Khóa luận Tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của Victor Hugo

pdf 104 trang phuongnguyen 1300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của Victor Hugo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tim_hieu_mot_so_dac_diem_nghe_thuat_kich_va_tieu_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của Victor Hugo

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM LA THỊ NGỌC ÁNH LỚP DH5C1 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGÀNH NGỮ VĂN Tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của Victor Hugo GVHD: Ths. Phùng Hoài Ngọc LONG XUYÊN, 5/2008
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM LA THỊ NGỌC ÁNH Lớp ĐH 5C1 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGÀNH NGỮ VĂN GVHD: Ths. Phùng Hoài Ngọc LONG XUYÊN, 5/2008
  3. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài Tiếp sau văn học Phục hưng và thế kỉ Ánh sáng, văn học phương Tây thế kỉ XIX đã đạt được những thành tựu rực rỡ của hai khuynh hướng văn học: chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực. Với tính chất vạch trần bản chất xã hội đương thời, bênh vực cho những con người lao khổ, chủ nghĩa hiện thực đã thực sự phơi bày được bản chất của hiện thực, nâng cao lý trí con người. Nhưng ngày nay, với cách nhìn nhận, cách đánh giá mới thì chủ nghĩa lãng mạn vẫn là vô cùng cần thiết. Chủ nghĩa lãng mạn một mặt sẽ thỏa mãn tâm hồn con người, mặt khác nó sẽ nuôi dưỡng, bồi đắp, nâng cao tình cảm con người. Nói đến chủ nghĩa lãng mạn thì không thể không nhắc đến cây đại thụ tỏa bóng rợp thế kỉ XIX – Victor Hugo. Thành tựu của ông đã đem đến nhựa sống tươi tốt, ương mầm cho tâm hồn bao thế hệ. Chính điều đó, tư tưởng và nghệ thuật của V.Hugo bao giờ cũng là những hạt ngọc tỏa sáng cho chính dân tộc ông và có những giá trị phổ biến cho các dân tộc khác. Từ sự yêu thích văn chương cùng với sự yêu mến con người ông, tôi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn tìm hiểu thấu đáo, cặn kẽ hơn về một số đặc điểm nghệ nghệ thuật làm nên bút pháp chủ nghĩa lãng mạn trong kịch và tiểu thuyết của V.Hugo. Qua đó, giúp người tiếp nhận có được cái nhìn khái quát về tác phẩm cũng như bước vào thế giới nghệ thuật tuyệt diệu của thơ văn V.Hugo. II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Từ trước đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về kịch và tiểu thuyết của Hugo.Tuy nhiên, việc đi vào tìm hiểu những yếu tố nghệ thuật làm nên bút pháp chủ nghĩa lãng mạn trong kịch và tiểu thuyết V.Hugo thì hầu như chưa có một công trình cụ thể, chuyên biệt. Nghiên cứu về đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của V.Hugo là một đề tài khá lí thú, mới mẻ và cũng không đơn giản. Do đó, để hoàn thành luận văn người viết dựa vào một số tài liệu Trang 1
  4. của các tác giả kể trên và những tài liệu liên quan đến V.Hugo (được liệt kê ở mục Tài liệu tham khảo). III. Mục đích nghiên cứu Luận văn này cố gắng chỉ ra một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết mà ông thường sử dụng trong quá trình sáng tác. Qua đó tôi muốn tìm hiểu một cách sâu sắc, thấu đáo những yếu tố nghệ thuật mà ông sử dụng để có thể lý giải vì sao tác phẩm của V.Hugo lại có sức mạnh bất diệt, trở nên bất tử trong lòng độc giả bao thế hệ. Từ việc nghiên cứu đề tài này, tôi hy vọng nó sẽ là chiếc chìa khóa giúp bạn đọc mở cánh cửa bước vào thế giới nghệ thuật tác phẩm V.Hugo. IV. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính là một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của đại văn hào Victor Hugo. Phạm vi nghiên cứu vở kịch “Hernani”, hai bộ tiểu thuyết danh tiếng “Nhà thờ Đức Bà Paris” vá “Những người khốn khổ”. V. Đóng góp của khóa luận Việc đánh giá và tiếp cận văn học nước ngoài là vô cùng khó khăn. Do đó, việc tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật để khám phá được nội dung là điều hết sức cần thiết. Tôi hy vọng rằng khóa luận sẽ mang đến một cách tiếp cận mới, có hiệu quả về tác phẩm văn học nước ngoài, nó sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn đồng môn trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy sau này. VI. Phương pháp nghiên cứu Chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp tư liệu. Tất cả chỉ với một nguyện vọng là làm sao nghiên cứu khóa luận đạt kết quả tốt nhất. Trang 2
  5. VII. Cấu trúc luận văn Khóa luận gồm có ba phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận. Trong đó, trọng tâm phần nội dung. Phần nội dung gồm có ba chương: Chương 1: Cơ sở lí luận. Chương 2: Khái quát về tác giả Victor Hugo. Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của Victor Hugo. Trang 3
  6. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI I. Chủ nghĩa lãng mạn Tây Âu như một trào lưu 1. Cơ sở triết học Về phương diện triết học Chủ nghĩa lãng mạn Tây Âu đều tìm tới những hệ thống triết học mang tính duy tâm chủ quan để làm cơ sở cho học thuyết của mình. Bên cạnh đó, còn kế thừa chủ nghĩa tình cảm, một tư trào văn chương thế kỉ XVIII. Chủ nghĩa lãng mạn có hai khuynh hướng lãng mạn tiêu cực và khuynh hướng lãng mạn tích cực: − Khuynh hướng lãng mạn tiêu cực (hay còn gọi là lãng mạn bảo thủ) − Khuynh hướng lãng mạn tích cực (hay còn gọi là lãng mạn tiến bộ) 2. Cơ sở mỹ học Về mặt thị hiếu thẩm mỹ, Chủ nghĩa lãng mạn là sự nổi dậy chống lại mọi ước lệ, mọi quy tắc gò bó của chủ nghĩa cổ điển. Các chủ đề về tình yêu, nỗi cô đơn, nỗi buồn, những lý tưởng không đạt được được sử dụng rộng rãi trong nghệ thuật lãng mạn. Nhân vật lãng mạn là những nhân vật “nổi loạn” chống đối với thực tại tư sản tầm thường. Nhân vật lãng mạn thường có kết thúc mang tính bi kịch. Chủ nghĩa lãng mạn ưa sử dụng các thủ pháp nghệ thuật như: tương phản, cường điệu, trữ tình ngoại đề, sự đối lập giữa cái trác tuyệt và cái thô kệch, . . . Nguyên tắc tự do góp phần trẻ hóa lối hành văn, cách gieo vần, cách sử dụng các biện pháp tu từ, cách lựa chọn các không gian và thời gian nghệ thuật. Và do nhiệt tình, sôi nổi muốn tự thể hiện, chia sẻ và thuyết phục, văn chương lãng mạn nói chung thường mang tính hùng biện. Trang 4
  7. II. Chủ nghĩa lãng mạn như một phương pháp sáng tác 1. Nguyên tắc sáng tác của Chủ nghĩa lãng mạn Nguyên tắc 1: Chối từ thực tại. Nguyên tắc 2: Tự do bay lượn trong nghệ thuật. Nguyên tắc 3: Điển hình hóa tâm trạng. 2. Đặc điểm thi pháp cơ bản của Chủ nghĩa lãng mạn 2.1. Về phương diện cách nhìn Về phương diện cách nhìn, Chủ nghĩa lãng mạn cơ bản vẫn là khuynh hướng chủ quan trong tiếp cận và lý giải hiện thực. 2.2. Về phương diện cách viết Thể loại thơ Thơ ca lãng mạn đã kế thừa thi pháp của thơ ca cổ điển. Nhưng bên cạnh sự kế thừa đó, nó còn có sự cách tân tạo thành những qui luật chung của thi ca khuynh hướng văn học lãng mạn. Lí luận kịch Sân khấu tự do phá vỡ qui tắc tam nhất do Aristote đề ra từ (384-322 trước Công nguyên): duy nhất về hành động, duy nhất về thời gian và duy nhất về không gian(địa điểm) Về tiểu thuyết Kết hợp nhiều hình thức thể hiện đa dạng khác nhau: kể và tả, triết lí và bình luận, độc thoại và độc thoại nội tâm. Đặc biệt, hình thức độc thoại nội tâm được sử dụng rộng rãi và đạt hiệu quả cao. Yếu tố xây dựng tâm lý nhân vật giữ vai trò trung tâm. Nghệ thuật tương phản như một biện pháp nghệ thuật chính yếu, hệ thống và nhất quán trên nhiều phương diện của tác phẩm. Trang 5
  8. CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VICTOR HUGO I. Cuộc đời Ông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1802 ở thành phố Bzanson Khả năng sáng tạo của Hugo rất sớm và lớn lao, ông đã để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ. V.Hugo mất ngày 25 tháng 5 năm 1885. Thi hài ông được đưa vào điện Pantheon. Hugo là một trong những khổng lồ văn chương hiếm hoi của thế giới. Hugo, nhà văn nhân đạo sáng ngời, là tấm gương tranh đấu không biết mệt mỏi cho nền tự do, dân chủ của nhân loại tiến bộ. II. Sự nghiệp sáng tác Sự nghiệp sáng tác của Hugo có thể chia ra làm bốn giai đọan. Nhìn chung, sự nghiệp sáng tác của ông vừa phong phú về thể loại, vừa trác tuyệt về chất lượng. Ngoài thơ, kịch, tiểu thuyết ông còn để lại hơn 2000 bức tranh và nhiều tác phẩm khảo cứu và các tùy bút khác Giới thiệu đôi nét về thơ của Victor Hugo Thơ V. Hugo chứa chan lòng yêu thiên nhiên và tinh thần nhân đạo cao cả. Do là một nhà thơ viết kịch và tiểu thuyết nên những trang văn của ông mang đậm chất thơ. Đặc biệt, chính niềm cảm thương những số phận bất hạnh và trân trọng những phẩm chất cao quí của những người lao động đã được ông phát triển cao ở lĩnh vực kịch và tiểu thuyết sau này. Và để thấy được điều đó trong kịch và tiểu thuyết, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật mà ông sử dụng trong quá trình sáng tác. Trang 6
  9. CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT KỊCH VÀ TIỂU THUYẾT CỦA VICTOR HUGO I. Kịch drame: vở “Hernani” 1. Giới thiệu cốt truyện 2. “Trận chiến Hernani”, sự chiến thắng của chủ nghĩa lãng mạn đối với chủ nghĩa cổ điển 2.1. Sự phá vỡ qui tắc luật “tam duy nhất” của chủ nghĩa cổ điển Sự phản ứng đầu tiên của Chủ nghĩa lãng mạn đó là sự phá vỡ quy tắc luật “tam duy nhất” đó. Trước hết, nguyên tắc thời gian duy nhất đã bị vi phạm. Chúng ta thấy, một vở kịch cổ điển chỉ được công diễn trong hai tiếng đồng hồ, nhưng ở “Hernani” nó đã vượt ra khỏi qui phạm đó. Nguyên tắc thứ hai mà ông muốn phá vỡ, đó là địa điểm duy nhất. Trong “Hernani” địa điểm kịch được thay đổi rõ rệt.Địa điểm không chỉ diễn ra trong nước mà nó còn vượt phạm vi ngoài nước, lúc thì ở Xaragrox (Tây Ban Nha), lúc thì ở Ex-lasapen (Tây Đức). Địa điểm là nơi để nhân vật diễn ra hành động chính duy nhất.Tăng thêm hành động chính để chuyển tải các xung đột đan chéo để hành động được phong phú. Như vậy, linh hồn của kịch chính là cái hiện thực. 2.2. Xây dựng kiểu nhân vật phản nghịch Ở kịch của Hugo chúng ta thường bắt gặp kiểu nhân vật phản nghịch. Con người “phản nghịch”, Hernani, là con người có những phẩm chất tốt đẹp, ý chí căm thù sâu sắc, tinh thần kiên cường trong đấu tranh, tâm hồn cao thượng trong tình yêu. 2.3. Sử dụng bút pháp tương phản Nét nổi bật nhất thể hiện Chủ nghĩa lãng mạn trong kịch của Hugo là ông đã sử dụng bút pháp tương phản. Tương phản là biện pháp để làm tăng kịch tính và làm nổi bật phẩm chất của nhân vật Trong “Hernani” là sự tương phản giữa vua Tây Ban Nha và “tướng cướp” Hernani. Sự tương phản còn thể hiện ở nội tâm Trang 7
  10. nhân vật Dona Sol Chính điều này đã tạo nên sóng gió cho kịch trường của Hugo. 2.4. Sử dụng yếu tố Grotesque Yếu tố Grotesque đã làm cho kịch drame có sức hấp dẫn, mới mẻ đối với công chúng. Điều này thể hiện đặc sắc ở cách kết thúc kịch đầy bất ngờ. Đó cũng là nét tạo nên tính chất lãng mạn của kịch drame. 2.5. Một vài yếu tố nghệ thuật khác Tăng cường ngôn ngữ bình dân. Về nghệ thuật dẫn dắt hành động kịch, Hugo xen vào những màn độc thoại nội tâm đầy tính chất lãng mạn ở Hồi I lớp 4, Hồi IV lớp 2, 5, Hồi V lớp 4. Tóm lại, bằng việc sử dụng một số đặc điểm nghệ thuật của kịch lãng mạn Hugo đã làm cho vở “Hernani” có chỗ đứng vững chắc và gây tiếng vang lớn trên kịch trường lúc bấy giờ. Cống hiến của Hugo ở lĩnh vực kịch là ông đã mở toang cánh cửa sáng tạo nghệ thuật để đến với nghệ thuật tự do. II. Tiểu thuyết 1. “Nhà thờ Đức Bà Paris”, toà nhà thờ vĩ đại bằng thơ ca 1.1. Nghệ thuật miêu tả và xây dựng cốt truyện Một trong những biện pháp chủ yếu mà V.Hugo thường sử dụng trong tác phẩm của mình là miêu tả cảnh thiên nhiên. Sức hấp dẫn của tác phẩm không dừng lại ở đó mà còn ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện hấp dẫn, sinh động. Nhà thờ Đức bà Paris là câu chuyện dài với nhiều cốt truyện được lồng ghép, đan cài hết sức tài tình 1.2. Xây dựng nhân vật lãng mạn Là một nhân vật mang tính dân gian, Esmeralda xuất hiện như một thiên thần trong thế giới rách nát, nàng là tượng trưng của tâm hồn thanh khiết, lương tâm trong sáng, của hy vọng và tương lai, là “tia nắng, giọt sương và tiếng chim ca”. Trang 8
  11. Quazimodo là con người tật nguyền nhưng lại là một biểu trưng cho tấm lòng cao đẹp của con người. Tương phản hoàn toàn với Quazimodo là phó giáo chủ nhà thờ Frollot. Cái đẹp đẽ đạo mạo bên ngoài của vị phó giáo chủ đã che đậy bên trong một tâm hồn bỉ ổi và những dục vọng thấp hèn. Với y, người đọc vừa căm ghét, phỉ nhổ, vừa muốn bày tỏ niềm xót thương đầy đau đớn. Bổ sung cho hình ảnh của Frollot là hình ảnh của Foebus,người mà Esmeralda lầm lẫn trao trọn trái tim yêu cho hắn. Có lẽ, nhân vật thuần lãng mạn nhất trong tác phẩm là Pierre Gringoa. Đây cũng là kiểu nhân vật thường gặp nhiều trong tiểu thuyết lãng mạn. 1.3. Đề tài tình yêu là đề tài quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn Xúc động người xem hơn cả đó là bản tình ca tuyệt đẹp của Quazimodo giành cho Esmeralda. Quazimodo yêu mà không được đáp trả. Kết thúc câu chuyện, hình ảnh mối tình mà cái chết cũng không thể chia rẽ: “khi người ta muốn kéo gỡ bộ xương Quazimodo ra khỏi bộ xương y ôm, thì nó vụn ra thành bụi”. Sự đan chéo những yếu tố bi-hài, cái đẹp-cái dị dạng là nét độc đáo tạo nên thiên tình sử bất diệt mang đậm nét lãng mạn này. 1.4. Mô típ và cách kết thúc tiểu thuyết mang đậm tính chất lãng mạn Mô típ “ám hại-che chở-cứu thoát” được ông sử dụng thường xuyên như một động lực để phát triển các tình tiết của cốt truyện, tạo nên sự căng thẳng hồi hộp, làm nhịp điệu của cốt truyện dồn dập thu hút, và qua đó cũng thể hiện quan điểm nhân đạo của ông. Mô tip “mẹ con thất lạc-hội ngộ” được cho hóa thân trong cặp nhân vật Gudulier-Esmeralda. Đứa con gái mà bà nguyền rủa và kết tội bị xử treo cổ còn người mẹ bất hạnh cũng gục chết. Đây cũng là kiểu kết thúc rất tiêu biểu của nghệ thuật lãng mạn Hugo. Và với một cấu trúc độc đáo cùng việc sử dụng một số thủ pháp và phương thức nghệ thuật tài tình cộng với tư tưởng nhân Trang 9
