Iá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở Tây Bắc phục vụ cho mục đích phát triển du lịch cộng đồng
Bạn đang xem tài liệu "Iá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở Tây Bắc phục vụ cho mục đích phát triển du lịch cộng đồng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- ia_tri_van_hoa_truyen_thong_cua_dan_toc_thai_o_tay_bac_phuc.pdf
Nội dung text: Iá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái ở Tây Bắc phục vụ cho mục đích phát triển du lịch cộng đồng
- Tư liệu tham khảo Số 60 năm 2014 ___ GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC THÁI Ở TÂY BẮC PHỤC VỤ CHO MỤC ĐÍCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG ĐẶNG THỊ NHUẦN*, DƯƠNG QUỲNH PHƯƠNG , PHẠM THANH TÂM TÓM TẮT Du lịch cộng đồng là một trong những loại hình du lịch phát triển khá nhanh trong những năm gần đây. Ở Việt Nam, loại hình du lịch này đã xuất hiện và mang lại hiệu quả kinh tế cao ở một số vùng miền, trong đó có Tây Bắc. Là vùng đất nằm ở phía Tây của Tổ quốc, nơi cư trú của nhiều đồng bào dân tộc ít người với bản sắc văn hóa truyền thống đa dạng, đặc biệt là dân tộc Thái, nên Tây Bắc có nhiều ưu thế cho việc phát triển du lịch cộng đồng. Hơn nữa, vấn đề khai thác hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái phục vụ cho phát triển loại hình du lịch này đang là hướng đi đúng nhằm phát huy lợi thế của vùng. Từ khóa: du lịch cộng đồng, giá trị văn hóa, dân tộc Thái. ABSTRACT Traditional cultural values of the Thai ethnics in northwest of Vietnam for developing community-based tourism Community-based tourism is one of the types of tourism that has been developing quickly in recent years. In Vietnam, this type has brought out high economic values in some regions, including the Northwest. Located in the west of the country, a place inhabited by ethnics with a variety of traditional cultural values, especially the Thai ethnics, the Northwest possesses many advantages for developing community-based tourism. Moreover, effectively exploiting traditional cultural values of the Thai ethnics for developing this type of tourism is a right trend to exploit the advantages of the region. Keywords: community-based tourism, cultural values, Thai ethnics. 1. Đặt vấn đề nhìn nhận như là một trong những động Trong xu thế hội nhập và phát triển, lực góp phần phục hồi yếu tố văn hóa dân văn hóa truyền thống của các dân tộc đã tộc tại nhiều bản làng cũng như cách trở thành yếu tố quan trọng, là điều kiện giảm nghèo hiệu quả. tiên quyết để phát triển du lịch, đặc biệt Giữa văn hóa truyền thống và phát là du lịch cộng đồng. Thực tế cho thấy triển du lịch cộng đồng luôn có mối liên trong những năm gần đây, ở Việt Nam, hệ mật thiết, bởi lẽ các di sản văn hóa, hình thức du lịch cộng đồng đang được giá trị văn hóa chính là nguồn lực cho quan tâm, chú trọng phát triển và được phát triển du lịch. Văn hóa cung cấp tri * ThS, Trường Đại học Tây Bắc TS, Trường Đại học Sư phạm, ĐH Thái Nguyên HVCH, Trường Đại học Sư phạm, ĐH Thái Nguyên 190
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Thị Nhuần và tgk ___ thức, các phép ứng xử văn minh, lịch sự Thọ vùng (Đông Bắc) và Hà Nội, Hà cho hoạt động du lịch. Nói cách khác, Nam, Ninh Bình (vùng Đồng bằng sông văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực Hồng). Phía nam của vùng tiếp giáp với phát triển du lịch. Đồng thời, hoạt động tỉnh Thanh Hóa. Tây Bắc có địa hình núi du lịch cũng có tác động trở lại, thúc đẩy cao, hiểm trở với dãy Hòang Liên Sơn giao lưu văn hóa phát triển. Trong mối chạy dọc theo hướng