến những vùng hoang sơ, dễ bị hư hại và thường được bảo vệ mà cố gắng gây ra tác động rất thấp và (thường) có qui mô nhỏ. Nó giúp giáo dục người đi du lịch; cung cấp nguồn quỹ cho việc bảo tồn; trực tiếp làm lợi cho việc phát triển kinh tế và việc trao quyền về chính trị của các cộng đồng địa phương; và thúc đẩy sự tôn trọng đối với các nền văn hóa khác nhau và các quyền của con người (Martha Honey – giám đốc Chương trình An ninh và Hòa bình tại Viện Nghiên cứu về Chính sách) 1.1.2. Các đặc trưng của du lịch sinh thái
  8. Chuyên đề thực tập 1.1.2.1. Tài nguyên tự nhiên trong du lịch sinh thái là những tài nguyên còn tương đối nguyên sơ - Môi trường tự nhiên trong du lịch sing thái còn tương đối nguyên sơ, chưa chịu hoặc ít bị xâm hại bởi bàn tay con người - Văn hoá bản địa : là các di tích kiển trúc, các giá trị văn hoá tồn tại dướ dạng vật thể, phi vật thể được tạo ra bởi chính điều kiện tự nhiên và lịch sử phát triển của nơi điểm đến. - Mỗi khu vực bảo tồn tự nhiên phải đảm bảo tính đa dạng sinh học,có tính đặc thù để mỗi điểm đến tham quan có sự hấp dẫn riêng đối với khách du lịch. 1.1.2.2. Các sản phẩm du lịch sinh thái hướng tới bảo tồn giá trị tự nhiên, văn hoá, xã họi nơi điểm đến - Bảo tồn các giá trị tự nhiên của hệ sinh thái vốn có: mục đích của du lịch sinh thái là giúp khách du lịch hiểu biết về thiên nhiên, về hệ sinh thái tự nhiên. Từ đó đánh giá lại những hành động của mình đối với thiên nhiên,tìm cách sống hoà hợp với thiên nhiên - Bảo tồn các giá trị văn hoá của cộng đồng dân cư địa phương - Bảo tồn và nâng cao các giá trị xã hội của dân cư địa phương 1.1.2.3. Du lịch sinh thái trực tiếp mang lại phúc lợi cho cộng đồng dân cư địa phương - Đóng góp về vật chất: xoá đối giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho dân cư địa phương, giúp tăng thu nhập. - Đóng góp về tinh thần: người dân địa phương được tôn trọng không bị phân biệt về văn hoá địa phương, giọng nói ngôn ngữ , phong tục tập quán , được thừa nhận làm chủ đối với thiên nhiên. - Đóng góp nâng cao về mặt nhận thức: dân cư địa phương thấy được tầm quan trọng của du lịch sinh thái từ đó có ý thức bảo vệ tài nguyên tự nhiên và giữ gìn bản sắc văn hoá của địa phương. 1.1.3. Các yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu và động vật và thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật (animal ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp (agri- cultural ecology), sinh thái khí hậu (ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human ecology).
  9. Chuyên đề thực tập Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống, mối liên hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống như : đất, nước, địa hình, khí hậu đó là các hệ sinh thái (eco- systems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật (habitats) (Theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại Hộ nghị thượng đỉnh Rio de Jannero về môi trường). Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên (natural - based tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh thái cao nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích vì sao hoạt động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt ở các vườn quốc gia, nơi còn tồn tại những khu rừng với tính đa dạng sinh học cao và cuộc sống hoang dã. Tuy nhiên điều này không phủ nhận sự tồn tại của một số loại hình du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn hoặc các trang trại điển hình. Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái ở 2 điểm: - Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch sinh thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự mình tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn viên.Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác với người dân địa phương để có được những hiểu biết tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai trò là một người phiên dịch. - Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc mất đi. Ngược lại, các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo
  10. Chuyên đề thực tập tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách. Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. Khái niệm “ sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và xã hội. Tất cả những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng một thời điểm. Đứng trên góc độ vật lý, sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa khách du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn về không gian đối với mỗi du khách cũng như nhu cầu sinh hoạt của họ. Đứng ở góc độ xã hội, sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời sống, văn hoá, kinh tế-xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập. Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này thì năng lực quản lý của khu du lịch sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả năng quản lý và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường và xã hội. Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, như vậy khó có thể xác định một con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một cách tương đối bằng phương pháp thực nghiệm. Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định sức chứa là “quan niệm” về sự đông đúc của các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong những điều kiện phát triển xã hội khác nhau. Rõ ràng để đáp ứng yêu cầu này, cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể để căn cứ vào đó mà có các quyết định về quản lý. Điều này cần được tiến hành đối với các nhóm đối tượng khách/thị trường khác nhau, phù hợp tâm lý và quan niệm của họ. Du lịch sinh thái không thể đáp ứng được các nhu cầu của tất cả cũng như mọi loại khách. Yêu cầu thứ tư là thoả mãn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của khách
  11. Chuyên đề thực tập du lịch. Việc thoả mãn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về những kinh nghiệm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, văn hoá bản địa thường là rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch sinh thái. Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những gì mà họ quan tâm. Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững. Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về tốc độ tăng trưởng của du lịch . Từ những yêu cầu trên đây của du lịch sinh thái ta rút ra những nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái: - Phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi trường, tăng cường và khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trường tự nhiên. - Không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, những nguyên tắc về môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài nguyên bên ngoài (tự nhiên và văn hoá) nhằm thu hút khách mà còn bên trong của nó. - Tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị bên ngoài và thúc đẩy sự công nhận các giá trị này . - Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đặt lên hàng đầu do đó mỗi người khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biến đổi môi trường cho sự thuận tiện cá nhân. - Phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn hoá, xã hội hay khoa học). - Phải đưa ra những kinh nghiệm khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên, đó là những kinh nghiệm được hoà đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi tìm cái lạ cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng cơ thể. - Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của cả người hướng dẫn và các thành viên tham gia . - Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban nghành chức năng: địa phương,
  12. Chuyên đề thực tập chính quyền, tổ chức đoàn thể, hãng lữ hành và các khách du lịch (trước, trong và sau chuyến đi). - Thành công đó phải dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu biết và sự phối hợp với các ban ngành chức năng. - Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng sử và nguyên tắc thực hiện là rất quan trọng. Nó đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ các hoạt động. - Là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một khuôn khổ quốc tế cho ngành. 1.2. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác 1.2.1. Du lịch dựa vào thiên nhiên Du lịch dựa vào thiên nhiên là loại hình du lịch là loại hình du lịch sử dụng tài nguyên thiên nhiên, với động cơ chính của khách du lịch là quan sát và cảm thụ thiên nhiên. Như vậy, du lịch dựa vào thiên nhiên mang một ý nghĩa rộng bao chùm cả du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác. Du lịch dựa vào thiên nhiên không mang tính trách nhiệm cao đối với môi trường và cộng đồng cư dân địa phương. Nhưng du lịch sinh thái đòi hỏi tính trách nhiệm cao đối với môi trường và cộng đồng dân cư địa phương. Du lịch dựa vào thiên nhiên có các loại hình du lịch như: du lịch nghỉ dưỡng, tham quan, mạo hiểm. Du lịch mạo hiểm (theo tổ chức du lịch mạo hiểm tỉnh Quebec Canada): là hoạt động thể chất ngoài trởi hoặc các hoạt động kết hợp diễn ra tại một khu vực thiên nhiên nhất định mà nó yêu cầu những phương tiện vận tải khác với truyền thống, có thể là động cư hay không phải động cơ. Những hoạt động này mang tính mạo hiểm mức độ rủ ro thì tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường, bản chất của hoạt động và các phương tiện vận tải được sử dụng. Du lịch mạo hiểm không chú ý đến việc tìm hiểu về thiên nhiên, hệ sinh thái mà khai thác tài nguyên tự nhiên nhằm mục đích mạo hiểm,chứng tỏ khả năng chinh phục thiên nhiên của con người. Còn du lịch sinh thái đi tìm sự thoả thuận cùng chung sống hài hoà với thiên nhiên. 1.2.2. Du lịch dựa vào văn hóa
  13. Chuyên đề thực tập Du lịch văn hoá là loại hình du lịch rất phổ biến, tập trung mối quan tâm tới một quốc gia hay một vùng đất chủ yếu dưới góc độ văn hoá. Du lịch văn hoá bao gồm các tuyến du lịch đến những nơi có bề dày lịch sử hoặc những nơi có các công trình văn hoá như các viện bảo tàng, nhà hát Ngoài ra cũng có hình thức đưa khách đến các vùng hẻo lánh để dự các lễ hội ngoài trời, đi thăm các nơi ở của những doanh nhân văn hoá, những công trình kiến trúc hay những thắng cảnh thiên nhiên được biết đến và ca ngợi qua văn chương hội hoạ. Du lịch văn hoá và du lịch sinh thái đều có mục đích chiêm ngưỡng tìm hiểu, nghiên cứu các nền văn hoá bản địa độc đáo từ đó làm khơi daỵ tình yêu và trách nhiệm để bảo tồn, giữu gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá do con người sáng tạo ra. 1.2.3. Du lịch công vụ Du lịch công vụ là loại hình du lịch mà khách du lịch kết hợp hai mục đích là công việc và đi du lịch. Mục đích của khách du lịch trong du lịch công vụ chỉ là chiêm ngưỡng, tìm hiểu tài nguyên thiên nhiên, không mang tính trách nhiệm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bản sắc văn hoá bản địa như du lịch sinh thái. 1.2.4. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và du lịch bền vững Chúng ta thấy rằng giữa du lịch sinh thái và du lịch bền vững cũng như du lịch cộng đồng có những điểm tương đồng về điều kiện, nguyên tắc cũng như mục tiêu. Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch tham quan, thám hiểm của khách du lịch đến các vùng thiên nhiên còn hoang dã đặc sắc để chiêm ngưỡng, tìm hiểu, nghiên cứu các hệ sinh thái, các nền văn hoá bản địa độc đáo từ đó làm khơi dạy tình yêu và trách nhiệm để bảo tồn, giữ gìn và phát triển môi trường tự nhiên và cộng đồng dân cư địa phương trong mỗi du khách. Du lịch sinh thái nhấn mạnh và đề cao các yếu tố giáo dục, nâng cao ý thức con người trong vấn đề bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên, giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá do con người sáng tạo. Trong loại hình du lịch sinh thái không nhất thiết phải có sự tham gia của cộng đồng và dân cư địa phương. Du lịch bền vững là hoạt động du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du lịch và của chính khu du lịch đồng thời bảo vệ thúc đẩy cơ hội phát triển cho tương lai. Du lịch bền vững hướng đến việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho
  14. Chuyên đề thực tập các nhu cầu kinh tế-xã hội đều được thoả mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống các giải pháp hỗ trợ. Du lịch bền vững xác định vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc lập kế hoạch và ra quyết định phát triển du lịch. Du lịch bền vững là phục vụ cho mục đích phát triển con người, cho nên du lịch bền vững không chỉ tập trung vào mục đích kinh tế mà còn nhằm phát triển xã hội bao gồm giáo dục, y tế, môi trường và các vấn đề văn hoá và tôn giáo. Du lịch cộng đồng là một phương thức phát triển du lịch bền vững trong đó cộng đồng dân cư được tham gia trực tiếp bàn về sự phát triển du lịch và tổ chức cung cấp các dịch vụ cho du khách trên cơ sở điều kiện tự nhiên văn hoá bản địa và môi trường, thông qua đó cộng đồng được hưởng về mặt vật chất và tinh thần từ phát triển du lịch. Như vậy, ta thấy du lịch sinh thái, du lịch bền vững và du lịch cộng đồng đều coi trọng yếu tố tự nhiên, môi trường. Nhưng trong du lịch sinh thái không nhất thiết phải có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương, còn trong du lịch bền vững và du lịch cộng đồng thì coi trọng yếu tố con người. 1.3. Các điều kiện để phát triển du lịch sinh thái 1.3.1. Tài nguyên tự nhiên, văn hoá bản địa phong phú còn tương đối nguyên sơ có tính đặc thù cao của hệ sinh thái. Tài nguyên tự nhiên trong du lịch sinh thái phải là những tài nguyên còn tương đối nguyên sơ, chưa bị con người can thiệp hoặc thay đổi. trong một số giới hạn thì những thay đổi do con người gây ra đối với tự nhiên phải là những thay đổi chấp nhận được với khả năng tái tạo cao. Như vậy du lịch sinh thái không cho phép con người can thiệp vào các hệ sin thái tự nhiên, cho dù đó là những can thiệp mang lợi ích kinh tế-xã hội cho con người và dù con chấp nhận đề bù bằng vật chất cho những thiệt hại mà họ định gây ra với thiên nhiên. Như chúng ta đã biết, những vùng có vị trí tương tự trên bản đồ thế giới thường có những đặc điểm chung về khí hậu, nguồn nước, đất đai và các loài động thực vật, thậm chí là con người đang cư trú tại đó. Sản phẩm du lịch sinh thái cũng như các sản phẩm thông thường khác, được đưa ra để thu hút sự tò mò tìm hiểu của các khách du lịch. Như vâỵ, những người làm du lịch đứng ở góc độ kinh doanh
  15. Chuyên đề thực tập cũng phải đưa những sản phẩm du lịch sinh thái đặc trưng, có tính đặc thù để phân biệt với sản phẩm du lịch sinh thái ở các địa bàn khác. Thế mạnh trong mỗi tài nguyên ở mỗi vùng, mỗi khu vực trong phục vụ hoạt động du lịch sinh thái chính là ở chỗ đưa ra được tính đặc thù về mỗi loài động vật, thực vật, nguồn nước, đất đai hay khí hậu tại đó. Những thế mạnh này cần được thể hiện bên cạnh tính đa dạng sinh học của tất cả các khu vực, vùng và quốc gia có tài nguyên để phục vụ du lịch sinh thái. 1.3.2. Sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư địa phương trong việc phát triển du lịch bền vững Du lịch sinh thái chỉ hấp dẫn và càng trở nên hấp dẫn hơn khi có sự tham gia của người dân địa phương. Thứ nhất, người dân địa phương có được những kinh nghiệm truyền thống rất quý báu về thiên nhiên. kiến thức về thiên nhiên của người dân địa phương có lợi và mang lại nhiêu thông tin bổ ích cho các hướng dẫn viên làm việc trong các công ty lữ hành, các cá nhân triển khai các dự án kinh tế nói chung và u lịch nói riêng tại một địa bàn nhất định. Thứ hai, khi người dân bản địa được hưởng lợi ích trực tiếp ừ các di sản do thiên nhiên ban cho va tổ tiên để lại athì họ không coi đó là di sản mà là tài sản. Chính vì vậy, họ sẽ tích cực chia sẻ, tham gia đóng góp vào các dự án kinh tế, du lịch liên squan đến cộng đồng địa phương họ. 1.3.3. Sự cam kết lâu dài và thiết lập hệ thống các nguyên tắc, giá trị đạo đức trong kinh doanh của các chủ thể quản lý Nhà nước và quản trị kinh doanh. Sự cam kết lâu dài Chính quyền địa phương là cơ quan quản lý hành chính tại địa phương, và là cơ quan đại diện, bảo vệ quyền lợi của người dân về kinh tế, văn hoá-xã hội và sinh thái tại mỗi địa phương nhất định.Chính quyền địa phương là cơ quan đưa ra chính sách, chủ trương tầm vĩ mô nhằm mục đính ngày càng phát triển địa phương mình. Các cơ quan quản lý về du lịch tương tự như vậy, cũng là các cơ quan quản lý hành chính nhưng đứng trên góc độ làm du lịch. Ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hai cơ quan nói trên cùng phối hợp, hành động để hoạt động du lịch tại mỗi địa phương đạt hiệu quả cao nhất.