  12. đạo toát lên từ tác phẩm, tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris trở thành một trong những tiểu thuyết hay nhất của thế kỷ XIX. Giá trị tinh thần mà Hugo gửi lại là khúc ca muôn thuở của loài người. Tác phẩm tỏa sáng vẻ đẹp chân, thiện, mỹ. Cái đẹp lan thấm trong tâm hồn, tâm trí người đọc, vọng hưởng và thúc bách, thay đổi con người, nuôi dưỡng mầm sống lương tri ở mỗi người. 2. “Những người khốn khổ”, đỉnh cao Chủ nghĩa lãng mạn Victor Hugo 2.1. Cấu trúc tiểu thuyết Bộ tiểu thuyết được chia làm năm phần: Phần thứ nhất: Fantine. Phần thứ hai: Cosette. Phần thứ ba: Marius. Phần thứ tư: Tình ca phố Plumet và anh hùng ca phố Saint Denis Phần thứ năm: Jean Valjean. Những người khốn khổ đã mang trong nó nhiều loại hình nghệ thuật của văn chương như: tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa xen kẽ với những đoạn, chương bình luận ngoại đề. Kết cấu tác phẩm như thế, đã phần nào làm nổi bật lên chủ đề tư tưởng của tác giả: đề cao nhân đạo với tấm lòng thương cảm, yêu mến nhân dân sâu sắc. 2.2. Cách đặt tiêu đề trong “Những người khốn khổ” Tác phẩm đã đi vào lòng độc giả một cách dễ dàng một phần nhờ vào cách Hugo đặt tiêu đề cho bộ tiểu thuyết của mình. Bên cạnh cấu trúc, tiêu đề cũng góp phần làm nên tính lãng mạn cho tác phẩm. Khảo sát toàn bộ các đề mục, người đọc sẽ phát hiện ra một điều thật thú vị: phần lớn đó là những câu thành ngữ, tục ngữ hết sức cô đọng nhưng lại giàu chất thơ. Chẳng hạn: “Ngựa chết, hết chuyện”.“Một người mẹ gặp một người mẹ”.“Gửi trứng cho ác”. “Một trận bão táp trong đầu” “Đặc cách được vào”. “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”. “Tham thì thâm”. “Hai bất hạnh hợp thành hạnh phúc.” “Cẩm thạch chọi Trang 10
  13. hoa cương”. “Đóa hoa hồng trong cảnh cùng khổ”. “Hạt bụi kết thân với bão táp” . . . . 2.3. Tính lãng mạn biểu hiện trong lối văn miêu tả, kể chuyện đầy chất thơ Fantine là một người phụ nữ xinh đẹp, “nàng rất đẹp. Nàng cố giữ cho mình trong trắng. Nàng có vàng ngọc làm của riêng như ai, nhưng vàng của nàng xếp trên mái tóc, ngọc của nàng giắt ở sau môi” Nét đẹp ấy không còn đơn thuần là vẻ đẹp ngoại hình nữa mà tỏa sáng lấp lánh vẻ đẹp tâm hồn người mẹ. Gương mặt lý tưởng mà ông yêu quý có thể kể đến là Anjonras .Câu chuyện kể về anh là một hình ảnh rất đẹp đã đi mãi vào lòng những con người chính nghĩa. Xen kẽ với những trang miêu tả, kể chuyện, Hugo chen vào đó là những đoạn văn bình luận sắc sảo. Không những là những trang miêu tả, kể chuyện, bình luận riêng lẻ mà đôi khi tác giả kết hợp chúng lại tạo nên đỉnh cao về nghệ thuật. Điển hình ở cảnh “Một người mẹ gặp một người mẹ”. Bằng việc điểm qua một vài bút pháp nghệ thuật đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, ta thấy được ở Hugo một tài năng văn học đặc sắc với lối văn miêu tả, kể chuyện đầy chất thơ. Tất cả những yếu tố đó đã làm nên tính lãng mạn cho tác phẩm của ông. 2.4. Kiểu nhân vật lãng mạn đặc trưng của Victor Hugo 2.4.1. Nhân vật Myriel Nhân vật thuần lãng mạn nhất trước hết có lẽ là giám mục Myriel- nhân vật được tác giả giao phó nhiệm vụ thắp sáng ngọn nến tâm hồn cho Jean Valjean, con người biểu thị “tình yêu đồng loại ở ý nghĩa thuần túy nhất của kinh Phúc âm”.Đó là một bài thơ trữ tình lãng mạn về con người đạt đến tự do sâu thẳm của một nội tâm đầy ắp những mối ưu tư và niềm thương yêu con người. 2.4.2. Nhân vật Jean Valjean Jean là nhân vật lý tưởng của tác phẩm: có một sức khỏe phi thường, một trí tuệ, lòng nhân hậu, trái tim yêu thương, một khả Trang 11
  14. năng nhẫn nại, một ước muốn vươn lên, một lòng thủy chung với lời hứa . Xây dựng nhân vật có tầm vóc phi thường như thế, Hugo muốn họ sẽ là những hình tượng nghệ thuật phản chiếu niềm hy vọng về sự xuất hiện những cõi lòng từ tâm sẽ đi khắp hang cùng ngõ hẻm để chia sẻ, an ủi, vực dậy những tâm hồn thất vọng, đưa người nghèo ra khỏi cảnh cùng khổ, bênh vực những kẻ thế cô khỏi tình trạng bị đè nén, bất công.Đây là kiểu nhân vật lãng mạn tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn. 2.4.3. Nhân vật Gavroche Dưới ngòi bút trìu mến của Hugo, Gavroche hiện ra với tất cả vẻ đẹp tinh thần của một thiếu niên nảy sinh từ đêm đen của xã hội, em trở thành biểu tượng của sự thanh khiết. Hình ảnh Gavroche thể hiện tư tưởng lãng mạn và những rung cảm hướng về tương lai của nhà văn. 2.4.4. Tiểu thuyết “Những người khốn khổ” là tiểu thuyết mang đậm chất thơ Có thể thấy,“tình thương” là nguyên tắc thẫm mĩ cơ bản mà ông thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm. Ngoài ra, ông còn sử dụng tình thương như một giải pháp xã hội, là tư tưởng, là phương tiện đấu tranh nhằm mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho mọi người. Chất thơ còn thể hiện ở niềm tin và lòng tự hào đối với Cách mạng. Cách mạng sẽ giải phóng con người ra khỏi cuộc sống phi nhân bản của xã hội tư sản, mang đến xã hội lý tưởng mà trong đó tình thương sẽ là nguyên tắc cao nhất. Trang 12
  15. PHẦN KẾT LUẬN Qua quá trình tìm hiểu đôi nét về sự nghiệp văn chương của Victor Hugo, ta thấy ở phương diện nào ông cũng có những đóng quan trọng cho nền văn chương Pháp và văn chương thế giới. Đặc biệt ở lĩnh vực kịch và tiểu thuyết. Ở lĩnh vực kịch, tuy chỉ sáng tác trong khoảng thời gian hơn mười năm nhưng với những cách tân nghệ thuật táo bạo ông đã gây tiếng vang lớn trên kịch trường và đưa trường phái lãng mạn đi tới đỉnh cao của sự toàn thắng. Bằng việc phá vỡ qui tắc “tam duy nhất” của chủ nghĩa cổ điển, ông mở đường cho sân khấu tự do phát triển theo hướng hiện đại. Một sáng tạo mới ở đây đó là việc ông đưa vào sân khấu hình ảnh “nhân vật nổi loạn” mà nhân vật này sẽ còn tiếp tục xuất hiện trong các tiểu thuyết sau này của ông. Ở lĩnh vực tiểu thuyết, lĩnh vực mà ông chỉ sáng tác ở giai đoạn cuối nhưng nó đem lại vinh quang rất lớn cho ông với hai kiệt tác “Nhà thờ Đức bà Paris”, “Những người khốn khổ” Với hàng loạt các thủ pháp nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn như: sử dụng bút pháp tương phản, đề tài tình yêu, xây dựng nhân vật mang tính cách phi thường, cao cả .ông đã chuyển tải một cách đầy đủ và sâu sắc nội dung tư tưởng chứa đựng trong nó: lòng thương yêu con người, mong muốn xây dựng xã hội tốt đẹp bằng giải pháp tình thương Tác phẩm đã để lại âm vang trong lòng người đọc không chỉ ở tài năng viết tiểu thuyết độc đáo mà còn ở tấm lòng yêu thương nhân loại cần lao. Nhìn chung, Victor Hugo là nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị lớn của nước Pháp. Sự rộng lượng trong tư tưởng của ông, sự ân cần trong cách diễn tả đã làm rung động tâm hồn người đọc. Ông là một nhà thơ bình dân, đã viết văn và làm thơ với đặc tính giản dị nhưng bao hàm bên trong sức mạnh, đề cập cả niềm vui, nỗi buồn nhiều người. Di sản văn học mà ông để lại có giá trị về nhiều mặt, mà nổi bật lên là giá trị nhân đạo lớn lao. Với những gì đóng góp cho dân tộc và nhân loại, Hugo xứng đáng với danh hiệu “lương tâm của các dân tộc”. Nói đến Hugo là người ta nói đến chủ nghĩa nhân đạo, tấm lòng thương yêu của ông đối với những người lao động nghèo đói, bị áp bức Dù nhân loại có tiến Trang 13
  16. bộ đến chừng nào đi chăng nữa thì chủ nghĩa nhân đạo của ông vẫn rất cần thiết cho mọi thời đại. Nó làm cho con người xích lại gần nhau, hiểu nhau hơn trong sự hòa nhập nền văn hóa toàn cầu. Hết La Thị Ngọc Ánh 5C1 Trang 14
  17. TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM LA THỊ NGỌC ÁNH Lớp ĐH 5C1 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGÀNH NGỮ VĂN GVHD: Ths. Phùng Hoài Ngọc LONG XUYÊN, 5/2008
  18. LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn: 1. Ban giám hiệu trường Đại học An Giang, Ban chủ nhiệm Khoa sư phạm đã tạo điều kiện cho em thực hiện khóa luận tốt nghiệp. 2. Các thầy cô bộ môn Ngữ Văn đã hướng dẫn em học tập và nghiên cứu trong suốt khóa học vừa qua. 3. Thầy Phùng Hoài Ngọc đã hướng dẫn em hoàn thành luận văn. Long Xuyên, tháng 5 năm 2008 Sinh viên La Thị Ngọc Ánh
  19. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN Trang MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 I. Lí do chọn đề tài 1 II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2 III. Mục đích nghiên cứu 3 IV. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 3 V. Đóng góp của khóa luận 4 VI. Phương pháp nghiên cứu 4 VII. Cấu trúc luận văn 5 PHẦN NỘI DUNG 7 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 7 I. Chủ nghĩa lãng mạn Tây Âu như một trào lưu 7 1. Cơ sở triết học 7 2. Cơ sở mỹ học 9 II. Chủ nghĩa lãng mạn như một phương pháp sáng tác 11 1. Nguyên tắc sáng tác của Chủ nghĩa lãng mạn 12 2. Đặc điểm thi pháp cơ bản của Chủ nghĩa lãng mạn 12 CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VICTOR HUGO 18 I. Cuộc đời 18 II. Sự nghiệp sáng tác 19 CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT KỊCH VÀ TIỂU THUYẾT CỦA VICTOR HUGO 26 I. Kịch drame: vở “Hernani” 26 1. Giới thiệu cốt truyện 26 2. “Trận chiến Hernani”, sự chiến thắng của chủ nghĩa lãng mạn đối với chủ nghĩa cổ điển 27 II. Tiểu thuyết 32 1. “Nhà thờ Đức Bà Paris”, toà nhà thờ vĩ đại bằng thơ ca 32 2. “Những người khốn khổ”, đỉnh cao Chủ nghĩa lãng mạn Victor Hugo 39 PHẦN KẾT LUẬN 54 PHỤ LỤC 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
  20. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài Cho đến nay, quá trình hình thành và phát triển văn học đã trải qua những bước thăng trầm với nhiều biến động phức tạp của nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu Văn học phương Tây thế kỉ XIX cũng nằm trong sự vận động đó. Bước qua văn học Phục hưng và thế kỉ Ánh Sáng, văn học phương Tây thế kỉ XIX đã đạt được những thành tựu rực rỡ của hai khuynh hướng văn học: chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực. Ra đời kế tiếp nhau, hai trào lưu này không thể không ảnh hưởng qua lại và chịu sự chi phối của những điều kiện lịch sử - xã hội cùng thời.Với tính chất vạch trần bản chất xã hội đương thời, bênh vực cho những con người lao khổ, chủ nghĩa hiện thực đã thực sự phơi bày được bản chất của hiện thực, nâng cao lý trí con người. Chính vì thế, chủ nghĩa hiện thực đã được các nhà phê bình, nghiên cứu đánh giá rất cao và coi nó là chuẩn cao nhất trong lĩnh vực sáng tác của các nhà văn. Nhưng ngày nay, với cách nhìn nhận, cách đánh giá mới thì chủ nghĩa hiện thực không hoàn toàn ưu việt đến thế. Chúng ta không nên có sự so sánh giữa khuynh hướng văn học lãng mạn hay khuynh hướng văn học hiện thực. Bởi vì, bất cứ một khuynh hướng văn học nào, khi ra đời nó đều đáp ứng những nhu cầu bức thiết của con người và làm cho con người thỏa mãn với những nhu cầu đó. Nhất là trong thời đại ngày nay - thời đại kinh tế thị trường- thương trường cũng là chiến trường, con người bị cuốn hút vào những guồng máy công nghiệp thương mại, chạy theo đồng tiền. Đôi khi con người còn đánh mất cả nhân tính, linh hồn của mình vì lợi nhuận. Chính vì thế, chủ nghĩa lãng mạn trong đời sống hiện nay vẫn là vô cùng cần thiết. Nó sẽ hâm nóng lại tình người, làm cho cuộc sống này có ý nghĩa hơn. Chủ nghĩa lãng mạn một mặt sẽ thỏa mãn tâm hồn con người, mặt khác nó sẽ nuôi dưỡng, bồi đắp, nâng cao tình cảm con người. Nói đến chủ nghĩa lãng mạn thì không thể không nhắc đến cây đại thụ tỏa bóng rợp thế kỉ XIX – Victor Hugo. Bằng “một hệ thống các phương thức và phương tiện thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật, khám phá cuộc sống bằng hình tượng”, ông đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm văn chương kiệt xuất. Thành tựu của ông đã đem đến nhựa sống tươi tốt, ương mầm cho tâm hồn bao thế hệ. Khảo sát toàn bộ tác phẩm của ông, ta thấy chủ nghĩa nhân đạo bao trùm và xuyên suốt. Có thể nói, chủ nghĩa nhân đạo là thứ “hàng hóa” xuyên quốc gia. Nó có thể du nhập bất cứ đâu, bất cứ nơi nào mà Trang 1
