Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- lich_su_viet_nam_qua_cac_thoi_ky.pdf
Nội dung text: Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ
- Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ
- Thời kỳ trước độc lập Tên triều đại Các vị vua, lãnh đạo Tên huý Năm trị vì Tuổi thọ Kinh Dương Vương Lục Dương Vương 2879 TCN- hay Hùng Dương Lạc Long Quân hay Hùng Hiển Vương Hùng Hiền Hùng Quốc Vương Hùng Lân Hùng Diệp Vương Hùng Việp Hùng Hy Vương Hùng Hy Hùng Huy Vương Hùng Huy Hùng Chiêu Vương Hùng Chiêu Hùng Vi Vương Hùng Vỹ Nhà Hồng Bàng và nước Văn Lang Hùng Định Vương Hùng Định Hùng Nghi Vương Hùng Hy Hùng Trinh Vương Hùng Trinh Hùng Vũ Vương Hùng Võ Hùng Việt Vương Hùng Việt Hùng Anh Vương Hùng Anh Hùng Triệu Vương Hùng Triều Hùng Tạo Vương Hùng Tạo Hùng Nghi Vương Hùng Nghi Hùng Tuyên Vương Hùng Duệ -257 TCN Nhà Thục và nước Âu Lạc An Dương Vương Thục Phán 257-207 TCN Triệu Vũ Vương Triệu Đà 207-137 TCN Triệu Văn Vương Triệu Hồ 137-125 TCN Nhà Triệu và nước Nam Triệu Minh Vương Triệu Anh Tề 125-113 TCN Việt Triệu Ai Vương Triệu Hưng 113-112 TCN Triệu Thuật Dương Vương Triệu Kiến Đức 112-111 TCN Giao Chỉ và nhà Tây Hán 111 TCN-39 Nhà Đơng Hán 25-220 Hai Bà Trưng (Trưng Trưng Trắc - Trưng 40-43 Vương) Nhị Nhà Đơng Ngơ 222-280 Bắc thuộc Bà Triệu Triệu Thị Trinh 248 23 Nhà Tấn 265-420 Nhà Lưu Tống 420-479 Nhà Nam Tề 479-502 Nhà Lương 502-541 Lý Nam Đế Lý Bí (Lý Bơn) 541-548 48
- Nhà Tiền Lý Triệu Việt Vương Triệu Quang Phục 549-571 Nước Vạn Xuân độc lập Hậu Lý Nam Đế Lý Phật Tử 571-602 Nhà Đường (Trung Quốc) Mai Hắc Đế Mai Thúc Loan 722 Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng 766-789 Phùng An 789-791 Dương Thanh 819-820 Tự chủ Tĩnh Hải Tiết độ sứ (Tiên Khúc Thừa Dụ 906-907 chủ) Tĩnh Hải Tiết độ sứ (Trung Khúc Hạo (Khúc 907-917 chủ) Thừa Hạo) Tĩnh Hải Tiết độ sứ (Hậu Khúc Thừa Mỹ 917-923/930 chủ) Tĩnh Hải Tiết độ sứ (Dương Dương Đình Nghệ 931-937 Chính cơng) (Dương Diên Nghệ) Tiết độ sứ Kiều Cơng Tiễn 937-938 * Các vua nhà Triệu là người Hán, khơng phải người Việt.
- NHÀ THỤC VÀ NƯỚC ÂU LẠC Theo truyền thuyết và sử cũ thì An Dương Vương tên là Thục Phán là cháu vua nước Thục. Nước Thục này khơng phải là nước Thục ở vùng Tứ Xuyên thời Chiến Quốc (Trung Quốc) mà là một bộ tộc đă tới vùng Bắc Bộ từ lâu, sống xen kẽ với người Lạc Việt và người Thái. Tục gọi là người Âu Việt. Chuyện xưa kể rằng: Vua Hùng Vương cĩ người con gái nhan sắc tuyệt vời tên là Mị Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ sang cầu hơn. Vua Hùng Vương muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hơn đĩ thơi. Khơng lấy được Mị Nương, Thục Vương căm giận, di chúc cho con cháu đời sau thế nào cũng phải diệt nước Văn Lang của vua Hùng. Đến đời cháu là Thục Phán mấy lần đem quân đi đánh nước Văn Lang. Nhưng vua Hùng Vương cĩ tướng sĩ giỏi, đă đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nĩi: ta cĩ sức thần, nước Thục khơng sợ hay sao? Bèn chỉ lo yến tiệc khơng lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo đến đánh nước Văn Lang, vua Hùng cịn trong cơn say. Quân Thục đến gần, vua Hùng trở tay khơng kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sơng tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất. Năm Giáp Thìn (257 trước cơng nguyên), Thục Phán dẹp yên mọi bề, xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, (tên hai nước Âu Việt và Lạc Việt ghép lại) đĩng đơ ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú). .
- AN DƯƠNG VƯƠNG DẸP TẦN Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc thì Doanh Chính nước Tần đã kết thúc mọi hỗn chiến đời Chiến Quốc, thống nhất nước Trung Hoa, lập nên một nhà nước lớn mạnh. Để thỏa tham vọng mở mang lãnh thổ, Doanh Chính huy động lực lượng to lớn phát động cuộc chiến tranh xâm lược Bách Việt. Năm 218 trước cơng nguyên, Doanh Chính huy động 50 vạn quân chia làm 5 đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Việt, đạo quân thứ nhất của quân Tần phải đào con kênh nối sơng Lương (vùng An Hưng Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy, đạo quân chủ lực của quân Tần do tướng lừng danh Đồ Thư thống lĩnh vào được đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào đất Lạc Việt. Nhân dân Lạc Việt biết khơng thể đương nổi quân Tần nên bỏ vào rừng để bảo tồn lực lượng. Thục Phán được các Lạc tướng suy tơn là lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Bởi vậy, khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào Lạc Việt, chúng gặp khĩ khăn chồng chất. Quân địch tiến đến đâu, người Việt làm vườn khơng nhà trống và tiến vào rừng đến đĩ. Chẳng mấy chĩc, quân Tần lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã mệt mỏi, chán nản và khổ sở vì thiếu lương, khí hậu độc địa, thì người Việt do Thục Phán làm tướng mới bắt đầu xuất trận. Chính chủ tướng Đồ Thư trong một trận giáp chiến đã bị bắn hạ. Mất chủ tướng, quân địch hoang mang mở đường máu tháo chạy về nước. Như vậy, sau gần 10 năm lãnh đạo nhân dân Âu Việt - Lạc Việt kháng chiến chống quân Tần thắng lợi, Thục Phán đã thực sự nắm trọn uy quyền tuyệt đối cả về quân sự lẫn chính trị, khiến cho uy tín của Thục Vương càng được củng cố nâng cao. Từ vị trí ấy, Thục Vương cĩ điều kiện thi thố tài năng, dựng xây nước Âu Lạc hùng mạnh.
- TH ỤC AN DƯƠ NG VƯƠNG XÂY T H ÀNH CỔ LOA, MỘT C ƠNG TRÌNH SÁNG TẠO VĨ ĐẠI Sau chiến c ơn g v ĩ đại đán h t h ắn g 5 0 v ạn q u ân x âm l ược nhà Tần , T h ục Vươn g q u y ết địn h x ây t h àn h Cổ L o a . Tục truyền r ằn g T h ục An Dươn g V ươn g x ây t h àn h n h iều lần nhưn g đều đổ. Sau nhờ cĩ thần Kim Quy hi ện l ên , b ị quanh bị lại n h i ều v ịn g d ưới c h ân t h àn h , T h ục An Dươn g V ươn g b èn c h o x ây t h e o d ấu c h ân r ù a vàn g . T ừ đĩ, thàn h x ây k h ơn g đổ nữa. Sự thực về truyền thuyết đĩ như thế n ào? Thời ấy , t ổ tiên t a c h ưa cĩ gạch nung. Bởi v ậy , t h àn h C ổ L o a được xây b ằn g đất ở chí nh địa phươn g . T h àn h c ĩ 9 vịn g , c h u v i v ịn g n g o ài 8 k m , v ịn g g i ữa 6,5 km, vịng trong 1,6 km Di ện t í ch thàn h t r u n g t âm l ên t ới 2 k m 2. Thàn h được xây t h e o phươn g p h áp đào đất đến đâu , k h o ét h ào đến đĩ, thàn h đắp đến đâu , l ũy x ây đến đĩ. Mặt ngồi l ũy , d ốc thẳn g đứn g , m ặt tro ng xo ải để đán h v ào thì k h ĩ, trong đán h r a t h ì d ễ. Lũy cao trung b ì n h t ừ 4-5m, cĩ chỗ 8-12m. Chân l ũy r ộn g 2 0 -30m, mặt lũy r ộn g 6 -12m. Khối l ượn g đất đào đắp ước tí n h t ới 2 , 2 t r i ệu m ét k hối . X e m v ậy c ơn g t r ì n h C ổ l o a t h ật đồ sộ, trong khi khu vực Cổ L o a được coi là một nền đất yếu . C h í n h v ì v ậy, việc xây t h àn h C ổ L o a c ực kì k h ĩ khăn . T h àn h b ị đổ nhiều lần l à dễ hiểu . N h ưn g điều đán g t ự h ào là cuối c ù n g t h àn h đă đứng vữn g . Thục An Dươn g V ương đă biết d ựa vào những kinh nghiệm thực tế để g i a c ố nền , m ĩn g k h ắc phục khĩ khăn . V ết c hân r ù a thần c h í n h là bí m ật đă được tổ tiên k h ám p h á, xử l ý . Ngày n a y , k h i x ẻ dọc thàn h để n g h iên c ứu , c ác nhà khảo cổ học thấy r õ chân t h àn h được chẹn m ột lớp đá tản g . H ịn nhỏ cĩ đườn g kí n h 1 5 c m , h ịn l ớn 6 0 c m . C ần b a o n h i ều đá để sử dụn g c h o c ơn g t r ì n h ? K ĩ thuật xếp đá? Đây q u ả l à một k ỳ cơn g . Thàn h C ổ L o a c h ẳng nhữn g là một cơn g t r ì n h đồ sộ, cổ nhất c ủa dân t ộc mà cịn l à cơn g t r ì n h h o àn b ị về mặt q uân s ự. Xung quanh Cổ L o a , m ột mạng lưới t h ủy v ăn d ầy đặc, tạo thàn h m ột vù n g k h ép kí n , t h u ận lợi c h o v i ệc xây d ựng một c ăn c ứ thủy binh hùng mạn h . T h u ở ấy , s ơn g T h i ếp - Ngũ Huyền K h u ê - Hồng Giang th ơn g v ới s ơn g C ầu ở Thổ H à, Quả Cảm ( H à Bắc) thơn g v ới s ơn g H ồn g ở Vĩn h T h a n h ( Đơn g A n h ) . B ởi v ậy, ngay sau khi x ây t h àn h , T h ục An Dươn g V ươn g đă chiêu t ập nhữn g thợ mộc giỏi , s ử dụng gỗ ở địa phươn g đĩn g t h u y ền c hiến . V ới t h u ật đi s ơn g v ượt b ể vốn l à sở trườn g c ủa người L ạc Việt , chẳng mấy c h ốc, các đầm p h á quanh thàn h C ổ L o a b iến t h àn h q u ân c ản g . R ồi n h ân d ân được điều t ới k h a i p h á vù n g r ừn g đa (Gia Lâm ) , r ừng mơ (Mai Lâm ) , r ừn g d âu d a ( D u L âm) v.v th àn h r u ộn g . B ên c ơn , k i ếm , d áo, mác đủ l o ại , b àn t a y s án g t ạo của cha ơn g đă chế tạo nỏ l i ên c h âu , m ỗi p h át b ắn h àn g c h ục mũi t ên . C ũn g t ại C ổ L o a , k ỹ thuật đú c đồn g c ổ đă được vua Thục khuyến k h í ch. Hàn g c h ục vạn m ũi t ên đồn g , n h ững mũi t ên lợi h ại , c ĩ độ chí n h x ác cao, kỹ thuật tinh vi, dù n g c h o n ỏ l i ên châu đă được bàn t a y t h ợ tài h o a s ản xuất tại đây . Với v ị trí t h u ận lợi ấy , v ới c ách bố trí t h àn h c ĩ 9 lớp xốy t r ơn ốc, 18 ụ g̣ cao nhơ hẳn r a c h ân l ũy để cĩ thể từ cao bắn xuốn g , với v ũ khí n ỏ thần v à những mũi t ên đồng lợi h ại , s ức mạn h q u ân s ự tổng hợp của Cổ L o a t h ời ấy t h ật đán g s ợ. Thàn h C ổ L o a là sự đú c kết tuyệt vời v ề trí t u ệ của cha ơn g , l à cơn g t r ì n h s án g t ạo kỳ vĩ của dân t ộc.
- TRIỆU ĐÀ, AN DƯƠNG VƯƠNG VỚI TRUYỀN THUYẾT NỎ THẦN Nhà Tần suy yếu, xă hội Trung Quốc bước vào thời kỳ loạn lạc. Ở các nơi, bọn phong kiến cát cứ nổi lên tranh giành ngơi thứ, đánh lẫn nhau. Ở quận Nam Hải (vùng Quảng Đơng) cĩ quan úy là Nhâm Ngao muốn đem quân đánh chiếm nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương. Nhưng âm mưu đĩ chưa thực hiện được thì Nhâm Ngao chết. Khi sắp mất, Nhâm Ngao giao binh quyền lại cho Triệu Đà thay mình làm quan úy quận Nam Hải. Bao phen Triệu Đà huy động binh mă, toan chiếm lấy Âu Lạc nhưng đều thất bại. Vì An Dương Vương cĩ thành Cổ Loa kiên cố, lại cĩ nỏ thần (Liên Châu) lợi hại nên quân Triệu Đà đơng, thế Triệu Đà mạnh mà vẫn phải kinh hồng nhìn quân mình phơi xác dưới chân thành Âu Lạc. Triệu Đà dùng mưu giả hồ hiếu, cho con trai là Trọng Thủy sang làm rể An Dương Vương để mưu phá nỏ thần.
- TRỌNG THỦY - MỊ CHÂU Sự thật chuyện Mị Châu - Trọng Thủy như sau: Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải muốn cướp nước Âu Lạc, đă bao lần đem quân sang đánh nhưng đều đại bại. Triệu Đà thấy dùng binh khơng xong bèn xin giảng hồ với An Dương Vương và sai con là Trọng Thủy sang cầu thân. Trong những ngày đi lại để giả kết tình hịa hiếu, Trọng Thủy được gặp Mị Châu cĩ sắc đẹp tuyệt vời, con gái yêu của Thục An Dương Vương. Trọng Thủy đem lịng yêu Mị Châu. Mị Châu cũng dần dần tha thiết yêu chàng. Hai người quấn quít bên nhau, khơng chỗ nào trong Loa Thành Mị Châu khơng dẫn người yêu đến xem. An Dương Vương thấy đơi trẻ yêu nhau, rất mừng, liền gả Mị Châu cho Trọng Thủy. Một lần, trong câu chuyện tâm tình, Trọng Thủy hỏi vợ: - Nàng ơi, bên Âu Lạc cĩ bí quyết gì mà khơng ai đánh được? Mị Châu chân thành đáp: - Âu Lạc chỉ cĩ thành cao, hào sâu, lại cĩ nỏ Liên Châu, bắn một phát hàng loạt mũi tên bay đi cĩ thể giết chết nhiều quân địch. Trọng Thủy làm bộ ngạc nhiên vờ như mới nghe nĩi đến nỏ Liên Châu. Chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Mị Châu khơng ngần ngại chạy đi lấy nỏ đem cho chồng xem. Nàng lại cịn chỉ dẫn cách thức bắn, cách bịt đồng cặn kẽ. Trọng Thủy chăm chú nghe, nhìn khuơn khổ cái nỏ hồi lâu rồi đưa cho vợ cất đi. Sau đĩ, Trọng Thủy xin phép An Dương Vương về thăm cha và thuật lại cho Triệu Đà biết cách chế tạo nỏ Liên Châu. Triệu Đà mừng rỡ reo lên: - Phen này nước Âu Lạc tất về tay ta. Lợi dụng mối tình trong trắng thiết tha của Mị Châu và sự lơ là mất cảnh giác của An Dương Vương, cha con Triệu Đà đă nắm được bí mật của thành Cổ Loa và chế tạo hàng loạt nỏ Liên Châu trang bị cho quân mình rồi cất quân đánh Âu Lạc. An Dương Vương ỷ cĩ vũ khí lợi hại, chủ quan khơng phịng bị. Vì vậy, khi Triệu Đà trong tay cĩ nỏ Liên Châu, đem quân ồ ạt tiến đánh, quân Âu Lạc bị thua. Từ mối tình trong trắng bị lợi dụng của Mị Châu đă dẫn đến kết cục bi thảm. Năm 208 trước cơng nguyên, Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc.
