Luận văn Cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam: nghiên cứu so sánh với Trung Quốc

pdf 106 trang phuongnguyen 4190
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam: nghiên cứu so sánh với Trung Quốc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_cai_cach_he_thong_ngan_hang_viet_nam_nghien_cuu_so.pdf

Nội dung text: Luận văn Cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam: nghiên cứu so sánh với Trung Quốc

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM HUỲNH THẾ DU CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM: NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỚI TRUNG QUỐC LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2007
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM HUỲNH THẾ DU CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM: NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỚI TRUNG QUỐC Chuyên ngành: Kinh tế Phát triển Mã số: 60.31.05 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: Ts. VŨ THÀNH TỰ ANH TP. Hồ Chí Minh – Năm 2007
  3. i TĨM TẮT Nghiên cứu đã phát hiện ra hai vấn đề chính gồm: (1) Với những bước đi hợp lý, Trung Quốc và Việt Nam đã cĩ được một số bước tiến trong tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng, nhưng những tồn tại sẽ làm cho mục tiêu xây dựng một hệ thống ngân hàng mạnh trở nên khĩ khăn hơn. (2) Tiến trình tự do hĩa hệ thống ngân hàng của Việt Nam ở nhiều khâu đã đi nhanh hơn Trung Quốc, trong khi ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng lại được cải cách chậm hơn, ngân sách tuy khơng thâm hụt nhiều nhưng lại phụ thuộc vào dầu thơ và thuế nhập khẩu nhiều hơn Trung Quốc, và cán cân ngoại thương của Việt Nam đang thâm hụt trong khi Trung Quốc đã cĩ được thặng dư mậu dịch cách đây hơn 1 thập kỷ. Phát hiện thứ hai, phát hiện quan trọng nhất của nghiên cứu này, đem đến hai ngụ ý trái ngược nhau. Một mặt, việc cải cách và mở cửa một cách nhanh chĩng trong khi ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát chưa được cải cách cĩ thể hàm chứa nhiều rủi ro hơn. Mặt khác, Việt Nam đi nhanh hơn Trung Quốc cĩ thể là do quy mơ hệ thống tài chính nĩi chung, hệ thống ngân hàng nĩi riêng nhỏ hơn và ít gánh nặng hơn Trung Quốc. Dựa vào điều này, Việt Nam cĩ thể đẩy nhanh tiến trình cải cách hệ thống tài chính của mình nhưng lại ít tốn kém và ít rủi ro hơn so với Trung Quốc. Do vậy, dựa vào phát hiện này, các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cĩ thể tham khảo để đưa ra các chính sách đẩy nhanh tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng nhưng vẫn cĩ thể đảm bảo an tồn và ổn định. Từ khĩa: Hệ thống ngân hàng, cải cách, tự do hĩa, Việt Nam, Trung Quốc Số từ: 326 Liên hệ: Duht@fetp.vnn.vn
  4. ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN Error! Bookmark not defined. LỜI CẢM ƠN Error! Bookmark not defined. TĨM TẮT i MỤC LỤC ii DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT vi DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂUU viii DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ viii DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ viii CÁC PHỤ LỤC ix Chương 1 MỞ ĐẦU 1U 1.1. Giới thiệu 1 1.2. Các nghiên cứu trước đây và tài liệu nghiên cứu 5 1.3. Mục đích nghiên cứu 8 1.4. Khung lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 9 1.5. Giới hạn và hạn chế của nghiên cứu 10 Chương 2 NGÂN HÀNG VÀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 11 2.1. Sự ra đời của ngân hàng 11 2.2. Hệ thống tài chính và vai trị của hệ thống tài chính 12 2.3. Các mơ hình tổ chức hệ thống ngân hàng 13 2.4. Hệ thống ngân hàng ở các nền kinh tế trong thời kỳ chuyển đổi 14 2.5. Cải cách hệ thống ngân hàng ở các nền kinh tế chuyển đổi 15 Chương 3 HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, CẤU TRÚC, VÀ VAI TRỊ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ 20
  5. iii 3.1. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng 20 3.1.1. Trung Quốc 20 3.1.2. Việt Nam 22 3.2. Cấu trúc hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam 25 3.2.1. Cơ quan điều hành chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động ngân hàng 25 3.2.1.1. Trung Quốc 25 3.2.1.2. Việt Nam 26 3.2.2. Các tổ chức tài chính trung gian 27 3.2.2.1. Trung Quốc 27 3.2.2.2. Việt Nam 27 3.3. Hoạt động của hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam 30 3.3.1. Hoạt động của ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát 30 3.3.1.1. Điều hành chính sách tiền tệ 30 3.3.1.2. Giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng 32 3.3.2. Hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian 32 3.3.2.1. Trung Quốc 32 3.3.2.2. Việt Nam 34 3.4. Vai trị của hệ thống ngân hàng đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế 37 Chương 4 HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM: CÁC TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH CHÍNH, NHỮNG THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG TRONG TƯƠNG LAI 39 4.1. Tiến trình tự do hĩa 39 4.1.1. Chính sách về dự trữ bắt buộc 39 4.1.1.1. Trung Quốc 39 4.1.1.2. Việt Nam 40 4.1.2. Tự do hĩa lãi suất 41
  6. iv 4.1.2.1. Trung Quốc 41 4.1.2.2. Việt Nam 42 4.1.3. Hạn mức tín dụng và tín dụng chỉ định 44 4.1.3.1. Trung Quốc 44 4.1.3.2. Việt Nam 44 4.1.4. Mở cửa cạnh tranh 45 4.1.4.1. Trung Quốc 45 4.1.4.2. Việt Nam 47 4.1.5. Chính sách ngoại hối và quản lý tỷ giá 48 4.1.5.1. Trung Quốc 48 4.1.5.2. Việt Nam 49 4.1.6. Chính sách kiểm sốt dịng vốn và tài khoản vốn 51 4.1.6.1. Trung Quốc 51 4.1.6.2. Việt Nam 52 4.2. Tái cấu trúc 53 4.2.1. Tái cấp vốn 53 4.2.1.1. Trung Quốc 53 4.2.1.2. Việt Nam 54 4.2.2. Xử lý nợ xấu 55 4.2.2.1. Trung Quốc 55 4.2.2.2. Việt Nam 56 4.2.3. Các nỗ lực tái cấu trúc khác 58 4.2.3.1. Trung Quốc 58 4.2.3.2. Việt Nam 59 4.2.4. Đánh giá việc tái cấu trúc các ngân hàng của Trung Quốc và Việt Nam 59
  7. v 4.3. Cải cách luật lệ và giám sát 60 4.3.1. Trung Quốc 60 4.3.2. Việt Nam 61 4.4. Những thách thức và triển vọng của các ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam 62 4.4.1. Thách thức 62 4.4.2. Triển vọng 64 Chương 5 NGUYÊN NHÂN TẠO RA SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC 65 5.1. Mơ hình và quy mơ nền kinh tế 65 5.2. Cải cách kinh tế ở Việt Nam, sự nối tiếp của Trung Quốc? 65 5.2.1. Chính sách cải cách của Trung Quốc qua các kỳ đại hội Đảng 66 5.2.2. Quá trình cải cách của Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng 68 Chương 6 KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH 72 6.1. Kết luận 72 6.2. Đề xuất chính sách 73 6.2.1. Xây dựng cơ quan giám sát ngân hàng mạnh và các cơng cụ giám sát hiệu quả 74 6.2.2. Tiếp tục cải cách các ngân hàng thương mại trong nước 75 6.2.3. Tiếp tục tiến trình tự do hĩa tài chính 76 6.3. Hướng nghiên cứu tiếp theo 77 CÁC PHỤ LỤC 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
  8. vi DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT ABC: Ngân hàng Nơng nghiệp Trung Quốc (Agriculture Bank of China) ACB: Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu ADB: Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asia Development Bank) AMC: Cơng ty xử lý nợ và khai thác tài sản (Asset Management Company) BIS: Ngân hàng Thanh tốn Quốc tế (Bank for International Settlement) BOC: Ngân hàng Trung Quốc ( Bank of China) BTA: Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ CAR: Hệ số đủ vốn (Capital Adequacy Ratio) CBRC: Ủy ban giám sát hoạt động ngân hàng Trung Quốc (China Banking Regulatory Commision) CCB: Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc ( China Construction Bank) CEIM: Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương CCP: Đảng Cộng Sản Trung Quốc (China Communist Party) CPH: Cổ phần hố CTTC: Cho thuê tài chính DNNN hay SOE: Doanh nghiệp nhà nước DPRR: Dự phịng rủi ro ĐCSVN: Đảng Cộng Sản Việt Nam FDI: Đầu tư trực tiếp từ nước ngồi (Foreign Direct Investment) FDIEs: Doanh nghiệp cĩ vốn đầu tư nước ngồi FED: Quỹ dự trữ liên bang hay Ngân hàng Trung ương Mỹ FETP: Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright FPI: Đầu tư gián tiếp từ nước ngồi (Foreign Porfolio Investment) GDP: Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product) HTNHVN: hệ thống ngân hàng Việt Nam HTXTD: Hợp tác xã tín dụng hay quỹ tín dụng nhân dân ICBC: Ngân hàng Cơng thương Trung Quốc (Industrial and Commercial Bank of China) IMF: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund)
  9. vii NHCT hay ICB: Ngân hàng Cơng thương Việt Nam NHCS: Ngân hàng chính sách NHĐT: Ngân hàng đơ thị NHĐT&PT hay BIDV: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam NHNNVN hay SBV: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHNNg: Ngân hàng nước ngồi NHNNo hay AGRB: Ngân hàng Nơng nghiệp & Phát triển Nơng thơn Việt Nam NHNT hay VCB hay Vietcombank: Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam NHPT: Ngân hàng Phát triển NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMNN hay SOCB: Ngân hàng thương mại nhà nước NIM: Biên lãi suất rịng (Net Interest Margin) OECD: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organisation for Economic Co- operation and Development) PBOC: Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (People Bank of China) RMB: Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc ROA: Suất sinh lợi trên tổng tài sản bình quân ROE: Suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu bình quân Sacombank: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gịn Thương tín SCIC: Tổng cơng ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước TVEs: Các doanh nghiệp hương trấn ở Trung Quốc (Township and Village Enterprises). UNDP: Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc VPSC: Tiết kiệm bưu điện WB hay NHTG: Ngân hàng thế giới (World Bank) WDI: Các chỉ số phát triển thế giới ( World Development Indicators) WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)
  10. viii DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2-1: Cơ cấu sở hữu hệ thống ngân hàng ở một số nước chuyển đổi 15 Bảng 3-1: Các mốc lịch sử chính của hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam 24 Bảng 4-1: Chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do 50 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ Hình 2.1: Quy mơ thị trường tài chính ở một số nước (2004) 13 Hình 2.2: Sơ đồ quan hệ Nhà nước – Ngân hàng – Doanh nghiệp 16 Hình 2.3: Quá trình tự do hĩa tài chính 16 Hình 2.4: Quá trình tự do hĩa tài chính và cải cách tài chính 17 Hình 3.1: Thị phần sở hữu tài sản của các ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam 30 Hình 3.2:Tăng trưởng kinh tế, tăng cung tiền và lạm phát ở Việt Nam & Trung Quốc 31 Hình 3.3: Thu dịch vụ so với thu nhập từ hoạt động của ngân hàng các nước (%) 35 Hình 3.4: ROA và CAR vào năm 2004 của một số hệ thống ngân hàng 36 Hình 3.5: Cơ cấu tài sản tài chính so với GDP ở Trung Quốc và Việt Nam (%GDP) 38 Hình 4.1: Diễn biến VND và RMB so với đồng USD 51 Hình 4.2: Diễn biến nợ xấu của các NHTMNN Trung Quốc 56
  11. ix CÁC PHỤ LỤC Phụ lục 1 Việt Nam trong bức tranh chung của các nước đơng Á 78 Phụ lục 2: Hệ số ICOR của Trung Quốc và Việt Nam và một số nước 79 Phụ lục 3: Một số chỉ tiêu so sánh hiệu quả hoạt động của ngân hàng các nước 80 Phụ lục 4: Một số chỉ tiêu lựa chọn của các ngân hàng Việt Nam năm 2005 81 Phụ lục 5: Một số chỉ tiêu lựa chọn của các ngân hàng Trung Quốc 82 Phụ lục 6: Sơ đồ hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam 83 Phụ lục 7: Những sự kiện chính của hệ thống ngân hàng Trung Quốc 84 Phụ lục 8: Những sự kiện chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam 86
  12. 1 Chương 1 MỞ ĐẦU 1.1.Giới thiệu Tổng kết về hai mươi năm đổi mới, Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã nêu rõ ”Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cĩ sự thay đổi cơ bản và tồn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.” (ĐCSVN, 2006). Điều này được minh chứng bằng những con số hết sức sinh động khi mà với tốc độ tăng trưởng bình quân 7,2%,1 sau 20 năm, GDP của Việt Nam đã tăng gấp 4 lần; tỷ lệ nghèo từ khoảng ¾ giảm xuống cịn khoảng ¼ (UNDP Vietnam). Hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ với điển hình nhất là việc trở thành thành viên chính thức của WTO trong đầu năm 2007. Hơn nữa, trong một phân tích gần đây, Ngân hàng Thế giới (WB) đã đặt Việt Nam vào bức tranh chung của các nước đơng Á với rất nhiều chỉ tiêu cao hơn mức bình quân (xem Phụ lục 1).2 Những kết quả cĩ được là nhờ Việt Nam đã kịp thời đổi mới kinh tế và liên tục tạo ra những yếu tố tích cực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế trong một thời gian dài. Đầu tiên là cải cách nơng nghiệp trong những năm cuối thập niên 1980. Khi ruộng trở về tay người dân đã đưa Việt Nam từ nước phải nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới và nhiều mặt hàng nơng sản khác như cà phê, hồ tiêu, chè đứng trong tốp đầu của thế giới. Nhân tố quan trọng tiếp theo là sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động ngoại thương. Với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm lên đến 23% đã đưa giá trị xuất khẩu từ chưa đến 500 triệu đơ-la năm 1986 lên 39,6 tỷ đơ-la vào cuối năm 2006.3 Đây là một trong những nguồn quan trọng nhất tạo ra ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu hàng hĩa vốn và hàng hĩa tiêu dùng. Xuất khẩu đĩng vai trị hết sức tích cực, tỷ lệ thâm hụt thương mại (nhập khẩu – xuất khẩu) ngày càng được thu hẹp (tuy nhiên, con số tuyệt đối ngày một gia tăng). 1 Xem: WDI, Tổng cục Thống kê và tính tốn của tác giả 2 Xem: McCarty, 2006, trang 7. 3 Xem: Tổng cục Thống kê
  13. 2 Mặt khác, theo nguyên tắc “Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngồi là quan trọng” (ĐCSVN, 1997), thành cơng của việc thu hút các nguồn vốn bên ngồi với tổng giá trị lên đến 70 tỷ đơ-la (FDI 30 tỷ đơ-la, kiều hối và vốn ODA mỗi loại khoảng 20 tỷ đơ-la) bằng 13% GDP của cả thời kỳ này và xấp xỉ 50% tổng vốn đầu tư phát triển là một nguồn vốn hết sức quan trọng cho quá trình phát triển. Một nhân tố nữa tạo ra sự tăng trưởng và phát triển kinh tế là sự phục hồi và phát triển của khu vực kinh tế dân doanh mà bắt đầu từ việc thực thi luật doanh nghiệp vào năm 2000. Với 160 nghìn doanh nghiệp và 254 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký mới4 đã đưa kinh tế dân doanh trở thành một trong những khu vực năng động nhất và cĩ những đĩng gĩp rất tích cực cho việc duy trì đà tăng trưởng của Việt Nam khi mà các doanh nghiệp nhà nước đang gặp những khĩ khăn và cần cĩ những cuộc đại phẫu để chữa căn bệnh kém hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng trên 7% - 8% là một điều thần kỳ. Nhưng theo giáo sư David O. Dapice, 5 “Nếu đầu tư một cách tiết kiệm và khơn ngoan, tỉ lệ tăng trưởng GDP của Việt Nam phải ở mức thực là 9-10% như ở Trung Quốc chứ khơng phải là 7-8%. Như vậy, sự lãng phí làm Việt Nam mỗi năm tổn thất khoảng 2% GDP, tương đương 1 tỉ USD.”6 Đây là một con số khổng lồ của nền kinh tế trên 50 tỷ đơ-la. Hơn nữa, sự khơng hiệu quả trong việc đầu tư và phân bổ vốn đầu tư được thể hiện ở hệ số ICOR ngày càng gia tăng. Từ chỗ ICOR chỉ khoảng 3 vào những năm đầu thập niên 90, đến nay đã lên đến khoảng 5, trong khi ở một số nền kinh tế khác, ở giai đoạn tăng trưởng cao, ICOR của họ chỉ dao động quanh 3, thậm chí là thấp hơn rất nhiều (xem phụ lục 2).7 Cĩ nhiều nguyên nhân khiến cho việc phân bổ nguồn vốn chưa thực sự hiệu quả và một trong những nguyên nhân chính cĩ thể bắt nguồn từ sự yếu kém của hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng do các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), những tổ chức tài chính mà hoạt động chưa thực sự theo các quy luật của thị trường, gia tăng giá trị doanh nghiệp khơng phải là mục tiêu duy nhất cộng với các cơ chế quản trị tốt vẫn cịn yếu, chi phối. 8 Nếu hệ thống ngân hàng được cải cách và hoạt động tốt giúp cho việc phân bổ vốn 4 Nguồn: CEIM 5 Giáo sư David O. Dapice là Kinh tế trưởng của Chương trình Việt Nam tại Trường Quản lý Nhà nước John F. Kennedy, Đại học Harvard. Ơng đã cĩ mặt và nghiên cứu về Việt Nam ngay từ những năm cuối thập niên 1980, thời điểm mà Việt Nam bắt đầu thực hiện quá trình đổi mới. 6 Xem: 7 Cũng cĩ người lập luận rằng khơng thể so sánh Việt Nam với các nước khác vì khác thời điểm. Tuy nhiên, chỉ cần so sánh với Trung Quốc thì sự khơng hiệu quả ở Việt Nam cĩ thể được thấy rõ. 8 Xem: Gordon (2005), trang 8 và 25; WB (2002), trang 3; Fitch (2006), trang 1; NHNNVN (2001b).
