Hàm giang danh tướng liệt truyện

pdf 104 trang phuongnguyen 1950
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hàm giang danh tướng liệt truyện", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfham_giang_danh_tuong_liet_truyen.pdf

Nội dung text: Hàm giang danh tướng liệt truyện

  1. Th• viện tỉnh hải d•ơng Hàm giang danh t•ớng liệt truyện Liệt truyện các danh t•ớng làng Hàm Giang Hải d•ơng Ngô Đức Thọ dịch Chế bản theo bản đánh máy của Th• viện tỉnh Hải H•ng năm 1973 Hải d•ơng- 8/1998
  2. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện  Lời tựa Họ Đinh ở làng Hàm-giang huyện Cẩm-giàng, tỉnh Hải-d•ơng là dòng họ lớn có danh vọng ở n•ớc ta. Công thần triều Lê có họ thì họ Đinh ở Hàm-giang đứng đầu. T•ơng truyền khi Lê Hoàn (tức Lê Đại Hành) tiếm ngôi nhà Đinh, em vua Đinh Tiên Hoàng là Kim Ngô đại t•ớng quân Đinh điền cùng với quan Nhập nội Thái uý Nguyễn Bặc dấy quân chống cự, bị thất bại, đành phải chịu chết. Con cháu lánh nạn di c• đến làng Hàm-giang lập thành quê quán mới. Về sau, các đời xa dần, không biết rõ ra sao. Kể từ Thái Bảo Thạch quốc công Đinh Đàm, công thần đời Lê sơ truyền 6 đời đến sinh phong Đại v•ơng Lộc quận công Đinh Văn Tả là ng•ời đứng đầu bậc công thần đời Lê Trung H•ng. Lại truyền đến 6 đời nữa đến Thái bảo Hàm xuyên quận công Đinh Nha Hành cuối đời Lê đem tộc thuộc theo vua Chiêu Thống l•u vong sang Bắc quốc (Trung Quốc). Họ Đinh trải qua ba bốn trăm năm, đời nào cũng có ng•ời làm t•ớng, công trạng hiển hách mà lòng trung nghĩa một mạch nối truyền, ng•ời trong n•ớc hết lòng đề cao thán phục. Đến ngày nay ng•ời nghe thuật chuyện vẫn cảm thấy uy nghiêm lẫm liệt xiết bao kính trọng, ng•ỡng mộ. Những lúc nhàn rỗi việc công, tôi th•ờng khảo cứu hành trạng của các vị nổi tiếng nhất qua các đời, sơ l•ợc xin nêu lên vài nét đại khái, làm thành một tập, lấy tên là "Hàm Giang danh t•ớng liệt truyện" để tiện xem đọc và cũng là để tiện bày tỏ niềm khích lệ đối với những kẻ bề tôi trung nghĩa ở đời. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 2 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  3. Về phần sự tích, nếu tôi ghi đ•ợc đầy đủ tức là do có các tập thực lục (gia phả) và các bài văn bia ghi chép đời t• của mỗi vị ấy. Còn về các cuộc hành quân, đánh trận, trù liệt cơ m•u thì ghi theo những điều lâu nay dân chúng Hàm-giang vẫn từng truyền tụng qua các đời. Những vị nào muốn biết rộng hơn, có thể về tìm hiểu thêm ở làng ấy. Nay làm bài tựa. Ngày 20 tháng 10 năm Thành Thái thứ 3 (21-11-1891) ĐINH GIA NGHI Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846) quyền Tri Phủ Lâm Thao kính ghi. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 3 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  4. Khai quốc công thần Thái bảo Thạch quận công Đinh Đàm. Ông huý là Đàm, dòng dõi của quan Nhập nội thị vệ điện tiền chấp kim ngô đại t•ớng quân triều đình là Đinh Điền. Ông là ng•ời thông minh tài giỏi lại có dũng lực hơn ng•ời, ng•ời Minh mấy lần vời ra làm quan nh•ng ông đều từ chối ẩn c• nơi thôn dã để mai danh ẩn tích. Khi đã cao tuổi, nghe tin vua Lê Thái Tổ dấy nghĩa ở Lam Sơn, ông bèn tìm đến xin theo, lúc bấy giờ ông 53 tuổi. Năm ất Tị (1425) vua Lê Thái Tổ sai ông dẫn đội quân kỳ đạo(1) cùng với Thái uý Lê đem quân đi đánh miền Tân Bình, Thuận Hoá(2). Năm Đinh Mùi (1427) ông đ•ợc hộ giá nhà vua cầm quân đi đánh các quận huyện phía Đông rồi đánh ra Đông Đô(3), tham dự trên d•ới 70 trận, đến đâu thắng mau đến đó. Khi ở trong quân, nhà vua th•ờng gọi ông là "lão t•ớng", nhân đó mới ban tên gọi là "Kỳ huân đại t•ớng quân" (vị t•ớng già có nhiều công lao) để tỏ ý tôn kính đặc biệt. Ông đã ngoài 60 tuổi, nh•ng lần nào đem quân đi cũng đều lập đ•ợc chiến công. Sau khi bình định xong giặc Minh, ông đ•ợc xếp vào hàng "Khai quốc công thần", "Th•ợng trụ quốc th•ợng trật" (công thần dựng n•ớc, r•ờng cột bậc nhất), phong chức Tả doanh Đại đô đốc, t•ớc quận công. (1) Kỳ đạo: T•ơng tự nh• quân tinh nhuệ (2) Tức miền Bình trị thiên ngày nay (3) Nguyên văn viết là: "Xuất chinh Đông quận". Đông quận nghĩa là các quận phía đông nói chung. Thời gian này nghĩa quân Lam sơn từ vùng căn cứ vùng núi ào ạt tiến công xuống đồng bằng tiến thẳng ra Thăng long(lúc bấy giờ gọi là Đông đô)- Chúng tôi dịch nh• trên cho rõ ý. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 4 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  5. Đến năm 70 tuổi, ông về trí sĩ. Sau khi mất đ•ợc tặng t•ớc Thái bảo Thạch quốc công. Vua ban 30 mẫu ở bản quán để làm ruộng thờ cúng đời đời. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 5 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  6. Tĩnh nạn công thần. Tham đốc Đức Giang Hầu Thân phụ của Đức Giang Hầu(1) (1-3) là Đinh Phúc An (quan t•ớc sự nghiệp không rõ). Buổi đầu giữ chức "Gia lệnh" ở cung tiềm đế(2) (2-3) của Gia v•ơng (sau lên ngôi tức là vua Lê Thánh Tông). Năm Canh Thìn (1460) các đại thần là bọn Lê Xí(3) hợp m•u diệt trừ đ•ợc phe cánh của bọn Phạm Đồn, Phạm Ban phế truất Nghi Dân, đón Gia V•ơng lên ngôi hoàng đế (tức là Lê Thánh Tông), ông vâng lệnh góp sức vào việc vãn hồi chính thống, đến khi trong cung ngoài phủ phe đảng của Nghi Dân bị quét sạch hết, triều đình xét công phong cho ông giữ chức Điện tiền Cẩm y tả hiệu điểm. Năm Canh Dần (1470), vua Chiêm thành là Trà Toàn đem quân xâm lấn, quấy phá vùng Hoá Châu(4) (4-3). Vua Thánh Tông thân hành cầm quân đi đánh phía Nam, ông đ•ợc sung chức Tá dực t•ớng quân, hộ giá vua đ•a quân ra trận, cả phá quân giặc ở thành Trà Bàn bắt sống Trà Toàn. Ông đ•ợc thăng chức Tham đốc, chỉ huy đội quân Thần Vũ tứ vệ(5) (5-3). Sau khi mất ông đ•ợc xếp vào hạng "Tĩnh nạn công thần" (đại thần có công dẹp loạn). Chức Đô đốc thiên sự. Vua ban cho 11 mẫu 5 sào để làm ruộng tế tự. Nay nhà thờ họ ở trên thửa đất ấy. Khoảng niên hiệu Gia Long (nhà Nguyễn 1802-1819). Lô đất nằm vào trong khu vực tỉnh thành Hải D•ơng, còn lại chẳng qua chỉ là một rẻo quanh nhà thờ mà thôi(6) (6- 3). (1) Nguyên th• không chép tên thật của ng•ời này, có lẽ vì xa đời không biết rõ (2) Nơi ở của hái tử tr•ớc khi lên ngôi gọi là cung "Tiềm đế" (3) Tức là Nguyễn Xí, đ•ợc vua ban họ vua (4) Hoá Châu. Tức là Phủ Thừa thiên đời sau (5) Tức là 4 đạo quân ngự vệ (6) Xem chú thích cuối phần Trung H•ng công thần Đô đốc D•ơng Sơn Hầu Đinh Đam Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 6 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  7. Trung h•ng công thần. Đô đốc D•ơng Sơn Hầu Đinh Đam Ông huý Đình, con của Đức Giang Hầu. Khoảng đầu đời vua Lê Chiêu tông (1516-1522) đ•ợc sung chức Nội thị vào hầu ở cung tiên đế. Cuối niên hiệu Quang Thiện (1525), Mạc Đăng Dung tiếm ngôi vua, ông theo xa giá về Tây Đô ở Thanh Hoa (tức Thanh Hoá). Năm ất Dậu (1525) Mạc Đăng Dung đem quân vào đánh. Vua tự cầm quân thân chinh đánh Đăng Dung ở làng Lạc Thổ, thất bại, bị Đăng Dung c•ớp bắt về Đông Đô (tức Thăng Long) rồi bị giết. Ông cùng với hoàng thái tử tên là Ninh chạy sang Ai Lao ẩn lánh. Về sau hoàng tử Ninh đ•ợc bọn Trịnh Luy Liệu đón tìm tôn lên ngôi, tức là vua Trang tôn nhà Lê. Cơ nghiệp đời trung h•ng thực bắt đầu từ đó.(1) Năm Quý Mão (1543) ông theo Thái s• Chiêu Huân Tĩnh công(2) đem quân đi đánh thu phục các Hoan Diễn (Nghệ An), Gia Viễn (Ninh Bình) và Sơn Nam(3) đến đâu đều dẹp yên đến đó. Sau ông bị bệnh phải trở về sách Vạn Lại(4) là nơi vua đón bản doanh, rồi mất ở đó. Ông làm quan đến chức Cẩm y vệ, điện Tiền Đô hiệu điếm, chỉ huy đội Tả quân, t•ớc D•ơng Sơn hầu(5), sau khi mất đ•ợc truy tặng t•ớc Đô đốc đồng tri, xếp vào hàng công thần trung h•ng. (1) Trang Tông đ•ợc lập làm vua năm Quý Tỵ(1533) đặt niên hiệu Nguyên Hoà (2) Tức là Nguyễn Kim, ông tổ đầu nhà Nguyễn, đ•ợc suy tôn là "Triệu tổ tĩnh Hoàng đế" (3) Trấn Sơn nam là miền đất thuộc Thái Bình, Hải H•ng nay (4) Sách Vạn Lại (5) Nguyên văn ở đây viết chữ D•ơng, không biết nhất trí với chữ D•ơng ở đầu truyện . Có lẽ chữ thì đúng hơn. Phía đông của núi, về phía mặt trời mọc thì gọi là D•ơng. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 7 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  8. Đại v•ơng trung h•ng công thần. Thái bảo Hùng quận công Đinh Phủ. Ông huý Phủ, con của D•ơng Sơn hầu, thuở nhỏ đã học tập binh th• vũ l•ợc, tỏ ra xuất sắc. Lúc đầu ông đ•ợc bổ chức chỉ huy quân cấm vệ, theo hầu vua ở hành tại lúc ấy đóng ở Lam Sơn. Năm Đinh Mùi (1547) đem quan đi đánh dẹp các huyện miền Thiên quan. Năm ất Mão (1555) cùng với Thái s• Lạng quốc công Trịnh Kiểm đem quân đi đánh quân Mạc Kính Điển. Lúc bấy giờ Mạc kính Điển đem binh thuyền hơn trăm chiếc tiến đến cửa bể Thần Phù(1) chia quân các ngả vào xâm lấn. Lạng quốc công Trịnh Kiên đ•a quân chặn đánh liền mấy lần thua bại, triều đình lấy làm lo. Ông mật tâu m•u l•ợc, xin cho quân mai phục dọc theo hai bờ sông. Trịnh Kiên bèn nghe theo kế ấy. Quân Mạc quen đánh thắng không phòng bị ; bất ngờ bị quân triều đình mai phục hai bên bờ sông nhất tề xông ra đánh, bị một phen đại bại, thây nổi lềnh bềnh đầy sông. Quân triều đình bắt sống t•ớng Mạc là Kính Điển ở chân núi Kim Sơn, thuyên chiến cùng súng đạn thảy đều bị thu đoạt hết, quân giặc chạy trốn về Đông Đô. Từ đó nhà Mạc càng ngày càng suy yếu, nhà Lê càng có cơ thu phục thành Thăng Long, sau ông mất tại hành doanh, đóng ở Yên-tr•ờng(2). Làm quan đến chức Điện tiền thị vệ Cẩm y hiệu điểm(3) t•ớc Hùng sơn hầu, sau nhờ có con là Lộc Quận công có công lớn, nhà vua lại t•ởng nhớ đến công trạng của ông buổi đầu trung h•ng theo đi đánh dẹp các nơi, truy tặng ông chức Thái bảo Th•ợng trụ quốc th•ợng trật (hạng nhất), t•ớc Hùng quận công, đ•ợc xếp vào hàng công thần trung h•ng, về sau lại gia phong t•ớc hiệu là: "Hiên đạo chiêu ứng, phong công vũ l•ợc, hùng (1) Cửa bể Thần Phù (2) Tổng Yên Tr•ờng thuộc huyện Đong Sơn, tỉnh Thanh Hoá. (3)Tức là chức quan chỉ huy đội Cẩm y hầu vua tr•ớc điện. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 8 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  9. đoán nhân nghị, uy đức kh•ớc định, an quốc, l•ợng thiên chuân thế tuấn chiết văn ninh, ôn cung hoà hậu, anh nghị hùng đoán trung chính khoan đang khoát đạt, thích huệ hiệu hoá thần công đại v•ơng" (Nghĩa là vị đại v•ơng làm sáng đạo vua tôi, có công lớn m•u l•ợc giỏi, quả quyết, nhân hậu uy nghiêm, dùng uy đức mà đuổi lui kẻ địch khiến cho n•ớc đ•ợc yên, biết xét ý trời thuận lòng dân, sáng suốt hào hoa, ôn hoà cung kính, hoà nhã đôn hậu, anh dũng quả cảm, quyết đoán, thẳng thắn đúng mực, độ l•ợng bao dung rộng lớn, thông minh sáng suốt, biến hoá thần thông). Chú thích số (6)-Tr.5 phần Tĩnh nạn công thần Tham đốc Đức Giang hầu: (6) Những sự kiện lịch sử liên quan đến sự việc trên nh• sau: .Năm Kỷ Mão niên hiệu Diên Minh thứ sáu (1459) đời vua Lê Nhân Tông. Lạng Sơn v•ơng Nghi Dân(con cả của vua Lê Thái Tông cùng bộ hạ là bọn Phạm Đôn, Phạm Ban (không rõ chức gì) đêm mồng 3 tháng 10 trèo thành vào hoàng cung giết chết Lê Nhân Tông và mẹ Nhân tông là bà Tuyên từ Hoàng hậu Nguyễn Thị An. Ngày mồng 7 tháng ấy, Nghi Dân tự lập làm Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên H•ng(1459) Nghi Dân vốn là con tr•ởng của Thái Tông (nh•ng vì mẹ là D•ơng Thị Bí mắc tội với Thái Tông , nên Nghi Dân không đ•ợc lập nên làm Thái tử. Sau đó Thái Tông chết đột nghột ở Lệ Chi viên (V•ờn vải Bắc ninh) vào năm Nhâm Tuất (1442), theo di chiếu triều đình lập Thái tử Bang Cơ lên ngôi tức là Lê Nhân tông. Nghi Dân vì vậy mà khởi loạn, c•ớp ngôi. Sau đó nhửtuyện trên đã ghi, năm Canh Thìn(1460) bọn Lê Xí(tức Nguyễn Xí) diệt rừ phe đabgr của bọn Phạm Đôn, Phạm Ban; truấ Nghi Dân, đón Thái tử T• Thành lên ngôi tức là Lê Thánh Tông(N.D.) Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 9 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  10. Binh phong đại v•ơng tân thị công thần. Th•ợng tế Lộc quận công: Đinh Văn Tả. Ông huý là Tả, con của Hùng Quận công Đinh Phủ, sinh ở Thanh Hoá (lúc bấy giờ thân phụ theo hầu vua ở hành đóng tại An D•ơng). Ch•a đầy tuổi tôi(1) đã mồ côi cha, không nơi n•ơng tựa, mẹ bế ông về quê ngoại làm ăn. Lớn lên, ông xin nhận tịch làm dân ở làng ấy(2). Năm ông ngoài 20 tuổi, một đêm nằm chiêm bao thấy một vị thần dân ra xứ Đồng Mã Kỳ ở ngoài làng. Thần ấy chỉ tay bảo ông rằng: "Đây là nơi quý địa, nhà ngài là nhà trung nghĩa, th•ợng đế đã thấu tỏ nên ban cho phần đất này để bảo đáp, ngài nên cẩn thận chớ để lỡ dịp". Ông tỉnh dậy nhớ lại rành mạch lời thần chỉ bảo ph•ơng h•ớng núi sông, bèn bốc mộ bà ngoại rời đến táng đúng nơi ấy ( lúc tr•ớc mới táng tạm ở Thanh Hoá). Sau này ông đ•ợc hiền quý, l•ng đeo ấn võ t•ớng, đảm đ•ơng trọng trách là nhờ nơi phúc địa ấy. Nguyên chú: có thuyết nói rằng ng•ời Tàu báo ơn nhà ông nên mách bảo cho phần đất ấy. Việc này thấy có nói ở sách "Hải D•ơng nhân vật chí". Ông có sức khoẻ lạ th•ờng , bắn giỏi nh• có phép lạ, thân thế ông th•ờng tỏ ra ngạo nghễ không chịu sống gò bó, hào kiệt bốn ph•ơng nhiều ng•ời theo về với ông. Vì sự ấy, ông sợ liên luỵ đến thân bèn dẫn thuộc hạ về kinh tạ lỗi. Chúa Trịnh giận bắt trói ông một ngày ở sân phủ chúa. Sau đó một hôm đi qua tr•ờng bắn, thấy quân lính đang tập bắn, ông c•ời mà bảo rằng:"Bọn bay thật kém cỏi, chỉ ăn hại cơm toi". Quan coi việc tập bắn nghe thấy ông nói nh• thế bèn bảo ông bắn thử xem tài nghệ thế nào. Ông bèn nhẹ nhàng nâng súng bắn phát nào trúng phát ấy. (1) Tức là ch•a đầy một năm (2) Kể từ đây họ Đinh lập nghiệp ở Hàm Giang. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 10 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  11. Tài lạ của ông đồn đại đến tai vua. Nhà vua gọi đến cho yết kiến, nhân đó ông bèn tâu lên để hoàng th•ợng biết công trạng cha ông mình khi tr•ớc. Vua Thần tông Uyên hoàng đế nghe tâu xong, truyền rằng "Ông cha ng•ời trung nghĩa, ai nấy đều cùng biết. Nay tuy phạm lỗi, nh•ng cho phép ng•ời đ•ợc theo việc binh để lập công. Ng•ời hãy kính tuân lời dụ". Ngay hôm ấy ông đ•ợc thụ chức chỉ huy đội thị về theo hầu vua. Năm kỷ tỵ (1629) ông vâng mệnh theo chúa Trịnh(1) đi đánh dẹp phía Bắc, đ•ợc sung chức tiên phong, giao chiến với quân nhà Mạc ở Cao Bằng, chém đầu hơn nghìn tên. Đầu đảng giặc là Mạc Kính Cung đem đại quân chặn đánh. Thấy quân Mạc theo hậu vệ rất nghiêm ngặt, biết là Mạc Kính Cung ở giữa đám quân ấy. Ông bèn giơ kiếm hô quân:"Hãy tiến theo ta" rồi thúc ngựa xông thẳng đến tr•ớc mặt Kính Cung. Quân Mạc bị xô l•ớt chết không biết bao nhiêu mà kể. Kính Cung trở tay không kịp, bị ông bắt sống đem về Thăng Long. Ba quân chỉ giao chiến một lần là thắng lợi, triều đình ghi công đầu cho ông, phong t•ớc Tài Lộc hầu. Năm Phúc Thái ất dậu (1645), con thứ của Thanh V•ơng(2) là công tử Phù Hơn nổi loạn. Hoàng th•ợng sai Thế tử Trịnh Tạc (về sau tức là chúa Trịnh L•ơng v•ơng) thân chinh đến đánh quân phản loạn ở Ph•ờng Phúc phố. Ông giữ chức tiên phong, gặp quân phản loạn ở Ph•ơng Đình Ngang(3) quân phiến loạn vây kín mấy lớp. Hai bên hỗn chiến không phân biệt đ•ợc bên nào là quân mình. Trịnh Tạc bỏ lui tr•ớc, còn ông thì vẫn bị vây giữa trận. Hai con trai của ông đều bị giặc giết. Ông cả giận vung đao chém giết mở đ•ờng ra, liên tiếp chém rơi 18 thủ cấp, quân giặc kinh hoảng bỏ chạy. Trịnh Tạc thấy ông vẫn bình an, bèn đ•a quân quay lại cùng hợp sức đánh giặc, bắt sống đ•ợc Phù Hoa. (1) Chúa Trịnh nói đây là Trịnh (2) Thanh v•ơng, tức Thanh đô v•ơng Trịnh Tráng. (3) Nguyên văn: Hoành Đình, tức là ph•ơng Đình Ngang; nay ở gần chợ Cửa Nam, Hà nội. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 11 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  12. Năm Đinh Hợi (1647) giặc hoành hành ở vùng bể Đông, nhà vua giao cho ông lĩnh chức Đô Tổng binh sứ đem quân ra trấn thủ ở miền Yên Quảng để tiện trấn áp. Quân giặc tr•ớc sau đều bị giết bị bắt, vùng biển Đông lại đ•ợc thanh bình. Năm Canh Dần (1650) niên hiệu Khánh Đức, Chiêu vũ hầu(1) đem quân ra đánh ngoài phía Bắc châu Bố Chánh(2) đánh úp chiến huyện Kỳ Hoan(3). T•ớng trấn thủ là Lê Hiện và Trịnh Tr•ợng chống cự không nổi, thanh thế quân Nguyễn làm chấn động khắp miền Hoa Diễn, vua sai Ninh-quận công chia quân giao chiến với Chiêu vũ hầu ở đất Kỳ Sơn. Quân Nguyễn thua chạy, dân tình lại đ•ợc yên ổn. Năm Nhâm Thìn (1652) thân thần họ Trịnh là Tuấn quận công Trịnh Lãm ngấm ngầm chứa chấp những kẻ gian tà phản nghịch, tiếm hiệu là Tuyên Đức, Trịnh Lãm cho quân ẩn náu d•ới thuyền buôn đậu bên bờ sông Nhị Hà, hẹn hễ thấy lửa cháy làm hiệu lệnh thì nhất tề xông vào đánh phả phủ thành. Bấy giờ ông mới ở Nghệ về, đ•ợc xung chức Thống đốc thuỷ s• Đại đô đốc, chỉ huy các đội tuần tra. Đêm ấy ông cho ng•ời đi do thám biết đ•ợc hiệu lệnh của quân phản loạn bèn về cung tâu trình. Vua lại sai ông kiêm giữ chức Đô đốc Thuỷ vệ. Ông bàn đem quân chia đ•ờng chặn đánh, bắt sống đ•ợc Tuyên Đức v•ơng Trịnh Lãm cùng với đồ đảng hơn 1.800 tên. D• Đảng của Tuyên Đức mất hiệu lệnh chỉ huy, thua bại chết đuối d•ới sông cả. Kinh thành lại đ•ợc ổn định. Năm ất Mùi (1655) Niên hiệu Thịnh Đức, Ninh quận công Trịnh Toàn vâng mệnh đi trấn thủ Nghệ-an, ông cùng đi theo giữ chức Phó T•ớng (Phó trấn thủ). Về sau Ninh quận công mắc tội bị triệu về cung hạ ngục. Một mình ông thay Ninh quận công ở lại giữ chức trấn thủ Nghệ- an. (1) Chiêu Vũ Hầu: tên là Nguyễn Hữu Dật, t•ớng đốc chiến của quân nhà Nguyễn ở Đàng trong. (2) Nay thuộc Quảng Bình, phần bờ Bắc sông Gianh đén Đèo Ngang. (3) Tức huyện Kỳ Anh, thuộc Hà tĩnh, phía Bắc Đèo ngang. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 12 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  13. Năm Bính Thân (1656) Phổ chiêu hầu đem quân vào đóng ở làng H•ơng-lộc(1) huyện Thach Hà, giao chiến với quân Nguyễn ba lần đầu đại thắng. Năm Mậu Tuất (1658) niên hiệu Vĩnh Thọ, ông cầm quân đi đánh, đại phá quân Nguyễn ở làng Tuần-Lễ. Năm Canh Tý (1660) Phú Quận công Trịnh Căn (sau là chúa Trịnh Khang v•ơng) giữ chức Thống lĩnh Nghệ an quân vụ. Lê Hiến và Hoàng Giao giữ chức tả dực, Hữu dực, ông giữ chức Tiên phong, đánh bại quân của Chiêu Vũ Hầu ở địa phận hai làng An Điền và Phù-l•u, thu phục 7 huyện ở bờ Nam sông Gianh. Ông đ•ợc lệnh ở lại giữ chức Trấn Thủ. Ông chia quân đóng đồn ở bờ Bắc sông Gianh (nay hãy còn di chỉ của ba cái đồn ấy)(2). ở mỗi đồn ông đều cho đặt một đạo quân mạnh đóng giữ. Ông lại cho lập chợ để tiện thông th•ơng, ng•ời quanh vùng kéo đến tụ tập làm ăn buôn bán rất đông, dần dần trở thành một miền lấc thổ(3). Châu Bố Chánh từ ngày có chinh chiến giao tranh giữa hai miền Nam, Bắc (Đàng Trong, Đàng Ngoài) bị tàn phá trơ trụi, đến lúc bấy giờ ông cho canh phòng nghiêm ngặt, bên trong thì chăm lo vỗ yên dân chúng ở nơi biên thuỳ. Nhờ vậy mà trăm họ đ•ợc sống yên vui. Ng•ời ta đều nói rằng:"Từ nay mới đ•ợc ngồi nóng chiếu". Cũng từ đó Chiêu Vũ hầu lui quân về đóng ở phía bên kia luỹ Thầy. Không đánh ra Bắc nữa. (1) Nguyên bản viết là làng D•ơng Phác. Chữ "Phác" gần giống với chữ "Bộc". Đúng là làng D•ơng Bộc, và tự dạng giống nhau nên nguyên bản chép nhầm. Dịch giả là ng•ời cùng huyện ấy biết rõ. Xin đính chínhlại để tiến hành tham khảo. (2) Có lẽ đây là thị trấn Ba đồn. Nơi ấy có ba cái đồn do Đinh văn Tả lập ra nên đặt tên là Ba đồn (nay là thị trấn Ba Đồn ở gần soong Gianh thuộc Quảng Bình. (3) Nơi dân c• đông đúc, kinh tế phồn vinh. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 13 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  14. Ng•ời miền Nam (tức quân lính của chúa Nguyễn) có câu nói rằng: "Phùng Ninh tốc chinh Phùng Đinh mạc hành" (Nghĩa là: Gặp Ninh quận công thì đánh(1) Gặp Đinh quận công thì chớ xuất hành). Lại có câu rằng:"Giang Đông lão t•ớng anh hùng đáng" (Viên t•ớng già ở đất Giang Đông thật xứng đáng bậc anh hùng). Năm Đinh Mùi (1667) niên hiệu Cảnh Trị. Trịnh v•ơng cất quân đi đánh dẹp phía Bắc, ông đ•ợc sung chức Đốc xuất, đem quân theo đ•ờng Tung Cao Thất khê(2). Quân Mạc mấy lần thua bại lui về giữ châu Lăng Hiên Khâu, để trông cậy vào thế đ•ờng xa núi hiểm, quan quân triều đình khó đến đánh úp đ•ợc. Ông chia binh các ngả, theo kiểu "xâu cá"(3) lặng lẽ mà tiến lên núi, bất ngờ ập đến tr•ớc doanh trại, quân Mạc tan vỡ, quan quân chém giết hơn một vạn tên, bắt sống Huân quận công tên là Vĩnh cùng với đồ đảng, khí giới thu đ•ợc nhiều không kể xiết. Mạc Kính Vũ cung bọn Mạc Trung Tín chạy vào vùng đèo núi đá Ngọc Thạch. Ông tiếp tục tiến đánh, bắt sống đ•ợc Trung Tín và vợ của Mạc Chiêu V•ơng(4) cùng với đại t•ớng Mạc Kính Liêu. Th•ợng thu Trần Tung bộ hạ hơn 800 tên. sau chuyến Bắc chinh lần ấy, ông đ•ợc phong hàm Thiếu bảo, T•ớc quận. Năm Mậu Thân (1668), vua xét công lớn của ông, lại cho thăng chức tả Đô Đốc, sung chức trấn thủ các phủ Cao-bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên đ•ợc tuỳ ngài xử lý các việc quân, dân trong hạt trong ba năm. ở những miền biên cảnh ấy mọi sự đều đ•ợc yên bình. (1)Nguyên chú: Vì Ninh Quận công đi đánh th•ờng hay bị thua. (2)Nguyên chú: nay là huyện Thất Khê. (3) Nguyên văn là:"Ng• xuyên" xâu cá, có nghĩa là dàn quân đi dọc, theo sát nhau mà tiến (4)Tức là vợ vua Mạc Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 14 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  15. Năm D•ơng Đức, Nhâm Tý (1672) Trịnh V•ơng phò giá Nam Chinh, sung Lê Hiến và ông giữ chức Chánh phó thống t•ớng. Ông lĩnh ba vạn thuỷ quân theo đ•ờng biển mà tiến về phía bên trái. T•ớng nhà Nguyễn là Chiêu Vũ Hầu giao cho bọn Thái Vũ hầu cầm quân giao chiến với quân của ông ở cửa sông Nhật Lệ(1), ông dàn quân theo thế trận "huyền pháp"(2) bốn mặt thay nhau mà bắn. Quân Nguyễn của Chiêu Vũ Hầu đằng tr•ớc đằng sau đều bị đánh, phải tan ra chết đuối giữa biển Nam đến mấy vạn ng•ời, chiến thuyền bị quan quân nhà Lê thu đoạt hết. Ông thừa thắng đ•a quân lên bộ đóng trại theo phép "trùng luỹ"(3) để đợi dịp công phá luỹ Thầy. Nh•ng quân Nguyễn ở trên luỹ Thầy bắn tên phóng đá xuống nh• m•a, quân của ông trong các trại tử vong rất nhiều, tình thế cơ hồ bị lâm vào giữa vòng vây hãm. Còn về cánh quân đ•ờng bộ do Lê Hiến chỉ huy thì đã mấy tháng đánh thành Trấn Ninh mà không thắng nổi, sau lại bị quân của Chiêu Vũ Hầu đánh thua, đại quân phải rút về. Ông hết sức giải vây để lấy đ•ờng rút. Nhân thế, nhà vua sai Lê Hiến ở lại đóng giữ ở huyện Hà Trung, gởi ông sang đ•ờng bộ theo phò xa giá trở về. Khi về đến Kinh đô Thăng Long vua uý lạo ông rằng: "Khi tiến thì dẫn đầu, khi lui thì rút cuối, khanh thiệt biết làm tròn chức vụ, vả lại xem cung cách của khanh bày đặt thế trận rất có cơ m•u, kẻ địch không thể ngờ tr•ớc đ•ợc". Hồi đó nhà vua xếp ông vào hàng Tán trị công thần (bề đôi có công giúp việc trị) hàm Thái phó, T•ớc Lộc quận công. Năm Vĩnh Trị (Bính thìn) 1676, Vua Lê Hi Tông Ch•ơng Hoàng đế giao cho ông giữ chức Bắc Chinh Đại đô đốc cùng với các phó t•ớng là Hán quận công, Vĩnh quận công lĩnh 3 vạn 5 nghìn quân bộ lên đánh Cao Bằng. Lúc tr•ớc Mạc Kính Vũ thua bại, chạy trốn sang Bắc Quốc (Trung Quốc), đổi tên là Nguyễn Thanh. Nguyễn Thanh (Mạc Kính Vũ) đem (1) Cửa sông Nhật lệ. (2) Ch•a rõ binh th• nói "Huyền pháp" là thế trận gì, heo nghĩa của từ thì đây là phép bầy kỳ trận(trận lạ) (3) Trùng luỹ nghĩa là đắp thêm một lớp hào luỹ nữa để bao vây luỹ của đối ph•ơng Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 15 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  16. vàng hối lộ cho quan trấn thủ biên giới nhờ tâu lên vua Thanh xin trả lại cho nhà Mạc bốn châu ở biên giới(1), xin nhận làm phiên thần. Nhờ đó Kính Vũ lại trở về chiếm cứ miền biên giới, tiếm nguỵ x•ng vua, thay đổi niên hiệu để chống cự mệnh lệnh của triều đình (Lê). Dân địa ph•ơng(2) ở dọc sông đều bị Kính Vũ hiếp chế, bộ hạ của Kính Vũ đến năm, sáu vạn ng•ời. Kính Vũ lại dựa vào Ngô Tam Quế là kẻ bề tôi phản loạn của nhà Thanh để gây thêm thế lực, thanh thế m•ời phần hung ác. Quan quân triều đình đã mấy phen tiến đánh mà không thắng đ•ợc. Trịnh V•ơng(3) bàn bạc với đình thần rồi tâu lên vua Hi Tông rằng:" Quận công Dinh Văn Tả là viên t•ớng đủ tài trí, dũng lực, các quan văn võ ở triều không ai sánh bằng. Nay bệ hạ muốn đánh phá diệt trừ kẻ địch mạnh để cứu giúp cho dân chúng một ph•ơng, ngoài Đinh Quận Công ra thì không ai đảm đ•ơng đ•ợc". Vua nghe lời tâu của Trịnh v•ơng, lại giao cho ông cầm quân đi đánh họ Mạc. Bấy giờ ông ở trong quân đã lâu, già trẻ xa gần chẳng ai không biết tiếng . Vả lại mấy năm tr•ớc ông đã từng trấn giữ vỗ yên miền biên giới, rất đ•ợc lòng dân. Nay nghe tin ông lại cầm quân lên đánh nhà Mạc, dân chúng tranh nhau chạy đến giúp việc quân. T•ớng sĩ Mạc thấy đều khiếp sợ, kẻ thì chạy trốn, kẻ ra xin hàng, tan ra đến đơn nửa số. Ông tiến quân đến huyện Thấy-Tuyền (tức Thất-khê) bắt sống đ•ợc t•ớng Mạc là bảo Quận công và Vũ Quận công ở Lãng Khâu cùng 700 tên đồ đảng. Mạc Kính vũ chạy vào núi Lũng Bàn tụ tập quân sĩ chiếm cứ những nơi hiểm yếu không dám ra giao chiến nữa. Ông đốc xuất các t•ớng từ bốn phía ập vào đánh thành, đại phá quân Mạc, chém rụng (1) Tr•ớc nhà Mạc đã thua chạy sang Trung quốc, coi nh• mất hết đất rồi, Đây nói "Xin vua Thanh trả lại cho 4 châu, có nghĩa là vin vào uy thế vua Thanh để trở về n•ớc, coi nh• vua Thanh lấy của vua Lê trả lại cho nhà Mạc 4 châu, chứ không phải là vua Thanh cắt trả lại cho những châu mà các đời vua trức đã xâm chiếm của Việt nam. (2) Nguyên văn là "Thổ dân", nghĩalà dân địa ph•ơng, chứ không phảilà ng•ời Thổ. Có sách h•ờng dịch lầm chữ "Thổ dân" là ng•ời Thổ. (3) Tây Đô v•ơng Trịnh Thạc Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 16 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  17. đến hơn hai vạn thủ cấp, bắt sống đàn ông, đàn bà hơn mấy nghìn ng•ời. Súng ống, bò ngựa, báu vật, l•ơng thảo thu đ•ợc nhiều vô kể. Mạc Nguyên Thanh (tức Kính Vũ) trốn thoát, tụ tập tàn quân chống cự với ông ở sông Ban giang; lại một lần nữa bị ông đánh bại. Nguyên Thanh chạy sang đất Long Châu (thuộc Trung quốc). Toàn hạt Cao bằng đều đ•ợc yên định. Tin thắng trận báo về triều, vua Hi Tông vui mừng bảo Trịnh V•ơng rằng: "Khôi phục đ•ợc miền đất các đời tr•ớc ch•a khôi phục đ•ợc, nếu không phải là bậc t•ớng anh hùng thì làm sao đánh nổi? Phen này nên có lễ đặc cách gia phong để báo đáp bậc nguyên huân". Hồi đó hoàng th•ợng tấn phong ông hàm Thái Tể, tiếp sau lại gia phong T•ớc Trung Đẳng đại v•ơng(1) đ•ợc phép lập quân doanh(2) và dùng ấn triện riêng. Năm Nhâm Tuất (1682) niên hiệu Chính Hoà(3), con Mạc Kính Vũ là Mạc Kính Quang lại m•u toan xâm phạm biên giới. Quan trấn thủ biên giới của ng•ời Thanh đ•a th• sang hẹn triều đình cùng đem quân phối hợp tiễu trừ. Hoàng th•ợng sai ông cùng với Nguyễn Hữu Đăng đ•a quân đi đánh dẹp. Từ đó nhà Mạc bị diệt hẳn. Cơ nghiệp Trung h•ng kể từ vua Lê trang tôn truyền nối mấy đời vua Kính tông, tuy đã trở về Đông đô (Thăng Long) nh•ng họ Mạc vẫn chiếm cứ bốn châu ở phía Bắc, đến bấy giờ mới bị ông diệt hẳn, thiên hạ lại quy về một mối. Vua Hi Tông nghĩ ông giúp việc triều đình đã lâu, lại có công lớn, khi ngự triều đều đặc cánh giữ lễ kính trọng đối với ông, đặt ông ở vị thứ chỉ kém một mình chúa Trịnh, cho phép đ•ợc ngồi hầu. Những khi ông vào yết kiến, hoàng th•ợng th•ờng chỉ gọi ông là "lão t•ớng" chứ không gọi tên huý. (1) Khôngphải ng•ời trong tôn thất Lê, Trịnh thì ất ít ng•ời đ•ợc phong t•ớc v•ơng. Tr•ờng hợp của Đinh Tả do có công lớn nh• đã nói ở trên đ•ợc phong t•ớc v•ơng khi đang tại chức, vì vậy mà gọi là "Sinh phong đại v•ơng" (2) Doanh: Dinh thự riêng. Quy chế đời Lê chỉ ng•ời có t•ớc v•ơng mới đ•ợc lập dinh riêng. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 17 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  18. Về sau ông đ•ợc gia phong là "Th•ợng tể" th•ợng trật, sinh phong th•ợng đẳng Đông D•ơng, anh tài đại l•ợng, thần vũ anh uy dũng đoán , thịnh ninh nhân trí, hiển ứng chiêu huệ, bảo quốc an vĩnh triệu m•u, diễm h•u thuần hỗ, sùng huy hậu huống, thịnh đức diễn khánh, tuy phúc diên trạch đại v•ơng"(1). Vua Hi Tông đã cấp cho ông ba trăm mẫu đất để làm gia sản truyền đời(2), Hoàng th•ợng lại cho phép ông đ•ợc lập sinh từ(3) ở bản quán, chiểu theo đúng nh• quy chế của V•ơng phủ và đ•ợc quyền sử dụng đinh phu các xã Hàm Giang, Hàm Th•ợng, Bình Lao cùng một tổng Bình Lâu. Ngày tết, ngày sinh hằng năm đ•ợc th•ởng lễ vật tế t•. Ngày mồng 4 tháng 5 năm ất sửu niên hiệu Chính Hoà thứ 6 (1685) ông mất ở nhà riêng tại kinh đô, thọ 87 tuổi. Vua Lê Hi-tông cùng chúa Trịnh D•ơng-v•ơng thân hành đến lễ viếng, ban tiền tuất cho họ nội họ ngoại tiền 600 quan, bạc 100 nén, the lụa màu 50 cuốn, lại sai quan bộ lễ về quê quán làm lễ tang, nghi thức mai táng theo đúng lễ tang của nhà chúa. Hoàng th•ợng ban tên thuỵ cho ông là "Vũ dũng". Sang đầu xuân năm sau, quan bản hạt vâng mệnh làm lễ tế tại mộ, sau đó r•ớc linh vị về thờ ở đền. Ông là bậc trí dũng kiêm toàn(4) vâng mệnh vua dẹp giặc, nổi danh khắp trong thiên hạ, từng thờ 6 triều vua (từ niên hiệu Vĩnh Tộ đến niênhiệu Chính Hoà)(5) ngôi thứ ở bậc th•ợng tả, thật hiếm ng•ời có uy (3) Nguyên bản chép là Mậu tuất niên hiệu Chính hoà. Sự thực thì niên hiệu Chính hoà(1680-1705) không có năm Mậu tuất, việc nói đây là năm Nhâm tuất(1682) niên hiệu Chính hoà thứ 3, chứ không phải năm Mậu tuất, xin đính chính lại. (1) Nghĩa là bậc tể t•ớnghạng nhất, đ•ợc phong t•ớc v•ơng khi còn sống, anh hoa tài giỏi nh• vầng d•ơng mới mọc đằng đông, m•u l•ợc to lớn thần kỳ, uy nghiêm quả quyết, sáng suốt đủ điều nhân điều trí, làm sáng tỏ ơn đức của vua, giữ n•ớc an toàn vĩnh viễn, đề x•ớng m•u kế. (2) Nguyên chú: Số ruộng này gồm 170 mẫu ở các xã trong bản tổng, và 130 mẫu ở các xã Cổ Bi tỉnh Bắc ninh. (3) Đền thờ sống, lập khi đang sống, hàng năm ngày tết lễ, ngày sinh đ•ợc làm lễ tế. (4) Nguyên bản chép là:"Công trí dũng kiêm mệnh toàn dĩ thảo tặc ". Hiển nhiên đâylà chép ng•ợc thứ tự hai chữ "mệnh" và "toàn". Đúng phải là: "Công trí dũng kiêm toàn, mệnh đi thảo tặc "ở đây xin đính chính lại. (5) Đó là 6 đời vua. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 18 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  19. đức danh vọng, công trạng to lớn , phúc lộc tuổi thọ dồi dào nh• ông. Ng•ời đ•ơng thời ví ông nh• Quách Phần D•ơng(1). Năm Tân Sửu (1661) niên hiệu Vĩnh Thọ, vua Lê Thánh Tông ban ngự th• 4 chữ đại tự "Trí dũng ninh trung" sơn son thiếp vàng. Năm Quý Hợi ( ) niên hiệu Chính Hoà, van ban ngự th• 6 chữ đại tự "Sinh phong th•ợng đẳng đại v•ơng" hai tấm biên trên đều treo ở đền thờ ông. Chúa Trịnh Khang v•ơng ban câu đối, viết: "Tiết việt quyền long, triêu túc t•ớng, Phiên viên trách trọng, quốc nguyên huân". Dịch nghĩa: Giữ quyền chỉ huy việc quân, ông là bậc t•ớng giỏi ở triều đình. Trọng trách ở nơi biên giới, ông là bậc nguyên huân của n•ớc nhà. Tạm dịch: ở triều quyền cao, làm t•ớng giỏi. Ngoài biên chức nặng lập công cao.  Phụ lục Sách Hải-d•ơng nhân vật chí chép rằng: Danh t•ớng Đinh Văn Tả (có sách ghi là Đinh Văn Tá) dòng dõi Đinh Tiên Hoàng, quê quán ở làng Hàm giang, huyện Cẩm giàng. Ông là ng•ời ngang tàng phóng túng, bị triều đình đòi về trách hỏi. Một hôm đi qua tr•ờng bắn, nhân ghé vào xem bắn thì ông c•ời nói rằng:"Bọn bay vô tài, nuôi ăn tốn cơm thôi?" Quan (1) Quách Phần D•ơng: tức là Quách Tử Nghi danh t•ớng đời Đ•ờng, có công dẹp loạn Ân, Sở, trung h•ng nhà Đ•ờng, đ•ợc phong t•ớc Phần D•ơng v•ơng. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 19 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  20. coi việc tr•ờng bắn nghe nói vậy bảo ông bắn thử xem sao. Ông bèn nhẹ nhàng nâng súng, bắn phát nào trúng phát ấy. Quan chấm thi phải nhận ông là xạ thủ kỳ tài. Triều đình nghe tin cho ông giữ chức điển binh thuộc hàng võ quan. Năm Phúc Thái thứ 4 (1646), ông có công tố giác âm m•u tiếm loạn đ•ợc thăng chức Tham đốc. Khoảng niên hiệu Vĩnh Thọ (1658- 1661) đ•ợc thăng chức Đô Đốc Đồng Tri, t•ớc Lộc Quận công. Năm Cảnh Trị thứ 5 (1667) Trịnh v•ơng cất quân đi đánh họ Mạc ở Cao Bằng, ông chỉ huy đốc chiến, bắt đ•ợc quan t•ớng nhà Mạc là bọn Mạc Kinh Liêu, Th•ợng th• Trần Tung, tất cả 10 tên, sau đó ông đ•ợc lệnh ở lại trấn thủ châu Thất tuyền(1). Năm sau ông đ•ợc thăng chức Tả Đô Đốc, đặc cách tấn phong hàm Thiếu bảo. Hồi bấy giờ Mạc Kính Vũ đổi tên là Nguyên Thanh, xin vua Thanh can thiệp để nhà Lê trả đất Cao Bằng cho họ Mạc, nhân đó chiếm lấy vùng ấy. Năm Vĩnh Trị thứ hai (1677) vua Hi-tông lại sai ông đi đánh Cao Bằng, quân Mạc thua to. Mạc Nguyên Thanh chạy trốn sang đất Long Châu (Trung Quốc), ông dẹp yên đ•ợc 4 châu (Cao Bằng), thắng trận trở về kinh. Đến năm thứ sáu niên hiệu Chính Hoà (1685)(2) ông mất. Sau khi mất đ•ợc tặng hàm Thái bảo đặc phong phúc thần. Con trai là Đinh Văn Cần đánh đao giỏi vào bậc nhất đ•ơng thời không ai địch nổi, làm quan đến t•ớc quận công. Cháu là Đinh Văn Thể, dũng cảm giỏi việc binh. Khoảng đầu niên hiệu Cảnh H•ng (1740) đ•ợc phong chức quận công, sang chức Thống lĩnh binh tặc đại t•ớng quân, đi đánh giặc Câu(3), mất năm Cảnh H•ng thứ 12 (1751). Sau khi mất đ•ợc tặng chức Đô Đốc. Cháu Viền Tôn (cháu gọi bằng cố) là Đinh Tích Nh•ỡng giữ chức Trấn thủ Hải D•ơng hồi cuối đời Cảnh H•ng, tới Liễn Trung Hầu: Năm (1) Tức là huyện Thất Khê (2) Nguyên bản chép: Năm thứ 6 niên hiệu Vĩnh Trị là nhầm. Vĩnh trị không có năm thứ 6. Lộc quân công Đinh văn Tả mất năm thứ 6 niên hiệu Chính hoà(1685) nh• bản chuyện ở sáchHàm Giang danh t•ớng liệt truyện đã chép ở trên. Điều đó cũng đúng nh• các sách sử khác đã ghi, x. "Lịch triều tạp kỷ", Q1, tr. 102 (3) Tức là Nguyễn Hữu Cầu(Quận He), ng•ời huyện Thanh Hà, Hải d•ơng lãnh tụ khởi nghĩa nông dân Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 20 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  21. Bính Ngọ (1786) có chiếu triệu về giữ chức chỉ huy đội quân cấm vệ, thăng t•ớc Liễn quận công. Ông cha mấy đời liền đánh giặc dẹp loạn nổi danh trong thiên hạ. Cuối đời nhà Lê, quân Tây Sơn gây phiến động, các danh t•ớng đất Hàm Giang theo xa giá phò vua (Lê Chiêu Thống) lánh sang Trung Quốc, giữ vẹn lòng trung nghĩa với triều đình. Xét: Đinh Văn Cẩn tức Cẩn quận công, tên huý là Giai(1) là cháu thứ của đại v•ơng Lộc quận công. Còn ng•ời mà sách Hải D•ơng nhân vật chí chép là Đinh Văn Thế, tức là Phác quận công, tên huý là Phục, cháu huyền tôn của đại v•ơng Đinh Văn Tả. vậy mà sách trên (Hải D•ơng nhân vật chí) đều chép là cháu cả thì không chính xác. Lại xét: Bà mẹ của Đinh Văn Tả, thuở hàn vi, về dựng nhà ở gần bến sông Hàm Giang. Một hôm có ng•ời khách qua đ•ờng vào xin nghỉ trọ sáng hôm sau ra đi bỏ quên túi bạc ở đầu gi•ờng. Ng•ời ấy đã đi đ•ợc mấy dặm, chợt nhớ vội quay lại tìm. Bà đem túi bạc ra trả lại đủ số. Khách xin xẻ một nửa túi bạc đó để hậu tạ, bà nhất định từ chối không chịu nhận. Ng•ời khách cảm động tr•ớc tấm lòng quý hoá của bà, đem đi tìm huyệt đất quý để đáp tạ. Thế đất nơi ấy hình thon nh• l•ng hổ, con cháu họ Đinh nối đời đ•ợc phong t•ớc quận công ấn t•ớng, quyền cao chức trọng là nhờ đ•ợc mặt đất phát phúc nơi ấy. Mấy điều trên so với gia phả thì có hơi khác, xin ghi lại đây để đợi khảo cứu. Lại xét: Sách Hải D•ơng nhân vật chí mục Hiền mẫu (mẹ hiền) chép rằng:" Bà Nhũ Mẫu làng Hoạch Trạch bắt đ•ợc vàng, bà Vũ Mẫu ở làng Mộ Trạch bắt đ•ợc vóc lụa, bà Đinh mẫu ở làng Hàm Giang bắt đ•ợc bạc đều đem trả lại cho nguyên chủ, nhờ vậy mà con cháu đời sau đều đ•ợc hiển quý". Xem thế thì đủ biết ng•ời có lòng lành ắt đ•ợc báo đáp không sai. (1) Nh• vậy tên thực của ng•ời này là Đinh Văn Giai, còn Cẩn là tên t•ớc vua ban Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 21 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  22. Sách Hoàng Việt địa d• chí (1) nói rằng Hàm Giang là đất có nhiều võ t•ớng nổi tiếng. Đinh Văn tả giữ chức Điền binh thời Lê Trung H•ng lập công to đứng đầu các bậc công thần. Con cháu về sau nối đời đều đ•ợc phong t•ớc quận công, đánh giặc dẹp loạn nổi danh trong thiên hạ. T•ơng truyền họ Đặng ở Hàm Giang nối đời làm quan nh• thế thì có lẽ ở Hàm Giang có họ Đặng mấy đời làm quan, còn dòng họ nối đời làm t•ớng võ cầm quân đánh giặc, dẹp loạn là nói về họ Đinh ở Hàm Giang. T•ơng truyền đền thờ ông rất linh thiêng cảm ứng, thấy nhiều điều kỳ lạ, điện các lung linh, xung quanh cây cối um tùm chẳng khác gì một khu rừng nhỏ. Sáng sáng từng đàn cò trắng hàng ngàn hàng vạn con bay đến đậu trong lùm cây ấy, ngoài ra không thấy có loài chim nào khác cả. Lại có hai con rắn to dài hơn tr•ợng, vây vàng mào đỏ th•ờng hay tr•ờn cuộn trong lùm cây ấy, dân làng không ai dám đụng chạm, đến ngày giỗ ông, hai con rắn ở đâu xuất hiện hai bên Long ngai trên bàn thờ nh• chầu hai bên bài vị. Thủ từ dần dần thuần hoá đ•ợc hai con rắn ấy, th•ờng ném thịt bạc nhạc cho ăn. Khi mới khởi công đắp thành (thành tỉnh Hải D•ơng, đắp đầu đời Gia-long.- ND), có kẻ nào xâm phạm đến đền thờ liền nhổ ra máu t•ơi mà chết, thiệt mạng đến mấy trăm ng•ời. Quan trấn thủ là An Giang hầu Trần Công soạn lễ vật đến đền cầu khấn xin phù hộ, sau đó dân phu mới đ•ợc bình yên vô sự. Đến ngày nay trông ngôi đền ấy vẫn uy nghi lẫm liệt nh• x•a. Lại nghe t•ơng truyền rằng tr•ớc cửa đền ông có một chiếc chiêng thần là chiếc chiêng lúc sinh thời ông dùng để điều khiển hiệu lệnh khi đi chinh phạt. Chiêng ấy phát tiếng kêu rất rền, tiếng chiêng uy nghi lẫm liệt vang xa ngoài m•ời dặm, ng•ời làng mỗi khi nghe chiêng khua đều giật mình kinh hoàng. Con cháu đời sau hoặc các t•ớng của triều đình tr•ớc khi cầm quân đi đánh giặc th•ờng đến làm lễ bái yết d•ới đền, th•ờng (1) Tác giả: Phan Huy Chú. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 22 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  23. nghe tiếng chiêng kêu ầm ầm nh• tiếng sấm động, sau đó xuất chinh thế nào cũng thắng trận. Về sau trải qua bao cơn Binh hoả, chiêng ấy không biết bị thất lạc khi nào, ng•ời ta th•ờng nói ở đền thờ ông có chiếc chuông có lẽ chính là nói đến chiếc chiêng ấy vậy. Tả t•ớng quân D•ơng Trung hầu. Đinh Văn Sơn. Ông huý sơn, con thứ ba của Khuê trạng công, bản tính kiên c•ờng dũng cảm, giỏi quyết đoán. Lúc đầu ông theo anh ruột là th•ợng t•ớng Liễn Quận công(1) cai quản đội quân mộ nghĩa, mấy lần thăng cấp đến chức Chỉ huy đồng tri. Năm Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống (1787), ông theo đại t•ớng ng•ời họ là Hàm Quận công(2) đem quân về bảo vệ hoàng thành. Hồi bấy giờ Hàm Quận công và Liễn Quận công đi đánh giặc ở Hải D•ơng, mới dẹp yên đ•ợc tàm tạm, thì gặp lúc Nguyễn Hữu Chỉnh lại đem quân ra Bắc m•ợn tiếng phù Lê diệt Trịnh. Vua Chiêu Thống cho rằng hai ông đều dòng dõi thế thần, bèn hạ chiếu chỉ đặc cách triệu hai ông về kinh để phó thác việc tôn phù. Liễn Quận công nói riêng với Hàm Quận công rằng:" Tr•ớc đây chúng ta cố sức xin vua phong v•ơng cho nhà chúa(3), nay Chỉnh đuổi nhà chúa đi, tự mình đến ở trong chính phủ(4), Chỉnh xin vua triệu chúng ta về kinh là rắp m•u để khống chế chúng ta đó. Vả lại bọn ta lẽ nào để cho cơ nghiệp 200 năm của họ Trịnh phút chốc để vỡ tan tành? ý ta vẫn muốn bảo toàn đ•ợc cả hai họ đó". Hàm Quận công Nhã Hành can rằng:" Ơn sâu nên ghi nhớ nh•ng việc đại nghĩa thì không thể không đem hết sức ra mà làm. Ông (Đinh (1) Tức Đinh Tích Nh•ỡng. (2) Tức Đinh Nhã Hành. (3) Đây nói việc Nh•ỡng và Hành xin Chiêu Thống phong cho Trịnh Bồng làm Chúa (tháng 9-1786), Chiêu Thống phải miễn c•ỡng bằng lòng. Sau đó giữa Chiêu Thống và Bồng lại mâu thuẫn với nhau. Chiêu Thống sai triệu Nguyễn Hữu Chỉnh lúc ấy ởNghệ an đem quân ra bảo vệ. Trịnh Bồng phải bỏ chạy. Chiêu Thống bèn cho đổttại phủ Chúa, chấm dứt vai trò của họ Trịnh.