Giới thiệu giá trị kiến trúc Đình Đồng Lạc - 38 Hành Đào

pdf 7 trang phuongnguyen 3800
Bạn đang xem tài liệu "Giới thiệu giá trị kiến trúc Đình Đồng Lạc - 38 Hành Đào", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgioi_thieu_gia_tri_kien_truc_dinh_dong_lac_38_hanh_dao.pdf

Nội dung text: Giới thiệu giá trị kiến trúc Đình Đồng Lạc - 38 Hành Đào

  1. GIỚI THIỆU GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC ĐÌNH ĐỒNG LẠC - 38 HÀNH ĐÀO Đình Đồng Lạc hiện nằm trong hệ thống kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng trong khu Phố cổ Hà Nội vì vậy trước khi đi vào khảo tả cụ thể di tích, chúng ta tìm hiểu hệ thống kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng trong khu Phố cổ Hà Nội. 1. Vài nét khái quát về hệ thống kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng trong khu Phố cổ Hà Nội: Kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng trong khu Phố cổ rất phong phú; đó là các: đình, đền, chùa theo kiểu kiến trúc truyền thống của người Việt (hiện còn 67 công trình). Ngoài ra còn có nhà thờ đạo Hồi (quen gọi là chùa Tây Đen). Nhà thờ Tin lành (cạnh chợ Hàng Da) các đạo quán người Hoa, chùa Tầu Các thể loại công trình kiến trúc này đều có những đặc trưng riêng của mình.
  2. Các di tích thuộc lọại hình này đa số có kết cấu gỗ, mặt bằng kiến trúc theo kiểu chữ công, chữ tam, chữ quốc, Bộ khung nhà do các vì gỗ kết cấu thường là theo kiểu chồng rường giá chiêng, vì kèo, vì vỏ cua. Trên một số kiến trúc gỗ được trạm khắc và gắn các mảng trang trí đẹp. Một số di tích đình tổ nghề thì có mặt bằng và kết cấu xây dựng đơn giản hơn. Mặt bằng tại các di tích này thường ảnh hưởng của hình thức nhà ống hoặc tương tự. + Những di tích thờ tổ nghề: Ngoài hai di tích là đình Kim Ngân (42 Hàng Bạc - xem hồ sơ) và đình Trương Thị (50 Hàng Bạc) có bố cục không gian và kết cấu kiến trúc truyền thống, thì các di tích thờ tổ nghề như đình Hoa Lộc, đình Lò Rèn, đình Tú Thị, đình Hà Vĩ đều có bố cục mặt bằng đơn giản, kết cấu kiến trúc mang dáng dấp như một kiến trúc dân dụng, thậm trí được xây hai tầng, với ý thức tôn vinh tổ nghề, đồng thời cũng tận dụng diện tích để mở mang sản xuất hoặc trao đổi hàng hoá như đình Hoa Lộc, đình Lò Rèn, đình Tú Thị, đình Kim Ngân, đình Hà Vĩ. + Chùa: Chùa chính có mặt bằng hình chữ “công” với bộ khung nhà bằng gỗ, có các vì được kết cầu kiểu “chồng rường, giá chiêng”, “vì kèo”, vì ván mê (xem phần V hồ sơ chùa Cầu Đông); Mặt bằng hình chữ “đinh” với bộ khung nhà làm bằng vật liệu hiện đại, kết cấu giả các thức truyền thống (xem phần V hồ sơ chùa Thái Cam.