  16. Chuyên đề thực tập Thiết lập hệ thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức Hệ thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức trong kinh doanh sản phẩm du lịch sinh thái được thiết lập trên cơ sở trao đổi, bàn bạc và thống nhất cách thực hiện, kiểm soát DLST giữa các cá nhân và tổ chức có liên quan trong hoạt động du lịch này.Họ là: Chính quyền địa phương, cơ quan quản lý về du lịch, các nhà kinh doanh du lịch, người dân địa phương, các nhà tổ chức phi chính phủ vì môi trường.Những hệ thống này cũng là cơ sở để đánh giá chất lượng và mức độ phù hợp của những tổ chức, cá nhân tham gia, tiến hành hoạt động kinh doanh DLST.Tất nhiên, tuỳ thuộc vào đặc trưng từng địa phương, từng vùng và khu vực mà chi tiết cụ thể trong mỗi hệ thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức nêu trên các phần khác nhau giữa các lãnh thổ nhưng phải thừa nhận là có cùng triết lý và nguyên tắc thực hiện chung.Các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện du lịch sinh thái đều chịu sự chi phối của hệ thống các nguyên tắc đó. 1.3.4. Có sự cố vấn giám sát từ các tổ chức môi trường phi chính phủ Các tổ chức phi chính phủ quan tâm tới công tác bảo tồn các di sản văn hoá và thiên nhiên. Các tổ chức phi chính phủ hoạt động vì mục đính phi lợi nhuận, sẵn sang hỗ trợ, giúp đỡ phát triển hoạt động du lịch sinh thái vì nó mang lại những lợi ích thực tiễn bền vững. Họ tìm kiếm các hoạt động để hỗ trợ như: Bảo vệ môi trường thông qua ngăn ngừa, cải thiện, sửa chữa và hồi phục những tài nguyên bị phá huỷ Thúc đẩy các cá nhân và tổ chức liên quan đến du lịch sinh thái nhận thức tốt hơn và bởi vậy quan tâm hơn thay vì cố gắng triệt để các tài nguyên. 1.3.5. Nguồn khách du lịch sinh thái có đặc điểm tiêu dùng tương thích với sản phẩm du lịch sinh thái Khách du lịch sinh thái là người tiêu dung du lịch với mục đích chính tham quan nghiên cứu tài nguyên du lich, có ý thức và trách nhiệm bảo tồn và phát triển thiên nhiên, có trách nhiệm đối với cộng đồng dân cư bản địa. Khách du lịch sinh thái có các đặc trưng: Thứ nhất, yêu thiên nhiên, thích tìm hiểu hệ sinh thái đa dạng và khám phá những điều bí ẩn của tự nhiên và văn hoá bản địa. Thứ hai, thích lưu trú trong điều kiện tự nhiên, thích di chuyển bằng các phương tiện không gây ô nhiễm môi trường.
  17. Chuyên đề thực tập Thứ ba, đặc biệt ưu thích các món ăn được coi là đặc sản có giá trị văn hoá ẩm thực. Thứ tư, thích tham gia vào các hoạt động đời thường, văn hoá dân gian của cư dân bản địa. Sản phẩm du lịch sinh thái có tính hấp dẫn cao bởi ba thành phần cốt lõi tạo ra hình ảnh thương hiệu của điểm du lịch sinh thái: hệ động vật, thực vật đa dạng phong phú và văn hoá dân gian độc đáo. Điều quan trọng là số lượng và loại khách du lịch sinh thái phải phù hợp với đặc điểm của điểm đến. Điều này đòi hỏi phải có sự giám sát về các du khách. Sự hiểu biết về các nhóm khách, động cơ và đặc tính của họ là điều cần thiết để đẩy mạnh thị trường và lập kế hoạch cung cấp các trang thiết bị và dịch vụ. Vì vậy việc thu thập số lượng thị trường nếu không đầy đủ thoả đáng thì sẽ khiến các nhà ra quyết định tạo ra một sản phẩm du lịch không có thị trường. 1.4. Phát triển du lịch bền vững 1.4.1. Khái niệm phát triển du lịch bền vững “ Phát triển bền vững là sự phát triển sử dụng tài nguyên, điều kiện môi trường hiện có để thoả mãn nhu cầu của các thế hệ đang sống nhưng lại phải đảm bảo cho các thế hệ tương lai những điều kiện tài nguyên môi trường cần thiết để họ có thể sống tốt hơn ngày nay ”. Theo định nghĩa ở trên ta có thể thấy phát triển bền vững không chỉ bao gồm sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà nó còn phải dựa vào sự bền vững về mặt xã hội và môi trường. Như vậy phát triển bền vững đem lại cho con người cuộc sống tốt đẹp về mọi mặt. Chính vì thế mà phát triển bền vững đã trở thành xu thế của thời đại ngày nay. Nó được áp dụng trong mọi ngành, đặc biệt vấn đề này đối với du lịch lại càng cần thiết hơn cả. Bởi vì du lịch là dựa vào tài nguyên thiên nhiên, nhân văn để hoạt động. Có khai thác hiệu quả và hợp lý nó thì du lịch mới phát triển lâu bền được. Từ khái niệm phát triển bền vững chung cho mọi ngành ta có thể suy ra được khái niệm phát triển du lịch bền vững. “ Phát triển du lịch bền vững là hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm đáp ứng được nhu cầu hiện tại của khách du lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa phương nhưng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng của thế hệ mai sau ”. (Theo định nghĩa của Antonio Machiado)
  18. Chuyên đề thực tập Như vậy phát triển du lịch bền vững là việc phát triển về mặt kinh tế nhưng vẫn phải đảm bảo việc duy trì được sự toàn vẹn về môi trường tự nhiên và văn hoá. 1.4.2. Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững Theo định nghĩa ở trên thì muốn phát triển du lịch bền vững về 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. 1.4.2.1. Bền vững về kinh tế Đây là một trong ba yều cầu đối với phát triển bền vững. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Thứ nhất nó phải bảo đảm sự tăng trưởng, phát triển ổn định và lâu dài, tạo ra được nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Muốn được như vậy doanh nghiệp kinh doanh du lịch và sở du lịch của địa phương phải thoả mãn được những điều kiện sau: công tác tuyên truyền quảng bá phải được thực hiện nghiêm chỉnh, trong phạm vi rộng; sản phẩm du lịch phải thật đặc biệt để thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Bên cạnh đó chất lượng của các sản phẩm du lịch cũng cần phải được đảm bảo, đội ngũ nhân lực cũng cần được đào tạo bài bản có chất lượng cao. Thêm vào đó cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở đó phải có chất lượng và thuận tiện cho khách như: tình trạng buồng phòng luôn đáp ứng được cho khách du lịch kể cả vào thời điểm đông nhất trong năm, giao thông đi lại phải thuận tiện Làm được nhu vậy sẽ giữ chân khách ở khu du lich lâu hơn, khách tiêu dùng nhiều hơn. Đó là yếu tố mà một doanh nghiệp kinh doanh nào cũng muốn đạt được. Nội dung thứ hai mà yêu cầu bền vững về mặt kinh tế cần có là: kinh doanh du lịch phải góp phần tích cực vào phát triển của cộng đồng địa phương. Nó thể hiện ở chỗ có sự phát triển cân đối giữa các ngành nghề, không để có sự chênh lệch quá lớn. Vì như vậy rất dễ dẫn đến sự mất cân bằng trong nền kinh tế địa phương. Các ngành nghề không nên phát triển riêng biệt mà cần có sự liên kết chặt chẽ giữa kinh doanh du lịch với các ngành nghề khác, cùng hỗ trợ nhau phát triển. Chính quyền và doanh nghiệp kinh doanh du lịch cần nghiên cứu và khai thác tốt những khía cạnh của những ngành nghề khác để phục vụ cho du lịch. Làm như vậy loại hình du lịch sẽ trở nên phong phú, đa dạng và hấp dẫn hơn mà các ngành nghề khác cũng có cơ hội phát huy khả năng của mình. Nếu như các ngành nghề của địa phương đều phát triển cộng thêm với việc khuyến khích người dân tham gia vào kinh doanh du lịch thì chắc chắn sẽ tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho người dân địa phương. Từ đó giúp họ tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
  19. Chuyên đề thực tập 1.4.2.2. Bền vững về xã hội Du lịch biển phải có sự đóng góp cụ thể cho phát triển xã hội, đảm bảo sự công bằng trong phát triển. Khách du lịch đến từ rất nhiều nơi khác nhau mang theo nhiều nền văn hoá khác nhau đến địa phương. Mặt tích cực của nó là người dân địa phương có thể hiều hơn về nền văn hoá khác từ đó có thể tiếp thu được những tinh hoa văn hoá. Nhưng mặt hạn chế là nếu để các nền văn hoá đó du nhập một cách tự do thì người dân có thể tiếp thu phải những yếu tố xấu, mất dần đi bản sắc văn hoá địa phương . Phát triển bền vững là bảo đảm quyền lợi của người dân, mọi người đều được tham gia vào kinh doanh để họ nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xoá đói giảm nghèo. Nhưng điều đó không có nghĩa là để cho lợi ích kinh tế làm lu mờ các giá trị văn hoá. Cần ngăn ngừa sự thay thế các ngành nghề truyền thống lâu đời bằng chuyên môn phục vụ du lịch. Không để người dân địa phương biến văn hoá bản địa thành hàng hoá bán cho khách. Văn hoá là phần không thể thiếu đối với mỗi người. Đó là những tinh hoa được tích luỹ từ đời này qua đời khác. Nó làm nên giá trị của mỗi người, mỗi địa phương. Vì thế phát triển sao cho bền vững về văn hoá – xã hội cũng là một mảng hết sức quan trọng. 1.4.2.3. Bền vững về môi trường Du lịch cũng là một hình thức kinh doanh vì thế việc đảm bảo phát triển tốt về kinh tế, có lợi nhuận là một tất yếu. Tuy nhiên phát triển bền vững có nghĩa là phải có sự hài hoà giữa yếu tố kinh tế và môi trường. Không nên chỉ chú trọng vào phát triển kinh tế mà tìm mọi cách kể cả việc làm tổn hại nghiêm trọng đến tài nguyên. Bởi vì tài nguyên du lịch thường có sẵn và rất khó để phục hồi, thời gian phục hồi là rất lâu. Những điểm cần lưu ý khi khai thác phát triển tài nguyên du lịch là: Khai thác tài nguyên không quá giới hạn cho phép, phải tôn trọng sức chứa của khu du lịch. Doanh nghiệp phải xác định được số lượng khách tối đa mà không gây thiệt hại đến môi trường tự nhiên, không làm cho khách cũng như người dân địa phương cảm thấy khó chịu và chính quyền địa phương vẫn có thể quản lý được. Ngoài việc khai thác hợp lý ra doanh nghiệp cũng cần phải sử dụng nó một cách hợp lý tránh sự lãng phí tài nguyên. Duy trì sự đa dạng và ổn định của các hệ sinh thái, các động thực vật không để chúng bị phá huỷ. Không gây ô nhiễm và giảm thiểu chất thải cũng là một vấn đề quan trọng trong việc phát triển bền vững môi trường. Đối với môi trường cần giảm thiểu tối đa rác thải và đảm bảo việc xử lý rác tốt. Đối với môi trường không khí xung quanh môi trường cần có biện pháp để giảm khí thải do các phương tiện giao thông, các thiết bị phục vụ cho du lịch gây nên. Quy hoạch cơ sở hạ tầng và giải phóng mặt
  20. Chuyên đề thực tập bằng cũng phải phù hợp với điều kiện cho phép của môi trường. Như địa phương nên xác định xem có bao nhiêu khách sạn, nhà hàng là hợp lý về vấn đề về điện, nước, hệ thống xử lý rác thải phục vụ cho du lịch mà vẫn đảm bảo cuộc sống cho người dân nơi đây. 1.4.3. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và phát triển du lịch bền vững Du lịch bền vững là hoạt động du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du lịch và của chính khu du lịch đồng thời bảo vệ, thúc đẩy cơ hội phát triển cho tương lai. Du lịch bền vững hướng tới việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho các nhu cầu kinh tế xã hội phải được thoả mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống các giải pháp hỗ trợ. Du lịch bền vững xác định vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc lập kế hoạch và ra các quyết định phát triển du lịch. Du lịch bền vững phục vụ cho mục đích phát triển con người cho nên du lịch bền vững không chỉ tập trung vào mục đích kinh tế mà còn nhằm vào phát triển xã hội bao gồm giáo dục, y tế, môi trường và vấn đề tôn giáo. “Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương”. Du lịch sinh thái là loại hình du lịch diễn ra trong các vùng có hệ sinh thái tự nhiên còn bảo tồn khá tốt nhằm mục tiêu nghiên cứu, chiêm ngưỡng, thưởng thức phong cảnh, động thực vật cũng như các giá trị văn hoá hiện hữu. Du lịch sinh thái nhấn mạnh và đề cao yếu tố giáo dục nâng cao ý thức con người trong vấn đề bảo tồn thiên nhiên, giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá do con người sáng tạo. Trong loại hình du lịch sinh thái không nhất thiết phải có sự tham gia của cộng đồng và dân cư địa phương.