(Theo Lê Quý kỷ sự) (4) Chính phủ: toà đại sảnh ở phủ chúa Trịnh, ng•ời đ•ơng thời gọi là chính phủ. Hữu Chỉnh đến phủ ấy,thi thố quyền hành chẳng khác gì chúa Trịnh lúc tr•ớc. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 23 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  24. Văn Sơn) cũng hết sức can ngăn, nh•ng cuối cùng Liễn Quận công cũng không dứt quyết. Ông (Đinh Văn Sơn) bèn đem hết quân bản bộ theo Hàm Quận công về kinh bái yết nhà vua. Hoàng th•ợng hết mức ôn tồn dụ bảo, phong cho Hàm Quận công chức Đốc lĩnh hộ vệ binh mã đại sứ, phong cho ông (Đinh Văn Sơn) chức điện tiền chỉ huy sứ, các chức phẩm khác theo thứ bậc cũng đều đ•ợc thăng chức chờ đợi sai phái. (Tháng 10)(1) T•ớng giặc là Vũ Nhâm(2) đem các h•ớng tiến về kinh đô Thăng Long. Hàm Xuyên Quận công (Đinh Nhã Hành) vâng mệnh dẫn đội kỵ binh(3) đến đóng ở đền Vũ Xuyên để chế ngự địch, còn ông vẫn ở lại bảo vệ nhà vua ở kinh thành. Cánh quân chính do Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ huy bị tan vỡ(4), Chỉnh trốn thoát chạy về, kinh thành một phen xao xác "giặc" thừa thắng, tung quân khắp bốn phía vây hãm kinh thành. Ông phò vua Chiêu Thống chạy ra khỏi thành(5), theo đ•ờng ra bến đò Thang-mộ qua bên kia sông rồi chạy về miệt Kinh Bắc, Lạng Giang. Lúc tr•ớc, vua cho rằng ông là em ruột của Quận Liễn (Đinh Tích Nh•ỡng) nên có phần nào dè dặt nghi ngờ(6), đến bây giờ mới thấy ông là ng•ời hết lòng trung thành nh• vậy mỗi lần nhắc đến tên ông, vua đều cảm động hiện ra sắc mặt, đ•a tay gạt n•ớc mắt. Rồi đó vua tự tay viết sắc phong chức "Phụng thần tả t•ớng quân" hầu việc bảo vệ vua ở nơi hành tại. Không bao lâu nghe tin Hàm Quận công Nhã Hành cùng với Hàm Viết Tuyển chia quân thuỷ lực đôi đ•ờng bảo vệ đ•ợc miền đất Sơn Nam(7) nhiều phen thắng trận, thanh thế có phần chấn phát, nhà vua bao xiết vui mừng. Hồi đó vua ngự giá dời (1) Năm Đinh Mùi (11-1787) (2) Tức Vũ Văn Nhậm, t•ớng cầm đầu quân Tây sơn ra Bắc trừng trị Nguyễn Hữu Chỉnh. (3) Đội qân tinh nhuệ nh• sau này gọi là đội quân biệt động (4) Theo Lê Quý kỷ sự quân Nguyễn Hữu Chỉnh thua to ở bờ bắc sông Thanh quyết. (5) Nguyên văn là:"Công dực đế xuất thành", với nghĩa cụ thể là cõng vua trên l•ng(dực) mà chạy ra khỏi thành. (6) Đinh Tích Nh•ỡng là ng•ời từng ra sức xin Chiêu Thống lập Trịnh Bồng làm chúa. Sau vua và chúa hục hặc với nhau, Chiêu Thống lo ngại anh em Nh•ỡng vì trung thành với họ Trịnh mà phản lại mình. (7) Nguyên r•ớc Tuyên đóng giữ ở huyện Nam Châu tức vùng Nam Trực, trực ninh, Nam định cũ(N.D), bấy giờ Tuyền đốc quân thuỷ đến đóng ở sông Vị Hoàng(Nam định)(N.D.) Còn Hàm quận công Nhã Hành thì đóng ở huyện Ngự Thiên nay thuộc Thái Bình(N.D.) để làm tế lực cậy lẫn nhau Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 24 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  25. hành tại về phía Đông(1). Đến khi tiếp đ•ợc tờ biểu của Hoàng Viết Tuyển gửi tới, vua đ•a quân sang phía Nam để hội với quân của Tuyển (2). Trên đ•ờng đi ông từng xông pha gian nguy hiểm trở, khi tiến thì v•ợt lên đầu, khi lui thì rút sau hết. Trong quân, ông th•ờng cùng với Hoàng Việt Tuyển, em họ là Đông Lĩnh Hầu (em thứ 3 của Hàm Quận công) và thổ hào Trần Quang Châu đều nổi tiếng là những viên chỉ huy dũng cảm. Đến trận Vị Hoàng, quân triều đình (Lê) tan vỡ. Ông và vua Chiêu Thống lạc nhau, Ông một mình lén quay lại Hải-đ•ờng. Năm Mậu Thân(3) Hàm Quận công dấy nghĩa ở Hoa Phong(4), thanh thế vang động. Tây Sơn đem đại quân binh thuyền đến đóng ở bên sông Bạch Đằng để tiến đánh, Hàm quạn công Nhã Hành sai ông đem 50 chiếc thuyền, cùng với Trữ Vũ Hầu (em thứ sáu của Hàm Quận công) chia hai phía tả hữu đón đánh, Hàm Quận công dặn rằng:" Tả quân, hữu quân, bên tiến tr•ớc, bên tiến sau xa cách không đều, phải đợi cánh bên hữu(5) đến kịp rồi cùng tiến đánh khép vào khiến cho đội hình quân "giặc" đầu đuôi bị cắt lìa không đóng dựa vào nhau đ•ợc. Thanh thế sự nghiệp trung h•ng cốt nhất ở mỗi cử động, lúc này không đề phòng thì sẽ chuốc lấy thất bại". Ông vâng lệnh dẫn quân đi, vừa tiến vào sông Bạch Đằng ngó thấy chiến thuyền của "giặc" đậu đằng xa, ông đã vội dốc sức chèo thuyền xáp tới. Có viên quân hiệu(6) th•a rằng:" Tiến ngay nh• thế e rằng làm trái t•ớng lệnh"(7). Ông đáp:"Không có gì phải quá lo lắng!". Trong trận đại chiến ở kinh đạo tr•ớc, một mình ta bị hàng vạn quân giặc bao vây mà ta còn giết (1) ở chuyện Đinh Nhã Hành đã nói rõ: Lúc này Chiêu Thống lánh về huyện Thanh Hà Hải D•ơng(Lê Quý kỷ sự cũng chép nh• vậy). (2) Theo Lê Qúy kỷ sự thì Chiêu Thống từ huyện Thanh hà đễn Chí linh, qua Thuỷ đ•ờng(sau này làThuỷ nguyên) rồi đi đ•ờng biển vào sông Vị Hoàng(Nam định) để uý lạo quaan Tuyển. Việc này cũng nói trong chuyện Đinh Nhã Hành(Hàm xuyên quận công). (3) Tức năm 1788 (4) Hoa Phong là tên huyện đời Lê, đời Nguyễn gọi là huyện Nghiêu phong, sau đổi là Cát Hải tức là vùng đảo Cát Bà. (5) Tả quân tiến tr•ớc, Đinh Nhã Hành dặn tả quân phải chờ hữu quân tới rồi mới cùng tiến. (6)Quân hiệu là một chức vụ chỉ huy trên cấp uý, d•ới cấp t•ớng, tá. (7)Viên quân hiệu ấy nhắc lại lệnh của Đinh Nhã Hành đã dặn cánh quân tả hữu phải chờ nhau cùng tiến. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 25 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  26. giặc bảo vệ đ•ợc vua. Nay có t•ớng có quân ta sợ gì bọn chúng!". Nói đoạn không đợi Trụ vũ hầu, một mình dẫn quân tiến lên đánh tr•ớc. Quân giặc hăng hái đánh trả, quân ông không địch nổi, kết cục bị tan vỡ. Quân sĩ cùng đi trong thuyền với ông đều tử trận, ông một tay vung kiếm, một tay cầm lái l•ợn thuyền chống cự. Thuyền ông vì thế chỉ dập dành giữa lòng sông không thể tiến lên đ•ợc. Quân giặc thấy ông bị nguy khốn liền khua thuyền l•ớt tới, thấy thuyền giặc đến gần chỉ còn cách một tr•ợng(1), ông bèn buông lái, khua kiếm tung ng•ời nhảy sang mũi thuyền của "giặc", tả xung hữu đột, liên tiếp chém đầu 13 tên, đoạt lấy thuyền ấy. Quân "giặc" từ bốn phía xáp tới, tình thế rất quẫn bách. Ông ngửa mặt lên trời kêu lớn rằng:"Nhà Lê mất rồi chăng? Ta nguyện cùng mất theo!". Nói xong nhảy xuống sông tự tử. Trụ trung hầu đem quân đến, thấy quân ông đã thua bại, quân lính mất tinh thần, nhân thế cũng bị tan vỡ theo. Trực Trung hầu trở về xin chịu tội. Hàm Quân công than rằng: "Ng•ời vậy, cũng là do trời vậy(2), ta còn biết làm thế nào !". Hồi đó Hàm Quận công dời quân về đóng ở Vân Đồn. Ông ta cậy khoẻ khinh địch, đến đây thua bại chịu chết nh•ng bình sinh ông là ng•ời rất đắc lực trong các lần chiến trận. Ai nấy đều lấy làm th•ơng tiếc ông. Mùa đông năm ấy(3) thu phục đ•ợc kinh thành, vua Chiêu Thống sai lập đàn chiêu hồn làm lễ h• táng(4), ban cấp nghi lễ tử tuất rất trọng hậu, về sau ông th•ờng hiển linh. (1) 1 tr•ợng- 10 th•ớc ta = 3m30, khoảngcách là một ng•ời nhảy giỏi có thể nhảy qua đ•ợc. (2) Nguyên văn: Nhân dã, diệc nhân dã. Đây là cách nói tắt để nói ý m•u việc tại ng•ời, nh•ng thành sự do trời (3) Mậu thân (1788) (4) Lễ chôn cất giả vì không tìm thấy thi hài. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 26 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  27. TòNG VONG TĩNH NạN CôNG THầN. Thái Bảo Hàm Xuyên Quận công. Đinh NHã Hành. Ông huý là Nhã Hành, Con tr•ởng của Phác Trung công Đinh Phục. Từ nhỏ ông đã tỏ ra tinh anh tuấn tú khác th•ờng, tính ham học, giỏi thơ văn. Năm Cảnh H•ng Tân Mão (1771), ông thi đậu tam tr•ờng (tú tài), lúc ấy mới 21 tuổi. Chí ông muốn chuyên về đ•ờng học thuật, nh•ng thời buổi bây giờ lắm loạn lạc, ông nghĩ mình dòng dõi thế gia, phải nên chung nỗi vui buồn với n•ớc nhà(1), ông bèn ném bút theo đòi việc quân. Hồi đó ông đ•ợc thụ chức hàng võ ban đ•ợc thăng chức An Trấn xứ H•ng hoá, t•ớc hầu. Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Chỉnh(2) đ•a "giặc" Tây Sơn ra, kinh s• (Thăng Long) đại loạn. Các bọn giặc c•ớp ở các huyện Sơn Vi, Bất Hạt, Tam Nông cũng đem quân thuỷ bộ mấy nghìn ng•ời đánh thành để h•ởng ứng với quân Tây Sơn. T•ớng giữ thành là Trung Hầu bỏ thành chạy tr•ớc, một mình ông lấy lòng trung nghĩa khuyến khích quân dân, từng mấy phen phá tan quân giặc, thành trì lại đ•ợc giữ yên, ông lên giữ chức Trấn Thủ. Nguyễn Huệ (sau là Quang Trung) biết rằng mấy lần thay lệnh vua Lê triệu vời, nh•ng ông đều từ chối lấy cớ rằng giặc giã ch•a yên ch•a thể (1) Chí về triều đình nhà Lê (2) Nguyên chú: Ng•ời làng Hội Thống, Nghệ An, đậu h•ơng cống.-Đây tức là Nguyễn Hữu Chỉnh. Trong bài này có một số sự kiện liên quan đến nhà Tây Sơn, tác giả viết theo quan điểm phong kiến chính thống gọi là "ngụy Tây sơn"(giặc Tây sơn), chúng tôi cứ dịch nguyên văn để ng•ời nghiên cứu tiện dùng khi tham khảo. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 27 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  28. về kinh đ•ợc. Đến khi Nguyễn Huệ về Nam ông mới về kinh, đ•ợc cải bổ giữ chức Hiệp trấn Hải D•ơng. Bấy giờ có "giặc" My dấy loạn, quan chính trên là Liên Trung công (anh con bác của ông) giao cho ông thay mặt xử lý các công việc sự vụ ở trấn đ•ờng, tự mình đem quân đi đánh dẹp. Liên trung công phá tan quan giặc ở sông Ng• mã (thuộc xã Lai Cách), giặc My thu thập d• đảng chạy xuống làng Đặng-xá(1). Mùa xuân năm Đinh mùi ( ) ông (Đinh Nhã Hành) đến tận nơi hiểu dụ, quân giặc thảy đều ra hàng tất cả 2 vạn 3 nghìn tên, dân chúng đều tỏ lòng biết ơn. ở Kinh s•, nhà vua đang lo lắng về việc Nguyễn Mậu Nhĩ ở phủ Chúa Trịnh gây biến m•u toan phế truất vua, sai sứ đi triệu Nguyễn Hữu Chỉnh về bảo vệ kinh đô (Chỉnh trốn theo Nguyễn Huệ về Nam, bấy giờ đang đóng giữ Nghệ An). Một mặt vua lại sai gọi Liễn Trung công; biết tài sức mình không địch nổi với Chỉnh bèn cáo ốm đ•a quân tuỳ tòng về đóng giữ ở làng Hàm Giang. Chỉ một mình ông dẫn đội quân thân tín(2) hơn vạn ng•ời về kinh bảo vệ hoàng đô. Chẳng bao lâu Nguyễn Hữu Chỉnh bỏ Yến đô v•ơng(3) chạy về phía bắc. Vua Hiển tông phong cho Chỉnh t•ớc Bằng quận công, nắm chính quyền chỉ huy quân 6 vệ. Ai nấy đều khuất phục d•ới quyền Chỉnh, riêng ông thì không tỏ ý kính trọng(4). Chỉnh cũng biết nh• thế, nh•ng vì ông là ng•ời có tiếng tăm nên cũng đành phải bỏ qua. Tháng M•ời Bính Ngọ (1786) t•ớng Tây Sơn là Nhậm (Vũ Văn Nhậm) lại đem quân ra. Ông cầm quân đóng giữ ở đồn Vũ Xuyên (thuộc huyện ý-yên, Nam Định). Bấy giờ các đạo đều đã tan rã, một mình ông đảm đ•ơng trấn giữ một phía. Quân số cũng ít ỏi. (1) Nguyên văn chỉ viết:" tầu hạ Đặng" đây có lẽ chép sót một chữ "Xá" là làng Đặng Xá (2) Nguyên văn "Tử đệ binh"(đội quân con em) (3) Tức Trịnh (4) Nguyên văn:"Công độc bất vi lễ", có thể hiểu nghĩa là không chịu lạy Chỉnh. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 28 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  29. Nguyên chú: Chính binh 500 tên quân thân tín, cùng với thủ hạ của Thân Vũ hầu 50 tên, thủ hạ của Lê quýnh 50 tên. Lê Quýnh về sau giữ chức Bình-Ch•ơng (Tể t•ớng). Ông cho đắp luỹ để cố thủ, trong một tháng, trận lớn trận nhỏ giao chiến với quân Tây-sơn hơn ba m•ơi trận, giết 3000 tên, cuối cùng quân Tây Sơn không dám đến đánh nữa. Khi nghe tin Kinh thành thất thủ, vua Chiêu Thống lánh lên phía Bắc. Ông biết nh• thế là tuyệt đ•ờng tiếp viện, bèn cho lui quân về huyện Ngự-thiện(1) đề x•ớng việc nghĩa, đắp thành quanh huyện lỵ để cố thủ. Sau đó ông đem quân đi đánh Tiên-lữ, phá đ•ợc cả 24 đại đồn rồi đóng quân ở huyện ấy. Đốc t•ớng thuỷ đạo Trấn Sơn Nam là Hoàng Việt Tuyển(t•ớng bộ hạ của Chỉnh) cũng đánh tan đ•ợc chiến thuyền giặc ở cửa sông Luộc, thanh thế vang động, dân chúng đều cho rằng chẳng mấy chốc quan quân sẽ thu phục đ•ợc Kinh thành. Bấy giờ vua Chiêu Thống lánh xuống Hải D•ơng, sai gọi ông đem quân về bảo vệ. Ông phúc tâu nói rõ địa thế xung yếu cần phải cầm binh chống giữ. Hoàng Viết Tuyển cũng xin cho ông đ•ợc ở lại để phòng giặc phía ấy. Vua •ng thuận, nhân đó sai sứ vâng mệnh đem sắc chỉ và ngự th• đến tận nơi tấn phong cho ông chức đại t•ớng, t•ớc quận công. Chiếu th• của vua Chiêu Thống đại l•ợc nh• sau: "Khanh nêu g•ơng đại nghĩa vua tôi. Lúc tr•ớc c•ờng tặc đến xâm phạm, khanh đem đội quân thế cô của mình ra sức mà chống chọi, bên ít bên nhiều không địch nổi, trẫm thụ lòng bỏ quá cho khanh. Nay khanh lại cùng với Quan quận công , Hoàng Việt Tuyển chung sức giết giặc, bảo vệ miền Sơn Nam cho trẫm, nêu g•ơng trung nghĩa cho 4 ph•ơng. Khanh xuất thân cửa t•ớng ở đất Hải Đông, danh vọng lẫy lừng, nay trẫm dừng chân ở nơi đây, vẫn muốn gọi khanh về giúp rập. Song, nghe lời trong th• tâu của khanh thì gần đây việc bố trí quân cơ đã gây đ•ợc thanh thế, thật là một cục thế to lớn đối với cơ nghiệp trung h•ng. Nay phong cho khanh (1) Huyện Ngự Thiện nay là huyện H•ng Nhân (Thái Bình) Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 29 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  30. chức "Sơn Nam bộ đạo bình khấu đại t•ớng quân" t•ớc Hàm quận công . Khanh hãy sớm lập công trạng thu phục những miền đất đã mất để xứng đáng với tấm lòng của trẫm hết sức mong mỏi khanh làm tròn trách phận. Lão mẫu của khanh ở nhà trẫm vẫn để tâm sai ng•ời chăm lo cấp đỡ cho khanh đ•ợc yên lòng đánh giặc. Tận trung chí hiếu, duy chỉ bậc quân tử mới có thể vẹn toàn. Kính tuân". Lúc bấy giờ ông 37 tuổi. Ông ứa lệ đáp tạ trung sứ(1) nói rằng: " Nhã Hành tôi bất tài, lạm giữ trọng trách, giám đâu không tận tâm giúp rập để báo đáp ân đức của Hoàng th•ợng. Nhã Hành tôi nghĩ rằng cái thế trung h•ng ngày nay không giống nh• khi vua Thái tổ sáng nghiệp nhà Lê. Lúc bấy giờ nhân vì thiên hạ căm ghét quân Minh đã lâu, nên thành công đ•ợc dễ dàng, ngày nay, kể từ khi Nguyễn Chỉnh đem quân giặc vào lấy tiếng phò giúp triều đình, trên d•ới sinh lòng nghi ngờ. Các bậc cựu gia thế tộc, túc t•ớng nguyên huân đều bị Chỉnh giết hại không sót một ai. Vì thế cho nên giặc Tây Sơn ra lần nữa, chỉ mới đánh đ•ợc một trận mà quân t•ớng triều đình đã tan rã cả, xã tắc lâm nguy. Cái tội của tên Chỉnh lừa dối triều đình dẫu chu di cũng ch•a đáng tội. Nguyện xin bệ hạ năng hối lầm lỡ tr•ớc, răn cấm thói tệ cũ mà bỏ qua những điều lỗi nhỏ của kẻ thần hạ để chiêu dụ vỗ yên hào kiệt bốn ph•ơng, công bố chính đạo để thu hút lòng ng•ời, khiến cho kẻ đã đi quay trở lại, kẻ đã theo giặc lại về với triều đình. Đ•ợc nh• thế thì cơ ghiệp trung h•ng mới có thể m•u toan đ•ợc. Nếu không làm nh• vậy thì cái thế của ta hiện nay thiệt cũng khó lầm". Bấy giờ nhà vua đang phải bôn ba lánh nạn, nh•ng vẫn giữ lòng đố kị hẹp hòi, cho nên nhân đó ông muốn nói để viên trung sứ tâu lại với vua. Vua cho lời nói của ông là lẽ phải bèn xuống chiếu bố cáo cho thiên hạ (1) Trung sứ: Sứ giả đi truyền mệnh vua gọi là Trung sứ Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 30 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  31. biết lòng thành của vua. Từ đó phần đông các bậc hào kiệt lại có lòng theo về, thế lực càng mạnh lên ít nhiều. Mấy tháng sau, vua Lê Chiêu Thống đến quân doanh Vị Hoàng(1) để uý lạo quân sĩ. Tr•ớc đó đã sai đắp đàn tế ở bên bờ sông Thận Giang. Vua đi qua hàng quân vừa đi vừa vái chào để tỏ ý tôn trọng. Hoàng Việt tuyển đ•ợc phong làm th•ợng t•ớng, ông (Đinh Nhã Hành) đ•ợc phong làm Đại t•ớng. Ai nấy thụ phong đã xong, vua bèn hỏi đến kế sách đánh giữ thế nào; Tuyển tâu xin vua lui hành cung về Thanh Hoá nằm trên đ•ờng ra đ•ờng vào của giặc, chi bằng mời Hoàng th•ợng trở về phía Đông Bắc để tiện việc hiệu triệu dân chúng cung đốn binh l•ơng. Vua tôi đang bàn tính ch•a quyết thế nào, bỗng nghe tin t•ớng giặc là Vũ Văn Nhậm đ•a ba trăm chiến thuyền đến đánh. Vua truyền mệnh cho ông ở lại đóng giữ ứng phó đ•ờng bộ (trên bờ sông Thiện Giang). Ông từ huyện Ngự Thiên đi đ•ờng bộ đến yết kiến vua, không có thuyền, nhân đó vua sai ở lại đóng giữ. Hoàng Viết Tuyển thấy quân Nhạm đang tiến đến, chiến thuyền của Nhậm che kín mặt sông, khiến sợ bỏ trốn tr•ớc tiên, quân lính theo nhau tan rã hết. Bấy giờ ông đóng quân trên bờ , nghe lính báo tin không thấy thuyền rồng (của vua) đâu nữa, bèn nhảy xuống chiến thuyền con xông pha giữa khói lửa tìm kiếm hồi lâu mới thấy vua ngồi trên chiếc đò con đang trao đảo cơ hồ sắp bị sóng n•ớc lật nhào. Ông kêu to gọi vua cho đò quay về h•ớng Đông. Vua nói:" Khanh mau đến cứu trẫm", ông quay thuyền chèo theo con đò, đỡ hoàng th•ợng lên thuyền. Vua vừa b•ớc qua mạn thuyền thì con đò trúng đạn úp ngay. Ra đến biển, Hoàng Việt Tuyển lại lần nữa xin r•ớc vua về Thanh. Vua Chiêu Thống lại sai trở về huyện Ngự Thiên chỉnh đốn quân sĩ để tính chuyện về sau. Ông can gián mấy lần vua không nghe lời, cuối cùng ông đành gạt n•ớc mắt mà từ biệt. (1) Nguyên bản chép: "Vị đây là quân doanh Vị Hoàng(Nam định) ử đoạn sau đã nói rõ là Vị Hoàng Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 31 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  32. Vua Chiêu Thống cùng với Hoàng Việt Tuyển trên đ•ờng về Thanh đến cửa thần phủ thì Tuyển ra hàng giặc, bị giặc chém đầu. Vua lại phải đi lén quay ra vùng Kinh-môn, Nam-sách. Ông vòng đ•ờng biển về đến sông Ngữ Mạn thấy các t•ớng bộ khúc(1)là Ôn trung hầu và Ph•ợng trung bá (đều ng•ời huyện Nam Châu(2)) đều đã bỏ trốn cả. Hai ng•ời gặp ông giữa đ•ờng, khóc mà kể cho ông biết rằng quân bộ không có cứu viện nên cũng tan rã, đ•a nhau chạy về huyện Ngự Thiên, bị giặc bắt hết. Ông cùng với bọn Ôn trung hầu Ph•ợng trung bá nhắm h•ớng Đông trở về. Lại họp quân dấy nghĩa đánh thắng quân Tây Sơn mấy lần, tiếng đồn gần xa vang dậy. Vua Chiêu Thống sai trung sứ từ Kinh Bắc (bấy giờ vua đã di chuyển đến vùng này) đ•a chiếu th• ngự bút đến tận nơi uý lạo rằng: "Khanh một lòng trung nghĩa, dẫu vạn lần nguy hiểm cũng không phai mờ. Trầm dừng c•ơng ngựa nơi đây đ•ợc dân chúng Hải D•ơng tin yêu chăm sóc hết mức chu đáo nh•ng vì đ•ờng xa địa thế cách trở, tình thế khó đón l•ờng nh•ng mọi việc trong quân khanh hãy tuỳ nghi xử trí, cốt sao mau lập đ•ợc chiến công. Khanh thật vất vả vì việc quân, trẫm có lời thăm hỏi, chúc khanh mạnh giỏi an khang, ngày t•ơng chiến không còn bao xa, khanh hãy gắng lên!" Ông tiếp đ•ợc chiếu mới hay hoàng th•ợng hãy còn, bèn cùng với viên trung sứ đi lén về miệt Ph•ợng Hoàng, Bảo Lộc để yết kiến hoàng th•ợng. Chào hỏi xong, vua cầm tay ông khóc mà nói:" Trầm bị tên Tuyển lừa dối, xuýt nữa thì không thể trở về gặp khanh đ•ợc nữa. Nay trẫm đã sai bọn Trần Danh án sang nhà Thanh xin quân cứu viện. Khanh nên mau trở về tuỳ tiện mà xếp đặt công việc, chiêu tập vỗ yên dân chúng để kịp thời cử sự". Ông vâng mệnh trở về ngay. Bấy giờ là mùa xuân tháng ba năm Mậu Thân (1788) huyện trong bản trấn đều đã lọt vào tay quân Tây Sơn (1) T•ớng d•ới quyền của chánh t•ớng gọi là t•ớng bộ khúc. (2) Nam Chân là tên huyện đời Lê, nay là phần đất hai huyện Nam Trực, Trực ninh tỉnh Nam định cũ. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 32 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  33. Ông đem lòng trung nghĩa mà khích lệ, quân sĩ vui vẻ tuân theo . Quân ông chạm trán với địch, giao phong hơn m•ời mấy trận khi đ•ợc khi thua. Sau vì thế cô phải chịu thua bại. Ông khóc mà nói với t•ớng sĩ rằng: "M•u việc ở ng•ời mà thành việc ở trời, nay trời không giúp nhà Lê nữa ta còn biết làm sao". Quân sĩ nghe nói chẳng ai ng•ời không rơi n•ớc mắt. Ông bèn thu thập tàn binh đ•ợc hai nghìn bảy trăm ng•ời bỏ đồn Phù l•u(1) xuống thuyền rời bến. Lại đến dấy nghĩa huyện Hoa Phong(2) ng•ời theo h•ởng ứng rất đông. Hào kiệt ở đất Hà Nam cũng đem quân về quy phục. Quân ông giao chiến với quân Tây Sơn thắng trận mấy lần. Sau đó ông đ•a quân về sông Đằng Giang. Trong một lần cầm cự dằng dai giữa quân hai bên, t•ớng cùng họ với ông là D•ơng Trung hầu sơ xuất khinh địch đại quân lại một lần nữa bị tan rã. Em ông là Thận Vũ hầu nói rằng: " Quân hết, thế cô, ta nên lén về quê nhà rồi sẽ trù tính m•u kế khác". Ông khóc đáp rằng:" Nghĩ từ khi n•ớc loạn đến nay, anh em ta mấy lần gi•ơng cờ nghĩa mà ch•a đ•ợc thành công nay đem chiếc thân trở về bản quán, còn mặt mũi nào mà trông thấy các bậc phụ lão đất Giang Đông"(3). Sau đó ông kéo quân đến châu Vạn Ninh, lại dấy nghĩa lần nữa. Một mặt thì trông chờ viện binh ở xứ Bắc. Hào mục là Phạm Đình Tuấn, Phạm Thuỷ Lan(4) đem quân đến theo ông. Ông đóng ở Vân Đồng, chiến thuyền có đến hơn ba trăm chiếc, quân có hơn hai vạn ng•ời. Tin thắng trận lại dền vang. Bấy giờ vua Lê Chiêu Thống đang ở huyện Lạng Giang nghe tin bèn sai sứ đến phong cho ông chức Đông đạo thống lĩnh thuỷ bộ ch• doanh bình khấu đại t•ớng quân, và uỷ cho ông tiện đ•ờng lên Khâm Châu tiếp đại quân của thiên triều (tức quân nhà Thanh- Ng•ời dịch) từ Long-môn sang. Chiếu th• ngự bút của Chiêu Thống viết: (1) Nguyên chú: Thuộc huyện Thuỷ đ•ờng, nay đổi là huyện Thuỷ Nguyên. (2) Huyện Hoa Phong (đời Lê) tức là huyện Nghiêu Phong đời Nguyễn, nay là vùng đảo Cát Bà (3)Giang Đông nói đây là mỹ từ, tức Hải Đông(Hải D•ơng) (4)Nguyên chú: Phạm Đình Tuấn ng•ời châu Vân đồn, Phạm Thuỵ Lan ng•ời châu Vạn ninh nay thuộc huyện Móng cái. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 33 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  34. "Khanh dấn thân vì n•ớc, xông pha trải bao gian nan nguy hiểm, cuộc thế dẫu vạn lần thay đổi cũng không sờn lòng. tài năng của khanh, đạo đức trung chính của khanh không chút hổ thẹn với gia thế, trẫm rất vui lòng. Nay quân giặc đang chiếm cứ kinh thành, hãm hại dân chúng muôn vạn trạng. Trẫm lo cho muôn dân ngày ngày nhón gót nghểnh cổ trông đợi thiên triều (Thanh) phái quân đến, dân manh lệ ở nơi thôn dã cũng không ai không nóng lòng chờ mong. Khanh nhớ nên chuyển đạt cái ý ấy cho quân thiên triều biết để họ mau sang biên giới. Chẳng qua không ngoài một tháng quân giặc tất phải tự tan rã. Nếu để chậm trễ khí thế của giặc đ•ợc nuôi d•ỡng thì phải dùng đến binh đao ồ ạt rất phiền phức. Khanh đảm đ•ơng việc n•ớc, khanh nên gắng sức!" Tháng 9 (năm Mậu Thân 1788) ông đến Liêm Châu nói có việc khẩn cấp xin gặp Tôn đại nhân (tức Tôn Sĩ Nghị)(1). Bấy giờ đã có quốc th• gửi sang, kèm theo cả tờ dụ gửi cho ông nh• sau: "Bộ binh của thiên triều nay đã qua biên giới, hiền hầu hãy mau đ•a quân trở lại để hiệp sức dẹp giặc. Thuỷ quân của thiên triều cũng đã tầng tầng lớp lớp kín mặt sông, sớm muộn ắt sẽ đến nơi. Hiền hầu không đ•ợc chậm trễ". Ông đ•ợc tin bèn dẫn binh thuyền về tiến đánh thu phục thành An- quảng. T•ớng trấn thủ của Tây Sơn là Hoàng Khắc Tuy ra tr•ớc cửa quan xin hàng. Phó t•ớng là Thuận Hoá Hầu(2) chạy về Đông triều bị quân ông đuổi theo bắt đ•ợc. Khắp nơi h•ởng ứng về nh• trẩy chợ, cả thẩy đến bốn năm vạn ng•ời, chiến thuyền không đếm xuể. Hồi đó ông đ•a quân thắng tiến về Hải D•ơng. Em ông là Đông Lĩnh hầu tr•ớc đó đã khởi binh lấy lại đ•ợc thành Hải D•ơng(3). Đông (1) Bấy giờ Tôn Sĩ Nghị giữ chức Tổng đốc L•ỡng Quảng (2) Thuận Hoá hầu, t•ớng Tây sơn, ch•a rõ họ tên thật là gì, chờ tra cứu thêm. (3) Nguyên văn viết: Công đệ Đông Lĩnh hầu tiến đi binh phục Liễu Đông, rõ ràng đoạn này nói việc Đông lĩnh hầu lấy lại đ•ợc thành Hải D•ơng (sau giao lại cho Anh là Đinh Nhã Hành đóng giữ) nh•ng ch•a biết vì sao nguyên bản lại viết Liễu Đông. Có lẽ tác giả dùng Liễu Đông làm mỹ từ để nói đất Hải D•ơng(Hải Đông, Giang Đông) chăng? Hoặc chữ Liễu chỉ là chữ đệm, mà tiếp đó viết thiếu chữ Hải (Hải Đông)? Xin ghi đây để chờ tra cứu. Dẫu sao thì đây cũng là nói việc ở thành Hải D•ơng. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 34 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  35. Lĩnh hầu thấy quân của anh mình đông hơn, bèn giao ấn trấn thủ lại cho ông rồi đ•a quân lên Kinh Bắc phò xa giá vua Lê trở về Thăng Long. Kinh thành lại đ•ợc thu phục. Tháng 11 (năm Mậu Thân-1788), ông vâng mệnh đem chiến thuyền đến đậu ở bến sông Hàm Giang, để bảo vệ kinh đô, khí thế trong quân rất hăng hái. Tôn Sĩ Nghị từng đến điểm duyệt không ngớt lời khen ngợi. Nhân thế vua Chiêu Thống ban dụ khen th•ởng ông nh• sau: "Đinh t•ớng quân x•ớng nghĩa đánh dẹp(2) giặc Tây Sơn, thắng trận nhiều lần. Tấm lòng trung dũng ấy thật là đáng khen ngợi. Nay tái phong cho khanh chức đại t•ớng quân, ban cho một lá đại hồng kỳ (cờ đỏ), đợi dịp cùng quân của thiên triều tiến binh dẹp giặc v.v " Ông đóng quân ở Hàm Giang đã lâu vẫn không thấy quân Thanh hành động gì cả. Ông bèn về kinh yết kiến Tôn Sĩ Nghị. Ông nhắc lại với Tôn mấy lần rằng:" N•ớc Nam nhờ có quân Thiên triều sang cứu viện, chỉ đánh một trận là thu phục đ•ợc Kinh thành, nh•ng quân Tây Sơn còn nguyên vẹn cả, nhổ cỏ không trừ tận gốc thì tr•ớc sau nó cũng mọc lại mà thôi. Nay đại nhân xuất quân sớm ngày nào thì bản quốc đ•ợc nhờ ơn thiên triều sớm ngày đó". Trở về ông vào cung tâu lại với hoàng th•ợng. Chiêu Thống cũng không quyết ý thế nào. Bấy giờ Chiêu Thống cùng với tể thần là bọn Lê Quýnh(3) cho rằng quân Tây Sơn •a trốn xa, không lo hậu loạn nữa, ngày đêm lúc nào cũng chỉ lo tính những việc ơn oán trong thời gian đi lánh nạn. Còn việc n•ớc thì bỏ không bàn luận đến. Ông th•ờng rập đầu can ngăn, vua cũng không lấy làm điều. (2)Nguyên bản chép: Đinh t•ớng công x•ớng nghĩa vàng Tây(chú: Tức Tây sơn Nguyễn Huệ). Rõ ràng chữ vàng là chữ chép sai. Đây chính là chữ "chinh" nghĩa là đánh dẹp (Chinh phạt), nh•ng vì có một bên giống chữ "vàng" nên ng•ời chép vô ý chép nhầm. (3)Dạo r•ớc kinh thành bị vây hãm, Lê Quýnh theo Thái hậu lánh sang nhà Thanh (T.Q) đến lúc này đ•ợc phong chức Bình ch•ơng (tức là tể t•ớng-ND) Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 35 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  36. Tháng 12 năm ấy (Mậu Thân 1788) triều đình xét công ban th•ởng, xếp ông vào hạng Tĩnh nạn công thần (công thần dẹp loạn), phong hàm Thái bảo, t•ớc Hàm Xuyên quận công, lãnh chức trấn thủ trấn Sơn Nam, đ•ợc phong ruộng thực ấp một huyện là huyện Nam Chân. Ông từ chối không nhận chức trấn thủ Sơn Nam, tâu rằng:" Thần tuy ngu dốt nh•ng vẫn ch•a nguôi chí diệt giặc báo thù. Sau khi nghỉ ngơi cho lại sức chỉ muốn cầm quân tiền phong đi dẹp giặc, đó là lòng mong mỏi của thần". Chiêu Thống dụ rằng: " Quyền binh ở nơi thiên triều cả, trẫm không dám quyết đoán, khanh hãy đi nhận chức, để sau sẽ suy nghĩ thêm cũng không muộn". Cực chẳng đã, ông phải đến giữ chức trấn thủ Sơn Nam, đêm ngày lo lắng vì nỗi quân Tây Sơn thế nào cũng lại kéo ra, mấy lần dâng sớ mà không thấy hoàng th•ợng dụ đáp. Ông lại về kinh yết kiến Chiêu Thống, mật tâu rằng: "Quân thiên triều sang cứu viện chỉ cốt để tr•ơng thanh thế mà thôi. Hoàng th•ợng muốn tự c•ờng há lại không có chí diệt giặc rửa thù, tr•ớc sau cứ ỷ lại vào ng•ời ta, còn mình không lo tính gì cả hay sao? Ví bằng Tôn đại nhân không chịu ra quân, xin hoàng th•ợng cho thần đ•a quân nghĩa sĩ bản bộ đi tr•ớc đánh giặc để đ•ợc chết vì v•ơng sự, khỏi khiến cho kẻ kia chê c•ời rằng n•ớc Nam ta không ng•ời". Rốt cuộc chiêu Thống cũng không dám quyết đoán, ông lui ra phẫn chí than rằng:" Muôn đắng nghìn cay mới có đ•ợc ngày hôm nay, nh•ng nay thế là hết, còn mong gì phục quốc nữa"- Hồi đó ông dâng sớ xin từ chức để trở về với ruộng v•ờn. Tờ sớ của ông nh• sau: "Thần hổ thẹn mang thân dòng dõi thế gia, may mắn đ•ợc đội ơn tri ngộ. Từ buổi triều đình gặp b•ớc gian nan, bọn man tù(1) gây chiến, thần hết Đông sang Tây, vâng mệnh chuyên đi đánh dẹp. Cờ nghĩa bao phen lập dựng, b•ớc chân gian nan vào ra giữa chốn vạn tử nhất sinh. (1) Man tù: Tù tr•ởng mọi rợ, chỉ anh em Tây sơn dấy quân khởi nghĩa. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 36 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  37. Thần có mẹ già tuổi ngoại lục tuần. Cay đắng trăm chiều, quạnh hiu muôn nỗi. Vậy mà thần không thể phụng d•ỡng sớm chiều, thần suy xét mà tự lấy làm th•ơng cảm. Trải vài năm chinh chiến, thắng bại tuy cũng có từng lúc, nh•ng thành công thì ch•a thấy có. "Nay kính đ•ợc thiên triều nghĩ đến (Thanh) n•ớc Nam ta có lòng kính thuận nên đã cất quân sang cứu viện, một trận chiến khôi phục lại kinh thành. Quân thiên triều đã dẹp tan quân giặc, lấy lại đ•ợc kinh s•, các đại thần tại chức cũng không phải hiếm. Thần lạm giữ một phần công trời mà đ•ợc dự phần nơi t•ớng khẩn, giữ chức trấn quan. "Thần thực lấy làm hổ thẹn, trộm xét mà thấy đau lòng. Hào kẻ gặp khi biến loạn, trong tay có quân mà không giữ đ•ợc thành, quân Tây Sơn kéo đến thì chạy theo Tây Sơn, quân Tây Sơn bị dẹp thì lại về giúp rập cho triều đình nh• bọn Đan H•ơng hầu(1) thật không biết bao nhiêu mà kể hết. Nay những kẻ ở trấn ngoài, thần cũng đ•ợc dự chung hàng với bọn ấy, sự đó khiến cho thần xấu mặt lắm. "Thần lại nghĩ rằng một dải đất Sơn Nam bốn phủ khác nào bức bình phong, trên tiếp với kinh thành, d•ới liền với Nam Hải, việc phòng thủ không thể đ•ợc trễ nãi lúc nào. Thần là kẻ bất tài, vậy mà đ•ợc cai quản một miền đất thanh nhàn nh• thế, thiệt lấy làm thẹn. Sợ rồi mai đây góp thẹn càng nhiều, không khỏi chí xa tr•ờng rong ruổi thì thần tài hèn không kham nổi trọng trách. "Thần cúi xin bệ hạ thu lại chức vụ của thần, cho thần đ•ợc lại về nơi v•ờn ruộng để phụng d•ỡng mẹ già đến lúc trăm tuổi, ngàn năm đ•ợc h•ởng trọn phúc ấm thái bình. ý nguyện của thần nh• thế là đ•ợc thoả". Thần kính tâu". Vua Chiêu Thống đọc sớ biết ông vì lòng trung nghĩa mà phẫn chí, liền cho triệu ông vào cung, hết lời khuyến khích an ủi để ông tiếp tục giữ (1) Ch•a rõ Đan h•ơng hầu là ai, xin ghi để tra cứu sau. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 37 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  38. chức. Ngày hôm sau vua dẫn ông cùng với các quan đại thần đến yết kiến Tôn Sĩ Nghị xin cho tiến quân. Tôn Sĩ Nghị nể lời phải •ng thuận. Vua về cung phong ông giữ chức Tiết chế các xứ thuỷ bộ ch• quân(1) đ•ợc tuỳ nghi hành sự. Hoàng đệ là Lê Duy Chỉ giữ chức phó thống lĩnh, Lê Quýnh giữ chức Tổng lý l•ơng h•ớng điều độ quân nhu hẹn ngày cũng xuất quân tiến đánh Tây Sơn. Cách mấy ngày, Tôn Sĩ Nghị lại sắc kế chiêu hàng(2) thúc vua thu hồi ấn kiếm, sai ông trở về trấn thủ Sơn Nam nh• cũ. Đến cuối tháng chạp năm ấy (Mậu Thân 1788) có lệnh ban xuống rằng:" Quân sĩ theo việc chinh chiến đã lâu nay đã vào tiết cuối năm chuẩn cho phép tạm đ•ợc trở về thăm gia đình. Sang năm mới vào ngày khai xuân phải sớm tề tựu ở quân doanh để chờ điều khiển". Quân ông đông ng•ời mà l•ơng thực ít ỏi; nhân đó nhiều ng•ời xin về quê, số ở lại quân doanh chỉ còn lại độ hơn nghìn ng•ời mà thôi. Ông thấy cơ sự ngày càng sa sút nh• vậy, không nén nổi bực tức bèn đ•a binh thuyền về đậu ở bến sông Nam X•ơng, không lên trấn sở nữa. Bấy giờ là ngày 19 tháng Chạp. Đầu tháng giêng năm ất Dậu ngày mồng 5 (30-1-1789) Nguyễn Huệ đích thân cầm quân ra Bắc. Quân Thanh ở kinh thành Thăng long thua bại, vua Chiêu chạy theo Tôn sĩ Nghĩ chạy lên cửa Nam Quan. Tiếp đó thuỷ quân của Nguyễn Huệ cũng tiến đến. Trong một lúc ông không kịp kêu gọi quân lính, chỉ đem số quân hiện có lúc ấy xuống năm chục chiến thuyền dàn trận giữa sông cầm cự với thuỷ quân Tây Sơn. Sau mấy ngày l•ơng thực hết cạn, quân ông thua bại phải chạy xuống sông Ngô Đồng. Bộ t•ớng của ông là bọn Tuấn trung hầu nghe tin quân Tây Sơn kéo ra liền đ•a quân đến cứu viện, gặp nhau ở đấy hợp lại chỉ đ•ợc hơn 200 (1) Tức là chức Tổng t• lệnh quân đội. (2) Nguyên văn:" hựu hoặc chiêu hàng chi kế. Câu này hơi tối nghĩa: Lúc bấy giờ quân Ngô Thì Nhậm đóng ở phía nam núi Tam điệp(Ninh bình) mà quân Nguyễn Huệ ở Phú Xuân ch•a ra, không rõ ai đã "chiêu hàng" Tôn Sĩ Nghị Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 38 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  39. quân. Quân Tây Sơn đuổi theo , ông đốc thúc quân sĩ ra sức mà đánh. Một ngày đâm giết quân địch rất nhiều, lấy lại đ•ợc chiến thuyền hơn 10 chiếc. Ông nói với Tuấn trung hầu rằng: "Ta tuy thắng đ•ợc một trận nhỏ, nh•ng quân yếu t•ớng ít, thế rất khó khăn. Muốn chống cự đ•ợc lâu dài phải tạm lui ra vùng Diêm Hộ hoặc Giang Bình(1) đợi tập hợp đ•ợc đại quân và nghe ngóng tin tức hoàng th•ợng rồi hãy đem quân trở về." Đến khi đem quân đến địa ph•ơng nói trên, hào mục quanh vùng nghe tin cả mừng đem đại binh l•ơng đến cung đốn khoản đãi theo về với ông(2). Quân Tây Sơn nghe tin bèn phái đại quân chiến thuyền đến đuổi đánh. Ông đốc quân chống cự, mấy ngày liền không phân thắng bại, đến khi l•ơng cạn lại bị thua hại tan rã. Ông ngẩng mặt lên trời kêu lớn:" Kẻ bầy tôi này đã dốc kiệt sức rồi!". Nói song bèn nhảy xuống sông. Tả hữu bèn vớt ông lên thuyền cứu cho hồi tỉnh rồi lui về động Bắc vọng. Sau đó ông đem gia quyến v•ợt biển lên phía Bắc theo vua Chiêu Thống. Vừa mới đến Khâm Châu thì thân mẫu ông là quận phu nhân Nguyễn Thị (con gái của Ngọ Đình hầu họ Nguyễn, đậu tiến sĩ, ng•ời làng Phúc Khê, tỉnh H•ng Yên) qua đời. Số đi theo ông cả nam nữ tất cả 78 ng•ời. Tổng đốc Quảng Đông là Phúc An Khang cho phép đ•ợc ở công quán để đợi tâu về triều. Sau đó ra sao sẽ xử trí. Đ•ợc ít lâu Phúc An Khang khuyên ông cạo đầu và đổi y phục theo cách ăn mặc của ng•ời Thanh. Ông nói rằng:" Tôi là kẻ cô thần ở đất kiều ngoại(3) không may n•ớc mất vua bôn, phải đem gia quyến tòng vong, cốt để m•u việc thu phục n•ớc nhà, nào phải tính chuyện an c• mãi ở đây đâu? Hà tất phải theo tục của ng•ời quý quốc làm gì?". (1) Nuyên chú: Diêm hộ thuộc huyện Thuỵ Anh, Giang Bình thuộc huyện Vạn ninh. (2) Nguyên chú: Khi tr•ớc ông ừng dấy nghĩa tại đây nên dân chúng vẫn nhiều ng•ời luyến nhớ. (3)Kiều ngoại: ở ngoài biên giới, tức là nói Việt nam ở ngoài biên giới Trung quốc. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 39 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  40. Phúc An Khang bao nhiêu lần khuyên ép, bảo rằng phải chịu nh• thế thì vua tôi mới đ•ợc đoàn tụ cùng nhau. Ông nói:" Kẻ bề tôi không dám tiếc thân, thân còn chẳng tiếc thì một dúm tóc nhỏ có tiếc làm chi! Có điều là hiện giờ ch•a biết tin tức của quốc dân ra sao nên không dám phụng mệnh". Hai tháng sau Phúc An Khang lại nói với ông rằng:" Thiên triều sớm muộn cũng sẽ cất quân sang lần nữa. Quý quốc v•ơng hiện đang ở Yên Kinh, đã vâng mệnh cạo tóc rồi, ngài cũng nên vâng lệnh làm theo nh• thế để tiện việc sau này theo giúp việc quân". Ông thấy ng•ời Thanh hứa đ•a quân sang phục thù trong lòng khôn xiết vui mừng đáp rằng:" Nếu là việc lợi cho xã tắc thì tôi có tiếc gì mớ tóc. Chỉ mong đại nhân nhớ câu: " Nhất ngữ thiên kim" (một lời vàng), giữ lời xin chớ lừa dối chúng tôi". Khang nói:" Nay có chiếu dụ đây, xin đón ngài di chuyển đến c• trú tại Thủ bị đ•ờng ở Toàn Châu"(1). Ông ngạc nhiên biến sắc mặt, bây giờ mới biết bị Phúc An Khang lừa dối, bèn đ•ơng điện cật vấn rằng: "Lời nói hãy còn bên tai sao đại nhân nhẫn tâm tráo trở nh• thế?". Khang làm thinh không đáp rồi hô quân áp vực ông lên xe cùng chở đi với già trẻ lớn bé trong nhà. Vài ngày sau Phúc Khang An cũng theo đến Toàn Châu. Nguyên việc này là do Phúc Khang An với Hoà Thân (tể t•ớng nhà Thanh, thân thần của vua Càn Long) đều nhận của hối lộ của Nguyễn Huệ, cùng nhau tâu gian rằng vua tôi nhà Lê tình nguyện cắt tóc xin nhập tịch làm dân nhà Thanh , không có ý định trở về n•ớc Nam nữa. Lúc đầu vua Thanh không biết sự thật cho nên mới ban dụ ấy, một mặt thì ra lệnh bãi bỏ hết thảy những kiến nghị đ•a quân sang đánh n•ớc Nam. Lúc ấy ông ở Toàn Châu buồn rầu ảo não lại ở vào tình cảnh bị ng•ời Thanh cai (1) Thủ bị đ•ờng: là nhà làm việc của quan thủ bị, một chức quan võ d•ới cấp đô ti, thuộc hạng ngũ phẩm. Hiển nhiên Phúc An Khang nói câu này sau khi Đinh Nhã Hành đã nghe lời y cạo tóc, nên ở câu d•ới mới nói "ngạc nhiên biến sắc". Câu nói của Khanglấp lửng cho thấy sẽ giam lỏng Đinh Nhã Hành ở nhà quan thủ bị Toàn Châu. Toàn Châu tức là huyện Toàn thuộc phủ Quế Lâm tỉnh Quảng Châu. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 40 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  41. quản nên chẳng biết xoay sở cách nào. Ngày ngày nhìn về ph•ơng Nam sụt sùi rơi lệ mà nói:" Vua ta bây giờ ở đâu?" Ai nghe cũng phải buồn lây. Từ khi nghe tin quốc v•ơng Chiêu Thống từ Quế Lâm lên Toàn Châu, ông nhiều lần xin yết kiến, nh•ng Phúc An Khang đều không cho phép. Mùa xuân năm Canh Tuất (1790) có chỉ dụ của vua Thanh cho phép bọn ông tất cả hơn ba m•ơi ng•ời đ•a tòng vong với Chiêu Thống (Hoàng ích Hiên, Phạm Nh• Tùng, Lý Bình Đạo, Nguyễn Quốc Đống, Đinh Lệnh Dân (em thứ hai của ông), Phạm Trần Thiện tất cả cùng 37 ng•ời đ•ợc cùng với quốc v•ơng về kinh đợi hỏi. Sau khi về Yên Kinh, vua Thanh ban cho Chiêu Thống hàm tứ phẩm, đ•ợc truyền đời thế tập , cho phép mở riêng đại doanh. Ông đ•ợc ban hàm ngũ phẩm của Kiêu Kỵ, giữ việc quản lý sự vụ ở An Nam doanh. Những ng•ời khác theo thứ bậc cũng đ•ợc giữ hữu sai. Vua Chiêu Thống lấy làm phiền uất, một hôm cùng với bọn ông đến tr•ớc cửa Khuyết kêu oan. Ng•ời Thanh cho là điêu toa sinh sự rồi Hoàng ích Hiển bị đ•a đi an trí mỗi ng•ời một nơi chỉ cho phép ông đ•ợc ở lại theo hầu quốc v•ơng. Sau đó ng•ời Thanh lại sai lính đến canh gác không cho phép ông đi lại bàn bạc với vua, bốn năm tháng mới có lệnh khoan nói. Vua Thanh lại xuống dụ bảo quốc v•ơng khuyên bọn Lê Quýnh cũng đều cạo đầu cả đi. Tr•ớc đó , lúc kinh thành Thăng Long thất thủ bọn Quýnh không theo kịp giá, cứ nhằm phía Bắc mà đi, đến đầu mùa hè thì tới cửa Nam quan , những việc mà ông cũng nh• quốc v•ơng Chiêu Thống bị bọn Phúc An Khang, Hoà Thân lừa dối , Lê quýnh đại l•ợc đều có nghe biết cả. Bởi vậy khi vua Thanh xuống dụ nói phải cạo trọc đầu , riêng bọn Quýnh không chịu làm theo, vua Thanh sai bộ hình bắt giam Lê Quýnh. Đến lúc đó, quốc v•ơng Chiêu Thống và vua Thanh uỷ cho ông và bọn Phạm Nh• Tùng, Nguyễn Quốc Đống đến nhà ngục khuyên bảo Lê Quýnh. Ông chỉ viết một câu: "Dĩ đản thủ đan tâm" (lấy can đảm mà giữ vững lòng son) ngoài ra không nói điều gì khác. Quýnh đáp rằng: "Bọn chúng ta hình tích thì khác nhau nh•ng cùng chung một lòng. Đinh t•ớng Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 41 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  42. quân là bậc đại thần, cầm quân ngoài chiến địa, xông pha giữa chốn tên đạn g•ơm dao, việc không thành thì đem gia quyến v•ợt biển tòng vong. Phạm