  3. Các kiến trúc phụ bao gồm nhà mẫu, nhà tổ (chùa Thái Cam), hoặc thêm cả hành lang (chùa Cầu Đông). Có chùa chỉ có kiến trúc chùa chính (chùa Vĩnh Trù). Chùa nào cũng có tam quan. Các trang trí trên kiến trúc không nhiều, tập trung ở chùa Cầu Đông và nhà mẫu chùa Thái Cam. Đề tài trang trí là các linh vật, hoa, lá, quả. Nghệ thuật trang trí mang phong cách thời Nguyễn. + Đình, đền: Phần lớn không gian trải theo chiều sâu, gồm ba lớp nhà. Những di tích có phương đình: Đền Bạch Mã, đình Thanh Hà, đền Hoả Thần. Bộ khung nhà đều làm bằng gỗ, với các bộ vì được kết cấu theo kiểu “chồng rường con nhị”, “chồng rường hai hàng chân” (đền Bạch Mã, đình Thanh Hà), kiểu “vì kèo” (đình Đức Môn). Trong một số kiến trúc có vòm “vỏ cua” nối các nếp nhà (đền Bạch Mã, đình Hương Tượng, đình Đức Môn). Trang trí trên kiến trúc rất phong phú, đặc biệt tại nhà phương đình. Đề tài trang trí là các linh vật, văn thực vật, văn triện và tượng nghê trên kiến trúc phương đình. Những mảng trang trí này mang tính thẩm mỹ cao, đều thuộc nghệ thuật thời Nguyễn. + Hội quán: Hai hội quán có hai phong cách riêng biệt. Hội quán Phúc Kiến (40 - Lãn Ông) được xây dựng kết hợp cả hai phong cách kiến trúc - nghệ thuật Trung Hoa - Việt Nam. Bộ khung nhà cũng được
  4. làm bằng gỗ với các thức vì “chồng rường”, ”, “chồng rường giá chiêng hai hàng chân”, đặc biệt là hệ “củng tam phương” được sử dụng tại nhà phương đình, hệ thống dép dỡ hoành vươn dài tại tam quan và nhà phương đình. Đây là một di tích kiến trúc đẹp, độc đáo (xem hồ sơ phần V hồ sơ hội quán Phúc Kiến). Trái lại, hội quán Quảng Đông (22 Hàng Buồm) được xây dựng với kiểu thức, chất liệu khác. Mặt bằng xây dựng lớn bao gồm nhiều nếp nhà tạo thành. Sảnh chính được làm như kiểu hội trường mang kiểu dáng phương tây. Cung thờ chính có bộ khung gỗ, nhà được xây cao, vì “thượng giá chiêng hạ kẻ”, các hoạ tiết trang trí trên kiến trúc mang phong cách nghệ thuật Quảng Đông (Trung Quốc). Hai bên kiến trúc chính là các kiến trúc phụ cũng có quy mô đồ sộ. + Quán: Được xây dựng trên mặt bằng lớn, kiến trúc kết hợp cả nguyên liệu, kết cấu hiện đại và nguyên liệu, kết cấu truyền thống. Kiến trúc, trang trí ở đây được tập trung ở nghi môn, gác chuông (xem phần V hồ sơ di tích quán Huyền Thiên). 2. Khảo tả di tích đình Đồng Lạc: Đình Đồng Lạc đã bị phá huỷ trong thời gian chiến tranh, bên cạnh đó ngôi đình cũng đã được tu sửa nhiều lần vì vậy kiến trúc của ngôi đình không còn nguyên vẹn như thời kỳ đầu xây dựng mà chỉ được nhìn thấy qua những dấu tích còn lại hiện nay. Xin miêu tả kiến trúc hiện nay của đình Đồng Lạc.