- Các câu truyện truyền thuyết gắn liền với thời Hồng Bàng Thời Hồng Bàng được gắn với nhiều truyền thuyết. Dù cĩ thể độ chính xác khơng cao do được truyền miệng qua nhiều thế hệ, các truyền thuyết cho thấy nhiều khía cạnh đời sống văn hĩa và chính trị ở Việt Nam thời kỳ này. Đĩ là những truyền thuyết quen thuộc đối với mỗi người dân Việt Nam ta. Truyền thuyết về Hùng Hiền (Lạc Long Quân) Theo truyền thuyết thì thủy tổ dân tộc Việt là Kinh Dương Vương, hiện cịn mộ tại làng An Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh. Nguyên Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nơng, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (Hồ Nam, Trung Quốc) đĩng lại đĩ rồi lấy con gái bà Vũ Tiên, sau đĩ sinh được một người con trai tư chất thơng minh đặt tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngơi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương làm vua vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Cơng Nguyên) và lấy con gái Thần Long, vua hồ Động Đình, sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngơi làm vua xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, trăm trứng ấy nở thành trăm người con trai. Một ngày, Lạc Long Quân nĩi với Âu Cơ rằng: "Ta là giống Rồng, mình là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, khơng ở cùng nhau được." Hai người bèn chia con mà ở riêng. Năm chục người theo mẹ về núi, năm chục người theo cha xuống biển, chia nhau mà thống trị những xứ đĩ, đĩ là thủy tổ của các nhĩm Bách Việt. Người con cả trong số những người con theo mẹ lên Phong Châu được tơn làm vua gọi là Hùng Vương lập ra nước Văn lang. Truyền thuyết bánh chưng bánh giầy gợi ý, về chính trị, các vua Hùng đã cĩ thể cơng khai tổ chức các cuộc thi để tìm người kế vị; về nơng nghiệp, người Việt thời này đã phát triển trồng lúa nước (cĩ thể bao gồm cả lúa nếp) và chăn nuơi (cĩ thể bao gồm lợn/heo, ); về triết học, bánh chưng và bánh giầy cĩ thể tượng trưng cho quan niệm vũ trụ gồm cĩ mặt đất hình vuơng màu xanh lá cây và bầu trời hình trịn màu trắng. Bánh chưng cĩ liên quan đến truyền thuyết Lang Liêu, xảy ra vào đời vua Hùng thứ 6: Ngày xưa, đời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua cĩ ý định truyền ngơi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua Hùng họp các hồng tử lại và yêu cầu các hồng tử đêm dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân. Các hồng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng. Trong khi đĩ, người con trai thứ 18 của Hùng Vương là Tiết Liêu (cịn gọi là Lang Liêu) cĩ tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức. Ơng sống gần gũi với người nơng dân lao động nghèo khổ nên ơng lo lắng khơng cĩ gì quí giá để dâng lên vua cha. Một hơm Tiết Liêu nằm mộng thấy cĩ vị Thần đến bảo: "Này con, vật trong Trời Đất khơng cĩ gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuơi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình trịn và hình vuơng, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngồi, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành." Tiết Liêu tỉnh dậy, vơ cùng mừng rỡ. Ơng làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuơng để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là bánh chưng. Và ơng giã xơi làm bánh trịn, để tượng hình Trời, gọi là bánh giầy. Cịn lá xanh bọc ở ngồi và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái. Đến ngày hẹn, các hồng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều mĩn ngon lành. Hồng tử Tiết Liêu thì chỉ cĩ Bánh Giầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen cĩ ý nghĩa, bèn truyền ngơi vua lại cho Tiết Liêu. Kể từ đĩ, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất. Truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh thể hiện phần nào thiên tai chủ yếu mà người Việt cổ phải chống chọi cĩ thể là thuỷ tai. Nĩ cũng cho thấy các sức mạnh thiên nhiên, hay những nhân vật quan trọng giúp người dân chống trọi với thiên nhiên được thần tượng hố (Sơn Tinh, Thủy Tinh). Các vị thần này vẫn cĩ thể cĩ quan hệ hơn nhân với các cơng chúa của vua Hùng, vốn là những người bình thường. Thơng lệ cống nạp sản vật quý hiếm như là một thước đo cho giá trị đã thịnh hành vào thời các vua Hùng, theo lời kể của truyền thuyết này. Sơn Tinh-Thủy Tinh là một câu truyện truyền thuyết nổi tiếng của Việt Nam xa xưa. Truyền thuyết kể về thời Hùng Vương thứ 18 và đồng thời lý giải về hiện tượng lũ lụt hàng năm và người Việt xưa chống lũ lụt. Ngày xưa, vua Hùng Vương thứ 18 cĩ một người con gái rất đẹp tên Mỵ Nương đã đến tuổi cặp kê. Vua mới ban truyền trong nhân gian tuyển chọn nhân tài để cưới Mỵ Nương. Ngay sau đĩ cĩ hai vị thần đến xin hỏi cưới. Một là Sơn Tinh (Thần Núi Tản Viên - Thánh Tản), hai là Thủy Tinh (Thần Nước). Sơn Tinh chỉ tay đến đâu núi mọc lên đến đấy, rừng mọc lên rậm rạp, um tùm. Thủy Tinh vẫy tay thì nước dâng lên cao, ba ba, thuồng luồng nổi đầy mặt nước. Nhà vua cịn lưỡng lự chưa chọn một trong hai thần. Nhà vua mới ra quyết định chỉ gả Mỵ Nương cho thần nào đến trước với sính lễ như sau: voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Hơm sau, trời vừa hừng sáng Sơn Tinh đã đến trước cổng thành với tất cả lể vật cầu hơn cơng chúa. Vua Hùng rất mừng bèn gả
- Mỵ Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến trễ, và ngỡ ngàng khi biết Mỵ Nương đã theo chồng là Sơn Tinh. Thần lập tức đuổi theo và kêu binh tướng đánh Sơn Tinh để địi lại Mỵ Nương. Hai thần đánh nhau trời long đất lở. Thủy Tinh làm phép dâng nước định dìm chết Sơn Tinh, Sơn Tinh làm phép cho núi dâng cao cản nước. Thủy Tinh càng làm nước dâng cao, Sơn Tinh càng làm núi mình cao hơn. Cuối cùng Thủy Tinh đánh khơng lại chịu thua. Từ đĩ, Sơn Tinh và Mỵ Nương sống vui vẻ bên nhau. Tuy nhiên, hàng năm cứ vào khoảng tháng 7 âm lịch, Thủy Tinh lại nhớ đến thù xưa và dâng nước đánh Sơn Tinh. Thánh Giĩng, cịn gọi là Phù Đổng Thiên Vương, là một trong bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (tứ bất tử). Ơng sinh ra tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Truyền thuyết mơ tả Thánh Giĩng là người "trời" đầu thai làm đứa trẻ lên ba, khơng biết nĩi cười, đi đứng. Nhưng khi cĩ giăc ngoại xâm phương Bắc (tức là nhà Ân hay nhà Thương bên Trung Hoa) tràn xuống thì cất tiếng gọi mẹ nhờ ra gọi sứ giả của nhà vua, rồi bỗng chốc vươn vai thành một thanh niên cường tráng đi đánh giặc. Sau khi đánh tan giặc Ân, ơng bay về trời. Nơi ơng hĩa chính là núi Sĩc thuộc huyện Sĩc Sơn, Hà Nội. Đại Việt Sử Ký Tồn Thư ghi chép lại về Thánh Giĩng như sau: Đời Hùng Vương thứ 6, ở hương Phù Đổng, bộ Vũ Ninh cĩ người nhà giàu, sinh một con trai, đến năm hơn ba tuổi ăn uống béo lớn nhưng khơng biết nĩi cười. Gặp lúc trong nước cĩ tin nguy cấp, vua sai người đi tìm người cĩ thể đánh lui được giặc. Ngày hơm ấy, đứa trẻ bỗng nĩi được, bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nĩi: "Xin cho một thanh gươm, một con ngựa, vua khơng phải lo gì". Vua ban cho gươm và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Vũ Ninh . Quân giặc tự quay giáo đánh lẫn nhau, chết rất nhiều, bọn sống sĩt đều rạp lạy, tơn gọi đứa trẻ ấy là thiên tướng, liền đến xin hàng cả. Đứa trẻ phi ngựa lên trời mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vường nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, tuế thời cúng tế. Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần Vương. (Đền thờ ở cạnh chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng). Thánh Giĩng thể hiện tinh thần và sức mạnh của người Việt trong đấu tranh chống ngoại xâm, giữ nước. Hội đền Giĩng được tổ chức long trọng tại hai nơi: xã Phù Đổng huyện Gia Lâm, Hà Nội và núi Sĩc huyện Sĩc Sơn, Hà Nội vào ngày mồng 9 tháng Tư âm lịch. Phong giao Kinh Bắc xưa cĩ câu: "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu cũng kéo về xem hội Giĩng". Mai An Tiêm Vào đời Vua Hùng Vương thứ 18, vua cĩ nuơi một đứa trẽ thơng minh khơi ngơ, đặt tên là Mai Yển, hiệu là An Tiêm. Lớn lên, vua cưới vợ cho An Tiêm, và tin dùng ở triều đình. Cậy nhờ ơn Vua cha, nhưng An Tiêm lại kiêu căng cho rằng tài sức mình tài giỏi mới gầy dựng được sự nghiệp, chứ chẳng nhờ ai. Lời nĩi này đến tai vua. Vua cho An Tiêm là kẽ kiêu ngạo vơ ơn, bèn đày An Tiêm cùng vợ con ra một hịn đảo xa, ở ngồi biển Nga Sơn (Thanh Hĩa, Bắc Việt). Người vợ là nàng Ba lo sợ sẽ phải chết ở ngồi cù lao cơ quạnh. Nhưng An Tiêm thì bình thản nĩi: "Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta, việc gì phải lo". Hai vợ chồng An Tiêm cùng đưa con sống hiu quạnh ở một bãi cát, trên hoang đảo. Họ ra sức khai khẩn, trồng trọt để kiếm sống. Một ngày kia, vào mùa hạ, cĩ một con chim lạ từ phương tây bay đến đậu trên một gị cát. Chim nhã mấy hột gì xuống đất. Ðược ít lâu, thì hột nãy mầm, mọc dây lá cây lan rộng. Cây nở hoa, kết thành trái to. Rất nhiều trái vư xanh, ruột đỏ , An Tiêm bảo vợ: "Giống cây này tự nhiên khơng trồng mà cĩ tức là vật của Trời nuơi ta đĩ". Rồi An Tiêm hái nếm thử, thấy vỏ xanh, ruột đỏ, hột đen, mùi vị thơm và ngon ngọt, mát dịu. An Tiêm bèn lấy hột gieo trồng khắp nơi, sau đĩ mọc lan ra rất nhiều. Một ngày kia, cĩ một chiếc tàu bị bão dạt vào cù lao. Mọi người lên bãi cát, thấy cĩ nhiều quả lạ, ngon. Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đĩ, tiếng đồn đi xa là cĩ một giống dưa rất ngon ở trên đảo. Các tàu buơn tấp nập ghé đến đổi chác đủ thứ vật dụng và thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Nhờ đĩ mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, cuộc sống phong lưu. Vì chim đã mang hột dưa đến từ phương tây, nên An Tiêm đặt tên cho thứ trái cây này là Tây Qua. Người Tàu ăn thấy ngon, khen là "hẩu", nên về sau người ta gọi trại đi là Dưa Hấu. Ít lâu sau, Vua Hùng Vương thứ 18 sai người ra cù lao ngồi biển Nga Sơn dị xét xem gia đình An Tiêm ra làm sao, sống hay chết. Sứ thần về kể lại cảnh sống sung túc và nhàn nhã của vợ chồng An Tiêm, nhà vua ngẫm nghĩ thấy thầm phục đứa con nuơi, bèn cho triệu An Tiêm về phục lại chức vị cũ trong triều đình. An Tiêm đem về dâng cho Vua giống dưa hấu mà mình may mắn cĩ được. Rồi phân phát hột dưa cho dân chúng trồng ở những chổ đất cát, làm giàu thêm cho xứ Việt một thứ trái cây danh tiếng. Hịn đảo mà An Tiêm ở được gọi là Châu An Tiêm.
- VŨ VƯƠNG Ở ngơi 71 năm [207 - 136 TCN], thọ 121 tuổi [256 - 136 TCN]. Họ Triệu, nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam, xưng đế, địi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngơi 100 năm mới mất, cũng là bậc vua anh hùng. Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định2 nước Hán, đĩng đơ ở Phiên Ngung (nay ở tỉnhQuảng Đơng). Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 TCN], (Tần Nhị Thế năm thứ 3). Vua chiếm lấy đất Lâm Ấp4 và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vương. Ất Mùi, năm thứ 2 [206 TCN], (Tây Sở Bá Vương Hạng Tịch năm thứ 1; Hán Vương Lưu Bang năm thứ I). Năm ấy nhà Tần mất. Đinh Dậu, năm thứ 4 [204 TCN], (Sở Hạng Tịch năm thứ 3; Hán Lưu Bang năm thứ 3). Mùa đơng, tháng 10, ngày 30, nhật thực. Tháng 11, ngày 30, nhật thực. Mậu Tuất, năm thứ 5 [203 TCN], (Sở Hạng Tịch năm thứ 4; Hán Lưu Bang năm thứ 4). Mùa thu, tháng 7, sao Chổi mọc ở khu vực sao Đại Giác. Kỷ Hợi, năm thứ 6 [202 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2, Hán Vương lên ngơi hồng đế. Năm ấy Tây Sở mất. Quý Mão, năm thứ 10 [198 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 9). Vua sai hai sứ coi giữ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Ất Tỵ, năm thứ 12 [196 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 11) Nhà Hán đã định được thiên hạ, nghe tin vua cũng đã xưng vương ở nước Việt, mới sai Lục Giả sang phong vua làm Nam Việt Vương, trao cho ấn thao và con so bổ đơi, thơng sứ với nhau, bảo vua giữ yên đất Bách Việt, chớ cướp phá. Khi sứ đến, vua ngồi xổm mà tiếp Lục Giả. Giả nĩi: "Vương vốn là người Hán, họ hàng mồ mả đều ở nước Hán, nay lại làm trái tục nước mình, muốn chiếm đất này làm kẻ địch chống chọi với nhà Hán, há chẳng lầm hay sao? Vả lại, nhà Tần mất con hươu1, thiên hạ đều tranh nhau đuổi, chỉ cĩ Hán Đế khoan nhân yêu người, dân đều vui theo, khởi quân từ đất Phong Bái mà vào Quan Trung trước tiên để chiếm giữ Hàm Dương, dẹp trừ hung bạo. Trong khoảng 5 năm, dẹp yên loạn lạc, bình định bốn biển, đĩ khơng phải là sức người làm nổi, tức là trời cho. Hán Đế nghe vương làm vua ở đất này, từng muốn quyết một phen được thua, nhưng vì dân chúng lao khổ vừa xong cho nên phải bỏ ý định, sai sứ mang ấn thao cho vương, đáng lẽ vương phải ra ngồi giao nghênh đĩn bái yết để tỏ lịng tơn kính. Nay đã khơng làm thế, thì nên sắm lễ mà tiếp sứ giả mới phải, sao lại cậy dân Bách Việt đơng mà khinh nhờn sứ giả của thiên tử? Thiên Tử nghe biết, phát binh sang hỏi tội, thì vương làm thế nào?". Vua ra dáng sợ hãi, đứng dậy nĩi: "Tơi ở đất này lâu ngày quên mất cả lễ nghĩa". Nhân hỏi Giả rằng: "Tơi với Tiêu Hà, Tào Tham ai hơn?" Giả nĩi: "Vương hơn chứ". Lại hỏi: "Tơi với vua Hán ai hơn?". Giả nĩi: "Hán Đế nối nghiệp của Ngũ Đế Tam Vương, thống trị người Hán kể hàng ức vạn người, đất rộng hàng muơn dặm, vật thịnh dân giàu, quyền chính chỉ do một nhà, từ khi trời đất mở mang đến nay chưa từng cĩ. Nay dân của vương, chẳng qua mười vạn ở, ở xen khoảng núi biển, chỉ ví như một quận của nhà Hán, ví với Hán Đế sao được?". Vua cười và nĩi: "Tơi lấy làm giận khơng được nổi dậy ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?" Giả ngồi im lặng, sắc mặt tiu nghỉu. Bèn giữ Giả ở lại vài tháng. Vua nĩi: "Ở đất Việt này khơng ai đủ để nĩi chuyện được. Nay ơng đến đây hàng ngày tơi được nghe những chuyện chưa từng nghe." Cho Giả đồ châu báu giá nghìn vàng để làm vật bỏ bao. Đến khi Giả về, lại cho thêm nghìn vàng nữa. Bính Ngọ, năm thứ 13 [195 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 12). Mùa hạ, tháng 4, vua Hán băng hà. Canh Tuất, năm thứ 17 [191 TCN], (Hán Huệ Đế Doanh năm thứ 4). Mùa hạ, nhà Hán dựng Nguyên Miếu ở phía bắc sơng
