Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX

pdf 94 trang phuongnguyen 2190
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_van_hoc_viet_nam_giai_doan_nua_cuoi_the_ky_xix.pdf

Nội dung text: Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX

  1. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX GIÁO TRÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX Người biên soạn: Nguyễn Phong Nam 1
  2. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐỌAN NỬA CUỐI THẾ KỶ XX – ĐẦU THẾ KỶ XX Văn học Việt Nam chặng cuối thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX được coi là giai đọan văn học có tính chất chuyển tiếp, giao thời. Mặc dù chỉ diễn ra trong nửa thế kỷ, khoảng thời gian ngắn ngủi so với một nghìn năm văn học trung đại, nhưng đây là giai đoạn có nhiều sự kiện văn hóa, văn học quan trọng. Văn học giai đọan này có diện mạo, đặc điểm riêng, với nhiều nét khác biệt so với các chặng trước và sau đó. Đặc điểm dễ nhận thấy trước tiên là sự gắn bó chặt chẽ giữa văn học và đời sống xã hội. Từ những biến cố lịch sử, những sự kiện chính trị cho đến không khí thời đại, tâm lý cộng đồng , tất cả đều được lưu giữ trong tác phẩm. Không những thế, chính văn chương cũng tác động một cách tích cực, góp phần tạo nên sự sôi động của đời sống xã hội lúc này. Biến cố quan trọng, có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự vận động của văn học giai đoạn này chính là cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp phát động nhằm vào Việt Nam năm 1858. Nó đánh dấu một bước ngoặt của lịch sử dân tộc, đồng thời cũng kéo theo những xáo trộn, những đổi thay sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực đời sống, kể cả họat động văn học. Thực ra, dã tâm thôn tính Việt Nam của thực dân Pháp vốn đã có từ trước. Ngay từ thế kỷ XVIII, nhà cầm quyền Pháp trong quá trình giao lưu với các vua chúa bản xứ, đã chuẩn bị âm mưu này rất cụ thể. Thậm chí, những toan tính về việc mở rộng thị trường thuộc địa còn xuất hiện sớm hơn nữa, từ khi các nhà truyền đạo Thiên chúa mới đặt chân đến vùng đất này. 2
  3. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Tuy vậy, trong khoảng thời gian dài hàng thế kỷ đó, người Pháp chỉ hiện diện trong vai trò của những sứ thần, khách thương, cha cố nghĩa là chưa có ảnh hưởng gì đáng kể đối với vương quốc vốn đang “bế quan tỏa cảng” này. Đối với chủ nghĩa tư bản, trong quá trình phát triển của nó, thị trường, thuộc địa luôn là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Nhân loại từng chứng kiến những cuộc đại chiến quy mô toàn cầu giữa các cường quốc để tranh chấp thuộc địa. Đến thế kỷ XIX thì cuộc chạy đua của các nước Phương Tây như Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha để có mặt tại vùng viễn đông đã trở nên vô cùng gay cấn, quyết liệt. Trong bối cảnh đó, cuộc xâm lược vũ trang mà người Pháp nhằm vào Việt Nam là điều khó tránh khỏi. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam không thể nổ ra sớm hơn là bởi nhiều nguyên nhân. Về phía nước Pháp, những biến động chính trị, những đổi thay trong nội bộ triều đình cùng những rắc rối trên phương diện đối ngoại với các nước lân bang khiến chính quyền không đủ tự tin để phát động một cuộc viễn chinh cách xa hàng vạn dặm được. Mặt khác, chính cung cách ứng xử của các vua Nguyễn cũng khiến Pháp trở nên chần chừ, phải mất thời gian kiếm cớ, chưa thể ra tay sớm hơn. Các vị vua triều Nguyễn, kể từ Gia Long trở đi đều nhìn thấy rất rõ nguy cơ tiềm ẩn trong quan hệ với Pháp. Ngay tại thời điểm mà mối bang giao còn suôn sẻ thì các vua Nguyễn cũng đã thực hiện chính sách hai mặt: luôn cảnh giác, dè chừng nhưng cũng đồng thời rất biết cách tỏ ra nhún nhường, phải chăng, không để người Pháp phật lòng. Nhìn bề ngoài, Nguyễn Ánh là người gắn bó với Pháp rất khăng khít. Ngay từ khi đang lẩn trốn sự truy đuổi của Nguyễn Huệ, ông đã gửi con trai sang Pháp làm con tin; cho phép các giáo sĩ được tự do truyền đạo. Đổi lại, người Pháp cũng đã dành cho ông hoàng đang lâm cảnh cùng khốn này sự trợ giúp không nhỏ (cả vũ khí lẫn thanh thế). Đến khi lên ngôi, ông còn làm một điều chưa từng có trong lịch sử triều chính nước Việt: bổ nhiệm người Pháp vào hàng ngũ quan chức của mình, cho họ tham gia vào công việc quốc gia (1). Như vậy, xét về bản chất đây đúng là mối ràng buộc giữa "chủ nợ" và "con nợ". Cũng chính vì thế mà có vẻ như ngay từ khi ký kết hiệp ước để cầu viện sự trợ giúp của người Pháp vào năm 1787 nhằm chống lại Quang Trung Nguyễn Huệ, bản thân Nguyễn Ánh cũng đã cảm nhận được tính chất phiêu lưu của nước cờ thế mà mình phải gỡ trong tương lai. Càng về sau, ông càng thấm thía tình 3
  4. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX cảnh "con nợ" (chính trị) của mình và luôn tìm cách để sớm thoát ra khỏi mối ràng buộc với người Pháp. Trước những đòi hỏi ngày càng ngang ngược của Phương Tây, ông đã cố chống đỡ, cố trì hoãn bằng nhiều phương cách. Tất nhiên những nỗ lực đó cũng chỉ làm chậm thời điểm bùng nổ chứ không thể nào tránh được một cuộc chiến đã được kẻ thù mưu tính. Sau khi Gia Long mất, những người kế vị như Minh Mạng, Thiệu Trị, đặc biệt là Tự Đức lại càng lo lắng và hoang mang trước viễn cảnh của giang sơn xã tắc. Nhưng cũng giống như bậc khai sáng triều Nguyễn, họ vẫn tiếp tục một đường lối chính trị sai lầm và bạc nhược. Chỉ có điều hoàn cảnh càng lúc càng khác. Sự nhẫn nhịn của vua tôi triều Nguyễn đã không còn cản được lòng tham của bọn thực dân. Cuộc chiến 1858 nổ ra như một lẽ tất yếu. Ngày 1 tháng 9 năm 1858, thủy quân Pháp và Tây Ban Nha nổ súng tiến công vào bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở màn một cuộc chiến tranh lịch sử, kéo dài ngót trăm năm (1858 - 1954). Đây là cuộc chiến tranh mang tính đại diện cho sự xung đột giữa "Phương thức châu Á" với thế giới tư bản Phương Tây; là một cú "va đập" có tính thời đại, tạo nên những chấn động ghê gớm đối với lịch sử nhân loại nói chung, hai nước Pháp - Việt nói riêng. Vụ gây hấn của Pháp ngay từ đầu đã bị giáng trả quyết liệt. Chiến thuyền và đại bác của đội quân