  21. không có một rào cản nào có thể ngăn được. Chính điều đó, tư tưởng và nghệ thuật của V.Hugo bao giờ cũng là những hạt ngọc tỏa sáng cho chính dân tộc ông và có những giá trị phổ biến cho các dân tộc khác. Mặc dù kiến thức và tài liệu tham khảo còn hạn chế, nhưng với sự yêu thích văn chương cùng với sự yêu mến con người ông, tôi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn tìm hiểu thấu đáo, cặn kẽ hơn về một số đặc điểm nghệ nghệ thuật làm nên bút pháp chủ nghĩa lãng mạn trong kịch và tiểu thuyết của V.Hugo. Ở đây, tôi sẽ trình bày những nét cơ bản nhất về nội dung tư tưởng và một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết mà ông thường sử dụng trong quá trình sáng tác. Qua đó, giúp người tiếp nhận có được cái nhìn khái quát về tác phẩm cũng như bước vào thế giới nghệ thuật tuyệt diệu của thơ văn V.Hugo. II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Với những thành tựu chói lọi trên văn đàn thế giới, V.Hugo cũng như tác phẩm của ông đã thu hút bao tâm trí của các nhà phê bình nghiên cứu trong và ngoài nước. Ở Việt Nam, sự phổ biến của V.Hugo khá mạnh mẽ. Do đó, những công trình nghiên cứu về tác giả và tác phẩm của ông xuất hiện rất nhiều. Điển hình như: − Phùng Văn Tửu với “Victor Hugo” (NXBGD 1978) − Đặng Anh Đào với “Cuộc đời và tác phẩm Victor Hugo” (NXBGD) − Đặng Thị Hạnh, Lê Hồng Sâm với “Văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán thế kỉ XIX” (NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1985) − Minh Chính, Văn học phương Tây giản yếu (NXB ĐHQG TPHCM 2002). − Gần đây là cuốn “Văn học phương Tây” nhiều tác giả biên soạn (NXBGD 2002). − Công trình nghiên cứu mới nhất là “Văn học thế giới tập II” (giáo trình dùng cho Cao Đẳng Sư Phạm, NXB Đại học Sư phạm), Lưu Đức Trung (chủ biên) Nhìn chung, các công trình này đã giới thiệu khá đầy đủ về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của ông. Tuy nhiên, từ trước đến nay, việc đi vào tìm hiểu những yếu tố nghệ thuật làm nên bút pháp chủ nghĩa lãng mạn trong kịch và tiểu thuyết V.Hugo thì hầu như chưa có một công trình cụ thể, chuyên biệt. Trang 2
  22. Nghiên cứu về đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của V.Hugo là một đề tài khá lí thú, mới mẻ và cũng không đơn giản. Do đó, với vốn kiến thức ít ỏi của một sinh viên năm tư chắc hẳn sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Để hoàn thành luận văn người viết dựa vào một số tài liệu của các tác giả kể trên và những tài liệu liên quan đến V.Hugo (được liệt kê ở mục Tài liệu tham khảo). III. Mục đích nghiên cứu Như chúng ta đã biết, một tác phẩm văn học có giá trị sẽ bao gồm giá trị nội dung và giá trị hình thức. Vì vậy, bất cứ nội dung nào cũng chứa đựng hình thức và bất cứ hình thức nào cũng chứa đựng nội dung. Do đó, “công việc tìm ra cái hình thức mang quan niệm”-tức là cái phương thức tư duy nghệ thuật của nhà văn nghệ sĩ đã ngưng kết thành cái hình thức nghệ thuật của tác phẩm nghệ thuật-là công việc hết sức phức tạp, đòi hỏi sự tìm tòi, phát hiện. Nhất là với thiên tài văn học V.Hugo thì việc phát hiện ra cái phương thức nghệ thuật để nhà văn chuyển tải quan niệm là điều không dễ dàng chút nào. Nhưng với tinh thần ham học hỏi, qua luận văn này tôi mong muốn tìm hiểu một cách sâu sắc, thấu đáo những yếu tố nghệ thuật mà ông sử dụng để có thể lý giải vì sao tác phẩm của V.Hugo lại có sức mạnh bất diệt, trở nên bất tử trong lòng độc giả bao thế hệ. Từ việc nghiên cứu đề tài này, tôi hy vọng nó sẽ là chiếc chìa khóa giúp bạn đọc mở cánh cửa bước vào thế giới nghệ thuật tác phẩm V.Hugo. Qua đó, chúng ta có thể nắm bắt được những tư tưởng, những quan niệm độc đáo tác giả đã gửi gắm vào trong đó, mà con người hôm nay cần phải trân trọng, học hỏi và kế thừa. IV. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính là một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của đại văn hào Victor Hugo. Để làm nổi bật lên một số đặc điểm nghệ thuật mà ông sử dụng trong quá trình sáng tác, người viết khảo sát tác phẩm của ông ở lĩnh vực kịch và tiểu thuyết. Qua đó, người viết có được cái nhìn khái quát, hệ thống về nó. Nhưng do sự nghiệp văn chương của ông khá đồ sộ, ở lĩnh vực kịch, tôi chỉ chọn vở kịch đã từng gây tiếng vang lớn trong kịch trường: “Hernani”. Ở lĩnh vực tiểu thuyết, tôi chọn hai bộ tiểu thuyết lớn làm nên tên tuổi của ông, đó là: “Nhà thờ Đức Bà Paris” và “Những người khốn khổ”. Bên cạnh đó, tôi còn tham khảo thêm một số tài liệu khác có liên quan để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đạt kết quả cao nhất. Trang 3
  23. V. Đóng góp của khóa luận Khi tiếp nhận tác phẩm văn học, chúng ta không chỉ tiếp cận ở bề mặt câu chữ mà qua đó, phải thấy được những tầng ý nghĩa sâu xa mà tác giả gửi gắm vào nó. Để phát hiện ra được điều đó, người đọc phải có cái nhìn trực diện và chiều sâu suy nghĩ. Đặc biệt, việc đánh giá và tiếp cận văn học nước ngoài là vô cùng khó khăn, bởi sự cách ngăn của hàng rào ngôn ngữ và những khác biệt về văn hóa. Chúng ta chỉ được tiếp xúc với nó thông qua bản dịch chứ không ở nguyên tác. Do đó, việc tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật để khám phá được nội dung là điều hết sức cần thiết. Victor Hugo, “con người của thành phố Paris hoa lệ”, tuy cách chúng ta nửa vòng trái đất nhưng tư tưởng của ông lại rất gần gũi, phù hợp với truyền thống của dân tộc ta. Với cuộc sống xô bồ, bận rộn, thời gian được tính bằng vàng như ngày hôm nay thì mấy ai trong chúng ta bỏ ra một ít thì giờ để đọc lại những câu thơ chứa chan tình người, “Nhà thờ Đức Bà Paris” hay “Những người khốn khổ”, lắng lòng mình lại trước những câu, chữ và chiêm nghiệm nó. Nếu làm được điều đó, tôi tin chắc rằng bạn phải thốt lên rằng: “Ôi! V.Hugo, thật là kì diệu”. Sống giữa xã hội tư bản thối nát, đang trên đường suy thoái lúc bấy giờ, V.Hugo có được tinh thần nhân bản quá tuyệt vời. Ông là con người của chủ nghĩa nhân đạo cao cả, của tình thương yêu nhân loại xốn xang. Ông không lúc nào không nghĩ đến, không bênh vực, không đấu tranh cho quyền sống, quyền tự do, quyền hạnh phúc của con người cần lao với mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp bằng giải pháp tình thương. Tôi hy vọng rằng khóa luận sẽ mang đến một cách tiếp cận mới, có hiệu quả về tác phẩm văn học nước ngoài, nó sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn đồng môn trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy sau này. Và tôi tin rằng, những tư tưởng, ý niệm tốt đẹp mà V.Hugo hoài vọng sẽ mãi là hành trang cho mỗi người chúng ta vững bước vào đời với sự tin yêu, tin tưởng cuộc sống này hãy còn tươi đẹp biết bao! Có được sự đồng cảm, sự thương yêu và tin cậy lẫn nhau thì con người sẽ sống và làm việc với tinh thần thái độ hăng say hơn, góp phần làm cho xã hội ngày càng phồn vinh hơn. VI. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu khóa luận đạt hiệu quả tốt nhất, tôi phối hợp sử dụng nhiều phương pháp. Trang 4
  24. Đầu tiên, tôi dùng phương pháp tổng hợp, tức là đọc một số bài nghiên cứu có liên quan rồi tổng hợp và ghi chép lại những vấn đề cần thiết phục vụ cho bài nghiên cứu của mình. Sau đó, tôi dùng phương pháp khảo sát, xem xét qua tất cả tư liệu rồi phân loại, liệt kê nó, ghi lại những dẫn chứng phù hợp. Khi liệt kê dẫn chứng thì phải có phân tích nên phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích những luận cứ, luận điểm đưa ra, làm sao để cho vấn đề được nói đến có sức thuyết phục người khác. Trong bài viết, đôi khi tôi có sử dụng phương pháp so sánh làm nổi bật vấn đề. Tóm lại, luận văn đã đồng thời sử dụng nhiều phương pháp: tổng hợp, liệt kê, phân tích, so sánh, . . . tất cả chỉ với một nguyện vọng là làm sao nghiên cứu khóa luận đạt kết quả tốt nhất. VII. Cấu trúc luận văn TÌM HIỂU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT KỊCH VÀ TIỂU THUYẾT CỦA VICTOR HUGO MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU PHẦN NỘI DUNG Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài I. Chủ nghĩa lãng mạn Tây Âu như một trào lưu: 1.Cơ sở triết học. 2.Cơ sở mỹ học. II. Chủ nghĩa lãng mạn Tây Âu như một phương pháp sáng tác: 1.Nguyên tắc sáng tác của Chủ nghĩa lãng mạn. 2.Đặc điểm thi pháp cơ bản của Chủ nghĩa lãng mạn. Chương II: Khái quát về tác giả Victor Hugo I. Cuộc đời. II. Sự nghiệp sáng tác. Chương III: Một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của Victor Hugo I. Kịch drame: vở “Hernani” 1.Giới thiệu cốt truyện 2.“Trận chiến Hernani”, sự chiến thắng của Chủ nghĩa lãng mạn đối với Chủ nghĩa cổ điển. Trang 5
  25. II. Tiểu thuyết: 1.“Nhà thờ Đức Bà Paris”, toà nhà thờ vĩ đại bằng thơ ca. 2.“Những người khốn khổ”, đỉnh cao Chủ nghĩa lãng mạn Victor Hugo. PHẦN KẾT LUẬN PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 6
  26. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI I. Chủ nghĩa lãng mạn Tây Âu như một trào lưu Chủ nghĩa lãng mạn là thuật ngữ chỉ chung các trào lưu văn học-nghệ thuật ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XVIII và phát triển nhất vào thế kỉ XIX ở nhiều nước phương Tây. Đến thế kỉ XIX ở Pháp, Chủ nghĩa lãng mạn phát triển thành một trào lưu có hệ thống luận điểm, có phương pháp sáng tác riêng, phổ biến trên mọi lĩnh vực thơ, kịch, tiểu thuyết như trong các tác phẩm của Lamartine, Muyxê, Vigny, V.Hugo . . . . 1. Cơ sở triết học Chủ nghĩa lãng mạn ra đời trên cơ sở sự bất bình đối với xã hội tư sản được thiết lập sau cách mạng 1789, hay nói như C.Mác, Chủ nghĩa lãng mạn là “sự phản ứng đầu tiên chống lại cách mạng Pháp và phong trào Ánh sáng gắn liền với cuộc cách mạng đó”. Ngoài những diễn biến lịch sử lớn, phải kể đến những yếu tố tư tưởng và truyền thống văn học đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành của Chủ nghĩa lãng mạn. Trước hết, chúng ta thấy những nhà tư tưởng của thế kỉ Ánh sáng đã truyền bá những tư tưởng dân chủ và duy vật. Họ công kích tôn giáo, châm biếm thần học và ủng hộ tự nhiên thần luận. Họ tin tưởng mãnh liệt vào sự tiến bộ của lịch sử. Các nhà tư tưởng Ánh sáng cho rằng đặc quyền và áp bức sẽ nhường chỗ cho những chân lý vĩnh viễn. Và theo họ, sự thay đổi chế độ xã hội cốt yếu là nhờ ở việc truyền bá tư tưởng. Đến đầu thế kỉ XIX, Xanh Xi-mông, Phu-ri-ê, Ô-oen là những nhà xã hội không tưởng vĩ đại. Học thuyết của họ đã phê phán những mâu thuẫn của chế độ tư bản chủ nghĩa, đã chứng minh phải thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng họ không nhìn thấy lực lượng giai cấp sáng tạo ra xã hội mới. Họ muốn sáng tạo ra hạnh phúc trên trái đất bằng pháp luật, bằng tuyên ngôn, mà không dựa vào bản thân nhân dân.(Stalin toàn tập, trích Từ điển triết học, NXB Sự thật). Trang 7
  27. Về truyền thống văn học, Chủ nghĩa lãng mạn đã kế thừa chủ nghĩa tình cảm, một tư trào văn chương thế kỉ XVIII ra đời nhằm cân đối với tính lý trí của văn học Ánh sáng thế kỉ XVIII vốn nặng nề về lý trí. Về phương diện triết học, Chủ nghĩa lãng mạn Tây Âu đều tìm tới những hệ thống triết học mang tính duy tâm chủ quan để làm cơ sở cho học thuyết của mình. Mặc dù phủ định thực tại tư sản, thái độ coi thực tại là một cái gì không đáng quan tâm, coi “cái tôi” là đứng cao hơn tất cả, cuối cùng lại dẫn đến thái độ chiêm nghiệm trước thực tại, về thực chất là một thái độ “đầu hàng trước cảnh vô vị tư sản”. Âm vang trực tiếp của các tác phẩm của các nhà lãng mạn là mặc cảm bị tước đoạt, ý thức sâu sắc về sự trống rỗng của cuộc đời, về sự cô đơn và thất bại Đặc điểm chính của thế giới quan lãng mạn là sự lý giải một cách chủ quan về các hiện tượng đời sống, là gán cho đời sống cái mà chủ thể nghệ sỹ mơ ước, khát vọng. Do đó, các nhà lãng mạn không có nhận thức chính xác, mà có khi tùy tiện bóp méo các quy luật khách quan về sự phát triển của thực tại, đem đối lập cá nhân với xã hội, quá đề cao vai trò của cá nhân trong lịch sử. Bất bình với thực tại, các nhà lãng mạn muốn tìm ra những giải pháp chống lại những xấu xa trong xã hội, nhưng vì không nhận thức đúng đắn quy luật lịch sử cụ thể, nên chủ trương của họ thường xuất phát từ những ý tưởng trừu tượng, thường có tính chất không tưởng. Ví như trường hợp Bairơn nhìn ra phía trước, nhưng không thể nhận ra “đằng sau chốn xa cùng lấp lánh dải đất hứa hẹn của tương lai” (Biêlinxki); hay V.Hugo tuy có cảm tình sâu đậm với những người khốn khổ “nhưng lại đi tìm giải pháp cứu khổ bằng ảo tưởng tình thương” . . . . Chủ nghĩa lãng mạn là thế giới quan, là tiếng nói của thời đại mới sau cách mạng tư sản Pháp và những cuộc đấu tranh thắng lợi của nhân dân châu Âu chống ách xâm lược của Napoleon. Tuy cùng bất mãn đối với thực tại tư sản, nhưng do xuất phát từ những nguyên nhân giai cấp khác nhau, nên khuynh hướng của Chủ nghĩa lãng mạn cũng khác nhau: có khuynh hướng lãng mạn tiêu cực và khuynh hướng lãng mạn tích cực. Khuynh hướng lãng mạn tiêu cực (hay còn gọi là lãng mạn bảo thủ) − Cơ sở triết học là chủ nghĩa duy tâm: Kant, Béc-xơn, Freud, . . . . − Chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực, đó là tiếng kêu thất vọng, lời than vãn, sự luyến tiếc của tầng lớp phong kiến quý tộc suy tàn về một thời đại vàng son đã qua, về “một thiên đường đã mất”. Đặc điểm của khuynh hướng này là chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa thần bí, thái độ đối nghịch với lý trí, sự thoát ly thực Trang 8