Tây Bắc – Đông quan hệ với văn hóa, du lịch là yếu tố Nam, cắt xẻ mạnh. [5] quan trọng, đẩy mạnh giao lưu văn hóa Dân số của vùng là 2.822.700 giữa các vùng miền trong nước và giữa người, chiếm 3,21% dân số cả nước (năm các quốc gia, dân tộc trên thế giới. 2011). Mật độ dân số toàn vùng rất thấp Việc tiếp cận, đánh giá và phân tích và phân bố dân cư không đồng đều. Nơi những giá trị của văn hóa truyền thống và tập trung đông nhất là các thành phố, thị mối quan hệ với việc phát triển du lịch xã, thị trấn, các điểm dân cư tập trung cộng đồng sẽ là cơ sở quan trọng trong (nông, lâm trường), các thị tứ và trên các việc triển khai nghiên cứu thực tiễn, trục đường giao thông. Trái lại, ở các khu trong đó có trường hợp của các bản người vực núi cao, đường giao thông ít, đi lại dân tộc Thái ở vùng Tây Bắc. khó khăn thường chỉ có các dân tộc ít 2. Đôi nét về vùng Tây Bắc người sinh sống, nên mật độ dân cư rất Vùng Tây Bắc có diện tích tự nhiên thấp.[5] là 37.414,8 km2, chiếm 11,33 % diện tích Người Thái ở Việt Nam có dân số cả nước. Bao gồm 4 tỉnh: Điện Biên, Lai 1.550.423 người, là dân tộc có số dân Châu, Sơn La và Hòa Bình. Phía Bắc của đứng thứ 3 tại Việt Nam, có mặt trên tất vùng giáp với Trung Quốc, phía Tây giáp cả 63 tỉnh, thành phố, trong đó dân tộc Lào, phía Đông và Đông Bắc của vùng Thái cư trú tập trung chủ yếu ở vùng Tây tiếp giáp các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Bắc.[6] Bảng 1. Dân số dân tộc Thái ở Tây Bắc năm 2009 (Đơn vị: người) Tỉnh Số người Điện Biên 186.270 Lai Châu 119.805 Sơn La 572.441 Hòa Bình 31.386 Tổng số 909.902 Nguồn:[6] 191
- Tư liệu tham khảo Số 60 năm 2014 ___ Về tên gọi, người Thái tự gọi mình cấu thành nên bản người Thái là gia đình, là Phủ Tay hay Cồn Tay, đều có nghĩa là gia đình người Thái là gia đình nhỏ phụ người. Người Thái chia làm các nhóm hệ, chủ yếu là hai thế hệ với chế độ một sau: nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở vợ một chồng. [2] khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên; nhóm Nhà ở truyền thống của người Thái Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư ở tất cả các vùng đều là nhà sàn làm bằng trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Điện Biên gỗ, đẹp và chắc chắn, các ngôi nhà đều và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh dựng theo những quy định chặt chẽ. Nhà Nhai, Bắc Yên, Phù Yên); nhóm Thái sàn của người Thái Đen thường là 3-5 Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú gian, cột chôn, hình khum mai rùa, hai chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu đầu nóc hồi được trang trí khau cút - biểu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình). tượng mang ý nghĩa chỉ vai trò, địa vị của 3. Những khía cạnh văn hóa truyền các tầng lớp trong xã hội (vùng Tây Bắc), thống của dân tộc Thái ở Tây Bắc có hình voi, hình đầu mèo (vùng Thanh giá trị phát triển du lịch cộng đồng Hóa, Nghệ An). Khau cút là hai tấm ván 3.1. Bản làng, nhà ở đóng chéo nhau hình chữ X trên đòn nóc, Về mặt tổ chức xã hội, người Thái những gia đình quý tộc xưa còn làm thêm sống định cư, cư trú thành bản ở các bông sen cách điệu ở giao điểm hai tấm thung lũng màu mỡ ven các sông, suối, ván và tám hình trăng khuyết hướng vào cánh đồng giữa núi. Họ cư trú trong các nhau so le trên khau cút. Nơi thờ tổ tiên nhà sàn thành từng cụm, vài cụm thành của người Thái Đen chỉ có chủ nhà và một bản có khoảng 40 đến 50 nóc nhà. thầy mo mới được phép vào, còn những Mỗi bản của người Thái đều có nhiều gia người khác kể cả con dâu cũng không đình, dòng họ khác nhau, có đất thổ canh, được đến. [3] thổ cư, bãi cỏ chăn nuôi. Bản của người Nhà sàn của người Thái Trắng ở Thái thường lui vào chân núi, nơi có độ Lai Châu, Sơn La có hai mái phẳng, có dốc thoải. Các bản nằm trên đường vành góc giao tuyến rõ rệt, có các lan can bằng đai các thung lũng, nhiều bản hợp thành gỗ ở phía trước hoặc bao quanh nhà. Một mường. Người Thái quy định các ngôi điều rất dễ phân biệt nhà sàn của người nhà trong một bản phải được thiết kế sao Thái Trắng là ngoài mái phẳng còn ở hai cho đòn dông của mỗi nhà chạy theo một đầu hồi không có khau cút. Khác với hướng nhất định, tối kị đòn dông nhà này người Thái Đen, nơi thờ tổ tiên của người đâm thẳng vào mặt nhà kia. Mọi nhà Thái Trắng ai cũng có thể ra vào. trong bản đều quay mặt xuống cánh đồng Trong nhà sàn của người Thái, cầu và quay lưng vào núi. Về mặt xã hội, bản thang dành riêng cho nam giới gọi là tang là một lãnh thổ của một cộng đồng tộc quản ở đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với người, mường là một lãnh thổ của nhiều 7 vía. Còn cầu thang ở cuối nhà, bên trái cộng đồng tộc người nhưng trong đó dành cho phụ nữ, gọi là tang chan. Ngoài người Thái chiếm đa số. Đơn vị hạt nhân ra còn có Chan – là phần sàn nhà được 192
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Thị Nhuần và tgk ___ nối dài ra ngoài trời, nơi phụ nữ Thái thân thẳng, không lượn nách, được trang thường múa hát, thêu thùa Gầm sàn trí bằng vải “khít” ở giữa thân có tua vải vừa là nơi giã gạo, vừa để nhốt gia súc. phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố của nhà người Thái khá độc đáo: các gian cục hình tam giác. đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia + Thái Đen: Thường nhật, phụ nữ thành hai phần: một phần dành làm nơi Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối ngủ cho các thành viên trong gia đình, (chàm hoặc đen), cổ áo khác với của một nửa dành cho bếp. Mỗi nhà của người Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. người Thái thường có 2 bếp. Đầu đội khăn gọi là “piêu”, thêu nhiều Có thể thấy, nghệ thuật trang trí hoa hoa văn, mô-típ trang trí mang phong văn đến cách bố trí, sắp xếp sinh hoạt của cách từng mường. Lối để tóc khi có gia đình đều được duy trì theo truyền chồng (búi lên đỉnh đầu) gọi là “tằng thống dù đã có ít nhiều thay đổi cho phù cẩu”, khi chồng chết có thể búi tóc thấp hợp với đời sống mới. Du khách đến với xuống sau gáy, chưa chồng thì không búi vùng Tây Bắc, vào các bản làng, lên các tóc. Trong các dịp lễ tết, áo dài của dân ngôi nhà sàn Thái đều rất thích “Bảo tàng tộc Thái Đen rất đa dạng với các loại xẻ dân tộc học” tự nhiên, sống động của nách, chui đầu, trang trí hoa văn, màu sắc đồng bào. phong phú. Trang sức của phụ nữ gồm: 3.2. Y phục, trang sức vòng cổ, vòng tay, khuyên tai bằng bạc Trang phục nữ Thái chia làm 2 loại hay nhôm. phân biệt khá rõ theo hai ngành Thái Tây Khác với phụ nữ dân tộc Thái Bắc là Thái Trắng (Táy khao) và Thái Trắng, phụ nữ dân tộc Thái Đen mang Đen (Táy đăm). [2] một nét riêng thật hấp dẫn, độc đáo với + Thái Trắng: Thường nhật, phụ nữ chiếc khăn Piêu dùng để đội trên đầu. mặc áo cánh ngắn (xửa cóm), váy màu Piêu có nhiều loại khác nhau, có loại đen không trang trí hoa văn. Áo thường được thêu hoa văn bằng chỉ màu sặc sỡ, là màu sáng, trắng, cài cúc bạc tạo hình có loại chỉ là một tấm vải bông nhuộm bướm, ve, ong, cổ áo hình chữ V. Thân chàm. Tùy từng vùng, từng địa phương áo ngắn hơn áo cánh người Kinh, tạo mà Piêu có những sắc thái riêng. Piêu có dáng ôm chặt lấy thân, khi mặc cho vào tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm trong cạp váy. Váy là loại váy kín (ống), đầu khi mùa đông giá lạnh Piêu còn là màu đen, phía trong gấu đáp vải đỏ. Khi vật trang sức quan trọng của các cô gái mặc xửa cóm và váy, phụ nữ Thái còn trong sinh hoạt hằng ngày, nhất là trong chòang tấm khăn ở ngoài được trang trí lúc đi chơi hay dự lễ hội Việc học dệt nhiều màu. Khăn đội đầu không có hoa vải và học thêu khăn Piêu là bài học phổ văn mà chỉ là băng vải chàm dài trên thông, tất yếu của mọi thành viên nữ dưới 2 mét Trong các dịp lễ tết họ mặc trong đời sống của cộng đồng dân tộc áo dài màu đen. Đây là loại áo đầu thụng Thái, bởi vậy Piêu còn là một tiêu chuẩn 193
- Tư liệu tham khảo Số 60 năm 2014 ___ xã hội để đánh giá phụ nữ. Qua chiếc cơm lam ngon nhất khi ăn với muối Piêu có thể biết được chủ nhân của nó là vừng. người tài hoa, siêng năng, chịu khó hay là Đối với dân tộc Thái, thói quen ăn người lười nhác, vụng về. Khăn Piêu của cơm tẻ chỉ phổ biến từ khoảng sau năm phụ nữ Thái không chỉ mang giá trị thẩm 1960 trở lại đây. Các món ăn của người mĩ mà còn mang tính xã hội, góp phần Thái chủ yếu là: cá nướng, cá đồ, cá vùi tạo nên một nét đẹp, một sắc thái riêng, tro, cá chua, cá moọc (trộn tấm, gói lá hấp dẫn du khách về trang phục truyền dong rồi đồ chín), cá lạp, gỏi, thịt nướng, thống của dân tộc Thái. thịt vùi tro, thịt chua, thịt gác bếp hoặc 3.3. Ẩm thực làm gỏi, lạp sườn ; món mắm chế bằng Với người Thái ở Tây Bắc, có lẽ ruột non động vật, có vị đắng, được pha không có dạng thức văn hóa nào phong thêm các loại gia vị nặm pịa rất hợp khẩu phú như ẩm thực. Người Thái là một tộc vị của họ; các loại rau, măng thường đồ người rất giỏi trong chế biến thức ăn. hay luộc, làm nộm ít khi xào mỡ; các Văn hóa ẩm thực của người Thái vùng loại tôm, tép, cá nhỏ thì nấu canh, làm Tây Bắc không quá cầu kì, kiểu cách chẻo để chấm xôi nếp. Đặc biệt có món nhưng mang đậm bản sắc tộc người, các “Pa pỉnh tộp” (cá úp nướng) là một món món ăn luôn để lại ấn tượng khó quên ăn mang đậm bản sắc dân tộc của người cho du khách. Thái. Để làm được món “'Pa pỉnh tộp”, Trước kia, lương thực chính của người ta chọn loại cá chép khoảng 0,5kg người Thái là gạo nếp. Gạo nếp được đồ trở lên, béo và còn tươi sống. Trước khi thành xôi và người Thái chỉ ăn xôi nếp đồ mổ phải cạo vảy để gia vị ướp ngấm đều cách thủy. Khẩu cẳm hay còn gọi là xôi vào cá, không mổ cá đằng bụng mà phải nếp ngũ sắc, là loại xôi được nhuộm màu mổ đằng dọc sống lưng để khi gấp úp, bằng lá cây với nhiều màu khác nhau như con cá mềm mại dễ gấp hơn và để phần đỏ, trắng, vàng, tím Ngoài khẩu cẳm, gia vị nhồi trong bụng cá khi tiếp xúc với còn có cơm lam (khẩu lam). Cơm lam là than hồng sẽ tỏa mùi thơm ngấm vào thịt loại cơm được làm từ gạo (thường là gạo cá. nếp) cùng một số nguyên liệu khác, cho Trong các dịp lễ tết, cưới xin, vào vào ống tre, giang, nứa và nướng chín nhà mới, người Thái thường uống rượu trên lửa. Khi cơm chín, chẻ bỏ lớp cháy cần. Rượu cần là một thứ rượu trắng cất đen bên ngoài ống cơm thật khéo léo cho từ sắn hoặc gạo, được uống trực tiếp qua đến khi bao bọc phần ruột cơm chỉ là một cần trúc. Rượu cần người Thái làm khá lớp lạt giang mỏng. Xắt mỗi ống ra thành cầu kì, gọi là “láu xá”. Men rượu làm năm hay bảy khúc. Khi ăn chỉ cần bóc bỏ toàn bằng những thứ lá, quả sẵn có trong lớp lạt giang bên ngoài. Cơm lam được rừng (gọi là men lá) như: “bơ hinh ho”, dọn ra ăn cùng với thịt gà hay thịt lợn “khi mắc cái”, củ riềng, lá trầu không, rừng nướng (những thứ thịt này cũng quả ớt Những thứ này được giã cho thật được nướng trong ống tre). Tuy nhiên, nhuyễn với gạo tấm, sau đó nắm thành 194