nhà nghề đã không thể nào giành được ưu thế trên chiến trường. Quan quân triều đình cùng những đội dân binh chỉ được trang bị bằng những thứ khí giới lạc hậu thời trung cổ đã khiến kẻ thù phải trả giá đắt. Trên thực tế, người Pháp đã thất bại tại trận đọ sức đầu tiên ở mặt trận Sơn Trà. Thành thử, sau năm tháng sa lầy ở đây, kẻ địch phải bỏ cuộc, đành chuyển hướng tấn công vào phía Nam, nơi mà theo tính toán của họ, do xa xôi cách trở với triều đình, lại ở chỗ đất rộng người thưa, có thể dễ dàng chiếm giữ. Những toan tính xảo quyệt của giặc Pháp xem ra không phải không có cơ sở. Khác với tình hình chiến sự tại mặt trận miền Trung, ở Nam Kì, quân Pháp không quá khó khăn trong việc phá vỡ thế trận phòng thủ của triều đình. Tuy nhiên, có một điều chúng không thể ngờ tới là sự phản kháng mãnh liệt của người dân địa phương. Trong khi các đồn lũy triều đình nhanh chóng bị tan vỡ trước sức tấn công của đội quân xâm lược thì nhân dân lục tỉnh, dưới sự chỉ huy của những thủ lĩnh danh tiếng như Trương Định, Võ 4
  5. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Duy Dương, Nguyễn Thành Ý, Phan Trung, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Trung Trực, Đốc binh Kiều vẫn kiên cường tiếp tục cuộc kháng chiến. Cuộc chiến tranh du kích do những người dân Nam kì tiến hành liên tục trong một thời gian dài đã gây nên bao nỗi kinh hoàng cho đội quân viễn chinh. Quân Pháp lâm vào tình trạng khốn đốn bởi một mặt, cục diện chiến trường diễn biến theo hướng bất lợi, không thể thực hiện được ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh; mặt khác, tại châu Âu, cuộc chiến tranh Pháp - Ý chống lại Áo bùng nổ (4-1859) khiến cho lực lượng quân sự Pháp bị phân tán. Viễn cảnh về một thế trận sa lầy đã hiện rõ trước mắt người Pháp; chủ trương ngừng giao tranh để bước vào thương thuyết được đặt ra. Trong bối cảnh này, nhà cầm quyền Việt Nam đã đưa ra những quyết sách rất lạ lùng. Thay vì củng cố lực lượng, tổ chức dân binh thừa cơ giặc lúng túng mà dấn tới thì vua tôi lại chủ trương hòa nghị với giặc. Đây là lúc triều Nguyễn bộc lộ sự yếu kém toàn diện của mình trong quản lý và điều hành đất nước, trong những quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh quốc gia. Những kinh nghiệm triều chính cổ truyền đã không còn giúp ích gì cho vua tôi lúc này. Họ cũng không còn đủ tỉnh táo để nắm bắt tình hình, không còn chút niềm tin nào vào khả năng của chính mình. Trước những ý kiến trái ngược nhau của quần thần, một ông vua vốn thông minh, nhạy cảm như Tự Đức cũng trở nên rối trí. Trong khi thế giặc đã suy, sĩ dân đang liều chết báo quốc thì người đứng đầu quốc gia lại chủ trương "phải gắng sức, khéo dùng lời cảm hóa kẻ địch để họ kiêng nể mà nghe ta. Rồi lựa các sông núi hiểm trở để cố thủ. Chiêu mộ các nghĩa sĩ cứu vãn được phần nào chăng"(2). Triều đình đã không nhận thấy cái hào khí dân tộc vốn tiềm tàng qua nghìn đời nay vẫn đang trào dâng mãnh liệt trong mỗi con người Việt Nam. Vua tôi chỉ còn biết thủ hòa và trông chờ sự cứu giúp từ bên ngoài; cụ thể là mượn uy vũ của thiên triều Mãn Thanh để chống lại "rợ Tây". Điều trớ trêu là ở chỗ nhà Mãn Thanh - nơi trông cậy cuối cùng của Tự Đức - cũng chỉ là một miếng mồi đang bị phương Tây xâu xé. Trong cơn tuyệt vọng vì không còn chỗ trông cậy từ bên ngoài, triều đình quay ra thỏa hiệp với giặc. Các hiệp ước và hàng ước (vào các năm 1862, 1864, 1867) liên tiếp được kí kết để thừa nhận quyền cai trị của Pháp tại Nam kì. Năm 1873, khi đã chiếm cứ được các vùng đất phương Nam, Pháp bắt đầu đánh rộng ra miền Bắc. Phong trào kháng Pháp của văn thân, quân nghĩa xứ Đàng Ngoài nổ ra rộng khắp. Lại một lần nữa, cuộc kháng chiến chống giặc của nhân dân bị triều đình Huế cản trở. Trong khi quân Pháp lao đao vì 5
  6. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX tổn thất, chính quyền Pari chủ trương rút lực lượng đồn trú, trao trả cho đối phương những vùng đất tạm chiếm vì không thể nào chịu nổi những thiệt hại ở chiến trường mới này thì triều đình Huế lại cũng ra lệnh triệt binh, buộc các lực lượng chống Pháp ở đây phải giải tán(!). Trên thực tế, trước sức ép và uy lực của kẻ thù, triều đình nhà Nguyễn đã phân rã và tê liệt từ rất sớm. Với thái độ lúng túng và thiếu quyết đoán, thậm chí là nhu nhược của người cầm đầu, bộ máy chính quyền đã hoàn toàn bị rối lọan. Trước diễn tiến mau lẹ và phức tạp của thế cuộc, các phe phái với những luận thuyết và kế sách khác nhau xuất hiện ngày càng nhiều: có xu hướng ôn hòa, bất bạo động; có xu hướng quyết liệt, khẳng khái; có cả xu hướng thân Pháp, đầu hàng. Các phe nhóm ra mặt bài xích, chống đối nhau ngày càng gay gắt, không thể dung hòa được nữa. Trong bối cảnh đó, những nỗ lực tuyệt vọng của phe chủ chiến do Tôn Thất Thuyết cầm đầu nhằm giành lại ưu thế tại kinh đô đã không thu được kết quả; cuộc phản công lớn với mục đích đánh úp lực lượng Pháp bất thành. Mượn cớ này, quân Pháp quyết định chấm dứt tình thế giằng co bằng những trận đánh dồn dập vào kinh thành Huế. Không thể cầm cự lâu hơn, vua Hàm Nghi buộc phải rời bỏ kinh thành, phát hịch Cần vương (1885), lấy núi rừng Hà Tĩnh làm căn cứ địa kháng chiến. Phong trào Cần vương do các sĩ phu nhiệt huyết nhóm lên ở Trung kì đã làm sôi động không khí đấu tranh trong mấy năm trời. Cho đến 1888, khi vua Hàm Nghi bị bắt, sau đó bị đày biệt xứ, các chính quyền thân Pháp (những Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại) liên tục được dựng lên thì chút hào khí cần vương cuối cùng cũng tắt hẳn. Thế cuộc càng lúc càng trở nên ảm đạm, thê lương. Đây đáng được coi là thời khắc bi tráng nhất của lịch sử dân tộc. Từ 1900 trở đi, xã hội Việt Nam có những biến đổi quan trọng: thực dân Pháp thiết lập nền thống trị trên toàn cõi, ở tất cả mọi lĩnh vực; triều đình phong kiến chỉ tồn tại trên danh nghĩa; xã hội bước vào giai đoạn chuyển hóa để theo một hình thái khác: phong kiến - tư bản. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta chống thực dân Pháp tiếp tục diễn ra nhưng dưới một hình thức mới. Có thể nói rằng lịch sử Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX là lịch sử của phong trào đấu tranh chống xâm lược, vì độc lập dân tộc - một cuộc kháng chiến lâu dài và khốc liệt. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình vận 6
