Lịch sử việc tổ chức dạy học tích cực hóa người học trên thế giới và ở Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Lịch sử việc tổ chức dạy học tích cực hóa người học trên thế giới và ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
lich_su_viec_to_chuc_day_hoc_tich_cuc_hoa_nguoi_hoc_tren_the.pdf
Nội dung text: Lịch sử việc tổ chức dạy học tích cực hóa người học trên thế giới và ở Việt Nam
- LỊCH SỬ VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC TÍCH CỰC HÓA NGƯỜI HỌC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM (History of organizing teaching in a positive direction of the learners all over the world and in Vietnam) Tác giả: Phan Thị Hằng GVHD: TS Võ Văn Nam Tóm tắt Bài viết này nghiên cứu quá trình tổ chức dạy học theo hướng tích cực hóa người học ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Từ thời cổ đại, các nhà giáo dục đã đưa ra những tư tưởng giáo dục rất sáng tạo và tiến bộ, nó đã được tiếp tục kế thừa, cải tiến và vận dụng cho đến ngày nay, nó trở thành xu hướng chung của nền giáo dục hiện đại ở hầu hết các nước phát triển trên thế giới và ở Việt Nam. Abstract: This article studies the process of learning organization in a positive way to promote the learners of the countries in the world and in Vietnam through the historical period. From ancient time, the educators have been creating the educational ideology that are very creative and progressive, it has been inherited continously, improved and applied until today, it has been becoming the general trend of the modern education in most of developing countries all over the world and in Vietnam. Từ khóa: Chủ động, tích cực, độc lập, sáng tạo. Keywords: Active, positive, independent, creative 1/ Đặt vấn đề Thời đại ngày nay là thời đại của khoa học và công nghệ, tất cả các quốc gia trên thế giới đang tập trung đầu tư phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để tạo ra con người phát triển hoàn thiện về các mặt như: Đức, trí, thể, mĩ, lao đông , tất cả đều phụ thuộc hoàn toàn vào tính chất của nền giáo dục. Giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu của mỗi quốc gia. Xu thế của nền giáo dục hiện đại là tăng
- cường tính tích cực hóa hoạt động của người học và khả năng vận dụng vào thực tế, hướng đến mục tiêu của UNESSCO: “Học để biết, học để làm, học để làm người và học để cùng nhau chung sống”. Quan điểm tổ chức dạy học theo hướng tích cực hóa người học đã được các nhà giáo dục từ thời cổ đại đưa ra và áp dụng rất thành công. Hiện nay, nền giáo dục hiện đại của thế kỷ XXI vẫn tiếp tục kế thừa và vận dụng quan điểm này trong quá trình dạy học để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho thời đại mới. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử vấn đề tổ chức dạy học theo hướng tích cực hóa người học ở trên thế giới và ở Việt Nam nhằm mục đích tìm hiểu quá trình tổ dạy học của các nước trên thế giới và quá trình dạy học đó được áp dụng vào Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, để nhận thấy xu thế chung của nền giáo dục ở các nước phát triển, từ đó tìm ra chiến lược giáo dục của nước nhà trong giai đoạn tiếp theo sao cho phù hợp với thời đại mới. 2/ Theo dòng lịch sử về việc tổ chức dạy học tích cực hóa người học ở trên thế giới và Việt Nam Tổ chức dạy học theo hướng tích cực hóa người học là việc sử dụng tất cả các hình thức, phương pháp, phương tiện, kỹ thuật nhằm phát huy tính tích cực hoạt động của người học trong quá trình dạy học. Đối với vấn đề này, nhiều nhà giáo dục trong và ngoài nước từ cổ chí kim rất quan tâm. 2.1/ Trên thế giới Từ thời cổ đại, Khổng Tử (551 – 479 TCN) là nhà triết học Phương Đông bàn về vấn đề tìm tòi, suy nghĩ của người học, Ông là nhà giáo dục Trung Quốc cổ đại, phương pháp giáo dục của ông không những có giá trị cho xã hội Trung Hoa mà còn ảnh hưởng lớn đến các nước lân cận. Phương châm nổi tiếng của ông là: “Cử nhất ngung, bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục giả” (Vật có bốn góc, ta giở cho một góc mà không biết tự giở ba góc còn lại, là người không thể giáo dục được) – Luận ngữ, hoặc “Bất phẫn, bất khải, bất phỉ, bất phát” (ai không tức giận vì sự hiểu biết kém cỏi của mình thì ta không gợi ý cho, ai không nỗ lực bộc bạch, giải bày, thì ta không giúp cho phát biểu được) [6,tr. 41].