  14. 3 hiệu quả hơn cĩ thể tạo ra làn sĩng tăng trưởng nhanh và ổn đỉnh tiếp theo. Hơn nữa, tài chính ngân hàng chính là khu vực phải chấp nhận mở cửa nhiều nhất trong cam kết gia nhập WTO và là một trong những khu vực mà Việt Nam cảm thấy lo lắng nhất trong quá trình hội nhập. Đây chính là lý do mà Việt Nam đã coi việc cải cách các ngân hàng trong nước, nhất là các NHTMNN là một trong những ưu tiên hàng đầu.9 Trung Quốc bắt đầu quá trình cải cách kinh tế từ cuối năm 1978 và đã duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP đạt gần 2 con số trong gần 30 năm qua. Theo dự báo, vào khoảng năm 2050, Trung Quốc sẽ vượt qua Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới (về quy mơ). Kết quả này cĩ được là nhờ sự khởi xướng tiến trình cải cách của ơng Đặng Tiểu Bình, một trong những nhà cải cách vĩ đại nhất của Trung Quốc. Với những bước đi hết sức hợp lý, Trung Quốc liên tục tạo ra những làn sĩng tăng trưởng nối tiếp nhau để duy trì được một tốc độ tăng trưởng rất cao trong thời gian dài. Khởi đầu cho làn sĩng tăng trưởng ở trung Quốc là quá trình cải cách nơng nghiệp, tiếp đến là sự phát triển của các xí nghiệp hương chấn (TVEs), thúc đẩy ngoại thương, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) là những làn sĩng tiếp theo, đến thời điểm hiện nay, xuất khẩu được xem là động lực đang thúc đẩy tăng trưởng cao ở Trung Quốc. Tuy nhiên, các làn sĩng tăng trưởng này đến một lúc nào đĩ sẽ dừng lại, vì vậy việc cĩ được các làn sĩng tiếp theo là điều Trung Quốc đang mong muốn Trong khu vực ngân hàng, cách đây 5 năm, khi Trung Quốc gia nhập WTO, người ta đã dự báo rằng hệ thống ngân hàng của họ sẽ phải đối mặt với nhiều khĩ khăn thách thức.10 Tuy nhiên, đến thời điểm thực hiện đầy đủ các các cam kết trong thỏa thuận gia nhập WTO, người ta đã chứng kiến sự lên ngơi của các ngân hàng Trung Quốc khi mà cả ba NHTMNN gồm: Ngân hàng Trung Quốc Xây dựng (CCB), Ngân hàng Trung Quốc (BOC) và Ngân hàng Cơng thương Trung Quốc (ICBC) đã được cổ phần hĩa hết sức thành cơng. Đặc biệt, đợt phát hành cổ phiếu lần đầu cơng chúng trên cả hai thị trường Thượng Hải và thị trường Hồng Kơng của ICBC vào tháng 10/2006 với số tiền thu được lên đến 19 tỷ đơ-la, vượt qua kỷ lục 18,4 tỷ đơ-la của cơng ty điện truyền thơng NTT của Nhật và trở thành đợt phát hành lớn nhất thế giới từ trước đến nay.11 Hơn thế, cuối năm 2006, ICBC đã 9 Xem: Đề án Phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trang 2 10 Xem: WB (2004), trang 181. 11 Xem: 26/12/2006
  15. 4 vượt qua Bank of America trở thành ngân hàng lớn thứ hai thế giới, chỉ đứng sau Citibank.12 Trung Quốc dường như đã thành cơng bước đầu trong việc cải cách hệ thống ngân hàng và cĩ vẻ như hệ thống ngân hàng của họ đang được vận hành trơn tru?13 Thực ra, giống như Việt Nam vấn đề phân bổ vốn khơng hiệu quả và sự yếu kém của hệ thống ngân hàng đã và đang làm các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đau đầu. Theo đánh giá của nhiều học giả hàng đầu nghiên cứu về lĩnh vực này, hệ thống ngân hàng nĩi riêng, hệ thống tài chính Trung Quốc nĩi chung vẫn đang mất cân đối, kém phát triển, thiếu sự hỗ trợ, khơng hiệu quả và tiềm ẩn sự mong manh dễ vỡ, các ngân hàng hoạt động chưa thực sự theo các chuẩn mực thị trường với mục tiêu cao nhất là lợi nhuận, là tối đa hĩa giá trị doanh nghiệp.1415 Trong những vấn đề nêu trên, nợ xấu và yếu kém trong quản trị ngân hàng là vấn đề được quan tâm nhiều hơn cả. Để cĩ được thành cơng bước đầu, Trung Quốc đã phải trả một giá rất cao và cĩ thể cái giá này cịn cao hơn nữa khi mà Ngân hàng Nơng nghiệp Trung Quốc (ABC), ngân hàng lớn nhất Trung Quốc về quy mơ tài sản vẫn chưa thể cổ phần hĩa. Trung Quốc bắt đầu quá trình cải cách kinh tế trước Việt Nam gần một thập kỷ, do hồn cảnh và hệ thống cĩ những điểm tương đồng nhau, nên dù quy mơ của Trung Quốc (về hầu hết các lĩnh vực kinh tế, dân số, tự nhiên) lớn hơn Việt Nam rất nhiều, nhưng những vấn đề Việt Nam đang gặp phải cũng là những vấn đề Trung Quốc đã và đang phải trải qua. Tài chính ngân hàng khơng phải là ngoại lệ vì nhìn vào quá trình hình thành, phát triển và cải cách hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam cĩ thể thấy rất nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm giống nhau, quá trình đổi mới và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng cĩ những điểm khác biệt so với Trung Quốc, đây chính là điều mà nghiên cứu này muốn tìm hiểu. Từ những phân tích trên cho thấy, việc so sánh quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam với hệ thống ngân hàng Trung Quốc sẽ là một cách thức thích hợp nhằm 12 Xem: Financial Time, ngày 30/12/2006. 13 Xem: 28/12/2006 14 Xem: Hope & Hu (2006), trang 3; García- Herrero (2006), trang 1; Podpiera (2006), trang 3; Roland (2006), trang 2; S&P (2004), trang 1 15 Cũng cĩ lập luận cho rằng, hệ thống ngân hàng Trung Quốc là một đặc trương riêng, khơng giống như các chuẩn mực của phương Tây, vì trong gần 30 năm qua, kinh tế Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao, điều này chứng tỏ việc phân bổ vốn trong nền kinh tế đạt hiệu quả cao (Franklin Allen, Jun Qian và Meijin). Tuy nhiên, nghiên cứu thực nghiệm của Boyreau- Debray và Wei đã phủ nhận điều này.
  16. 5 “giải phẫu” hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ đĩ tìm ra những giải pháp cải cách phù hợp để cĩ thể xây dựng một hệ thống tài chính mạnh dựa trên 4 yếu tố chính là các thị trường tài chính phát triển và hiệu quả, các tổ chức tài chính mạnh, các cơng cụ tài chính đa dạng và cơ sở hạ tầng tài chính tốt (Miskhin, 2004), thực hiện tốt bốn chức năng cơ bản là phân bổ tốt nguồn vốn từ nơi thặng dư đến nơi cĩ nhu cầu sử dụng; sàng lọc, tập trung và phân tán rủi ro; giám sát hoạt động doanh nghiệp; và vận hành tốt hệ thống thanh tốn nhằm tạo một động lực hay một làn sĩng mới thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh hơn. Câu hỏi đâu là điểm giống và khác nhau trong quá trình cải cách hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc và Việt Nam, và điều này cĩ ý nghĩa như thế nào đối với tiến trình cải cách ngân hàng ở Việt Nam là điều mà nghiên cứu này muốn tìm câu trả lời. 1.2.Các nghiên cứu trước đây và tài liệu nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã tìm gặp một số người hiện đang làm việc trực tiếp trong hệ thống ngân hàng (cả ở cơ quan quản lý và tại các ngân hàng thương mại), giảng dạy tại các trường đại học, học viện, trung tâm nghiên cứu, những người được xem là cĩ sự hiểu biết rất cặn kẽ về quá trình cải cách và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam hay là những người đang “sống chung” với quá trình cải cách này.16 Với hiểu biết của mình và qua trao đổi, tác giả nhận thấy, những nghiên cứu chính về hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam được thực hiện theo các dạng chính gồm: (1) các nghiên cứu bằng ngân sách nhà nước (đề tài cấp nhà nước, cấp bộ) do các trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học thực hiện phục vụ cho việc đề ra chính sách cải cách hệ thống tài chính; (2) các nghiên cứu được thực hiện bởi các học giả, các nhà nghiên cứu nước ngồi kết hợp với một số học giả, nhà nghiên cứu trong nước theo tài trợ của các tổ chức quốc tế và chính phủ nước ngồi với mục tiêu tư vấn cho Việt Nam trong quá trình cải cách hệ thống tài chính; (3) các nghiên cứu của các tổ chức tài chính (trong nước và ngồi nước) phục vụ cho việc phát triển của họ; (4) các nghiên cứu của các học giả độc lập và các du học sinh; 16 Những người tác giả đã gặp và trao đổi trực tiếp gồm: ơng Cao Văn Học, Giám đốc Ban Kế hoạch Phát triển BIDV; TS. Nguyễn Đắc Hưng, Phĩ Tổng biên tập Tạp chí Ngân hàng; PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi, Phĩ giám đốc Học viện Tài chính; PGS. TS. Trần Hồng Ngân, Trưởng khoa Ngân hàng, Đại học Kinh tế Tp.HCM; TS. Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược Phát triển Ngân hàng, NHNNVN; ơng Phạm Vũ Phương, Vụ trưởng phụ trách văn phịng đại diện tại Tp.HCM, NHNNVN; ơng Trần Phương, Phụ trách Ban cổ phần hĩa của BIDV; Ths. Phạm Phú Quốc, Giảng viên Trường Đại học Ngân hàng Tp.HCM. TS. Võ Trí Thành, Trưởng ban Nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương; PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, Phĩ Chủ nhiệm Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng.