  21. Chuyên đề thực tập Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở CÁT BÀ 2.1. Khái quát về Cát Bà Hải phòng có nhiều cảnh quan thiên nhiên, có biển, có đảo, có vườn quốc gia đã tạo cho thành phố Hoa phượng đỏ tiềm năng lớn để phát triển du lịch sinh thái. Cát Bà là một khu du lịch nổi tiếng của Hải Phòng – một hòn đảo lớn nằm ở phía tây nam vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, cách trung tâm thành phố khoảng 60km. Thiên nhiên đã ưu đãi cho quần đảo này nhiều cảnh quan đẹp, tài nguyên rừng và biển phong phú, một quần thể đảo và hang động làm mê hồn du khách. Vườn quốc gia Cát Bà hiện còn giữ diện tích lớn rừng nguyên sinh nhiệt đới với hệ thực động vật phong phú gồm 745 loài thực vật, hơn 32 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư Nhiều loài động vật quý hiếm như sóc bụng đỏ, rùa da và đặc biệt là loài voọc đầu trắng được ghi vào danh mục được bảo vệ nghiêm ngặt đã trở thành biểu tượng của Vườn Quốc gia Cát Bà. Cát Bà có hệ thống hang động, vùng vịnh như các động Trung Trang, Thiên Long, Hùng Sơn có tới 139 bãi biển các loại nằm xen kẽ giữa những dãy núi đá vôi trùng điệp với cấu trúc địa hình Kast ngập nước. Ngoài ra hệ sinh thái san hô ở Cát Bà là tài nguyên đặc hữu trong quần thể Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Cát Bà hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước bởi vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã, môi trường sinh thái biển trong lành và tài nguyên du lịch đa dạng. Năm 2004, Cát Bà được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới, được quảng bá rộng rãi ở trong nước và trên thế giới, có sức hút lớn cho đầu tư, các tổ chức quốc tế tài trợ trong phạm vi của chương trình UNESCO về con người và sinh quyển. Đảo và biển Cát Bà có lịch sử con người lâu đời với nền văn hoá nông nghiệp, đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản.Dựa trên những di tích khảo cổ, có thể thấy con người đã sống ở khu vực này ít nhất 6.000 năm trước. Cát Bà có 42 khu vực khảo cổ với các di tích tiền sử, trong số đó: 4 điểm còn chứa đựng những dấu vết của kỷ nguyên Pleitoxen, 7 điểm thuộc thời tiền sử, 2 điểm liên quan đến thời kỳ lịch sử, 8 động và những vòm đá cho thấy những dấu vết khảo cổ văn hoá. Các di tích khảo cổ của Cát Bà nằm trên các dải cát gần biển và cách thị trấn Cát Bà 1,5 km về phía đông nam. Bên cạnh xương của các động vật biển, tập hợp những đò vật kháccủa thời kỳ văn
  22. Chuyên đề thực tập hoá này cũng được tìm thấy từ biển. Điều này chứng tỏ con người trong khu vực này sống gần gũi với môi trường biển và Cát Bà bị tách ra khỏi lục địa vào một số giai đoạn. trong số 4 động còn chứa một số động vật như hươu, nai, tê giác, nhím và đười ươi. Di tích của các mồ mả ở các động trên đảo Cát Bà được tìm thấy ở động Khay Quy, động Ang Giua trong đó đã tìm thấy xương của người Melanedi. Những vật dụng và các di tích văn hoá trên đảo Cát Bà bao gồm di tích của các miếu “các bà”,”các ông” có liên quan chặt chẽ với truyền thuyết “ bảy ngày ba ông” kể về cuộc chién đáu chống lại quân xâm lược vào thời kỳ đầu dựng nước. Ngoài ra còn có thành cổ nhà Mạc ở xã Xuân Đàm. Các lễ hội cũng còn lưu giữ bao gồm lễ hội đua thuyền rồng, đua thuyền nan, lê tế thần biển và lễ hội đánh cá cung trở thành những nét hấp dẫn du khách. 2.2. Các điều kiện phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà 2.2.1.VỊ trí, địa lý Cát Bà, còn gọi là đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất trên tổng số 1.969 đảo trên vịnh Hạ Long.Cát Bà là một hòn đảo đẹp và thơ mộng, nằm ở độ cao trung bình 70 m so với mực nước biển (dao động trong khoảng 0-331 m). Trên đảo này có thị trấn Cát Bà ở phía đông nam (trông ra vịnh Lan Hạ) và 6 xã: Gia Luận, Hiền Hào, Phù Long, Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đám. Cư dân chủ yếu là người Kinh. 2.2.2. Lịch sử Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có lẽ tên gọi Các Bà đã bị đọc trệch thành Cát Bà.Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây đảo thuộc tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới chuyển về thành phố Hải Phòng. Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải. Trước năm 1945, thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm 1957 thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập. 2.2.3. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái Trên đảo chính Cát Bà có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi là một nơi đang được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái. Phía Đông Nam của đảo có vịnh Lan Hạ, phía Tây Nam có vịnh Cát Gia có một số bãi cát nhỏ nhưng sạch, sóng không
  23. Chuyên đề thực tập lớn thuận tiện cho phát triển du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng. Trên biển xuất hiện nhiều núi đá vôi đẹp tương tự vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Ở một số đảo nhỏ, cũng có nhiều bãi tắm đẹp. Con đường độc đạo chạy ven biển và xuyên qua đảo Cát Bà Đường xuyên đảo Cát Bà: dài 27 km, có nhiều đèo dốc quanh co, xuống khoăn, qua áng, men theo mép biển, xuyên qua vườn quốc gia, phong cảnh kỳ thú, non nước hữu tình. Vườn quốc gia Cát Bà: có diện tích 15.200 ha, trong đó có 9.000 ha rừng, 5.400 ha biển tạo nên một môi trường sinh thái lý tưởng. Động Trung Trang: Nằm cách thị trấn 15 km cạnh đường xuyên đảo, có nhiều nhũ đá thiên nhiên. Động này có thể chứa hàng trăm người. Động Hùng Sơn: Cách thị trấn 13 km, trên đường xuyên đảo. Động còn có tên Động Quân Y vì trong Chiến tranh Việt Nam người ta đã xây cả một bệnh viện hàng trăm giường nằm ở trong lòng núi. Động Phù Long (Cái Viềng) mới tìm ra, được cho là đẹp hơn động Trung Trang. Bãi tắm Cát Cò
  24. Chuyên đề thực tập Các bãi tắm: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Cát Dứa, Cát Ông, Cát Trai Gái, Đường Danh v.v là những bãi tắm nhỏ, đẹp, kín đáo, có nhiều mưa, che nắng, cát trắng mịn, nước biển có độ mặn cao, trong suốt tới đáy. Người ta dự định xây dựng ở đây những "thuỷ cung" để con người có thể trực tiếp quan sát các đàn cá heo, tôm hùm, rùa biển, mực ống, cá mập bơi lượn quanh những cụm san hô đỏ. Một bãi tắm đẹp trên Đảo Khỉ thuộc quần đảo Cát Bà Cát Bà với vẻ đẹp nguyên sơ và hùng vĩ, nó được mệnh danh là Hòn Ngọc của Vịnh Ngoài ra Cát Bà còn có nhiều động, thực vật quý hiếm: Gần 60 loài đã được coi là các loài đặc hữu và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam như các loài động vật: ác là, quạ khoang, voọc đầu vàng, voọc quần đùi trắng và các loài thực vật như chò đãi, kim giao (Podocarpus fleurii), lá khôi (Ardisia spp.), lát hoa (Chukrasia tubularis),dẻ hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật. Ngoài ra còn 8 loài rong, 7 loài động vật đáy cũng cần được bảo vệ. 2.2.4. Tài nguyên nhân văn Quần đảo Cát Bà có tiềm năng phát triển du lịch cả về tự nhiên lẫn nhân văn. Cát Bà còn lưu giữ các di tích cổ sinh, di chỉ khảo cổ học, di tích lịch sử - văn hóa như thành nhà Mạc, khu thương cảng (bến Gốm), di chỉ Cái Bèo và đặc biệt là hoá thạch trầm tích trong hang động Đá Trắng. Theo giám định của Viện Khảo cổ học, hóa thạch được tìm thấy có niên đại Pleistocen muộn (từ 01 triệu đến 11.000 năm trước). Môi trường thiên nhiên của Cát Bà-Cát Hải đã là cái nôi của người từ cổ xưa. Các nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật 17 địa điểm trên đảo Cát Bà. Kết quả cho thấy có tới 15 điểm có dấu tích của người cổ xưa như hang Eo bùa thuộc xã Hiền
  25. Chuyên đề thực tập Hào, Tùng Bà thuộc Vườn Quốc Gia, Bờ Đá, Khoăn Mui thuộc xã Trân Châu, Áng Giữa thuộc xã Việt Hải. Đặc biệt là di chỉ Cái Bèo được một nhà khảo cổ người Pháp phát hiện năm 1938, qua nhiều lần khai quật và kết quả phân tích Điôxit cácbon cho biết người Việt cổ có mặt ở đây cách ngày nay trên 6.000 năm. Trong tầng đất trên của di chỉ Cái Bèo còn có một tầng di chỉ chứa những di vật tiêu biểu thuộc nền văn hoá Hạ Long. Trong lớp đất này có ít xương động vật. Những hiện vật ở đây mang đủ loại hình của nền văn hoá Hạ Long đồng thời còn có những đặc điểm riêng biệt cho thấy con người của nền Hạ Long đến đây sinh sống vào giai đoạn muộn, giai đoạn phát triển cao của nền văn hoá này. Giữa hai tầng trên và dưới của di chỉ Cái Bèo là một lớp san mỏng không chứa các di vật hoặc xương các động vật. Điều này chứng tỏ trước đây đã có một thời nước biển dâng lên tràn ngập lớp dưới để lại dấu tích của biển ngăn cách giữa hai nền văn hoá sớm và muộn. Di chỉ Cái Bèo có giá trị lịch sử lớn khẳng định người Việt cổ đã cư trú tại vùng đất này từ rất xa xưa. Các làng xã trên đảo Cát Bà nằm giáp biển nên cuộc sống của người dân nơi đây cũng gắn liền với biển :chèo thuyền, đua thuyền là sinh hoạt văn hoá, hội đua thuyền chính là ngày hội xuống nước của các làng chài Cát Hải. Chính ở nơi đầu sóng ngọn gió, với sức sống, tinh thần lao động sáng tạo, người dân ở đây đã để lại những giá trị văn hoá độc đáo. Trên thị trấn Cát Bà ngày nay còn lại dấu tích nơi đền thờ các bà trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm phương Bắc. Hòn cẩm thạch của làng Gia Luận đã từng là nơi tập kết dấu cọc gỗ lấy từ Vân đồn để góp phần làm lên chiến thắng quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng Giang của Ngô quyền năm 938. Ngôi miếu cổ Văn Chấn - xã Văn Phong có kiến trúc tinh xảo vào Hậu Lê (Thế kỷ XV) "Tân tạo thạch bia" chùa Gia Lộc với khối đá bốn mặt trạm khắc hoa văn sinh động hiếm thấy được tạo dựng từ thời "Cảnh Thịnh tứ niên" năm 1797. Đình Đôn Lương nghệ thuật kiến trúc điêu khắc tuyệt diệu thể hiện tài nghệ một thời. Tại xã Xuân Đám còn lại một phần kiến trúc bức tượng thành xếp đá được xây dựng từ thời nhà Mạc thế kỷ XVI. Chùa Hoà Hy (Hoà Quang) còn tương đối nguyên vẹn, có nhiều pho tượng độc đáo, những nét hoa văn trạm trên bia đá hiếm thấy trên các bia chùa của miền Bắc. Văn bia đình làng Hoàng Châu còn lưu danh các sinh đồ Quốc Tử Giám: Nguyễn khắc Minh, Bùi Quang Trịnh, Vũ Tiến Tước là người làng Hoàng Châu đã học hành đỗ đạt tại cơ quan học viện cao nhất nước ta thời kỳ tiền Lê Hoàng Triều. Người dân trên đảo có quyền tự hoà về con đường học hành, đỗ đạt của cha ông một thời.Có thể nói văn hoá của huyện đảo Cát Hải phong