- Vị. Quý Sửu, năm thứ 20 [188 TCN], (Hán Huệ Đế năm thứ 7) Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng một, nhật thực. Mùa hạ, tháng 5, nhật thực, mặt trời bị che khuất hết. Mùa thu, tháng 8, vua Hán băng hà. Ất Mão, năm thứ 22 [186 TCN], (Hán Cao Hậu Lữ Trĩ năm thứ 2). Mùa hạ, tháng 6, ngày 30, nhật thực. Đinh Tỵ, năm thứ 24 [184 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 4). Nhà Hán cấm nước Nam Việt mua đồ sắt ở cửa quan. Vua nĩi: "Khi Cao Đế lên ngơi, ta cùng thơng sứ chung đồ dùng. Nay Cao Hậu nghe lời gièm pha, phân biệt đồ dùng Hán, Việt. Việc này tất là mưu kế của Trường Sa Vương4 muốn dựa uy đức của nhà Hán mưu lấy nước ta mà làm vua cả, tự làm cơng của mình". Mậu Ngọ, năm thứ 25 [183 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 5). Mùa xuân, vua lên ngơi hồng đế, đem quân đánh Trường Sa, đánh bại mấy quận rồi về. Canh Thân, năm thứ 27 [181 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 7). Nhà Hán sai Lâm Lư hầu Chu Táo sang đánh Nam Việt để báo thù việc đánh Trường Sa. Gặp khi nắng to ẩm thấp, bệnh dịch phát, bèn bãi quân. Vua nhân thế dùng binh uy và của cải để chiêu vỗ Mân Việc và Âu Lạc ở phía tây (tức là Giao Chỉ và Cửu Chân), các nơi ấy đều theo về, từ đơng sang tây rộng hơn vạn dặm. Vua ngồi xe mui vàng, dùng cờ tả đạo5, cho là nghi vệ ngang với nhà Hán. Tân Dậu, năm thứ 28 [180 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 8). Mùa thu, tháng 7, Cao Hậu băng, các đại thần đĩn Đại vương Hằng lên ngơi, tức là Văn Đế. Nhâm Tuất, năm thứ 29 [179 TCN], (Hán Văn Đế Hằng năm thứ 1). Vua Hán vì thấy mồ mả tổ tiên của vua đều ở Chân Định [4a] mới đặt người thủ ấp để trơng coi, tuế thời cúng tế, gọi các anh em của vua cho làm quan to, ban cho hậu. Vua Hán hỏi Tể tướng Trần Bình cĩ thể cử ai sang sứ Nam Việt được, Bình nĩi: "Lục Giả thời Tiên đế đã từng sang sứ Nam Việt". Vua Hán gọi Giả cho làm Thái trung đại phu, lấy một người yết giả1 làm phĩ sứ, đem thư sang cho vua. Thư nĩi: "Kính hỏi thăm Nam Việt Vương rất lao tâm khổ ý. Trẫm là con vợ lẽ của Cao Đế, phải đuổi ra ngồi làm phiên vương ở đất Đại, vì đường sá xa xơi, kiến thức hẹp hịi quê kệch, nên chưa từng gửi thư. Cao Hồng Đế lìa bỏ bầy tơi, Hiếu Huệ Hồng Đế qua đời, Cao Hậu tự lên trơng coi việc nước, khơng may cĩ bệnh, người họ Lữ chuyên quyền làm bậy, một mình khống chế ngự được, mới lấy con người họ khác nối nghiệp Hiếu Huệ Hồng Đế. Nhờ anh linh tơng miếu và sức lực của các cơng thần, đã giết hết bọn ấy. Trẫm vì các vương hầu và quan lại khơng cho từ chối, khơng thể khơng nhận, nay đã lên ngơi. Mới rồi nghe nĩi vương cĩ gửi thư cho tướng [4b] quân Lâm Lư hầu, muốn tìm anh em thân và xin bãi chức hai tướng quân ở Trường Sa. Trẫm theo thư của vương, đã bãi chức tướng quân Bác Dương hầu rồi, cịn anh em thân của vương hiện ở Chân Định, trẫm đã sai người đến thăm hỏi và sửa đắp phần mộ tiên nhân của vương rồi. Ngày trước nghe tin vương đem quân đánh biên giới, cướp phá mãi khơng thơi, dân Trường Sa khổ sở mà Nam Quận khổ nhất, nước của vương há được lợi riêng hay sao? Tất phải chết nhiều quân lính, hại các tướng lại tài giỏi, làm cho vợ gĩa chồng, con mồ cơi, cha mẹ mất con, được một hại mười, trẫm khơng nỡ làm thế. Trẫm muốn phân định đất phong xen kẽ để chế ngự lẫn nhau, đem việc ra hỏi, bọn quan lại đều nĩi: "Cao Hồng Đế sở dĩ lấy Trường Sa làm địa giới, vì [quá chỗ đĩ] là đất của vương, khơng nên tự tiện thay đổi". Nay dù lấy được đất đai của vương cũng khơng đủ lớn thêm, lấy được của cải của vương cũng khơng đủ giàu thêm, cõi đất từ Ngũ Lĩnh về nam, vương cứ việc trị lấy. Tuy vậy, vương xưng là đế, hai đế cùng lập mà khơng cĩ xe sứ thơng hiếu, thế là tranh nhau. Tranh mà khơng biết nhường thì người cĩ nhân khơng làm. Trẫm nguyện cùng vương đều bỏ hiềm trước, từ nay trở đi thơng hiếu như xưa. Vì vậy mới sai Lục Giả sang đưa tờ dụ, để tỏ với vương bản ý của trẫm. Vương cũng nên nghe theo, chớ làm những việc cướp phá nữa. Nhân gửi biếu vương 50 chiếc áo bơng thượng hạng, 30 chiếc áo bơng trung hạng, 20 chiếc áo bơng hạ hạng. Mong rằng Vương hãy nghe nhạc tiêu sầu và thăm hỏi nước láng giềng". Khi Giả đến, vua tạ lỗi nĩi: "Kính vâng chiếu chỉ, xin làm phiên vương, giữ mãi lệ cống". Rồi đĩ vua hạ chiếu rằng: "Trẫm nghe: hai người hùng khơng đứng cùng nhau, hai người hiền khơng ở cùng đời. Hồng Đế nhà Hán là bậc thiên tử hiền tài, từ nay ta triệt bỏ xe mui vàng và cờ tả đạo là nghi chế của hồng đế". Nhân viết thư rằng: "Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà, mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên hồng đế bệ hạ. Lão phu vốn là lại cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hồng Đế lên ngơi, vì nghĩa khơng nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu. Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa - Di, ra lệnh khơng cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng bằng sắt và đồng; ngựa, trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực, khơng cho con cái. Lão phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già. Tự nghĩ nếu khơng sắm lễ vật cúng tế, thì tội thực đáng chết, mới sai nội sử Phan, trung úy Cao, ngự sử Bình, ba bọn dâng thư tạ lỗi, nhưng đều khơng thấy trở về. Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá, anh em họ hàng đều bị giết. Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng: "Nay bên trong khơng được phấn chấn với nhà Hán, bên ngồi khơng lấy gì để tự cao khác với nước Ngơ". Vì vậy mới đổi xưng hiệu là đế, để tự làm đế nước mình, khơng dám làm điều gì hại đến thiên hạ. Cao Hồng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt, khiến cho việc sai người đi sứ khơng thơng. Lão phu trộm ngờ là vì Trường Sa Vương gièm [6a] pha, cho nên mới đem quân đến đánh biên giới. Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi, những vẫn phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm khơng yên chiếu, ăn khơng biết ngon, mắt khơng trơng sắc đẹp, tai khơng nghe tiếng chuơng trống, chỉ vì khơng được làm tơi nhà Hán mà thơi. Nay may được bệ hạ cĩ lịng thương đến, được khơi phục hiệu cũ, cho thơng sứ như trước, lão phu dù chết
- xương cũng khơng nát. Vậy xin đổi tước hiệu, khơng dám xưng đế nữa. Kính cẩn sai sứ giả dâng một đơi ngọc bích trắng, 1.000 bộ lơng chim trả, 10 sừng tên, 500 vỏ ốc màu tía, 1 giỏ cà cuống, 40 đơi chim trả sống, 2 đơi chim cơng. Mạo muội liều chết, hai lạy dâng lên hồng đế bệ hạ". Lục Giả đem thư ấy về báo, vua Hán rất mừng. Từ đấy Nam Bắc giao hảo, thơi việc binh đao, dân được yên nghỉ. Quý Hợi, năm thứ 30 [178 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 2). Mùa đơng, tháng 10, ngày 30, nhật thực. Giáp Tý, năm thứ 31 [177 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 3). Mùa đơng, tháng 10, ngày 30 nhật thực. Tháng 11, ngày 30, nhật thực. Tân Tỵ, năm thứ 48 [160 TCN], (Hán Văn Đế Hậu Nguyên, năm thứ 4). Mùa hạ, tháng 4, ngày 30, nhật thực. Giáp Thân, năm thứ 51 [157 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 6, vua Hán băng, cĩ chiếu dặn để tang ngắn. Mùa thu, tháng 9, sao Chổi mọc ở phương tây. Ất Dậu, năm thứ 52 [156 TCN], (Hán Cảnh Đế Khải, năm thứ 1). Nhà Hán chiếu sai các quận quốc dựng miếu Thái Tơng. Bính Tuất, năm thứ 53 [155 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 2). Mùa đơng, tháng 11, cĩ sao Chổi mọc ở phương tây. Đinh Hợi, năm thứ 54 [154 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, cĩ sao Chổi đuơi dài mọc ở phương tây. Tháng ấy, ngày 30, cĩ nhật thực. Mậu Tý, năm thứ 55 [153 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 4). Mùa đơng, tháng 10, ngày 30, nhật thực. Quý Tỵ, năm thứ 60 [148 TCN], (Hán Cảnh Đế Trung Nguyên năm thứ 2). Mùa hạ, tháng 4, cĩ sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Mùa thu, tháng 9, ngày 30, cĩ nhật thực. Giáp Ngọ, năm thứ 61 [147 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa thu, tháng 9, cĩ sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Tháng ấy, ngày 30, nhật thực. Ất Mùi, năm thứ 62 [146 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 4). Mùa đơng, tháng 10, ngày 30, nhật thực. Đinh Dậu, năm thứ 64 [144 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, ngày 30, nhật thực. Bấy giờ vua sai sứ sang nhà Hán thì xưng là vương, giữ lễ triều yết cũng như các nước chư hầu, ở trong nước thì theo hiệu cũ [đế]. Mậu Tuất, năm thứ 65 [143 TCN], (Hán Cảnh Đế Hậu Nguyên, năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, ngày 30, nhật thực. Canh Tý, năm thứ 67 [141 TCN], (Hán Cảnh Đế [Hậu Nguyên] năm thứ 3). Mùa đơng1, tháng 10, mặt trời, mặt trăng đều sắc đỏ. Tháng 12, sắc mặt trời đỏ tía, năm sao đi ngược chiều ơm lấy chịm sao Thái Vi; mặt trăng đi xuyên vào Thiên Đình (Thiên Đình tức là 10 ngơi sao cung viên Thái Vi ở gĩc hữu sao Long Tinh, ở khoảng sao Dực sao Chẩn; ấy là cung của thiên tử; tịa của ngũ đế). Mùa xuân, tháng giêng, vua Hán băng hà. Nhâm Dần, năm thứ 69 [139 TCN], (Hán Vũ Đế Triệt, Kiến Nguyên năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 30, nhật thực. Mùa hạ, tháng 4, cĩ sao to bằng mặt trời mọc ban đêm. Quý Mão, năm thứ 70 [138 TCN], (Hán Kiến Nguyên năm thứ 3). Mùa thu, tháng 7, sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Tháng 9, ngày 30, nhật thực. Giáp Thìn, năm thứ 71 [137 TCN], (Hán Kiến Nguyên, năm thứ 4). Vua băng, thụy là Vũ Đế. Cháu là Hồ lên nối ngơi. (Về sau, nhà Trần [8a] phong là Khai Thiên Thể Đạo Thánh Vũ Thần Triết Hồng Đế). Lê Văn Hưu nĩi: Đất Liêu Đơng khơng cĩ Cơ Tử thì khơng thành phong tục mặc áo đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngơ Cối khơng cĩ Thái Bá thì khơng thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đơng Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước khơng cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thơi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà
- Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, cơng ấy cĩ thể nĩi là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngơi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc khơng thể [8b] lại ngấp nghé được. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Truyện [Trung Dung] cĩ câu: "Người cĩ đức lớn thì ắt cĩ ngơi, ắt cĩ danh, ắt được sống lâu". [Vũ] Đế làm gì mà được như thế? Cũng chỉ vì cĩ đức mà thơi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trơng coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đĩ tơng miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nĩi: "Biêt khiêm nhường thì ngơi tơn mà đức sáng, ngơi thấp mà khơng ai dám vượt qua". Vua chính hợp câu ấy
- VĂN VƯƠNG Ở ngơi 12 năm, thọ 52 tuổi. Vua lấy nghĩa để cảm nước láng giềng, đánh lui địch, yên biên cảnh, cũng gọi là bậc vua cĩ ý muốn thịnh trị vậy. Tên húy là Hồ, con trai Trọng Thủy, cháu Vũ Đế. Bính Ngọ, năm thứ 2 [135 TCN], (Hán Kiến Nguyên năm thứ 6). Mùa thu, tháng 8, cĩ sao Chổi mọc ở phương đơng, đuơi dài hết trời. Mân Việt Vương Sính xâm lấn biên ấp nước ta. Vua giữ ước với nhà Hán, khơng tự tiện dấy quân, sai người đem thư nĩi việc đĩ với nhà Hán. Nhà Hán khen là nghĩa, vì vua mà phát đại binh, sai Vương Khơi xuất quân từ Dự Chương, Hàn An Quốc xuất quân từ Cối Kê, để đánh Mân Việt. Hồi Nam Vương [Lưu] An dâng thư can rằng: "Việt là đất ở ngồi cõi. Dân cắt tĩc vẽ mình, khơng thể lấy pháp độ của nước đội mũ mang đai mà trị được. Từ thời Tam đại thịnh trị, người Hồ, người Việt đã khơng nhận chính sĩc, khơng phải là vì mạnh mà khơng hàng phục được, uy khơng chế ngự được, mà vì đất ấy khơng thể ở được, dân ấy khơng thể chăn được, khơng bõ làm phiền đến Trung Quốc vậy. Nay họ đánh lẫn nhau mà bệ hạ phát quân đến cứu, thế là trái lại đem Trung Quốc mà [9b] phục dịch di dịch vậy. Vả người Việt khinh bạc, tráo trở, khơng theo pháp độ, khơng phải mới cĩ một ngày. Nay mới khơng vâng chiếu mà cất quân đi đánh giết, thần sợ sau này việc binh cách khơng biết đến lúc nào thơi. Vừa rồi mấy năm liền khơng được mùa, sinh kế của dân chưa lại như cũ, nay phát binh lấy lương, đi mấy nghìn dặm lại thêm rừng sâu tre rậm, nhiều rắn độc thú dữ, tháng hè mùa nắng, các bệnh thổ tả hoặc loạn phát ra luơn, tuy chưa từng ra quân đọ kiếm mà chết chĩc tất đã nhiều rồi. Thần nghe rằng sau việc quân lữ, tất là mất mùa, là bởi cái khí sầu khổ phá sự điều hịa của khí âm dương, cảm đến tinh khí của trời đất, tai biến do đấy mà sinh ra. Bệ hạ đức sánh trời đất, ơn đến cỏ cây, một người đĩi rét khơng được hưởng trọn tuổi trời mà chết, bệ hạ cũng lấy làm thương xĩt trong lịng. Hiện nay trong nước khơng cĩ tiếng chĩ sủa báo động mà khiến quân lính phải dãi dầu ở đồng nội, ngấm ướt ở núi hang, khiến dân ở biên cương phải đĩng cửa sớm mở cửa muộn, bữa mai khơng kịp bữa hơm, thần An trộm xin bệ hạ thận trọng việc đĩ. Vả người Việt nhân tài vật lực yếu mỏng khơng biết đánh bộ, lại khơng biết dùng xe ngựa cung nỏ, thế mà khơng thể đem quân vào được, là vì họ giữ được đất hiểm, mà người Trung Quốc thì khơng quen thủy thổ. Thần nghe ở đường sá người ta nĩi rằng: Mân Việt Vương bị em là Giáp giết chết, Giáp cũng đã bị giết rồi, dân nước ấy chưa thuộc về ai. Nếu bệ hạ sai trọng thần đến nơi thăm hỏi, ban đức cấp thưởng để chiêu dụ họ, thế tất họ sẽ dắt trẻ dìu già theo về thánh đức. Nếu [bệ hạ] khơng dùng đất ấy làm gì, thì nước đã mất làm cho cịn, dịng đã tuyệt khiến nối lại, phong làm vương hầu, như thế tất họ phải đem mình làm tơi, đời đời nộp cống. Bệ hạ chỉ dùng cái ấn vuơng một tấc, dây thao một trượng hai, mà trấn vỗ được đất ngồi, khơng phải nhọc mệt tên lính nào, khơng phải cùn một chiếc giáo nào, mà uy đức đều được cả. Nay đem quân vào đất họ, họ tất sợ hãi, trốn vào rừng núi; nếu ta bỏ về, thì họ lại họp đàn tụ lũ, nếu ta ở để giữ, thì hết năm này sang năm khác, quân lính mệt mỏi, lương thực thiếu hết, một phương cĩ việc gấp, thì bốn mặt đều sợ. Thần sợ rằng biến cố sẽ sinh, gian tà sẽ nổi, đều là bắt đầu từ đấy cả. Thần nghĩ rằng: quân của thiên tử chỉ đi đánh kẻ dưới phạm lỗi, chứ khơng đi đánh nhau để tranh giành, vì là khơng ai dám đọ sức. Nếu người Việt làm liều chống lại quan chấp sự mà trong quân kiếm củi đẩy xe cĩ kẻ nào khơng về đủ thì dù cĩ chém được đầu của Việt Vương, thần cũng lấy làm xấu hổ. Bệ hạ lấy chín châu làm nhà, sinh dân đều là thần thiếp cả, đất của di địch nào cĩ đủ làm nhàn hạ được một ngày mà phải phiền đến ngựa đổ mồ hơi mệt nhọc? Kinh Thi cĩ câu: "Đạo vương tin thực, đất Từ theo về". Ý nĩi vương đạo rất lớn mà phương xa mến phục. Thần An trộm lo rằng tướng lại đem 10 vạn quân đi chỉ làm cái trách nhiệm của một người sứ giả mà thơi." Khi ấy quân nhà Hán chưa qua đèo, Mân Việt Vương đã phát binh giữ chỗ hiểm để chống cự. Em Mân Việt Vương là Dư Thiện cùng với người trong họ bàn nhau rằng: "Vì vương tự tiện đem quân đánh Nam Việt khơng xin phép nhà Hán, cho nên nhà Hán đem quân đến đánh. Quân Hán nhiều và mạnh, dù may mà mình cĩ đánh được chăng nữa sau họ lại kéo sang nhiều hơn, chung quy nước cũng bị diệt, chi bằng giết vương để tạ lỗi với nhà Hán mà xin bãi binh". Bèn giết Sính, sai sứ đem đầu nộp cho Vương Khơi. Khơi liền cho đĩng quân lại, bảo cho Hàn An Quốc, rồi sai sứ mang đầu Sính chạy về báo. Vua Hán sai Trang Trợ sang tỏ ý cho vua biết. Vua rập đầu nĩi: "Thiên tử vì quả nhân đem quân giết vua Mân Việt, quả nhân dù chết cũng khơng báo đáp được ân đức ấy". Mới sai thái tử là Anh Tề sang nhà Hán làm con tin. Nhân bảo Trợ rằng: "Nước tơi mới bị cướp, sứ giả cứ về trước, quả nhân đang ngày đêm sắm sửa hành trang để vào triều kiến thiên tử". Trợ về rồi, bầy tơi đều can vua rằng:
- "Quân nhà Hán giết [Mân Việt Vương] Sính là cĩ ý muốn cảnh cáo nước Việt ta. Vả lại tiên đế đã nĩi thờ nhà Hán cốt khơng thất lễ thì thơi. Tĩm lại chớ nên tin lời nĩi khéo, vào chầu vua Hán thì khơng về được nữa, đĩ là thế mất nước đấy." Vua bèn nĩi thác là cĩ bệnh rồi khơng sang yết kiến nữa. Đinh Mùi, năm thứ 3 [134 TCN], (Hán Nguyên Quang, năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, ngày 30, nhật thực. Giáp Dần, năm thứ 10 [127 TCN], (Hán Nguyên Sĩc năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, ngày 30, nhật thực. Ất Mão, năm thứ 11 [126 TCN], (Hán Nguyên Sĩc năm thứ 3). Vua ốm nặng, Thái tử Anh Tề ở Hán về. Bính Thìn, năm thứ 12 [125 TCN], (Hán Nguyên Sĩc năm thứ 4). Vua mất, thụy là Văn Vương. Con là Anh Tề nối ngơi. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Văn Vương giao thiệp với nước láng giềng phải đạo, nhà Hán khen là cĩ nghĩa, đến mức dấy binh đánh giúp kẻ thù; lại biết nghe lời can, thác bệnh khơng sang chầu nhà Hán, giữ phép nhà để mưu cho con cháu, cĩ thể gọi là khơng xấu hổ với ơng nội.