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Thị Nhuần và tgk ___ từng miếng tròn dẹt như bánh rán, đem ủ người vẫn luôn sắt son bền chặt. với rơm, xếp từng lớp đều nhau. Với + Điệu “nhôm khăn” – tung khăn, quan niệm con trâu là đầu cơ nghiệp, là điệu xòe tưng bừng nhất, hay dùng khi người Thái dùng sừng trâu để làm vật đo mùa vụ bội thu, đám cưới, lên nhà mới lường khi uống rượu, hàm ý tôn thờ con Dần dần, từ các điệu xòe cổ, các vật quý trong nhà. nghệ nhân dân gian xây dựng được tới 32 3.4. Văn nghệ điệu xòe mang bóng dáng sinh hoạt Người Thái có đời sống văn hóa thường ngày: “xe cúp” – múa nón, “xe tinh thần phong phú, đa dạng. Về dân ca, tẳng chai” – múa chai, “xe kếp phắc” – có làn điệu khắp phổ biến ở hầu hết các hái rau, “xe cáp” – múa sạp Các điệu địa phương. Khắp là lối ngâm thơ hoặc xòe nhịp nhàng, sôi động trong tiếng hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. trống, chiêng, khèn, pí, tính tẩu, đôi khi Làn điệu khắp nổi tiếng là khắp “Tiễn có cả các lời hát phụ họa cho thêm phần dặn người yêu” (sống chụ son sao), tản sinh động. Các điệu xòe vòng sôi nổi bao chụ siết sương; hát đối đáp trai gái (khắp nhiêu thì các bài xòe điệu lại tinh tế, báo sao); hát lên nhà mới (khắp khửn duyên dáng bấy nhiêu. Triết lí âm – hươm mớ); hát mừng đám cưới (khắp dương, đất – trời, lửa – nước và ý nghĩa hặp đoong); hát mừng mùa vụ (khắp nhân sinh cao cả luôn ẩn chứa trong các chôm). Việc khắp đối thể hiện khả năng, điệu xòe. Người Thái có câu ca: “Không hiểu biết, độ nhạy bén và linh hoạt của xòe không tốt lúa/ Không xòe thóc cạn người trong cuộc. [2] bồ”. Theo truyền thống của dân tộc Thái Về dân vũ của người Thái thì nổi vào những ngày lễ, tết, ngày vui của dòng tiếng nhất là múa xòe. Nói tới xòe Thái là họ, gia đình, nhất là nhà đón khách quý phải nói tới các điệu xòe cổ: vòng xòe thường được tổ chức như một + Điệu “khắm khen” – quanh đống nghi lễ dân gian để đón mừng, bên ánh lửa, mọi người nắm tay nhau nhảy múa. lửa bập bùng, tay trong tay tình cảm, thể Đây là điệu múa mang tính sơ khai, biểu hiện nét đẹp truyền thống nhân văn sâu lộ sự gắn kết cộng đồng, mong ước một sắc. Vòng xòe có thể có số lượng lớn cuộc sống ấm no, hạnh phúc vẹn tròn. người tham gia, có những vòng đại xòe + Điệu “khắm khăn mơi lẩu” – với số lượng đông tới hàng trăm người và nâng khăn mời rượu. Đây là điệu múa vô cùng sôi động. đầy chất trữ tình và ấm áp tình người, thể Về nhạc có các loại sáo (pí), nhị (xi hiện lòng hiếu khách. xo), đàn môi (hưn mư), đặc biệt là khèn + Điệu “phá xí” – bổ bốn, diễn tả bè (khen pe). Ngoài ra, còn có nhac khua tình đoàn kết của cộng đồng, hướng về tổ loỏng (quánh loòng), dùng những chiếc tiên, quê hương của mỗi thành viên. chày giã gạo xếp thành đôi diễn tấu thành + Điệu “đổi hôn” – múa tiến lùi, giai điệu khác nhau. như muốn khẳng định dù đất trời có đổi Hạn khuống là một trong những nét thay, cuộc sống có như thế nào thì tình đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người 195