- Socrates (469 – 390 TTL), là triết gia lớn, cũng là nhà giáo dục đáng kính của Hy Lạp. Ông đã đề ra phương pháp dạy học đối thoại giữa hai hoặc nhiều người để tìm ra sự thật: “Ông đặt câu hỏi để môn đệ, thính giả trả lời. Sau đó, ông nhận định về các câu trả lời này, vạch ra điều nay, điều dở”. [9,tr. 35] M. Montaigne (1533-1592), nhà quý tộc Pháp nhân văn, chuyên nghiên cứu về phương pháp giáo dục qua hành động. Ông liện tục bắt học trò hành động để học, học qua hành động. Dạy học không phải là giảng dạy một cách giáo điều mà chủ yếu là người học phải biết vận dụng khả năng phán xét của mình. Ông cho rằng: “Giáo dục là một sự tiếp nhận tích cực sáng tạo và hòa nhập qua thời gian, nhất là đối với trẻ em mà không phải là một sự ép buộc, cưỡng chế”.[9,tr. 133] Tiếp theo là J. Komensky (1592 – 1670) là một nhà tư tưởng Slovakia. Ông đã đưa ra bí quyết về phương pháp giáo dục là rèn luyện cho người học một tâm hồn tích cực, tự do, chủ yếu dạy cho người học qua việc làm, chứ không qua lời giảng. Thế kỷ XVII, một thiên tài lý luận của Pháp ở thời kỳ khai sáng đó là J.J. Rousseu (1712-1778). Ông là cha đẻ của học thuyết “Lấy người học làm trung tâm” (Paedocentrism). Ông coi trọng sự phát triển tự nhiên, coi trọng tự giáo dục của trẻ, phản đối sự chèn ép cá tính trẻ. Ông cho rằng, đừng dạy trẻ em khoa học mà để nó tự tìm tòi ra khoa học. Người giáo viên phải khêu gợi tinh thần yêu chuộng khoa học và cung cấp cho các em phương pháp học khoa học, khi nào tinh thần yêu chuộng khoa học ở học sinh phát triển hơn thì đó là nền tảng của nền giáo dục tốt. Năm 1762, với chủ trương tôn trọng quyền tự do và tự quyết của người học “Đừng bắt đứa trẻ làm điều gì mà nó không thích”, J.J. Rousseu đã cho sản xuất hai tác phẩm nổi tiếng: “ Khế ước xã hội” và “Bàn về giáo dục”, những tác phẩm này chứa đựng rất nhiều quan điểm giáo dục tiến bộ như: Giáo dục phù hợp với tự nhiên nghĩa là hoạt động giáo dục phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, dựa vào sự phát triển tự nhiên của trẻ. Ông chủ trương phát triển giáo dục tự do, nghĩa là để cho trẻ em tự do phát huy tính tích cực sáng tạo của mình, phải cho trẻ em tích cực tự giành lấy tri thức bằng con đường khám phá tìm
- tòi ra nó. Distervec – Nhà giáo dục Đức, cũng đã nêu lên rằng: “ Người giáo viên tồi là người cung cấp cho học sinh chân lý, còn người giáo viên giỏi là người dẫn dắt cho học sinh đi tìm chân lý”. Johann Heinrich Pestalozzi (1746 – 1872) với quan điểm dạy học “lấy người học làm trung tâm”. Ông cho rằng: “ Vai trò của người Thầy là giảng giải, hướng dẫn, thúc đẩy các sinh hoạt, các bài thực hành, kiểm soát bài vở, theo dõi tiến bộ, để từ đó tìm hiểu khả năng học tập, tìm hiểu những khó khăn, tìm hiểu bản chất của mỗi học sinh và cuối cùng quyết định phương pháp giảng dạy, quyết định về việc thay đổi chương trình giảng dạy ”[9,tr. 188] Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một số cơ sở giáo dục đã được thành lập để thực hiện quan điểm giáo dục tích cực. Năm 1896, John Dewey (1859 – 1952), là nhà sư phạm nổi tiếng của Mỹ, ông đã thành lập “nhà trường tích cực” đầu tiên để phát triển cách tự học nhóm của học sinh. Đó là trường Thực nghiệm tại Đại học Chicago University of Chicago Laboratory School. Kerschensteiner đã cố gắng thực hiện những nguyên tắc của nhà trường tích cực vào việc cải cách các trường Trung học và Tiểu học. Ông chỉ ra rằng, những hoạt động chung không chỉ khơi dậy tinh thần trách nhiệm cá nhân trong lương tâm của mỗi người, mà còn loại bỏ tất cả những hành động gây ra bởi động cơ có tính chất ích kỷ, đồng thời hình thành cho