  17. 6 và (5) cuối cùng là các luận văn, luận án của các nghiên cứu sinh, các đề tài nghiên cứu khoa học ở các trường đại học. Trong khối lượng tài liệu đồ sộ mà tác giả cĩ dịp tham khảo, chưa cĩ bài viết tương tự như chủ đề mà nghiên cứu này muốn tìm hiểu. Nhưng cĩ điều đáng mừng là nhiều tài liệu cĩ giá trị tham khảo và làm cơ sở cho nghiên cứu này. Kousted cùng các đồng sự (2003) đã đánh giá quá trình cải cách hệ thống tài chính Việt Nam trong suốt quá trình đổi mới; Gorden & Warner (2005) so sánh quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam với một số nước. Tâm (2001) nghiên cứu việc cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam học hỏi từ mơ hình của Singapore. Hạnh (2002) nghiên cứu mơ hình main bank ở Nhật áp dụng cho việc cải cách hệ thống tài chính ở Việt Nam. Nam (2001) phân tích hệ thống ngân hàng Việt Nam về quá khứ, hiện tại và tương lai. WB (1995, 2002) và Soo (1998) đánh giá tổng quan về khu vực ngân hàng Việt Nam. Olaf (2003) tìm hiểu việc cải cách hệ thống ngân hàng ở các nước lưu vực sơng Mekong. Pierre (1998) tìm hiểu việc phát triển các tổ chức tài chính vi mơ ở Việt Nam. Darryl (2002) tìm hiểu việc cải cách và triển vọng của khu vực dịch vụ tài chính ở Việt Nam. Thành (2004) nghiên cứu đánh giá tổng quan và chi tiết về thị trường tài chính Việt Nam. MCG (2005) nghiên cứu về khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hĩa các dịch vụ tài chính. Dufhues (2003) nghiên cứu về quá trình chuyển đổi của hệ thống tài chính Việt Nam và ảnh hưởng của nĩ đến thị trường tài chính nơng thơn. Wolz (1999) nghiên cứu về những kết quả vấn đề của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam. Nhĩm nghiên cứu của Minh (2007) đánh giá thực trạng và điều kiện tự do hĩa tài khoản vốn ở Việt Nam và nhĩm nghiên cứu của Long (2006) tìm hiểu về tự do hĩa tài chính và rủi ro phát sinh: Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị một lộ trình tự do hĩa cho Việt nam. Thành (2003) nghiên cứu tình huống về quá trình tự do hĩa lãi suất. Kiều (2002) đánh giá cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Sẽ là một thiếu xĩt khi xem xét hệ thống ngân hàng mà khơng đề cập đến lịch sử hình thành của nĩ. Trong cơng trình nghiên cứu đồ sộ về lịch sử kinh tế Việt Nam, giáo sư Đặng Phong (2005) đã tĩm tắt cơ đọng về lịch sử ngân hàng Việt Nam và các thơng tin trong quyển “Lịch sử Ngân hàng Ngoại thương” của tác giả này cũng đáng để tham khảo. Bên cạnh đĩ, quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được mơ tả rất chi tiết trong tài liệu “Ngân hàng Việt Nam: Quá trình xây dựng và Phát triển.” do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) biên soạn và Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành
  18. 7 năm 1996. Và đương nhiên, các báo cáo thường niên của NHNNVN là tài liệu khơng thể thiếu khi thực hiện nghiên cứu này. Những tài liệu khơng thể bỏ qua chính là các nghiên cứu, đánh giá của các tổ chức tài chính quốc tế, khi mà lần đầu trong năm 2006, một số tổ chức tài chính cĩ uy tín trên thế giới đã cĩ những phân tích, đánh giá về hệ thống tài chính Việt Nam. Đầu tiên phải kể đến đánh giá về thị trường tài chính Việt Nam của Merrill Lynch (2006) và HSBC (2006). Tiếp đến là phân tích về các ngân hàng Việt Nam của Vinacapital (2006), đánh giá của ANZ (2006) về nền kinh tế Việt nam. Cuối cùng là đánh giá hệ thống ngân hàng Việt Nam của Fitch (2006), một trong những tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới. Tuy khơng phải là những nghiên cứu đầy đủ nhưng bài viết “Gia nhập WTO và cải cách ngân hàng ở Việt Nam” của Phĩ Thống đốc NHNNVN Phùng Khắc Kế (2005); “Cải cách tài chính ở Việt Nam: Hướng đến hội nhập Quốc tế” của TS. Vũ Viết Ngoạn (2003), Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam và các tài liệu trong Hội thảo “Vai trị của hệ thống ngân hàng trong 20 năm đổi mới ở Việt Nam” do NHNNVN phối hợp với Ủy ban Kinh tế & Ngân sách của Quốc hội tổ chức tháng 01/2006 và Hội thảo “Xây dựng chiến lược Phát triển dịch vụ ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020” do Vụ chiến lược Phát triển Ngân hàng, NHNNVN và Ngân hàng Cơng thương Việt Nam phối hợp tổ chức vào tháng 05/2005, cũng cĩ nhiều giá trị tham khảo. Sẽ là thiếu sĩt nếu khơng kể đến các quy định pháp lý và định hướng cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các tài liệu được tham khảo nhiều nhất là Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước năm 1990; Pháp lệnh về hoạt động của các tổ chức tín dụng năm 1990; Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997, sửa đổi năm 2002; Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, sửa đổi năm 2003; Đề án Phát triển Ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2006; Đề án cơ cấu lại và xử lý nọ tồn đọng các ngân hàng thương mại năm 2001 và Chương trình hành động hội nhập quốc tế năm 2003 của NHNNVN. Trên cả những văn bản pháp lý này là các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, những tài liệu cĩ tính định hướng chiến lược cao nhất ở Việt Nam. Ngồi ra, trước khi thực hiện nghiên cứu này, tác giả cũng đã cĩ nghiên cứu về xử lý nợ xấu ở Việt Nam nhìn từ mơ hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác (2004); nghiên cứu về mối quan hệ tam giác giữa Nhà nước – doanh nghiệp nhà nước – ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam (2005); và một số nghiên cứu tình huống, một số bài viết
  19. 8 về tài chính ngân hàng đăng trên hầu hết các báo liên quan đến kinh tế tài chính ở Việt nam cũng là tiền đề quan trọng để tác giả thực hiện nghiên cứu này. Ngược hẳn với các nghiên cứu về hệ thống tài chính, ngân hàng Việt Nam, Trung Quốc đang là tâm điểm của thế giới hiện nay nên cĩ vơ số những nghiên cứu về hệ thống ngân hàng của họ. Khơng cần thiết để liệt kê tất cả các nghiên cứu hiện cĩ, tác giả chỉ xin nêu ra một số nghiên cứu liên quan mật thiết đến đề tài này. Đầu tiên phải kể đến chuỗi nghiên cứu về quá trình cải cách hệ thống tài chính Trung Quốc do nhiều học giả am hiểu về Trung Quốc thực hiện dưới sự điều phối và tổ chức của Chương trình Châu Á thuộc Trường Quản lý Nhà nước John F. Kennedy, Đại học Harvard bắt đầu từ năm 2001, thời điểm Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO. Tiếp đến là những nghiên cứu “Cải cách hệ thống ngân hàng Trung Quốc” của García-Herrero, Sergio Gavila và Santabárbara (2006); “So sánh quá trình cải cách khu vực ngân hàng ở Trung Quốc và Ấn Độ” của Roland (2006); “Tiến bộ trong việc cải cách khu vực ngân hàng Trung Quốc: Hành vi của các ngân hàng đã thay đổi?” của Podpiera (2006); “Vai trị của các nhà đầu tư chiến lược trong quá trình cải cách hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc” của Hope and Hu (2006); “Xử lý nợ xấu ở các ngân hàng Trung Quốc” của Bonin và Huang (2004); “Chính sách cơng nghiệp và tài chính của Trung Quốc và Việt Nam: Mơ hình mới hay lặp lại kinh nghiệm của các nước đơng Á” của Perkins (2002) Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, cĩ vơ số các tài liệu và lý thuyết nền tảng khơng thể kể ra hết. Những tài liệu và lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu này được dựa trên những phân tích về tiền tệ và vốn của McKinnon và Ronald (1973); Trình tự tự do hĩa kinh tế của McKinnon (1992); Ràng buộc ngân sách mềm của Kornai (1992); Tự do hĩa tài chính và lý thuyết về thơng tin bất cân xứng của Stiglitz (2001, 2003); Hệ thống tài chính của Miskhin (2004); Lý thuyết về kinh tế học hành vi, kinh tế học tổ chức của Milgrom và Roberts (1992); Những phân tích về hệ thống tài chính ở các nước mới nổi của Beim và Calomiris (2001) cũng là tài liệu được tham khảo chính trong nghiên cứu này. 1.3.Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu sẽ tập trung so sánh (1) quá trình hình thành, phát triển, (2) cấu trúc hệ thống, (3) vai trị của hệ thống ngân hàng trong hệ thống tài chính nĩi riêng, nền kinh tế nĩi chung, (4) những vấn đề mà hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam đang gặp phải và (5) những định hướng cải cách tiếp theo. Bên cạnh việc tìm hiểu sự giống nhau,
  20. 9 nghiên cứu sẽ tập trung tìm ra những điểm khác nhau, vì cĩ thể đây là những yếu tố quan trọng giúp Việt Nam cĩ thể tìm được cách thức cải cách nhanh và hợp lý hơn. Để đạt được mục tiêu đã đề ra, nghiên cứu này được cấu trúc thành 6 chương. Sau phần mở đầu; Chương II sẽ điểm qua sự ra đời của ngân hàng trên thế giới, các mơ hình hệ thống ngân hàng và khung lý thuyết về cải cách ngân hàng ở các nền kinh tế chuyển đổi; Chương III sẽ xem xét lịch sử hình thành, cấu trúc hệ thống và vai trị của hệ thống ngân hàng hai nước trong hệ thống tài chính nĩi riêng, nền kinh tế nĩi chung; Chương IV tập trung phân tích và so sánh quá trình cải cách của hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam; Chương V sẽ phân tích những yếu tố tạo ra sự giống và khác nhau giữa hai hệ thống ngân hàng; Cuối cùng sẽ kết luận và gợi ý về mặt chính sách. 1.4.Khung lý thuyết và phương pháp nghiên cứu Cĩ nhiều khung lý thuyết cũng như quan điểm cĩ thể làm cơ sở cho việc phân tích quá trình tự do hĩa cũng như cải cách hệ thống ngân hàng nĩi riêng, hệ thống tài chính nĩi chung. Trong đĩ, khung phân tích phổ biến nhất cĩ lẽ là lý thuyết của McKinnon mà ở đĩ McKinnon đã chỉ ra một tiến trình cải cách và tự do hĩa tài chính một cách tổng thể, nhưng nhược điểm lớn nhất của lý thuyết này là khơng chỉ ra cách thức cải cách tài khoản vốn cụ thể.17 Ngồi ra, IMF, OECD hay ADB đều đưa ra những cách tiếp cận riêng của mình.18 Mỗi lý thuyết hay cách tiếp cận đều cĩ những cơ sở lý luận cũng như hạn chế của nĩ. Do khơng đặt nặng vào việc cải cách tài khoản vốn mà muốn cĩ một bức tranh tương đối tồn diện về quá trình cải cách và tự do hĩa tài chính của Trung Quốc và Việt Nam, nên ở nghiên cứu này, tác giả sẽ sử dụng khung lý thuyết tự do hĩa tài chính của McKinnon làm khung lý thuyết nền tảng (Xem chi tiết ở Chương II). Nghiên cứu này sẽ sử dụng một trong những phương pháp đơn giản và cổ điển nhất với việc so sánh những vấn đề, những đặc trưng của hệ thống ngân hàng Việt Nam với hệ thống ngân hàng Trung Quốc, từ đĩ đưa ra những nhận xét, đánh giá về hệ thống ngân hàng Việt Nam và những đề xuất cho việc cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam. Lý do tác giả lựa chọn Trung Quốc mà khơng phải là các nền kinh tế khác là do cho dù hai nước cĩ quy mơ rất khác nhau, nhưng lại cĩ quá nhiều tương đồng về tiến trình cải cách kinh tế nĩi chung, cải cách hệ thống ngân hàng nĩi riêng. Hơn thế, Trung Quốc lại đi trước Việt Nam hơn một thập kỷ và đã gặt hái được một số thành cơng cũng như gặp phải 17 McKinnon được xem là cha đẻ của các lý thuyết về cải cách và tự do hĩa tài chính. 18 Xem: Minh (2007), trang 9; Long (2006), trang 11.
  21. 10 những vấn đề cần xử lý mà cĩ thể Việt Nam cũng sẽ phải đương đầu trên con đường đi đến cái đích đã đặt ra. 1.5.Giới hạn và hạn chế của nghiên cứu Khi thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã gặp phải một nghịch lý là dữ liệu về hệ thống ngân hàng Trung Quốc lại cĩ nhiều hơn số liệu về hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nguyên nhân là do những quy định về việc cơng bố thơng tin vẫn coi là nhạy cảm của ngành ngân hàng và những nhà quản lý cĩ rất ít động cơ để chia sẻ dữ liệu với những người bên ngồi bởi vì họ khơng thu được lợi ích trực tiếp rõ ràng, trong khi rủi ro tiềm tàng lại rất lớn. Do vậy, mặc dù muốn cĩ một đánh giá sâu sắc và tổng thể về quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam, nhưng do giới hạn về nguồn lực, đặc biệt là những khĩ khăn trong việc thu thập các dữ liệu, nên nghiên cứu chỉ giới hạn ở việc phân tích tổng quan với những dữ liệu chưa thực sự mang tính hệ thống. Như vậy, vẫn cĩ một số lỗ hổng dữ liệu đáng kể mà khi chúng được lấp đầy cĩ thể làm thay đổi một số phát hiện và đề xuất của tác giả. Những lỗ hổng này được ghi chú cẩn thận khi chúng xuất hiện trong nghiên cứu. Những gợi ý đề xuất cũng được đưa ra ở phần cuối cùng của nghiên cứu trong các chủ đề khuyến khích các nghiên cứu và phân tích sau này. Đây là một chủ đề rất rộng, mỗi vấn đề nhỏ trong quá trình cải cách hệ thống ngân hàng cũng cĩ thể thực hiện nhiều nghiên cứu hàng trăm trang giấy. Do vậy, nghiên cứu này khơng tham vọng làm tất cả mọi thứ sáng tỏ và mạch lạc mà chỉ thiên về đánh giá quá trình cải cách liên quan đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh và tính bền vững trong hoạt động của các ngân hàng thương mại, các trung gian tài chính hơn là xem xét hoạt động và điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Vì vậy, trong những nội dung phân tích cần thiết, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương chỉ được đề cập ở một chừng mực nhất định. Xin độc giả nhớ rằng những so sánh giữa các nước thường được hiểu lầm như là những gợi ý thay thế thực tiễn ở một quốc gia mà nĩ cĩ thể khơng phù hợp với một quốc gia khác, do bối cảnh kinh tế và lịch sử khác nhau và sự khác biệt về mơi trường chính trị, xã hội và thể chế. Do vậy, người đọc khơng nên quan sát những sự giống và khác nhau giữa hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam như “những thực tế tốt nhất hay tồi nhất” mà như là một nguồn để thảo luận và suy nghĩ với hy vọng rằng kinh nghiệm ở đâu đĩ cĩ thể giúp chúng ta hiểu hơn hồn cảnh của chính mình.
  22. 11 Chương 2 NGÂN HÀNG VÀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG Để làm cơ sở cho những phần tiếp theo, chương này sẽ điểm qua sự ra đời của ngân hàng; xem xét hệ thống tài chính và vai trị của nĩ đối với nền kinh tế; các mơ hình hệ thống ngân hàng trên thế giới; hệ thống ngân hàng của các nền kinh tế chuyển đổi; và những cách tiếp cận và khung lý thuyết liên quan đến cải cách hệ thống ngân hàng. 2.1.Sự ra đời của ngân hàng19 Lịch sử ngân hàng gắn liền với lịch sử tiền tệ. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về các phương tiện trao đổi thuận tiện hơn ngày càng gia tăng. Đây chính là nhân tố thúc đẩy quá trình phát triển của tiền tệ và ngân hàng. Các ngân hàng ra đời sớm nhất chính là những đền thờ tơn giáo thời cổ xưa (Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại) trước cơng nguyên vài chục thế kỷ. Đây là những nơi được xem là an tồn nhất cho việc cất giữ các tài sản quý hiếm. Do đĩ, người dân thường đem những tài sản quý hiếm gửi vào đây. Lúc đầu, những người cai quản các đền thờ chỉ giữ cho người gửi. Theo thời gian, họ phát hiện ra rằng, cĩ một số người cần những tài sản đĩ để sử dụng, trong khi những người gửi các tài sản đĩ chưa cĩ nhu cầu sử dụng vẫn gửi ở đĩ. Tín dụng và hoạt động ngân hàng xuất phát từ đây. Suốt quá trình phát triển của ngân hàng, cĩ rất nhiều vụ phá sản, đổ vỡ. Trong một thời gian rất dài, các ngân hàng vừa làm nhiệm vụ phát hành tiền, vừa làm nhiệm vụ cho vay. Điều này dẫn đến những vụ phá sản xảy ra thường xuyên hơn do vấn đề thơng tin bất cân xứng và xung đột lợi ích. Nhu cầu tách bạch giữa hoạt động cho vay và phát hành tiền gia tăng. Các ngân hàng trung ương lần lượt ra đời. Ngân hàng Trung ương Thụy Điển (Bank of Sweden) thành lập vào năm 1669 được xem là ngân hàng trung ương đầu tiên trên thế giới. Tiếp đến là Ngân hàng Trung ương Anh (Bank of England) 1694, Ngân hàng Trung ương Mỹ (US Federal Reserve) 1913. Hiện nay, hầu hết các nước đều theo mơ hình hệ thống ngân hàng hai cấp gồm ngân hàng trung ương và các trung gian tài chính. 19 Tham khảo: 11/07/2006; Miskhin, 2004, trang 229.