- MINH VƯƠNG Ở ngơi 12 năm. Vua khơng cẩn thận mối vợ chồng, gây thành loạn cho quốc gia, khơng cĩ gì đáng khen. Tên húy là Anh Tề, con trưởng của Văn Vương. Đinh Tỵ, năm thứ 1 [124 TCN], (Hán Nguyên Sĩc năm thứ 5). Lấy Lữ Gia làm Thái phĩ. Kỷ Mùi, năm thứ 3 [122 TCN], (Hán Nguyên Thú năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 5, ngày 30, nhật thực. Nhâm Tuất, năm thứ 6 [119 TCN], (Hán Nguyên Thú năm thứ 4). Mùa xuân, sao Chổi mọc ở phía đơng bắc. Mùa hạ, sao Chổi dài mọc [12b] ở phương tây. Ất Sửu, năm thứ 9 [116 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 1). Mậu Thìn, năm thứ 12 [113 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 4). Trước kia vua làm thế tử, sang làm con tin cho nhà Hán ở Trường An, lấy con gái người họ Cù ở Hàm Đan, sinh con tên là Hưng. Đến khi lên ngơi, giấu ấn của tiên đế đi, dâng thư sang nhà Hán xin lập Cù thị làm hồng hậu, Hưng làm thế tử. Nhà Hán mấy lần sai sứ giả sang khuyên vua vào chầu. Vua sợ vào yết kiến phải theo pháp độ nhà Hán ngang với các chư hầu ở trong, cố ý cáo ốm khơng đi, bèn sai con là Thứ cơng vào làm con tin. Năm ấy vua mất, thụy là Minh Vương. Con là Hưng nối ngơi.
- AI VƯƠNG Ở ngơi 1 năm [112 TCN]. Mẫu hậu ngang nhiên dâm loạn, quyền thần chuyên chính, vua hèn tuổi trẻ, giữ nổi thế nào được. Tên húy là Hưng, con thứ của Minh Vương. Năm ấy, vua đã lên ngơi, tơn mẹ là Cù thị là thái hậu. Trước kia, thái hậu chưa lấy Minh Vương, đã từng thơng dâm với An Quốc Thiếu Quý người Bá Lăng. An Quốc là họ, Thiếu Quý là tên. Năm ấy nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ vua và thái hậu vào chầu, như đối với các chư hầu ở trong, lại sai biện sĩ là bọn Gián nghị đại phu Chung Quân tuyên dụ, dũng sĩ là bọn Ngụy Thần giúp việc, vệ úy Lộ Bác Đức đem quân đĩng ở Quế Dương để đợi sứ giả. Khi ấy vua cịn ít tuổi, Cù hậu là người Hán, Thiếu Quý đến, lại tư thơng. Người nước biết, phần nhiều khơng theo thái hậu. Thái hậu sợ loạn nổi, muốn dựa uy nhà Hán, nhiều lần khuyên vua và các quan xin nội phụ nhà Hán. Bèn nhờ sứ nhà Hán dâng thư, xin theo như các chư hầu ở trong, cứ 3 năm một lần vào chầu, triệt bỏ cửa quan ở biên giới. Vua Hán bằng lịng, ban cho vua và Thừa tướng Lữ Gia ấn bằng bạc và các ấn nội sử, trung úy, thái phĩ, cịn các chức khác được tự đặt lấy. Bỏ hình phạt cũ thích chữ, cắt mũi, dùng pháp luật nhà Hán như các chư hầu ở trong. Các sứ giả đều ở lại để trấn giữ vỗ về1. Kỷ Tỵ, năm thứ 1 [112 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 5). Vua và thái hậu đã sửa soạn hành trang lễ vật quý giá để vào chầu. Bấy giờ Tể Tướng Lữ Gia tuổi đã nhiều, làm tướng trải ba triều, người trong họ làm trưởng lại đến hơn 7 chục người, con trai đều lấy con gái vua, con gái đều gả cho con em vua và người tơn thất, cùng thơng gia với Tần Vương ở quận Thương Ngơ, trong nước rất được lịng dân hơn cả vua. Gia nhiều lần dâng thư can vua, vua khơng nghe, nhân thế cĩ lịng muốn làm phản, thường cáo ốm khơng tiếp sứ giả nhà Hán. Các sứ giả nhà Hán đều chú ý đến Gia, nhưng thế chưa thể giết được. Vua và thái hậu cũng sợ bọn Gia khởi sự trước, muốn nhờ sứ giả nhà Hán trù mưu giết bọn Gia. Bèn đặt tiệc rượu mời sứ giả đến dự, các đại thần đều ngồi hầu rượu. Em Gia làm tướng, đem quân đĩng ở ngồi cung. Tiệc rượu mới bắt đầu, thái hậu bảo Gia rằng: "Nam Việt nội thuộc [Trung Quốc] là điều lợi cho nước, thế mà tướng quân lại cho là bất tiện là tại sao?", cốt để chọc tức sứ giả. Sứ giả cịn đương hồ nghi, chần chừ chưa dám làm gì. Gia thấy tai mắt họ cĩ vẻ khác thường, lập tức đứng dậy đi ra. Thái hậu giận, muốn lấy giáo đâm Gia, vua ngăn lại. Gia bèn ra chia lấy quân lính của em dẫn về nhà, cáo ốm khơng chịu gặp vua và sứ giả, ngầm cùng các đại thần mưu làm loạn. Vua vốn khơng cĩ ý giết Gia, Gia cũng biết thế, vì vậy đến mấy tháng khơng hành động gì. Thái hậu muốn một mình giết Gia nhưng sức khơng làm nổi. Vua Hán nghe tin Gia khơng nghe mệnh, mà vua và thái hậu thì cơ lập, yếu ớt khơng chế ngự nổi, sứ giả thì nhút nhát khơng quyết đốn, lại thấy vua và thái hậu đã nội phụ rồi, chỉ một mình Lữ Gia làm loạn, khơng đáng dấy quân, muốn sai Trang Sâm đem 2 nghìn người sang sứ. Trang Sâm nĩi: "Lấy sự hịa hiếu mà sang, thì vài người cũng đủ, lấy vũ lực mà sang, thì 2 nghìn người khơng làm gì được". Sâm từ chối khơng nhận. Vua Hán bèn bãi chức Sâm. Tướng Tế Bắc cũ là Hàn Thiên Thu hăng hái nĩi: "Một nước Việt cỏn con, lại cĩ vương và thái hậu làm nội ứng, chỉ một mình thừa tướng Lữ Gia làm loạn, xin cấp cho 3 trăm dũng sĩ, thế nào cũng chém được Gia về báo". Bấy giờ nhà Hán sai Thiên Thu và em Cù thái hậu là Cù Lạc đem 2 nghìn người tiến vào đất Việt. Lữ Gia bèn hạ lệnh cho trong nước rằng: "Vua cịn nhỏ tuổi, thái hậu vốn là người Hán, lại cùng với sứ giả nhà Hán dâm loạn, chuyên ý muốn nội phụ với nhà Hán, đem hết đồ châu báu của Tiên Vương dâng cho nhà Hán để nịnh bợ, đem theo nhiều người đến Trường An rồi bắt bán cho người ta làm đầy tớ, chỉ nghĩ mối lợi một thời, khơng đối gì đến xã tắc họ Triệu và lo kế muơn đời". Bèn cùng với em đem quân đánh, giết vua và thái hậu, cùng tất cả bọn sứ giả nhà Hán, rồi sai người đi báo cho Tần Vương ở Thương Ngơ và các quận ấp, lập con trưởng của Minh Vương là Thuật Dương hầu Kiến Đức làm vua. Vua bị giết, tên thụy là Ai Vương. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Tai họa của Ai Vương, tuy bởi ở Lữ Gia mà sự thực thì gây mầm từ Cù Hậu. Kể ra sắc đẹp đàn bà cĩ thể làm nghiêng đổ nước nhà người ta thì cĩ nhiều manh mối, mà cái triệu của nĩ thì khơng thể biết trước được. Cho nên các tiên vương tất phải đặt ra lễ đại hơn2, tất phải cẩn thận quan hệ vợ chồng, tất phải phân biệt hiềm nghi, hiểu những điều nhỏ nhặt, tất phải chính vị trong ngồi, tất phải ngăn ngừa việc ra vào, tất phải dạy đạo tam tịng, thì sau đĩ mối họa mới khơng do đâu mà đến được. Ai Vương ít tuổi khơng thể ngăn giữ được mẹ, Lữ Gia coi việc nước, việc trong việc ngồi lại khơng dự biết hay sao? Khách của nước lớn đến, thì việc đĩn tiếp cĩ lễ nghi, chỗ ở cĩ thứ tự, cung ứng cĩ số, thừa
- tiếp cĩ người, sao đến nỗI để thơng dâm với mẫu hậu? Mẫu hậu ở thẳm trong cung, khơng dự việc ngồi: khi nào cĩ việc ra ngồi, thì cĩ xe da cá, cĩ màn đuơi trĩ, cung tần theo hầu, sao để đến nỗi thơng dâm với sứ khách được? Bọn Gia toan dập tắt lửa cháy đồng khi đang cháy rực, sao bằng ngăn ngay cái cơ họa loạn từ khi chưa cĩ triệu chứng gì cĩ hơn khơng? Cho nên nĩi: Làm vua mà khơng biết nghĩa Xuân Thu tất phải chịu cái tiếng cầm đầu tội ác; làm tơi khơng biết nghĩa Xuân Thu tất mắc phải tội cướp ngơi giết vua, tức như là Minh Vương, Ai Vương và Lữ Gia vậy.
- THUẬT DƯƠNG VƯƠNG Ở ngơi 1 năm [111 TCN]. Xã tắc họ Triệu, Cù hậu làm cho nghiêng, gốc đã nhổ trước rồi, ngọn cũng theo mà đổ. Tên húy là Kiến Đức, con trưởng của Minh Vương và người vợ Việt. Bấy giờ, mùa đơng, tháng 11, Tể tướng Lữ Gia đã lập vua lên ngơi, mà quân của Hàn Thiên Thu đã vào cõi, đánh phá một vài ấp nhỏ. Gia bèn mở một đường thẳng để cấp lương cho quân, [khi quân nhà Hán] đến cịn cách Phiên Ngung 40 dặm, thì Gia xuất quân đánh, giết được bọn Thiên Thu. Sai người đem sứ tiết của nhà Hán cho vào trong hịm để trên núi Tái Thượng (tức là đèo Đại Dũ) dùng lời khéo để tạ tội, [một mặt] phát binh giữ chỗ hiểm yếu. Vua Hán nghe tin, sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức xuất phát từ Quế Dương, Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc xuất phát từ Dự Chương, Qua Thuyền tướng quân Nghiêm (sử chép thiếu họ) xuất phát từ Linh Lăng, Hạ lại tướng quân Giáp (sử chép thiếu họ) đem quân xuống Thương Ngơ, Trì Nghĩa hầu Quý (sử chép thiếu họ) đem quân Dạ Lang xuống sơng Tường Kha, đều hội cả ở Phiên Ngung. Canh Ngọ, năm thứ 1 [111 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 6). Mùa đơng, Dương Bộc nhà Hán đem 9 nghìn tinh binh hãm Tầm Hiệp, phá Thạch Mơn (Lữ Gia chất đá giữa sơng gọi là Thạch Mơn) lấy được thuyền thĩc của ta kéo luơn cả các thuyền ấy đi, đem mấy vạn người đợi Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức. Bác Đức nĩi vì đường xa nên chậm, rồi cùng với Lâu thuyền tướng quân hội quân tiến đến Phiên Ngung. Bấy giờ [Lộ Bác Đức] cĩ hơn 1 nghìn người cùng tiến [với quân Dương Bộc]. Dương Bộc đi trước đến Phiên Ngung. Vua và Lữ Gia cùng giữ thành. Dương Bộc tự chọn chỗ thuận tiện đĩng ở mặt đơng nam; Lộ Bác Đức đĩng ở mặt tây bắc. Vừa chập tối, Dương Bộc đánh bại [quân Triệu], phĩng lửa đốt thành. Bác Đức khơng biết quân trong thành nhiều hay ít bèn đĩng doanh, sai sứ chiêu dụ. Kẻ nào ra hàng đều cho ấn thao và tha cho về để chiêu dụ nhau. Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc cố sức đánh, đuổi [quân Triệu] chạy ngược vào dinh quân của Lộ Bác Đức. Đến tờ mờ sáng thì trong thành đầu hàng. Vua và Gia cùng với vài trăm người, đang đêm chạy ra biển. Bác Đức lại hỏi những người đầu hàng biết chỗ ở của Gia, bèn sai người đuổi theo. Hiệu úy tư mã là Tơ Hoằng bắt được vua, quan lang Việt là Đơ Kê (cĩ bản chép là Tơn Đơ) bắt được Gia. Bấy giờ quân của Hạ lại và Qua thuyền tướng quân, cùng quân Dạ Lang của Trì Nghĩa hầu chưa đến mà nước Việt ta đã bị Lộ Bác Đức và Dương Bộc dẹp yên rồi. (Bấy giờ nước Việt ta sai ba quan sứ4 đem 300 con trâu, 1.000 chung rượu và sổ hộ của 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam đến xin hàng; Lộ Bác Đức nhân đĩ cho ba người ấy làm thái thú ở 3 quận để trị dân như cũ). Từ đĩ [nhà Hán] lấy đất chia làm 9 quận là: Nam Hải (quận của nhà Tần, nay là đất Quảng Đơng nhà Minh), Thương Ngơ (nhà Đường gọi là Ích Châu, xưa là Âu Lạc, đất của nước Việt ta), Uất Lâm (nhà Tần là quận Quế Lâm, Hán Vũ Đế đổi làm tên này), Hợp Phố (nhà Tần là Tượng Quận, nay thuộc Liêm Châu), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đều là Tượng Quận thời Tần), Châu Nhai, Đạm Nhĩ (đều ở trong biển lớn). Từ đấy nhà Hán bắt đầu đặt Thứ sử, Thái thú. Chế độ nhà Hán đặt Thứ sử cai trị một châu, Thái thú cai trị một quận (quận là cấp dưới của châu) Lê Văn Hưu nĩi: Lữ Gia can ngăn Ai Vương và Cù thái hậu khơng nên xin làm chư hầu nhà Hán, đừng triệt bỏ cửa quan ở biên giới, cĩ thể gọi là biết trọng nước Việt vậy. Song can mà khơng nghe, thì nghĩa đáng đem hết bầy tơi đến triều đình, trước mặt vua trình bày lợi hại về việc nước Hán, nước Việt đều xưng đế cả, cĩ lẽ Ai Vương và thái hậu cũng nghe ra mà tỉnh ngộ Nếu lại vẫn khơng nghe theo, thì nên tự trách mình mà lánh ngơi [tể tướng], nếu khơng thế thì dùng việc cũ họ Y1, họ Hoắc, chọn một người khác trong hàng con của Minh Vương để thay ngơi, cho Ai Vương được như Thái Giáp2 và Xương Ấp mà giữ tồn tính mệnh, như thế thì khơng lỗi đường tiến thối. Nay lại giết vua để hả lịng ốn, lại khơng biết cố chết để giữ lấy nước, khiến cho nước Việt bị chia cắt, phải làm tơi nhà Hán, tội của Lữ Gia đáng chết khơng dung. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Ngũ Lĩnh đối với nước Việt ta là ải hiểm cửa ngõ của nước cũng như Hổ Lao của nước Trịnh, Hạ Dương của nước Quắc. Làm vua nước Việt tất phải đặt quân chỗ hiểm để giữ nước, khơng thể để cho mất được. Họ Triệu một khi đã khơng giữ được đất hiểm ấy thì nước mất dịng tuyệt, bờ cõi bị chia cắt. Nước Việt ta lại bị phân chia, thành ra cái thế Nam-Bắc vậy. Sau này các bậc Đế Vương nổi dậy, chỗ đất hiểm đã mất rồi, khơi phục lại tất nhiên là khĩ. Cho nên Trưng Nữ Vương tuy đánh lấy được đất Lĩnh Nam, nhưng khơng giữ được nơi hiểm yếu ở Ngũ Lĩnh, rốt cuộc đến bại vong. Sĩ Vương tuy khơi phục tồn thịnh, nhưng bấy giờ cịn là chư hầu, chưa chính vị hiệu, sau khi chết lại mất hết; mà các nhà
- Đinh, Lê, Lý, Trần chỉ cĩ đất từ Giao Châu trở về Nam thơi, khơng khơi phục được đất cũ của Triệu Vũ Đế, cái thế khiến nên như vậy. Trở lên là. họ Triệu, từ Vũ Đế năm Giáp Ngọ đến Thuật Dương Vương năm Canh Ngọ là hết, gồm 5 đời, cộng 97 năm [207 - 111 TCN].