- Tư liệu tham khảo Số 60 năm 2014 ___ Thái Tây Bắc. Đây là sinh hoạt văn hóa rau rừng cùng chai rượu Mai Hạ dân gian độc đáo, với hình thức diễn Buổi tối du khách được đắm mình xướng mang tính sân khấu sơ khai mang trong men rượu cần và thưởng thức tính cộng đồng. Người ta dựng cái sàn ở những tiết mục ca nhạc đặc sắc của dân nơi đất trống của bản, hài hòa giữa thiên tộc Thái ngay trên nhà sàn hoặc ngoài sân nhiên và cộng đồng. Hạn khuống thường của bản do thanh niên nam, nữ trong bản được tổ chức vào tiết thu đông, công việc biểu diễn. đồng áng đã nhàn rỗi. 4.2. Bản Áng (Sơn La) 4. Một số bản du lịch cộng đồng ở Nằm trên cao nguyên Mộc Châu Tây Bắc (huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La), bản Áng 4.1. Bản Lác (Hòa Bình) không chỉ có khí hậu trong lành, mát mẻ; Bản Lác, thuộc huyện Mai Châu, cảnh sắc thơ mộng, hữu tình mà còn lưu thành phố Hòa Bình, là nơi sinh sống của giữ kho tàng văn hóa đặc sắc của dân tộc người dân tộc Thái với 5 dòng họ Hà, Lò, Thái. Vì, Mác, Lộc. Theo Trưởng bản Hà Công Từ thị trấn nông trường Mộc Châu, Tím, bản Lác đã có tuổi đời trên 700 du khách đi theo quốc lộ 43 khoảng 2km năm. Năm 1993, UBND huyện Mai Châu về phía Nam sẽ đến bản Áng. Nhìn từ chính thức đề nghị tỉnh Hòa Bình cho trên cao, bản Áng đẹp như một bức tranh phép khách du lịch nghỉ qua đêm trong thủy mặc với những nếp nhà sàn truyền bản. Cũng từ đó, cái tên bản Lác đã được thống nằm thấp thoáng, ẩn hiện dưới bạt nhiều người biết như một “điểm sáng” ngàn tán lá xanh tươi. Cạnh bản là hồ trên bản đồ du lịch Việt Nam. [9] nước tự nhiên có diện tích 5ha được bao Hiện toàn bản có 25 “khách sạn” là quanh bởi rừng thông xanh trồng trên nhà sàn được xây cất theo quy hoạch, những đồi đất feralít nâu đỏ. Khung cảnh mỗi “khách sạn” đều được đánh số theo cao nguyên Mộc Châu, với những đồi thứ tự từ 1 đến 25, “khách sạn” số 1, nơi chè, đồng cỏ xanh mướt, hoa ban, hoa được dân du lịch “phong tặng” danh hiệu mơ, hoa mận nở trắng rừng đã tô điểm “khách sạn 4 sao”. Đối với các hộ gia cho vẻ đẹp bản Áng thêm lung linh, thơ đình trong bản, du lịch là một trong mộng. Tuy nằm giáp thị trấn nông trường những nguồn thu chính. Mộc Châu nhưng cư dân bản Áng vẫn Nhà sàn ở bản Lác được dát bằng bảo tồn nguyên vẹn bản sắc văn hóa dân tre, rộng, cao ráo, sạch sẽ và giữ được tộc đặc thù như kiến trúc nhà sàn truyền truyền thống kiến trúc cổ, bên trong có thống, trang phục, những làn điệu dân ca đầy đủ chăn, đệm, gối được gấp ngăn cổ, những lễ hội đặc trưng (lễ hội “Hết nắp, gọn gàng. Sát cạnh sàn ngủ - nghỉ là Chá”, lễ mừng cơm mới) [8] sàn ngồi để ăn cơm và uống trà. Ghé Những năm qua, nhằm phát triển du thăm bản Lác, du khách không thể bỏ qua lịch bền vững gắn với bảo tồn và phát những món ăn đặc sản như gà bản, xiên huy nét đẹp thiên nhiên, văn hóa ở Mộc thịt rừng nướng, nếp Mai Châu, bát canh Châu, tỉnh Sơn La đã đầu tư, khai thác 196
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Thị Nhuần và tgk ___ loại hình du lịch cộng đồng tại một số Trong những năm gần đây, nhằm bản dân tộc, trong đó có bản Áng. Với góp phần bảo tồn nền văn hóa truyền cảnh đẹp thiên nhiên mang đậm sắc màu thống, đặc biệt là bảo tồn dân ca, dân vũ Tây Bắc cùng nét văn hóa độc đáo của đồng thời phát huy giá trị của văn hóa dân tộc Thái, bản Áng đã trở thành điểm trong phát triển du lịch cộng đồng, bản đã đến hấp dẫn đông khách du lịch trong thành lập các đội văn nghệ cũng như tiến nước và quốc tế, góp phần không nhỏ vào hành tổ chức cho các nghệ nhân biểu việc nâng cao đời sống cho dân bản, đồng diễn, truyền dạy các loại hình nghệ thuật thời bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân gian. Các đội văn nghệ, các nghệ truyền thống, trong đó phải kể đến nghề nhân luôn sẵn sàng phục vụ, giao lưu văn dệt, thêu thổ cẩm. Hiện nay, các sản hóa với du khách ngay tại bản với nhiều phẩm thổ cẩm (khăn piêu, áo cóm, túi hình thức biểu diễn phong phú như thổi xách, khăn trải bàn ) do dân bản làm ra Pí pặp, hát dân ca Thái, múa xòe với mẫu mã đa dạng, hoa văn tinh tế đang Bên cạnh đó, bản du lịch cộng đồng từng bước tạo