  26. Chuyên đề thực tập phú đa dạng bởi lẽ người dân định cư trên đảo có nguồn gốc từ nhiều nơi họp thành là cộng đồng những người sống bằng nghề biển vùng Duyên Hải. Đến với Cát Bà, chúng ta còn được hòa mình vào lễ hội làng cá được tổ chức vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 hàng năm để ghi nhớ ngày Bác Hồ về thăm làng cá Cát Bà. 2.2.5. Khu dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rặng san hô, thảm rong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng áng, là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển thế giới theo quy định của UNESCO. Cát Bà đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 02 tháng 12 năm 2004. Ngày 1 tháng 4 năm 2005 tại đây đã diễn ra lễ đón nhận bằng quyết định của UNESCO và kỷ niệm sự kiện này. Việt Nam hiện có 06 khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận là: Cần Giờ, Cát Tiên, châu thổ sông Hồng, miền Tây Nghệ An, Kiên Giang và quần đảo Cát Bà.Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với 2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động. 2.2.6. Điều kiện kinh tế-xã hội Với lợi thế gần biển đã tạo điều kiện thuận lợi cho Cát Bà phát triển kinh tế. thành phố Hải Phòng và Bộ Thuỷ Sản đã coi Cát Bà là trung tâm của dịch vụ thuỷ sản. Chính phủ và Tổng cục du lịch đã quyết định phát triển Cát Bà thành trung tâm quốc gia về du lịch sinh thái. Tất cả điều này cho thấy tiềm năng thuỷ sản, du lịch và dịch vụ của huyện Cát Hải. Ngành kinh tế đánh bắt cá truyền thống đã tăng trưởng nhanh trong vài năm qua. Với những định hướng phát triển phong phú, ngành thuỷ sản Hải Phòng đã vượt qua nhiều khó khăn và từng bước phát triển. Khai thác thuỷ sản đã đạt được 5.730 tấn năm 2000 và tăng lên 8.091 tấn năm 2002. Nuôi trồng thuỷ sản từ 608 tấn tăng gấp đôi lên 1.148 tấn năm 2002. Đến năm 2009 ngành thuỷ sản tăng 9,5%, đạt 7.050 tấn, trong đó khai thác là 3.050 tấn, nuôi trồng là 4.000 tấn. Đó là kết quả của việc chuyển đổi cơ cấu mạnh mẽ, đặc biệt là việc áp dụng đổi mới những phương pháp và áp dụng công nghệ khoa học tiên tiến trong
  27. Chuyên đề thực tập sản xuất. Một trong những nết phát triển của ngành thuỷ sản là nhiều hộ gia đình đã đầu tư vào các lồng nuôi thuỷ sản trên biển. Đây là cách hiệu quả để sử dụng các điều kiện môi trường tự nhiên và đánh thức những tiềm năng chưa được khai thác của biển Cát Bà. Cùng với sự phát triển của thuỷ sản, sản xuất cũng được cải thiện. Trên khu vực rộng 143,7ha năm 2002 sản lượng đạt 12.187 tấn, tăng 27,6% so với năm 2001. Những năm qua, Cát Hải đã trở thành điểm hấp dẫn đối với khách du lịch Việt Nam cũng như du khách quốc tế. Cùng với xây dựng cơ sở hạ tầng, ngành giáo dục và đào tạo cũng đạt các mục tiêu vượt mức kế hoạch đề ra cả về chất lượng và số lượng. Ngành thể thao, văn hoá, thông tin đa hợp tác chặt chẽ với các ngành khác trong việc triể khai thành công các chương trình tuyên truyền. Tuyên truyền tập trung vào việc hoàn thành các mục tiêu phát triển chính trị, kinh tế, bảo vệ môi trường và kiểm soat những vấn đề xã hội. Ngày càng có nhiều hoạt động biểu diễn văn hoá nghệ thuật. Nhà văn hoá huyện tổ chức rất nhiều buổi biểu diễn văn hoá, văn nghệ, khuyến khích mở rộng các phong trào văn hoá văn nghệ địa phương. Cát Hải tập trung vào phát triển kinh tế xã hội, sử dụng tài nguyên rừng, biển sinh thái để phát triển kinh tế đa ngành. Xây dựng Cát Hải thành một trung tâm du lịch sinh thái quấc gia đạt chuẩn quốc tế và trung tâm kinh tế biển của Bắc Bộ Việt Nam, đăc biệt khu kinh tế mở và một khu vực đô thị của thành phố Hải Phòng. Cát Hải hiện nay làmột trung tâm hội tụ đầu tư với dự án quy hoạch du lịch sinh thái và khu vực cảng biển Cát Don, Xuân Đàm và Cát Bà với tổng đầu tư trên 500 tỷ trên diện tích 104ha và một số dự án khác. 2.2.7. Cơ sở vật chất kỹ thuật Trong chiến lược phát triển Uỷ ban nhân dân và Huyện uỷ đã xác định “xây dựng hạ tầng cần phải được ưu tiên tạo động lực cho sự phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn”. Theo định hướng này, mấy năm qua huyện đã triển khai tích cực việc xây dựng hạ tầng với hiệu quả cao. Theo đó, huyện đã đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng nhằm khuyến khích đầu tư vào các trung tâm dịch vụ hỗ trợ thuỷ sản và du lịch tại đảo Cát Bà. Hoàn thành kế hoạch xây dựng huyện Cát Hải và kế hoạch chi tiết thị trấn Cát Bà để trình uỷ ban nhân dân Hải Phòng phê duyệt theo đó, huyện Cát Hải sẽ mở rộng theo hướng tây về xã Phu Long. Ngoài ra huyện sẽ tích cực triển khai con đường liên đảo thứ 2 xuyên qua Cát Bà, Gia Luận và Tuần Châu, tiếp tục đầu tư cho các công trình xây dựng, xây dựng các trường học nhiều tầng, nâng cấp bệnh viện và các trung tâm y tế. Cho tới nay, hầu hết các con đường nội hạt đã
  28. Chuyên đề thực tập được bê tông và nhựa hoá. Các tuyến nội đảo qua Đình Vũ, Cát Hải và Cát Bà đã khuyến khích tăng mạnh lưu lượng xe cộ và hành khách đi lại. Tuyến giao thông khác là sử dụng tầu cao tốc để chuyên chở, phục vụ du lịch và phát triển phúc lợi xã hội. Tuy nhiên với vị trí xa xôi, là một huyện đảo cách trung tâm Hải Phòng 60Km, Cát Bà vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, một trong những cản trở lớn nhất là việc đi lại. Hiện tại chỉ có 2 cách tới Cát Bà: Tầu cao tốc: cách nhanh nhất tới Cát Bà, tuy nhiên chỉ có bẩy con tầu loại này có thể chở được 300 hành khách và thời gian khởi hành cũng thuận tiện cho khách du lịch. Tầu khởi hành từ Hải Phòng lúc 6h, 8h20,9h và rời Cát Bà lúc 6h,13h, 15h. Bằng đường bộ và phà: Tuyến đường này vừa mới được đưa vào sử dụng, nhưng không được khách ưa thích vì phải mất lâu hơn 3-4 tiếng so với tầu cao tốc và cũng không thuận tiện. Đáng tiếc là xe bus không thể sử dụng tuyến này vì chuyên trở bằng phà không đáp ứng được trong quá trình xây dựng tuyến đường. Cơ sở vật chất hạ tầng công nghệ trên khu vực Cát Bà nhìn chung ở bậc thấp toàn thị trấn chỉ có một điểm cung cấp dịch vụ internet công cộng, một bưu điện, thông tin liên lạc trên nội bộ khu vực đảo còn hạn chế. Hiện chưa có trung tâm thông tin du lịch, trung tâm y tế chất lượng cao. Bản thân du lịch đảo Cát Bà chưa sẵn sàng ứng dụng công nghệ đê phát triển, chưa xây dựng được website riêng để quảng bá sản phẩm du lịch của mình. Các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch còn hoạt động rời rạc không chuyên nghiệp, chưa có ý thức rõ ràng sự cần thiết của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quảng bá xúc tiến bán hàng. Các phương tiện truyền thông đang được sử dụng hiện nay như là công cụ tiếp cận thị trường cho du lịch là các kênh truyền hình địa phương và các báo chuyên đề du lịch. Bản thân các phương tiện truyền thông này chưa có những chuyên đề thường xuyên về du lịch Cát Bà điều đó thể hiện chưa có sự hợp tác chặt chẽ của các nhà xúc tiến đối với phương tiện truyền thông. 2.3. Thực trạng phát triển du lịch sinh thái theo quan điểm phát triển du lịch bền vững tại Cát Bà 2.3.1. Đóng góp của du lịch vào sự phát triển kinh tế - xã hội Những năm qua, Cát Bà đã trở thành điểm hấp dẫn đối với khách du lịch Việt Nam cũng nư du lịch quốc tế. Số khách du lịch đến tăng 25% mỗi năm đạt 205.000 năm 2003, tăng gấp đôi so với năm 2000. Doanh thu từ du lịch có mức tăng 9% hàng năm và đạt 32 tỷ đồng đồng năm 2003.6 tháng đầu năm 2009 đã có 437.000 lượt khách tới Cát Bà,tăng 13,2% so với năm 2008 và đạt 51,5% so với kế hoạch
  29. Chuyên đề thực tập năm 2009.Tổng doanh thu từ du lịch đạt 136,2 tỷ đồng. Các dự án đầu tư phát triển du lịch và các dịch vụ đã đóng góp quan trọng cho việc tạo ra những kết quả trên. Theo kế hoạch phát triển của Sở Du Lịch Hải Phòng, Cát Bà sẽ trở thành một trung tâm hấp dẫn đối với đầu tư. Hàng loạt các dự án mới sẽ làm nên hình ảnh và màu sắc mới cho Cát Hải. Thực tế là việc hoàn thành các dự án như con đường du lịch nối Gia Luận-vườn quốc gia-thị trấn Cát Bà, nạo vét vịnh Tung Dinh, cung cấp nước sạch cho Cát Bà và khu vực xây dựng cơ sở lưu trú mới đã tạo mức tăng trưởng mạnh trong du lịch. Cùng với việc phát triển du lịch, đã giúp xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp, tăng tỷ lệ các hộ gia đình giàu, giảm hộ nghèo xuống còn 2%. Thu nhập bình quân đầu người là USD 1.300-1.600 một năm. Ngoài ra, các tệ nạn xã hội cũng được giảm bớt, người dân đã có ý thức bảo vệ môi trường , giữ gìn bản sắc văn hoá của mình. 2.3.2. Các chủ thể tham gia tạo sản phẩm du lịch sinh thái 2.3.2.1. Sở du lịch Hải Phòng Sở du lịch Hải Phòng đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Cát Bà phát triển du lịch như thu hút đầu tư vào phát triển du lịch; đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu của khách du lịch; triển khai các dự án bảo vệ môi trường, bảo tồn các loài động vật quý hiếm; thành lập quỹ Phát triển bền vững Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà 2.3.2.2. Các công ty lữ hành, các đại lý lữ hành Hiện nay các nhà điều hành tour và doanh nghiệp lữ hành đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút khách du lịch đến với Cát Bà vì hình ảnh điểm đến Cát Bà chưa được tiếp thị rộng rãi trên thế giới. Thông qua việc thu thập thông tin từ các tờ rơi, tập gấp, quảng cáo, tim kiếm trên internet nhóm triển khai dự án nhận thấy: các công ty lữ hành lớn tại Việt Nam như SaiGontourist và Vietnamtourism, Vinatour . . . còn rất do dự khi cung cấp các dich vụ nghỉ qua đêm tại Cát Bà. Lý do là: hầu hết khách của họ là nhóm khách lớn yêu cầu dich vụ hoàn hảo, các chuyến đi theo các thủ tục quen thuộc, cơ sở lưu trú tiện nghi, giao thông thuận tiện mà đảo Cát Bà khó có thể đáp ứng được.Các hãng lữ hành khác chỉ coi Cát Bà là điểm dừng chân cho hành trình Hà Nội-Hải Phòng-Cát Bà-Hạ Long hoặc kết nối chuyến Hà Nội-Vịnh Hạ Long.