  23. 12 2.2.Hệ thống tài chính và vai trị của hệ thống tài chính Trong nền kinh tế thị trường, cĩ rất nhiều loại thị trường. Trong đĩ, bốn thị trường quan trọng nhất là thị trường hàng hĩa, thị trường lao động, thị trường đất đai và thị trường vốn. Thị trường vốn là nơi diễn ra sự phân bổ vốn giữa những người thặng dư vốn và những người cĩ nhu cầu sử dụng vốn.20 Việc phân bổ nguồn vốn từ nơi thặng dư vốn đến nơi cĩ nhu cầu sử dụng vốn được thực hiện bởi hệ thống tài chính mà bốn thành phần cơ bản của nĩ gồm: các tổ chức tài chính, các thị trường tài chính, các cơng cụ tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính. Vốn thường được phân bổ qua hai kênh. Kênh thứ nhất gọi là tài chính gián tiếp. Ở đây, vốn được phân bổ qua các trung gian tài chính mà chủ yếu là các ngân hàng hay hiệp hội tiết kiệm, hiệp hội cho vay. Kênh thứ hai gọi là tài chính trực tiếp, vốn được chuyển trực tiếp từ người thặng dư sang người cĩ nhu cầu trên các thị trường trái phiếu và cổ phiếu. Ở loại hình này, các ngân hàng đầu tư, các tổ chức mơi giới chứng khốn, các sàn giao dịch chứng khốn đĩng vai trị chính. Sự phân biệt hai kênh chỉ mang tính tương đối. Cĩ những loại hình rất khĩ phân biệt được tài chính trực tiếp hay tài chính gián tiếp. Ví dụ, cũng đầu tư chứng khốn, nhưng các nhà đầu tư khơng mua trực tiếp mà cùng gĩp vốn vào các quỹ hỗ tương (Muntual Fund), sau đĩ các quỹ này mới sử dụng tiền để mua các loại chứng khốn.21 Trên thế giới hiện nay, hệ thống tài chính của các nước thường phát triển theo hai dạng chính gồm: hệ thống tài chính do thị trường chứng khốn đĩng vai trị chủ yếu như các nước Anh, Mỹ và hệ thống tài chính do các trung gian tài chính (các ngân hàng) đĩng vai trị chính như các nước Đức, Nhật, Pháp 22 Nhưng dù hệ thống tài chính theo mơ hình nào thì vai trị của các ngân hàng là rất lớn vì hệ thống ngân hàng đĩng vai trị chính trong việc thực hiện chức năng thanh tốn của nền kinh tế. Cĩ nhiều thước đo đánh giá sự phát triển của hệ thống tài chính, sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Thước đo được sử dụng rộng rãi nhất là độ sâu tài chính (tỷ lệ giữa tài sản tài chính và tài sản thực) mà nĩ được đo bằng tỷ lệ giữa tổng tài sản tài chính của tất cả các tổ chức tài chính, hoặc là cung tiền, hoặc là tín dụng cung ứng cho khu vực tư nhân hay 20 Thị trường vốn (capital market) là khái niệm cĩ rất nhiều cách hiểu khác nhau. Ở đây được hiểu là tất cả các thị trường tài chính (financial markets) mà khơng phải là thị trường chứng khốn (securities markets) hay thị trường của các loại tài sản tài chính cĩ kỳ hạn một năm trở lên như cách định nghĩa trong một số sách. 21 Xem: Mishkin (2004), chương 2, trang 23-41. 22 Xem: FETP (2007), Hạnh (2002), trang 7, Thành (2004), trang 58.
  24. 13 tín dụng, hoặc là giá trị của thị trường chứng khốn so với GDP.23 Hình 1 dưới đây thể hiện mức độ phát triển tài chính và phát triển của khu vực ngân hàng ở một số nước. Hình 2.1: Quy mơ thị trường tài chính ở một số nước (2004) Hoa Kỳ 262% 130% Malaysia 152% 162% Anh Quốc 150% 134% Singapore 88% 159% Nhật Bản 157% 71% Trung Quốc 178% 48% Thái Lan 113% 83% Hàn Quốc 106% 54% Philippines 60% 29% Indonesia 56% 26% Việt Nam 52% 1% 0% 50% 100% 150% 200% 250% 300% 350% 400% Nguồn: WDI Tín dụng ngân hàng so với GDP Giá trị TTCK so với GDP 2.3.Các mơ hình tổ chức hệ thống ngân hàng Từ khi hình thành đến nay, hệ thống ngân hàng được xây dựng theo mơ hình ngân hàng một cấp và mơ hình ngân hàng hai cấp. Tuy nhiên, gần đây xuất hiện thêm một khái niệm hệ thống ngân hàng ba cấp hay 2,5 cấp. Hệ thống ngân hàng một cấp (monobanking system) là hệ thống mà ở đĩ các ngân hàng vừa đĩng vai trị của ngân hàng trung ương (phát hành tiền) và vai trị của các ngân hàng thương mại (huy động vốn và cấp tín dụng cho nền kinh tế). Nhược điểm lớn nhất của mơ hình này là khơng kiểm sốt được cung tiền và chất lượng tín dụng mà hậu quả tất yếu của nĩ là lạm phát cao, gây ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng, khủng hoảng kinh tế. Đã cĩ rất nhiều bài học từ sự đổ vỡ này. Theo thống kê, trước khi Ngân hàng Trung ương Anh ra đời, ở nước Anh, trong một thập kỷ lại cĩ một vài cuộc khủng hoảng xảy ra. Hơn 23 Xem: Mckinnon (1973); Mckinnon (1992), trang 13; Beim (2001), trang 59.
  25. 14 thế nữa, điểm yếu của hệ thống ngân hàng một cấp được thể hiện rất rõ trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống ngân hàng hai cấp (two-tier banking system) là hệ thống mà ở đĩ ngân hàng trung ương làm nhiệm vụ phát hành tiền, kiểm sốt lạm phát và giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng trung ương được gọi là ngân hàng của các ngân hàng với một số chức năng chính như: điều hành chính sách tiền tệ, giám sát hoạt động của các ngân hàng Các ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ huy động vốn và cung ứng tín dụng cho nền kinh tế. Hiện nay, hệ thống ngân hàng hai cấp được coi là hệ thống hoạt động hiệu quả nhất và hầu hết các nước trên thế giới đều theo mơ hình này. Hệ thống ngân hàng ba cấp (three-tier banking system). Gần đây xuất hiện khái niệm về hệ thống ngân hàng 3 cấp hay 2,5 cấp trong các nghiên cứu về hệ thống ngân hàng các nước chuyển đổi, nhất là hệ thống ngân hàng Trung Quốc. Với cách giải thích trong một số nghiên cứu, ngân hàng 3 cấp gồm cĩ ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại và các ngân hàng chính sách (Berger, 2005). Tuy nhiên, về cơ bản, rất nhiều nước (ngay cả nước phát triển) cũng cĩ các ngân hàng chính sách như ngân hàng phát triển , nên việc phân loại thành hệ thống ngân hàng ba cấp cĩ vẻ như khơng cĩ gì đặc biệt so với hệ thống ngân hàng hai cấp, do vậy, trong nghiên cứu này tác giả theo hướng phân loại hệ thống ngân hàng một cấp và hai cấp 2.4.Hệ thống ngân hàng ở các nền kinh tế trong thời kỳ chuyển đổi Các nền kinh tế chuyển đổi ở đây được hiểu là các nền kinh tế chuyển từ mơ hình kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. 24 Đặc trưng của các nền kinh tế này trước khi chuyển đổi là áp dụng mơ hình ngân hàng một cấp. Thường thì ngân hàng đảm nhiệm cả ba chức năng phát hành tiền của ngân hàng trung ương, cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại và cấp phát vốn ngân sách của kho bạc. Những trục trặc của hệ thống ngân hàng một cấp đã thể hiện rất rõ trong các nền kinh tế tập trung khi mà ngân hàng trung ương vừa là người in tiền, vừa là người “tiêu tiền”. Khi đồng tiền mất giá, chính phủ cần chi tiêu nhiều hơn, tình trạng lạm phát lại càng trầm trọng hơn. Hiện tượng này thể hiện rất rõ ở Việt Nam qua kế hoạch cải cách “giá lương tiền” vào năm 1985. Khi chuyển đổi kinh tế, các nền kinh tế chuyển đổi cũng chuyển mơ hình từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, đồng thời, chức năng quản lý 24 Khái niệm kinh tế thị trường cĩ thể là kinh tế thị trường hồn tồn như các nước Đơng Âu hay kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và Việt Nam.
  26. 15 ngân sách được chuyển sang hệ thống kho bạc. Đặc trưng của hệ thống ngân hàng các nền kinh tế chuyển đổi là vai trị của các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước giảm dần và vai trị của các ngân hàng tư nhân, các ngân hàng nước ngồi ngày càng gia tăng và cĩ vai trị tích cực. Bảng 2.1 dưới đây minh họa sở hữu ngân hàng ở một số nền kinh tế chuyển đổi. Bảng 2-1: Cơ cấu sở hữu hệ thống ngân hàng ở một số nước chuyển đổi25 1993 2003 Quốc gia Nhà nước Ngồi nhà nước Nhà nước Ngồi nhà nước Ba Lan 86,2% 13,80% 25,2% 74,8% Hungary 74,9 25,1 7,0 93,0 Séc 11,9 88,1 3,0 97,0 Slovakia 70,7 29,3 19,0 81,0 Trung Quốc 83,8 16,2 67,6 32,4 Việt Nam >90,0 <10,0 71,0 29,0 Nguồn: NHNN, Guiraud, García-Herrero và tính tốn của tác giả. 2.5.Cải cách hệ thống ngân hàng ở các nền kinh tế chuyển đổi Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hệ thống tài chính ở các nước theo nền kinh tế tập trung và hệ thống tài chính ở các nước chuyển đổi hầu hết do nhà nước quản lý và “định hướng”. Vốn được phân bổ vào các dự án, doanh nghiệp theo các chương trình mục tiêu của chính phủ thay vì để các ngân hàng tự hoạt động theo các quy luật của thị trường. Các học giả phương tây gọi là hệ thống tài chính như vậy là hệ thống tài chính bị áp chế (financial repression), 26 hoạt động khơng hiệu quả, dễ bị tổn thương và đổ vỡ. Mức độ bị áp chế của hệ thống tài chính được thể hiện ở tỷ lệ dự trữ bắt buộc, kiểm sốt lãi suất, tín dụng chỉ định, sở hữu nhà nước tại các ngân hàng, hạn chế sự tham gia của các ngân hàng tư nhân cũng như các ngân hàng nước ngồi và kiểm sốt dịng chảy của các nguồn vốn.27 Hệ thống tài chính như vậy được coi như cơng cụ tài trợ ngân sách cho chi tiêu của chính phủ qua hai con đường chính. Thứ nhất, tiền sẽ được ngân hàng trung ương chuyển trực tiếp qua chính phủ hay các dự án của chính phủ sẽ được thực hiện thơng qua các doanh nghiệp với sự tài trợ tín dụng của các ngân hàng. Do ràng buộc ngân sách 25 Số liệu này chỉ tính các ngân hàng mà khơng bao gồm các tổ chức tài chính phi ngân hàng. 26 Khái niệm và lý thuyết về áp chế tài chính được khởi xướng vào năm 1965 bởi James Tobin, nhà kinh tế học đoạt giải Nobel năm 1981 (xem Sikorshi, 1996, trang 60). 27 Xem: Caprio (2001), chương 1 và 5; Beim và Clomiris (2001), chương 2
  27. 16 mềm28 và quan hệ tam giác giữa nhà nước – doanh nghiệp – ngân hàng nên mục tiêu tối đa hĩa lợi nhuận khơng phải là ưu tiên hàng đầu của các doanh nghiệp cũng như ngân hàng.29 Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự kém hiệu quả trong phân bổ vốn cho nền kinh tế. Hình 2.2 dưới đây thể hiện cái vịng luẩn quẩn này. Hình 2.2: Sơ đồ quan hệ Nhà nước – Ngân hàng – Doanh nghiệp Nhà nước Nhà nước Tăng chi tiêu Ngân hàng in tiền Chuyển cho chính phủ Cho doanh nghiệp vay Lạm phát Ngân hàng Bất ổn kinh tế vĩ mơ Doanh nghiêp Hệ thống tài chính bị áp chế, hoạt động kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do vậy, việc tự do hĩa tài chính đã được các học giả đề xuất với một trình tự rất mạch lạc và rõ ràng mà nĩ được thể hiện theo sơ đồ 2.3 dưới đây. 30 Hình 2.3: Quá trình tự do hĩa tài chính31 28 Xem: Kornai (1992). 29 Xem: Du (2005), trang 5. 30 Mckinnon và Shaw là hai trong những người đầu tiên phân tích kỹ vấn đề áp chế tài chính và đề xuất việc tự do hĩa tài chính sẽ cĩ tác dụng tốt cho việc phát triển kinh tế (xem Sikorshi -1996, trang 66 và 26/12/2006) 31 Xem: McKinnon (1992), trang 4-6; McKinnon (1973), chương 7, 8; Caprio (2001), chương 1,4 và 5; Rao (2003), chương 4, trang 79-81; Caprio (1996), chương 11, trang 323.
  28. 17 Tự do hóa tài chính Giảm dự Bỏ kiểm Đa dạng Tăng Bỏ tín trữ bắt sốt lãi hĩa sở cạnh dụng chỉ buộc suất hữu tranh định Giảm thâm Cải cách tài hụt ngân sách khoản vốn Quản lý tỷ giá hối đối Cải cách thương mại Nguồn: Tập bài giảng Tài chính Phát triển của FETP Mơ hình trên chính là cách tiếp cận của của McKinnon (1973, 1992). Sơ đồ cho chúng ta thấy các bước cải cách rất rõ ràng trừ các giải pháp cụ thể về cải cách tài khoản vốn. Theo nhận xét của nhiều người đây chính là nhược điểm lớn nhất của mơ hình McKinnon vì đã khơng chỉ ra cách thức cải cách tài khoản vốn một cách cụ thể. Để khắc phục nhược điểm này, OECD đã chỉ ra một cách chi tiết các bước và trình tự cần thiết để cải cách tài khoản vốn. Nhưng ngược lại với lý thuyết McKinnon, các đề xuất của OECD được dựa trên giả định các yếu tố khác đang được vận hành tốt mà trên thực tế, điều này là khơng cĩ thực. IMF đã đưa ra một khung đề xuất cho tiến trình tự do hĩa tài chính rất chặt chẽ và chi tiết. Tuy nhiên, mơ hình này lại quá phức tạp và rất khĩ để các nước đang phát triển cĩ thể hình dung và thực hiện được. Cách tiếp cận của ADB cĩ vẻ phù hợp và được chấp nhận nhiều hơn vì nĩ khơng quá phức tạp như mơ hình của IMF và các đề xuất cũng tương đối rõ ràng với các bước đi cụ thể. 32 Mỗi cách tiếp cận đều cĩ điểm mạnh và điểm yếu của nĩ. Do khơng đặt nặng vào việc xem xét quá trình cải cách tài khoản vốn mà muốn cĩ một bức tranh tương đối tồn diện về quá trình cải cách và tự do hĩa tài chính của Trung Quốc và Việt Nam, và nhìn chung sự khác biệt giữa cải cách hệ thống tài chính và tự do hĩa tài chính là khơng nhiều (hình 2.4), nên ở nghiên cứu này, tác giả sẽ sử dụng khung lý thuyết tự do hĩa tài chính mà cụ thể là khung phân tích của McKinnon để so sánh quá trình cải cách hệ thống tài chính nĩi chung, ngân hàng nĩi riêng ở Trung Quốc và Việt Nam. Hình 2.4: Quá trình tự do hĩa tài chính và cải cách tài chính 32 Xem: Minh (2007), trang 9; Long (2006), trang 11.