được thương hiệu riêng. Him Lam 2 vẫn còn lưu giữ và tổ chức 4.3. Bản Him Lam 2 (Điện Biên) thường xuyên các lễ hội dân tộc truyền Bản du lịch cộng đồng Him Lam 2 thống của mình như hội Hạn khuống, lễ thuộc phường Him Lam, thành phố Điện mừng cơm mới, ngày hội đoàn kết toàn Biên Phủ, là bản có truyền thống dân tộc dân và các ngày lễ, tết âm lịch hàng năm. Thái từ lâu đời với những phong tục tập Các ngày lễ, hội thường được tổ chức tại quán rất riêng mang đậm sắc màu Tây nhà văn hóa của bản và diễn ra rất sôi Bắc. nổi, được nhân dân trong bản hưởng ứng, Bản Him Lam 2 nằm ở cửa ngõ của tham gia nhiệt tình. thành phố, dân cư chiếm phần đa (98%) Đến với bản Him Lam 2, du khách là dân tộc Thái (chủ yếu là người Thái không những được giao lưu văn nghệ, đen), do đó bản mang dấu ấn của dân tộc nghe hát dân ca Thái, chơi những trò chơi Thái một cách sâu sắc. Với vị trí khá đặc dân gian và dạo quanh bản ngắm nhìn biệt, nằm trong khu di tích chiến thắng những nếp nhà sàn duyên dáng hòa cùng Điện Biên Phủ và ngày đêm soi bóng với dòng sông Nậm Rốm mà du khách xuống dòng Nậm Rốm xinh đẹp, năm còn được thưởng thức các món ăn dân 2004, bản Him Lam 2 đã là 1 trong 8 bản tộc do chính bàn tay của những đầu bếp được tỉnh Điện Biên lựa chọn để thí điểm là những người con sinh ra và lớn lên tại đầu tư xây dựng thành bản văn hóa, du bản chế biến phục vụ du khách. Tất cả lịch. Đến nay, bản Him Lam 2 đã trở những nét đẹp đó đã tạo nên một bức thành điểm du lịch cộng đồng đạt tiêu tranh đẹp, đậm đà sắc thái dân tộc vùng chuẩn với đầy đủ hệ thống cơ sở hạ tầng cao của một bản du lịch cộng đồng và để và phương tiện thiết yếu nhưng vẫn lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách. không làm mất đi nét đẹp văn hóa truyền 4.4. Bản Vàng Pheo (Lai Châu) thống của dân tộc Thái đen. [10] Hiện nay trên địa bàn Lai Châu có 4 197
- Tư liệu tham khảo Số 60 năm 2014 ___ điểm du lịch cộng đồng được tỉnh công quán riêng trong đời sống sinh hoạt cũng nhận đó là bản Nà Luồng, bản Hon như lao động sản xuất hàng ngày của họ. (huyện Tam Đường), bản Gia Khâu I (thị Mỗi lễ hội là một bức tranh miêu tả đời xã Lai Châu) và bản Vàng Pheo (huyện sống xã hội của đồng bào Thái trắng xứ Phong Thổ). Đây được xem là những Mường So, tiêu biểu như: lễ hội Nàng “hạt nhân” quan trọng để phát triển du Han (15/2 âm lịch), lễ hội Then Kin Pang lịch cộng đồng ở Lai Châu, đem lại lợi (10/3 âm lịch), lễ hội Kin Lẩu Khẩu Mẩu ích kinh tế cho người dân bản địa, làm (15/9 âm lịch) Trong các lễ hội, ngoài phong phú thêm sản phẩm du lịch Tây các nghi lễ truyền thống, còn có nhiều Bắc. hoạt động văn hóa, văn nghệ, trò chơi Nằm cách trung tâm thị xã Lai dân gian mang đậm bản sắc văn hóa của Châu khoảng 30km, bản Vàng Pheo được người Thái trắng được tổ chức như: múa nhắc đến như “thung lũng mĩ nhân”, một quạt; múa xòe; trò chơi tó má lẹ, ném trong những bản cổ xưa nhất của người còn, đẩy gậy, tù lu, đánh yến, bắt cá Thái trắng ở Lai Châu (90 hộ với hơn 400 suối nhân khẩu). Mang trong mình những nét Với những tiềm năng sẵn có, Vàng văn hóa đặc trưng, với cảnh sắc thiên Pheo hiện đang là một điểm thu hút nhiên tươi đẹp và thơ mộng, bản Vàng khách du lịch. Du khách đến Vàng Pheo Pheo hội tụ nhiều điều kiện để phát triển thường tập trung vào hai ngày cuối tuần du lịch cộng đồng. [9] và đông hơn là vào mùa lễ hội, sau tết Theo quan niệm của người Thái Nguyên Đán. Đến Vàng Pheo du khách trắng ở Tây Bắc, nhà sàn phải được dựng có thể tham quan, nghỉ đêm tại nhà sàn theo tiêu chí “sơn chầu thủy tụ” (lưng tựa của người Thái trắng, cùng làm những vào