  7. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX động cũng như đặc điểm, tính chất của văn học nước nhà. Văn học giai đọan này phát triển trong sự gắn bó chặt chẽ với các diễn biến của lịch sử, chịu sự chi phối sâu sắc của đời sống chính trị xã hội. Đây là lúc mà tính thời sự, thế sự trong văn học trở thành một đặc điểm vượt trội. Nó được thể hiện ở nhiều khía cạnh: những nội dung chủ yếu trong tác phẩm; mục tiêu, đối tượng hướng tới của văn học; vị thế của văn học trong sinh họat cộng đồng Đời sống văn học giai đọan này trở nên sôi động khác thường; những biến đổi sâu sắc diễn ra theo nhịp điệu ngày càng nhanh. Vấn đề nóng bỏng nhất, cấp bách nhất lúc này của cả dân tộc chính là "việc nước", là sự tồn vong của giang sơn xã tắc. Đây vốn là chuyện quốc gia đại sự, chuyện của triều đình nhưng vào thời điểm này, nó lại nhanh chóng trở thành vấn đề chủ yếu, thường trực của văn học. Dấu ấn thời cuộc đã in đậm vào văn chương, chi phối sâu sắc đến đặc điểm, tính chất của văn chương. Nó được biểu lộ qua những dự cảm, những thấp thỏm âu lo sự thế, nỗi day dứt về vận nước của các nhà nho tâm huyết, những chuyện gay cấn, gai góc nơi chính trường; xung đột xung quanh chuyện chiến hay hòa, duy tân hay thủ cựu Đây là chuyện của đời sống thực tế mà cũng là chuyện văn chương, chuyện của văn nhân nho sĩ. Và cũng thật tự nhiên, quá trình vận động đã tạo ra những xu hướng, những dòng mạch văn chương rất khác nhau. Lịch sử văn học giai đọan cuối thế kỷ XIX diễn ra hết sức sinh động, đa dạng, phong phú. Xu hướng văn chương yêu nước đáng được kể đến trước tiên bởi giá trị tiêu biểu và quy mô rộng lớn của nó. Hiện tượng văn học này có vai trò quyết định trong việc làm thay đổi diện mạo và tính chất của văn học dân tộc. Nếu như trước đó, sinh họat văn chương chủ yếu là nhằm đến mục tiêu giáo huấn, truyền bá đạo lý hoặc là để tiêu nhàn, di dưỡng tinh thần của lớp người hay chữ (ở đây chưa nói đến văn học dân gian - một bộ phận của folklore), thì vào lúc này, vai trò, vị thế của văn chương đã có những thay đổi quan trọng. Văn chương trở thành công cụ truyền thông và quảng bá tư tưởng, trở thành dư luận xã hội. Do vậy phạm vi tác động của nó cũng sâu rộng, kịp thời hơn; giá trị thực tiễn cũng to lớn hơn thời trước rất nhiều. Chưa bao giờ văn học lại được huy động nhằm góp sức vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc một cách triệt để như lúc này; cũng chưa bao giờ sức mạnh của văn chương lại được khai thác, sử dụng một cách hữu hiệu như vậy. 7
  8. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, một câu hỏi mang tính thời đại, được quan tâm nhiều nhất, đó là làm sao để đưa nước nhà thoát khỏi họa ngoại xâm. Thực ra thì đối với nhân dân, mọi chuyện hết sức đơn giản, rõ ràng: giặc đến thì chỉ có một cách là đánh đuổi chúng đi. Đây là bài học lịch sử đã được đúc rút, thể nghiệm suốt hàng nghìn năm qua. Tuy nhiên, đối với vua quan triều Nguyễn thì việc tìm một lời giải lúc này không hề là chuyện dễ dàng. Xung quanh câu hỏi nên chiến hay nên hoà (?) đã tốn không biết bao nhiêu là công phu bàn thảo, với vô số tấu sớ của triều thần, chỉ dụ của thiên tử nhưng rốt cuộc bế tắc vẫn hoàn bế tắc. Xét về tư cách cá nhân, không thể nói vua Tự Đức không yêu quý giang sơn xã tắc của mình. Sự thật là trước tình cảnh bi đát của đất nước, vị vua này luôn tỏ ra lo lắng, đau buồn. Có thể dễ dàng nhận ra nỗi lòng trĩu nặng, đầy tâm sự u uất của Tự Đức qua những áng văn chương còn lưu lại đến nay. Tuy nhiên, cái đáng trách nhất đối với ông chính là sự thiển cận trong tầm nhìn, sự nhu nhược, thiếu quyết đoán của người đứng đầu triều đình. Thái độ do dự, lừng chừng của ông thể hiện rất rõ trong những lý sự luẩn quẩn: "lấy lý mà nói, thực là đáng chiến, nhưng lấy thế mà bàn, không bằng hãy hòa, tự nhiên có thể chuyển nguy làm yên, chuyển nghịch làm thuận, thiên hạ có thể vô sự, nước nhà có thể chẳng phải lo lắng gì, xem thế thì "hòa" là một mưu chước rất đúng vậy. (.). Bàn hòa là người có công, bàn chiến là kẻ có tội, pháp luật thực là đúng đắn"(3). Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những sự chia rẽ, phân hóa nghiêm trọng trong nội bộ triều đình. Thực tế lịch sử lúc này đã được phản ánh kịp thời, đầy đủ vào trong văn học. Nơi triều chính diễn ra những cuộc xung khắc không chút khoan nhượng giữa các phe phái thì ở chốn nho lâm cũng nổ ra các cuộc va chạm quyết liệt giữa những người cầm bút đối lập nhau về chính kiến. Nhiều cuộc bút chiến sôi động đã diễn ra. Đây là điều chưa từng thấy trong văn học Việt Nam từ trước cho đến bây giờ. Cuộc xướng họa văn chương giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường (4) là một ví dụ rất tiêu biểu. Thực ra, xướng họa thơ ca vốn là một sinh họat rất bình thường của giới văn nhân. Cái khác thường ở đây chính là nội dung, tinh thần và sức lan tỏa, lôi cuốn của nó. Nói đúng ra, đây không phải là câu chuyện văn chương giữa cá nhân với nhau, mà là xung đột giữa hai lực lượng, hai trận tuyến đối lập nhau về quan niệm sống của kẻ sĩ đương thời. Hơn nữa, cuộc luận chiến này cũng không bó hẹp trong phạm vi một vùng, một địa phương giữa những người đồng hương (Phan Văn Trị và Tôn Thọ 8