  29. 18 Hệ thống tài chính Hệ thống tài chính kém hiệu quả Cải cách tài chính theo chuẩn mực thị trường Hệ thống tài chính Hệ thống tài chính được tự do bị áp chế và kiểm sốt Tự do hố tài chính Nguồn: mơ hình hĩa của tác giả từ các lý thuyết về tự do hĩa tài chính và cải cách tài chính Ở các nước đang phát triển nĩi chung, các nền kinh tế chuyển đổi nĩi riêng, hệ thống tài chính đang ở giai đoạn sơ khai nên hầu như chưa cĩ thị trường vốn, tài chính trực tiếp hầu như chưa cĩ vai trị gì, các ngân hàng đĩng vai trị chính trong việc huy động và phân bổ vốn. Do vậy, nhìn vào quá trình cải cách hệ thống tài chính ở các nước này, nhất là giai đoạn đầu tập trung chủ yếu vào việc cải cách các ngân hàng. Cải cách hệ thống ngân hàng ở các nền kinh tế chuyển đổi cĩ thể hiểu một cách đơn giản là quá trình chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp, kém hiệu quả trong nền kinh tế tập trung sang hệ thống ngân hàng nhiều cấp hoạt động theo các quy luật thị trường. Cải cách hệ thống ngân hàng được tập trung vào các yếu tố gồm tự do hĩa, ổn định hĩa, tư nhân hĩa mà ở Trung Quốc và Việt Nam gọi là cổ phần hĩa, và xây dựng các thể chế cũng như thay đổi cấu trúc là điều khơng thể thiếu của tiến trình cải cách này.33 Tự do hĩa trong khu vực ngân hàng là một phần của tự do hĩa nền kinh tế. Tự do hĩa là việc thiết lập cơ chế phân bổ và định giá theo các quy luật của thị trường. Ở khu vực ngân hàng, giá ở đây chính là lãi suất, nguồn lực chính là vốn. Liên quan đến vấn đề này việc tự do hĩa tài chính sẽ bao gồm: tự do hĩa lãi suất, chỉ sử dụng dự trữ bắt buộc như là cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ mà khơng xem nĩ là cơng cụ dùng để tài trợ cho thâm hụt ngân sách của chính phủ hay các mục đích khác; xĩa bỏ tín dụng chỉ định.34 Ổn định hĩa trong khu vực ngân hàng là một yêu cầu cải cách quan trọng. Nĩ được hiểu đơn giản là việc tăng cường năng lực tài chính cho các ngân hàng, nhất là các ngân 33 Xem: Beim và Calomiris (2001), trang 119; Roland (2006), trang 3; Garcia-Herrero (2006), trang 1. 34 Xem: Beim và Calomiris (2001), trang 119; Roland (2006), trang 3.
  30. 19 hàng thuộc sở hữu nhà nước bằng hai chính sách đồng thời là tái cấp vốn và xử lý các khoản nợ xấu khổng lồ do các chính sách cho vay trước đĩ để lại.35 Tư nhân hĩa hay cổ phần hĩa là việc bán bớt phần sở hữu của nhà nước cho các nhà đầu tư bên ngồi. Đề xuất cơ bản trong quá trình này là nên thực hiện việc đấu giá cổ phần một cách cơng khai và minh bạch cho các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư chiến lược. Thay đổi cấu trúc được hiểu là việc để cho khu vực ngồi nhà nước, nhất là các ngân hàng nước ngồi tham gia vào thị trường nhằm tạo ra một mơi trường cạnh tranh lành mạnh. Một vấn đề cần cĩ sự quan tâm đúng mức là việc xây dựng các thể chế thị trường, các cơ sở pháp lý và một ngân hàng trung ương mạnh, hoạt động hiệu quả. Nếu các yếu tố này khơng được xây dựng đồng thời với quá trình cải cách thì khả năng xảy ra khủng hoảng hay tạo ra sự đổ vỡ hay cải cách khơng hồn chỉnh là điều rất khĩ tránh khỏi. 35 Xem: Beim và Calomiris (2001), trang 119-126; Roland (2006), trang 4.
  31. 20 Chương 3 HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, CẤU TRÚC, VÀ VAI TRỊ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ Chương này sẽ xem xét quá trình hình thành và phát triển; cấu trúc hệ thống và hoạt động; và vai trị của hệ thống ngân hàng Trung Quốc cũng như Việt Nam đối với hệ thống tài chính nĩi riêng và nền kinh tế nĩi chung. 3.1.Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng 3.1.1.Trung Quốc Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBOC) được thành lập vào ngày 01/12/1948 (trước thời điểm quốc khánh Trung Quốc), trên cơ sở hợp nhất các ngân hàng Bắc Hải (Bei Hai Bank), Hoa Bắc (Hua Bei) và Ngân hàng nơng dân Tây Bắc (Xi Bei Farmer Bank). PBOC trực thuộc Bộ Tài chính và hoạt động theo mơ hình hệ thống ngân hàng một cấp, vừa làm nhiệm vụ phát hành tiền, vừa cung ứng tín dụng cho nền kinh tế. Để thực hiện chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, một số ngân hàng chuyên doanh lần lượt được thành lập như: Ngân hàng Trung Quốc (BOC) được quốc hữu hĩa vào năm 1949 từ ngân hàng cĩ cùng tên gọi thành lập vào năm 1912; Ngân hàng Nơng nghiệp Trung Quốc (ABC) năm 1949; Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc (CCB) năm 1954, với tên gọi ban đầu là Ngân hàng Xây dựng Nhân dân Trung Quốc (People's Construction Bank of China), đến năm 1996 được đổi tên như ngày nay.36 Nằm trong tiến trình cải cách do Đặng Tiểu Bình khởi xướng vào năm 1978, tháng 09/1983, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã quyết định để cho Ngân hàng Nhân Dân Trung Hoa hoạt động như Ngân hàng Trung ương. Điều này cĩ nghĩa là hệ thống ngân hàng hai cấp ở Trung Quốc chính thức được thành lập. Trong giai đoạn này, một ngân hàng khác được thành lập vào năm 1984 là Ngân hàng Cơng thương Trung Quốc (ICBC). Bốn ngân hàng nêu trên trở thành các ngân hàng chuyên doanh mà bây giờ là các NHTMNN lớn nhất Trung Quốc. Khi đĩ, các ngân hàng này cĩ nhiệm vụ cấp phát vốn cho 36 Xem: và 26/12/2006;
  32. 21 những khu vực chuyên biệt (gần với tên gọi của chúng) và cĩ quan hệ (phụ thuộc) rất chặt chẽ với Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa. Cũng trong thời gian này, các ngân hàng khu vực, ngân hàng cổ phần bắt đầu ra đời. Các ngân hàng nước ngồi bắt đầu được tham gia theo hình thức liên doanh, chi nhánh hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngồi.37 Luật Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa năm 1995 đã khẳng định lại vai trị ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa. Đồng thời trong giai đoạn này, các ngân hàng chính sách gồm Ngân hàng Phát triển Trung Quốc, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc và Ngân hàng Phát triển Nơng nghiệp Trung Quốc cũng được thành lập nhằm tách bạch tín dụng chỉ định và tín dụng thương mại. Năm 1998, PBOC được cơ cấu lại bằng cách chỉ thành lập 11 chi nhánh ở các vùng, thay vì tại tất cả các tỉnh. Đồng thời cũng trong năm này, trước yêu cầu cơ cấu lại các NHTMNN, nhất là vấn đề xử lý nợ xấu, Chính phủ Trung Quốc đã rĩt 20 tỷ đơ-la để thành lập 4 cơng ty quản lý tài sản (AMC) với nhiệm vụ xử lý nợ cho 4 NHTMNN và chịu sự quản lý đồng thời của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa.38 Trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khố X năm 2003, Trung Quốc đã quyết định tách chức năng giám sát của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa để thành lập Uỷ ban Giám sát Ngân hàng Trung Quốc (CBRC). Việc thành lập CBRC đã giúp PBOC tập trung hơn vào chức năng điều hành chính sách tiền tệ.39 Trong tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, nhất là các NHTMNN, tháng 8/2004, BOC và CCB được chuyển thành cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Tổng cơng ty Đầu tư vốn Nhà nước Huijin Trung Quốc nắm giữ. Đến tháng 10/2005 thì CCB chính thức cổ phần hĩa và phát hành cổ phiếu lần đầu tiên trên thị trường chứng khốn Hồng Kơng, tháng 06/2006 là BOC, tháng 10/2006 là ICBC. Đến nay, cổ phiếu của các ngân hàng này đã được niêm yết trên các thị trường chứng khốn Hồng Kơng, Thượng Hải. Theo kế hoạch, Chính phủ Trung Quốc sẽ chi khoảng 100 tỷ đơ-la nhằm làm lành mạnh tình hình tài chính của Ngân hàng Nơng nghiệp Trung Quốc (ABC) trước khi tiến hành cổ phần hĩa vào năm 2007.40 37 Xem: Barth, Hoep và Zhou (2004), trang 6; Roland (2006), trang 13. 38 Xem: García-Herrero và Santabárbara (2004), trang 10; Bartel (2000), trang 4 39 Xem: 26/12/2006; García-Herrero (2004), trang 8; Barth (2004), trang 8. 40 Xem: Blooberg TV ngày 28/12/2006.
  33. 22 Một đối tượng quan trọng trong quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Trung Quốc là các hợp tác xã tín dụng. Nở rộ trong thập nhiên 1980, với hàng chục nghìn đơn vị trải khắp từ nơng thơn đến thành thị, nĩ trở thành một bộ phận khơng thể tách rời của hệ thống ngân hàng Trung Quốc. Các hợp tác xã tín dụng đã cĩ một vai trị rất lớn, nhưng với số lượng quá nhiều, nhiều hợp tác xã đang gặp vấn đề là nỗi lo lắng của Trung Quốc. Nếu khơng xử lý kịp thời khả năng xảy ra khủng hoảng của hệ thống này là khơng nhỏ. Khi đĩ, hậu quả để lại cho nền kinh tế là rất nặng nề.41 Cải cách hệ thống hợp tác xã tín dụng, nhất là các hợp tác xã tín dụng nơng thơn được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Trung ương Trung Quốc trong 5 năm tới.42 Cùng với quá trình cải cách và phân cấp, các ngân hàng khu vực mà phần lớn được sở hữu bởi chính quyền địa phương cùng dần được hình thành và chúng đĩng vai trị như các “nhà tài trợ” cho các chương trình phát triển của các địa phương. Đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm của hệ thống ngân hàng Trung Quốc vì hoạt động của các ngân hàng này đang gặp nhiều vấn đề. Do vậy, nằm trong kế hoạch cải cách hệ thống ngân hàng, các ngân hàng khu vực cũng là một trong những ưu tiên và mối quan tâm của Trung Quốc. 3.1.2.Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) được thành lập ngày 06/05/1951. Tuy sau Quốc khánh, nhưng vẫn trước thời điểm giải phĩng miền Bắc 1954. NHNNVN lúc bấy giờ cĩ tên gọi là Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, hoạt động theo mơ hình ngân hàng một cấp. Để thực hiện nhiệm vụ cấp phát vốn cho nền kinh tế, các ngân hàng chuyên doanh cũng lần lượt ra đời. Trong đĩ, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành lập năm 1957 cĩ tên gọi ban đầu là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, năm 1981 đổi thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng, đến năm 1990 được đổi tên như hiện nay. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thành lập năm 1963. Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn Việt Nam và Ngân hàng Cơng thương Việt Nam thành lập năm 1988.43 Năm 1986, Việt Nam bắt đầu quá trình đổi mới. Năm 1988 cũng đánh dấu nỗ lực tự do hĩa tài chính đầu tiên của Việt Nam bằng Nghị quyết số 02-NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khố VI) giải quyết những vấn đề cấp bách 41 Xem: Barth (2004), trang 5; García-Herrero (2004), trang 11. 42 Xem: 11da-89df-0000779e2340.html, 13/01/2007 43 Xem: 28/12/2006; NHNNVN (1997)
  34. 23 về phân phối, lưu thơng, ngày 09 tháng 04 năm 1987. Sau đĩ, ngày 9/3/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định 53 cho phép tất cả các tổ chức kinh tế, bao gồm cả các đơn vị kinh tế ngồi quốc doanh, được vay tiền và huy động vốn từ cơng chúng đã dẫn đến khủng hoảng của các hợp tác xã tín dụng một năm sau đĩ và để lại những hậu quả hết sức nặng nề. Cĩ ba điểm đáng chú ý ở đây. Thứ nhất, giai đoạn 1986-1988 là thời gian mất ổn định kinh tế vĩ mơ nhất mà nền kinh tế Việt Nam từng trải qua. Với việc chính phủ sử dụng in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, lạm phát ở mức phi mã ba chữ số. Thứ hai, nỗ lực tự do hĩa tài chính này được tiến hành trong khi hầu như chưa cĩ cải cách trong khu vực cơng nghiệp, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hoạt động ngoại thương. Thực tế là mới chỉ cĩ khu vực nơng nghiệp được tự do hĩa, và rất nhiều loại giá vẫn bị biến dạng nghiêm trọng. Thứ ba, tự do hĩa đã đi quá xa đến nỗi cho phép tất cả tổ chức kinh tế đều cĩ thể kinh doanh tiền tệ, trong khi hệ thống giám sát tài chính thì hồn tồn khơng tồn tại. Các tổ chức huy động vốn từ cơng chúng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm để cho vay khơng phải tuân thủ các quy định truyền thống của ngân hàng, như dự trữ bắt buộc và tỷ lệ vốn/dự nợ vay.44 Năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chính thức hoạt động theo mơ hình ngân hàng 2 cấp sau khi Hội đồng Nhà nước Việt Nam ban hành các pháp lệnh ngân hàng. Do sự đổ bể của các hợp tác xã tín dụng, nên khác với Trung Quốc, các hợp tác tín dụng được đổi tên thành quỹ tín dụng nhân dân.45 Từ năm 1990, các ngân hàng cổ phần bắt đầu được thành lập, các ngân hàng nước ngồi được tham gia dưới hình thức thành lập chi nhánh hoặc liên doanh với các ngân hàng trong nước. Năm 1995, Ngân hàng Người nghèo được thành lập. Đến năm 2002 đổi tên thành Ngân hàng Chính sách Xã hội. Năm 1997, một NHTMNN khác, Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng Sơng Cửu Long được thành lập với chức năng ban đầu được thể hiện trong tên gọi, nhưng sau đĩ cĩ thể do thất bại của chương trình phát triển nhà ở đồng bằng sơng Cửu Long nên ngân hàng này trở thành một ngân hàng thương mại thuần túy.46 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997, khẳng định lại vai trị Ngân hàng Trung ương của NHNNVN. Năm 2000, nằm trong tiến trình cải cách và cơ cấu lại các 44 Xem: Thành (2003), trang 2. 45 Xem: Dufhues (2003), trang 31. 46 Xem: 28/12/2006
  35. 24 NHTMNN, nhất là việc xử lý nợ xấu, bốn cơng ty xử lý nợ (AMC) được thành lập với mức vốn điều lệ chỉ 30 tỷ đồng cho mỗi cơng ty để xử lý nợ cho từng ngân hàng.47 Một con số hồn tồn khơng tương xứng với số nợ hơn 21 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2000.48 Ngồi ra, cịn cĩ một vài AMC thuộc các NHTMCP, nhưng mức vốn điều lệ chỉ cĩ 3 tỷ đồng. Bên cạnh các AMC nêu trên, năm 2003, Cơng ty Mua bán nợ và Tài sản tồn đọng của doanh nghiệp được thành lập. Nhưng khác với mơ hình cơng ty xử lý nợ ở chỗ đây là doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, cĩ nghĩa là tồn tại lâu dài chứ khơng phải là dạng cơng ty xử lý nợ quốc gia được thành lập để xử lý nợ xấu cho doanh nghiệp trong một thời điểm nhất định nào đĩ. Hiện nay, các NHTMNN Việt Nam đang thực hiện tiến trình cổ phần hĩa giống như Trung Quốc. Nhưng việc thực hiện này diễn ra tương đối chậm chạp. Theo kế hoạch ban đầu, Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sơng Cửu Long sẽ được cổ phần hĩa vào năm 2005, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Theo kế hoạch mới nhất thì vào đầu quý III năm 2007, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ phát hành cổ phiếu lần đầu. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Cơng thương Việt Nam sẽ cĩ bước đi tương tự vào quý IV. Dự kiến hết năm 2008, việc cổ phần hĩa năm NHTMNN sẽ được hồn thành. Ngồi ra, trong hệ thống ngân hàng Việt Nam cịn cĩ một số loại hình tổ chức đặc biệt như: Ngân hàng Phát triển Việt Nam; các quỹ đầu tư phát triển địa phương theo mơ hình ngân hàng đơ thị của Trung Quốc; và Tiết kiệm bưu điện theo mơ hình của Nhật. Điểm đặc biệt là hoạt động của Ngân hàng Phát triển hiện nay dường như khơng khác mấy hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trong những năm đầu thập niên 1990. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam cĩ thể tĩm tắt theo bảng 3.1 dưới đây: Bảng 3-1: Các mốc lịch sử chính của hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam49 TRUNG TT CÁC MỐC LỊCH SỬ QUỐC VIỆT NAM 47 Khác với Trung Quốc, các AMC của Việt Nam do các NHTMNN thành lập và trực thuộc các ngân hàng này chứ khơng độc lập như ở Trung Quốc. 48 Xem: NHNNVN (2001) 49 Chi tiết xem phụ lục 7&8
  36. 25 1 Hệ thống ngân hàng 1 cấp 1948-83 1951-90 Thành lập các ngân hàng chuyên 1980s 1990s 2 doanh50 Thử nghiệm mơ hình HTX tín 1980s 1987 3 dụng 4 Thành lập ngân hàng chính sách 1995 1995 Cơ cấu lại Ngân hàng Trung ương 1998 Từ nay đến 5 2010 6 Thành lập các AMC 1999 2000 Thành lập uỷ ban giám sát ngân 2003 Từ nay đến 7 hàng 2010 Nguồn: Tổng hợp của tác giả Nhìn vào quá trình hình thành và phát triển cĩ thể thấy rằng, hệ thống ngân hàng Việt Nam dường như là một sự nối tiếp của hệ thống ngân hàng Trung Quốc. 3.2.Cấu trúc hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam Về cấu trúc hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc và Việt Nam cĩ thể chia thành các cơ quan điều hành chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động ngân hàng; và các ngân hàng hay các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức trung gian cĩ thể xem xét theo hình thức sở hữu (nhà nước, dân doanh, nước ngồi) hay lĩnh vực hoạt động (ngân hàng, phi ngân hàng ). 3.2.1.Cơ quan điều hành chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động ngân hàng 3.2.1.1.Trung Quốc Ở Trung Quốc, việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động ngân hàng được thực hiện bởi hai tổ chức chính. Ngân hàng Nhân Dân Trung Hoa thực hiện chức năng chính của ngân hàng trung ương là điều hành chính sách tiền tệ với mơ hình tổ chức giống như Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ (FED) gồm hội sở chính và các chi nhánh khu vực. Ủy ban Giám sát Hoạt động Ngân hàng thực hiện việc giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng. Với mơ hình tổ chức như hiện nay, nhiều người cho rằng, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa đã giảm đáng kể sự can thiệp của các chính quyền địa phương như mơ hình mỗi 50 Thực ra đây là giai đoạn sắp xếp lại thì đúng hơn vì một số ngân hàng đã được thành lập trước đĩ.