  28. tại, chạy trốn cuộc đời, quay về quá khứ, đi vào tôn giáo, “đi sâu vào thế giới nội tâm với những tư tưởng bí ẩn thiên định của cuộc đời, về ái tình và về cái chết” (M.Gorki). Khuynh hướng lãng mạn tích cực (hay còn gọi là lãng mạn tiến bộ) − Cơ sở triết học là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Ô-oen và Phu-ri-ê. “Họ đã nhìn vào chiều hướng của sự phát triển thực tại, và thực tế là họ đã đi trước sự phát triển ấy” (Lênin). − Chủ nghĩa lãng mạn tích cực hướng về tương lai, tràn đầy nhiệt tình và khát vọng chân lý, nó “tăng cường ý chí con người đối với cuộc sống, thức tỉnh lòng bất phục tùng đối với thực tại, đối với mọi đè nén áp bức” (Gorki). Nó dẫn con người vào những tình cảm đẹp, những say mê lớn, ra sức biểu dương những phẩm chất cao quý, sẵn sàng hy sinh và lập nên những kì tích bất hủ. Sáng tác của họ phản ánh những cuộc đấu tranh xã hội hay giải phóng dân tộc, phù hợp với lợi ích nhân dân. 2. Cơ sở mỹ học Chủ nghĩa lãng mạn bên cạnh là “sự khước từ thực tại và nguyện vọng muốn thoát ra khỏi thực tại đó” (Emile Faguet), nó còn là “thị hiếu về ước mơ, về sự huyền diệu và phóng khoáng, của trí tưởng tượng vượt khỏi lề thói”. Vì thế, lý tưởng lãng mạn đôi khi làm biến dạng thực tế để phục vụ cho nhu cầu thẩm mỹ và tình cảm. Về mặt nghệ thuật, Chủ nghĩa lãng mạn đã thay thế sự tìm tòi một chân lý phổ biến và trừu tượng bằng sự miêu tả những kinh nghiệm riêng và cụ thể. Các nhà văn lãng mạn đã phê phán các nhà văn cổ điển nêu thành nguyên tắc sự thống trị của lý trí để phủ nhận những hứng thú của ước mơ và những thao thức của con tim hoặc cấm đoán sự bộc lộ sâu xa của của những tâm hồn cá nhân. Về mặt thị hiếu thẩm mỹ, Chủ nghĩa lãng mạn là sự nổi dậy chống lại mọi ước lệ, mọi quy tắc gò bó của chủ nghĩa cổ điển. V.Hugo nói rằng: “Chính với những lưỡi kéo của những quy tắc tam duy nhất, người ta đã cắt mất cánh của các nhà thơ”. Trong bài tựa Crôm-oen của V.Hugo ông cũng đã xác định: “Ba nguyên tắc ? Không, chỉ có một. Đó là tự do. Tự do trong nghệ thuật và tự do trong cấu trúc”. Thật vậy, tự do là nguyên tắc lớn nhất của Chủ nghĩa lãng mạn. Với Chủ nghĩa lãng mạn, đã xuất hiện “một nền văn học được giải phóng” trên nhiều bình diện: thơ ca, tiểu thuyết, sân khấu. Chủ nghĩa lãng mạn đã giải phóng thơ ca, cách tân sân khấu với vở “Hernani” 1830. Nhờ nguyên tắc tự do, Chủ nghĩa lãng mạn đã đem lại một làn sóng tiểu thuyết cực kỳ phong phú và đa dạng. Với cương lĩnh của Chủ nghĩa lãng mạn, V.Hugo đả Trang 9
  29. phá sự phân chia nghệ thuật thành các loại hình cao thấp có tính chất đẳng cấp của chủ nghĩa cổ điển, xóa bỏ ranh giới giữa bi kịch và hài kịch, phá tung những quy tắc của thi pháp cổ điển. Trong mỹ học, Heghen đã đưa ra nhận xét: “Tinh thần quay trở về mình, có được ở trong bản thân nó cái tinh thần khách quan mà nó vẫn hoài công tìm kiếm ở trong cái thế giới cảm quan bên ngoài; cảm thấy mình và nhận thức rằng mình thống nhất với bản thân mình. Sự nâng cao này làm thành nguyên lý cơ bản của nghệ thuật lãng mạn nhằm vươn tới đời sống nội tâm tuyệt đối”. Các chủ đề về tình yêu, nỗi cô đơn, nỗi buồn, những lý tưởng không đạt được được sử dụng rộng rãi trong nghệ thuật lãng mạn. Những chủ đề quan trọng và quen thuộc của văn học lãng mạn bắt nguồn từ cảm thức về thời đại, về lịch sử, về thân phận con người. Trong đó, con người thất vọng, bàng hoàng trước những cơn lốc lịch sử, trước sự trôi chảy của dòng đời, về định mệnh, về tôn giáo Họ đã làm phong phú cho nghệ thuật bằng những hình tượng, những chủ đề mới. Trong các tác phẩm, họ đã đề cập đến các chủ đề có liên quan đến cuộc đấu tranh của nhân dân, đến quá khứ anh hùng, đến các sự kiện và những chiến công anh dũng của nhân dân. Điều đó cho thấy, người nghệ sĩ lãng mạn không phải là người chỉ biết có ước mơ, mà thực tế xã hội đã thức tỉnh người nghệ sĩ tình cảm yêu nước tha thiết và sự phản đối với mọi bất công. Nhân vật lãng mạn là những nhân vật mới không phải là cá nhân hài hòa với tập thể như con người trong thời đại Ánh Sáng. Nhân vật lãng mạn là những nhân vật “nổi loạn” chống đối với thực tại tư sản tầm thường. Họ là những người thực hiện các suy tưởng lãng mạn, các phản kháng lãng mạn. Các thái độ lãng mạn thường giống nhau: nặng chất suy tưởng, thiên về đời sống tình cảm, cô đơn và u sầu, xa cách và nổi loạn, không thỏa hiệp được với thực tại cuộc đời, thường có kết thúc mang tính bi kịch, dù họ là nhân vật lãng mạn hướng nội hay lãng mạn hướng ngoại, tiêu cực hay tích cực. Chủ nghĩa lãng mạn ưa sử dụng các thủ pháp nghệ thuật như: phong vị ngoại lai thể hiện trong cách lựa chọn đề tài, nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ, không gian và thời gian nghệ thuật không phải là những khung cảnh, con người quen thuộc ở thị thành, cung đình, mà ở những nơi xa lạ, những thời điểm xa xưa, những tập tục khác thường là một phương thức hữu hiệu đem lại phong vị tươi mới cho tác phẩm. Nguyên tắc tự do góp phần trẻ hóa lối hành văn, cách gieo vần, cách sử dụng các biện pháp tu từ, cách lựa chọn các không gian và thời gian nghệ thuật. Và do nhiệt tình, sôi nổi muốn tự thể hiện, chia sẻ và thuyết phục, văn chương lãng mạn nói chung thường mang tính Trang 10
  30. hùng biện. Ở từng nhà văn có các thủ pháp riêng. Đặc biệt nhất là V.Hugo, người đã thể hiện được cả một hệ thống nghệ thuật riêng của mình với một loạt các thủ pháp nghệ thuật đặc thù như tương phản, cường điệu, trữ tình ngoại đề, sự đối lập giữa cái trác tuyệt và cái thô kệch, . . . . Theo nhận xét của các nhà phê bình, nghệ thuật lãng mạn có khả năng dung nạp rộng rãi các phương tiện thể hiện. Thẩm mỹ của Chủ nghĩa lãng mạn chú ý sự hỗn hợp chặt chẽ giữa các thể loại với nhau, tạo sự sinh động, tự do “Tinh thần lãng mạn chính là sự nối kết liên tục các yếu tố đối kháng nhau: tự nhiên và nghệ thuật, thơ ca và văn xuôi, sự nghiêm túc và thú vui, kỷ niệm và dự cảm, tư tưởng trừu tượng và những cảm giác sống động, sự sống và cái chết . . . hòa lẫn với nhau một cách mật thiết trong thể loại lãng mạn” (A W Sleigel). II. Chủ nghĩa lãng mạn như một phương pháp sáng tác Phương pháp sáng tác là linh hồn của một nội dung hoạt động sáng tạo nghệ thuật, được biểu hiện thành các bình diện mang tính chất các giải pháp thẩm mỹ nhằm khắc phục trở ngại để từ chân lí đời sống tới chân lí nghệ thuật một cách tối ưu. Nghệ thuật lãng mạn là một nghệ thuật không chấp nhận thực tại khách quan, là một nghệ thuật không muốn “mô tả hiện thực có thực”, mà chỉ chú trọng đào xới cảm xúc chủ quan nên trường thẩm mỹ của họ là vùng của “cái tôi nội cảm” (Hêghen), vấn đề lớn nhất đối với họ là vấn đề “tự do tuyệt đối”, nhưng không phải là tự do ở ngoài đời, mà chỉ là thứ tự do trong tâm tưởng, trong mộng ước mà thôi. Mở đường cho lý thuyết lãng mạn thế giới, Kant, nhà mỹ học Đức cuối thế kỉ XVIII tuyên bố: “Vẻ đẹp không ở đôi má hồng của cô thiếu nữ, mà trong con mắt của kẻ si tình”. V.Hugo, trong lời tựa của vở kịch đầu tay “Hernani”, ông cho rằng: “Nghệ thuật không đi giày đỏ, đội mũ đỏ”. Tư tưởng sáng tạo nghệ thuật của Chủ nghĩa lãng mạn là một tư tưởng dựa trên chủ nghĩa duy tâm chủ quan, và một thái độ ít gửi gắm hy vọng nhất vào cuộc đời và vào sức mạnh thực tế của con người. Một quan niệm coi nghệ thuật chỉ là nơi để nghệ sĩ giải bày tâm tưởng, nghệ thuật không có nhiệm vụ giải đáp các vấn đề thuộc mâu thuẫn cơ bản của thời đại. Xuất phát từ trường thẩm mỹ và tư tưởng sáng tạo nghệ thuật như trên, Chủ nghĩa lãng mạn đề ra các nguyên tắc sáng tác của mình. Trang 11
  31. 1. Nguyên tắc sáng tác của Chủ nghĩa lãng mạn Chủ nghĩa lãng mạn chủ trương dựa vào các nguyên tắc sau để sáng tác: Nguyên tắc 1: Chối từ thực tại. Xuất phát từ thái độ “nguyền rũa thực tại”, nghệ sĩ lãng mạn tự cho mình đứng trên hoàn cảnh. Do đấy, nghệ thuật này thường không xuất phát từ những yêu cầu cơ bản của cuộc sống để xây dựng hình tượng, mà chủ yếu dựa vào ý muốn chủ quan của nghệ sĩ để sáng tác. Vì thế, ngay trong các tác phẩm lãng mạn tích cực, các chi tiết cụ thể, chân thực, sinh động đều bị đẩy xuống bình diện thứ yếu, cốt lõi là dụng công vào việc xây dựng nhân vật lý tưởng. Nguyên tắc 2: Tự do bay lượn trong nghệ thuật. Tách mình ra khỏi cảnh đời thực, chủ trương nghệ thuật chỉ “vị nghệ thuật”, nên nghệ thuật lãng mạn chọn hình thức làm cứu cánh của mình. Vấn đề “tự do cá nhân”, “tự do sáng tác” là vấn đề bậc nhất của họ. Họ từ chối “đơn đặt hàng của xã hội”, chỉ nhận “đơn đặt hàng của trái tim”. Nghệ thuật không sống với đời sống mà chỉ sống với mình. Nguyên tắc 3: Điển hình hóa tâm trạng. Vì lấy cái “tôi nội cảm” của mình làm thước đo cho muôn vật, nghệ thuật lãng mạn tước đi vai trò nhận thức khách quan của nghệ thuật. Họ cho rằng, nghệ thuật không phải là “tấm gương” phản chiếu đường đời, mà chỉ là phương tiện bộc lộ tâm trạng. Nếu chủ nghĩa cổ điển chủ trương hạn chế cảm hứng, thì nghệ thuật lãng mạn lại vung tay thao túng cảm hứng đến mức tùy hứng. Họ nhấn mạnh tính khí, chứ không chủ trương tìm mối quan hệ biện chứng giữa tính cách và hoàn cảnh. Như vậy, họ đã tự thu hẹp tính cách nhân vật vào phạm vi tâm trạng. Từ đó, trữ tình không chỉ là một biện pháp, mà còn mở rộng thành chủ nghĩa trữ tình say đắm. 2. Đặc điểm thi pháp cơ bản của Chủ nghĩa lãng mạn 2.1. Về phương diện cách nhìn Văn học lãng mạn là một hiện tượng văn học phong phú phát triển trong nhiều thời kì, nhiều thể loại, nhiều khuynh hướng. Chắc chắn trong từng thời kỳ, với mỗi thể loại, mỗi khuynh hướng, với từng tác giả sẽ có cách nhìn nhận và khám phá thế giới đa dạng mà lý luận không thể đúc kết. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, ta vẫn có thể tìm thấy nét nổi bật nhất trong cách nhìn của các nhà văn lãng mạn đối với hiện thực. Đó là khuynh hướng đề Trang 12
  32. cao cái tôi chủ quan trong phương thức nhận thức và thể hiện cuộc sống bằng hình tượng; lấy cái chủ quan để thay thế hoặc lấn át cái khách quan, lấy mộng tưởng thay thế cho thực tế, lấy cái ngẫu nhiên cá biệt thay cho qui luật. Văn học lãng mạn là nơi người nghệ sĩ gởi gắm những giấc mơ có tính chủ quan. Khuynh hướng này đã từng có trong thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao nhưng phát triển ở đỉnh cao và trở thành hệ thống lý luận trong Chủ nghĩa lãng mạn. Ta có thể bắt gặp cách nhìn này trong “Những người khốn khổ” của V.Hugo ở từng chi tiết, những sự kiện lịch sử, những nhân vật Tác phẩm đã được viết bằng một trái tim yêu thương và một khát vọng cải tạo xã hội tha thiết và mãnh liệt Tóm lại, về phương diện cách nhìn, Chủ nghĩa lãng mạn cơ bản vẫn là khuynh hướng chủ quan trong tiếp cận và lý giải hiện thực. 2.2. Về phương diện cách viết Cách viết là vấn đề hết sức cụ thể, nên trong thực tế, để làm rõ lý thuyết thường ta vẫn phải tách chia ra: thể loại thơ, kịch và tiểu thuyết. Thể loại thơ Thơ là thể loại mà văn chương lãng mạn luôn luôn tìm đến. Bởi đó là “mảnh đất màu mỡ” có khả năng nhiều nhất trong việc giải bày, bộc lộ cái tôi muôn màu của chủ thể. Nhìn vào hình thức, thơ lãng mạn dung nạp các hình thức đa dạng khác nhau, không bị lệ thuộc vào hệ thống thi luật gò bó của thi ca cổ điển, đã đem đến cho thơ lãng mạn khả năng diễn tả thế giới phong phú và tinh vi của tâm hồn con người. Ở góc độ thi pháp, vấn đề hình thức câu thơ có liên quan hàng loạt đến các vấn đề khác: cách thức cảm nhận của con người về thế giới, về không gian thời gian, về đề tài, về việc lựa chọn ngôn ngữ, vấn đề tổ chức lời thơ, kết cấu nhạc điệu, khả năng bộc lộ cái tôi được cá thể hóa Trong thơ luôn xuất hiện “cái tôi” chủ thể với tư cách là trung tâm vũ trụ, là nguồn thi tứ, là nhu cầu được tự biểu hiện, nhu cầu được tận hưởng, được chia sẻ những u uất, nhu cầu được hưởng hạnh phúc riêng tư. Chính nhu cầu này làm cho ngôn ngữ thơ gần gũi với ngôn ngữ đời thường, nó bớt đi rất nhiều những tượng trưng, sáo mòn, ước lệ. Thơ ca lãng mạn đã kế thừa thi pháp của thơ ca cổ điển. Nhưng bên cạnh sự kế thừa đó, nó còn có sự cách tân tạo thành những qui luật chung của thi ca khuynh hướng văn học lãng mạn. Trang 13