  9. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Tường đều là người Gia Định) mà nó nhanh chóng lan ra khắp mọi vùng miền, là vấn đề của cả dân tộc. Tôn Thọ Tường là một trong những nho sĩ đầu tiên công khai hợp tác với Pháp và được tin dùng. Với họ Tôn thì đây chẳng qua cũng chỉ là câu chuyện tùy thời, quyền biến thói thường mà thôi, chẳng phải điều gì quá lạ lùng, hiếm hoi (!). Chính vì thế mà trong văn thơ, ông thường vận dụng các điển tích điển cố để nói về cảnh ngộ của mình. "ông coi mình cũng giống như trường hợp Từ Thứ hàng Tào Tháo, hay Tôn phu nhân (em gái Tôn Quyền) theo Lưu Bị (trong truyện Tam quốc chí của Trung Quốc). Giãi bày về nỗi niềm bản thân, họ Tôn phân trần: Phải sao chịu vậy thôi thì chớ / Nhắm mắt đưa chân, lỗi đạo hằng (5). Tâm trạng và lập luận này không phải là cá biệt, trái lại, nó là nét chung cho tư tưởng của kẻ chủ hòa, sợ hy sinh, khiếp đảm trước thanh thế của giặc nhưng lại không muốn lộ rõ chân tướng nên ra sức tìm cớ che đậy. Tôn Thọ Tường phải viện dẫn cả sử sách kim cổ để lấp liếm, biện bạch là vì thế. Luận điệu của Tôn Thọ Tường đã khiến cho các nhà nho khí tiết, chân chính như Phan Văn Trị lên tiếng. Việc ra cộng tác với Pháp của họ Tôn là một sự điếm nhục không thể tha thứ; bởi vì thực chất đây là làm tay sai, là phản bội dân tộc chứ chả phải triết lý hành xử tùy thời gì cả. Phan Văn Trị đã làm một loạt bài thơ họa lại để vạch trần lý thuyết tà ngụy này: Tai ngơ sao đặng lúc tan tành Luống biết trách người, chẳng trách mình Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa Như vầy cũng gọi cửa trâm anh Khe sâu vụng tính dung thuyền nhỏ Chuông nặng to gan buộc chỉ mành Thân có ắt danh tua phải có Khuyên người hãy trọng cái thân danh. (Phan Văn Trị, Họa mười bài Tự thuật của Tôn Thọ Tường, bài III) Nhà Nho Phan Văn Trị dùng ngay chữ nghĩa văn bài của kẻ phản bội để đối lại, vạch trần tính chất giả trá, ngụy biện trong những lời lẽ mỹ miều về đạo lý, về thân danh. Theo tác giả, những kẻ hèn nhát, đầu hàng giặc thì không đáng được xếp vào hạng sĩ phu. 9
  10. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Tuy nhiên dù sao thì những cuộc đối đáp dưới hình thức xướng họa thơ ca như vừa nêu cũng không thể bộc lộ hết tính chất của không khí luận chiến đương thời. Phải đến Nguyễn Xuân Ôn với những bài văn chính luận tranh biện về sự nghiệp cần vương báo quốc của mình thì mới thực sự có một cuộc bút chiến đúng nghĩa. Nguyễn Xuân Ôn (1825 - 1889), hiệu Ngọc Đường, quê ở Diễn Thái, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, đỗ tiến sĩ năm thứ 24 triều Tự Đức (1871). Ông từng trải nhiều chức vụ quan trọng ở tỉnh ngoài cũng như ở triều đình. Vốn là một trong những nhân vật chính của phái chủ chiến, sau nhiều lần tâu trình kế sách chống giặc không được vua Tự Đức chấp nhận, ông cáo quan về quê hương mưu sự phục quốc. Năm 1885, hưởng ứng lời hịch Cần vương của vua Hàm Nghi, ông mộ quân nghĩa, lập căn cứ chống Pháp, tạo được nhiều chiến tích vang dội. Cuộc khởi nghĩa kéo dài được ba năm thì thất bại. Ông bị giặc Pháp bắt, nhưng chúng lại giao cho triều đình giam cầm và xét xử. Điều trớ trêu là chính các cựu đồng liêu, những kẻ xu thời tại triều lại tìm mọi cách để khép ông vào tội chết. Những kẻ cầm quyền thân Pháp lập luận rằng một khi triều đình chủ hòa mà còn khởi binh chống Pháp là kháng chỉ, trái mệnh vua. Từ vị thế của một thủ lĩnh cần vương, ông bị quy án phản nghịch, trở thành tội phạm của triều đình. Lối hành xử quái gở đó của triều đình (Đồng Khánh) đã khiến Nguyễn Xuân Ôn hết sức căm phẫn. Trong suốt quãng thời gian bị giam giữ nơi ngục thất, ông đã viết rất nhiều văn bài tranh biện, bác bỏ luận điệu xằng bậy của đám quan lại ở các Bộ, các Viện hùa nhau buộc tội ông. Nguyễn Xuân Ôn khẳng định sự trung nghĩa của mình trong việc theo Hàm Nghi chống Pháp. Điều này đồng nghĩa với việc phủ nhận những ông vua bù nhìn khác, do Pháp dựng lên. Ông đã lên án, kết tội cả một triều đình hèn đớn, lừa mị nhân dân, không xứng đáng làm kẻ đại diện cho dân tộc. Trong bức thư nổi tiếng Gửi các ông quan quen biết ở Kinh (1888), Nguyễn Xuân Ôn viết: "Đứng trước mối thù của miếu xã, biến cố của non sông, không có quyền được trù tính cân nhắc thành hay bại ( ). Trong vòng ba năm, lớn nhỏ trăm trận, người chết chất chồng, dân cư tan tác; phá gia tài cung cấp cho binh sĩ mà người ta không oán; hy sinh báo đền nợ nước mà người ta không lấy làm công, là vì nghĩa khí kích thích lòng người vậy. Việc làm tuy không thành, về tình cũng nên được xét lượng mới phải. Mối rường trời đất, thể thống đế vương, tự có công luận muôn đời. Thế mà nay những người 10
  11. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX cầm giữ việc nước lại cho là tướng ngụy, đảng ngụy. Lúc bấy giờ tôi không dám cho vua Hàm Nghi là vua ngụy, cho nên tôi cũng không tự biết mình là đảng ngụy (.). Nay nghe nói bộ Hình định án: những người đầu mục hưởng ứng việc nghĩa, bà con phải liên can, gia sản phải tịch thu, cho rằng đó là chiếu theo luật mà xử án. Tôi thật không biết cái luật cần vương báo quốc mà phạm tội chết ấy là ra tự đời nào ( ). Các người cầm quyền bàn việc muốn lấy điều ấy để đẹp lòng người Pháp, nhưng vị tất người Pháp đã cho như thế là phải". Đối với kẻ thù, thái độ của các nhà nho yêu nước rất dứt khoát, không chút nhân nhượng. Chẳng hạn Nguyễn Quang Bích, một thủ lĩnh chống Pháp ở vùng Tây Bắc, trước những giọng điệu đường mật cũng như cáo buộc nham hiểm của kẻ thù, ông đã quật trả bằng những lời lẽ sắc sảo. Ở vào thời điểm khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa, người Pháp thông qua quan lại triều đình đã liên tục gửi thư từ để dụ dỗ, dọa dẫm, kể cả bức bách nhằm lung lạc ông. Nhưng ông vẫn ngoan cường chống xâm lược, chống đầu hàng cả nơi chiến trường cũng như trên mặt trận văn bút. Trong bức thư trả lời quân Pháp dụ hàng, Nguyễn Quang Bích đã vạch trần luận điệu của chúng: "Khi quý quốc sang đây, một rằng hòa hiếu, hai rằng bảo hộ, để rồi chiếm thành trì chúng tôi, đuổi vua đuổi tướng chúng tôi, để rồi lại còn tự quyền lập vua Đồng Khánh, chẳng qua đó chỉ là cái kế bịt tai ăn trộm chuông thôi. Lợi quyền chính trị đều về tay quý quốc nắm cả. Văn thần võ tướng đều bị quý quốc câu thúc trói buộc ( ). Giả sử có một nước lớn khác đến kinh lý nước quý quốc cũng như quý quốc đã làm ở nước chúng tôi thì quý quốc cũng phục tùng theo ư? Hay là cũng nghĩa khí ở lòng căm giận lộ ra rồi quý quốc cũng làm như chúng tôi đang làm? ( ). Thà chịu tội với quý quốc, quyết không chịu tội với vua nhà, thà chịu tội với nhất thời, quyết không chịu tội với vạn tuế. Một chữ "thú" từ nay xin quý quốc đừng có nhắc lại nữa, xin đừng có khuyên bừa. Chúng tôi cam lòng chịu chết vì nghĩa vua tôi. Quý quốc tự do liệu lấy". Bức thư toát lên cái tư thế, phong thái của người nắm chắc trong tay chính nghĩa. Khẳng khái đanh thép nhưng vẫn điềm tĩnh, sâu sắc. Cái lời lẽ, khẩu khí trên thể hiện nhân cách, bản tính của người quân tử. Lối lập luận khúc chiết, chặt chẽ, đanh thép trong các công văn, tấu sớ, đơn từ của các bậc nghĩa dũng như Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng, 11