hầu (Phạm Nh• Tùng) là bậc đại thần hầu vua nơi cung khuyết, không may kinh thành bị vây hãm thì cầm c•ơng ngựa theo phò xa giá, các vị đều dự vẹn nghĩa vua tôi. Còn nh• bọn Lê Quýnh tôi đã không thể chết vì việc n•ớc lại cũng không theo hầu xa giá xuất bôn, Quýnh tôi tự lấy làm hổ thẹn với ch• vị cho nên phải kiên trì giữ vẹn khí tiết, ngõ hầu làm sáng tỏ đ•ợc cái chí khí của mình. Mấy lời ch• vị đinh ninh dặn dò, Quýnh tôi đâu dám không tuân. Chỉ mong ch• vị dốc lòng bảo vệ quốc v•ơng, ngày sau trên cỗ xe đ•a Tấn Văn Công(1) trở về, ngồi vào chỗ của Hổ Yên, Triệu Thôi không phải hai ông thì còn ai? ấy là điều mà bọn ngu thần (bất tài) Lê Quýnh tôi hằng •ớc vọng. Ngoài ra không phải nói gì thêm nữa thừa lời". Từ đó ông th•ờng lui tới bàn bạc với Lê Quýnh. Ông nói:" ở nơi đất khách quê ng•ời bất cứ việc gì cũng không đ•ợc tự chủ, chi bằng sớm về nơi cố thể, dàn dà rồi sau sẽ trù tính, vạn nhất còn có cơ vãn hồi, bằng không thì đành chịu chết già ở chốn này mà thôi". Nhân đó ông bàn với Chiêu Thống tâu lên vua Thanh xin thiên triều cho lại trấn Tuyên Quang, Cao Bằng làm nơi tị nạn để trở về phụng thờ tôn miếu họ Lê. Vua Thanh xuống dụ trả lời rằng làm nh• thế chỉ e rằng sẽ bị Tây Sơn sát hại, không •ng chuẩn đ•ợc. Chẳng bao lâu, vua Chiêu Thống băng hà. Ông cùng với các đại thần tòng vong làm lễ mai táng quốc v•ơng ở Ninh Lăng. Hết kỳ để tang ông nghĩ việc n•ớc nh• thế là không thành, bèn cùng với Hoàng đệ Lê Duy án bàn việc đ•a hài cốt nhà vua về n•ớc, bèn dâng sớ tâu lên vua Thanh, vua Thanh ch•a cho phép. Đến mùa xuân năm Quý Hợi (1803) nghe tin trong n•ớc nhà Tây Sơn đã bị đức thế tổ Cao hoàng đế bản triều (Gia-long) tiêu diệt, bấy giờ ông đã lâm bệnh nh•ng vẫn còn với bọn Lê Quýnh (Lê Quýnh tr•ớc bị (1) Tấn Văn Công tức là công tử Trùng Nhĩ tr•ớc khi lên ngôi phải sống l•u vong 19 năm., sau nhờ quân viện của n•ớc Tần mới trở về n•ớc. Hồ Yên, Triệu Thôi là hai kẻ tuỳ thần rất có công với Trùng Nhĩ. ở Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 42 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  43. giam, bây giờ đã đ•ợc tha) lại làm sớ dâng lên vua Thanh xin đ•a hài cốt quốc v•ơng về n•ớc. Vua Thanh xuống dụ đáp rằng: đợi khi nào sứ thần An Nam sang cầu phong thì sẽ xử trí cũng không muộn. Đến tháng 7, bệnh tình ngày càng nặng, ông hôn mê bất tỉnh. Sau 5 ngày lại tỉnh tảo, sai lấy bút nghiên tự tay viết cho Lê Quýnh bức th• nh• sau(1): "Tôi với Kiến hầu kết nghĩa t•ơng giao vốn chẳng phải một ngày, giữa cơn sấm xét đã từng chung trọng trách. Bôn ba phiêu dạt nay sao lại đ•ợc cùng nhau hội ngộ. Nghĩa công tình riêng ch•a báo đáp đ•ợc vạn nhất. Nay kẻ thù đã bị diệt(2) tiện có cơ hội rồi chỉ mong hiền hầu l•u tâm lo toan quốc sự(3) thì thế nào cũng xong việc. Trời chẳng chiều ng•ời, ch•a từng đ•ợc cùng nhau chung áo(4) phải vĩnh biệt". " Cổ nhân nói: "Xuất sự ti tiệp, thân tiên tử Tr•ờng sử anh hùng lệ mãn khôm": Tạm dịch: Ra quân ch•a thắng thân đã bỏ, Vạt áo anh hùng lệ trào tuôn. " Chính là nói đến tình thế của chúng ta ngày nay. Mong hiền hầu trên nghĩ ơn n•ớc, d•ới nghĩ tình bạn hữu kết giao, tuỳ cơ ứng biến, sớm quyết kế sách. Nhã Hành tôi dẫu nhắm mắt cũng không ân hận điều chi. Không kịp nói nhiều chỉ một tấc th• buồn đau khôn xiết!". Viết xong ông lại đề một bài thơ tuyệt mệnh nh• sau: Tuyệt mệnh thi: đây Lê Quýnh dùng điển ấy để khuyến khích bọn Đinh Nhã hành giúp dập vua Lê. (1) Nguyên chú: Nguyên ông chơi thân với Quýnh. Quýnh th•ờng th•ờng theo ông đi chinh phạt, giữ chức phó t•ớng. Đến khi ông giữ chức đại t•ớng thì Quýnh giữ chức Bình ch•ơng(tể t•ớng- do Quýnh có công phò Hoàng thái hậu nhà Lê lánh nạn sang Trung quốc khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần thứ nhất-ND) tình cảm rất thắm thiết bền chặt. Đến khi sang Bắc quốc, Quýnh bị giam lâu ngày, ông th•ờng lui tới bàn bạc công việc với Quýnh. Lúc bấy giờ Quýnh đã đ•ợc tha cho nên ông mới viết th• này gửi cho Quýnh để dặn dò công việc. (2) Chỉ nhà Tây sơn (3) Nguyên văn: "Quốc kế", cũng nh• quóc sự. Sau khi Chiêu Thống chết, m•u toan khôi phục nhà Lê hoàn toàn sụp đổ. Điều mà Đinh nhã Hành nói "quốc kế" ở đây liên quan đến đoạn trên đã kể chỉ là nói việc thu xếp để đ•a hài cốt Chiêu Thống về n•ớc. Đối với bọn triều thần tòng vong thì việc ấy hết sức hệ trọng, phải m•u tính chu đáo sao cho cả vua Thanh và triều đại mới lên trong n•ớc •ng thuận (4) Nguyên văn: "Thiên vị tòng nhân, vị đắc đồng bào, đột nhiên vĩnh quyết " Kinh thi có câu:"Khởi viết vô y, dữ tử đồng hoà" (Bảo rằng không có áo •, ta sẽ cùng ng•ơi chung áo- Kinh thi, Tân phong, Vô y) về sau quân nhân th•ờng dùng chữ "đồng bào" (chung áo) để nói ý lập chiến công để cùng vua chung h•ởng phú quý. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 43 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  44. Phiên âm: Vô năng thiển xuất t•ớng mân lai Nhất kiếm trì khu đáo Bắc đài. Cứu quốc vị vong, hồn tảo khứ, Quy gia hữu tiến, quỷ tiên thôi. Danh tuỳ ph•ơng xứ l•u toàn sử. Cốt nhập U Minh hoá kiếp hôi. Nhất nhữ mạc cùng thiên cổ hận. Tống chi bất cập Triệu Hồ tài. Dịch nghĩa: Bài thơ tuyệt mệnh: Kẻ bất tài lấy làm hổ thẹn đã sinh ra nơi cửa t•ớng, Một thanh g•ơm rong ruổi đến kinh đô Bắc quốc(a) N•ớc cừu thù(b) ch•a mất, hồn phách đã sớm lìa đời. Vừa có tin về nhà, ma quỷ vội đến thúc đi, Danh tiếng mặc kẻ khen chê, l•u lại trong pho sử tàn, Hài cốt đã vào chốn U Minh(c) khi đều hoá thành tro bại cả. Một lời nói không hết mối hận nghìn thu, Tóm lại là không có đủ tài nh• Triệu Thôi, Hồ Yến.(d) Tạm dịch: Một g•ơm rong ruổi quyết xông pha, Tài mọn nên chi hổ tiếng nhà, Quốc thù ch•a báo hồn đã thoát Tin nhà vừa có quỷ liền tha, Kệ tiếng khen chê l•u sử nát, (a) Nguyên văn: bắc đài nghĩa là kinh đô của Bắc quốc. Câu này nói ý mình xông pha chiến tr•ờng. rốt cuộc phải lánh sang kinh đô Bắc quốc, nh•ng không nói rõ hẳn ra nh• thế. (b) Nguyên văn: Cừu quốc, n•ớc thù địch, triều đình thù địch, đây chỉ nhà Tây sơn. (c) U minh: cõi âm ty, chuyển dịch Diêm la. (d) Tức Triệu Thôi và Hồ Yến, hai kẻ bầy tôi có công lớn trong việc tôn thờ công tử Trùng Nhĩ sau 19 năm l•u vong trở về lên ngôi vua (Tấ Văn Công) đã chú ở trên Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 44 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  45. Tro bụi thân tàn mặc Diêm-la. Ngàn thu uất hận không xiết kể, Ngẫm thay tài kém Triệu, Hồ xa. Đề xong bài thơ này ông ném bút thở hơi cuối cùng. H•ởng thọ 53 tuổi(1). Vua Thanh đặc ân ban cho quan cách khâm liệm cực trọng hậu. Các cựu thân tòng vong cùng với các bậc thần sĩ trí thức ng•ời Thanh đến đự lễ tang đọc nhiều thơ văn phúng, viếng, lời lẽ bi hùng thống thiết. Về sau trải nhiều binh lửa, những thơ văn ấy đều thất lạc cả. Ông là ng•ời nhiều m•u l•ợc, hào phóng, tài hoa, giỏi thơ văn. Lúc còn ở trong n•ớc, mỗi khi gặp nơi danh lam thắng cảnh, hoặc khi sau bữa r•ợu đứng tr•ớc bồn hoa, khi nhàn c• thong thả và cả những lúc sắp b•ớc vào trận chiến, ông th•ờng hay làm thơ, góp thành tập "Biền trụ th• hàn thi tập" (tập thơ sáng tác trong những khi rỗi rãi việc chiến trận). Những đề vịnh bốn mùa cho khuây lòng. Nh•ng cũng đều không truyền lại. Ng•ời ta th•ờng gọi ông là "Phong l•u nho t•ớng" ( t•ớng nhà nho phong l•u). Ông tòng vong 14 năm, có chí khôi phục mà không thành tựu sự nghiệp gì, ng•ời đ•ơng thời đều lấy làm tiếc cho ông. Năm Quý Hợi (1803) con ông tên là Vệ Va Tuần, r•ớc linh cữu ông theo hài cốt vua Lê Chiêu Thống về mai táng ở trong n•ớc. Khoảng niên hiệu Gia-long đ•ợc vua bản triều ban cấp nghi thức lễ vật tử tuất. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) vua có lời dụ châu phê, trong đó có một đoạn nói rằng " thời Lê mạt có những kẻ bề tôi tuẫn tiết hoặc đem gia quyến tòng vong, nh• Đinh Nhã Hành đem mẹ sang Bắc quốc mà vẫn giữ khí tiết khẳng khái, thấy thể hiện trong bài thơ tuyệt mệnh. Nay giao cho các tỉnh thần sức cho dân khai báo cho minh bạch về hành trang lý lịch (1) Bấy giờ là năm Quý hợi(1803) vậy Đinh Nhã Hành sinh năm Tân Mùi(1751) Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 45 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  46. của những ng•ời ấy để bộ lễ tập hợp vào tờ trình nộp lên để trẫm xét ban đặc ân tỏ ý khuyến khích". Năm thứ 13 (1860), vâng mệnh đ•ợc trùng tu xây cao thêm lăng mộ của ông để an ủi vong hồn ng•ời quá cố. Ng•ời sau có thơ tụng rằng: Phiên âm: Soát soát tr•ơng chuỳ chỉ mạc thân, Bách niên đi hận thất cơ Tần. Sơn hà ấm lạc •u thiên lệ, Phù phát thâm bì khứ quốc thân. Cổ xã vị vong năng phụ lão. Nam quan vô hại tụ quân thần. Anh hùng sinh tử tr•ởng oanh liệt. Tuyệt bút thi l•u khắp quỷ thần. Tạm dịch: Chan chát chuỳ khoa chửa thoả lòng Trăm năm để hậu thật hoài công Sơn hà u ám trời rơi lệ, Khứ quốc thân đau rợn tóc lông, Nhớ n•ớc ch•a quên bô lão cũ, Làm quan không kịp phận tòng vong. Anh hùng sống thảo đời oanh liệt, Tuyệt mệnh đề thơ quỷ não lòng. Phụ lục: Sách Hải D•ơng nhân vật chí chép rằng: Đinh Nhã Hành là kẻ bề tôi tiết nghĩa, ng•ời làng Hàm Giang, huyện Cẩm giàng, tên là Văn Vạn, cháu 6 đời các dại v•ơng lộc quận công Đinh Văn Tả. Cha là Đinh Văn Phục làm quan đến hàm Thái phó , t•ớng Phác trung công, sau khi mất đ•ợc tặng đại t• không, sinh hạ đ•ợc Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 46 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  47. 8 con trai mà ông (Đinh Nhã Hành) là con tr•ởng, làm quan đến t•ớc công, những ng•ời khác cũng đều đ•ợc phong t•ớc hầu, t•ớc bá. Chú: Niên hiệu Chiêu Thống, ông cùng với các em là Lệnh Dận, Vũ Đ•ờng, , đều tòng vong theo vua Lê. Vũ Đổng, Vũ Y cầm quân chống cự Tây sơn, chết vì việc nghĩa. Vũ Vực, Vũ Trữ đổi họ tên lánh trốn. Năm Đinh Mùi (1787) vua Chiêu Thống sai Kỳ Đạo Bình khấu t•ớng quân cai quản 10 triệu quân binh đến dẹp giặc ở lộ Sơn-nam, ông bèn đóng quân ở mạn Hải Triều, Trở Giang thuộc huyện Ngự Thiên, đắp đồn luỹ để cố thủ, t•ớng giặc đóng quân ở Hải Thiên để chống cự. Ông v•ợt sông đến đánh, giao •ớc bí mật với nghĩa quân ở hai xã Hải Thiện và Thiện Ph•ớc nổi dậy đánh ráp phía sau l•ng địch. Quân giặc thua chạy, ông bèn tiến quân đến đóng ở Hải Yên. Năm Mậu Thân (1788) vua Lê Chiêu Thống dừng chân ở sông Vị Hoàng, ông đ•a quân đến yết kiến(1). Sau đó vua sai ông trở về cùng với bọn Trấn Đĩnh t•ơng ứng để m•u đồ thu phục miền đất Hải D•ơng. Đến khi thu phục Kinh thành Thăng Long, ông vâng mệnh giữ chức trấn thủ Sơn Nam. Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) vua Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh, ông cùng các em là bọn Lệnh, Dận đ•a bộ thuộc hơn m•ời mấy ng•ời theo đ•ờng thuỷ qua cửa khẩu Long châu, lén lánh vào nội địa (Trung Quốc) để theo l•u vong với vua Lê. Phúc An Khang bảo ông phải cạo đầu thì vua tôi mới gặp nhau và cho viện binh sang giúp lần nữa. Ông nóng lòng muốn đ•ợc gặp vua để m•u đồ việc khôi phục bèn nghe theo. Phúc An Khang tâu với vua Thanh xin cho ông tạm tại thủ bị đ•ờng Toàn Châu, thuộc tỉnh Quảng Tây. sau đ•ợc lên Vân Kinh. Vua Thanh phong cho chiêu Thống t•ớc Tam phẩm, cho ông giữ chức quyền nh• cũ. Từ đó vua tôi mới biết là bị lừa dối, lấy làm hối tiếc không thôi. Sau đó, ng•ời Thanh cho đ•a các bề tôi tòng vong mỗi ng•ời đó ở một (1) Nguyên chú: Sử ký nói rằng ông yết kiến vua ở "Thuỷ đ•ờng" có lẽ không đúng sự thực. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 47 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  48. nơi, riêng ông đ•ợc ở lại theo hầu Chiêu Thống. Ông mất ở bên nhà Thanh. Năm Gia Long thứ 3 (1805) đ•a di hài về táng ở trong n•ớc, đ•ợc ban cấp nghi lễ tử tuất. Hai con trai là Đinh Công Vệ và Đinh Khắc Tuần đời Lê mạt đã đ•ợc thụ phong chức Triều liệt đại phu, theo cha sang Yên kinh phò giá vua Lê. Đến khi trở về đ•ợc vua Gia Long bản triều ban sắc phong quan hàm chức t•ớc nh• cũ (Triều liệt đại phu), lại đ•ợc gia ân ban cho thóc tiền để làm bổng lộc nuôi sống . Về sau con cháu đông đúc. Sách Sử ký chép rằng: Năm Mậu Thân (1788) niên hiệu Chiêu Thống thứ hai vua đi về phía Đông đồn (huyện) Thuỷ đ•ờng, bị quân giặc đánh gấp, thua bại tan rã. Đinh Nhã Hành đ•a quân đến hội thanh thế quan quân lại lớn mạnh. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 48 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  49. Đại v•ơng đô đốc Phó đô t•ớng Mỹ Thái Hầu Đinh Mỹ Hầu tên huý là Mỹ, con của đại v•ơng Lộc quận công. Từ thuở nhỏ ông đã tỏ ra là ng•ời quả cảm nhanh nhẹn, sử dụng song kiếm giỏi không ai địch nổi. Năm 15 tuổi từng theo phụ thân đi đánh dẹp, ng•ời ta th•ờng gọi là "Tiểu bá hầu". Đến tuổi thanh niên, h•ởng tập ấm, đ•ợc thụ chức điền binh , vẫn làm bộ t•ớng d•ới quyền của thân phụ. Ông th•ờng theo thân phụ vào phía cao trấn thủ Châu Bố Chánh, lên phía Bắc đánh dẹp ở miền Cao Bằng, lên phía Tây chinh thảo Sơn Nam(1) (1-21), ra phía Đông tiễu trừ giặc biển, đến đâu đều dẹp yên đến đấy. T•ơng truyền ông th•ờng một mình một ngựa xông vào giữa trận quân giặc cho dù bên giặc g•ơm giáo nh• rừng, ông cũng đều l•ớt qua dễ dàng, đến tận nơi chém t•ớng giặc rồi treo thủ cấp bên l•ng phóng ngựa trở về. Hành động của ông dũng tiệp nh• thế thì đủ biết uy phong của ông thế nào. Quân giặc nghe tin ông, xiết đỗi kinh sợ,, gọi ông là "Toàn phong t•ớng quân" (T•ớng quân cơn lốc) hoặc gọi là "Phi t•ớng quân" (T•ớng quân bay). Trong quân đội thời bấy giờ, ông là viên t•ớng rất nổi tiếng. Không may ông mất sớm. Ông làm quan đến chức Văn kỵ uỷ đô đốc đồng tri, t•ớc hầu. Sau khi mất đ•ợc tặng chức phó đô t•ớng, gia phong t•ớc hiệu: "Uy quyền c•ơng đoán Kỹ Thái, phấn dũng anh nghi điệu uy, trợ thắng hộ thắng, an dân thông minh chính trực, phu cảm ứng linh, chí đức chiêu nghĩa,ôn cung hoà hậu, thách đức thần thông, anh thanh vĩ liệt đại v•ơng." Về sau con ông là Triều Vinh Hầu, đ•ợc phong chức chỉ huy Đồng Tri, cháu là Oản Trung hầu, giữ chức Thiêm sự, đều kế nghiệp giữ chức điển binh, có tiếng là các vị t•ớng kiêu hùng, anh dũng. Con cháu các đời sau đông đúc. (1) Nói đến các cuộc nổi dậy của dân tộc thiểu số. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 49 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  50. Tử nghĩa Thiêm sự Ph•ơng Dực Hầu và Hậu Đức hầu. Hai ông là con thứ hai và con thứ ba của đại v•ơng Lộc quận công, em cùng mẹ với Mỹ Thái Hầu Đinh Mỹ. Đầu niên hiệu Phúc Thái (1643- 1649), đời vua Lê Chiêu Thống, ông h•ởng tập ấm, đ•ợc thụ chức điển binh, về sau hai ông theo phụ thân đi cầm quân đi dẹp loạn Phù hoa ở ph•ờng Đình Ngang(1) hai ông ra sức chiến đấu cùng bị tử trận(2) đ•ợc ban tặng nghi thức lễ vật tử tuất rất trọng hậu. Cả hai ông đều làm quan đến chức Vân kỵ uý đô chỉ huy Thiên sự, t•ớc hầu. Sau khi mất đ•ợc truy phong làm chức thần . Ph•ợng Dực Hầu không có con thừa tự. Hậu Đức Hầu có cháu là Nho Tống, lúc đầu thụ chức Điểm binh sau tiến về đ•ờng nho học, đ•ợc đổi giữ chức Thừa chinh sứ Tuyên Quang, t•ớc Ôn Ngọc hầu. Cháu tằng tôn là Nho Thạc sinh hạ đ•ợc hai con gái, thi đậu h•ơng cống, đ•ợc thụ chức Tả mạc ở trấn Thái Nguyên. Nho Nguyên và Nho Thuật đều thi đậu tam tr•ờng (tú tài) Nguyên đ•ợc giữ chức tri phủ Tr•ờng Khánh, Thuật về sau đổi sang võ ban, thụ chức quản binh ở Vũ Viện. Cháu huyền tôn là Huy Trân, thi đậu h•ơng cống (tức cử nhân), khoa Quý Dậu niên hiệu Cảnh H•ng (1753), làm quan đến chức Tham Tán nh•ng vụ xứ Kinh Bắc, năm Chiêu Thống kỉ dậu (1789) theo l•u vong với vua Chiêu Thống nh•ng không kịp, về ở ẩn, mở tr•ờng dạy học. Nhà Tây Sơn mấy lần triệu mời nh•ng ông không chịu ra làm quan. Nay con cháu còn đông đúc. Đến năm Mậu Thân(3) niên hiệu Gia Long thứ hai (1803) đ•ợc vua bản triều phục dụng, sau vì già yếu xin về mất ở nhà. (1) Nguyên văn Hoàng Đình, tức là phuơng Đình ngang, nay gần cửa Nam Hà nội. (2) Về việc hai ông này theo cha đi đánh dẹp rồi bị tử trận xem thêm ở truyện lộc quận công Đinh (3) Năm Gia long thứ 2(1803) là năm Quý Hợi chứ khong phải Mậu thân. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 50 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  51. Tĩnh nạn công thần, Ch•ởng phủ th•ợng t•ớng Thái Bảo Cẩn quận công Đinh Giai. Ông tên huý là Giai, con thứ ba của đại v•ơng Hiển quận công. Ông bẩm sinh dũng lực hơn ng•ời, giỏi dùng đao thuẫn, ng•ời đ•ơng thời không ai địch nổi. Ông thi đậu khoa Bác cử, đ•ợc sung chức Diện tiền đô lực sĩ. Bấy giờ chúa toàn v•ơng Trịnh Giang có một viên t•ớng thân cận (ng•ời Sơn Tây, biệt hiệu là Ham Xanh) võ nghệ rất cao c•ờng, tính tình cố chấp hung hãn, th•ờng coi khinh các quan trong triều, cho thiên hạ không ai bằng mình, công nhiên giữa đ•ờng cái giết ng•ời nh• phạt cỏ. Một hôm gặp hắn trên đ•ờng ông cứ đi ngang nhiên, không có gì nh•ờng tránh. Kẻ ấy tức giận nói:" Mi không biết tao là ai hay sao?". Ông đáp:"Biết". Tên ấy lại nói:" Dám đọ sức với ta không?". Ông đáp:" Dám". tên ấy phất tay áo bỏ đi. Ngày hôm sau Trịnh v•ơng tâu với vua Dụ Tông, mời vua lên xa giá đến võ nghệ tr•ờng xem thi đấu. Trong ngoài lầu duyệt võ, các ban nghệ sĩ đứng túc trực răm rắp. Viên t•ớng kia vẻ mặt đ•ơng đ•ơng tự đắc cắp cung kiếm b•ớc lên chỉ mặt ông xin đ•ợc tỉ thí. Trịnh v•ơng gật đầu •ng thuận. Ông đ•ờng hoàng b•ớc ra th•a rằng:" Không dám trái mệnh chỉ e xảy chuyện th•ơng vong không biết tính sao?" Trịnh V•ơng đáp: "Các ng•ơi cứ tận sức trình diện tài năng, lỡ xảy ra th•ơng vong cũng không bị tội". Ông đ•ợc lệnh bèn cùng với kẻ kia quyết đấu. Từ giờ Dần đến giờ Tị(1), cả hai ng•ời đều đã thi thố hết các môn võ nghệ. Kẻ kia thấy không đánh gục đ•ợc ông thì xấu mặt, bèn xin đổi sang đấu gậy (chuỳ)nh• phép phúc thí ở kì thi tuyển đạo sĩ (2) ông th•a rằng: " Hà tất (1) Tức là ngót cả buổi sáng(cho đến 11 giờ) (2) Tức là tiến sĩ võ. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 51 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  52. phải vay m•ợn sức gậy làm chi, xin cứ đấu thủ quyền là đủ". Trịnh V•ơng bằng lòng. Kẻ kia quyết ý giết ông, ráng hết sức đấu ba thủ quyền, ông cứ bình tĩnh đứng thế tấn toạ mặc cho kẻ kia đấu tới. Tiếp đó đến l•ợt kẻ kia xuống tấn, ông bèn v•ơn cánh tay dài nh• tay v•ợn, chỉ với hai đấm kẻ địch đã bị th•ơng vỡ mặt máu me đầm đìa. Ông vốn giỏi môn thủ quyền cho nên mới nhanh tay đ•ợc nh• thế. Bấy giờ quân lính và dân chúng đứng xem xung quanh chật ních nh• nêm ai nấy đều lấy làm hả hê khen ngợi, cho là sự nghìn năm hiếm có. Vua Lê Dụ tông nói:" Ng•ơi quả đúng là bậc kỳ tài". Trịnh v•ơng trong bụng lấy làm hối nh•ng trót đã cho phép nên cũng lấy gì mà bắt tội đ•ợc về sau cũng lại phải thăng chức trọng dụng ông. Từ đó ông nổi tiếng trong triều ngoài quận. Những khi nghe tiếng ông cầm quân đi chinh thảo, quân giặc đều sợ hãi chạy trốn. Về sau ông đ•ợc thăng chức Thị trung đô thống chế. Khoảng niên hiệu Bảo Thái (1720-1729) tể thần là Nguyễn Công Hãng về với nhiều chủ tr•ơng cải đổi, khuyên Toàn v•ơng Trịnh Giang lập phủ chúa ở Cổ Bi , dời ra đấy để dần dà c•ớp ngôi nhà Lê. Một lần giữa buổi chầu, Hãng tấu nghị Trịnh v•ơng mặc hoàng y (áo vàng) (1) để tiếp kiến các đại thần đến tham yết. Trịnh Giang đem hỏi ý triều thần. Triều thần đều sợ uy của Hãng, không ai dám có ý khác. Ông nghiễm nhiên b•ớc ra khỏi hàng tâu rằng:" Thần là kẻ vũ biền không am t•ờng nghĩa lý sâu xa, chỉ nghĩ rằng nếu làm nh• thế thì không biết sẽ bỏ hoàng gia đi đâu?" - Nguyễn Công Hãng cứ biện luận lắt léo mãi, ông xẵng giọng nói rằng: " Không cần phải nhiều lời. T•ớng công là bậc văn thần chấp chính mà không biết phân biệt thứ bậc áo mũ d•ới trên, đúng là kẻ tội thần của nền danh giáo". Hãng tắc lời không cãi lại đ•ợc câu nào. Ông lại quỳ tr•ớc mặt Trịnh V•ơng mà tâu rằng: (1) Hoàng y(cũng nh• Hoàng bào) là y phục của vua. Nguyễn Công Hãng muốn chúa Trịnh mặc áo vàng tức là lễ tiễn vua Lê. Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 52 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  53. -" Thần từng nghe x•a kia tiên v•ơng tôn phù hoàng gia công lao nh• trời biển, nay chúa th•ợng lẽ nào lại theo lời nói xằng bậy của Công Hãng để công phù dực hai trăm năm bỗng d•ng rơi rụng hết sạch cả hay sao? Xin chúa th•ợng hãy suy nghĩ lại. tội của thần vạn cam chịu chết, xin cứ giao cho hình quan xử tội chết để làm răn cho những kẻ bề tôi ngông cuồng". Trịnh v•ơng lặng im không đáp. Bấy giờ Phó đô ngự sử là Nguyễn Trác Luân(1) cho lời nói của ông là phải, kiếm lời can ngăn. Tấu nghị của Nguyễn Công Hãng do vậy bị xếp lại không đem thi hành. Chẳng bao lâu, Công Hãng có tội bị xử tử, còn Toàn v•ơng Trịnh Giang thì già yếu không mấy quan tâm đến chính sự. Nội thị là bọn Quận Bào (tức Hoàng Công Phụ), quận Thực (không rõ tên họ) lộng quyền làm oai làm phúc, giặc dã nh• ong nổi lên khắp nơi. Riêng ở trấn của ông mọi sự đều đ•ợc bình yên nh• ý. Khoảng niên hiệu Vĩnh hựu (1735-1740) đời vua Lê ý Tông, đầu đảng giặc Hải D•ơng là Nguyễn Cừ (ng•ời làng Ngọ Đồng, huyện Chí Linh) xâm phạm miền núi Di Sơn, dân trại dân đổng nhao nhao h•ởng ứng, kinh thành một phen đại chấn động. Nhà vua sai Nguyễn Giáp đ•a quân đi đánh dẹp. Nguyễn Giáp ch•a kịp tới nơi thì thế giặc đã bùng to. Ông hăng hái nói:" Ta là kẻ bề tôi trấn giữ nơi c•ơng giới, há lại ngồi yên h•ởng vui thú mà trút việc vui buồn cho ng•ời khác hay sao?" Rồi đó ông tự cầm quân đi đánh, một g•ơm một thuẫn mở đ•ờng đi tiên phong, t•ớng sĩ theo sau, cùng giao chiến một trận lớn với quân giặc ở huyện Phù Cừ. Ông hăng hái xông lên tr•ớc, đến đâu bạt l•ợc hết đến đấy, quân giặc hoảng loạn tan tác nh• bèo trôi sông. Mỗi lần ông vung g•ơm, ba bốn tên (1) Nguyên chú: Hoàng giáp, ng•ời huyện Bình lao Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 53 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  54. giặc rụng đầu, hoặc bị th•ơng cũng đến 5, 6 tên. Bộ hạ của Nguyễn Cừ chết trận không biết bao nhiêu mà kể(1). Nguyễn Cừ lúc mới đem quân tới đánh phá, bộ hạ cả trên vạn ng•ời, sau trận này chỉ còn đ•ợc vài ngàn tên. Bè đảng của Cừ khuyên Cừ cho rút lui về đóng ở Ân Thi để chờ quân cứu viện. Cừ thấy ông lâm trận xông xáo lạ th•ờng, liền gạt đi nói rằng:" Không làm nh• thế đ•ợc, viên t•ớng kia đánh quân ta nh• hổ đuổi đàn dê, ta không thể nấn ná ở lâu đ•ợc". Bèn cho quân rút chạy. Đến lúc bấy giờ Nguyễn Giáp mới đem quân tới nơi. Giáp thừa thắng đuổi đánh Nguyễn Cừ chỉ còn một thân một mình chạy sang Đông triều. Vua khen th•ởng công lao của ông, cho thăng lên hàm Thiếu bảo, t•ớc hầu. Năm Canh Thân (1740) ông đ•ợc đổi về kinh giữ chức điện tiền tổng quản cấm binh chủ quân(2). Tr•ớc đó chúa Toàn v•ơng Trịnh Giang bị sét đánh ở trong cung, sau một thời gian chữa chạy thì khỏi. Bọn Quận Thực, Quận Báo bảo chúa không đ•ợc ra ngoài ánh sáng, phải đào một cái hầm gọi là tiên cung mà ở. Bọn Quản Thực nhân đó trộm nắm quyền hành đ•ợc chừng hơn một năm, sau đó Toàn V•ơng cũng không mấy tin lời của hai kẻ ấy nữa. Vì thế bọn Thực thù gét chúa, gây sự ly tán trong cung ngoài quận. Chỉnh thần (tể t•ớng) là Nguyễn Quý Kính cùng với quan bồi tụng Nguyễn Công Thái bàn m•u đối phó, Công Thái nói:" Tuy là loạn quan nh•ng bọn chúng là những kẻ kiêu hùng, ngoài Đinh Giai thì không ai địch nổi". Hồi đó hai ng•ời bèn tâu lên vua xin đổi ông về kinh cho thăng chức nói trên. Sau khi ông về Kinh, Nguyễn Quý Bình và Nguyễn Công Thái đem mật m•u bàn bạc với ông. Ông nói: " Tôn miếu bị sỉ nhục, Giai tôi đâu giám từ nan, xin vâng lời t•ớng công sai bảo. Có điều là cốt phải (1) Nguyên văn: Tử giả vô số- ng•ời chép vô ý chép nhầm chữ "số" thành chữ "hiệu", đặt chữ "hiệu" vào đây không có nghĩa gì. Hai chữ "số" và "hiệu" có nét chữ na ná giống nhau nên dễ lẫn. ở đây xin đính chính lại (2) Chức quan võ chỉ huy tất cả các đội quân cấm vệ tức là Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 54 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998
  55. làm sao thuyên chuyển Quận Bảo đi nơi khác, sau đó sẽ tính đến. Nếu không mà để hai tên ấy hợp sức với nhau thì khó thành công". Theo kế ấy, Nguyễn Quý Kinh lập mẹo khích Quận Bảo đem quân đi đánh giặc ở cõi ngoài. Quận Bảo đã ra đi, Quận Thực vẫn điềm nhiên tự đắc cho rằng bọn hoạn thị đều là vây cánh của mình, không hề lo lắng gì. Nhân dịp lễ tạ ân đầu xuân. Quý Kinh hợp các quan ở phủ đ•ờng để làm lễ lạy mừng. Lễ xong, Quý Kinh đ•a mắt ra hiệu cho ông, ông liền sách g•ơm xông vào quát lớn:" Chúa ta ở đâu" Quận Thực th•ờng hay tiếm lễ ngồi vào chiếc ghế dành riêng cho Chúa Trịnh, bấy giờ Thực đang ngồi bỗng nghe tiếng quát nh• sấm vang, giật mình kinh sợ, ngã dúi xuống đất hộc máu mũi, mặt mày tái ngoét chẳng khác gì vừa thoát chết sống lại . Ông vừa trói vừa hỏi, Quận Thực câm nh• hạt thóc không nói đ•ợc câu nào, chỉ giơ tay chỉ trỏ mà thôi. Bọn tay chân của Quận Thực muốn xông vào cứu, ông một tay giữ chặt giây thừng trói ngang l•ng Quận Thực, một tay vung g•ơm múa tít, bè đảng Quận Thực không tên nào dám lại gần, xô nhau chạy lùi ra cửa, nh•ng lúc ấy cửa đã khoá chặt. Ông hô quân đuổi giết. Bọn hoạn thị tay chân Quận Thực phá cửa liều chết xông vào lôi Quận Thực ra sân ngoài. Quý Kinh ra lệnh cho quân hầu trói bắt mấy tên cho vào vạc lửa, đoạn hô quân sĩ xông vào hộ chiến với ông. Bọn hoạn quan phe đảng của Quận Thực đều bị giết hết, cung phủ đ•ợc thanh trừng. Ông cùng với Quý Kinh dẫn quân vào nơi gọi là Tiên cung mà Quận Thực vừa chỉ tức là cái hầm đào ngay ở căn phòng sát sau ghế của Chúa mà Thực vẫn th•ờng ngồi. Hầm sâu chừng hơn một tr•ợng(1), bốn phía lát kín mít, tối b•ng nh• d•ới âm ti. Lúc bấy giờ bọn hoạn thị xô nhau chạy trốn cả, không còn tên nào ở lại canh giữ. Ông bẻ khoá mở cửa hầm, thấy Chúa Trịnh đang nằm trên gi•ờng con, bên cạnh có ngọn đèn leo lét. Ông bèn ra lệnh cho vệ sĩ vực Trịnh v•ơng lên khỏi hầm đ•a lên ngoài đ•ờng. Bấy giờ Trịnh v•ơng đã mê lẫn, không còn có tính ng•ời nữa. Nguyên do (1) Một tr•ợng là 10 th•ớc (= 3m33) Hàm giang danh t•ớng liệt truyện 55 Ngô Đức Thọ dịch- Th• viện tỉnh Hải D•ơng 8/1998