  37. 26 tỉnh một chi nhánh như trước đĩ. Việc thành lập CBRC cũng mang lại hy vọng rằng hoạt động của các ngân hàng thương mại, các trung gian tài chính sẽ được giám sát chặt chẽ và hiệu quả hơn, từ đĩ cĩ thể tăng cường tính ổn định và phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng. 3.2.1.2.Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cơ quan ngang bộ trực thuộc chính phủ, là tổ chức điều hành chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng, cĩ cơ cấu tổ chức gồm hội sở chính và các chi nhánh ở hầu hết tất cả các tỉnh thành phố. 51 NHNNVN thực hiện cả nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng. Với mơ hình này, nhiều người cho rằng vai trị của NHNNVN bị chi phối rất nhiều bởi chính phủ và chính quyền địa phương. Kế hoạch cải cách NHNNVN với mục tiêu là xây dựng một ngân hàng trung ương hiện đại đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Dự kiến, trong năm 2007, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng sẽ được sửa đổi nhằm xây dựng ngân hàng Trung ương theo mơ hình của Trung Quốc và bộ phận giám sát hoạt động ngân hàng sẽ được tách ra thành một cơ quan ngang cục, NHNNVN chỉ tập trung điều hành chính sách tiền tệ. 52 Tính độc lập và sự hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động ngân hàng là điều mà nhiều người quan tâm (Dufhues 2003), (NHTG 2002). Mức độ độc lập thể hiện rất rõ khi vào cuối năm 2006 vừa qua, do hết hạn mức phát hành tiền nên NHNNVN khơng thể tiếp tục mua đơ-la vào trong khi, hành động của một ngân hàng trung ương đúng nghĩa là phải mua ngay đơ-la vào.53 Với mơ hình tổ chức theo vùng như kiểu của FED, PBOC hầu như khơng chịu tác động của các chính quyền địa phương, trong khi ở Việt Nam, chi nhánh NHNNVN tỉnh nhiều khi được xem như là một cơ quan ngang sở. Một người cấp vụ trưởng ở NHNNVN đã nĩi rằng “Điểm bất hợp lý của mơ hình hiện nay là chi nhánh NHNNVN ở Yên Bái, tỉnh cĩ GDP chỉ vài nghìn tỷ đồng, cũng tương tự như chi nhánh NHNNVN ở các địa phương cĩ nền kinh tế năng động và lớn hơn rất nhiều như Hải Phịng, Đà Nẵng ”. 51 Xem: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997, sửa đổi năm 2002, điều 1 52 Xem: Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 53 Xem: 08/02/2997
  38. 27 Về cơ bản, cấu trúc ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của Trung Quốc cĩ vẻ hợp lý hơn Việt Nam. Tuy nhiên, theo cách nhìn nhận phổ biến thì tính độc lập của ngân hàng trung ương ở cả Trung Quốc và Việt Nam nhìn chung là rất thấp. 3.2.2.Các tổ chức tài chính trung gian 3.2.2.1.Trung Quốc Vào cuối năm 2004, ở Trung Quốc, 4 NHTMNN (ba ngân hàng đã được cổ phần hĩa, nhưng nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chi phối) khơng những hoạt động trong nước mà cịn cĩ chi nhánh ở nước ngồi, chiếm giữ đến 54,6% tổng tài sản hệ thống ngân hàng; 3 ngân hàng chính sách chiếm 11,4%; 11 ngân hàng thương mại cổ phần cĩ phạm vi hoạt động rất lớn, chiếm 15%; 112 ngân hàng đơ thị mà mỗi ngân hàng thường gắn liền với một thành phố nào đĩ chiếm 5,4%; 191 chi nhánh và ngân hàng 100% vốn nước ngồi hoạt động trên khắp đất nước Trung Quốc, trong đĩ 15 ngân hàng 100% vốn nước ngồi, 157 chi nhánh và 11 chi nhánh phụ chỉ chiếm vỏn vẹn 1,6%; 54 gần 35.000 hợp tác xã tín dụng nơng thơn và 1.000 hợp tác xã tín dụng đơ thị chiếm 10,4%; và 1,5% cịn lại thuộc các tổ chức tài chính khác.55 (Xem hình 3.1). Các ngân hàng nước ngồi bắt đầu được thành lập ở Trung Quốc từ năm 1981. Ban đầu, họ được chỉ hoạt động hết sức giới hạn (về cả phạm vi lẫn các sản phẩm dịch vụ). Theo thời gian, các hạn chế này dần được dỡ bỏ và kể từ đầu năm 2007, về nguyên tắc, các ngân hàng nước ngồi được đối xử quốc gia bình đẳng theo các quy định của WTO.56 Như số liệu nêu trên cho thấy, hoạt động của các ngân hàng nước ngồi tại Trung Quốc cịn hết sức khiêm tốn. Ngồi các tổ chức tài chính hoạt động ngân hàng, dưới sự quản lý của PBOC và CBRC cịn cĩ các tổ chức tài chính phi ngân hàng gồm: các cơng ty tài chính, các cơng ty cho thuê tài chính, các cơng ty đầu tư (Trust and Investment Corporations), các cơng ty tương lai tài chính, các cơng ty bảo lãnh tín dụng và các cơng ty xử lý nợ. 3.2.2.2.Việt Nam 54 Nếu coi các tổ chức tài chính nước ngồi cĩ một tỷ phần thị trường tương ứng với phần sở hữu của họ trong các ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hĩa thì thị phần của các ngân hàng nước ngồi ở Trung Quốc cĩ thể lên đến 10%. Tuy nhiên, do việc chuyển đổi sở hữu mới chỉ xảy ra trong vịng một năm nên chưa thể đánh giá được vai trị của các tổ chức tài chính nước ngồi đến mức độ nào. 55 Xem: Garrcía-Herrero (2006), bảng 1, trang 342; Hope & Hu (2006), trang 44. 56 Xem: Ruogu (2001), trang 15
  39. 28 Tương tự hệ thống ngân hàng Trung Quốc, chưa kể một số loại hình tổ chức tài chính khác (Ngân hàng Phát triển, Tiết kiệm bưu điện, Ngân hàng chính sách xã hội, các quỹ đầu tư địa phương) đến cuối năm 2005, ở Việt Nam, 5 NHTMNN chiếm thị phần (về tài sản) chi phối với 70,7%; 37 NHTMCP chiếm 17,2%; 31 chi nhánh ngân hàng nước ngồi và 5 ngân hàng liên doanh chiếm 10,7%,57 các quỹ tín dụng nhân dân chỉ chiếm khoảng 1,4%.58 Hơi khác Trung Quốc, đến cuối năm 2006, Việt Nam chưa cĩ ngân hàng 100% vốn nước ngồi59 và các ngân hàng nước ngồi ở Việt Nam chiếm một thị phần rất đáng kể. Các ngân hàng thương mại cổ phần bắt đầu được thành lập từ đầu thập niên 1990 trên cơ sở sắp xếp lại các hợp tác xã tín dụng cịn lại sau cuộc khủng hoảng vào cuối thập niên 1980. Trong suốt thập niên 1990, hoạt động của các loại hình ngân hàng này khơng được khả quan cho lắm, cuối thập niên 1990 đã rơi vào khủng hoảng, nhiều ngân hàng đã rơi vào tình trạng kiểm sốt đặc biệt. Tuy nhiên, sau khi vượt qua giai đoạn khĩ khăn này, các ngân hàng thương mại cổ phần bắt đầu tăng tốc, cho đến thời điểm hiện nay, họ đã trở thành một thế lực mới trong hệ thống tài chính Việt Nam. Tương tự Trung Quốc, khi bắt đầu được hoạt động ở Việt Nam vào đầu thập niên 1990, các Ngân hàng nước ngồi bị rất nhiều hạn chế cả về phạn vi hoạt động lẫn các sản phẩm dịch vụ, lượng vốn được huy động Theo thời gian, các quy định này này dần được nới lỏng và theo các cam kết gia nhập WTO và Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, sau năm 2010, các ngân hàng nước ngồi coi như được đối xử quốc gia bình đẳng.60 Bên cạnh các tổ chức tín dụng ngân hàng cịn cĩ các tổ chức tín dụng phi ngân hàng61 gồm 5 cơng ty cho thuê tài tài chính trực thuộc 5 tổng cơng ty nhà nước, 10 cơng ty cho thuê tài chính mà chúng hầu hết đều thuộc các NHTMNN, chỉ cịn một vài cơng ty liên doanh, cơng ty cĩ 100% vốn nước ngồi. 62 Đến thời điểm hiện nay, các tổ chức tín dụng 57 Hiện các ngân hàng nước ngồi chưa cĩ cổ phần trong các NHTMNN, nhưng đã cĩ trong các ngân hàng cổ phần, nếu tính tương tự Trung Quốc thì thị phần của các ngân hàng nước ngồi cĩ thể lên đến 20%. 58 Nguồn: NHNN, IMF và tính tốn của tác giả 59 Theo thỏa thuận gia nhập WTO, kể từ ngày 01/04/2007, các ngân hàng 100% vốn nước ngồi sẽ được phép thành lập và hoạt động tại Việt nam. 60 Xem: Phụ lục cam kết về dịch vụ khi gia nhập WTO của Việt Nam, trang 48 61 Theo thuật ngữ chung các tổ chức tài chính được chia ra gồm tổ chức tài chính ngân hàng (Banking Institutions) và các tổ chức tài chính phi ngân hàng (Non-Banking Institutions). Tuy nhiên, trong Luật Việt Nam cĩ thêm định nghĩa tổ chức tín dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng. 62 Xem: ngày 25/08/2006
  40. 29 phi ngân hàng hầu như chưa cĩ vai trị rõ ràng, ngồi chức năng làm “trung gian” tài chính cho các tổng cơng ty nhà nước của các cơng ty tài chính. Ngồi ra, tuy khơng cĩ các ngân hàng đơ thị, nhưng ở Việt nam cĩ một loại hình tổ chức tương tự là các quỹ đầu tư phát triển địa phương. Điểm đặc biệt là các quỹ này hoạt động theo luật ngân sách và dường như khơng chịu sự điều chỉnh của các quy định về hoạt động ngân hàng. Bên cạnh các quỹ đầu tư phát triển địa phương, trải qua nhiều lần cơ cấu lại trên cơ sở chia tách, sáp nhập, giữa năm 2006, Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập từ Quỹ Hỗ trợ Phát triển, trước đĩ là Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia và trước đĩ nữa là Tổng cục Đầu tư Phát triển mà nĩ được tách từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển vào năm 1993. Tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng này ở thời điểm chuyển giao khoảng 85.000 tỷ đồng. 63 Con số này chỉ thấp hơn dư nợ của NHNNo, ngân hàng cĩ dư nợ lớn nhất Việt Nam. Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam được thành lập vào năm 1995 với tên gọi là Ngân hàng Phục vụ người nghèo, đến năm 2002 mới đổi tên thành ngân hàng chính sách. Mục tiêu chính của ngân hàng này là phục vụ các đối tượng chính sách, đến cuối năm 2005, tổng nguồn vốn và dư nợ của ngân hàng này vào khoảng 20 nghìn tỷ đồng.64 Một tổ chức tài chính đặc biệt khác cần kể đến đĩ là Tiết kiệm bưu điện Việt Nam (VPSC). Được thành lập vào năm 1999 trực thuộc Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thơng Việt Nam, và hoạt động dựa vào các bưu cục (cĩ lẽ là vận dụng mơ hình tiết kiệm bưu điện của Nhật Bản). Nhiệm vụ chính của VPSC là huy động vốn sau đĩ đem cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay lại hoặc mua các giấy tờ cĩ giá của chính phủ hoặc cĩ sự bảo lãnh của chính phủ. Đến cuối năm 2005, tổng số dư vốn huy động của VPSC vào khoảng 50.000 tỷ đồng, lớn hơn một nửa bình quân chung của bốn NHTMNN. Thi phần tài sản của các ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam được thể hiện trong hình 3.1 63 Xem: ngày 25/08/2006 64 Xem:
  41. 30 Hình 3.1: Thị phần sở hữu tài sản của các ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam65 Nguồn: NHNNVN, Garrcía-Herrero, IMF và ước tính của tác giả. Những phân tích và nhất là đồ thị trên cho thấy, các loại hình tổ chức tài chính trung gian dưới sự quản lý và giám sát của ngân hàng trung ương ở Trung Quốc và Việt Nam là rất giống nhau. Kết hợp tất cả các loại tổ chức tài chính thuộc sở hữu nhà nước thì thị phần của chúng chiếm đến 75,2% ở Việt Nam và 71,4% ở Trung Quốc. Nếu tính cả các hợp tác xã tín dụng, những tổ chức tài chính mà nhà nước chi phối rất lớn thì tổng thị phần của các tổ chức này ở Việt Nam sẽ là 76,4% và ở Trung Quốc lên đến 81,8%. Những con số này thể hiện sự tham gia của nhà nước vào hệ thống ngân hàng là rất lớn. 3.3.Hoạt động của hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam 3.3.1.Hoạt động của ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát 3.3.1.1.Điều hành chính sách tiền tệ Điểm giống nhau giữa việc thực thi chính sách tiền tệ của Trung Quốc và Việt Nam là Ngân hàng Trung ương của hai nước vẫn chưa điều hành theo tiêu chí lạm phát mục tiêu 65 Các NHCS của Việt nam bao gồm Ngân hàng Chính sách Xã hội, NHPT và Tiết kiệm bưu điện; các quỹ đầu tư phát triển địa phương xếp vào dạng như ngân hàng đơ thị (Tham khảo phụ lục 6)
  42. 31 hay thấp hơn một chút là điều hành theo mục tiêu lạm phát thấp như đề xuất của một số nhà nghiên cứu mà vẫn phải dựa vào cơ sở tiền.66 Chính sách này thường bị động, khĩ kiểm sốt lạm phát và dễ xảy ra tình trạng đồng tiền mất giá ngầm, thâm hụt cán cân vãng lai, tiềm ẩn cho khủng hoảng tài chính tiền tệ.67 Goodfriend (2006) đã đề nghị để giúp việc điều hành chính sách tiền tệ chủ động hơn, cơng cụ mục tiêu lạm phát thấp làm cái neo danh nghĩa cho chính sách tiền tệ. Ngồi ra, các cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ gián tiếp của cả Trung Quốc và Việt Nam dường như chưa phát huy tác dụng. Nhất là đối với Việt Nam, nhiều chính sách tiền tệ dường như là theo đuơi thị trường hơn là dẫn dắt thị trường. Yếu tố này chịu tác động rất lớn bởi tính kém độc lập trong việc điều hành chính sách của Ngân hàng Trung ương. Trong khoảng hai thập niên gần đây, Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân gần 10%, tốc độ tăng cung tiền bình quân là 22% và lạm phát bình quân khoảng 5,5% (nếu loại trừ biến động của những năm đầu thập niên 1990 thì mức lạm phát rất thấp). Đối với Việt Nam, cũng trong khoảng thời gian tương tự, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân chỉ vào khoảng 7,5%, trong khi tốc độ tăng cung tiền lên đến 28%. Tốc độ tăng giá bình quân của Việt Nam cĩ thấp hơn Trung Quốc một chút, nhưng nếu so sánh những năm gần đây thì việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam cĩ vẻ bất ổn hơn Trung Quốc khi lạm phát tăng đột ngột. Khác với Trung Quốc, một vấn đề khĩ khăn trong việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam là tình trạng đơ-la hĩa. Với khoảng 30% tiền gửi là ngoại tệ68 cộng với thĩi quen giao dịch bằng vàng của cơng chúng đã gây ra rất nhiều khĩ khăn cho NHNNVN vì trong nền kinh tế khơng phải chỉ cĩ một đồng tiền duy nhất như phần lớn các nước mà cĩ đến ba “loại tiền” cùng được giao dịch đồng thời. Hình 3.2 dưới đây phần nào thể hiện việc điều hành chính sách tiền tệ của Trung Quốc và Việt Nam. Hình 3.2:Tăng trưởng kinh tế, tăng cung tiền và lạm phát ở Việt Nam & Trung Quốc 66 Xem: Goodfriend (2006), trang 30. 67 Đây là nhận định của ơng Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng vụ Chiến lược và Phát triển ngân hàng- NHNN 68 Xem: IMF (2006b), trang 22
  43. 32 70 % 60 50 40 30 20 10 0 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 TB (10) TQ-Tăng trưởng TQ-CPI TQ-Tăng cung tiền (M2) VN-Tăng trưởng VN-CPI VN-Tăng cung tiền (M2) Nguồn: WDI, NHNNVN 3.3.1.2.Giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng Việc giám sát hoạt động của các ngân hàng được chia thành hai loại gồm: giám sát từ xa và giám sát tại chỗ. Với nỗ lực và tham vọng rất lớn khi thành lập Ủy ban Giám sát hoạt động Ngân hàng, nhưng CBRC chỉ mới làm tương đối tốt cơng tác giám sát từ xa, trong khi việc giám sát tại chỗ vẫn cịn nhiều khĩ khăn. Theo Ts. Lê Xuân Nghĩa thì cả Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khơng thể biết được những sự thay đổi lớn trong tài sản của các ngân hàng thương mại một cách cập nhật. Nhìn chung, khả năng giám sát hoạt động của các tổ chức tài chính vẫn đang là câu hỏi lớn đối với cả hai nước.69 Với cách thức và các cơng cụ giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay, việc đảm bảo các ngân hàng thương mại tuân thủ một cách chặt chẽ các quy định đang gặp nhiều khĩ khăn. 3.3.2.Hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian 3.3.2.1.Trung Quốc Điểm đầu tiên cần nĩi đến là quy mơ của hệ thống ngân hàng Trung Quốc rất lớn so với nền kinh tế. Vào năm 2005 tổng tín dụng nội địa lên tới 3.000 tỷ đơ la (24.837 tỷ 69 Xem thêm Minh (2007), trang 25; Thành (2004), trang 165.