  33. Lí luận kịch Kịch thường được hiểu vừa theo nghĩa là một loại hình nghệ thuật sân khấu vừa có ý nghĩa là kịch bản văn học, là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp bao gồm các yếu tố văn học, âm nhạc, vũ đạo .,hội hoạ và điêu khắc. Kịch bản văn học là một trong 4 loại thể cơ bản cuả văn học.(Từ điển văn học tập III,1984) Theo Hegel: “Thi kịch (tức là kịch) sử dụng những nghệ thuật khác như là cơ sở đơn giản và hoàn cảnh cảm quan những vần bị ngự trị bởi lời thơ (tức kịch bản) nó đóng vai trò chủ yếu, song mặt khác, cái buổi đầu chỉ có giá trị guíp cái sau có thể trở thành cứu cánh và không vượt giới hạn cuả mình, có thể tự nâng mình thành cái đẹp độc tôn”.(Dẫn lại Nguyễn Lương Ngọc, Nguyên lý luận văn học NXB Giáo dục 1962 Tập 2 trang 42). Theo mĩ học cuả Hegel và cuả Bielinski, kịch (trước hết là thể tài bi kịch) đã được khảo sát với tính cách là hình thức cao nhất cuả sáng tác văn học, là tinh túy cuả thơ ca.(Dẫn lại cuả Nguyễn Văn Trung, Lược khảo văn học Nam Sơn Sài Gòn xuất bản 1996). Và Hegel khẳng định bản chất cuả phương thức kịch: “Kịch là sự thống nhất có trung gian giữa những nguyên tắc cuả nghệ thuật tự sự và nghệ thuật trữ tình”. Lucien Dubech nhà lịch sử nghệ thuật đã nhận xét về nguồn gốc kịch: “Kịch, theo qui tắc cuả tất cả những bộ môn cao cấp, đã bắt đầu bằng thi ca, ở khởi đầu mọi ngành nghệ thuật là thơ Asgust Comte cũng cho rằng: “kịch không phải là nghệ thuật đầu tiên, mà chỉ là một hình thức cuả thơ”. Sheldon Cheney trong bài báo “ Theatre- Three Thousand Year” (New York- 1961- Intro duction) đã viết: “Bất cứ khi nào và ở đâu, loài người đã tiến bộ ngoài việc chiến đấu chỉ vì sự tồn tại, với thần thánh, để giải trí và tự biểu hiện, loài người còn có sân khấu trong một vài ý nghĩa nào đó”. Có mấy cách phân loại kịch: Nếu dựa trên nội dung tư tưởng và tính chất cuả xung đột, người ta chia ra hai loại chính: Bi kịch (Tragedy) và hài kịch (Comedy). Đấy là hai thể loại cuả thời cổ Hy Lạp. Về sau ra đời thể kịch hỗn hợp cái bi, cái hài và chất anh hùng gọi là chính kịch (drama) là do yêu cầu phản ánh hiện thực phức tạp và đa dạng. Đến thế kỉ XX ở phương Tây nảy sinh một số trào lưu kịch mới như kịch hiện sinh cuả J.P.Xactrơ, A. Camus, kịch phi lí cuả Ionexco. Chính kịch trở thành loại chính trên sân khấu thế giới ngày nay, gọi tắt là kịch. Trang 14
  34. Nếu phân loại kịch theo ngôn ngữ nhân vật, ta có kịch nói, ca kịch (kịch dân ca), vũ kịch (Ballet), nhạc kịch (Opera), kịch câm và kịch thơ. Định nghĩa kịch thơ trong Từ điển văn học 1 ông Nguyễn Xuân Nam viết: “Thể loại kịch thông qua lời thơ để thể hiện nội dung kịch. Các diễn viên phải đọc hoặc ngâm thơ khi diễn xuất. Kịch thơ có lịch sử lâu đời. Trong thời kì chủ nghĩa cổ điển ở châu Âu, phần lớn các vở kịch là thơ”. Chúng tôi thấy định nghĩa trên dựa theo yếu tố thuần tuý hình thức. Có thể cho rằng quan niệm cuả nhà thơ Hoàng Cầm rõ hơn, tuy vẫn chưa chỉ ra đặc trưng cuả kịch thơ “Theo ý tôi một kịch thơ phải đạt hai điều kiện: Trong kịch thơ có thơ và trong thơ là kịch”. (Báo người Hà Nội số 85 ngày 1-10- 1988 Sau đây chúng tôi điểm qua mấy yếu tố cơ bản cuả một vở kịch: − Kịch bản trình bày những biến cố, mâu thuẫn xung đột qua lời nói của nhân vật. Tác giả có nhiệm vụ sáng tạo tính cách và điển hình trong sự mâu thuẫn và xung đột ấy. − Hành động kịch: tức là những diễn biến của mâu thuẫn và xung đột. Hành động kịch phải là hành động tham gia trực tiếp vào xung đột (chứ không phải bất cứ hành vi nào của nhân vật trên sân khấu) − Hành động kịch phải có kịch tính, tức là nó phải thay làm đổi mối quan hệ giữa các nhân vật và bộc lộ tư tưởng chủ đề kịch. Theo nghĩa đó, hành động kịch bao gồm cả lời nói. (Hồ Ngọc, nghệ thuật viết kịch- Văn hóa năm 1973 trang 14 và 15). Hành động kịch chia ra hai loại-hành động bên trong và hành động bên ngoài-đó là hai hình thức của hành động. Các hành động tuân theo qui luật nhân quả “Tiền nhân hậu quả”, hành động này gây ra hành động khác (gián tiếp và trực tiếp). Kết cấu hành động kịch chính là kết cấu vở kịch, thường theo qui luật phổ biến sau (5 giai đoạn): 1-Giới thiệu. 2- Thắt nút. 3- Phát triển. 4- Cao trào (điểm đỉnh) 5- Cởi nút (kết thúc). Ngôn ngữ trong kịch là yếu tố chủ yếu xây dựng tính cách nhân vật, nó biểu lộ bên trong (suy nghĩ); nó gây ra mọi hành động, tạo ra mâu thuẫn và đẩy tới xung đột. Vì vậy, ngôn ngữ trong kịch cần phải “tính cách hóa” “động tác hóa” “thi hóa” “hình tượng hoá” (tạo hình, âm thanh, màu sắc) và phải xúc tích, tinh luyện. Trang 15
  35. Đặc trưng nhân vật kịch; đơn giản về thể hiện tâm lí bên trong (trái với tiểu thuyết) nhưng xúc cảm phải được thể hiện đến độ căng thẳng bằng hành động kịch. Nhiều thế kỉ trước, kịch trường theo qui tắc tam nhất do Aristote đề ra từ (384-322 trước Công nguyên): − Thống nhất về hành động kịch (kịch xoay quanh một hành động chính) − Thống nhất về thời gian (trong 24 giờ/ 1 ngày) − Thống nhất về không gian (1 địa điểm). Về tiểu thuyết Tiểu thuyết là một loại hình tự sự, tiểu thuyết lãng mạn cũng tuân thủ những đặc thù của tiểu thuyết nói chung, nhưng do văn chương lãng mạn có khuynh hướng nghiêng về diễn tả thế giới của khát vọng chủ quan, nên về thi pháp, Chủ nghĩa lãng mạn cũng có những nét đặc thù riêng: đó là chất trữ tình tha thiết, là thế giới nội tâm được khai thác một cách tinh vi, là thế giới thiên nhiên thơ mộng, là tình yêu lứa đôi muôn màu, muôn vẻ. Văn xuôi lãng mạn do đó giàu chất thơ, đầy hấp dẫn, làm say đắm lòng người. Văn xuôi lãng mạn kết hợp trong mình nó nhiều hình thức thể hiện đa dạng khác nhau: kể và tả, triết lí và bình luận, độc thoại và độc thoại nội tâm. Đặc biệt, hình thức độc thoại nội tâm được sử dụng rộng rãi và đạt hiệu quả cao trong khả năng diễn tả thế giới nội tâm. Nó có khả năng đi sâu kích thích những rung động thẩm mỹ sâu xa trong lòng người đọc. Với tiểu thuyết lãng mạn, yếu tố truyện đã không còn giữ vai trò trung tâm như tiểu thuyết cổ điển truyền thống, thay vào đó là yếu tố xây dựng nhân vật, nhất là xây dựng tâm lý nhân vật. Tuy nhiên, tiểu thuyết lãng mạn chưa quan tâm đến những chi tiết chân thật của đời sống, những cảnh ngộ đời thường. Các tiểu thuyết lãng mạn có khuynh hướng xây dựng những nhân vật ở trong những cảnh ngộ phi thường, siêu phàm, để trên đó, nhân vật bộc lộ những tính cách phi thường, trác tuyệt. Để xây dựng nhân vật như thế, các tiểu thuyết gia thường sử dụng các biện pháp tương phản, cường điệu, lý tưởng hóa Trong đó, nghệ thuật tương phản như một biện pháp nghệ thuật chính yếu, hệ thống và nhất quán trên nhiều phương diện của tác phẩm. Tương phản giữa tính cách và hoàn cảnh, tương phản giữa các nhân vật với nhau, tương phản ngay trong một nhân vật Ví dụ như trong “Nhà thờ Đức Bà Paris” đó là sự tương phản giữa cái phần bên ngoài tật nguyền, xấu xí với trái tim cao thượng của gã kéo chuông nhà thờ Đức Bà Quazimodo, hay tương phản giữa Trang 16
  36. ánh sáng chiếu rọi từ trái tim Jean với cái cống ngầm Paris đen ngòm đầy bóng tối khủng khiếp trong “Những người khốn khổ”. Cái tương phản được gắn liền với thủ pháp cường điệu, phóng đại, của các yếu tố phi thường trong tính cách và hoàn cảnh để đẩy nhân vật tới mức siêu phàm, trác tuyệt trong Chủ nghĩa lãng mạn trở thành một hệ thống thi pháp được Chủ nghĩa lãng mạn xem như nguyên tắc trong sáng tạo nghệ thuật. Chủ nghĩa lãng mạn quan niệm: “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”. D Trang 17
  37. CHƯƠNG II KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VICTOR HUGO I. Cuộc đời Victor Hugo là nhà thơ, nhà viết tiểu thuyết, nhà viết kịch danh tiếng nhất của nước Pháp, là nhân vật dẫn đầu phong trào lãng mạn của nền văn chương Pháp.Victor Hugo, cây đại thụ tỏa bóng rợp thế kỉ XIX ở Châu Âu, từng được xem là “người gây nên bão tố từ đáy lọ mực”. Ông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1802 ở thành phố Bzanson. Cha là một chiến binh, sĩ quan cao cấp dưới thời Napoleon đệ nhất tên là Leopaul Hugo. Mẹ là bà Tri-buy-sê mang dòng máu xứ Vandet, xuất thân từ tầng lớp bình dân. Do sự khác biệt về tư tưởng chính trị, tính tình tương phản nhau nên giữa cha và mẹ V.Hugo đã dần dẫn đến việc ly dị chính thức vào năm 1818. V.Hugo sống nhiều với mẹ và đã từng sang Italia và Tây Ban Nha thăm bố, lúc ấy đang đóng quân ở đó. Hugo sớm hấp thụ tinh thần dân chủ và lý tưởng cách mạng thời đại, sáng tác thời kì đầu của ông chịu ảnh hưởng của tư tưởng quân chủ nhưng dần ông thiên về tư tưởng dân chủ. Hugo có khả năng sáng tác rất sớm. Năm 15 tuổi, ông được giải thưởng về thơ của viện Hàn lâm Pháp, hai năm sau với hai món học bổng của triều đình Hugo chuyên tâm vào sự nghiệp sáng tác. Nhờ sự khuyến khích của mẹ, V.Hugo đã lập ra tạp chí văn học “Người bảo thủ văn học” (1819-1821) dưới sự bảo trợ của Satôbriăng. Trong cuốn nhật kí của mình ông đã viết: “Tôi sẽ trở nên một Satôbriăng hoặc chẳng ra gì cả”. Vào những năm 1820, Hugo tham gia nhóm nhà văn lãng mạn và nhanh chóng trở thành thủ lĩnh của trào lưu này. Năm 1821 mẹ của ông qua đời. Đến năm 21 tuổi, V.Hugo kết hôn với người bạn ấu thơ Adèle Foucher và họ đã có với nhau bốn người con. Khả năng sáng tạo của Hugo rất lớn lao, mỗi ngày ông có thể làm một trăm câu thơ hay, viết 20 trang tiểu thuyết. Và qua các tác phẩm, ông đã phản ánh các phong trào chính trị, văn chương của thời đại, và bộc lộ rõ niềm tin nơi khoa học, nền dân chủ và tự do. Trang 18
  38. Từ năm 1822, các tập thơ liên tiếp được xuất bản, bắt đầu từ “Đoản thi” và “Tạp thi”. Ở lĩnh vực kịch, Hugo cũng đạt được những thành công nhất định, đặc biệt là vở “Hernani”. Ở lĩnh vực tiểu thuyết, năm 1823, Hugo cho ra đời ấn phẩm đầu tiên “Hand’ Islande”. Sau đó, hàng lọat các tác phẩm xuất sắc khác ra đời: “Ngày cuối cùng của kẻ bị kết án” (1829), qua đó ông đã phản kháng án tử hình, “Nhà thờ Đức bà Paris” (1831), ca ngợi tình thương yêu của những con người lao động bình thường như: Quazimodo và Esmeralda , “Clode Geur” (1834), “Thằng cười” (1869) Năm 1841, ông được bầu vào viện Hàn lâm Pháp. Năm 1845, ông trở thành nguyên lão của nước Pháp, chấp nhận cuộc sống lưu đày vì tự do. Đây là thời kì đặc biệt nhất của cuộc đời Hugo, và cũng là giai đọan đạt đỉnh cao trong phong độ sáng tác của ông: hàng lọat các tập thơ nối tiếp nhau ra đời. Bên cạnh đó, Hugo đã cho hoàn thành pho tiểu thuyết bất hủ: “Những người khốn khổ” (1861). Năm 1859, Napoleon đệ tam ra lệnh ân xá cho Hugo. Ông khước từ với lí do: “Tôi chịu đến cùng số phận của Tự do. Tự do đã bị trục xuất khỏi đất Pháp, khi nào Tự do trở về đất nước, tôi sẽ trở về cùng Tự do”. Năm 1870, Hugo trở về Paris sau khi chế độ Lui Napoleon sụp đổ. Cũng trong khoảng thời gian này, công xã Paris nổ ra. Năm 1873, ông được bầu vào Thượng viện. Những năm cuối cùng của cuộc đời mình, ông đã hòan thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng: “Năm chín mươi ba”. V.Hugo mất ngày 25 tháng 5 năm 1885. Thi hài ông được đưa vào điện Pantheon. Hugo là một trong những khổng lồ văn chương hiếm hoi của thế giới. Hugo, nhà văn nhân đạo sáng ngời, là tấm gương tranh đấu không biết mệt mỏi cho nền tự do, dân chủ của nhân loại tiến bộ. II. Sự nghiệp sáng tác Thiên tài của Hugo bộc lộ từ rất sớm. Với khả năng sáng tạo tuyệt vời, ông đã để lại cho nhân lọai một sự nghiệp văn học đồ sộ. Thế kỉ XIX với nền văn chương đặc sắc của nước Pháp đã được gọi là “thế kỉ của Victor Hugo”. Sự nghiệp sáng tác của Hugo có thể chia ra làm bốn giai đọan: − Giai đoạn 1816-1830: đây là giai đoạn sáng tác trong những năm thiếu thời. Năm 1817, ông được giải thưởng về thơ của Viện Hàn lâm Pháp. Năm 1819, ông cũng đã đoạt giải nhất trong kì thi thơ phú toàn quốc. Năm 1821, V.Hugo cho xuất bản thi phẩm đầu tiên có tên là “Đoản thi và Tạp thi”. Năm 1823, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên tên là “Hand’ Islande”, mô Trang 19
  39. tả sự man rợ của một bộ lạc chặt đầu người bằng búa đá và uống máu kẻ địch. Năm 1824, Hugo cho xuất bản tập thơ ngắn “Nouvelles Odes” (các bài thơ ngắn mới), rồi hai năm sau, xuất hiện cuốn tiểu thuyết “Bug-Jargal”. Năm 1829, tập thơ “Về phương Đông” ra đời gợi lên các phong vị lãng mạn và màu sắc của phương Đông. Hugo cũng đã làm chấn động kịch trường với kịch bản “Cromwell” xuất bản 1827. Thông qua vở kịch “Cromwell” ông đã phá vỡ các luật lệ, các qui tắc tam duy nhất của chủ nghĩa cổ điển chi phối cách viết kịch từ các thời kì trước, và chủ trương rằng trong vở kịch phải có cả các sự việc bi hài, có cả sự tầm thường lẫn sự cao cả. Chính điều này đã giúp cho Chủ nghĩa lãng mạn toàn thắng về mọi mặt. Năm 1829, vở kịch “Marion de Lorme” cũng được ra đời. − Giai đoạn sáng tác thứ hai từ 1830-1852: đây được coi là giai đoạn sáng tác phong phú của ông. Ngày 25 tháng 2 năm 1830, ông cho trình diễn vở kịch lịch sử “Hernani”. Vở kịch hầu như đã bỏ qua tất cả các qui luật cổ điển của Racine và Corneille. Năm 1831, ông cho ra đời tác phẩm “Nhà thờ Đức bà Paris”. Cuốn tiểu thuyết này đã làm xúc động lương tâm quần chúng hơn cuốn “Ngày cuối cùng của một kẻ bị kết án”. Nhân dịp vua Louis Phillippe trở thành vị vua của thể chế quân chủ lập hiến sau cuộc Cách mạng tháng Bảy, ông đã làm một tập thơ đề cao sự kiện kể trên với tên “Lời thơ sau cuộc Cách mạng tháng Bảy 1830”. Cũng vào thời gian này, Victor Hugo còn cho xuất bản tập thơ “Lá thu” (1831) với các cảm hứng cá nhân, thân thương. “Các bài ca Hoàng Hôn” (1835) mang tính chính trị, “Các lời nội tâm” (1837) chứa đựng các ý tưởng cá nhân và triết học, “Tia sáng và bóng tối” (1840) Vở kịch “Nhà vua tiêu khiển” (1832) mô tả tình yêu nông nổi của Francis I vào thời kỳ Phục Hưng Pháp. Ba vở kịch thơ kế tiếp là “Lu crèce Borgia và Marie Tudor” (1833), “Angello, bạo chúa của thành Padoue” (1835), “Rue Blax” (1838) − Giai đọan 1851- 1870: là giai đoạn ông sống lưu vong ở đất Bỉ. Đây là giai đoạn ông sáng tác thành công nhất, có nhiều tác phẩm nổi tiếng nhất. Tác phẩm mở đầu cho những kiệt tác của giai đọan này là “Trừng phạt” (1853). Tác phẩm trữ tình lớn nhất của Hugo, tập thơ “Mặc tưởng” (1856) Trang 20