  12. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Tống Duy Tân, Nguyễn Quang Bích đã tạo nên một phong cách chính luận thời đại độc đáo. Thậm chí, còn có trường hợp sĩ phu cả một vùng (từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, đến Quảng Bình) họp nhau dâng sớ tranh luận với vua (Tự Đức). Đây là trường hợp hy hữu, chưa từng thấy trong lịch sử văn thân nước nhà (6). Sau khi hàng ước 1874 được ký kết, phong trào đấu tranh chống Pháp xâm lược và triều đình hèn nhát dâng cao trong tầng lớp nho sĩ. Hàng ước có nguy cơ bị đổ vỡ vì phản ứng quyết liệt của các trí thức tiến bộ. Trước tình hình này, Tự Đức đã xuống chiếu quở trách văn thân bốn tỉnh Trung kì vượt phép, không hiểu tình thế, làm hỏng việc nước. Lập luận của nhà vua càng khiến nỗi bất bình trong dư luận tăng thêm và văn thân bốn tỉnh đã gan góc chống lại bằng một bản tấu vô tiền khoáng hậu: vạch tội triều đình, tuyên bố bất tuân thánh chỉ. Từng điểm, từng lời trong chiếu chỉ của nhà vua bị bác bỏ thẳng thừng, không chút vị nể. Cái lý của những người yêu nước thật hiển nhiên, rành rẽ: "Nay đối phó với bọn giặc kia, khác hẳn và rất khó. Không ngờ bọn bề tôi hại nước chỉ biết hòa là lợi ( ). Phàm là người có tai mắt ở trong trời đất, không ai là không nghĩ thấy xấu hổ, huống chi là người trong khoa giáp ư?". Đến như câu khẳng quyết: "Thánh chỉ nói như thế, chúng tôi không dám vâng theo(!)" thì cái khí phách, khẩu khí nhà nho quả thật rất đáng nể trọng (7). Đây có lẽ là hiện tượng tiêu biểu nhất cho lối tranh biện việc nước rất phổ biến thời bấy giờ. Nhìn một cách tổng quát, xu hướng văn chương yêu nước chống xâm lược, chống đầu hàng đã tỏ ra vượt trội, trở thành bộ phận chủ yếu của văn học dân tộc giai đoạn cuối thế kỷ XIX. Nó được truyền tụng rộng rãi và thu hút sự quan tâm của đông đảo quần chúng cũng như sĩ phu cả nước. Sở dĩ như vậy vì văn thơ đã trở thành một bộ phận thiết yếu của đời sống, liên quan đến số phận của mọi thành viên trong xã hội. Đây không còn là chuyện của một ai, của riêng nhà nào, mà là chuyện của cả dân tộc, liên quan đến toàn thể cộng đồng. Trong dòng mạch văn chương yêu nước còn có mảng sáng tác nhằm mục đích lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược và khích lệ, cổ động tinh thần tranh đấu, hy sinh vì đại nghĩa của sĩ dân cả nước. Mảng đề tài này là một sự tiếp nối bền bỉ truyền thống văn chương chiến đấu, văn chương lâm 12
  13. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX trận của dân tộc từ xưa đến nay. Đây cũng chính là một biểu hiện của tính thời sự, của sự gắn bó giữa văn chương và đời sống chính trị xã hội. Vào giai đọan đầu của cuộc chiến, thực dân Pháp còn tìm cách biện minh cho sự có mặt của họ ở đất nước này dưới các chiêu bài tốt đẹp như "bảo vệ giáo dân", "khai hóa văn minh", "vì sự tiến bộ" của người An Nam. Luận điệu này không phải không có tác dụng; chí ít nó cũng đánh lạc hướng dư luận, cũng khiến những kẻ nhẹ dạ phải phân vân. Tuy nhiên, đối với sĩ phu yêu nước và dân chúng cần lao thì những luận điệu gian trá đó không lừa nổi họ. Người ta nhanh chóng nhận rõ bản chất của kẻ thù. Sự xuất hiện của người Pháp ở xứ sở này chỉ mang đến điều bất hạnh; những hành vi của chúng là "vô đạo", "bất nhơn". Với kinh nghiệm hàng ngàn năm đương đầu với ngoại xâm, người Việt Nam dễ dàng nhận ra bộ mặt thật của kẻ cướp nước, dù đó là lũ cướp hoàn toàn xa lạ và dù chúng có che đậy kỹ lưỡng, tinh vi đến đâu. Văn chương đã nhanh chóng đưa ra được lời đánh giá khái quát rất chính xác: Từ ngày có mặt thằng Tây Phu phen tạp dịch hàng ngày khốn thân Quả thật giặc Tây là nguyên nhân của mọi tai ương mà cả một dân tộc phải gánh chịu. Tính chất hung bạo, nham hiểm của kẻ thù đã ngay lập tức bị lật tẩy, phơi bày trong những sáng tác kịp thời: Ở đâu mà chẳng thấy: đào mồ mả, phá miếu chùa, làm những việc bất nhơn; Ở đâu mà chẳng hay: đốt nhà cửa, hãm vợ con, làm những điều vô đạo! (Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây) Tất cả tội trạng của giặc đều được kê biên trong văn chương một cách đầy đủ, chi tiết. Trong cái cách "ghi sổ, tính nợ" này, ta thấy toát lên nỗi căm uất, thù ghét sâu sắc đối với kẻ thù xâm lược: Từ thuở Tây qua cướp đất, xưng "tân trào" gây nợ oán cừu; Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc. Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với súng song tâm; Mấy nơi tổng lý xã thôn, đều mắc hại cùng cờ tam sắc. Bọn tam giáo quen theo đường cũ, riêng thân bất hạnh lâm nghèo; 13
  14. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Bầy cửu lưu cứ giữ nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực. Phạt cho đến người hèn, kẻ khó thâu của quay treo; Tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật Kể mười mấy năm trời khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết trẻ già nghe nào xiết đếm tên; Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông, hoặc biển, hoặc núi, hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt. (Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh) Không chỉ giặc Pháp mà ngay cả những người Việt theo Tây, những kẻ bị xếp vào hàng "Việt gian" cũng bị chỉ trích, bị phê phán nặng nề, kịch liệt. Tuy nhiên, đối với những kẻ đầu hàng, phản bội dân tộc, trong những lời phê phán còn ẩn chứa một thái độ chế giễu, thương hại: Nào những thuở rèn mác thông, đan nong gỗ, ra đường hăm hở trông như đâm ai chém ai. Đến bây giờ rờ bạc nén, đếm tiền trăm, vào cửa lom khom, ra mặt quì nó lạy nó. Mặt nào tới lĩnh bằng ngày nọ Mặt nào ra xuất thú buổi ni Đã thề nguyền ra sức đánh Tây Lại tiếc của trở về đầu giặc. (Khuyết danh, Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây) Có thể nói văn chương lúc này đã trở thành một phương tiện hữu hiệu để kích