  44. 33 RMB),70 lớn hơn 150% GDP. Khơng chỉ lớn so với bản thân nền kinh tế của Trung Quốc mà quy mơ hệ thống ngân hàng Trung Quốc cũng rất lớn so với tồn thế giới (xếp hạng thứ năm sau Mỹ, Nhật, Đức và Anh). Tuy nhiên, hoạt động và mức độ an tồn của hệ thống ngân hàng Trung Quốc là điều làm nhiều người quan ngại. Do các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước vẫn chi phối hệ thống ngân hàng dẫn đến sự cạnh tranh trong các ngân hàng cịn tương đối thấp thể hiện ở lãi suất biên lên đến 1,79% so với 1,38% của các nước đơng Âu.71 Các ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Các khoản cho vay chiếm đến 60,8% tổng tài sản của các ngân hàng. Các khoản vay tập trung vào các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn (85% các khoản cho vay). Các loại hình cho vay hiện đại như cho vay thế chấp bất động sản, cho vay tiêu dùng cá nhân cịn chiếm một tỷ trọng hết sức khiêm tốn. Các loại hình đầu tư khác trong tài sản ngân hàng chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ. Về phía tài sản nợ, tiền gửi và các khoản huy động ngắn hạn chiếm đến 89,1% tổng tài sản, trong khi con số này của các nước đơng Âu là 78,12%. Điều này phần nào thể hiện sự nghèo nàn của các dịch vụ ngân hàng.72 Các chuẩn tắc thị trường chưa được áp dụng rộng rãi nên kết quả dẫn đến là các khoản vay cĩ chất lượng rất kém, tỷ lệ nợ xấu rất cao. Con số cĩ vẻ được phía Trung Quốc thừa nhận là vào năm 2004, tổng nợ xấu của hệ thống ngân hàng lên đến 480 tỷ USD, chiếm 36% GDP. 73 Tuy phải rút lại báo cáo cơng bố vào giữa năm 2006, nhưng Ernst&Young tính tốn tổng nợ xấu của hệ thống ngân hàng Trung Quốc lên đến trên 900 tỷ USD, chiếm đến 40% tổng dư nợ, bằng 55% GDP.74 Theo con số chính thức của Ủy ban Giám sát hoạt động Ngân hàng Trung Quốc, đến cuối quý III/2006, tổng nợ xấu của các ngân hàng Trung Quốc (chưa tính phần chuyển giao cho các AMC) vào khoảng 170 tỷ đơ- la, trong đĩ, riêng tại các NHTMNN là 132 tỷ.75 Dù con số nào chăng nữa đều cho thấy rằng, nợ xấu của hệ thống ngân hàng Trung Quốc là một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Hoạt động và lợi nhuận vẫn chủ yếu dựa vào tín dụng với 80,82% lợi nhuận hoạt động. Thu nhập từ các hoạt động phi tín dụng chiếm một tỷ trọng hết sức khiêm tốn. Trong 70 Xem: 22/08/2006 71 Theo nghiên cứu của Ligang Songbieen lãi suất đã gia răng đáng kể trong những năm cuối thập niên 1990. Với khoản cho vay 1 năm, biên lãi suất vào tháng 06/1999 lên đến 3,6% (Huang, 2006, trang 122). 72 Xem: Garrcía-Herrero (2006), trang 309-311 73 Xem: Du (2005), trang 2 74 Xem: The Financial Time, 04/05/2006; 05/15/content_590282.htm, 09/02/2007; và Ernst& Young (2006). 75 Xem: 08/02/2007
  45. 34 khi tỷ trọng thu nhập rịng từ lãi và thu nhập rịng ngồi lãi ở các ngân hàng đơng Âu là 57- 43. Hiệu quả hoạt động kinh doanh rất thấp. Tỷ lệ thu nhập rịng trên tổng tài sản (ROA) và thu nhập rịng trên vốn chủ sở hữu (ROE) vào năm 2003 chỉ là 0,14% và 3,05%, trong khi con số này của các ngân hàng đơng Âu là 1,43% và 13,57% (xem hình 3.3 và 3.4). Cho dù đã được sự trợ giúp rất lớn của nhà nước, nhưng do hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, tỷ lệ nợ xấu cao, nên tỷ lệ an tồn vốn (CAR) cịn rất thấp. Cuối năm 2003 con số này chỉ là 6,73% so với 8% của tiêu chuẩn quốc tế và bình quân 12,35% của các nước đơng Âu (xem hình 3.4).76 Tuy nhiên, đối với các ngân hàng đã được cổ phần hĩa, tỷ lệ an tồn vốn đã được cải thiện đáng kể. 3.3.2.2.Việt Nam So với Trung Quốc, quy mơ hệ thống ngân hàng Việt Nam nhỏ hơn rất nhiều về cả quy mơ nền kinh tế và so con số tuyệt đối. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của các ngân hàng Việt Nam đến cuối năm 2005 chỉ vào khoảng 550 nghìn tỷ đồng, 77 bằng 65,6% GDP. Khơng chỉ so với Trung Quốc mà cịn đối với các nước trong khu vực, tỷ lệ tín dụng so với GDP của Việt Nam, một chỉ tiêu so sánh độ sâu tài chính, cịn rất khiêm tốn. 78 Tuy nhiên, với mức độ tăng trưởng tín dụng trên 25% trong những năm qua, thì chỉ trong một thời gian ngắn nữa, dư nợ cho vay sẽ vượt quá GDP. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao như vậy đã được IMF, WB khuyến cáo là nĩng, khơng cĩ lợi cho việc ổn định kinh tế vĩ mơ và phát triển dài hạn.79 Tương tự như Trung Quốc, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn do các NHTMNN thống lĩnh, thêm vào đĩ các sản phẩm dịch vụ cịn lạc hậu, nghèo nàn nên hoạt động của các ngân hàng trong nước vẫn tập trung vào việc huy động vốn rồi đem cho vay theo kiểu truyền thống. Thu nhập chính vẫn từ hoạt động cho vay. Biên lãi suất cịn cao hơn so với cả Trung Quốc và các nước đơng Âu. Rất tiếc tác giả khơng cĩ số tổng hợp, nhưng ước tính, chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra của các ngân hàng Việt Nam là trên 2%. Riêng năm 2005, biên lãi suất của các ngân hàng thương mại được xem là hiệu quả nhất ở Việt Nam 76 Xem: Garrcía-Herrero (2006), trang 309-311 77 Xem: NHNNVN (2005), trang 36 78 Cuối năm 2006, lần đầu tiên, tổng tài sản của tồn hệ thống ngân hàng vượt qua 1 lần GDP, nhưng tổng dư nợ cũng chưa bằng 70% GDP. 79 Xem: WDI (2006).
  46. 35 gồm Sacombank, ACB và Vietcombank lần lượt là 3,9%, 2,8% và 2,9%.80 Các hoạt động phi tín dụng của các ngân hàng cịn rất hạn chế (xem hình 3.3 và phụ lục 3, 4&5). Hình 3.3: Thu dịch vụ so với thu nhập từ hoạt động của ngân hàng các nước (%) Úc Hàn Quốc Đài Loan Singapore Thái Lan Hồng Kơng M alaysia Việt Nam Trung Quốc 0 1020304050 Nguồn: Goldman Sachs và ước tính của tác giả Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng nhất là các NHTMNN rất thấp, tiềm lực tài chính yếu kém. Theo đánh giá khu vực ngân hàng của Fitch, ROA của các NHTMNN vào cuối năm 2004 chỉ là 0,3%, tỷ số vốn trên tổng tài sản chỉ là 4,07%.81 Theo những con số mà tác giả tổng hợp được thì vào cuối năm 2005, ROA của tất cả hệ thống ngân hàng Việt Nam chỉ vào khoảng 0,6%, tỷ số vốn tự cĩ trên tổng tài sản cĩ điều chỉnh rủi ro khoảng 5%. Các NHTMNN là những ngân hàng cĩ kết quả thấp nhất (xem hình 3.4). 80 Xem: “Đi tìm bí ẩn lợi nhuận ngân hàng” trên TBKTSG, số 2/2007, ngày 25/01/2007, trang 12 81 Xem: Fitch (2006), trang 5.
  47. 36 Hình 3.4: ROA và CAR vào năm 2004 của một số hệ thống ngân hàng ROA% CAR% Hong Kong 15.4 Thailand 12.9 Indonesia 19.9 India 12.7 Singapore 14.8 Malaysia 13.3 South Korea 12.2 Taiwan 10.7 China 7.8 Vietnam 5 0 0.2 0.4 0.6 0.8 1 1.2 1.4 1.6 1.8 2 Nguồn: The economist và tính tốn của tác giả Một điểm đáng chú ý khác trong hoạt động của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại Nhà nước là cĩ cùng chiến lược phát triển thành ngân hàng thương mại đa năng (BIDV, 2006). Nguy cơ tiềm tàng là 4 NHTMNN cĩ thể - thơng qua các lựa chọn chiến lược giống nhau – sẽ làm suy yếu lẫn nhau thơng qua cạnh tranh căng thẳng nếu cả 4 ngân hàng này thành các ngân hàng đa năng (NHTG, 2002). Theo số liệu cơng bố chính thức thì tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng Việt Nam cĩ vẻ rất thấp. Ngồi NHĐT&PT cĩ tỷ lệ nợ xấu cơng bố là 10,8%, cịn tất cả các ngân hàng khác đều ở mức an tồn dưới 5%, thậm chí là dưới 2%.82 Tuy nhiên, theo một số tổ chức quốc tế con số này dao động từ 15-20%, thậm chí một số nhà nghiên cứu độc lập cịn ước lượng lên đến 30%.83 Hoạt động của các tổ chức nửa ngân hàng, nửa chính sách cĩ lẽ cũng là điều làm ảnh hưởng đến sự phát triển và khả năng phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả. Theo NHTG (2002), việc Tiết kiệm bưu điện tăng huy động tiết kiệm là đáng lo ngại vì nĩ cĩ thể 82 Xem: ; Sukien/BIDV_cong_bo_ty_le_no_xau_theo_thong_le_quoc_te/ ; 08/02/2007 83 Xem: Du (2004), trang 2.