  40. được chia làm 2 phần “Ngày trước” và “Ngày nay” nói lên nỗi niềm tâm sự riêng tư. Tiếp đến là tập thơ “Truyền kỳ các thế kỷ” (1862). Cũng trong năm này, ông cũng đã hoàn thành thiên tiểu thuyết dài nhất và danh tiếng nhất: “Những người khốn khổ” (1861), cuốn truyện mô tả rõ ràng và kết án sự bất công của xã hội trong thế kỷ XIX. Ngoài tác phẩm lừng danh “Những người khốn khổ”, V.Hugo còn viết các tác phẩm khảo luận có tên là “William Shakespeare” (1864), tiểu thuyết “Những người lao động trên biển” (1868), “Người cười” (1869) - cuốn tiểu thuyết về người dân nước Anh chống lại chế độ phong kiến của thế kỷ XVII. − Giai đọan 1870 trở về sau, lúc này ông đã trở về Pháp. Giai đoạn này ông sáng tác rất ít chỉ tập trung vào các hoạt động chính trị. Hugo không tán thành bạo lực cách mạng nhưng ông rất khâm phục những người chiến sĩ cộng sản. Ông viết tập thơ “Năm khủng khiếp” để ca ngợi họ. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông là cuốn “Năm chín mươi ba”, tập trung vào năm 1793 đầy chính biến tại nước Pháp, đề cập tới sự công bằng và bác ái chống lại hậu trường của cuộc cách mạng Pháp. Năm 1877, ông viết xong tập thơ “Nghệ thuật làm ông” và “Năm 1883”, phần cuối tập thơ “Truyền kỳ các thời đại” cũng đã hoàn thành. Nhìn chung, sự nghiệp sáng tác của ông vừa phong phú về thể loại, vừa trác tuyệt về chất lượng. Ngoài thơ, kịch, tiểu thuyết ông còn để lại hơn 2000 bức tranh và nhiều tác phẩm khảo cứu và các tùy bút khác Giới thiệu đôi nét về thơ của Victor Hugo Qua quá trình tìm hiểu sự nghiệp văn chương của ông, ta thấy thơ là lĩnh vực mà ông theo đuổi từ khi còn thiếu thời đến lúc cuối đời. Nó là mảng sáng tác tương đối lớn, góp phần tạo nên sự nghiệp văn chương đồ sộ của ông. Do có được cảm quan nhạy bén của tâm hồn lãng mạn nên những tâm tư tình cảm, hiện thực cuộc sống đã đi vào thơ ông một cách tự nhiên. Đối với Hugo, gia đình, con và các cháu luôn là đề tài gây được cảm hứng để nhà thơ sáng tác. Làm cha, Hugo rất mực thương con, ông luôn thể hiện cái nhìn âu yếm, thấy cái khía cạnh tốt đẹp nhất của con mình: “Dù tóc con tôi đã chải hay sù, Dù trái tim tôi buồn hay vui sướng Bao giờ tôi cũng tấm tắc nhìn Trang 21
  41. Con là tiên, con là ánh sáng”. Xót xa đau đớn trước cái chết của con giọng thơ Hugo êm ái hẳn đi, ông nhớ lại những kỉ niệm về đứa con gái thân yêu: “Con gái tôi có tính quen này trong tuổi thơ Là tạt đến phòng tôi mỗi sáng Tôi đợi bé như chờ một ánh dương quang đãng Nó đi vào, và nói: “Chào bố thân yêu” Con lấy bút của cha, mở các quyển sách, ngồi Trên giường tôi, lục các giấy tờ, và cười nhoẻn Rồi bỗng đi xa, như một chim thoáng hiện”. Trong khi tang tóc nặng trĩu, nhà thơ càng được an ủi nhờ sự có mặt của hai đứa cháu Georges và Jeane: “Tôi mà một đứa trẻ thôi cũng khiến cho thành ngốc nghếch Tôi lại có tới hai: Georges và Jeane, và tôi lấy một đứa làm kẻ dẫn đường Và đứa kia làm ánh sáng thái dương Nghe tiếng chúng là tôi chạy tới”. Bên cạnh gia đình thì tình yêu nam nữ cũng là mảnh đất màu mỡ mà thơ ông hướng đến. Sống trong tình yêu người ta thường ngây ngất với men tình giống như tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ “Vì anh nếm”: “Vì anh nếm chén tình chan chứa Trong tay em áp vầng trán say sưa Vì anh thở ngọt ngào hơi thở Tâm hồn em trong bóng lá hương đưa Vì anh nghe giọng em thầm thì Trái tim em huyền diệu bao lời Vì anh thấy nụ cười và ngấn lệ Mắt anh trong mắt em và môi chạm vào môi” Là một người giàu tình cảm như thế, cho nên trong con người ông còn chứa đựng tình cảm lớn lao hơn: tình yêu Tổ quốc. Nó luôn là nguồn cảm Trang 22
  42. hứng dồi dào cho thi ca của ông. Do đó, Tổ quốc được ông nhắc đến một cách da diết. Trong bài “Lời ca”, ông lặp lại nhiều lần như một điệp khúc: “ Người ta không thể sống được nếu không có bánh mì Người ta cũng không thể sống được nếu không có Tổ quốc”. Xuất phát từ lòng yêu Tổ quốc tha thiết, trong Trừng phạt có những bài vang lên như lời kêu gọi thiết tha giục giã mọi người hãy tỉnh dậy, hành động vì Tổ quốc. Trong đó cũng có những bài gợi lại quá khứ oanh liệt của cha ông: “Không bao giờ biết buồn biết sợ Họ chắc còn cả gan leo đến tận mây xanh Nếu trong khi đang tiến, nhìn lại phía sau mình Họ trông thấy nước Cộng hòa vĩ đại Chỉ tay lên trời xanh”. Đó có thể là những người lính tình nguyện của cách mạng, chân đi đất nhưng ngời ngời ánh sáng, khí thế oai hùng, đầu ngẩng cao trước mặt: “Như sư tử đang hít thở gió xa Khi cuồng phong thổi tới”. Chính vì thế ông luôn ca ngợi Tổ quốc và các liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc: “Những ai tâm thành chết cho Tổ quốc Phải được đồng bào đến bên quan tài thương nhắc Giữa những tên đẹp nhất, tên của họ vang hơn. Mọi thứ vinh quang hóa chóng rụng tàn bên họ, Và, cũng như tấm lòng người mẹ Giọng của toàn thể nhân dân ru họ mãi bên mồ.” Hugo ca ngợi cho muôn đời cái dũng khí hào hùng của đoàn quân Cách mạng, qua những người bộ đội của năm thứ hai Cách mạng tư sản dân quyền Pháp 1789: “Chống lại cả châu Âu với lũ vua và tướng cướp Với những lính tráng phủ hết ruộng đồng đường sá, Với đoàn quân kỵ mã chúng mày, Đứng lên như một vị thần nghìn mắt, nghìn tay, Trang 23
  43. Họ ca hát, họ bước đi, tâm hồn không hề biết sợ Và đôi chân chẳng có giày!” Hugo rất gần gũi thiên nhiên, yêu thiên nhiên một cách say mê, cho nên thiên cũng hoan nghênh chào đón nhà thơ: “ Tháng năm hoa nở thơm đầy Đồng xanh réo gọi cỏ cây vui cùng Đến đi em! Chớ ngại ngùng Đồng quê với cánh rừng xinh Cây xanh bóng mát lung linnh mặt hồ Nước còn ngái ngủ cơn mơ Ánh trăng vằng vặc bên bờ đợi ai” Tạo vật hữu tình, và tạo vật cũng vô tình, một nhà thơ phải nói cả hai mặt ấy, thì mới là sâu sắc. Vạn vật biến chuyển, cảnh trời đổi thay.trong tâm hồn con người: “Đã thế thì hãy quên chúng tôi đi; ngôi nhà; khoảnh vườn; khóm bóng! Cỏ, hãy lấp thềm xưa! Gai, phủ vết chân mờ! Chim cứ hót, suối cứ tuôn! Cành cứ tỏa Những kẻ các bạn quên sẽ không quên các bạn bao giờ”. Thông cảm sâu sắc trước nỗi khổ của người dân lương thiện là nạn nhân của các thảm họa chiến tranh, của tình trạng thất nghiệp, đói nghèo, bị ngược đãi Hầu hết các tập thơ của ông đều thấm đượm chất trữ tình và lòng yêu thương con người. Tình nhân ái của Hugo rất tự nhiên và sâu xa, thuộc về một bản chất nhân hậu hiếm có. Nhìn một em bé Hi Lạp thơ ngây, côi cút giữa cảnh hoang tàn, chết chóc, với tình thương sâu thẳm không biên giới, nhà thơ xót xa, thổn thức: “ Quân Thổ tràn qua: nơi nơi điêu tàn tang tóc Ôi em bé đáng thương ơi, chân trần trên đá sắc. Lệ đầm đìa đôi mắt biếc xanh! Làm sao đây để lau nước mắt Cho đôi mắt em như bầu trời, như sóng nước trong xanh Trang 24
  44. Làm sao đây cho tia sáng vui tươi tràn ngập long lanh Để mái tóc óng vàng ngẩng dậy! Làm sao đây cuốn gọn mái tóc vàng đẹp đẽ, Vui chảy xuôi trên đôi vai trong trắng Đang khóc thầm quanh vầng trán của em!” Là nhà thơ của chủ nghĩa nhân đạo, đồng cảm với mọi đau thương, chia âu lo với những người lao động. Đứng trước biển ban đêm, nghe sóng réo gào, nhà thơ viết bài “Biển đêm” bi tráng và thương cảm: “Ôi! Đâu hết những người thủy thủ Chìm trong đêm, bi thảm đời người Kinh hoàng bao lòng mẹ, biển ơi! Phải chăng lúc triều lên sóng vỗ Những tiếng người tuyệt vọng kêu la Mỗi chiều về, lại đến cùng ta”. Bên cạnh đó, nhà thơ còn phát hiện được những phẩm chất tốt đẹp và ca ngợi những người dân lao động: “Trên ruộng tắm bóng thâm Tôi cảm nhìn áo rách Một ông lão đang tung Gieo mùa sau xuống đất” Dù cuộc sống có vất vả nhưng họ vẫn tin tưởng ở thành quả ngày mai tốt đẹp. Do là một nhà thơ viết kịch và tiểu thuyết nên những trang văn của ông mang đậm chất thơ. Đặc biệt, chính niềm cảm thương những số phận bất hạnh và trân trọng những phẩm chất cao quí của những người lao động đã được ông phát triển cao ở lĩnh vực kịch và tiểu thuyết sau này. Để thấy được điều đó, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu kịch và tiểu thuyết thông qua việc tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật mà ông sử dụng trong quá trình sáng tác. Trang 25
  45. CHƯƠNG III MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT KỊCH VÀ TIỂU THUYẾT CỦA VICTOR HUGO I. Kịch drame: vở “Hernani” 1. Giới thiệu cốt truyện Sự việc xảy ra ở triều đình Tây Ban Nha từ thế kỷ XVI, trước khi Don Carlos trở thành hoàng đế nước Đức là Charles Qunit. Vua Don Carlos theo đuổi nàng Dona Sol, vợ chưa cưới của lão bá tước Don Ruy Gomez. Vua lẻn vào nhà nàng, núp vào trong tủ áo đúng lúc nàng hò hẹn với tình nhân là Hernani-người có mối thù giết cha với nhà vua nên bị truy nã, sống lẩn lút và trở thành tướng cướp sống ngoài vòng pháp luật. Don Carlos mở cánh tủ bước ra. Hai kẻ tình địch chuẩn bị đấu kiếm thì Don Ruy Gomez bất chợt về và nổi trận lôi đình. Vua cho lão biết tin Hoàng đế vừa băng hà và hy vọng mình được lên kế vị. Vì đã nghe lỏm được ngày giờ và mật hiệu đôi tình nhân hẹn nhau đi trốn. Hôm sau, Don Carlos đến định bắt cóc Dona Sol. Trong lúc nàng đang nguy kịch thì Hernani xuất hiện. Chàng định thanh toán kẻ thù, nhưng lại tha cho vua vì lúc đó nhà vua không có vũ khí trên tay. Vua trở về triều, huy động quân lính đến vây bắt tướng cướp. Hernani cải trang trốn vào nhà Don Ruy Gomez đúng lúc bá tước đang chuẩn bị làm lễ thành hôn với Dona Sol. Chàng tuyệt vọng. Vua đến và bắt Dona Sol làm con tin vì bá tước che giấu không chịu nộp tướng cướp cho vua. Vua đi rồi, bá tước định thanh toán mối thù riêng với Hernani vì biết mối quan hệ của chàng với Dona Sol. Nhưng chàng đề nghị với bá tước hiệp lực trả thù vua, đồng thời chàng trao cho bá tước chiếc tù và và hứa khi nào trả thù xong, hễ nghe tiếng tù và thì chàng sẽ đến chịu chết. Từ một hầm mộ Hoàng gia bên Đức, Don Carlos hồi hộp chờ đợi kết quả bầu Hoàng đế, trong khi Hernani và Don Ruy Gomez đang chuẩn bị âm mưu đón hạ sát Don Carlos Ba tiếng súng thần công vang lên báo tin Hoàng đế Charles Quint trở thành vua Tây Ban Nha. Toàn bộ những âm mưu ám sát Hoàng đế đều bị bắt. Nhưng hoàng đế đã khoan hồng cho tất cả, hơn nữa còn trả lại chức tước cho Hernani và cho phép chàng cưới Dona Sol. Tối tân hôn, Hernani nghe tiếng tù và, bá tước xuất hiện nhắc chàng giữ lời hứa và chàng đi nhận lọ thuốc độc. Dona Sol can ngăn không được liền Trang 26
  46. giật lọ thuốc độc uống trước rồi đưa lại cho Hernani uống nốt. Bá tước tuyệt vọng, phải tự sát. 2. “Trận chiến Hernani”, sự chiến thắng của chủ nghĩa lãng mạn đối với chủ nghĩa cổ điển Kịch là thể loại chủ yếu của chủ nghĩa cổ điển. Trong thế kỉ XVII, chủ nghĩa cổ điển là một trào lưu văn học tiến bộ với các nhà viết kịch có tên tuổi là Molier, Corneill, Racine . Nhưng đến đầu thế kỉ XIX, nhất là từ khi chế độ phong kiến được phục hồi năm 1815, nó trở nên lạc hậu, bảo thủ với nhiều nguyên tắc chật hẹp, gò bó. Để tấn công vào trào lưu văn học cổ điển, vốn có rất nhiều thành tựu nhưng lúc bấy giờ đã lỗi thời, Hugo đã chọn mục tiêu tấn công là kịch trường, tiêu biểu là vở “Hernani”. “Hernani” thực sự là bản luận chiến, đánh dấu sự toàn thắng của chủ nghĩa lãng mạn đối với chủ nghĩa cổ điển . Hugo cho rằng quy tắc luật “tam duy nhất” của chủ nghĩa cổ điển đó là: duy nhất về thời gian, duy nhất về địa điểm, duy nhất về hành động đã ràng buộc tự do trong nghệ thuật. Và nó giống như việc “người ta đóng một chiếc giày cho mọi bàn chân”. Trước tình hình kịch cổ điển không còn phù hợp với những tâm hồn lãng mạn đương muốn thoát ra khỏi cuộc sống tư sản tầm thường, ở đó mọi thứ đều như bị trật khớp, họ không thể thích nghi nổi, thì việc “Hernani” xuất hiện như ngọn gió mát, trong lành thổi vào những tâm hồn đã chai cứng. 2.1. Sự phá vỡ qui tắc luật “tam duy nhất” của chủ nghĩa cổ điển Sự phản ứng đầu tiên của Chủ nghĩa lãng mạn đó là sự phá vỡ quy tắc luật “tam duy nhất” đó. Trước hết, nguyên tắc thời gian duy nhất đã bị vi phạm. Chúng ta thấy, một vở kịch cổ điển chỉ được công diễn trong hai tiếng đồng hồ, nhưng ở “Hernani” nó đã vượt ra khỏi qui phạm đó. Tuy vậy, vấn đề thời gian không phải là vấn đề lớn mà ông muốn đề cập ở đây. Nguyên tắc thứ hai mà ông muốn phá vỡ, đó là địa điểm duy nhất. Trong “Hernani” địa điểm kịch được thay đổi rõ rệt. Thực ra, việc thay đổi địa điểm kịch không phải đến Hugo mới diễn ra, mà nó đã được manh nha từ trước. Ngay từ “Le Cid”, Corneill cũng đã thấy bức bối về sự chặt chẽ của luật duy nhất về địa điểm. Chính ông cũng không đóng khung địa điểm kịch tại cung đình mà ông còn tả cảnh chiến trường nơi Rodrigue chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Tiếp nối Corneill, Hugo đã có sự bức phá ở “Hernani”. Địa điểm không chỉ diễn ra trong nước mà nó còn vượt phạm vi ngoài nước, lúc thì ở Xaragrox (Tây Ban Nha), lúc thì ở Ex-lasapen (Tây Đức). Trang 27