- TÂY HÁN Tân Mùi, [110 TCN], (Hán Nguyên Phong năm thứ 1). Nước Việt ta đã thuộc về nhà Hán. Nhà Hán cho Thạch Đái làm Thái Thú 9 quận. (Chế độ nhà Hán lấy châu lãnh quận, trừ hai quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ đều ở giữa biển, cịn 7 quận thuộc về Giao Châu, Đái làm châu Thái thú1. Thời Tây Hán, trị sở của Thái Thú đặt tại Long Uyên, tức là Long Biên, thời Đơng Hán đặt tại Mê Linh tức là Yên Lăng. Đến khi Đái chết, Hán Chiêu Đế lấy Chu Chương thay. Đến cuối đời Vương Mãng, châu mục Giao Châu là Đặng Nhượng cùng các quận đĩng chặn bờ cõi để tự giữ. Tướng nhà Hán là Sầm Bành vốn quen thân với Nhượng, gửi thư cho Nhượng bày tỏ uy đức của nhà Hán. Thế rồi [Nhượng] bảo Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và Thái thú các quận là bọn Đỗ Mục sai sứ sang cống hiến nhà Hán. Nhà Hán đều phong cho những người ấy tước hầu. Bấy giờ là năm Kỷ Sửu thời Hán Quang Vũ năm Kiến Vũ thứ 5 . Tích Quang người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy dân. Lại lấy Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân. Diên là người Uyển [huyện]. Tục người Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá, đi săn, khơng biết cày cấy. Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng, trăm họ no đủ. Dân nghèo khơng cĩ sính lễ cưới vợ, Diên bảo các trưởng lại trở xuống bớt bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ cĩ đến 2.000 người. Diên coi việc được 4 năm thì bị gọi về. Người Cửu Chân làm đền thờ. Những người đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong tục văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấy. Kỷ Hợi, [39], (Hán Quang Vũ Lưu Tú, Kiến Vũ năm thứ 15). Thái thú Giao Chỉ là Tơ Định chính sự tham lam tàn bạo, Trưng Nữ Vương dấy binh đánh. Trở lên là [kỷ] thuộc nhà Hán, từ năm Tân Mùi đến năm Kỷ Hợi, cộng 149 năm [110 TCN - 39].
- ĐƠNG HÁN Quý Mão, [Trưng Vương, năm thứ 4], [43], (Hán Kiến Vũ năm thứ 19). Mùa xuân, tháng giêng, Trưng Nữ Vương cùng em gái là Nhị chống cự lại với quân nhà Hán, thế cơ, đều thua chết. Mã Viện đuổi theo đánh quân cịn sĩt là bọn Đơ Dương. Đến huyện Cư Phong thì [bọn Đơ Dương] đầu hàng, [Viện] bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. (Cột đồng tương truyền ở trên động Cổ Lâu1 châu Khâm. Viện cĩ câu thề: "Cột đồng gãy thì Giao Châu diệt". Người Việt ta đi qua dưới cột ấy, thường lấy đá chất vào, thành như gị đống, vì sợ cột ấy gãy. Mã Tổng nhà Đường lại dựng hai cột đồng ở chỗ cũ của nhà Hán ghi cơng đức của Mã Viện để tỏ ra mình là dịng dõi của Phục Ba, nay chưa rõ ở chỗ nào. Hai sơng Tả Giang, Hữu Giang mỗi nơi cĩ một cột). Viện thấy huyện Tây Vu cĩ 3 vạn 3 nghìn hộ, xin chia làm hai huyện Phong Kê và Vọng Hải, vua Hán nghe theo. Viện lại đắp thành Kiển Giang ở huyện Phong Khê. Thành đắp trịn như hình cái kén, cho nên lấy [chữ Kiển] làm tên. Nước Việt ta lại thuộc vào nhà Hán. Ba năm sau, Viện trở về. Người địa phương thương mến Trưng Nữ Vương, làm đền thờ phụng (đền ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc3, ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng cĩ). Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hơ một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ được khơi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết cịn cĩ thể chống ngăn tai họa. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo khơng việc gì là khơng linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà cĩ đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất khơng vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuơi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư ? Giáp Thìn, [44], (Hán Kiến Vũ năm thứ 20). Từ đây về sau, trải các đời Hán Minh Đế, Chương Đế, Hịa Đế, Thượng Đế, An Đế, gồm 5 đời, cộng 82 năm, duy thời Minh Đế cĩ Lý Thiện người huyện Nam Dương làm Tháu thú Nhật Nam, làm việc chính sự cĩ ân huệ yên dân, khiến cho người khác phong tục cũng mến chuộng tìm đến. Sau Thiện đổi làm Thái thú Cửu Chân. Bính Tý, [136], (Hán Thuận Đế Bảo, Vĩnh Hịa năm thứ 1). Thái thú Chu Xưởng cho là Giao Châu ở ngồi chín châu, ở rìa Bách Việt, dâng biểu xin đặt phương bá4. Vua Hán để cho Xưởng làm Thứ sử, cai quản các quận huyện. Đinh Sửu, [137], (Hán Vĩnh Hịa năm thứ 2). Người man ở huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam (ở địa giới nước Việt Thường xưa), là bọn Khu Liên đánh phá quận huyện, giết trưởng lại. Thứ sử Giao Châu là Phàn Diễn đem quân châu và quân Cửu Chân hơn vạn người đi cứu ứng, nhưng quân lính ngại đi xa. Mùa thu, tháng 7, quân hai quận làm phản đánh phủ trị, thế chuyển thành mạnh. Mậu Dần, [138], (Hán Vĩnh Hịa năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 5, Thị ngự sử Giả Xương cùng với các châu quận hợp sức đánh bọn Khu Liên khơng được, bị Khu Liên vây đánh hơn một năm, binh lương khơng thể tiếp tế được. Vua Hán gọi các cơng khanh và thuộc lại bốn phủ để hỏi phương lược, các quan đều bàn nên sai tướng phát 4 vạn quân của bốn châu Kinh, Dương, Duyện, Dự đi đánh. Lý Cổ bác đi, nĩi rằng: "Các châu Kinh, Dương giặc cướp tụ họp chưa tan; Trường Sa, Quế Dương đã nhiều lần bị thu thuế bắt lính, nay lại làm rối động, ắt lại sinh họa nữa. Người các châu Duyện, Dự phải đi xa muơn dặm, chiếu thư thúc bách, tất phải bỏ trốn. Nam Châu thì trời nắng nực, ẩm thấp lại thêm lam chướng dịch lệ, 10 phần phải chết đến 4, 5 phần. Đường xa muơn dặm, quân lính mỏi mệt, đến lúc tới Lĩnh Nam thì đã khơng kham nổi chiến đấu. Quân đi mỗI ngày 30 dặm mà Duyện, Dự cách quận Nhật Nam hơn 9 nghìn dặm, phải 3 trăm ngày mới đến. Tính lương một người ăn mỗi ngày 5 thăng, thì phải dùng đến 60 vạn hộc gạo, đĩ là khơng kể lương thực của tướng lại và lừa ngựa. Đặt quân ở đấy, chết chĩc tất nhiều, đã khơng đủ quân chống giặc, lại phải bắt thêm. Thế là xẻo cắt lịng bụng để chắp vá cho chân tay. Cửu Chân và Nhật Nam chỉ cách nhau 1 nghìn dặm, lại dân ở đĩ đi đánh cịn khơng kham nổi, huống chi lại làm khổ quân lính ở bốn châu để cứu nạn xa muơn dặm? Trước đây Trung lang tướng Dỗn Tựu đánh người Khương làm phản ở Ích Châu, người Ích Châu cĩ ngạn ngữ rằng: "Lỗ lai thượng khả, Dỗn lai sát ngã" (Giặc đến cịn khá, Dỗn đến chết ta). Sau Tựu bị địi về, đem quân giao cho Phán châu là Trương Kiều, Kiều vẫn dùng tướng lại của Tựu, chỉ trong khoảng mười hơm, diệt hết giặc cướp. Thế là bằng chứng tỏ rằng sai tướng đi là vơ ích, mà châu quận cĩ thể dùng được. Nay nên chọn người nào cĩ dũng lược nhân huệ, cĩ thể làm tướng súy được, cho làm Thứ sử, Thái thú, dời lại dân ở Nhật Nam đến nương dựa vào quận Giao Chỉ ở Bắc, trở lại chiêu mộ người Man Di, khiến họ đánh lẫn nhau, chuyển vận hàng lụa đến để cấp cho, kẻ nào cĩ thể phản gián dụ hàng thì cắt đất phong cho. Thứ sử Tính Châu trước là Chúc Lương dũng mãnh quyết đốn, Trương Kiều trước ở Ích Châu cĩ cơng phá giặc, đều cĩ thể dùng được. Bốn phủ đều theo lời bàn của Cố. Bèn cho Lương làm Thái thú Cửu Chân, Kiều làm Thứ sử Giao Châu. Kiều đến nơi, lấy lịng thành thật dỗ bảo, dân chúng đều hàng phục. Lương đi một xe đến Cửu Chân, tỏ rõ uy tín, người ra hàng đến vài vạn.
- Giáp Thân, [144], (Hán Kiến Khang năm thứ 1). Mùa thu, tháng 8, vua Hán mất. Mùa đơng, tháng 10, người Nhật Nam lại đánh đốt quận ấp. Thứ sử Cửu Chân là Hạ Phương gọi những kẻ ra hàng dỗ bảo họ. Sau Phương đổi làm Thái thú Quế Dương, lấy Lưu Tảo thay. Canh Tý, [160] (Hán Hồn Đế Chí, Nguyên Gia năm thứ 2). Mùa đơng, tháng 11, người quận Cửu Chân lại đĩng giữ quận Nhật Nam, quân chúng trở nên mạnh hơn. Khi ấy Hạ Phương đã đổi làm Thái thú Quế Dương, lại giao cho làm Thứ sử. Phương vốn cĩ tiếng về uy đức, khi đến Nhật Nam, dân chúng tụ họp hơn vạn người đem nhau đến đầu hàng Phương. Mậu Ngọ, [178], (Hán Linh Đế Hồnh, Quang Hịa năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4, người trong châu và bọn Man Ơ Hử1 làm loạn đã lâu, mục thú là Chu Ngung khơng ngăn được, người châu là bọn Lương Long nhân đấy dấy binh đánh phá quận huyện, quân đến vài vạn người. Tân Dậu, [181], (Hán Quang Hịa năm thứ 4). Vua Hán sai Huyện lệnh Lan Lăng là Chu Tuấn, người Thượng Ngu quận Cối Kê, sang cứu Ngung. Đường đi qua quê nhà, Tuấn mộ thêm gia binh cùng với binh đem đi theo cộng 5 nghìn người, theo hai đường tiến vào. Trước hết sai xem xét hư thực, tuyên dương uy đức để lay động lịng người rồi quân bảy quận2 tiến bức, giết được Lương Long, kẻ đầu hàng đến vài vạn người. Giáp Tý, [183], (Hán Trung Bình năm thứ 1). Đồn binh người châu bắt Thứ sử Chu Ngung giết đi, sai người đến cửa khuyết kể tội trạng của Ngung. Vua Hán nghe tâu, xuống chiếu chọn kỹ quan lại cĩ tài. Hữu ty tiến cử Giả Tơng là người Liêu thành Đơng Quận làm Thứ sử (Tơng trước làm Ngự sử). Trước đây những người làm Thứ sử thấy đất châu cĩ các thứ ngọc trai, lơng trả, tê, voi, đồi mồi, hương lạ, gỗ tốt, nhiều người khơng liêm khiết, vơ vét của cải cho đầy, rồi lại xin đổi đi, cho nên lại dân đều làm phản cả. Kịp khi Tơng đến bộ3, xét hỏi tình trạng làm phản, người ta đều nĩi rằng chính lệnh trước thuế má nặng quá, trăm họ khơng ai khơng khốn khổ túng thiếu, Kinh sư thì xa, khơng biết tố cáo vào đâu, dân khơng sống nổi, nên tụ họp nhau để chống, chứ khơng thực sự làm phản. Tơng mới sai người chia đi các nơi để khuyên dỗ, khiến đều yên nghiệp làm ăn, dụ dỗ những kẻ lưu vong, tha bớt thuế khĩa. Rồi giết kẻ bạo ngược đầu sỏ, chọn quan lại tốt cho giữ quận huyện. Trăm họ được yên, trên đường ngõ người ta cĩ câu rằng: "Giả phụ lai vãn, sử ngã tiên phản. Kim kiến thanh bình, bất cảm phục bạn". (Bố Giả đến muộn, khiến ta phản trước; Nay thấy thanh bình, khơng dám phản nữa). Tơng coi việc 3 năm, được gọi về làm chức Nghị Lan. Lý Tiến thay. (Lý Tiến là người Giao Châu ta). Bính Dần, [186], (Hán Trung Bình năm thứ 3) Lê Văn Hưu nĩi: Xem sử đến thời nước Việt ta khơng cĩ vua, bị bọn thứ sử người Bắc tham tàn làm khổ. Bắc Kinh đường xa, khơng biết kêu vào đâu, bất giác xen lẫn cảm thương hổ thẹn, muốn tỏ lịng thành như Minh Tơng nhà Hậu Đường, thường thắp hương khấn trời: xin trời vì nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà, để khỏi bị người phương Bắc cướp vét. Trở lên là thời thuộc Hán, từ năm Quý Mão đến năm Bính Dần, tất cả 144 năm [43-186].
- TRƯNG VƯƠNG Ở ngơi 3 năm. Vua rất hùng dũng, đuổi Tơ Định, dựng nước xưng vương, nhưng vì là vua đàn bà, khơng thể làm nên cơng tái tạo. Tên húy là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh1, Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên. (Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hơn với nhau. Sách Cương mục tập lãm lấy Lạc làm họ là lầm). Đĩng đơ ở Mê Linh. Canh Tý, năm thứ 1 , (Hán Kiến Vũ năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 2, vua khổ vì Thái thú Tơ Định dùng pháp luật trĩi buộc, lại thù Định giết chồng mình, mới cùng với em gái là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở châu. Định chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua, mới xưng là họ Trưng. Tân Sửu, năm thứ 2, (Hán Kiến Vũ năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2, ngày 30, nhật thực. Nhà Hán thấy họ Trưng xưng vương, dấy quân đánh lấy các thành ấp, các quận biên thùy bị khổ, mới hạ lệnh cho Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu ta sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thơng các núi khe, chứa thĩc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phĩ sang xâm lược. Nhâm Dần, năm thứ 3 , (Hán Kiến Vũ năm thứ 18). Mùa xuân, tháng giêng, Mã Viện theo ven biển mà tiến, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành, gọi là Lãng Bạc) đánh nhau với vua. Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ơ hợp, sợ khơng chống nổi, lui quân về giữ Cấm Khê (Cấm Khê, sử chép là Kim Khê). Quân cũng cho vua là đàn bà, sợ khơng đánh nổi địch, bèn tan chạy. Quốc thống lại mất Lê Văn Hưu nĩi: Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hơ một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, cĩ thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngơ, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ơng chỉ cúi đầu bĩ tay, làm tơi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ơi ! Cĩ thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy. Trở lên là Trưng Nữ Vương, bắt đầu từ năm Canh Tý đến năm Nhâm Dần thì hết, tất cả 3 năm [40-42].