động sĩ dân, khơi gợi lòng tự trọng giống nòi, nuôi dưỡng nghĩa khí của mọi người dân nước Việt. Cái sứ mạng cao cả, cái vai trò hiệu triệu, tập hợp quần chúng của văn chương (để "chở đạo", "đâm gian" như cách nói của Nguyễn Đình Chiểu) lúc này đã được vận dụng rất hiệu quả. Không khí trận mạc, tinh thần sôi sục tề tựu "hội quân" thể hiện rõ nhất trong các bài ca, bài vè và nhất là các bài hịch. Trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa bao giờ lại xuất hiện nhiều tác phẩm thuộc thể loại hịch như lúc này. Một lọat các văn phẩm nổi tiếng, được truyền lan nhanh chóng, rộng khắp như: Hịch Quản Định, Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch sĩ phu kêu gọi chống Pháp, Hịch văn thân Hà Nội gửi văn thân Nam Định, Hịch Lãnh Cồ Hịch vốn là một thể văn chức năng, dùng để hiệu triệu, hô hào. Đối tượng hướng tới của hịch kháng chiến là toàn thể mọi người có lòng yêu nước thương nòi, không phân biệt sang hèn: 14
  15. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Bớ các quân ơi! Chớ thấy chín trùng hòa nghị mà tấm lòng địch khái nỡ phôi pha Đừng rằng ba tỉnh giao hòa mà cái việc cừu thù đành bỏ dở ( ) Bớ các làng ơi! Ơn thủy thổ thảy đều mang nặng Việc thần dân chớ khá lỗi nghì. Phải che đậy nhau mà nương ở đãi thì Đừng lầm tin nó mà xui ra đầu thú (Khuyết danh, Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây) Bớ trẻ già, bé lớn ai ai Đều bội ám đầu minh cho kíp! Chiếu phụng dầu ta lãnh đặng Mũi thiên oai thương kẻ sanh linh Phải cạn lời tỏ hết chân tình Cho con trẻ dân đen đặng biết (Khuyết danh, Hịch Quản Định) Hơn lúc nào hết, đây là lúc thích hợp nhất để dùng những lời hịch kêu gọi khẩn thiết, thúc bách. Chính những bài ca, những bài hịch có tính chất "gọi đàn", cổ động quốc dân chống giặc cứu nước đã tạo nên âm hưởng, không khí đặc trưng của văn chương thời đại. Văn học yêu nước giai đọan này đã nhanh chóng trở thành xu hướng chủ yếu, có vai trò chi phối toàn bộ đời sống văn chương nước nhà. Sự vượt trội về số lượng, sức tác động mạnh mẽ đến tình cảm, tư tưởng của cộng đồng và đặc biệt là khả năng tạo dựng mẫu người anh hùng thời đại đã khiến cho văn học yêu nước nhanh chóng chiếm lĩnh "văn đàn" để trở thành dòng chủ lưu. Đóng góp quan trọng nhất của văn học yêu nước giai đoạn này chính là đã làm nổi bật lên hình tượng nhân vật lý tưởng của thời đại: hình tượng người nghĩa sĩ xả thân vì độc lập của dân tộc. Từ hiện thực cuộc sống chiến đấu của toàn dân, từ những trải nghiệm thực tế của bản thân, các nhà nho nghệ sĩ - chiến sĩ đã tìm thấy chất liệu, nguồn cảm hứng để khái quát nên những hình tượng nghệ thuật độc đáo, có giá trị. Người anh 15
  16. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX hùng mới của thời đại nhanh chóng xuất hiện để thay thế cho các đấng, bậc "trượng phu", "quân tử" đã trở nên bất hợp thời. Hình tượng người anh hùng cứu quốc trong văn chương hiện lên rất rõ nét và đặc biệt sinh động với những đặc điểm riêng. Đây chính là những nguyên mẫu người thực việc thực trong đời sống được đưa vào tác phẩm. Người anh hùng cứu nước - nhân vật lý tưởng của văn học lúc này là một sự phối kết phẩm chất tốt đẹp của mọi lớp người, từ trí thức phong kiến, bậc sĩ phu lẫn người nông phu, những kẻ vô danh trong xã hội. Tất cả đều dấn bước trên con đường tranh đấu với tinh thần "xả sinh thủ nghĩa" (quên thân vì đại nghĩa). Thực ra thì chẳng phải đến lúc này trong văn học Việt Nam mới xuất hiện hình ảnh con người trượng nghĩa, vì nước quên thân; trái lại, nó đã có từ rất lâu. Thậm chí có thể lần ra bóng dáng của mẫu hình này qua những áng văn ra đời cách hàng mấy trăm năm về trước. Tuy nhiên, chưa bao giờ nó được khắc họa một cách rõ nét, mang dấu ấn thời đại sâu sắc đến thế. Trong đội ngũ những bậc nghĩa sĩ này, nổi bật trước hết là các nhà khoa bảng. Họ đóng vai trò thủ lĩnh các phong trào chống Pháp đầy quả cảm (như Phan Đình Phùng, Trương Định, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích ). Mỗi người trong số họ mặc dù đến với sự nghiệp chống giặc cứu nước theo những con đường riêng, những hoàn cảnh rất khác nhau tuy nhiên lại rất giống nhau về quá trình chuyển biến tư tưởng. Có thể nhận thấy ở họ sự pha trộn rất lý thú giữa những gì thuộc ý thức, truyền thống bền chặt của dân tộc với triết lý, tư tưởng Nho giáo mà họ tu dưỡng, đào luyện suốt đời. Trong tâm hồn của các nho sĩ này đã diễn ra những tình cảm rất phức tạp. Là người trí thức yêu nước, họ quyết dấn thân mưu sự phục quốc nhằm cứu nước nhà thoát khỏi khổ nạn ngoại bang, nhưng trong tư cách nhà Nho, họ cố làm sao cho hành động của mình vẫn nằm trong giới hạn cương thường. Thế rồi khi thực hành việc nghĩa, họ lại thấy cần phải bứt phá ra ngoài vòng cương tỏa của những khuôn phép đã trở nên cứng nhắc, bất hợp thời. Trong văn chương của các bậc sĩ phu ái quốc lúc này có một hiện tượng đáng lưu ý: họ phải mất nhiều công sức tìm kiếm giải pháp để thực hiện lý tưởng của mình. Chính điều này tạo nên nét riêng - một đặc điểm mang tính thời đại, của văn học chặng cuối thế kỷ XIX. So với các chặng trước, văn học lúc này có nhiều sự khác biệt rất quan trọng. Trước tình thế gian nan do phải đối đầu với một kẻ thù hoàn toàn xa lạ, cái khí khái của văn 16