  47. Địa điểm là nơi để nhân vật diễn ra hành động chính duy nhất.Tăng thêm hành động chính để chuyển tải các xung đột đan chéo để hành động được phong phú. Đến Hernani, duy nhất về hành động kịch là nguyên tắc bị vi phạm nghiêm trọng nhất. Hành động kịch xảy ra không chỉ ở nhà của Don Ruy Gomez mà còn ở nhà mồ Charles Magne, nơi bọn phản bội họp nhau để giết chết vua Don Carlos. Có thể thấy, địa điểm Hugo đưa vào kịch không nhiều. Nhưng để chống lại duy nhất về địa điểm của kịch cổ điển một cách mạnh mẽ, ông đã đưa vào kịch của ông một kiểu không gian “hiện thực chủ nghĩa” bắt chước một địa điểm thực sự, một không gian mà người ta có thể thấy trong cuộc sống. Đó là lâu đài của công tước Don Ruy Gomez với cả chiếc tủ mà vua Don Carlos có thể chui vào, là một dãy những bức chân dung gia đình ngài với bức ngăn đằng sau có thể giấu Hernani, với cả cánh cổng sau có thể giúp Dona Sol đi trốn. Một ngôi nhà với những ban công cho phép một gã nhân tình có thể trèo vào phòng người yêu. Đó là hầm mộ hoàng đế Charles Magne tại thành phố Ex-lasapen trong thực tế là nơi đã có nhiều sự kiện quan trọng xảy ra: đây là nơi Hoàng đế Charles Magne ưa thích và là nơi ngài qua đời; 36 Hoàng đế Đức đã được đăng quang tại đây từ năm 813 đến năm 1531; nhiều hiệp ước đã được kí kết từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XX, đặc biệt là hiệp ước giữa Tây Ban Nha và vua Loui XIV ngày 2 tháng 5 năm 1668 đem lại hòa bình cho hai nước. Tất cả những địa điểm trên mang đầy đủ những chi tiết tạo ra cho người xem cảm tưởng về những địa điểm có thật. Như vậy, linh hồn của kịch chính là cái hiện thực. 2.2. Xây dựng kiểu nhân vật phản nghịch Bên cạnh việc phá vỡ qui tắc luật “tam duy nhất”, Hugo còn xây dựng kiểu nhân vật chống lại kiểu nhân vật của kịch cổ điển. Nếu ở kịch cổ điển nhân vật thường là những ông vua, bà hoàng, nhà quý tộc là những anh hùng, dũng tướng đặt tư tưởng trung hiếu lên trên hết, thì ở kịch của Hugo chúng ta thường bắt gặp kiểu nhân vật phản nghịch. Con người “nổi loạn”, Hernani, là con người có những phẩm chất tốt đẹp, ý chí căm thù sâu sắc, tinh thần kiên cường trong đấu tranh, tâm hồn cao thượng trong tình yêu Tuy về địa vị xã hội, Hernani bị liệt vào loại “tướng cướp” sống ngoài vòng pháp luật, của cải không có gì, “chỉ thở được khí trời, nhìn ánh sáng, uống nước lã, nghĩa là những thứ của chung phân phát cho mọi người”, cùng đồng đảng tung hoành khắp xứ, bị triều đình truy lùng mọi nơi nhưng Hernani lại là một hình ảnh rất đẹp. Với tư cách người tình nhân cũng như với tư cách người con Trang 28
  48. trả thù cho cha, về phương diện nào, chàng cũng chiếm được cảm tình của khán giả. 2.3. Sử dụng bút pháp tương phản Nét nổi bật nhất thể hiện Chủ nghĩa lãng mạn trong kịch của Hugo là ông đã sử dụng bút pháp tương phản. Tương phản là biện pháp để làm tăng kịch tính và làm nổi bật phẩm chất của nhân vật. Dưới ngòi bút của Hugo, sự tương phản xuất hiện ngay trong mỗi nhân vật, giữa địa vị xã hội và phẩm chất đạo đức, giữa diện mạo bên ngoài và thế giới nội tâm của họ. Trong “Hernani” là sự tương phản giữa vua Tây Ban Nha và “tướng cướp” Hernani. Một bên là vua Tây Ban Nha sắp trở thành hoàng đế Charles Quint với một bên là tên tướp cướp không nhà, không cửa đương bị truy lùng ráo riết. Là con người bất khuất, kiên cường, nung nấu khôn nguôi mối thù cha phải trả, đồng thời cao thượng trong tình yêu nhưng đối thủ của chàng là Don Carlos- một con người bỉ ổi, dùng đủ mọi lời đường mật trơ trẽn để quyến rũ phụ nữ và không ngần ngại có những hàng động vũ phu. Tác giả đã đặt vua bên cạnh tướng cướp. Họ cùng yêu một người con gái và người con gái dòng dõi quý tộc ấy trao trái tim mình cho tướng cướp chứ không cho vua. Sự tương phản còn thể hiện ở nội tâm nhân vật: Dona Sol hướng tới tình cảm chân thành với Hernani chứ không màng địa vị. Từ chối ngai vàng, từ chối lâu đài êm ấm, Dona Sol đã chọn tướng cướp Hernani: “Ông vua của tôi sống lang thang ngoài vùng xã hội và pháp luật, chịu đói và chịu khát, quanh năm trốn tránh, ngày ngày chia sẻ số phận cực khổ và hãi hùng hơn là sống với Hoàng đế (ám chỉ Don Carlos) để làm hoàng hậu”. Trong sự tương phản, tầng lớp quyền quý (vua, hầu tước) thường trở nên kệch cỡm, thô lỗ, bị thất bại . Chính điều này đã tạo nên sóng gió cho kịch trường của Hugo. 2.4. Sử dụng yếu tố Grotesque Một yếu tố khác tạo nên sự thành công của kịch lãng mạn Hugo, đó là quan điểm về cái thô kệch (grotesque) mà ông đề xuất. Theo ông, “đạo Thiên chúa dẫn thơ ca đến chân lý”, vì nó cho ta thấy trong con người có hai mặt: thiên thần và thú vật. Nó giúp cho nhà văn hiểu rằng trong thiên nhiên, trong xã hội không phải chỉ có toàn chân, thiện, mỹ. Trái lại, cái xấu tồn tại bên cạnh cái đẹp, cái ác bên cạnh cái thiện, cái thô kệch bên cạnh cái tao nhã, bóng tối bên cạnh ánh sáng. Văn học muốn chân thực phải phản ánh toàn vẹn những mặt tương phản ấy trong cuộc sống. Với quan điểm như vậy, cho nên Hugo chấp nhận đưa cả những yếu tố bình thường của cuộc sống vào kịch trong khi kịch cổ điển chỉ chấp nhận những gì thanh nhã, cao quý. Trong mắt của Hugo, vua không phải là người toàn mỹ mà là con người của cuộc sống trần tục. Don Trang 29
  49. Carlos là một ông vua si tình. Ông cũng có những hành động rất ư là tầm thường như chui vài tủ áo để tránh tình địch, cũng biết nói dối. Điều này thể hiện ở chi tiết sau khi ra khỏi tủ, Don Carlos biện minh cho việc có mặt của mình là để thông báo việc Đức hoàng đế tổ phụ băng hà. Với địa vị của một ông vua nhưng Don Carlos vẫn dùng những thủ đoạn bỉ ổi của kẻ tiểu nhân trong việc chinh phục tình yêu của nàng Dona Sol. Don Carlos đã giả làm Hernani để rình đón Dona Sol đi. Các nhân vật tình địch không tìm kiếm sự công bằng và trái tim người đẹp bằng việc đấu gươm mà bằng mưu mẹo, bằng lọc lừa. Những yếu tố này đã làm thay đổi không khí trang nghiêm, vẻ lên gân, lên cốt của kịch cổ điển. Chúng làm cho kịch drame gần gũi hơn với cuộc sống đời thường, gần gũi hơn với tâm hồn những con người bình dân ở thế kỉ XIX. Yếu tố Grotesque đã làm cho kịch drame có sức hấp dẫn, mới mẻ đối với công chúng. Điều này thể hiện đặc sắc ở cách kết thúc kịch đầy bất ngờ. Đó là khi Don Carlos lên làm Hoàng đế Charles Quint thì ông không tranh giành tình yêu với Hernani nữa. Ông tự nguyện đem Dona Sol cho Hernani và trả lại tước hiệp sĩ cho chàng với tư tưởng “thù hằn và giận dữ, ta muốn quên hết”. Trong lúc Hernani và Dona Sol tưởng chừng đang sắp sửa được hưởng hạnh phúc trăm năm thì tiếng tù và rúc lên, báo hiệu đến thời điểm Hernani thực hiện lời hứa oái oăm với Don Ruy Gomez: chàng phải uống lọ thuốc độc để chết. Chúng ta thấy, kết thúc kịch lãng mạn nhân vật đều có số phận hết sức bi thảm. Ở đây môtip “con đom đóm yêu một vì sao tinh tú” lại xuất hiện. Nhưng họ đã chết với tinh thần tự nguyện và lạc quan. Đó cũng là nét tạo nên tính chất lãng mạn của kịch drame. 2.5. Một vài yếu tố nghệ thuật khác Một bước đột phá nữa của kịch lãng mạn thể hiện ở lĩnh vực ngôn ngữ là tăng cường ngôn ngữ bình dân. Ngôn ngữ trong kịch đã thoát khỏi sự quy định của ngôn ngữ quý tộc mà gần gũi hơn với ngôn ngữ quần chúng. Trong Hernani, đôi khi chúng ta bắt gặp điều này, điển hình như ở Hồi II: Tướng cướp và lớp 4: đoạn Hernani từ biệt Dona Sol để trốn thoát sự bao vây của vua Don Carlos: “- Dona Sol: Anh Hernani! Trời ơi! Em run sợ! Này! Đã thế, chúng ta phải mau mau lên! Cùng nhau chạy trốn đi. - Hernani: Cùng nhau ư! Không, không. Bây giờ muộn mất rồi. Chao ôi! Dona Sol, khi em mới xuất hiện trước mắt anh, hiền hậu và đoái lòng yêu mến anh bằng một mối tình cứu vớt, anh dù khốn khổ vẫn rất có thể tặng em Trang 30
  50. quả núi, khu rừng, dòng suối của anh-tình thương của em làm cho anh thêm mạnh dạn, -miếng bánh lưu đày của anh, nửa chiếc giường cỏ xanh rậm rạp mà rừng ban cấp cho anh; nhưng tặng em một nửa đài xử chém. Dona Sol ơi, tha thứ cho anh! Đài xử chém là của riêng mình anh”. Về nghệ thuật dẫn dắt hành động kịch, Hugo xen vào những màn độc thoại nội tâm đầy tính chất lãng mạn ở Hồi I lớp 4, Hồi IV lớp 2, 5, Hồi V lớp 4. Vở kịch không những có ý nghĩa đấu tranh về văn học mà còn có ý nghĩa đấu tranh trên vũ đài chính trị. Khán giả nhìn thấy trên sân khấu tên “tướng cướp” được đặt ngang hàng với vua, thậm chí còn cao hơn vua. Vở kịch có tác dụng như một gáo dầu giội vào ngọn lửa cách mạng đương âm ỉ. Hình ảnh Don Carlos không chỉ xuất hiện như một cá nhân mà gắn với xã hội đầy bất công lúc bấy giờ. Và hành động trả thù của Hernani do đó có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Câu nói của Bá tước Don Ruy Gomez thốt ra khi vua Tây Ban Nha bắt Dona Sol làm con tin : “Hỡi vua, khi ngươi vui vẻ bước ra khỏi nhà ta, thì tấm lòng trung quân cũng ra khỏi trái tim ta lúc này chỉ còn đầm đìa nước mắt!”. Đây không chỉ là tâm trạng riêng của lão nữa mà đó là tâm trạng chung chống lại chế độ Trung hưng và Quân chủ tư sản lúc bấy giờ. Tuy nói kịch lãng mạn ra đời nhằm phủ định trào lưu chủ nghĩa cổ điển lúc bấy giờ đang được tái sinh nhưng đó không phải là sự phủ định hoàn toàn. Ta thấy ở Hugo có sự kế thừa nhiều yếu tố của kịch cổ điển. Tình yêu say đắm của thanh niên nam nữ chính là đề tài lấy từ kịch cổ điển mà tình yêu chính là đề tài quán xuyến toàn bộ kịch của Hugo. Bản thân sự phân chia vở “Hernani” thành chương, hồi cũng là cách làm của những nhà viết kịch thế kỉ XVII. Sự cao thượng trong tình cảm ở các nhân vật: Don Carlos tha chết cho Hernani (hồi I, lớp 3), Hernani không dám ra tay giết Don Carlos (hồi II, lớp 3), Don Ruy Gomez giấu Hernani sau bức chân dung của mình (hồi III, lớp 5), Hoàng đế Charles Quint tha cho những người âm mưu ám hại ông (hồi IV, lớp 5). Lòng độ lượng, sự khoan dung đó có từ truyền thống và nó đã chảy vào tâm hồn lãng mạn của Hugo để lại trong lòng ông một mối thiện cảm tốt đẹp. Chính vì vậy, chúng ta không lấy làm lạ khi nhà văn giải quyết mâu thuẫn trong kịch “Hernani” bằng con đường thỏa hiệp hết sức bất ngờ giữa “tướng cướp” và vua Tây Ban Nha. Tóm lại, bằng việc sử dụng một số đặc điểm nghệ thuật của kịch lãng mạn Hugo đã làm cho vở “Hernani” có chỗ đứng vững chắc và gây tiếng vang Trang 31
  51. lớn trên kịch trường lúc bấy giờ. Cống hiến của Hugo ở lĩnh vực kịch là ông đã mở toang cánh cửa sáng tạo nghệ thuật để đến với nghệ thuật tự do. II. Tiểu thuyết 1. “Nhà thờ Đức Bà Paris”, toà nhà thờ vĩ đại bằng thơ ca Tiểu thuyết “Nhà thờ Đức Bà Paris”(1831) là một sáng tác độc đáo của đại văn hào Pháp V. Hugo. Với một cấu trúc đặc biệt, ông đã dựng lên bức tranh đồ sộ, hoành tráng về cuộc sống, con người thời Trung cổ bằng một hệ thống ngôn từ tài hoa, nhiều tầng bậc. Ra đời cách đây gần hai thế kỉ, nhưng “tòa nhà thờ vĩ đại bằng thơ ca” này vẫn được cả loài người đón chào với niềm say mê lớn. Bằng những nét đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn đỉnh cao, cây sồi già xanh ngắt , V. Hugo đã vượt qua những hạn chế của tư tưởng thời đại, làm cho tác phẩm có sức vang động mãi đến tâm can người đọc, đánh thức lương tri nhân loại bằng những hồi chuông cảnh tỉnh mạnh mẽ vào tận những ngõ ngách sâu kín nhất của lòng người. “Nhà thờ Đức Bà Paris” là cuốn tiểu thuyết mang đậm tính chất lãng mạn nhất của Hugo. Mọi tình tiết câu chuyện đều xoay quanh Nhà thờ Đức Bà. Vào ngày lễ Vua và ngày Hội cuồng đãng năm 1482, trong đám dân chúng tự do vui chơi có cô gái Bohemieng xinh đẹp tên là Esmeralda. Cô sống bằng nghề ca múa và diễn trò với con dê nhỏ Djali khôn ngoan. Nhan sắc của Esmeralda khiến Frollot, phó giáo chủ nhà thờ Đức Bà ngày đêm mơ tưởng. Theo lệnh của Frollot, Quazimodo-người kéo chuông nhà thờ Đức Bà, thân hình dị dạng, lưng gù vừa câm vừa điếc-đi bắt cóc Esmeralda. Là đứa trẻ bị bỏ rơi, được Frollot đem về nuôi nấng, nên Quazimodo luôn trung thành, tận tụy phục vụ phó giáo chủ. Giữa lúc hai kẻ xấu đang hành hung định bắt cóc Esmeralda, đại uý đội cung thủ ngự lâm quân tên là Foebus cưỡi ngựa đi qua, đã ra tay cứu Esmeralda và bắt được Quazimodo. Người kéo chuông nhà thờ bị cột lên bánh xe giàn bêu tù và chịu những trận đòn tới tấp bằng roi da. Quazimodo xin được uống nước. Ngay lập tức từ đám đông nhốn nháo, giận dữ vang lên lời mắng nhiếc, tiếng la ó. Giữa lúc ấy, Esmeralda leo lên giàn bêu tù cho Quazimodo uống nước, khiến anh không cầm nổi nước mắt. Việc bắt cóc không thành, Frollot vô cùng tức giận và càng khao khát được thỏa ham muốn tội lỗi. Biết Esmeralda đem lòng yêu Foebus và đại uý thường hẹn hò với cô, Frollot lén theo đến chỗ hẹn. Tận mắt chứng kiến cảnh âu yếm đôi trai gái, Frollot nổi máu ghen rút dao đâm trọng thương Foebus rồi bỏ chạy. Esmeralda bị bắt và bị kết tội “dùng tà thuật, buà phép” và dao găm sát thương đại uý. Không chịu nổi đòn tra tấn tàn bạo, Esmeralda phải nhận Trang 32