- KỶ THUỘC NGƠ, TẤN, TỐNG, TỀ, LƯƠNG Đinh Mùi, [227], (Hán Kiến Hưng năm thứ 5; Ngơ Hồng Vũ năm thứ 6), Vua Ngơ nghe tin Sĩ Nhiếp mất, thấy Giao Châu ở xa cách, mới chia từ quận Hợp Phố trở về bắc thuộc vào Quảng Châu, cho Lữ Đại làm Thứ sử; từ quận Hợp Phố trở về nam thuộc vào Giao Châu, cho Đái Lương làm Thứ sử. Lại sai Trần Thì làm Thái thú thay Sĩ Nhiếp. Đại ở lại Nam Hải. Lương và Thì cùng lên đường. Đến Hợp Phố nghe tin ở Giao Châu con Sĩ Nhiếp là Huy đã tự làm Thái thú, đem tơng binh ra chống cự. (Cuối thời nhà Hán, tơn thất nổi loạn, người Nam cũng tụ họp họ hàng làm binh để tự vệ, cho nên gọi là tơng binh). Lương ở lại Hợp Phố. Thuộc lại của Sĩ Nhiếp là Hồn Lân cúi đầu can Huy, xin đĩn Lương, Huy giận đánh chết Lân. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Từ xưa hễ giết bề tơi can ngăn thì chưa từng khơng mất nước. Nước Trần giết Tiết Dã, nước Tề giết Cơ Huyên, việc nước Trần, nước Tề đáng làm gương soi, lấy đĩ làm răn. Thế mà cịn cĩ người giết bề tơi căn ngăn như Sĩ Huy, nối nghiệp chưa kịp quay gĩt mà đã phải chết là đáng lắm. Anh của Lân là Trị và con là Phát lại họp tơng binh đánh Huy. Huy đĩng cửa thành để giữ. Bọn Trị đánh mấy tháng khơng hạ được thành, bèn giảng hịa và đều bãi binh. Kế đĩ Lữ Đại vâng chiếu nước Ngơ đánh Huy, đem quân từ Quảng Châu, ngày đêm đi gấp đến Hợp Phố, cùng với Lương đều tiến, dụ con của Sĩ Nhiếp là Trung Lang Tướng Khuơng bảo Huy ra chịu tội, tuy mất chức quận thú, nhưng bảo đảm khơng cĩ lo ngại gì khác. Đại theo Khuơng đến sau. Anh Huy là Chi, em Huy là bọn Cán, Tụng sáu người cởi trần đĩn Đại. Đại mặc áo thường đi thẳng đến quận trị. Sáng hơm sau, Đại bày màn trướng, mời anh em Huy theo thứ tự đi vào. Tân khách đầy nhà, Đại đứng dậy cầm phù tiết đọc tờ chiếu kể tội Huy, tả hữu trĩi quặt [anh em Huy] đưa ra ngồi, đem chém cả, lấy đầu đưa về Vũ Xương. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Sĩ Huy cha mất khơng xin mệnh mà đã tự lập, lại đem quân chống mệnh, theo nghĩa thì phải đánh. Nhưng Lữ Đại đã dụ [Huy] ra hàng mà lại giết đi là trái lẽ. Giữ điều tin là báu của nước. Huy đã hàng cứ trĩi giải về Vũ Xương, khiến cho việc sinh sát được quyết ở trên, mà uy tín lan xuống kẻ dưới, há chẳng hay hơn ư? Tơn Thịnh nĩi: "Hịa với người phương xa, được lịng người ở gần, khơng gì hay hơn chữ Tín". Lữ Đại giết kể đầu hàng để cầu cơng, người quân tử lấy làm chê cười, xem thế mới biết họ Lữ khơng được lâu là phải lắm. Nhất, Vĩ và Khuơng sau mới ra hàng, được Ngơ Vương tha tội, cùng với con tin của Sĩ Nhiếp là Ngẩm, đều giáng làm thứ nhân. Được vài năm, Nhất và Vĩ cĩ tội bị giết, duy cĩ Khuơng ốm chết trước. Đến khi Ngẩm chết, đại tướng của Huy là Cam Lễ và Hồn Trị đem lại dân đánh Đại, Đại đánh tan được. Bấy giờ mới bỏ Quảng Châu, đặt lại Giao Châu như cũ. Đại tiến đánh quận Cửu Chân, chém và bắt được kể hàng vạn người. Tân Hợi, [231], (Hán Kiến Hưng năm thứ 9; Ngơ Hồng Vũ năm thứ 3). Người man Ngũ Khê ở Vũ Lăng nước Ngơ làm phản. Ngơ Vương cho là đất miền Nam đã dẹp yên, gọi Thứ sử Lữ Đại về. Thái thú Hợp Phố là Tiết Tống dâng sớ nĩi: "Ngày xưa vua Thuấn đi tuần phương nam, mất ở Thương Ngơ, nhà Tần đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận, thế thì bốn quận ấy nội thuộc đã lâu rồi. Triệu Đà nổi dậy ở Phiên Ngung, vỗ về thần phục được vua Bách Việt, đĩ là miền đất về phía nam quận Châu Nhai, Hiếu Vũ (nhà Hán) giết Lữ Gia, mở 9 quận, đặt chức Thứ sử ở Giao Chỉ, dời những người phạm tội ở Trung Quốc sang ở lẫn vào các nơi ấy, cho học sách ít nhiều, hơi thơng hiểu lễ hĩa. Đến khi Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân, dựng nhà học, dẫn dắt bằng lễ nghĩa. Từ đấy trở đi, hơn 400 [ăm, dân tựa hồ đã cĩ quy củ. Nhưng đất rộng người đơng, núi rừng hiểmtrở, dễ làm loạn. Thần từng thấy Hồng Cái ở Nam Hải làm Thái thú Nhật Nam, khi đến nơi thấy đồcung đốn, trần thiết khơng đủ, đánh chết người chủ bạ, nhưng rồi cũng bị đánh đuổi. Thái thú Cửu Chân là Đam Manh vì bố vợ là Chu Kinh mà bày tiệc mời các quan to. Khi rượu say cho cử nhạc, cơng tào Phan Hâm đứng dậy múa, rồi mời Kinh. Kinh khơng chịu đứng lên, Hâm cứ thúc ép mãi. Manh nổi giận giết Hâm. Em của Hâm đem quân đến đánh Manh. Thái thú Giao Chỉ trước là Sĩ Nhiếp sai quân đến đánh dẹp khơng được. Bấy giờ Thứ sử Chu Phù phần nhiều cho người làng như bọn Ngu Bao, Lưu Ngạn chia nhau làm trưởng lại, vơ vét của dân, một con cá vàng thu thĩc mộc hộc. Trăm họ ốn ghét làm phản, kéo đi đánh phá châu quận, Phù phải chạy ra biển. Bộ Chất đã lần lượt làm cỏ, kỷ cương mới được chấn chỉnh lại. Sau Lữ Đại bình được loạn Sĩ Huy, đổi đặt các trưởng lại, làm sáng tỏ kỷ cương của nhà vua, uy danh khắp muơn dặm, lớn nhỏ đều theo. Do đĩ mà xem thì giữ yên biên giới, vỗ về dân xa quả thật là ở tại người. Bổ nhiệm các chức bá mục nên chọn người thanh liêm. Ngồi cõi hoang phục thì họa phúc lại càng hệ trọng lắm. Nay Giao Châu tuy rằng tạm yên, nhưng cịn bọn giặc lâu nay ở Cao Lương bốn quận Nam Hải, Thương Ngơ, Uất Lâm, Châu Nhai cũng chưa yên, trộm cướp thường tụ họp. Nếu Đại khơng trở lại phương Nam nữa thì Thứ sử mới nên chọn người nào cẩn thận
- chu đáo, cĩ phương lược mưu kế để vỗ về, mới cĩ thể trị yên được. Cịn như hạng người thường, chỉ biết giữ phép thường, khơng cĩ mưu kỳ chước lạ thì lũ ác nghịch ngày thêm nảy nở". Ngơ Vương lại cho Đại làm Trấn Nam tướng quân, phong tước Phiên Ngung hầu (cĩ sách chép là phong Ngụy quận Lăng Lệ Cơng). Mậu Thìn, [284], (Hán Diên Hy năm thứ 11; Ngơ Vĩnh An năm thứ 1). Người Cửu Chân lại đánh hãm thành ấp, châu quận rối động. Ngơ Vương cho Hành Dương đốc quân đơ úy Lục Dận (cĩ sách chép là Lục Thương) làm Thứ sử kiêm hiệu úy. Dận đến nơi, lấy ân đức tín nghĩa hiểu dụ, dân ra hàng phục đến hơn 3 vạn nhà, trong châu lại yên. Sau, người con gái ở quận Cửu Chân là Triệu Ẩu tập họp dân chúng đánh chiếm các quận huyện (Ẩu vú dài 3 thước, vắt ra sau lưng, thường ngồi trên đầu voi đánh nhau với giặc). Dận dẹp yên được. (Sách Giao Chỉ chí chép: Trong núi ở quận Cửu Chân cĩ người con gái họ Triệu, vú dài 3 thước, khơng lấy chồng, họp đảng cướp bĩc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần). Quý Mùi, [263], (Hán Viêm Hưng năm thứ 1, Ngơ Vĩnh An năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 3, lúc trước nhà Ngơ lấy Tơn Tư làm Thái thú Giao Châu, Tư là người tham bạo, làm hại dân chúng. Đến đây vua Ngơ sai Đặng Tuân đến quận. Tuân lại tự tiện bắt dân nộp 30 con cơng đưa về Kiến Nghiệp. Dân sợ phải đi phục dịch đường xa, mới mưu làm loạn. Mùa hạ, tháng 4, quận lại là Lữ Hưng giết Tư và Tuân, xin nhà Tấn đặt Thái thú và cho binh. (Xét sách Cương mục chép là xin nhà Ngụy đặt quan, nhưng đến năm sau. Ngụy nhường ngơi cho Tấn, thì Ngụy cũng tức là Tấn). Các quận Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng. Năm ấy nhà Hán mất. Giáp Thân, [264], (Ngụy Tào Hốn Hàm Hy năm thứ 1, Ngơ Tơn Hạo Nguyên Hưng năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, nhà Ngơ tách Giao Châu, đặt Quảng Châu. Bấy giờ Ngơ đã phụ vào Tấn. Nhà Tấn cho Lữ Hưng làm An Nam tướng quân đơ đốc Giao Châu chư quân sự, cho Nam Trung giáp quân là Hoắc Dặc xa lĩnh Thứ sử Giao Châu, cho được tùy nghi tuyển dụng trưởng lại. Dặc dâng biểu tiến cử Thốn Cốc (cĩ sách chép là Phần Cốc) làm Thái thú, đem thuộc lại là bọn Đổng Nguyên, Vương Tố đem quân sang giúp Hưng, nhưng chưa đến nơi thì Hưng đã bị cơng tào là Lý Thống giết. Cốc cũng chết (cĩ sách chép Cốc ốm chết). Ất Dậu, [265], (Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm, Thái Thủy năm thứ 1, Ngơ Cam Lộ năm thứ 1), Vua Tấn sai Mã Dung người Ba Tây thay Hưng. Dung ốm chết. Dặc lại sai Dương Tắc người Kiện Vi thay Dung làm Thái thú. Mậu Tý, [268], (Tấn Thái Thủy năm thứ 4, Ngơ Bảo Đỉnh năm thứ 3). Nhà Ngơ lấy Lưu Tuấn làm Thứ sử. Tuấn cùng với Đại đơ đốc Tu Tắc3 và Tướng quân Cố Dung trước sau 3 lần đánh Giao Châu. [Dương] Tắc đều chống cự và đánh tan được cả. Các quận Uất Lâm, Cửu Chân đều theo về Tắc. Tắc sai tướng quân là Mao Linh4 và Đổng Nguyên đánh quận Hợp Phố, giao chiến ở Cổ Thành (tức là thành quận Hợp Phố), đánh tan quân Ngơ, giết Lưu Tuấn và Tu Tắc, dư binh tan chạy về Hợp Phố, Dương Tắc nhân đĩ dâng biểu cử Mao Linh làm thái thú Uất Lâm, Đổng Nguyên làm Thái thú Cửu Chân. Kỷ Sửu, [269], (Tấn Thái Thủy năm thứ 5, Ngơ Kiến Hành năm thứ 1). Mùa đơng, tháng 10, nhà Ngơ sai Giám quân Nhu Phiếm, Uy Nam tướng quân Tiết Hủ và Thái thú quận Thương Ngơ người Đan Dương là Đào Hồng theo đường Kinh Châu sang; Giám quân Lý Đỉnh, Đốc quân Từ Tồn theo đường biển Kiến An sang, đều hội ở Hợp Phố để đánh [Dương] Tắc (Lý Đỉnh cĩ sách chép là Lý Húc). Tân Mão, [271], (Tấn Thái Thủy năm thứ 7, Ngơ Kiến Hành năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 4, Ngu Phiếm, Tiết Hủ, Đào Hồng chống nhau với Tắc, đánh nhau ở sơng Phần Đào Hồng thua, lui về giữ Hợp Phố, chết hai tướng. Hủ giận bảo Hồng: "Ngươi tự dâng biểu xin đi đánh giặc mà để chết mất hai tướng thì trách nhiệm ở đâu?" Hồng nĩi: "Hạ quan khơng được làm theo ý mình, quân sĩ khơng hịa thuận, cho nên đến nỗi thua như thế". Hũ chưa nguơi giận, muốn đem quân trở về. Đêm ấy, Hồng đem mấy trăm quân đánh úp Đổng Nguyên, lấy được của báu, chở thuyền đem về. Hủ bèn tạ lỗi, cho Hồng lĩnh chức Tiền bộ đơ đốc Giao Châu. Hồng lại theo đường biển, nhân khi bất ngờ, tiến thẳng đến châu. Nguyên chống cự. Các tướng muốn đánh, Hồng ngờ bên trong chỗ cầu gãy cĩ phục binh, bèn dàn riêng một đội quân giáo dài ở đằng sau. Quân hai bên vừa mới giao chiến, Nguyên giả cách lui, Hồng đuổi theo, phục binh quả nhiên kéo ra. Quân giáo dài quay lại đánh, phá tan bọn Nguyên, giết Nguyên [tại trận], lấy những thuyền chở hàng hĩa báu vật và mấy nghìn tấm thổ cẩm cướp được trước đây đem cho tướng giặc Phù Nghiêm là Lương Tề6. Tề đem hơn vạn người đến giúp Hồng. Bấy giờ Dương Tắc lấy tướng của mình là Vương Tố thay Nguyên. Dũng tướng của Nguyên là Giải Hệ cùng ở trong thành. Hồng sai em [của Hệ] là Tượng viết thư gửi cho Hệ, lại sai Tượng ngồi xe ngựa, đánh trống thổi sáp, dẫn đường cho mình đi theo. Bọn Tố bảo nhau rằng: "Tượng như thế, Hệ tất cĩ ý bỏ bọn ta để đi theo". Bèn giết Hệ. Bọn Hủ và Hồng bèn đánh lấy châu. Nhà Ngơ nhân đĩ dùng Đào Hồng làm Thứ sử. Hồng là người cĩ mưu lược, chu cấp kẻ nghèo khốn, ưa bố thí, được lịng người, ai ai cũng vui lịng giúp việc, đến đâu cũng cĩ cơng trạng. Trước đây vua Tấn cho Dương Tắc làm Thứ sử Giao Châu, Mao Miện1 làm Thái thú, ấn thao chưa gửi đến mà Tắc và Miện đã thua chết rồi. Nhân đĩ vua Tấn truy tặng Tắc, Miện, Tùng, Năng (Tùng, Năng khơng kê cứu được2) tước Quan nội hầu. Cơng tào quận Cửu Chân là Lý Tộ giữ quận mà phụ theo nhà Tấn, Hồng sai tướng đi đánh, khơng được. Cậu của Tộ là Lê Hồn (cĩ sách chép là Lê Minh) theo quân [của Hồng], khuyên Tộ hàng, Tộ
- gay gắt trả lời: "Cậu là tướng nước Ngơ, Tộ là bề tơi nước Tấn, chỉ cĩ thể dùng sức mà đối xử với nhau thơi". Quân của Hồng phải đánh, giờ lâu mới hạ được thành. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Bề tơi giữ đất, nếu ai cũng cĩ lịng như lịng Lý Tộ thì cĩ thể gọi là trung với chúa mình thờ. Vua Ngơ cho Đào Hồng làm Thứ sử trì tiết đơ đốc Giao Châu chư quân sự. Dưới thời các tướng quân châu mục trước kia, các quận Vũ Bình, Cửu Đức, Tân Xương, địa thế hiểm trở, người Di Lão hung tợn, đã mấy đời khơng chịu thần phục, Hồng đi đánh, dẹp yên được, mở thêm đất, đặt 3 quận, và hơn 30 huyện ở các nước phụ thuộc với quận Cửu Chân3. Sau vua Ngơ lấy Hồng làm Đơ đốc Vũ Xương, cho Thái thú Hợp Phố là Tu Nguyên4 thay. Dân địa phương đến hàng nghìn người xin lưu Hồng lại, bởi thế cho Hồng trở về nhiệm sở cũ. Sau vua Ngơ hàng nhà Tấn, tự tay viết thư sai Mã Tức Dung5 khuyên Hồng quy thuận [nhà Tấn]. Hồng khĩc mấy ngày, rồi sai sứ mang ấn thao về Lạc Dương. Vua Tấn xuống chiếu cho phục chức, phong cho Hồng tước Uyển Lăng hầu, lại đổi làm Quán quân tướng quân. Hồng ở châu 30 năm, tỏ ra người cĩ ân cĩ uy, được người địa phương yêu mến. Đến khi chết, cả châu khĩc thương như mất cha mẹ hiền. Vua Tấn lấy Viên ngoại lang tán kỵ thường thị là Ngơ Ngạn làm Đơ đốc thứ sử. Khi Hồng mới mất, các thú binh ở Cửu Chân làm loạn, đuổi Thái thú, người cầm đầu là Triệu Chỉ vây quận trị, Ngạn dẹp yên cả. Ngạn giữ chức 25 năm, ân uy rõ rệt, dân trong châu yên ổn, sau dâng biểu xin cho người thay. Vua Tấn cho Viên ngoại lang tán kỵ thường thị là Cố Bí thay. Bí là người ơn hịa, nhã nhặn, cả châu yêu mến, khơng được bao lâu thì mất. Người trong châu cố ép con của Bí là Tham trơng coi việc châu. Sau Tham chết, em là Thọ trơng coi việc châu, người châu khơng nghe.Thọ cố nài, bèn được coi việc châu. Rồi giết trưởng lại là bọn Hồ Triệu, lại toan giết đốc quân dưới rướng là Lương Thạc. Thạc chạy thốt được, dấy binh đánh, bắt được Thọ. Mẹ Thọ sai lấy thuốc độc giết chết. Thạc bèn chuyên quyền (cĩ sách chép là cả mẹ của Thọ cũng bị giết bằng thuốc độc), nhưng sợ dân tình khơng theo, bèn cho con trai của Hồng là Uy [đang làm] Thái thú Thương Ngơ về lĩnh chức Thứ sử [Giao Châu]. Uy ở chức rất được lịng dân, được 30 năm6 thì chết. Em trai Uy là Thục, con trai [của Uy] là Tuy7 nối nhau làm thứ sử. Từ Cơ đến Tuy bốn đời đều làm Thứ sử. Cơ là ơng nội của Hồng. Mậu Dần, [318], (Đơng Tấn Nguyên Đế Tư Mã Duệ, Đại Hưng năm thứ 1). Mùa đơng, tháng 10, vua Tấn xuống chiếu cho Thứ sử Quảng Châu là Đào Khản làm Đơ đốc Giao Châu chư quân sự. Nhâm Ngọ, [322], (Tấn Vĩnh Xương năm thứ 1). Vương Đơn nhà Tấn lấy Vương Lượng làm Thứ sử, sai đánh Lương Thạc. Thạc đem quân vây Lượng ở Long Biên. Quý Mùi, [323], (Tấn Minh Đế Thiệu, Thái Ninh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, Đào Khản sai quân đi cứu Vương Lượng, chưa đến nơi thì Lương Thạc đã lấy được Long Biên rồi. Thạc đoạt lấy cờ tiết của Lượng, Lượng khơng cho, Thạc bèn chặt tay trái của Lượng, Lượng nĩi: "Chết cịn khơng tránh, chặt cánh tay thì làm gì?". Được hơn 10 ngày thì Lượng chết. Thạc chiếm châu, hung bạo mất lịng dân. Đào Khản sai tham quân là Cao Bảo sang đánh, chém chết Thạc. Vua Tấn cho Khản lĩnh chức Thứ sử Giao Châu, thăng hiệu là Chinh Nam đại tướng quân, được mở phủ riêng nghi thức như tam ti. Khơng bao lâu, Thị lang Lại bộ là Nguyễn Phĩng xin làm Thứ sử, vua Tấn bằng lịng. Phĩng đến Ninh Phố gặp Cao Bảo, mời Bảo đến dự cơm, đặt phục binh muốn giết Bảo. Bảo biết chuyện, liền đem quân đánh Phĩng (Phong là cháu họ của Hàm). Phĩng chạy thốt, đến châu được chốc lát thì khát nước quá mà chết. Quý Sửu, [353], (Tấn Mục Đế San, Vĩnh Hịa năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, Nguyễn Phu nhà Tấn làm Thứ sử Giao Châu. Phu đánh nước Lâm Ấp, phá được hơn 50 lũy. (Trước đây nhà Tấn khi đã bình được nhà Ngơ, trưng binh ở Giao Châu3, Thứ sử Giao Châu là Đào Hồng dâng thư nĩi: "Giao Châu ngồi cách Lâm Ấp chỉ vài nghìn dặm4. Tướng Di [Lâm Ấp] là Phạm Hùng đời đời trốn tránh làm giặc, tự xưng vương, nhiều lần đánh phá trăm họ. Vả lại [nước ấy] liền với nước Phù Nam, rất nhiều chủng người, bè đảng dựa nhau, cậy thế đất hiểm khơng chịu thần phục. Khi trước cịn thuộc nước Ngơ thì nhiều lần cướp bĩc dân lành, phá quận huyện, giết hại trưởng lại. Thần trước kia được nước cũ [Ngơ] dùng, cho đĩng giữ phương Nam hơn 10 năm, tuy đã trừ được những tên đầu sỏ, nhưng ở chốn núi sâu hang cùng vẫn cịn cĩ kẻ trốn tránh. Lúc đầu số quân của thần trơng coi là 8 nghìn. Vì đất Nam ẩm thấp, cĩ nhiều khí độc, liền năm đánh dẹp, ốm chết hao hụt, hiện nay chỉ cịn 2.400 người. Nay bốn biển thống nhất, khơng cịn lo kẻ nào khơng thần phục, đáng lẽ nên cuốn giáp hủy gươm [ ]. Phàm việc phong trần, biến đổi thường xảy ra thình lình. Thần là người sĩt thừa của nước đã mất, lời bàn khơng cĩ gì khả thủ". Tấn Vũ Đế nghe theo, đến nay cịn thấy hiệu nghiệm). Canh Thìn, [380], (Tấn Vũ Đế, Xương Minh, Thái Nguyên năm thứ 5). Mùa đơng, tháng 10, Thái thú Cửu Chân là Lý Tốn chiếm châu làm phản. Tân Tỵ, [381], (Tấn Thái Nguyên năm thứ 6). Thái thú Giao Châu là Đỗ Viện chém được Lý Tốn, trong cõi lại được yên, thăng cho Viện làm thứ sử Giao Châu1. (Viện người Chu Diên nước ta. Sách Giao Chỉ chí chép vào mục nhân vật nước ta, xếp sau Sĩ Nhiếp).