  30. Chuyên đề thực tập 2.3.2.3. Các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú và ăn uống Đến tháng 10-2004, Cát Bà có thể đáp ứng được 1286 phòng tại 89 khách sạn và nhà hàng. Hầu hết các phòng đạt tiêu chuẩn cơ bản dành cho khách du lịch balô và khách có ngân sách hạn hẹp. Chỉ có 1/5 các phòng đó đạt tiêu chuẩn tốt hơn, tương đương với tiêu chuẩn quốc gia 2 sao. Lượng lao động làm trong lĩnh vực du lịch được đào tạo căn bản khoảng 400 người và khoảng từng đấy người không được đào tạo và làm theo thời vụ. Tại trung tâm thị trấn Cát Bà hiện nay có khoảng 112 khách sạn, gần 2.000 phòng nghỉ, trên 4.050 giường. trong đó có 20 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 sao trở lên. Một số khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 3 sao trở lên như khách sạn Hollyday View, Sunrise Resort, Cat Ba Resort. Bên cạnh loại hình dịch vụ lưu trú truyền thống nay các khách sạn đó vẫn đang bắt đầu đưa vào giới thiệu loại hình dịch vụ ngủ đêm trên du thuyền. Trên đảo cũng có hơn 30 nhà hang kinh doanh chuyên biệt, trong đó có 7 nhà nổi. Ngoài ra hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ đèu phục vụ dịch vụ ăn uống cho thực khách tại cơ sở. 2.3.2.4. Dân cư địa phương Dân cư địa phương cũng tham gia vào hoạt động du lịch bằng việc cung cấp các mặt hàng lưu niệm, các món ăn gian gian từ đó tăng thêm thu nhập. Người dân địa phương đã có ý thức bảo vệ môi trường và gìn giữ bản sắc văn hoá của mình. 2.3.3. Thực trạng về các yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch sinh thái 2.3.3.1. Các điểm du lịch sinh thái tại Cát Bà *Vườn quốc gia Cát Bà
  31. Chuyên đề thực tập Nhiều người cho rằng, để khám phá, tận hưởng cảnh quan của đảo Cát Bà cần khoảng 10 ngày, và chỉ quan sát cũng mất một ngày mới đủ thời gian len lỏi trong vịnh Lan Hạ. Dường như ai đến Cát Bà lần đầu cũng ngạc nhiên trước vẻ đẹp vừa kỳ thú, vừa bí ẩn của thiên nhiên quần đảo Cát Bà. Do vậy, điều mà khách du lịch, nhất là các vị khách quốc tế đến Cát Bà không bao giờ bỏ qua, đó là khám phá đảo Ngọc theo tuyến du lịch sinh thái Vườn quốc gia. Không khó để chúng ta có thể gặp từng tốp người, hay chỉ đơn lẻ 1 đến 2 người đi xe đạp, xe máy, thậm chí đi bộ trên tuyến đường qua Vườn quốc gia để bắt đầu một chặng đường khám phá thiên nhiên sâu thẳm trong Vườn. Giám đốc Vườn quốc gia Cát Bà Hoàng Văn Thập cho biết: “Với tuyến du lịch sinh thái đặc thù của Cát Bà, Vườn quốc gia đón hơn 41 nghìn khách trong nước và gần 22,5 nghìn khách quốc tế đến thăm quan, khám phá thiên nhiên trong năm 2008. Điều đặc biệt là, hầu hết khách nước ngoài đến Cát Bà đều tham gia các tuyến du lịch sinh thái và đều ngạc nhiên trước vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây”. Vườn quốc gia Cát Bà nằm trong Khu dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà, nơi có khu rừng nguyên sinh với hàng trăm ha cây gỗ quý như Kim Giao, Chò Đãi , hàng trăm ngàn loại thảo mộc và hàng trăm loài động vật quý hiếm, trong đó, có loài Voọc đầu trắng nổi tiếng được ghi trong sách đỏ thế giới và chỉ có ở Cát Bà. “ Vị thần” kiến trúc thiên nhiên tạo cho Cát Bà một hệ thống hang động kỳ thú và lạ mắt, hình thù khác nhau như động Thiên Long, Đá Hoa, Quân Y, Trung Trang, Hang Luồn, Áng Vả Marter Roode, khách du lịch đến từ vương quốc Anh cho biết: “Tôi đến đây lần đầu tiên, nhưng cũng kịp nhận thấy cảnh quan thiên nhiên là giá trị lớn nhất của Cát Bà và giá trị ấy vẫn giữ được gần như nguyên vẹn. Tiếc rằng, chúng tôi chưa thể đi hết Khu dự trữ sinh quyển thế giới này để được nhìn thấy Voọc. Chúng tôi sẽ quay trở lại để có thể khám phá những điều thú vị khác của thiên nhiên nơi đây”. Tuyến đường giáo dục môi trường- tuyến du lịch sinh thái đang được nhiều người ưa thích chỉ dài chừng 2,5 km, nhưng cho thấy một sự đa dạng và tiêu biểu của thiên nhiên bí ẩn mà gần gũi ở Vườn quốc gia Cát Bà. Hiển hiện ở đó là những loài cây rất quen thuộc như sắn, vải, cam, bưởi, chuối, nhưng cũng có hàng vạn loài
  32. Chuyên đề thực tập thực vật biểu sinh không phải ở đâu cũng gặp như phong lan, cây tổ chim Bên cạnh đó là những loài động vật “lạ” như sóc bụng đỏ chóp đuôi trắng, sóc đen, cầy, chồn hôi Đặc biệt, tuyến đường còn thách thức sự khám phá của mỗi du khách trước những khu rừng nhiệt đới ẩm ướt, hệ thống thung lũng và núi đá với bề mặt gồ ghề, đầm lầy và hiện tượng xói mòn đất chịu tác động của mưa gió theo năm tháng Vườn quốc gia Cát Bà có nhiều chương trình để vừa khai thác, vừa bảo tồn thiên nhiên như tăng cường tuyên truyền, vận động người dân, khách du lịch tham gia bảo vệ rừng, biển. Vườn hợp tác với Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật tổ chức hội thảo, xây dựng kế hoạch khai thác và phát triển bền vững khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà; thu hút các chương trình hợp tác quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học cho đảo Cát Bà. Thể hiện trách nhiệm của mình với cảnh quan thiên nhiên, môi trường để giữ được sự điển hình và cái thần của thiên nhiên Cát Bà là điều cần thiết khi khai thác các tuyến du lịch sinh thái ở khu vực này. Do vậy, việc xây dựng đề án phát triển tổng thể du lịch sinh thái Vườn quốc gia cần gắn với hình thành Trung tâm du lịch sinh thái và giáo dục môi trường, kết hợp quy hoạch các tuyến đường du lịch sinh thái theo hướng bền vững với cách làm thông minh để vẻ đẹp thiên nhiên Cát Bà trường tồn và giá trị tăng lên theo thời gian. Mặt khác, tiếp tục đầu tư, cải tạo các điều kiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển các tuyến du lịch sinh thái, đáp ứng nhu cầu tham quan của du khách, công tác bảo tồn và nghiên cứu khoa học trong nước cũng như quốc tế. Phát triển du lịch sinh thái là cách quảng bá các giá trị của Cát Bà tự nhiên nhất, không chỉ đem lại lợi nhuận cho địa phương, mà còn tạo ra hàng trăm, hàng nghìn việc làm cho người dân các nơi có rừng, giúp họ thấy được giá trị và lợi ích từ rừng mà gìn giữ, bảo vệ tài nguyên.( Du lịch sinh thái Cát Bà-Bí ẩn, kỳ thú - báo Hải Phòng). *Mô hình vườn cây sinh thái ở đảo Cát Bà Với đặc thù địa hình vườn đồi xen kẽ các khu vực dân cư các xã ở dảo Cát Bà như Trân Châu, Gia Luận, Xuân Đám phát triển mô hình vườn cây ăn qủa du lịch sinh thái. Đây là mô hình mang lại lợi ích thiết thực, tăng thu nhập từ sản phẩm hoa quả và dịch vụ du lịch đi kèm.
  33. Chuyên đề thực tập Ông Nguyễn Văn Bình ở xã Xuân Đàm cho biết chúng tôi trồng các loại cây ăn quả đặc sản của địa phương như cam giấy. Một số địa phương vận động người dân trồng cây với kiến trúc vườn rừng kết hợp phát triển làng du lịch sinh thái Đây là cách đón đầu cơ hội phát triển, thu hút khách nhất là du khách nước ngoài, đến khám phá thiên nhiên tại đảo ngày càng đông từ khi có chủ trương xây dựng khu du lịch suối khoáng nóng Xuân Đàm. Trừ chi phí, mỗi năm gia đình ông Bình thu nhập 20 đến 40 triệu đồng từ hoa quả và dịch vụ du lịch. Nhiều gia đình ở Gia Luận, Xuân Đàm, Trân Châu mạnh dạn phát triển mô hình vườn- rừng, đưa phương thức canh tác bền vững trên đất dốc và sản xuất, vừa phủ đất xang trống, đồi trọc, vừa tạo sản phẩm du lịch sinh thái. Ngoài cam giấy, nhiều gia đình ở Gia Luận, Xuân Đám mở rộng diện tích trồng thông khai thác nhựa kết hợp nuôi ong mật, trồng cây hồng, vải, nhãn tạo những sản phẩm đặc thù ở khu vực khu dự trữ sinh quyển Cát Bà . Chủ tịch UBND xã Trân Châu Đỗ Văn Lượng cho biết, tuyến đương du lịch sinh thái dẫn vào khu leo núi mạo hiểm ở thôn Liên Minh là sự kết hợp phát triển kinh tế vườn dịch vụ mà nhiều hộ dân tận dụng. Thực tế, đây là một khu vực có nhiều vườn đồi cây ăn quả thu hút đông khách đến dã ngoại, khám phá vẻ đẹp thiên nhiên. Một số gia đình kết hợp cung cấp dịch vụ nghỉ dưỡng khám phá vườn đồi với chế biến nhiều món ăn đặc trưng gà Liên Minh, dưa chuột rau xanh vườn đồi Khách du lịch không chỉ khách nước ngoài, mà nay những người đến từ Hà Nội, Đà Nẵng hoặc người dân phương Nam luôn kèm theo lời nhắn: “hãy đưa chúng tôi đến những nơi mà du khách chưa ai đến”. Và họ cảm thấy thật sự mãn nguyện khi được sống trong thiên nhiên hoang dã và cảm giác lạ thật sự. Tuy nhiên, để phát triển mô hình rộng rãi, hiệu quả và nâng cao chất lượng, ngoài sự tìm tòi, tự làm của người dân, rất cần những định hướng phát triển theo vùng, chính quyền huyện và người dân về vốn, kỹ thuật phát triển cây trồng vườn đồi. Mặt khác, hỗ trợ cách thức quảng bá, thu hút du khách đến , bên cạnh thăm các vịnh, hệ thống bãi tắm, vườn quốc gia, còn được thưởng thức khám phá du lich sinh thái tự nhiên, hấp dẫn, với nhiều người dân, làm du lich sinh thái là phải đi bộ phải ăn ngủ trên nhà sàn ở tận trong rừng, phải sống trong hơi thở của rừng nguyên sinh theo kiểu “du lich sạch” và gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Và cái quan trọng nhất coi như một bí quyết là dựa vào người dân, chủ lực trong giữ rừng cùng làm hưởng lợi. Ngoài ra, cần nghiên cứu, hợp tác triển khai những mô hình sinh thái cụ thể nhiều sản phẩm du lich mới.
  34. Chuyên đề thực tập 2.3.3.2. Các sản phẩm du lịch sinh thái tại Cát Bà Theo quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hải Phòng dã được phê duyệt năm 1997 trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995- 2010 và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2010, du lịch thành phố được chia làm 3 cụm: - Đồ Sơn-Cát Bà - Thành phố Hải Phòng và phụ cận - Kiến An-Thuỷ Nguyên-Tiên Lãng-Vĩnh Bảo Trong số các cụm du lịch trên, Đồ Sơn-Cát Bà gắn với di sản Hạ Long có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển du lịch Hải Phòng, đặc biệt Cát Bà nằm trong khu vực Hạ Long-Cát Bà-Đồ Sơn đã được xác định là vùng trọng điểm phát triển du lịch quốc gia. Và hiện nay quần đảo Cát Bà đã được công nhận là khu bảo tồn sinh quyển thế giới, vườn quốc gia Cát Bà có hệ sinh thái rừng nhiệt đới trên núi đá vôi với tính đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài quý hiếm, tiêu biểu là Voọc đầu trắng. Một số sản phẩm du lịch đặc trưng được định hướng phát triển cho Cát Bà trên cơ sở phân tích những đặc thù về tài nguyên du lịch và vị trí của Cát Bà trong hoạt động phát triển du lịch của Hải Phòng, bao gồm: - Tham quan cảnh quan vịnh Lan Hạ - Tham quan, nghiên cứu các giá trị về cảnh quan, sinh thái và đa dạng sinh học ở vườn quốc gia Cát Bà - Bảo tàng sinh thái biển tự nhiên trên cơ sở khai thác đặc điểm tự nhiêncủa hệ thống rất đặc trưng và riêng biệt ở Cát Bà để phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch yêu thiên nhiên. Mặc dù đã dược quy hoạch định hướng phát triển, nhưng theo kết quả điều tra nghiên cứu thực tiễn cho thấy các sản phẩm du lịch chủ yếu hiện nay được khai thác là: - Đi bộ qua rừng quốc gia. - Đi xe đạp từ thị trấn Cát Bà- Gia Luận-thị trấn Cát Bà. - Đi tàu từ Cát Bà đến vịnh Hạ Long và ngược lại. - Đi từ vịnh Lan Hạ kết hợp trèo thuyền cắm trại, tắm biển, thăm rừng quốc gia, nghỉ đêm trên tàu.