  52. những tội lỗi mà người ta gán cho cô. Biết rõ Esmeralda vô tội, gã đại uý phóng đãng, ích kỷ không minh oan cho cô. Lời khai mơ hồ của Foebus gây thêm nguy hiểm cho Esmeralda. Cô phải chịu án tử hình. Frollot tới thăm và bày tỏ tình yêu với Esmeralda, khuyên cô trốn theo y nhưng Esmeralda một mực từ chối. Cô vạch rõ tâm địa xấu xa, hành động tội ác của phó giáo chủ. Ngay giây phút các đao phủ chuẩn bị hành hình Esmeralda, Quazimodo bất thần xuất hiện giải thoát cô và vác cô lên căn phòng nhỏ trong nhà thờ. Ngày ngày Quazimodo chăm sóc cô rất tận tình, chu đáo. Phó giáo chủ lần mò tới phòng của Esmeralda định cưỡng bức cô, Quazimodo kịp thời ngăn chặn. Frollot không từ bỏ mục đích của mình, y khích Gringoa, người đã từng được Esmeralda cứu sống, để ông ta tìm cách đưa Esmeralda ra khỏi nhà thờ. Đêm đó, những người nghèo khổ, đám ăn mày kéo đến nhà thờ Đức Bà để giải phóng Esmeralda. Lầm tưởng đám đông nhốn nháo kia đến hại Esmeralda, Quazimodo ra sức lăn gỗ, đá xuống để bảo vệ cô. Nhân cơ hội đó, Frollot và Gringoa lẻn vào đưa Esmeralda đi. Phó giáo chủ hết cầu xin Esmeralda ban phát tình yêu lại đe dọa nhưng cô vẫn kiên quyết cự tuyệt. Phó giáo chủ liền trao Esmeralda cho mụ tu hành bất hạnh Gudulier để mụ “trả thù”. Trước đây, những người Bohemieng đã đánh tráo đứa con gái yêu quý của Gudulier nên mụ căm thù người Bohemieng đến tận xương tủy. Trong lúc giằng co, tức giận tình cờ Gudulier nhận ra Esmeralda là con gái mình. Được tin báo của phó giáo chủ, bọn lính ập đến bắt Esmeralda đưa lên giá treo cổ. Trên tháp chuông nhà thờ, Frollot và Quazimodo chăm chú theo dõi cuộc hành hình. Khi thấy cô gái quằn quại, giãy giụa, Frollot bật lên “tiếng cười ma quỷ”. Tuy không nghe thấy tiếng cười nhưng trông thấy rất rõ, người kéo chuông nhà thờ điên cuồng lao tới đẩy Frollot xuống đất. Sau hồi lâu đứng bất động và câm lặng nhìn về phía người vũ nữ, nước mắt tuôn ròng, Quazimodo biến khỏi nhà thờ Đức Bà. Hai năm sau, trong căn hầm ở Mongphocon, người ta tìm thấy bộ xương của Quazimodo ôm lấy bộ xương Esmeralda. 1.1. Nghệ thuật miêu tả và xây dựng cốt truyện Một trong những biện pháp chủ yếu mà V.Hugo thường sử dụng trong tác phẩm của mình là miêu tả cảnh thiên nhiên. Với tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ, cùng với bút pháp miêu tả tài hoa, Nhà thờ Đức Bà Paris hiện lên với nhiều kiểu soi rọi khác nhau: lúc thì toàn cảnh uy nghi, lúc thì phản chiếu quái dị của ông “thần bếp” ám ảnh và ngự trị khắp ngôi nhà, lúc thì hoang đường dữ dội, dưới ánh lửa mà Quazimodo đã đốt lên để đun nóng chì, bảo vệ Esmeralda chống lại cuộc tấn công của những người du đãng “ Vô vàn điêu khắc hình quỉ sứ và rồng càng có vẻ rùng rợn. Ánh lửa bập bùng khiến chúng Trang 33
  53. ngọ nguậy trước mắt. Có mãng xà như đang cười, ống máng tựa hồ văng vẳng tiếng sủa, con kì nhông như đang thổi lửa, quái vật hắt hơi trong đám khói ”. Bên cạnh đó, thiên nhiên, cảnh trí trong tác phẩm cũng được ông miêu tả hết sức độc đáo: “Dần dần, làn sóng nhà cửa luôn bị xô đẩy từ giữa lòng thành phố ra bên ngoài, liền tràn ngập, gậm nhấm, mài mòn và xóa bỏ bức hàng rào này Trải qua hơn một thế kỉ nhà cửa cứ chen chúc, tụ tập và dâng cao trong lưu vực đó, như nước dâng trong bể chứa. Nhà cửa bắt đầu trở nên sâu thẳm, chồng gác này bên tầng kia trèo lên nhau, vọt lên cao như nhựa cây bị dồn ép mạnh nhà nào nhà nấy nghểnh cổ cao hơn láng giềng để kiếm chút khí giời . Cuối cùng, nhà cửa nhảy vọt qua bức tường Philip Ouyt và vui vẻ tỏa ra khắp cánh đồng, hỗn độn và bừa bãi như được trốn thoát” Không chỉ thế, Hugo đã làm sống dậy cái “đêm dài trung cổ” khủng khiếp phương Tây. Paris, đô thành của cung điện thần kì, của đêm Hội rước giáo hoàng, cuồng đãng, của những tay trộm cướp, những thầy tu phá giới, những phế binh, những hành khất què cụt, lở loét, vang động những tiếng gào thét, rền rĩ, những tiếng gầm gừ với những căn nhà mốc meo, với triều đình kì quái của vương quốc tiếng lóng Đó là Paris của dân chúng hiện lên với những phố hẻm tối tăm, với những cảnh hoang tàn Trái lại, có những lúc Paris ấy cũng sống những giờ phút rạng rỡ, buổi sáng mỗi ngày lễ lớn, khi mặt trời phát đi một tín hiệu thần kỳ, Paris thức dậy với muôn ngàn tiếng chuông thoạt đầu thưa thớt, rồi ngày càng dóng dả và trở thành một dàn nhạc giao hưởng với những đàn bướm âm thanh sặc sỡ, làm rung rinh những chân trời xa tắp. Có những lúc Hugo miêu tả Esmeralda như một nàng tiên với bóng dáng rực rỡ xuất hiện giữa ánh lửa của hàng trăm ngọn đuốc thật huyền ảo, ngây thơ, múa theo nhịp trống làm say mê cả Paris cuồng loạn và đau khổ. Bằng nghệ thuật miêu tả đám đông đặc sắc, Hugo đã miêu tả thành công cảnh tượng Paris cùng khổ và giận dữ vào một đêm đã vùng dậy, tiến công dữ dội Nhà thờ đức bà làm náo động và rung chuyển cả đô thành Trên đây là quang cảnh của Nhà thờ Đức Bà qua tài năng quan sát, miêu tả khéo léo kết hợp chất hiện thực cùng với chất thơ của trí tưởng tượng của nhà văn. Sức hấp dẫn của tác phẩm không dừng lại ở đó mà còn ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện hấp dẫn, sinh động. Nhà thờ Đức bà Paris là câu chuyện dài với nhiều cốt truyện được lồng ghép, đan cài hết sức tài tình, trong đó có những tuyến truyện chính như: chuyện thằng gù Nhà thờ Đức Bà với người chủ của nó, chuyện nữ tu sĩ bà Gudulier, cô gái điếm bị xã hội trung cổ chà đạp, lúc thanh xuân phai nhạt thì chỉ còn lại con đường tăm tối, bị cướp mất đứa con gái. Thêm nữa là câu chuyện cô vũ nữ xinh đẹp người Trang 34
  54. Bohemieng Esmeralda với những xung đột hoàn cảnh và nhất là những xung đột tâm lý được biện giải bởi đam mê ái tình. Mỗi nhân vật từ khi xuất hiện đến lúc tác phẩm kết thúc đều trải qua những cuộc vật lộn gay gắt để vươn lên, để làm người, nhưng cũng có những kẻ sa đọa đến mất cả nhân tính như phó giáo chủ Frollot. Nổi bật lên là nhân vật Quazimodo thánh thiện và Esmeralda xinh đẹp. Với thủ pháp tương phản quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn, ông đã tô đậm các tình huống và làm nổi rõ tính cách nhân vật. 1.2. Xây dựng nhân vật lãng mạn Là một nhân vật mang tính dân gian, Esmeralda xuất hiện như một thiên thần trong thế giới rách nát, nàng là tượng trưng của tâm hồn thanh khiết, lương tâm trong sáng, của hy vọng và tương lai, là “tia nắng, giọt sương và tiếng chim ca”. Nàng là một người con gái xinh đẹp, còn son trẻ, ăn nói lại có sức quyến rũ. Nàng được mọi người yêu quý, thầm yêu trộm nhớ Ẩn giấu bên trong thân hình kiều diễm ấy là cả tâm hồn cao thượng của Đức Chúa trời. Nàng đã có những hành động làm dân chúng vô cùng xúc động: “cứu sống Pierre Granhgoa và cho Quazimodo uống nước trên đài bêu tù”. Mặc dù, chính Quazimodo là người đã bắt cóc cô về cho phó giáo chủ nhà thờ. Nàng đã không hành động với cách ứng xử thông thường là trả thù. Điều này phù hợp với cảm quan nhân đạo V.Hugo và chúng ta thấy nó phảng phất, tràn ngập trong tác phẩm của ông. Quazimodo là con người tật nguyền nhưng lại là một biểu trưng cho tấm lòng cao đẹp của con người. Quazimodo đã chiếu sáng bộ tiểu thuyết âm u này bằng một lương tâm tỏa ánh hào quang làm phấn chấn lòng người và nhiều khi vươn lên những tầm cỡ phi thường, trở thành nhân vật anh hùng ca. Sự tương phản ở đây xuất hiện ngay ở trong bản thân nhân vật. Quazimodo từ khi sinh ra, nó đã bị cha mẹ đẩy ra ngoài xã hội. Nó phải nhận sự ghẻ lạnh, xúc phạm của đồng loại từ lúc nó còn chưa nhận thức được. Bởi thân hình dị dạng “cái mũi bè bè thành ba mặt tam giác”, “cái mồm vành móng ngựa, con mắt ti hí che lấp bởi chùm lông mày đỏ quạch rầm rì, trong khi con mắt phải hoàn toàn biến mất dưới cái mụn cóc to tướng”. Có những lúc, Quazimodo đã thú nhận với Esmeralda một cách đáng thương: “Còn tôi-tôi là cái gì gớm ghiếc, chẳng phải người, chẳng phải vật, một cái gì đó tôi cũng chẳng biết nữa, rắn hơn, bị giày xéo dưới chân hơn, dị dạng hơn một hòn cuội”. Một kẻ dốt nát, xấu xí nhất trần gian, nửa người nửa ngợm, với cái đầu tóc dựng đứng màu đỏ, cái lưng gù mang bướu lớn, hai chân đầu gối vòng vèo, méo mó, chạm vào nhau thế lại là linh hồn của Nhà thờ Đức Bà. Anh có khả năng kì diệu làm cho những khối đá nhà thờ sống dậy, hô hấp, chuyển động một cách Trang 35
  55. kì lạ. Lúc làm giáo hoàng một ngày hội, khi bị treo trên bánh xe, nơi đài bêu tù, máu chảy ròng ròng vì những ngọn roi quất, Quazimodo thật sự trở thành anh hùng khi anh cứu được Esmeralda vào cư trú trong nhà thờ. Hình ảnh anh xuất hiện trên trời cao, tay nâng “chiến lợi phẩm”, miệng hô: “Tị nạn! Tị nạn!”, trong khi ở bên dưới, đám dân chúng hò reo: “Noen! Noen!”. Và để bảo vệ Esmeralda, một lần, một mình Quazimodo chống lại cuộc tấn công vào nhà thờ cùa hàng nghìn người đầy vũ khí. Bỗng nhiên, anh hóa thân thành thành một anh hùng của trường ca Iliat thế kỉ XIX. Tương phản hoàn toàn với Quazimodo-gã kéo chuông nhà thờ kỳ hình dị tướng nhưng lại có tình cảm cao đẹp, mọi suy nghĩ và hành động đều nhằm mục đích làm cho người yêu được sung sướng là phó giáo chủ nhà thờ Frollot. Cái đẹp đẽ đạo mạo bên ngoài của vị phó giáo chủ đã che đậy bên trong một tâm hồn bỉ ổi và những dục vọng thấp hèn. Ở phần đầu Frollot thánh thiện, cao thượng, đức hạnh bao nhiêu thì ở phần sau sa đọa, vật hóa bấy nhiêu. Rõ ràng Hugo đã để Quazimodo đối lập với Frollot, và trong chính nhân vật là một sự đối lập khủng khiếp. Quazimodo tiến lên từ vật thành người. Còn Frollot thì ngược lại. Hugo giành hẳn một chương “tấm lòng vàng” để miêu tả tấm lòng cao thượng của Frollot, nhưng tấm lòng ấy lại dần dần chuyển sang cho trái tim Quazimodo. Có một dụng ý rõ rệt của Hugo khi ông thường xuyên diễn tả thế giới nội tâm của Frollot ở quyển một khi còn là một linh mục trong trắng. Sang quyển hai, gần như Frollot chỉ còn là một cái xác di động, để rồi bị vật hóa hoàn toàn. Điều đó cho thấy khi tâm hồn đã đông đặc những dục vọng tầm thường thì con người chẳng còn một thứ tình cảm gì giành cho đồng loại. Tuy vậy, trong con người Frollot, quá trình chuyển hóa ấy không hề đơn giản mà được Hugo gắn vào đó một cuộc chiến tranh khói lửa của tâm hồn, một cuộc giành giật không khoan nhượng của những đam mê thể xác với những khao khát cháy bỏng vươn đến cõi thánh thiện của linh hồn. Khi gặp Esmeralda, tất cả mọi quy phạm của luân lý và giáo thuyết đã hoàn toàn bị những dục vọng kìm tỏa xưa nay đạp đổ tan tành! Hugo có những lúc để cho chính y nói về bi kịch của đời mình, chẳng hạn như lúc thở than cùng thầy Jack. Cuộc đời Frollot hệt như số phận của một con ruồi. Khao khát vươn lên thì đẹp đẽ biết chừng nào, nhưng rồi định mệnh lại giăng màn lưới kéo nó về sự tầm thường. Cái tầm thường, sự xấu xa vẫn mãi mãi đeo đuổi, bám riết và sẽ đánh gục con người bất kì lúc nào nếu con người không ngừng gắng sức. Con ruồi Frollot, Hugo viết: “bay tới khoa học, ánh sáng, mặt trời, mi chỉ lo sao tới được khoảng rộng, tới ánh sáng rực rỡ của sự thật muôn đời nhưng trong khi vào khung cửa sổ chói lọi mở sang thế Trang 36
  56. giới bên kia, thế giới của ánh sáng, trí tuệ, và khoa học, hỡi con ruồi mù quáng, nhà bác học điên rồ, mi đã trông thấy cái mạng nhện tinh vi do số mệnh giăng ra giữa mi và ánh sáng, mi liều mình đâm đầu vào, hỡi gã điên khốn khổ, và bây giờ mi giãy giụa, vỡ đầu xẻ cánh, giữa những vòi vắt của địch”. Những hành động thú vật của Frollot sau này là một hệ quả tất yếu. Như một con thú dữ, Frollot chìm đắm vào những đam mê tội lỗi. Người đọc không khỏi ngạc nhiên khi con người đạo hạnh xưa kia đâm dao vào gã kỵ binh, kẻ cướp mất tình yêu của mình. Rồi trong cơn ái tình khát máu, y còn tìm mọi cách cưỡng đoạt cô gái. Trời mờ ánh trăng, Frollot dắt Esmeralda ra giữa quảng trường Grevo sừng sững dựng trên một loại thập tự đen. Dưới chân giá treo cổ, y nói với cô gái “bằng giọng ngập ngừng, từng câu ngắn, hổn hển, giọng run rẩy”, chứng tỏ sự xúc động sâu xa: “Em nghe đây, chúng ta đang ở đây. Ta sẽ nói chuyện với em. Đây quảng trường Grevo, chốn này là điểm tột cùng. Định mệnh trao chúng ta cho nhau. Ta sẽ quyết định đời em, còn em sẽ quyết định linh hồn ta”. Nhưng y đã bị thất bại một cách thảm hại. Chính từ đây, y đã hoàn toàn là ma quỷ, hóa thành kẻ mất cả nhân tính và lương tri. Với y, người đọc vừa căm ghét, phỉ nhổ, vừa muốn bày tỏ niềm xót thương đầy đau đớn. Bổ sung cho hình ảnh của Frollot là hình ảnh của Foebus,người mà Esmeralda lầm lẫn trao trọn trái tim yêu cho hắn. Bên trong cái mã đẹp trai của gã kỵ sĩ, mặc nhung y và đeo gươm, đồng thời cũng là một đại úy dẫn đội cung thủ đàn áp cuộc nổi dậy của dân chúng là cả một trái tim tàn bạo của một tay lưu manh, đàng điếm, thô bạo và tục tằn: “Thả ngay con đĩ ấy ra!”(lời của Foebus khi nói đến Esmeralda). Hắn là một kẻ vô lương tâm đã cùng cô nhân tình mới xem treo cổ Esmeralda Có lẽ, nhân vật thuần lãng mạn nhất trong tác phẩm là Pierre Gringoa. Đó là anh chàng họa sĩ, nhà thơ, nhà soạn kịch suốt đời đi tìm những khoái lạc không giống ai trong thi ca, viễn vông, ảo tưởng giữa một xã hội đầy rẫy tội ác luôn khiến con người rùng rợn vì tiếng vó ngựa sục sạo khát máu và những hình thức xử phạt man rợ kiểu trung cổ. Cuối cùng, nghệ thuật gia này rơi vào trạng thái bất lực vì thất bại khi không giải quyết được những nhu cầu vặt vãnh của cuộc sống đời thường. Chàng thất bại hoàn toàn và xa lạ hoàn toàn trong xã hội mà không nhận ra. Đến đây, người đọc cảm thấy thất vọng về sự yếu đuối, tinh thần đấu tranh không triệt để của Pierre. Đây cũng là kiểu nhân vật thường gặp nhiều trong tiểu thuyết lãng mạn. Trang 37