- Kỷ Hợi, [399], (Tấn An Đế Đức Tơng, Long An năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 3, vua nước Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân, rồi vào cướp Giao Châu. Đỗ Viện đánh tan được. Tân Hợi, [411], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Thái thú quận Vĩnh Gia là Lư Tuần chạy sang [Giao Châu]. Trước đĩ, khi Thứ sử Đỗ Viện chết (cĩ sách nĩi Viện vốn người Kinh Triệu, ơng là Nguyên, làm Thái thú Hợp Phố, nhân đĩ Viện mới đến ở Giao Chỉ), vua Tấn cho con là Tuệ Độ thay làm Thứ sử. Chiếu thư chưa đến nơi, Tuần đã đánh phá Hợp Phố, tiến thẳng đến Giao Châu. Tuệ Độ đem các quan văn võ ở châu phủ chống nhau với Tuần ở Thạch Kỳ2, đánh tan được. Quân của Tuần sống sĩt khoảng 2 nghìn người. Dư đảng của Lý Tốn là bọn Lý Thốt kết tụ với dân Lý, Lạo hơn 5 nghìn người để ứng theo Lư Tuần, ngày Canh Tý kéo đến bờ nam Long Biên. Tuệ Độ bỏ hết gia tài để thưởng quân sĩ, cùng Tuần giao chiến, ném đuốc đuơi trĩ đốt thuyền bè của Tuần, cho bộ binh áp bờ sơng bắn xuống. Thuyền của Tuần cháy hết bèn tan vỡ. Tuần biết thế nào cũng chết, bỏ thuốc độc cho vợ con chết trước rồi gọi các nàng hầu con hát hỏi rằng: "Ai cĩ thể theo ta?" Phần nhiều đều trả lời: "Con sẻ, con chuột cịn tham sống, chết theo thì khĩ lắm". Cũng cĩ người nĩi: "Quan cịn phải chết, chúng tơi há lại muốn sống". Tuần bèn giết hết những kẻ khơng chịu chết theo, rồi gieo mình xuống sơng mà chết. Tuệ Độ sai nhặt xác đem chém đầu, cùng với vợ con của Tuần và bọn Thốt, đều lấy đầu đĩng hịm đưa về Kiến Khang. Quý Sửu, [413], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 2, vua nước Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt cướp quận Cửu Chân. Tuệ Độ đánh chém được. Ất Mão, [415], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 11). Mùa đơng, tháng 12, quân Lâm Ấp cướp Giao Châu. Tướng châu đánh bại được. Canh Thân, [420], (Tấn Cung Đế Đức Văn, Nguyên Hy năm thứ 2; Tống Vũ Đế Lưu Dụ, Vĩnh Sơ năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, Tuệ Độ đánh Lâm Ấp, phá được, chém giết đến quá nửa. Lâm Ấp xin hàng, Tuệ Độ cho. Những người trước sau bị [Lâm Ấp] cướp bắt đều được trả về cả. Tuệ Độ ở Giao Châu, mặc áo vải, ăn cơm rau, cấm thờ nhảm, sửa nhà học, năm đĩi kém thì lấy lộc riêng để chẩn cấp, làm việc cẩn thận chu đáo cũng như việc nhà, lại dân sợ mà yêu. Cửa thành đêm vẫn mở, ngồi đường khơng ai nhặt của rơi. Khi Tuệ Độ chết, tặng chức Tả tướng quân, cho con là Hoằng Văn làm Thứ sử. Năm ấy nhà Tấn mất. Đinh Mão, [427], (Tống Văn Đế Nghĩa Long, Nguyên Gia năm thứ 4). Mùa hạ, tháng 4, ngày Canh Tuất, vua Tống gọi Hoằng Văn về làm Đình Úy, cho Vương Huy Chi làm Thứ sử. Bấy giờ Hoằng Văn đang ốm, cố ngồi xe lên đường, cĩ người khuyên chờ khỏi ốm hãy đi. Hoằng Văn nĩi: "Nhà ta ba đời cầm phù tiết, thường muốn đem mình sang chầu sân vua, huống chi nay lại được gọi về". Bèn cứ đi, chết ở Quảng Châu. Tân Mùi, [431], (Tống Nguyên Gia năm thứ 8). Vua nước Lâm Ấp là Phạm Dương Mại cướp phá quận Cửu Chân, bị quân châu đánh lui. Nhâm Thân, [432], (Tống Nguyên Gia năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 5, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai sứ sang cống nước Tống, xin lĩnh Giao Châu. Vua Tống xuống chiếu trả lời vì đường xa khơng cho. Lê Văn Hưu nĩi: [Dù khỏe như] Bơn và Dục mà lúc cịn thơ ấu cũng khơng thể chống nổi người què, người thọt đã tráng niên. Nước Lâm Ấp thừa lúc nước Việt ta khơng cĩ vua, đến cướp Nhật Nam và Cửu Chân rồi xin quản lĩnh cả [Giao Châu], cĩ phải bấy giờ nước Việt ta khơng thể chống nổi nước Lâm Ấp ấy đâu! Chỉ vì khơng cĩ người thống suất mà thơi ! Thời khơng bĩ mãi, tất cĩ lúc thái. Thế khơng khuất mãi, tất cĩ lúc duỗi. Lý Thái Tơng chém đầu vua nước ấy là Sạ Đẩu, Lý Thánh Tơng bắt vua nước ấy là Chế Củ, bắt làm tù dân nước ấy 5 vạn người, đến nay vẫn cịn phải chịu làm tơi tớ, cũng đủ để rửa được mối hận thù hổ thẹn của mấy năm ơ nhục này. Bính Tý, [436], (Tống Nguyên Gia thứ 13)1. Mùa xuân, tháng 2, vua Tống sai Thứ sử Giao Châu là Đàn Hịa Chi đánh Lâm Ấp. Trước kia, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại tuy sai sứ sang cống, nhưng vẫn khơng thơi việc cướp bĩc, cho nên vua Tống sai Hịa Chi đi đánh. Bấy giờ người quận Nam Dương là Tơng Xác, nếp nhà đời đời Nho học, riêng Xác thích việc võ, thường nĩi: "Muốn cưỡi giĩ lớn mà phá sĩng muơn dặm". Đến khi Hịa Chi đi đánh Lâm Ấp, Xác hăng hái xin đi theo quân. Vua Tống cho Xác làm Chấn vũ tướng quân. Hịa Chi sai Xác làm tiên phong. Dương Mại nghe tin quân Tống sang, sai sứ dâng biểu xin trả lại những người dân Nhật Nam bị bắt và nộp một vạn cân vàng, mười vạn cân bạc. Vua Tống xuống chiếu bảo Hịa Chi: "Nếu Dương Mại thực cĩ lịng thành, cũng cho quy thuận". Hịa Chi đến đĩng ở đồn Chu Ngơ (huyện Chu Ngơ từ thời Hán đến giờ thuộc quận Nhật Nam, bấy giờ đặt đồn thú ở đấy), sai Hộ tào tham quân của phủ là bọn Khương Trọng Cơ (phủ là phủ thứ sử Giao Châu) đi trước đến gặp Dương Mại, bị Dương Mại bắt giữ. Hịa Chi giận, tiến vây tướng của Lâm Ấp là Phạm Phù Long ở thành Khu Túc2. Dương Mại sai tướng là Phạm Cơn Sa Đạt đến cứu. Xác lén đem quân đĩn đánh [Phạm] Con Sa Đạt, phá tan được. Tháng 5, bọn Hịa Chi hạ thành Khu Túc, chém Phù Long, thừa thắng tiến vào Tượng Phố3. Dương Mại dốc sức cả nước ra đánh, lấy các vật che bọc mình voi, trước sau khơng hở. Xác
- nĩi: "Ta nghe nước ngồi cĩ giống sư tử, oai phục được trăm lồi thú". Bèn làm hình sư tử để chống lại voi, voi quả nhiên sợ chạy. Quân Lâm Ấp thua to. Hịa Chi thắng được Lâm Ấp, Dương Mại cùng với con đều chỉ chạy thốt thân, thu được đồ châu báu lạ khơng biết bao nhiêu mà kể. Riêng Tơng Xác khơng lấy một thứ gì, ngày về nhà cũng chỉ cĩ khăn áo xác xơ. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Cĩ tài hữu dụng thì khơng thể khơng đem ra thi thố, há câu nệ vì thĩi đời hay sao? Người ta lập chí mỗi người một khác. Người cĩ chí về đạo đức thì cơng danh khơng thể động được lịng, người cĩ chí về cơng danh thì phú quý khơng thể động được lịng. Chí của Tơng Xác cĩ lẽ ở cơng danh chăng ? Ngày trở về nhà, tài vật khơng lấy một thứ gì, đĩ thực sự là phú quý khơng thể động được lịng. So với người cĩ chí về đạo đức, cố nhiên khơng thể kịp, nhưng so với người cĩ chí về phú quý thì hạng ấy cịn kém xa. Đinh Sửu, [437], (Tống Nguyên Gia năm thứ 14). Mùa đơng, tháng 10, ngày Nhâm Ngọ, Đàn Hịa Chi bỏ quan về. Mậu Thân, [468], (Tống Minh Đế Úc5, Thái Thủy năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 3, Thứ sử Lưu Mục ốm chết. Người châu là Lý Trường Nhân giết những bộ thuộc của châu mục đem từ Trung Quốc sang rồi chiếm giữ châu làm phản, tự xưng là Thứ sử. Mùa thu, tháng 8, vua Tống lấy Nam Khang tướng là Lưu Bột làm Thứ sử Giao Châu. Bột đến, bị Trường Nhân chống cự, khơng bao lâu thì chết. Tháng 11, Lý Trường Nhân sai sứ xin hàng và tự hạ xuống chức Hành Châu sự1. Vua Tống y cho. Kỷ Mùi, [479], (Tống Thuận Đế Chuẩn, Thăng Minh năm thứ 3; Tề Cao Đế Tiêu Đạo Thành, Kiến Nguyên năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, ngày mồng 1, cĩ nhật thực. Mùa thu, tháng 7, vua Tề lấy Lý Thúc Hiến làm Thứ sử Giao Châu. Thúc Hiến là em con chú con bác của Trường Nhân. Trước đĩ khi Thứ sử Trường Nhân chết, Thúc Hiến thay lĩnh việc châu, vì thấy hiệu lệnh chưa được thi hành cho nên sai sứ sang xin nhà Tống cho giữ chức Thứ sử. Nhà Tống lấy Thái thú Nam Hải là Thẩm Hốn làm Thứ sử Giao Châu, cho Thúc Hiến làm Ninh Viễn quân tư mã, giữ chức Thái thú hai quận Vũ Bình và Tân Xương2. Thúc Hiến đã được mệnh lệnh của triều đình [nhà Tống], lịng người phục theo, bèn đem quân giữ nơi hiểm, khơng chịu thu nạp Thẩm Hốn. Hốn lưu lại ở Uất Lâm, rồi chết. Vua Tề bèn cho Thúc Hiến làm Thứ sử, vỗ yên đất phương Nam. Năm ấy nhà Tống mất. Giáp Tý, [484], (Tề Vũ Đế Di, Vĩnh Minh năm thứ 2). Lý Thúc Hiến nhận mệnh xong liền cắt đứt việc cống hiến. Vua Tề muốn đánh. Ất Sửu, [485], (Tề Vĩnh Minh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính Thìn, vua Tề lấy Đại tư nơng Lưu Khải làm Thứ sử, phát binh các quận Nam Khang, Lư Lăng, Thủy Hưng đi đánh Lý Thúc Hiến. Thúc Hiến sai sứ xin bãi binh, dâng 20 cỗ mũ đâu mâu tồn bằng bạc cùng dải tua bằng lơng cơng. Vua Tề khơng cho. Thúc Hiến sợ bị Khải đánh úp, mới đi đường tắt từ Tương Châu sang chầu vua Tề, Khải bèn vào trấn. Canh Ngọ, [490], (Tề Vĩnh Minh năm thứ 8). Mùa đơng, tháng 10, Thứ sử là Phịng Pháp Thặng (thay Lưu Khải) chỉ thích đọc sách, thường cáo ốm khơng làm việc, vì thế trưởng lại3 là Phục Đăng Chi được chuyên quyền thay đổi các tướng lại mà khơng cho Pháp Thặng biết. Lục sự là Phịng Tú Văn mách với Pháp Thặng. Pháp Thặng cả giận, giam Đăng Chi vào ngục hơn 10 ngày. Đăng Chi hối lộ nhiều cho Thơi Cảnh Thúc, là chồng của em gái Pháp Thặng, nên được thả ra, rồi đem bộ khúc đánh úp châu trị, bắt Pháp Thặng, bảo Thặng rằng: "Sứ quân đã cĩ bệnh, thì khơng nên khĩ nhọc", rồi giam ở một nhà riêng. Pháp Thặng khơng cĩ việc gì, lại gặp Đăng Chi xin đọc sách. Đăng Chi nĩi: "Sứ quân ở yên cịn sợ phát bệnh, há lại cịn xem sách?", bèn khơng cho, rồi tâu [với vua Tề] là Pháp Thặng bị bệnh động tim, khơng thể coi việc được. Tháng 11, ngày Ất Mão, vua Tề cho Đăng Chi làm Thứ sử. Pháp Thặng về đến Ngũ Lĩnh thì chết. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nĩi: Phịng Pháp Thặng ham đọc sách mà bỏ việc quan đến nỗi kẻ trưởng lại nhân đĩ chuyên quyên, thay đổi tướng lại, đĩ là cái lỗi nghiện sách quá. Cịn như giam [Đặng Chi] vào ngục mà trừng trị, thế là biết sửa lỗi rồi. Đến như nghe lời thỉnh thác [của em rể] mà bỏ qua khơng hỏi đến nữa, thì lỗi ấy to lắm, bị [Đặng Chi] đánh úp lại là đáng, khơng chết là may. Cho nên phàm việc gì quá mức trung thì chưa từng khơng tai hại vậy. Nhâm Ngọ, [502], (Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, Thiên Giám năm thứ 1). Năm ấy nhà Tề mất. Ất Dậu, [505], (Lương Thiên Giám năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, Thứ sử Giao Châu là Lý Nguyên Khải chiếm châu làm phản, Trưởng sử là Lý Tắc dẹp được (trước Nguyên Khải thay Đăng Chi làm Thứ sử, cho là nhà Lương được nhà Tề nhường ngơi, chưa cĩ ân uy gì, nhân đĩ giữ châu làm phản. Đến đây Tắc đem tơng binh đánh Nguyên Khải, giết được). Bính Thân, [516], (Lương Thiên Giám năm thứ 15). Mùa đơng, tháng 11, [vua Lương] xuống chiếu cho Lý Tắc làm Thứ sử, Tắc lại chém Lý Tơng Lão là dư đảng của Nguyên Khải, lấy đầu chuyển về Kiến Khang, châu lại yên.