  48. 37 lấy đi mất một nguồn vốn mà lẽ ra hệ thống ngân hàng cĩ thể huy động để cho vay đối với khu vực tư nhân đang phát triển nhanh.84 Việc tập trung chủ yếu vào các DNNN của Ngân hàng Phát triển cũng là điều đáng quan tâm. Ngồi ra, hoạt động của ngân hàng này chịu chi phối rất lớn của Bộ Tài chính dẫn đến việc tuân thủ các quy định về hoạt động ngân hàng khơng phải là điều dễ dàng xảy ra. Về cơ bản, hoạt động của các ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam, nhất là các NHTMNN đều chưa đạt hiệu quả theo mức bình quân chung, trong khi lại tiềm ẩn nhiều rủi ro và tính mong manh dễ vỡ. 3.4.Vai trị của hệ thống ngân hàng đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế Khơng nghi ngờ, ở cả Trung Quốc và Việt Nam, hệ thống ngân hàng được xem là thành tố chính và thực tế chúng cũng luơn đĩng vai trị chính trong thời kỳ cải cách và chuyển đổi. Kể từ khi dành được độc lập cho đến thời điểm hiện tại, hệ thống ngân hàng được xem là kênh phân bổ nguồn vốn chính thức và duy nhất trong nền kinh tế. Do vậy, khơng những nĩi chúng cĩ vai trị quan trọng nhất mà là vai trị độc tơn. Ở Trung Quốc, Thị trường chứng khốn đã ra đời từ đầu những năm 1990, nhưng đến cuối năm 2005, tổng giá trị thị trường của các doanh nghiệp niêm yết chỉ tương đương khoảng 30% GDP, trong đĩ nhà nước nắm giữ đến 2/3 cổ phiếu của các cơng ty niêm yết và lượng cổ phiếu này hầu như khơng bao giờ được giao dịch.85 Kể từ năm 2006, vai trị của thị trường chứng khốn mới nổi lên ở Trung Quốc khi mà chỉ số thị trường tăng đến 130% và giá trị thị trường của các cơng ty niêm yết gia tăng đáng kể, nhất là khi chính các ngân hàng được cổ phần hĩa và niêm yết. Nhìn chung từ trước đến nay, tín dụng ngân hàng là kênh phân phối nguồn vốn chính cho nền kinh tế. Hơn thế nữa, tổng tài sản của các ngân hàng luơn chiếm một tỷ phần rất lớn trong tổng tài sản tài chính của cả nền kinh tế. Ở Việt Nam, thị trường chứng khốn cũng chỉ bắt đầu nĩng lên trong năm 2006. Cho dù, cuối năm 2006, tổng giá trị thị trường của các cơng ty niêm yết khoảng 14 tỷ đơ- la, cộng với khoảng chừng 5 tỷ đơ-la trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số doanh nghiệp thì tổng giá trị vốn trên thị trường chứng khốn chỉ chiếm khoảng 25% tổng tài sản tài chính trong nền kinh tế. Đây là một con số ấn tượng ở Việt Nam, nhưng so với các 84 Xem: WB (2002), trang 46-47; Duffes (2003), trang 35; Fitch (2006), trang 5. 85 Xem: Goodfriend (2006), trang 29.
  49. 38 nước trong khu vực, con số này cịn rất khiêm tốn và nĩ ủng hộ lập luận cho rằng hệ thống ngân hàng đĩng vai trị là kênh phân phối chính cho nền kinh tế (xem đồ thị 3.5).86 Hình 3.5: Cơ cấu tài sản tài chính so với GDP ở Trung Quốc và Việt Nam (%GDP) Trung Quốc ('05) Việt Nam ('06) 0 40 80 120 160 200 240 Tài sản ngân hàng Cổ phiếu Trái phiếu Nguồn: WB và tính tốn của tác giả Tuy các ngân hàng đĩng vai trị rất lớn đối với nền kinh tế. Nhưng nhiều người cho rằng các ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam phân bổ vốn chưa thực sự hiệu quả. Điều này đã tạo niềm tin rằng, việc cải cách hệ thống tài chính với trọng tâm là cải cách hệ thống ngân hàng để việc phân bổ vốn hiệu quả hơn rất cĩ khả năng sẽ tạo ra làn sĩng tăng trưởng tiếp theo cho cả Trung Quốc và Việt Nam. Đây chính là điều mong mỏi của cả hai nước. 86 Cuối năm 2005, chỉ cĩ 32 cơng ty niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khốn Tp.HCM và 8 cơng ty đăng ký giao dịch trên Trung tâm Giao dịch Chứng khốn Hà Nội với tổng giá trị thị trường chỉ khoảng 500 triệu đơ-la. Đến cuối năm 2006 đã cĩ gần 200 cơng ty niêm yết với giá trị thị trường khoảng 14 tỷ đơ-la.
  50. 39 Chương 4 HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM: CÁC TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH CHÍNH, NHỮNG THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG TRONG TƯƠNG LAI Nội dung chương này sẽ tập trung vào các cải cách chính kể từ khi hai nước bắt đầu tiến trình cải cách gồm: (1) Tự do hĩa tài chính bằng việc nới lỏng kiếm sốt, cho phép cạnh tranh quốc tế để làm nền tảng cho việc tự do hĩa tài khoản vốn; (2) Tái cấu trúc ngân hàng thơng qua việc xử lý nợ xấu và tái cấp vốn; và (3) Tăng cường củng cố thể chế, các quy định trong hoạt động ngân hàng. Đồng thời, phần này cũng đưa ra một số thách thức hiện tại và triển vọng đối với hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam. 4.1.Tiến trình tự do hĩa Tự do hĩa là một trong những trụ cột quan trọng của quá trình cải cách hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc và Việt Nam. Trải qua nền kinh tế kế hoạch trong thời gian tương đối dài nên mức độ can thiệp của nhà nước vào hệ thống ngân hàng rất nhiều. Những nỗ lực tự do hĩa được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Trong đĩ, cách thức sử dụng cơng cụ dự trữ bắt buộc; tiến trình tự do hĩa lãi suất; tín dụng chỉ định và phân bổ tín dụng; mở cửa cho các ngân hàng nước ngồi; và cuối cùng là việc tự do hĩa tài khoản vốn và kiểm sốt tỷ giá hối đối mà nĩ ảnh hưởng đến giao dịch của các ngân hàng với phần cịn lại của thế giới là những vấn đề được quan tâm nhiều nhất. 4.1.1.Chính sách về dự trữ bắt buộc 4.1.1.1.Trung Quốc Giảm thiểu việc can thiệp của nhà nước trong hệ thống ngân hàng được bắt đầu vào những năm đầu thập niên 1990 với những cách thức khác nhau. Một trong những hành động quan trọng là giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 20% xuống cịn 8% vào năm 1998 và 6% vào năm 1999. Thêm vào đĩ, lãi suất cho các khoản dự trữ vượt trội được hạ thấp để khơng khuyến khích các ngân hàng tích trữ tài sản thanh khoản và khuyến khích việc quản trị tài sản. Đợt giảm lãi suất cho những khoản dự trữ vượt trội được thực hiện lần cuối cùng vào năm 1999 (từ 1,6% xuống cịn 0,99%).87 87 Xem: Garrcía-Herrero (2006), trang 317
  51. 40 4.1.1.2.Việt Nam Dự trữ bắt buộc cĩ vẻ chưa bao giờ là cơng cụ tạo nguồn thu cho ngân sách ở Việt Nam vì cho dù trong quy định đầu tiên về dự trữ bắt buộc do NHNNVN ban hành, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cĩ thể lên đến 35%,88 nhưng lần đầu tiên áp dụng vào 10/1995, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở các ngân hàng chỉ là 10% đối với các khoản tiền gửi cĩ kỳ hạn dưới 12 tháng. Cuối năm 1997, quy định này điều chỉnh cho tất cả các khoản tiền gửi cĩ kỳ hạn dưới 24 tháng. Tháng 4/1998, lại chỉ điều chỉnh cho các khoản tiền gửi dưới 12 tháng. Đến năm 1999, do tác động của cuộc khủng hoảng năm 1997 ở Châu Á, NHNNVN đã liên tục điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc 3/1999 xuống 7%, tháng 05/1999 xuống 6%, tháng 07/1999 xuống 5%, tháng 06/2003 xuống 3%, tháng 09/2003 xuống 2%, tháng 06/2004 tăng lên 5%. Năm 2000, do tình trạng đơ la hĩa nền kinh tế tăng cao cộng với những biến động khơng tốt trên thị trường ngoại hối ảnh hưởng đến nền kinh tế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng đơ-la được nâng lên đến 12%.89 Tháng 04/2001, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng chỉ cịn 3%, trong khi ngoại tệ lên đến 15%. Tháng 11/2001 tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ được giảm xuống 10%, tháng 04/2002 xuống cịn 8%, tháng 11/2002 xuống cịn 5%, tháng 06/2003 cịn 4%, tháng 06/2004 tăng lên 8%.90 Nguyên nhân của việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc vào giữa năm 2004 là do lạm phát tăng đột biến, nên NHNNVN đã sử dụng cơng cụ này đề điều hành chính sách tiền tệ. Cho đến nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao nhất ở Việt Nam là 10%, bằng phân nửa Trung Quốc và thấp hơn nhiều mức được xem là cơng cụ tài trợ ngân sách. Điều này cho thấy dự trữ bắt buộc hầu như chỉ là cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ thuần túy ở Việt Nam. Điểm đáng chú ý ở Việt Nam là tỷ lệ dự trữ bắt buộc được phân biệt cho các tổ chức tín dụng hoạt động ở khu vực thành thị và nơng thơn. Tuy nhiên, cũng cĩ những tổ 88 Xem: Quy chế dự trữ bắt buộc ban hành kèm theo Quyết định 108/QĐ-NH ngày 09/06/1992 của NHNN 89 Xem: NHNNVN (2000), trang 41. 90 Xem: NHNNVN (1998, trang 40; 1999, trang 28; 2000, trang 39; 2001 trang 35; 2003, trang 41; 2005, trang 46); các Quyết định 261/QĐ-NH1, ngày 19/09/1995; 397/1997/QĐ-NHNN1, ngày 01/12/1997; 135/QĐ-NHNN1 ngày 11/4/1998; 191/QĐ-NHNN1, ngày 31/05/1999; 496/2000/QĐ-NHNN1, ngày 01/12/2000; 560/2001/QĐ-NHNNVN ngày 27/4 /2001; 1472/2001/QĐ-NHNNVN ngày 23/11/2001; 270/2002/QĐ-NHNN, ngày 01/04/2002; 1277/2002/QĐ-NHNNVN ngày 18/11/2002; 582/2003/QĐ- NHNNVN ngày 09/06/2003; 831/2003/QĐ-NHNNVN ngày 30/7/2003; 582/2003/QĐ-NHNN, ngày 09/6/2003; 796/QĐ-NHNNVN ngày 25/6/2004 của NHNNVN.
  52. 41 chức tín dụng như Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn (NHNNo) cĩ tên là như vậy, nhưng hầu như phần lớn hoạt động lại diễn ra ở các đơ thị. Nhìn chung, cả Trung Quốc và Việt Nam, đều khơng dùng dự trữ bắt buộc làm cơng cụ tài trợ cho thâm hụt ngân sách mà đơn thuần nĩ chỉ là một cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ, nhưng, cơng cụ này dường như phát huy hiệu quả khơng cao. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng như những lần điều chỉnh cho thấy dường như Việt Nam linh hoạt hơn trong việc sử dụng cơng cụ này. 4.1.2.Tự do hĩa lãi suất Tự do hĩa lãi suất là một bước đi quan trọng trong nỗ lực củng cố các lực thị trường trong việc phân bổ nguồn vốn của Trung Quốc và Việt Nam. Nĩ cũng là điều kiện tiên quyết trong việc gia tăng khả năng cạnh tranh của các tổ chức tài chính, áp dụng các cơng cụ tiền tệ dựa vào thị trường và cải thiện cơ chế dẫn truyền tiền tệ. 4.1.2.1.Trung Quốc Tiếp cận theo hướng tự do hĩa lãi suất từng bước được cải thiện nhưng vẫn chưa hồn thành. Đầu tiên là việc tự do hĩa lãi suất trên thị trường tiền tệ và thị trường trái phiếu, tiếp đến là từng bước tự do hĩa lãi suất cho vay và sau đĩ là lãi suất tiền gửi. Bước đi đầu tiên được thực hiện vào năm 1996 với việc tự do hĩa lãi suất trên thị trường liên ngân - thị trường thực hiện các giao dịch vay mượn giữa các tổ chức tài chính với nhau. Vào năm 1997, lãi suất của việc mua lại trái phiếu (repo) cũng được tự do và vào năm 1998, lãi suất phát hành trái phiếu chính phủ được xác định theo cung cầu của thị trường. Năm 2000, việc kiểm sốt lãi suất cho vay bằng ngoại tệ và lãi suất tiền gửi của những khoản tiền gửi cĩ khối lượng lớn cũng được bãi bỏ. Vào năm 1996, nhằm tạo cơ sở cho các khoản vay bằng đồng nhân dân tệ, một biên độ lãi suất được quy định. Sau đĩ biên độ này được nới rộng dần và giới hạn trên được dỡ bỏ vào tháng 10/2004, loại trừ các khoản vay của các hợp tác xã tín dụng. Từ năm 1999, lãi suất của các khoản tiền tiền gửi lớn dần được tự do. Vào năm 2004, sàn lãi suất của các khoản tiền gửi đồng nhân dân tệ được bãi bỏ, nhưng trần lãi suất vẫn cịn được duy trì. Ngồi ra, PBOC cịn nới lỏng các quy định khác như giảm giới hạn trần cho các khoản cho vay của các hợp tác xã tín dụng và bãi bỏ lãi suất sàn cho vay. PBOB cũng dự định bãi bỏ quy định trần lãi suất của các khoản tiền gửi bằng đồng nhân dân tệ và tự do hĩa lãi suất của các loại tiền gửi cịn lại (các khoản tiền gửi nhỏ với thời gian đáo hạn dưới 1 năm) vào một thời điểm nào đĩ trong tương lai.
  53. 42 Trong bối cảnh này, PBOC cũng giới thiệu các cơng cụ chính sách tiền tệ dựa vào thị trường.91 Việc tự do hĩa trần lãi suất cho vay và sàn lãi suất tiền gửi cũng từng bước được triển khai. Biên độ ngày càng được nới lỏng. Chênh lệch này là 3,3% cho đến 04/2006 được tăng thêm 27 điểm phần trăm lên 3,57%. Điều này giúp cho các ngân hàng hoạt động an tồn hơn và cĩ một biên lãi suất rịng lớn hơn. Đối với các khách hàng cá nhân, các tổ chức tài chính được tự do quyết định lãi suất cho vay trên cơ sở đánh giá rủi ro của khách hàng.92 4.1.2.2.Việt Nam Trong lịch sử, cĩ thể xem việc tự do hĩa hệ thống ngân hàng trong những năm cuối cùng của thập niên 1980 là quyết định tự do sâu rộng nhất khi mà hầu như tất cả các tổ chức kinh tế đều được phép huy động vốn và cho vay với lãi suất và các điều kiện khác tự quyết định. Ở thời điểm năm 1988-1989, các hợp tác xã tín dụng mọc lên như nấm93 và hoạt động theo kiểu mơ hình tháp “Ponzi”, 94 lấy tiền của người gửi sau trả lãi cho người gửi trước. Lãi suất danh nghĩa bị đẩy lên chĩng mặt, đỉnh điểm lên đến 24% một tháng. Kết quả cuối cùng là sự đổ bể của hệ thống các hợp tác xã tín dụng với những vụ cĩ ảnh hưởng rất lớn như Nước hoa Thanh Hương, Tín dụng Đại Thành .95 Sau sự đổ bể hàng loạt này, hoạt động tín dụng được xiết chặt, cả lãi suất tiền gửi và tiền vay đều được khống chế. Từ năm 1990, NHNNVN đưa ra trần lãi suất cho vay tối đa đối với cả nội tệ và ngoại tệ, phân biệt theo khu vực kinh tế. Tức là các mức trần lãi suất khác nhau được áp dụng cho vay nơng nghiệp, cơng nghiệp và thương mại - dịch vụ. Lãi suất tiền gửi cũng được phân biệt giữa hộ gia đình và doanh nghiệp. Tuy vậy, theo thời gian việc điều hành chính sách lãi suất đã được cải thiện đáng kể. NHNNVN gắn lãi suất danh nghĩa với chỉ số giá để đảm bảo lãi suất thực dương từ năm 1992. Vào năm 1993, việc phân biệt lãi suất cho vay theo khu vực kinh tế được loại bỏ và chỉ cịn được phân biệt theo cho vay đầu tư 91 Xem: Garrcía-Herrero (2006), trang 318; Roland (2006), trang 14; Podpiera (2006), trang 12. 92 Xem: Goodfriend (2006), trang 30. 93 Cuối những năm 1980 cĩ đến 7.180 hợp tác xã tín dụng hoạt động, trong khi đĩ vào năm 1983 chỉ cĩ 1 (Thành, 2003, trang 3) 94 Xem: 29/12/2006 95 Xem: Fallavier (1998), trang 62.