  17. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX nhân nho sĩ vẫn ngút đầy trong thơ văn, thế nhưng chất hào sảng thì không thấy rõ. Lối văn chương trào tuôn hào khí "xung thiên" thời Lý - Trần vắng hẳn; thay vào đó là vần điệu đầy chất bi tráng. Vẫn là mẫu người nghĩa dũng, đầy quả cảm, coi cái chết như không, có điều âm hưởng chủ đạo của văn chương lại đầy vẻ cảm thương thống thiết. Không chỉ những vần thơ tuyệt mệnh (của những người như Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Cao, Phạm Bành ) mang âm điệu này mà phần lớn tác phẩm, nhất là các sáng tác thuộc xu hướng văn chương yêu nước đều có nét bi thương như thế. Điều này có nguyên nhân sâu xa của nó. Có thể nói sự bế tắc của tư tưởng Nho giáo đã khiến cho người nghĩa sĩ trở nên ưu tư hơn trước khi lâm trận. Đây là lúc họ phải vừa đánh giặc vừa nhận đường. Một trong những con đường độc đáo nhất mà họ đã tìm ra là xướng nghĩa Cần vương. Cần vương là thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đứng ra giúp vua chống giặc, cứu nước. Nhưng điều trớ trêu lại ở chỗ không phải ông vua nào cũng có gan chống giặc lúc này, thành thử họ phải lựa chọn, thậm chí phải "dựng" lên ông vua can trường, không sợ hy sinh gian khổ để phò tá. Cũng chính vì thế mà mặc dù trên danh nghĩa, cần vương là hành xử dưới bóng của chữ trung Nho giáo, nhưng thực tế thì đây là lúc các sĩ phu rời xa cái lý tưởng này hơn bao giờ hết. Chính tình cảm yêu nước đã giúp họ vượt qua được ranh giới của những định kiến cố hữu. Những người vốn coi chữ trung như một tín điều thiêng liêng nhất trên đời lại dễ dàng chấp nhận hành động phế bỏ (các vị vua không đáp ứng được yêu cầu thời cuộc), tìm lập bằng được bậc minh quân để ban bố chiếu cần vương. Không nắm được điều này thì không thể giải thích được điều lạ lùng là cần vương mà không có vua (sau 1888, khi Hàm Nghi bị bắt, bị đày ra nước ngoài, phong trào vẫn tiếp tục được duy trì). Có thể nói cần vương là sự lựa chọn thỏa đáng nhất để họ thực hiện lý tưởng cứu nước trong khuôn khổ, phép tắc của nhà Nho. Người nghĩa sĩ chống giặc hành xử với một sự tự nguyện hoàn toàn, dù vậy họ vẫn canh cánh nhiều tâm sự. Thơ văn của họ thể hiện mối ưu tư của những người đa cảm, hay suy ngẫm và cả nghĩ. Điều này cũng không có gì khó hiểu. Thực ra đây là những bức chân dung tự họa của người nghệ sĩ - chiến sĩ trong cảnh huống vô cùng khắc nghiệt chứ đâu phải là mô tả trang hảo hán hăm hở trên đường công danh (!). 17
  18. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Trong muôn mối lo toan về con người, về danh phận, cái làm họ quan tâm hơn cả là triết lý, là ý nghĩa về cuộc sống. Đối với họ cuộc sống có ý nghĩa chỉ khi nó gắn với sự vẹn toàn danh tiết; khi cuộc đời và sự nghiệp cá nhân trở nên hữu ích cho cộng đồng, tên tuổi được truyền lưu thiên cổ. Chính điều này tạo cơ sở cho việc lựa chọn, cân nhắc giữa sự sống và cái chết. Trong quá trình lựa chọn nghiệt ngã này, lời khẳng định bao giờ cũng rõ ràng, dứt khóat: - Thà làm ma có hồn trung vía nghĩa Hơn làm người đeo mặt ngựa đầu trâu (Nguyễn Duy Cung, Hịch kêu gọi chống Pháp) - Sinh nhi luân ư khuyển dương chi dị vực Hà như tử nhi đồng hồ thiên địa diểu minh Sinh nhi vi nhân gian chi huyền vưu phụ chuế Hà như tử nhi vi giang sơn chi quỳnh chi ngọc anh (Sống mà bị chìm đắm trong vòng dê chó Thà chết đi cùng trời đất đi về Sống mà làm vật thừa thịt bướu cõi nhân thế Thà chết đi mà làm cành quỳnh hoa ngọc nơi nước đẹp non kì. Nguyễn Cao, Tự phận ca) Sự lựa chọn được đặt ra ở đây quả là những thử thách lớn đối với bản lĩnh của nhà nho. Tuy sự lựa không hề dễ dàng bởi liên quan đến vận mạng, liên quan đến lẽ tử sinh, nhưng cuối cùng thì cái tinh thần "sống đục không bằng chết trong, thà chết đứng chứ không chịu sống quỳ" cũng được khẳng định. Các văn nhân - chiến sĩ, trong những cảnh huống ngặt nghèo nhất đã biết ứng xử một cách hợp lẽ, đúng đắn. Họ dám hy sinh sự sống quý giá của mình để vì điều nghĩa, cầu danh thơm. Song vốn là những người nhạy cảm, cho nên sâu xa trong tâm hồn họ vẫn còn vương vấn biết bao nỗi luyến tiếc. Trong khẩu khí của người anh hùng vẫn thấy phảng phất một nỗi buồn, vẫn day dứt một tâm trạng bùi ngùi của con người thiết tha ham sống mà phải từ bỏ, phải vĩnh biệt cuộc đời trong khi công danh sự nghiệp vẫn còn dang dở. Thơ văn của các nhà ái quốc lúc này có rất nhiều những dòng tâm sự rất chân thực, rất "đời thường" như vậy. Đây chính là một phong cách tự thuật 18
  19. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX mới mẻ, tươi tắn vốn không phải là điều thường thấy trong văn chương nhà Nho trước đó. Biểu hiện của lối tự thuật - thế sự trong dòng văn chương yêu nước rất đa dạng. Đó có thể là thoáng ngậm ngùi chợt đến của một thủ lĩnh cần vương khi nghĩ về ngày sinh nhật trong cảnh sơn trại bị vây, quân sĩ thiếu đói như trường hợp Nguyễn Quang Bích: Tặc phân mãn địa thái xi trương Sổ thập bì sư nhật sách lương Bắc địa nguyên nhung trì nhạn tín Vân gian thiều mộng thuộc thiên phương Liên sơn thụ ế cầm thanh náo Bàng giản tuyền u vũ khí lương Thê chỉ bất kham trù trướng xứ Cù lao kim nhật ký bồng tang. (Khắp nơi, giặc hung bạo như diều hâu giương cánh Vài chục toán quân mỏi mệt hàng ngày chạy kiếm lương ăn Từ đất Bắc chậm thấy cánh nhạn đưa tin của nguyên nhung Mơ màng tiếng nhạc thiều trên mây còn ở tận phương trời xa Liền núi bóng cây che, tiếng chim kêu rộn rã Bên khe dòng suối thẳm, hơi mưa xuống lạnh Điều khiến ta ngậm ngùi nhất trong cảnh nương náu này Chợt nhớ hôm nay là ngày mẹ cha treo cung dâu tên cỏ cho ta. Nguyễn Quang Bích, Quân lương khuyết phạp) Chút xao động nhỏ nhoi này được tác giả thuật lại một cách thực là thấm thía. Đặt bên cạnh chuyện quân cơ trọng đại, cảnh chiến trận khốc liệt thì chút "giật mình" khi nhớ đến ngày sinh nhật này thật bé nhỏ, phù phiếm. Thế nhưng nỗi ngậm ngùi bởi một sự kiện rất bình thường và cũng chỉ thoáng qua đó lại ẩn chứa rất nhiều tâm sự nhân sinh. Đây là sự nhạy cảm bẩm sinh của một nghệ sĩ thực thụ. Sự tinh tế, chất lãng mạn trong tâm hồn người nghĩa sĩ còn được thể hiện qua những áng văn ghi lại cảm xúc trước cảnh quan đất nước. Tuy nhiên ngay cả ở lối thơ tả cảnh ngụ tình vốn đầy tính chất khuôn sáo này vẫn có những sắc thái riêng. Chẳng hạn bài Quá Chiến Than của Nguyễn Quang Bích khắc họa về một ngọn thác trên con sông Đà: Đà thủy tố chu ngại trách than 19