- Trở lên thuộc Ngơ, Tấn, Tống, Tề, Lương, từ năm Đinh Mùi đến năm Canh Thân, cộng 314 năm [227 - 540].
- NHÀ TIỀN LÝ (544-602) Dẹp yên cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh, nhà Ngơ lấy đất Nam Hải , Thượng Ngơ và Uất Lâm làm Quảng Châu, đặt Châu trị ở Phiên Ngung, lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam làm Giao Châu, đặt Châu trị ở Long Biên (Bắc Ninh). Đất Nam Việt của nhà Triệu ngày trước thành ra Giao Châu và Quảng Châu từ đĩ. Năm Ất Dậu (265), nhà Tấn đánh bại Ngụy, Thục , Ngơ, đất Giao Châu lại thuộc về nhà Tấn. Nhà Tấn phong cho họ hàng ra trấn trị các nơi, nhưng các thân vương cứ dấy binh đánh giết lẫn nhau, làm cho anh em cốt nhục tương tàn, nước Tấn nhanh chĩng suy yếu. Nhân cơ hội ấy, các nước Triệu, nước Tần, nước Yên, nước Lương, nước Hạ, nước Hán v.v nổi lên chiếm lấy cả vùng phía Bắc sơng Trường Giang, nhà Tấn chỉ c̣n vùng đất ở Đơng Nam, phải dời đơ về Kiến Nghiệp (Nam Kinh ngày nay) gọi là nhà Đơng Tấn. Năm Canh Thân (420), Lý Du cướp ngơi nhà Đơng Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam. Nước Trung Quốc phân ra làm Bắc Triều và Nam Triều. Bắc Triều cĩ nhà Ngụy, nhà Tề, nhà Chu, nối nhau làm vua. Nam Triều cĩ nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần kế nghiệp trị vì. Năm Kỷ Mùi (479) nhà Tống mất ngơi, nhà Tề kế nghiệp, trị vì được 22 năm th́ nhà Lương lại cướp ngơi nhà Tề. Nhà Lương sai Tiêu Tư sang làm thứ sử Giao Châu. Cũng như các triều đại phong kiến Trung Quốc thuở trước, các viên quan lại nhà Lương sang cai trị Giao Châu đă áp dụng những biện pháp khắt khe, độc ác khiến dân Giao Châu cực khổ trăm bề, mọi người đều ốn giận. Bởi vậy, năm 542, Lý Bơn đă lănh đạo dân Giao Châu nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm giữ thành Long Biên, lập nên nhà nước độc lập đầu tiên. Lý Bơn c̣n gọi là Lý Bí quê ở Long Hưng Thái Bnh,́ xuất thân từ một hào trưởng địa phương. Tổ tiên Lý Bí là người Trung Quốc, lánh nạn sang nước ta từ cuối thời Tây Hán, khoảng đầu cơng nguyên. Trải qua 7 đời, đến Lý Bí th́ dịng họ Lý đă ở Việt Nam hơn 5 thế kỷ. Chính sử Trung Quốc đều coi Lý Bí là "Giao Châu thổ nhân". Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quư Mùi (17-10-503). Ơng là con độc nhất trong gia đ́nh. Bố là Lý Toản, trưởng bộ lạc, mẹ là Lê Thị Oánh người Ái Châu (Thanh Hố). Từ nhỏ Lý Bí đă tỏ ra là cậu bé thơng minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi th́ cha mất; 7 tuổi mẹ qua đời. Cậu bé bất hạnh phải đến ở với chú ruột. Một hơm cĩ vị Pháp tổ thiền sư đi qua, trơng thấy Lý Bí khơi ngơi, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về chùa Linh Bảo nuơi dạy. Quả hơn 10 năm đèn sách chuyên cần, lại được vị thiền sư gia cơng chỉ bảo, Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh kịp. Nhờ cĩ tài văn vơ kiêm tồn, Lý Bí được tơn lên làm thủ lĩnh địa phương. Cĩ thời kỳ Lý Bí ra làm quan cho nhà Lương, nhận chức giám quân (kiểm sốt quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu (Đức Thọ, Hà Tĩnh). Nhưng do bất b́nh với bọn đơ hộ tàn ác, Lý Bí bỏ quan, về quê, chiêu binh măi mă chống lại chính quyền đơ hộ. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Hưng) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, mến tài đức Lý Bí đă đem quân nhập với đạo quân của ơng. Rồi Tinh Thiều, Phạm Tu và hào kiệt các nơi cũng nổi dậy hưởng ứng. Tháng Giêng năm Nhâm Tuất (542), Lý Bí khởi binh tấn cơng giặc. Khơng đương nổi sức mạnh của đồn quân khởi nghĩa, thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ khơng dám chống cự, vội mang của cải, vàng bạc đút lĩt cho Lý Bí xin được tồn tính mạng, chạy về Trung Quốc. Khơng đầy 3 tháng, Lý Bí đă chiếm được hầu hết các quận, huyện và thành Long Biên. Được tin Long Biên thất thủ, vua Lương lập tức hạ lệnh cho quân phản cơng chiếm lại. Bọn xâm lược vừa kéo sang đă bị Lý Bí cho quân mai phục đánh tan. Đầu năm Quí Dậu (543), vua Lương lại huy động binh mă xâm lược một lần nữa. Tướng sĩ giặc khiếp sợ c̣n dùng dằng chưa dám tiến quân, th́ Lý Bí đă chủ động ra quân, đĩn đánh giặc ở bán đảo Hợp Phố, miền cực Bắc Châu Giao. Quân Lương mười phần chết bảy, tám. Tướng địch bị giết gần hết, kẻ sống sĩt cũng bị vua Lương bắt phải tự tử. Tháng Hai năm Giáp Tư (544) Lý Bí tự xung hồng đế lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân (ước muốn xă tắc truyền đến muơn đời), đặt kinh đơ ở miền cửa sơng Tơ Lịch (Hà Nội) và cho dựng điện Vạn Thọ làm nơi vua quan họp bàn việc nước. Triều đinh gồm cĩ hai ban văn vơ. Phạm Tu được cử đứng đầu hàng quan vơ, Tinh Thiều đứng đầu quan văn, Triệu Túc làm thái phĩ, Triệu Quang Phục là tướng trẻ cĩ tài cũng được trọng dụng. Lý Nam Đế xây dựng một ngơi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ) lấy tên là chùa Khai Quốc, sau này trở thành một trung tâm phật giáo và phật học lớn của nước ta. Chùa Khai Quốc là tiền thân của chùa Trấn Quốc, trên đảo Cá Vàng (Kim = = = = = = = = = =
- == === == == === == === == == === Ngư) ở Hồ Tây Hà Nội. Việc Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, tự xưng là hồng đế, định niên hiệu, lập một triều đ́nh riêng ngang hàng với nước lớn phương Bắc là sự khẵng định chủ quyền độc lập dân tộc, sự bền vững muơn đời của đất trời phương Nam. Triều Lý khởi nghiệp từ đây. Đầu năm Ất Sửu (545), nhà Lương sau khi đàn áp những cuộc nổi dậy của nơng dân Trung Quốc đă dồn sức mở cuộc tấn cơng xâm lược nước Vạn Xuân non trẻ nhằm chiếm lại Châu Giao. Dương Phiêu được cử làm thứ sử Châu Giao cùng với Trần Bá Tiên, một viên tướng khát máu, chia hai đường thuỷ bộ cùng phối hợp vào nước ta. Lý Nam Đế đem quân chặn đánh ở vùng Lục Đầu (thuộc Hải Hưng) nhưng khơng cản được giặc. Vua cho quân lui về giữ thành ở sơng Tơ Lịch (Hà Nội). Song thành bằng đất, lũy bằng tre gỗ mới dựng nên khơng giữ được lâu. Quân địch hung hăn tấn cơng ác liệt. Thành Tơ Lịch bị vỡ, lăo tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế phải lui quân, ngược sơng Hồng về giữ thành Gia Ninh (ở miền đồi núi Việt Tŕ). Quân Lương đuổi theo, vây hăm rồi chiếm được thành Gia Ninh. Lý Nam Đế đem quân chạy vào miền núi Vĩnh Phú. Được nhân dân các dân tộc ủng hộ, chỉ vài tháng sau, Lý Nam Đế đă khơi phục được lực lượng, quân lên tới vài vạn người. Lý Nam Đế đem quân và thuyền bè ra đĩng ở hồ Điển Triệt (thuộc xă Tứ Yên, Lập Thành, Vĩnh Phú). Nơi đây cĩ con ng̣i thơng sơng Lơ với hồ, ba mặt Đơng, Nam, Bắc của hồ là các đồi cao, phía Tây là những đồi thấp và cánh đồng trũng. Từ sơng Lơ chỉ cĩ một đường phía Bắc của hồ. Quân Lương từ Gia Ninh ngược dịng sơng Lơ kéo lên tấn cơng. Bị quân của Lý Nam Đế đánh trả quyết liệt khơng tiến lên được, chúng phải đĩng giữa đồng trống. Lúc này, quân lính nhà Lương đă mỏi mệt, tướng lĩnh chán nản, nhưng Trần Bá Tiên vốn xảo quyệt, nhân một đêm mưa to giĩ lớn đă thúc quân tràn vào đánh úp quân của Lý Nam Đế. Lý Nam Đế phải lui vào động Khuất Lăo (Tam Nơng, Vĩnh Phú). Anh vua là Lý Thiên Bảo cùng Lý Phật Tử (một người trong họ) và là tướng của Lý Nam Đế đem một cánh quân lui vào Thanh Hĩa. Ở động Khuất Lăo, Lý Nam Đế bị đau yếu luơn nên ơng trao binh quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương. Hai năm sau, Lý Nam Đế mất vào ngày 20 tháng 3 năm Mậu Th́n (13-4-548). Tưởng nhớ Lý Nam Đế, người anh hùng dân tộc mở đầu nền độc lập, tự chủ của đất nước, nhân dân nhiều nơi lập đền thờ ơng theo nghi lễ thờ vua. Tính riêng ở miền Bắc cĩ hơn 200 đền, miếu thờ vua Lý Bí và các tướng của ơng.
- TRIỆU VIỆT VƯƠNG (549-571) Khi được Lý Nam Đế trao cho tồn bộ binh quyền, Triệu Quang Phục người huyện Chu Diên (Hải Hưng) thấy rơ lúc đĩ giặc cịn mạnh, khơng thể đánh thắng ngay được nên đưa hơn 1 vạn quân từ miền núi về đồng bằng tḿ cách đánh giặc. Vốn thơng thuộc miền sơng nước Chu Diên, ơng đưa quân về Dạ Trạch (Băi Màn Tr,̣ Hải Hưng), một vùng đồng lầy bằng rộng mênh mơng, lau sậy um tùm, ở giữa cĩ một băi đất cao khơ ráo cĩ thể ở được. Đường vào băi rất khĩ khăn, chỉ cĩ thể dùng thuyền độc mộc, chống sào lướt nhẹ trên đám cỏ nước, theo mấy con lạch nhỏ mới tới được đại bản doanh của nghĩa quân. Ngay khi đem quân về Dạ Trạch, Triệu Quang Phục đă nghĩ đến việc tự túc lương thực để kháng chiến lâu dài. Ơng chia quân ra làm nhiều tốn: tốn chặt cây làm trại, tốn chuyên đục đẽo thuyền độc mộc, tốn chuyên bắt cá, tốn đi săn chim, vịt trời để nuơi quân. Lương thực thiếu,Triệu Quang Phục cùng nghĩa quân ăn củ súng, khoai dại, để dành thĩc gieo mạ. Khi doanh trại đă căn bản xây dựng xong cũng là lúc tướng giặc Trần Bá Tiên đánh hơi được, đem quân trùng trùng điệp điệp đến bủa vây. Nhìn đầm rộng chỉ cĩ lau sậy, tướng giặc đắc ư nĩi với tả hữu: - Số phận Dạ Trạch đă được định liệu. Một vạn miệng ăn chen chúc trong đầm tất sẽ chết vì đĩi. Ta chỉ cần vây chặt mà khơng cần đánh. Trần Bá Tiên chia quân lập một hệ thống đồn binh vây bọc kín khu đầm, cắt đứt liên lạc, tiếp tế giữa nghĩa quân với dân chúng. Hắn khơng thể ngờ được, bên trong ṿng vây,Triệu Quang Phục một mặt cho quân do thám theo sát hành tung giặc, mặt khác cho đắp bờ, khoanh băi, tơn nền ruộng, gieo mạ để làm vụ chiêm. Hơn thế, vị tướng tài cịn nhằm trước khu đất cao ở gần sơng Cái để sửa soạn làm vụ sau. Tất cả những cơng việc này đều được tiến hành trong điều kiện thiếu thố nơng cụ và sức kéo. VÌ vậy, trong ngày hội xuống đồng, để làm gương cho binh sĩ, Triệu Quang Phục lúc cầm cày, khi cùng nghĩa quân thi nhau dùng đ̣n kéo thay trâu, khơng phân biệt trên dưới, tạo nên khơng khí phấn khởi trong sản xuất. Vì vậy, sau những ngày thiếu thốn, nghĩa quân chẳng những cĩ đủ lương ăn mà cịn cĩ thĩc để dành, đủ sức quần nhau với giặc lâu dài. Theo lệnh Quang Phục: "Lúa quý như mệnh người", nghĩa quân vừa đánh giặc vừa thay nhau tiếp tục sản xuất. Bao vây lâu ngày khơng thấy nghĩa quân chết đĩi, ngược lại, các đồn giặc liên tiếp bị đánh, lương thực bị cướp nên chính giặc lại lâm vào tnh́ trạng thiếu thĩc gạo trầm trọng. Giặc càng khĩ khăn, đêm đêm nghĩa quân đánh càng mạnh. Sau khi Lý Nam Đế mất Triệu Quang Phục xưng hiệu là Triệu Việt Vương. Dân gian gọi ơng là Dạ Trạch Vương. Đến năm Canh Ngọ (550), nhân nhà Lương cĩ loạn to, thế giặc suy yếu, Triệu Việt Vương từ căn cứ Dạ Trạch , biết rơ gan ruột giặc, xuất tồn quân giao chiến, giết được tướng giặc là Dương Sàn, thu lại Kinh đơ, khơi phục lại nền độc lập cho đất nước. Như trên đă nĩi, khi Lý Nam Đế thất thế chạy về Khuất Lăo thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng người anh trong họ là Lý Phật Tử đem quân chạy về Cửu Chân. Bị quân Lương truy đuổi, Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử phải chạy sang Lào, đến đĩng ở động Dă Năng, xưng là Đào Lang Vương. Năm Ất Hợi (55) là năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương, Lý Thiên Bảo mất, khơng cĩ con, binh quyền về tay Lý Phật Tử. Đến năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để giành ngơi nhà Lư. Nhưng đánh khơng thắng, Phật Tử xin chia đất giảng hồ. Triệu Việt Vương nghĩ tnh́ họ Lư, cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử. Phật Tử đĩng ở Ơ Diên (làng Đại Mỗ, Từ Liêm) Triệu Việt Vương đĩng ở Long Biên, lấy băi Quần Thần (làng Thượng Cát, Từ Liêm) làm giới hạn. Triệu Việt Vương cịn gả con gái là Cải Nương cho Nhă Lang con Phật Tử để tỏ tnh́ hồ hiếu. Nhưng Phật Tử vẫn cĩ ư muốn thơn tính. Bởi vậy, Phật Tử khẩn trương chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội hành động. Năm Tân Măo (571), Phật Tử phản trắc, bất ngờ đem quân đánh Triệu Việt Vương. Vì khơng phịng bị Triệu Việt Vương thua chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng đường gieo mình xuống biển tự vẫn. Dân đă lập miếu thờ tại nơi ơng mất. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), vua Trần Nhân Tơng sách phong là Minh Đạo Hồng Đế. Năm Trùng Thơng thứ 4, vua ban thêm hai chữ "Khai cơ". Năm Long Hưng thứ 21 (1313) đời Trần Anh Tơng, vua ban thêm bốn chữ: "Thánh Liệt Thần Vũ". .