đồi, núi; mặt hướng ra sông, suối công việc hàng ngày của người dân địa hoặc cánh đồng). Nhà được làm bằng gỗ phương hay tham gia các sinh hoạt văn tốt, tre hoặc hóp với bốn mái thẳng gấp hóa cộng đồng. góc được lợp bằng cỏ gianh, bao gồm hai Trong Quy hoạch phát triển Du lịch tầng. Tầng trên dành cho các sinh hoạt Lai Châu đến 2015 tầm nhìn 2020, Vàng của gia đình chủ nhà và để tiếp khách, Pheo trở thành một điểm đến du lịch tầng dưới là nơi để các nông cụ sản xuất, cộng đồng trọng điểm của Lai Châu và gỗ, củi Hiện nay, dân bản đã xây thêm Vùng Tây Bắc. Phát triển du lịch chắc một ngôi nhà sàn văn hóa phục vụ các chắn sẽ đem lại lợi ích chung về văn hóa sinh hoạt cộng đồng. Đây là ngôi nhà có xã hội và môi trường cho toàn dân bản. kiến trúc giống nhà sàn truyền thống 5. Kết luận nhưng mái nhà lợp ngói, gỗ làm nhà có Văn hóa là bản sắc riêng của mỗi màu sáng hơn. cộng đồng dân cư. Hoạt động du lịch, đặc Cho đến nay, người Thái trắng ở biệt là hình thức du lịch cộng đồng có vai đây còn gìn giữ nguyên vẹn nhiều lễ hội trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát văn hóa đặc trưng, hình thành nên tập huy những giá trị văn hóa truyền thống 198
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Thị Nhuần và tgk ___ của địa phương. Nhờ du lịch, người dân Tây Bắc có thế mạnh trong việc khai thác nhận thấy những giá trị văn hóa cốt lõi các giá trị văn hóa dân tộc để phục vụ mang bản sắc quê hương không chỉ là mục đích phát triển du lịch cộng đồng, niềm tự hào mà còn mang lại nguồn thu trong đó, bản sắc văn hóa tộc người Thái nhập khá lớn cho gia đình và địa phương giữ vai trò quan trọng. Để đẩy mạnh phát nơi mình sinh sống. Do vậy, người dân sẽ triển du lịch ở các làng bản người dân tộc ý thức sâu sắc hơn trong việc bảo tồn và Thái ở Tây Bắc đạt hiệu quả cao và bền phát huy những giá trị văn hóa truyền vững, đồng thời giữ gìn và phát huy được thống bản địa như: nếp sống, sinh hoạt các giá trị văn hóa truyền thống của dân văn nghệ, ẩm thực, trang phục truyền tộc, cần phải thực hiện đồng bộ các giải thống Bên cạnh đó, các mối quan hệ pháp như: nâng cao chất lượng nguồn giữa những người dân địa phương với nhân lực du lịch, gia tăng chất lượng dịch nhau và với khách du lịch không những vụ du lịch, quảng bá hình ảnh du lịch, được duy trì ổn định mà còn trở nên thân xúc tiến du lịch văn hóa cộng đồng tạo thiện hơn, gắn bó chặt chẽ với nhau hơn điều kiện cho du khách khám phá bản sắc để xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn hóa phong phú, độc đáo, đặc sắc của xanh, sạch. vùng Tây Bắc nói chung và của các làng Với bức tranh tộc người đa dạng, bản dân tộc Thái nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam, mấy vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Phùng Quỳnh (2012), “Một số ý kiến về kinh tế, văn hóa, xã hội ruyền thống và hiện đại của cộng đồng dân tộc Thái Vùng Tây Bắc”, Kỉ yếu Hội thảo Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái – Kadai ở Việt Nam: Truyền thống, hội nhập và phát triển (Hội nghị Thái học toàn quốc lần thứ VI), Nxb Thế giới. 3. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục. 4. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội. 5. Lê Thông (chủ biên) (2009), Địa lí các vùng kinh tế Việt Nam, Nxb Giáo dục. 6. Tổng cục thống kê (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 - Các kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê. 7. 8. 9. 10. 11. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 22-01-2014; ngày phản biện đánh giá: 17-02-2014; ngày chấp nhận đăng: 18-7-2014) 199