học sinh thói quen tốt là tinh thần xã hội. Phương châm nổi tiếng của ông là: “Học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục”. Bên cạnh đó, Goerg Kerschensteiner cho rằng nếu sử dụng không đúng, đôi khi hình thức học tập nhóm có thể dẫn đến một hình thức đặc thù của sự ích kỷ, đó là “ích kỷ cộng đồng”. Sau một thời gian làm việc chung, nhóm đã trở thành một cá thể và lại vì quyền lợi, vì ganh đua, cá thể đó trở thành ích kỷ. Ở Pháp, năm 1920 đã thành lập những nhà trường mới, chú trọng đến vấn đề phát triển năng lực và trí tuệ của trẻ, khuyến khích các hoạt động tự quản của học sinh. Các thông tư chỉ thị của Bộ giáo dục Pháp trong suốt những năm 79, 80 đều chỉ đạo áp dụng phương pháp dạy học tích cực cho các bậc học.
- Ở Mỹ, năm 1921 chương trình giảng dạy tích cực hóa người học đã được áp dụng tại trường Cao đẳng Antioch thuộc tiểu bang Ohio. Từ đó, nền giáo dục Mỹ đã đạt được những thành công nhất định cho đến ngày nay. Ở Nga, nhiều nhà giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát huy tính tích cực của người học như: Aristova, L. Babanxki, Iu. K. Đanhilov, I.F. Lecne Họ đã nghiên cứu con đường dẫn đến sự chủ động, tích cực, độc lập và sáng tạo của học sinh. Ở Nhật, Từ những năm 1970 thì chương trình giáo dục đã mang tính chất linh động và thực dụng nhằm giúp cho người học phát triển một cách tự nhiên, họ có thể lựa chọn chương trình giáo dục dựa vào sở thích và khả năng riêng của mình. Sơ kết: Tích cực hóa người học xuất hiện trên Thế giới từ thời Cổ đại. Từ đó đến nay đã có rất nhiều nhà giáo dục, cơ sở giáo dục kế thừa và phát triển, thực hiện tốt và mang lại hiệu quả cao trong quá trình giáo dục và đào tạo. 2.2/ Ở Việt Nam Từ năm 1960, vấn đề tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực cho người người học đã được đề cập trong nền Giáo dục nước ta. Trong giai đoạn này, tất cả các trường Sư phạm đã đề ra khẩu hiệu: “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Đến năm 1965, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ở Miền Bắc, cả nước tham gia vào công cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc cải tiến phương pháp dạy học trong nhà trường gặp nhiều khó khăn, nhưng những nhà giáo tâm huyết vẫn tạo điều kiện giúp học sinh tự học, học một cách chủ động và tích cưc. Khi đất nước hoàn toàn giải phóng vào năm 1975, Nền giáo dục nước nhà lại chịu sức ép thi cử vào các trường Đại học, điều đó đã trở thành gánh nặng cho cả Giáo viên và Học sinh, dạy học hướng vào mục đích thi cử. Dạy học Thầy đọc – Trò chép là thế mạnh cho việc truyển thụ lượng kiến thức lớn trong thời gian ngắn và dễ thực hiện, đáp ứng nhu cầu luyện thi vào Đại học cho người học. Vì
- vậy, phương pháp dạy học tích cực bị mờ dần và không được vận dụng ở hầu hết các trường trong cả nước. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2, năm 1980, phát huy tính tích cực của người học là phương hướng của nền giáo dục cải cách nhằm tạo ra những người lao động tích cực sáng tạo, phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù sự tích cực của người học đã được đề cập đến trong cuộc cải cách, nhưng quá trình thực hiện vẫn còn mờ nhạt và chưa mang lại hiệu quả. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị Quyết Trung ương 4 khóa IX (14-1-1993) về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Nghị quyết đã nêu: “ Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Từ năm 1995 đến nay, tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực cho người học đã được đề cập rất nhiều trong các Nghi Quyết của Hội Nghị cũng như trong các chiến lược phát triển giáo dục. Giai đoạn này đã có nhiều nhà giáo dục của nước ta quan tâm nghiên cứu vấn đề làm thế nào để mang lại sự hứng thú cho người học và tạo môi trường học tập tốt để phát huy hết năng lực tìm tòi khám phá của họ. Nghi quyết Trung ương 2 khóa VIII vào tháng 12 năm 1996 và đã được thể chế hóa trong Luật giáo dục năm 2005, tại điều 2.5 đã nêu: “ Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (Ban hành kèm theo quyết định số 201/2001/QĐ – TTG ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ) đã ghi rõ định hướng đổi mới phương pháp dạy học “ chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học phương pháp tự học, ”
- Giai đoạn 2008 – 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông với mục tiêu huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện và hiệu quả. Ngoài ra, để hỗ trợ các tỉnh miền núi phía Bắc thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy và học tích cực thì Dự án Việt – Bỉ đã triển khai nhiều hoạt động nhằm phát triển, nâng cao năng lực sư phạm, hình thành kỹ năng, kỹ xảo về việc dạy học tích cực cho giáo viên. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009 – 2020 đã trình bày “Học sinh có ý thức và trách nhiệm cao trong học tập, có bản lĩnh, trung thực ” và đề ra giải pháp 5 của chiến lược “ Thực hiện cuộc vận động toàn ngành đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, hoạt động sáng tạo của người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lý của giáo viên.”. Nước ta phấn đấu đến năm 2020 sẽ xây dựng một nền giáo dục hiện đại, có khả năng hội nhập quốc tế. Nhiều phương pháp dạy học mới đã được áp dụng như: Phương pháp chủ động, phương pháp tiếp cận hoạt động, phương pháp thực hành, phương pháp học bằng cách làm (learning by doing), phương pháp tìm tòi (Eureka), phương pháp tư duy sáng tạo Sơ kết: Tổ chức dạy học theo hướng “tích cực hóa người học” ở Việt Nam xuất hiện muộn hơn các nước trên thế giới, tuy nhiên ngành giáo dục ở nước ta đang cố gắng tối đa để theo kịp và hòa nhập với thế giới từ cấp học Mầm non, phổ thông cho đến các bậc học Cao đẳng và Đại học. 3/ Kết luận Tổ chức dạy học theo hướng “ Tích cực hóa người học” là xu hướng giáo dục tất yếu của mọi thời đại. Việt Nam muốn hòa nhập cùng khu vực và thế giới không thể đứng ngoài xu hướng này. Ngược lại, càng tích cực tăng tốc, xúc tiến một cách tận lực làm cho người học trở thành chủ thể chủ động và tích cực là hướng đi thích hợp nhất.
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Phát triển tính tích cực, tính tự lực của học sinh trong quá trình dạy học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội. 2. Đỗ Thị Coỏng (2004), Nghiên cứu tính tích cực học tập môn tâm lí học của sinh viên Đại học Sư phạm Hải Phòng, Luận án tiến sĩ, Hà Nội. 3. Nguyễn Văn Cường (2012), Lý luận dạy học hiện đại, Potsdam - Hà nội – Tp Hồ Chí Minh. 4. Phan Dũng (1992), Làm thế nào để sáng tạo? Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Tp Hồ Chí Minh. 5. Phan Dũng (1997), Phương pháp luận sang tạo khoa học kỹ thuật, Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường. 6. TS. Trần Thị Hương (2012), Dạy học tích cực, NXB ĐHSP TPHCM 7. Đỗ Thế Hưng (2007), Tình huống dạy học môn Giáo dục học, NXB ĐHSP 8. Thái Duy Tuyên (1999), Những vấn đề cơ bản giáo dục học hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. 9. Đoàn Huy Oách (2004), Sơ lược lịch sử giáo dục, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh. 10. Các địa chỉ Internet đã tham khảo. Giảng viên hướng dẫn Tác giả TS. Võ Văn Nam Phan Thị Hằng
- BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.