  35. Chuyên đề thực tập Trong chương trình này, các nhà điều hành và công ty du lịch chỉ coi Cát Bà là điểm trung chuyển. Các hãng lữ hành và các nhà điều hành tour lớn, các nhóm khách nhiều thường không thích nghỉ tại Cát Bà. Khách du lịch nghỉ đêm ại đảo Cát Bà chủ yếu là khách du lịch tự do, khách có ngân sách hạn hẹp. Trong hầu hết các tour dến đảo Cát Bà, khách du lịch thường kết hợp mục đích thăm quan Cát Bà với vịnh Hạ Long và ngược lại. Chương trình này tạo ra một tour một đến một hoặc nhiều nơi rồi quay về: - Hà Nội-Hải Phòng-Cát Bà-Hạ Long-Hà Nội - Hà Nội-Hạ Long-Cát Bà-Hà Nội Việc khai thác các sản phẩm này cũng chỉ ở mức độ sơ khai, mang tính chắp vá, chưa có xác định mục tiêu chiến lược lâu dài và chưa có những nghiên cứu mang định hướng phá triển từng sản phẩm. 2.3.3.3. Các dịch vụ - Dịch vụ lưu trú, ăn uống: khách sạn nhỏ , nhà nghỉ chưa đạt tiêu chuẩn,không có các khách sạn cũng như chuỗi khách sạn cao cấp; ít nhà hàng ăn ngon, không có các món ăn truyền thống ,dân gian. Tuy nhiên, đến với Cát Bà du khách sẽ được thưởng thức những món ăn hải sản được chế biến từ nguồn thực phẩm địa phương như: cá song, cá hồng, tôm, cua, đặc biệt là tu hài Cát Bà-món ẩm thực đặc trưng của đảo ngọc. - Không có các hoạt động vui chơi giả trí mang nét du lịch sinh thái, nhiều quán bar sàn nhảy ầm ĩ. - Hàng lưu niệm Các mặt hàng lưu niệm rất ít, không phong phú và đa dạng về mẫu mã, chủng loại; không mang nét đặc trưng của địa phương. 2.3.3.4. Hướng dẫn viên Đội ngũ hướng dẫn viên được đào tạo chuyên ngành du lịch rất ít chủ yếu là các công tác viên nên chất lượng tour thường không cao. Các hướng dẫn viên có trình độ ngoại ngữ chưa cao, còn nhiều hướng dẫn viên chạy theo kinh tế nên không trau dồi, bổ sung thêm kiến thức do đó vẫn còn hiện tượng hướng dẫn viên không hiểu rõ về điểm đến khi thuyết minh cho khách. Các công ty lữ hành hiện nay có rất nhiều hướng dẫn viên tự do, không bị ràng buộc khi không làm tròn trách nhiệm hoặc bị khách than phiền nên dẫn dắt tour qua loa, không chu đáo với khách.
  36. Chuyên đề thực tập 2.3.4.Thị trường khách du lịch Theo những điều tra của số liệu thống liệu thống kê của Sở du lịch Hải Phòng kết quả cho thấy số khách nội địa chiếm 73% và khách quốc tế chiếm 27% với độ dài lưu trú bình quân là 1,84 ngày. Phân đoạn thị trường khách quốc tế như sau: EU(Anh, Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp, Thuỵ Điển) 64,6% Châu Á(Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) 13,3% Mỹ và Canada 12,1% Úc và New Zealand 7% Khác 3% Hầu hết khách du lịch ở độ tuổi 20-35 và khi hỏi đến mục đích tham quan Cát Bà, thì 37,31% tới để tắm nắng và tắm biển, 59% tới để tham quan, 51% tới để đi bộ trong vườn quốc gia.60% câu trả lời là kết hợp tham quan Cát Bà và vịnh Hạ Long. 90% là khách lần đầu tiên đến với Cá Bà, trong khi chỉ có rất ítcác nhà nghiên cứu và các doanh nhân đi tìm cơ hội kinh doanh và với mục đích khác 28% biết Cát Bà qua bạn bè, 24% qua Internet, 36% qua các nhà điều hành tour và hang lữ hành, 0,36% biết Cát Bà qua phương tiện thông tin đại chúng. Trong số khách tới Cát Bà 81,5% mua tour trọn gói qua công ty lữ hành và 18,5% tự tổ chức chuyến đi của mình. Phương tiệnvận chuyển chủ yếu tới Cát Bà là xe buýt và tàu cao tốc. 95% thỏa mãn với dịch vụ lưu trú .77% hài lòng với cảnh đẹp của Cát Bà. Thật ngạc nhiên, 83% cho rằng họ mong muốn trở lại Cát Bà khi có dịp. Số liệu thống kê cũng chỉ ra rằng trong thời kỳ từ tháng 5dến tháng 8là thời gian dành cho khách nội địa và khách quốc tế chủ yếu đến đây trong khoảng từ tháng 9 đến tháng 4 do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa. 2.4. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của du lịch sinh thái Cát Bà * Điểm mạnh: - Thiên nhiên đặc trưng với môi trường được bảo vệ tốt, hệ sinh thái đa dạng, cảnh quan thiên nhiên gồm núi đá vôi, rừng quốc gia hang động, đảo, bãi biển nguyên sơ, trang trại nuôi ngọc trai, rừng ngập mặn vịnh.
  37. Chuyên đề thực tập - Du lịch sinh thái: bảo tàng sinh thái tự nhiên, leo núi, đi bộ qua rừng và các hoạt động chèo thuyền. - Tầm quan trọng về văn hoá: các khu khảo cổ,lễ hội truyền thống - Nằm ngay vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận - Cư dân địa phương thân thiện, hiếu khách, không có tệ nạn xã hội, hệ thống chính trị ổn định, điểm đến an toàn, môi trường kinh tế năng động. *Điểm yếu - Thiếu các chương trình du lịch hấp dẫn(các nhà điều hành và các công ty du lịch thường sử dụng một chương trình giống hệt nhau khi quảng bá). - Giao thông, đi lại khó khăn( không thể tiếp cận bằng đường hàng không, các dịch vụ về tàu thuỷ còn ít, mất nhiều thời gian mới có thể đến được điểm đến). - Không có các khách sạn cũng như chuỗi khách sạn cao cấp,có ít nhà hàng ăn ngon. - Nhiều quán bar, sàn nhảy ầm ĩ, không nhiều các hoạt động vui chơi giải trí, không có trang web chính thức, tờ rơi, bản đồ, trung tâm thông tin. - Thiếu sự phối hợp giữa các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực du lịch. - Ngân sách địa phương không phân bổ cho các hoạt động xúc tiến du lịch hàng năm. - Quá trình đô thị hoá như nhà cao tầng mọc lên làm phá vỡ cảnh quan tự nhiên, do việc xây dựng làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến hệ sinh thái; ít đầu tư phát triển du lịch. - Lực lượng lao động trong ngành du lịch thiếu tính chuyên nghiệp. - Chính quyền địa phương không tuân thủ chặt chẽ quy hoach tổng thể phát triển du lịch. - Không có các mặt hàng lưu niệm đăc trưng. - Ít các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương. *Thời cơ - Kế hoạch phát triển dài hạn của VNAT ưu tiên phát triển du lịch sinh thái - Trong tam giác phát triển kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh.
  38. Chuyên đề thực tập - Phát triển cơ sở hạ tầng. *Thách thức - Ô nhiễm môi trường: là vấn đề rất đáng được quan tâm tại Cát Bà hiện nay, lượng tàu sử dụng máy dầu đang làm ô nhiễm nguồn nước, vấn đề rác thải do những khách du lịch thiếu trách nhiệm thải ra trong những khu vực tham quan, các công trình xây dựng tác động mạnh đến hệ sinh thái. - Tàn phá rừng: người dân địa phương không có ý thức trong công tác bảo vệ rừng trên đảo, gây nguy hiểm cho hệ thực vật, động vật. - Thiên tai tự nhiên - Quy hoạch đô thị không phù hợp: tình trạng xây dựng tự do kông theo quy hoạch, nhiều loại hình kiến trúc khác nhau, nhà cao tầng phá vỡ cảnh quan. - Gia tăng các tệ nạn xã hội, mất bản sắc văn hoá. - Thiếu nước ngọt. Nhận thức hiện nay về đảo Cát Bà trong khách du lịch còn rất hạn chế. Địa điểm này không đáp ứng được mong đợi của khách du lịch. Vì Cát Bà không tuân theo một mẫu quy hoạch du lịch bền vững, và điều này phản ánh qua việc phát triển đô thị không hấp dẫn đã tiến hành trước đây, những khu vực không được khai thác và không được chú ý như rừng quốc gia Nếu chính phủ và chính quyền địa phương mong muốn du lịch trở thành một ngành tạo ra thu nhập thì cần phải chấn chỉnh ngay thực trạng này.
  39. Chuyên đề thực tập Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TẠI CÁT BÀ 3.1. Định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững tại Cát Bà Quần đảo Cát Bà chính thức được tổ chức Văn hoá-Khoa học-Giáo dục của Liên Hợp Quốc(UNESCO) công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới từ ngày 19/12/2004. Cát Bà là điểm du lịch độc đáo của Hải Phòng, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Vì vậy, cần có những định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững tại Cát Bà. Các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng giai đoạn 2008-2015, phê duyệt đièu chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025, và tầm nhìn đến năm 2050, là cơ sở cho hang loạt các dự án được Chính phủ định hướng đầu tư để đưa du lịch Hải Phòng, đặc biệt là đảo Cát Bà đi lên thành khu vực du lịch tập trung có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Hiện tại Chính phủ đang rất ưu tiên xúc tiến thực hiện các dự án do Trung ương đầu tư trực tiếp vào Hải Phòng. Cụ thể là những dự án đường ôtô cao tốc Hà Nội- Hải Phòng(đường 5B), dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, cầu Đình Vũ-Cát Hải, cảng Đình Vũ tiếp tục hoang thành giai đoạn II, cải tạo nâng cấp các bến tàu khách Cát Bà, Gia Luận, Bến Bèo, cảng hàng không quốc tế Cát Bi xây dựng sân bay taxi ở Đồ Sơn, Cát Bà, Bạch Long Vĩ phục vụ du lịch và cứu hộ. Phát triển du lịch là một chính sách được Chính phủ tập trung ưu tiên phát triển tại Hải Phòng, trong đó Cát Bà là trọng điểm. Đảo Cát Bà có lợi thế là khu dự trữ sinh quyển thế giới đang ngày càng biết đến như một địa điểm tham quan đầy lrs tưởng với khách du lịch. Nói một cách chính xác, lượng du lịch đến với Cát Bà đang đóng góp vào mức tăng trưởng du lịch hàng năm của Hải Phòng và tạo ảnh hưởng tích cực đến ngành du lịch Việt Nam. Ông Vũ Tiến Bảy-Trưởng phòng VH,TT&DL huyện Cát Hải cho biết:”cơ sở hạ tầng, để phát triển kinh doanh du lịch, gồm nhà hàng, khách sạn ít, quy mô thấp không đáp ứng đủ nhu cầu lưu trú của khách du lịch,nhất là khách nước ngoài.Cát Bà được đánh giá là khu du lịch đẹp của Việt Nam, nhưng mức độ đầu tư chưa tương xứng nên chất lượng dịch vụ thấp, thiếu chuyên nghiệp. Tuy nhiên, Cát Bà
  40. Chuyên đề thực tập chắc chắn sẽ trở nên hấp dẫn hơn nhờ những công trình lớn mà Chính phủ đang triển khai, cộng với sự đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng phát triển du lịch như dự án Cát Bà Amatian(Dự án khu đô du lịch Cát Giá-Cát Bà) với chủ đầu tư là công ty Vinacenx-ITC.” Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, Nguyễn Văn Thành chỉ ra những tiềm năng, lợi thế là khu dự trữ sinh quyển thế giới, khu bảo tồn biển và công viên địa chất, những thách thức trong quá trình phát triển và bảo tồn đảo Cát Bà là không nhỏ với yêu cầu cần tăng cường kết nối Cát Bà với thành phố và các trung tâm du lịch khác; công tác quy hoạch chưa theo kịp sự phát triển; cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch cao cấp còn thiếu Chủ tịch chỉ đạo, các ngành liên quan phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với huyện Cát Hải để đẩy nhanh công tác quy hoạch theo hướng phát triển du lịch dịch vụ sinh thái; tiếp cận và đón bắt dịch vụ mới khi Cát Bà nằm liền kề với cảng nước sâu; gắn phát triển với bảo tồn giá trị của quần đảo, đặt con người làm trung tâm; hoàn thiện quy hoạch lồng bè trong quý 2 theo hướng giảm 50% số ô lồng và chỉ để 5000 đến 6000 ô lồng. Chủ tịch yêu cầu huyện phối hợp Sở Văn hóa- thể thao và du lịch tổng kiểm tra, đánh giá lại tài nguyên thiên nhiên, lịch sử, cảnh quan, cơ sở hạ tầng, các vịnh và bãi tắm, cơ sở lưu trú, hệ thống điện nước, xử lý rác và nước thải trên đảo để có định hướng phát triển bền vững và xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho du lịch; tăng cường phân cấp gắn với kiểm tra trong quá trình quản lý nhà nước, trước mắt thí điểm về giải pháp cho giao thống ra đảo; cơ chế quản lý vịnh; mức thu phí tham quan vịnh; giao cho chủ tịch huyện chịu trách nhiệm về cơ chế quản lý môi trường trên các vịnh. Chủ tịch đề nghị các ngành và huyện chủ động, nhanh chóng tháo gỡ, xử lý vướng mắc khó khăn của các dự án đầu tư phát triển du lịch và phục vụ dịch vụ du lịch trên đảo, đồng thời thực hiện nghiêm ngặt việc xem xét, phê duyệt thẩm định các dự án trên cơ sở tuân thủ tiêu chuẩn, tiêu chí, trong đó ưu tiên dự án phát triển du lịch sinh thái, xanh, sạch và thân thiện với môi trường. 3.2. Các giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững tại Cát Bà 3.2.1. Công tác quy hoạch tổng thể Để Cát Bà xứng tầm khu du lịch quốc gia và quốc tế, trước hết công tác quy hoạch phát triển du lịch phải đặt lên hàng đầu, trong đó quy hoạch tổng thể cũng như chi tiết cần có tầm nhìn xa, nhưng lại phải cụ thể, để có sự đầu tư thích đáng