  5. Nhìn tổng thể đình Đồng Lạc (đình chợ bán yếm lụa), số 38 Hàng Đào là một trong những ngôi đình đặc trưng trong hệ thống kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của khu Phố cổ Hà Nội. Thửa đất có dạng hình ống “đuôi chuột” vì mặt bằng dạng “thót hậu”, mặt tiền có chiều rộng 6m và phần trong cùng thót lại còn có 1, 1m. Diện tích khu đất là 188, 9 m2. Chiều sâu là 51,65m. Mặt bằng bố cục theo nguyên tắc nhà ống truyền thống phố cổ Hà nội: Như vậy, không gian kiến trúc của ngôi nhà được phân chia bởi từng lớp nhà, giữa các lớp nhà có sân trong. Các sân trong có ý nghĩa để cải tạo sự tiện nghi cho ngôi nhà về thông gió là lấy sáng. Đây là một trong những ưu điểm lớn trong việc bố cục không gian nhà truyền thống Việt nam nói chung và của khu Phố cổ Hà Nội nói riêng trong việc thích nghi và phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương. *Cổng ngoài của ngôi đình được xây bằng gạch cao 6, 1 mét, rộng 6 mét. Mặt trước và mặt sau cổng đắp nổi chữ Hán tên của ngôi đình (Đồng Lạc đình). Thân trụ hai bên đắp gờ nổi, đỉnh trụ xây trang trí hình bông sen. Mái cổng được gia cố và sửa chữa trên cơ sở hiện trạng. - Lớp nhà 1 và 3: qui mô xây dựng 2 tầng, là phần nhà được xây dựng cải tạo mới, hình thức kiến trúc mặt đứng hài hoà với không gian cổ về chiều cao, chi tiết trang trí kiến trúc cũng như về mầu sắc và chất liệu của vật liệu xây dựng. Kết cấu của
  6. 2 lớp nhà này sử dụng là kết cấu bê tông cốt thép, sàn lát gỗ. Kết cấu mái vẫn được sử dụng kết cấu vì kèo gỗ, mái lợp ngói ta. Cửa đi và cửa sổ gỗ được thiết kế theo hình thức kiến trúc phỏng cổ. Chiều cao của 2 nhà mới xây thấp hơn so với nhà hiện có (phần đình), vừa để tạo hình ảnh “mái ngói lô xô” cũng như thể hiện tính tôn linh với ngôi đình hiện có. - Lớp nhà 2: đây là phần thờ chính của ngôi đình được cải tạo nguyên trạng trên cơ sở ngôi đình đã được cải tạo lần cuối cùng năm 1941. Diện tích là 27,6 m2; qui mô 2 tầng. Tầng 1 trước khi cải tạo là nơi ở của gia đình sinh sống tại đây. Hiện nay được sử dụng là phòng làm việc của Ban quản lý Phố cổ Hà Nội. Tầng 2 của lớp nhà này là gian thờ còn lại của ngôi đình. Kết cấu của ngôi nhà này là kết cấu gạch chịu lực, các trụ cột tầng 1 được trang trí hình thức ảnh hưởng kiểu kiến trúc thuộc địa Pháp. Tầng 2 là cột, dầm và sàn gỗ với hệ thống kết cấu mái là vì kèo gỗ Trên thân trụ tường gạch ở tầng 1 và tầng 2 đắp nổi bằng vôi vữa câu đối chữ Hán. Đặc biệt trên dầm cột tầng 2 có trang trí 2 đầu rồng, đây là dấu tích còn sót lại của kiến trúc xưa của ngôi đình. Đốc mái đình khắc hàng chữ Hán năm trùng tu ngôi đình “Ngày mùng 10 tháng 7 năm Tân Tỵ niên hiệu Bảo Đại 15 (1941)” Từ lớp nhà 1 đi theo hành lang nhìn sang bên phải là tấm bia đá khắc chữ Hán có niên đại hiệu Tự Đức Bính Thìn (1856) ghi việc đình được xây dựng từ thời Lê (thế
  7. kỷ thứ XVII) được gắn trên tường. Đây là dấu tích còn lại để minh chứng cho sự tồn tại của ngôi đình trong lịch sử phát triển của khu Phố cổ Hà Nội. Không gian của phần thờ chính ngôi đình trên tầng 2 được chia làm 2 không gian nhỏ ngăn cách bởi vách ngăn gỗ 3 cửa với hình thức trang trí cửa được tìm thấy trong ngôi đình cũ, kiểu thượng song hạ bản. Phía trên là ô thoáng trang trí bằng các con tiện gỗ chạy suốt chiều rộng cửa. Gian ngoài được gọi là hiên dùng làm nơi tiếp khách, uống trà có đặt một bộ trường kỷ. Gian trong (phía sau lớp cửa gỗ) là gian thờ chính. Sát tường hậu của gian thờ đặt một hương án gỗ, trên đặt đồ thờ tự gồm bát hương, khay đài, quả nước. Nhìn chung, do nhiều tác động của yếu tố lịch sử, xã hội nên kiến trúc đình Đồng Lạc không còn nhiều, song lại thuộc đặc trưng chung của hệ thống đình thờ trong khu vực Phố cổ Hà Nội. Các di vật và nghệ thuật trạm khắc không nhiều, nhưng đều là sản phẩm đặc trưng của nghệ thuật thời Lê.