  41. Chuyên đề thực tập cho ra tấm, ra miếng, có sự phân kỳ vừa sức. Trong buổi làm việc với huyện Cát Hải cuối tháng 3 vừa qua, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, Nguyễn Văn Thành chỉ đạo: “Cần triển khai nghiêm ngặt việc xét duyệt, thẩm định các dự án đầu tư vào Cát Bà, bảo đảm tuân thủ các tiêu chuẩn, tiêu chí, trong đó ưu tiên các dự án du lịch xanh, sạch, thân thiện với môi trường”. Việc xây dựng hệ thống nhà hàng, khách sạn quy mô lớn, hiện đại với chất lượng quốc tế, các điểm du lịch trên đảo và dưới biển phong phú như sân golf, khu du thuyền, lặn biển, khám phá khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà là cần thiết. Thành phố, huyện đảo tiếp tục huy động các nguồn lực đầu tư nâng cấp và xây mới các cơ sở, dịch vụ du lịch ở Cát Bà, đẩy nhanh dự án khu nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp Resort Cát Cò 2; dự án sân golf 9 lỗ ở Xuân Đám; dự án khu nghỉ dưỡng và suối khoáng nóng Xuân Đám; khu đô thị du lịch Cái Giá Cát Bà phù hợp với nhiều loại hình du lịch hấp dẫn như tắm biển, vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, thể thao mạo hiểm, tham quan rừng biển, du lịch văn hoá Huyện Cát Hải cũng đề nghị thành phố Hải Phòng và các sở ngành quan tâm bổ sung quy hoạch tổng thể, phát triển kinh tế, xã hội huyện Cát Hải, lập quy hoạch chi tiết các xã, thị trấn khu vực Cát Bà và quy hoạch phát triển một số ngành kinh tế, đặc biệt là là ngành du lịch; sớm công bố quy hoạch huyện Cát Hải, triển khai nhanh các dự án xây dựng 3 hồ chứa nước trên đảo, đầu tư hệ thống cấp nước từ suối Gôi( xã Xuân Đám) về thị trấn Cát Bà, tiếp tục thực hiện dự án mở rộng và nâng cấp hai tuyến đường xuyên đảo; đầu tư nâng cấp và nghiên cứu cơ chế quản lý, vận hành hai tuyến phà Đình Vũ-Ninh Tiếp, Bến Gót-Cái Viềng; đẩy mạnh tiến độ triển khai dự án đầu tư các trạm biến áp và đường dây tải điện 110KV Chợ Rộc-Cát Bà; điều chỉnh và cấp chứng chỉ quy hoạch xây dựng nhà máy xử lý rác thải thị trấn Cát Bà, dự án nạo vét vịnh Cát Bà, thành lập ban quản lý vịnh Lan Hạ; có phương án giải quyết để triển khai tuyến xe búyt, điều chính các điểm cho tàu du lịch lưu trú qua đêm trên vịnh Lan Hạ Đó là hướng đi để Cát Bến trở thành điểm đến hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước, xứng đáng là trọng điểm du lịch quốc gia và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của thành phố trong giai đoạn mới. 3.2.2. Công tác giáo dục và tuyên truyền về du lịch sinh thái Giải pháp thiết yếu nhất và quan trọng nhất để phát triển du lịch sinh thái là giáo dục và tuyên truyền về du lịch sinh thái cho những đối tượng có liên quan đến du lịch sinh thái. Đối tượng giáo dục bao gồm: các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên, các nhà hoạch định chính sách liên quan đến bảo tồn và du lịch, các hướng dẫn viên, cộng đồng địa phương, khách du lịch trong và ngoài nước.
  42. Chuyên đề thực tập Giáo dục tuyên truyền đối với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và các nhà hoạch định chính sách liên squan đến bảo tồn và du lịch có thể làm cho họ quan tâm hơn đến việc quy hoạch du lịch sinh thái. Đối với ho cần phải nhấn mạnh đến tiêm lực kinh tế mà du lịch sinh thái có thể mang lại cho bảo tồn. Cũng phải lưu ý họ về tầm quan trọng của cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn. Đào tạo giáo dục hướng dẫn viên nên được tiến hành chính quy trong các trường đại học, cac đẳng, trung cấp dậy nghề. Nên ưu tiên đào tạo các hướng dẫn viên địa phương. Khách du lịch là một đối tượng giáo dục hiển nhiên. Bản thân giáo dục tại hiện trường cho du khách cũng nằm trong định nghĩa của du lịch sinh thái. Hay nói cách khác giáo dục về thiên nhiên là một phần tạo nên du lịch sinh thái. Những nội dung giáo dục phải phù hợp, giúp du khách liên hệ trực tiếp những điều họ đã từng nghe, từng đọc với những điều mắt thấy tai nghe khi họ đến thăm khu bảo tồn thiên nhiên. Nếu làm được việc này du khách sẽ ý thức hơn trong khi tiếp xúc với động vật hoang dã, và họ sẽ thấy chuyến đi của mình bổ ích hơn và sẽ mong muốn trở lại hoặc đến một khu thiên nhiên khác để học được những điều tương tự. Đối với cộng đồng địa phương, chương trình giáo dục phải dựa trên nhiều hình thức.Nên sử dụng những hình thức dễ hiểu, dễ nhớ chẳng hạn như băng hình,tranh ảnh,các chương trình biểu văn nghệ Giáo dục cộng đồng địa phương trước hết tập trung vào đối tượng chủ chốt là những nhà lãnh đạo địa phương (huyên, xã ), những người có uy tín trong cộng đồng chẳn hạn như những người lớn tuổi, những người có trình độ học vấn như thầy giáo, những người đứng đầu các tổ chức đoàn thể quần chúng như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân Nếu có thể tuyên truyền giáo dục cho các đối tượng này thì việc giáo dục cho toàn thể cộng đồng trở nên dễ dàng hơn rất nhiều bởi họ luôn được dân nghe theo. Nên lấy người địa phương làm nhà quản lý khu du lịch sinh thái nếu có thể . Không chỉ giáo dục đối với cộng đồng địa phương nơi có khu bảo tồn thiên nhiên, mà nên có những chương trình giáo dục đối với cộng đồng người Việt Nam nói chung, vì họ là những du khách tương lai của các điểm du lịch sinh thái. Chương trình giáo dục phải khuyến khích họ và làm cho họ có mong muốn được đi du lịch theo hình thức du lịch sinh thái. Đối tượng chủ yếu của Việt Nam có lẽ là học sinh, sinh viên trong các nhà trường. Họ là những người thường xuyên tổ chức các chuyến đi thăm quan thiên nhiên, nhưng nhiều khi
  43. Chuyên đề thực tập chưa ý thức hết được vai trò quan trọng của thiên nhiên. Hậu quả những chuyến đi dã ngoại của họ trong các khu thiên nhiên thường là những bãi rác sau khi họ ăn trưa và nhiều tác động tiêu cực khác. Tuy nhiên, thay đổi hành vi, thói quen của họ cũng không phải là việc dễ dàng làm trong ngày một ngày hai. Đối với học sinh, sinh viên nên có những chương trình giáo dục du lịch sinh thái kết hợp với giáo trình của nhà trường. Vấn đề này sẽ liên quan đến Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nên có chương trình giáo dục ngay từ cấp một vì càng nhỏ các em càng dễ tiếp thu hơn đối với những gì được dạy. Đối với những đối tượng lớn hơn nên chỉ lưu ý họ, thuyết phục họ chứ không nên ra lệnh vì lớp trẻ thường thích làm trái lời để thể hiên sự trưởng thành của mình, mặc dù đó không phải là cách tốt nhất để làm vậy. Không chỉ tuyên truyền, giáo dục đối với người dân trong nước, cần phải tuyên truyền du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn thiên nhiên cho cả đối tượng khách nước ngoài. Nên khuyến khích họ sử dụng dịch vụ và mua sản phẩm quà lưu niệm địa phương, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. 3.2.3. Bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái. Trong nhiều năm qua,Cát Bà đã được xác định là điểm du lịch sinh thái quan trọng thu hút 500 nghìn lượt khách trong và ngoài nước. Tuy nhiên, với áp lực của hoạt động du lịch đã tác động không nhỏ đến môi trường tại Cát Bà. Cuối năm 2008, Ban quản lý Vườn quốc gia Cát Bà đã tiến hành khảo sát điều tra với 300 lượt khách trong và ngoài nước về những tác động đến môi trường tự nhiên. Theo đó, cho thấy nguyên nhân chính gây tác động đến môi trường là do hoạt động du lịch và do cộng đồng địa phương. Ngoài ra, còn do các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch và các thành phần kinh tế khác. Các nguồn gây tác động đến môi trường bao gồm nước thải, rác thải tuy chưa đến mức độ ô nhiễm nghiêm trọng đến nguồn nước và không khí, nhưng gây tác động không nhỏ đến động thực vật biển. Hệ thống thu gom rác thải tại các địa phương chưa toàn diện, các thùng rác đã co mặt tại các điểm công cộng nhưng còn hạn chế, hệ thống thu gom rác thải trên mặt nước còn chưa hiệu quả, khu vệ sinh công cộng còn thiếu, hệ thống thông tin chỉ dẫn về môi trường chưa hoàn thiện Một nguyên nhân không kém phần quan trọng tác động đến môi trường tự nhiên ở Cát Bà là do hoạt động của hàng ngàn tàu đánh cá, tàu khách, tàu chở dầu đều xả thẳng nước và rác thải xuống biển làm môi trường biển bị ô nhiễm, làm chết các rạn san hô và các sinh vật biển. Như vậy, cần có những giải pháp để
  44. Chuyên đề thực tập bảo vệ môi trường không làm ảnh hưởng đến tài nguyên thiên nhiên, cũng như gây được ấn tượng tốt trong lòng khách du lịch. Chính quyền địa phương và các cơ quan có liên quan cần tiến hành đồng bộ các biện pháp như: - Cần lắp đặt thêm các biển hướng dẫn nhắc nhở khách bỏ rác đúng nơi quy định, đặt thêm các thùng rác công cộng, có biện pháp xử lý nước thải, rác thải tốt hơn. - Tăng cường hệ thống thông tin về môi trường nhằm hướng dẫn thực hiện đúng quy định về bảo vệ môi trường, đồng thời cảnh báo cho khách biết về tình trạng môi trường và trách nhiệm của mỗi cá nhân; xây them các khu vệ sinh công cộng. - Chính quyền địa phương cần xây dựng nếp sống văn minh trong cộng đồng địa phương để họ tự giác chấp hành quy chế bảo vệ môi trường, không xả rác thải bừa bãi; có chế tài cho các công trình xây dựng ven biển, hoạt động du lịch, dịch vụ, các khu vui chơi giải trí; trên biển buộc phải có hệ thống xử lý rác thải, đảm bảo nước thải không gây ô nhiễm theo quy định; có các biện pháp mạnh nhằm xử lý nhiêm khắc những người vi phạm về luật bảo vệ môi trường. Ngoài việc bảo vệ môi trường thì việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái là rất quan trọng trong việc phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững. Bảo vệ tài nguyên đất Chiến lược sử dụng và bảo vệ môi trường tài nguyên đất Hải Phòng phải gắn với chiến lược phục hồi rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, phục hồi rừng ngập mặn. Đến năm 2005 phải có chính sách bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên đất, tăng cường hỗ trợ việc khai thác bền vững tài nguyên đất. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, chiến lược, chính sách, quy hoạch và sử dụng bền vững tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản trong lòng đất. Áp dụng có hiệu quả công cụ quản lý để giải quyết hài hoà các vấn đề liên ngành trong sử dụng đất, khai thác tài nguyền khoáng sản với việc bảo vệ môi trường, với các lĩnh vực phát triển khác. Phải sử dụng một cách có hiệu quả và hết sức tiết kiệm qũi đất cho phát triển công nghiệp. Phải quy hoạch thành các khu công nghiệp có cơ sở hạ tầng, xử lý chất thải tập trung để tiết kiệm quỹ đất và hạn chế ô nhiễm đất. Khi di dời các cơ sở công
  45. Chuyên đề thực tập nghiệp, cần đánh giá mức độ ô nhiễm đất để có kế hoạch xử lý ô nhiễm và tái sử dụng hợp lý. Cần kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng các loại phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Khắc phục tình trạng lạm dụng các loại phân vô cơ và hoá chất trong sản xuất nông nghiệp làm bạc màu, thoái hoá đất, ô nhiễm các nguồn nước và suy giảm đa dạng sinh học các vùng nông thôn của Hải Phòng, đặc biệt các vùng đất có năng suất cao. Nghiên cứu thay đổi phương thức canh tác theo hướng đảm bảo cân bằng sinh thái và bền vững, nâng cao chất lượng đất, giảm diện tích đất thoái hoá, bạc màu. Áp dụng các biện pháp canh tác trên đất dốc một cách khoa học, chống rửa trôi, xói mòn. Bảo vệ tài nguyên nước Tiến hành kiểm kê, phân loại các dạng tài nguyên nước : nước ngọt, nước lợ, nước mặn, dưới đất để có kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm, phù hợp với đặc điểm sinh thái, ngăn ngừa và phòng ô nhiễm, làm cho tài nguyên nước kiệt đi và mất khả năng tự phục hồi về lượng. Đối với Hải Phòng, cần có chính sách bảo tồn tài nguyên nước lợ, nước chứa đựng các tài nguyên sinh vật và dạng tài nguyên khác rất đa dạng và phong phú. Nghiên cứu sử dụng nước biển trong làm sạch công nghiệp. Tổ chức đánh giá và kiểm soát được chất lượng, trữ lượng nước ngầm; có kế hoạch đầu tư phát triển tài nguyên nước và ban hành các quy định cụ thể về khai thác nguồn nước ngầm. Tài nguyên nước khoáng, nước nóng cần tiếp tục được điều tra thăm dò, đánh giá trữ lượng để khai thác cho nhu cầu chữa bệnh, du lịch giải trí, kể cả nguồn năng lượng địa nhiệt. Bảo vệ tài nguyên nước các đầm, hồ ao, đất ngập nước cần nghiên cứu nuôi trồng các loại thuỷ sản như sen, súng, tôm cá, ba ba Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về tài nguyên nước theo hướng khai thác bền vững nguồn nước mặt và nước ngầm. Thực hiện việc quy hoạch và quản lý các lưu vực sông chính như: Sông Cấm, sông Lạch Tray, sông Văn úc, đặc biệt là các sông cung cấp nguồn nước ngọt như sông Giá, sông Rế, sông Đa Độ. Tiến hành thu phí sử dụng tài nguyên nước theo Luật Tài nguyên nước đã ban hành. Bảo vệ rừng và đa dạng sinh học
  46. Chuyên đề thực tập Phục hồi và phát triển vốn rừng (rừng tự nhiên, rừng đặc dụng, rừng phân tán, rừng ngập mặn ) và nâng diện tích che phủ thực vật. Nội dung phát triển diện tích rừng gồm trồng mới 2658 ha rừng, trong đó: rừng phòng hộ môi sinh là: 1319 ha, rừng phòng hộ ven biển là 629 ha, rừng phòng hộ ven sông là 710 ha. Huy động các xã tăng cường trồng mới các loại rừng phân tán tại những nơi đất trống. Đặc biệt, chú trọng việc khôi phục diện tích các khu vực rừng phòng hộ chắn sóng, bảo vệ rừng Quốc gia Cát Bà, nâng cao chất lượng rừng nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, phát huy hiệu quả bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái, phát triển đa dạng sinh học. Nghiêm cấm việc phá huỷ rừng ngập mặn, các hệ sinh thái nhạy cảm cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản; phòng ngừa cháy rừng song song với việc phục hồi các hệ sinh thái và các khu rừng ngập mặn Đối với rừng trồng trên đồi núi thấp, rừng phân tán trên đồng bằng cần nghiên cứu các loại cây có giá trị kinh tế cao có thể xuất khẩu như long nhãn và vải thiều, kết hợp với nhu cầu tại chỗ. Mở rộng diện và đối tượng bảo tồn trong vườn quốc gia Cát Bà bao gồm các rạn san hô, các giống loài đặc hữu ven bờ biển, đảo Tăng tỷ lệ cây xanh trong đô thị và khu công nghiệp, đến năm 2010 đảm bảo tỷ lệ qui định đối với đô thị cấp1,cấp Quốc gia. Thực hiện các chương trình xanh hoá khu vực nội thành, các khu vực thị xã, thị trấn và các khu công nghiệp. Các khu công nghiệp cần bố trí hệ thống công viên nối với nhau tạo ra không gian cây xanh có giá trị môi trường. Nâng diện tích công viên, khuôn viên cây xanh khu vực nội thành, trồng cây dọc tuyến đường giao thông quan trọng. Nghiên cứu quy hoạch cây xanh và thảm thực vật nội thành theo hướng đô thị hiện đại và đảm bảo chất lượng môi trường sống cao. Bảo vệ và phát triển Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà khi được công nhận. Mở rộng diện và đối tượng bảo tồn trong vườn quốc gia Cát Bà. Coi nhiệm vụ bảo tồn thiên nhiên có tầm quan trọng như nhiệm vụ phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Bảo tồn thiên nhiên góp phần cân bằng sinh thái, tạo sự ổn định tự nhiên. Bảo tồn các hệ sinh thái, đặc biệt là các hệ sinh thái ven biển hạn chế thiên tai, lũ lụt, giữ được sự ổn định mực nước mặt và nước ngầm. Tiến hành khoanh vùng bảo tồn các hệ sinh thái đặc thù, có tính đa dạng sinh học cao, theo quy chế đặc biệt nhằm tăng số lượng vùng và diện tích bảo
  47. Chuyên đề thực tập tồn trên phạm vi toàn thành phố. Quy hoạch khu bảo tồn phải kết hợp chặt chẽ với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Vườn Quốc gia Cát Bà đã, đang và sẽ là Khu dự trữ sinh quyển của Việt Nam và Thế giới. Thành lập cơ quan quản lý và điều hành và tăng cường kiểm soát mọi hoạt động phát triển đảm bảo giữ đúng tính chất của các vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp, đảm bảo phát triển bền vững đi đối với bảo tồn Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà Bảo vệ đa dạng sinh học, đặc biệt sinh học biển (quanh khu vực Cát Bà, Bạch Long Vỹ), bao gồm các rạn san hô, các giống loài đặc hữu ven bờ biển, đảo, đất ngập nước, rừng ngập mặn Phân vùng chức năng biển và ven biển, quản lý tổng hợp các hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản ven biển Cát Bà-Đồ Sơn, thành lập hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển, phòng ngừa và giảm thiểu tác hại của thiên tai ven biển. Trước mắt, cần khoanh định, bảo vệ các khu rừng ngập mặn có giá trị sinh thái cao dọc theo dải bờ biển, áp dụng các phương thức khai thác, nuôi trồng thuỷ hải sản theo hướng an toàn sinh thái. Chú trọng đánh giá tác động môi trường đối với mọi hoạt động có khả năng gây suy thái tài nguyên, suy giảm nguồn lợi hải sản, tổn thất đa dạng sinh học qua việc phá huỷ nơi cư trú, rạn san hô, ô nhiễm chất thải từ đô thị, khu công nghiệp, các hoạt động giao thông vận tải biển, du lịch. Đặc biệt, Hải Phòng còn chịu ảnh hưởng của ô nhiễm xuyên biên giới do dòng hải lưu từ phía Bắc xuống và phía Nam lên. Kiểm soát, ngăn chặn triệt để việc buôn bán các động vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao như voọc đầu trắng, san hô. Loại bỏ các phương thức khai thác huỷ diệt, đặc biệt là trong khai thác thuỷ sản; đẩy mạnh các biện pháp bảo tồn nội vi kết hợp với biện pháp bảo vệ ngoại vi. Kiên quyết bằng nhiều biện pháp về luật pháp, hành chính, khuyến khích kinh tế, chấm dứt khai thác đi đến cạn kiệt nguồn, huỷ diệt môi trường sinh thái, phá huỷ các nơi cư trú của các giống loài thực vật biển. Mọi dự án khai hoang lấn biển, phát triển trên bờ biển, khai thác tài nguyên biển đều phải đánh giá tác động môi trường và có biện pháp bảo vệ hữu hiệu môi trường biển. Đất ngập nước các huyện Cát Hải, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng, Thuỷ Nguyên là một hợp phần đặc biệt quan trọng của môi trường Thành phố. Bảo vệ các nguồn đất ngập nước là nhằm sử dụng có hiệu quả các vùng đất ngập nước, bảo vệ đa dạng
  48. Chuyên đề thực tập sinh học trong vùng, đồng thời duy trì các chức năng sinh thái, kinh tế, xã hội của những vùng đất này. Quy hoạch lại vùng nuôi trồng hải sản ven bờ biển, bảo vệ phát triển rừng ngập mặn, bảo vệ các đầm phá, bãi triều, các rạn san hô, các nguồn tài nguyên biển là những nhiệm vụ phức tạp nặng nề nhưng lại rất bức xúc ở vùng nông thôn ven biển. Một sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền và cộng đồng làng bản, tư nhân có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thành bại của chiến lược đối với vùng ven bờ biển và biển. Kiểm soát chặt chẽ sự xâm lấn sinh học từ cửa khẩu cảng biển do các tàu biển từ nước ngoài đưa đến. Tăng cường nghiên cứu khoa học, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, trong xử lý chất thải. Theo tinh thần Nghị quyết 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996 của Trung ương Đảng về định hướng phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Chỉ thị 36/CT-TW của Bộ Chính trị, nhiệm vụ của khoa học và công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường phải tập trung vào các nhiệm vụ như: nghiên cứu cơ bản hiện trạng môi trường và tài nguyên của Thành phố nhằm thống kê và dự báo môi trường, xây dựng hệ thống quan trắc về diễn biến chất lượng môi trường không khí, nước, đất, dự báo những khả năng xảy ra tai biến môi trường; nghiên cứu điều kiện môi trường và tự nhiên vùng Hải Phòng làm luận cứ hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội theo hướng bền vững; nghiên cứu các giải pháp chiến lược, chính sách về bảo vệ môi trường; qui hoạch môi trường; nghiên cứu luận cứ tổ chức dân cư và giao thông đô thị; nghiên cứu quản lý tổng hợp môi trường dải ven biển; nghiên cứu các giải pháp bảo vệ môi trường nông thôn, giải pháp bảo vệ các hệ sinh thái đặc thù Cát Bà, chống xâm nhập mặn các sông; nghiên cứu áp dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và sản xuất sạch hơn. Nghiên cứu phát triển ngành công nghiệp môi trường, ứng dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường. Sử dụng các giải pháp khoa học, công nghệ nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng chống giảm nhẹ tác hại thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ sinh học trong nông nghiệp và xử lý chất thải và điều tra tài nguyên, môi trường, dự báo khí tượng thuỷ văn, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường, xây dựng chiến lược phát triển và bố
  49. Chuyên đề thực tập trí hợp lý không gian lãnh thổ và dân cư, bảo vệ đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái. 3.2.4. Phát triển cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là những hấp dẫn thứ cấp bổ sung cho các hấp dẫn chính là tài nguyên thiên nhiên của các khu bảo tồn thiên nhiên. Nếu không có các hấp dẫn thứ cấp này sẽ mất đi một số lượng không nhỏ những du khách cần đến chúng như một điều kiện cho chuyến đi của mình. Tuy nhiên, hạ tầng cơ sở cũng như các phương tiện phuc vụ nên sử dụng công nghệ hợp môi trường và mang tính tự nhiên. Các phương tiện phục vụ nên được xây dựng từ các nguyên liệu và sử dụng các kiến trúc địa phương, nhưng không được làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của địa phương. Sử dụng các phương tiện phục vụ mang tính địa phương, người dân sẽ không cảm thấy nền văn hoá của họ bị ảnh hưởng, mặt khác họ còn có cảm giác như mình là người chủ thực sự của điểm du lịch sinh thái. Điều này rất có ý nghĩa đối với việc tranh thủ sự ủng hộ đối với các hoạt động và dịch vụ du lịch . Các ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm : - Thiết kế và xây dựng nơi ăn nghỉ cho khách theo kiểu nhà nghỉ sinh thái. - Xây dựng các tuyến đường nội bộ, đường mòn thiên nhiên với hệ thống chỉ dẫn, chỉ báo đầy đủ cả về số lượng và nội dung . - Xây dựng trung tâm đón khách, trung tâm giáo dục môi trường . Hiện tại Cát Bà đã và đang xây dựng trung tâm đón khách, trung tâm giáo dục môi trường nhưng nội dung trưng bày còn nghèo nàn. Hiện trạng cơ sở hạ tầng ở đảo Cát Bà: - Ngoài hệ thống cấp nước sạch hiện trạng ở đảo, Sở du lịch Hải phòng đang triển khai thực hiện đầu tư dự án nhà máy nước sạch có công suất 7.000m3 ngày/đêm để cung cấp cho thị trấn Cát Bà. - Hệ thống cung cấp điện, ngoài đường dây 35Kv hiện có, Công ty Điện lực Hải phòng đang xúc tiến việc đầu tư nâng cấp đảm bảo đáp ứng đủ điện cho công cuộc phát triển kinh tế Huyện đảo. - Hệ thống thông tin liên lạc trên đảo đã được đầu tư từ nhiều năm trước đến nay đang phát huy hiệu quả. - Mạng lưới đường giao thông trên đảo đã và đang được nâng cấp và hoàn thiện, đảm bảo việc đi lại trên toàn đảo bằng xe ô tô ngày càng thuận tiện.