  20. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Chiến Than hựu thị thập phần nan Thủy thanh bào háo thiên ngưu hống Thạch duẩn lân tuân vạn giáp toàn Xà trận uyển diên vu ngạn chử Hùng sư ẩn hiện điệp cương loan Thánh triều đăng trật đa niên tuế Bằng trượng uy linh điện Thái bàn (Thuyền ngược dòng sông Đà bị vướng nhiều thác có đá Thác Chiến Than lại khó qua gấp mười Tiếng nước ào ào như ngàn con trâu rống Đá mọc như măng lởm chởm, tựa hàng vạn binh khí đâm lên Bờ nước uốn khúc như trận thế rắn bò Ngọn núi trập trùng như đoàn quân gấu dữ ẩn hiện Thần sông ở đây đã nhiều lần được triều đình phong sắc Dựa vào uy linh đó nên vẫn vững chắc như bàn thạch Nguyễn Quang Bích, Quá Chiến Than) Đây không hẳn là bài thơ đề vịnh cảnh vật theo lối thường thấy trong thơ cổ mà có vẻ giống những ghi chép địa đồ của nhà cầm quân. Ngoài ý nghĩa thưởng ngoạn thiên nhiên của một thi gia rất sành ngao du sơn thủy, còn là phong thái của bậc võ tướng đang nghiền ngẫm địa thế, liên tưởng đến chiến trận. Người nghĩa sĩ cần vương là một hình tượng đẹp nhưng cũng rất mới lạ của văn học yêu nước chống Pháp. Ở đây ta dễ dàng nhận ra những đường nét, diện mạo của người tráng sĩ trong văn học truyền thống nhưng đồng thời lại bắt gặp những chi tiết mới mẻ đến bất ngờ, đầy thú vị. Chẳng hạn hình ảnh đoàn quân nghĩa dũng dưới đây: Xuẩn nhĩ dương di hám hải quan Tư hoàng cộng phấn hãn bang gian Tinh kì phất ngạn phong vân biến Khải kích lâm giang thủy nguyệt hàn Giới trụ sĩ phi nho giả phục Chương phùng nhân trước tướng quân quan Khả tri địch khái thần tâm hiệp Bất tác tầm thường kiếm mã khan. (Lũ rợ Tây ngu xuẩn dám dòm ngó cửa biển của ta Nhiều người hăng hái chống đỡ bước gian nan cho nước nhà 20
  21. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Cờ xí phất phơ trên bến gió mây dường như đổi sắc Gươm giáo dàn bày trên sông trăng nước ngó cũng lạnh lùng Người lính giáp trụ chính là kẻ mặc áo thư sinh Khách chương phùng nay đội mũ võ tướng Đủ biết mọi người đều chung một lòng đánh giặc Không nên coi chỉ là hạng đeo gươm cưỡi ngựa tầm thường Nguyễn Xuân Ôn, Duyệt quân đoàn dũng ở xã Mỹ Lộc, nhân gửi cho viên bang biện là ông cử nhân Võ Bá Liêm) Hình tượng những bậc thư sinh - võ tướng gợi cho người đọc thật nhiều liên tưởng. Rõ ràng đây là những quân nhân bất đắc dĩ. Dù vậy, hình ảnh này không có chút gì là phi logic. Trái lại, nó toát lên vẻ đẹp của sự hài hòa giữa tính chất khuôn mẫu quy phạm nho gia với sự thích ứng mau lẹ, uyển chuyển cần có trong thực tế. Đối với người nghĩa sĩ chống xâm lược, chống đầu hàng, một chủ đề thường được bàn nhiều là chuyện "thân danh", "danh tiết". Các nhà Nho vốn rất coi trọng điều này. Chính vì thế mà chuyện sống - chết, thành công - thất bại luôn được họ cân nhắc trên cơ sở những chuẩn mực đặc thù của giai tầng. Có một điều tưởng như nghịch lý: trong văn chương của mình, các nhà nho - nghĩa sĩ nói rất nhiều đến sự hy sinh, chấp nhận hy sinh và đề cao hành vi nghĩa hiệp; đến mức khiến cho người đời sau ngỡ rằng họ quá đề cao lý tưởng, hướng đến "thắng lợi tinh thần" mà ít quan tâm đến thực tế thắng thua nơi trận mạc. Thực ra không phải như vậy. Đó hoàn toàn không phải là lối tự an ủi, huyễn hoặc mình của những kẻ khí khái suông. Bởi lẽ đã dấn thân nơi lam sơn chướng khí, treo mình trước mũi tên hòn đạn nhằm đánh đuổi quân thù thì làm sao lại không khát khao thắng lợi trên chiến trường. Có điều lực bất tòng tâm; họ hiểu rất rõ giới hạn của mình. Trong cuộc mưu đồ phục quốc, họ đã làm hết khả năng, bổn phận của mình với một ý thức tự giác tuyệt vời. Còn như thành hay bại thì câu chuyện đã vượt ra khỏi tầm của họ, nó đòi hỏi sự hội tụ của nhiều yếu tố khác. Trong hoàn cảnh của một cuộc đọ sức chênh lệch ghê gớm mà họ phải đối mặt, cái tiêu chí cần đề cao trước nhất chính là tinh thần quyết đấu. Với quan niệm thành danh (chứ không phải là thành công) những người như Nguyễn Phương, Phạm Bành, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu được đánh giá là "Khoa hoạn nhân trung đệ nhất hào" (bậc hào kiệt đệ nhất chốn 21
  22. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX khoa hoạn) bất kể vũ công thắng bại thế nào. Cái "chuẩn" để luận anh hùng không phải thành hay bại mà là khí tiết: Ký ngữ phù trầm tư thế giả Hưu tương thành bại luận anh hùng (Gửi nhắn những kẻ theo đời chìm nổi Đừng đem việc thành bại mà luận anh hùng Nguyễn Duy Hiệu, Lâm hình thời tác) Nhìn trên đại thể, các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX hầu hết đều thất bại và chặng cuối con đường mà các anh hùng phải bước tới đều không tránh khỏi đoạn đầu đài. Những bậc trung nghĩa đó đều hy sinh trên trường bắn, trong ngục tù đế quốc và triều đình phản động Nhưng chính ở những nơi ấy, họ đã thắng một trận cuối cùng hết sức oanh liệt. Đối mặt với cái chết, người nghĩa sĩ càng trở nên gan góc, rắn rỏi và tự tin đến kì lạ. Đúng là họ đã hành động quên mình, chỉ đau đáu một mối quan hoài lớn lao về đất nước, về đạo lý làm người. Cái phong thái ung dung vấn khăn rửa mặt trước khi bước chân lên máy chém, giá treo cổ; đọc thơ tuyệt mệnh trước khi đón nhận cái chết là nét chung của cả một lớp sĩ phu cần vương báo quốc. Cùng với hình tượng người sĩ phu, trong dòng văn chương yêu nước Việt Nam giai đọan cuối thế kỷ XIX còn xuất hiện một hình tượng độc đáo khác - người nghĩa dân chống Pháp. Đây là một khám phá thú vị của văn nhân nho sĩ đối với người nông dân, người dân quê Việt Nam chặng cuối thế kỷ này. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh một cách hùng hồn vai trò quan trọng của người dân quê trong những cuộc đấu tranh sinh tồn của dân tộc. Ở những thời điểm hiểm nghèo nhất của vận nước, bao giờ bóng dáng của những người "dân đen", những con người thuộc tầng lớp lao khổ cũng xuất hiện; một sự xuất hiện đúng lúc. Trong cuộc đấu tranh một mất một còn này, người dân cày phải gánh trên vai họ toàn bộ gánh nặng về nhân tài vật lực, chịu đựng những hy sinh lớn lao nhất. Tuy vậy trong văn học (đặc biệt là văn học viết) từ trước đến giờ, hình ảnh của họ lại rất mờ nhạt. Sự hiện diện của họ trong tác phẩm văn chương thường là với tư cách đối tượng quan sát, đề vịnh của văn nhân nho sĩ. Chân dung của những người dân quê hiện lên trong thơ phú thực ra cũng không khác gì mọi sự vật, hiện tượng bất kì nào trong thế giới; đến mức trở thành những khuôn mẫu mang tính ước lệ (với 22
  23. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX những ngư, tiều, canh, mục ). Nhưng vào lúc này, hình ảnh người dân quê bỗng thay đổi hẳn, chí ít cũng là đối với xu hướng văn chương yêu nước. Cùng với người sĩ phu, họ trở thành nhân vật chính, nhân vật trung tâm của văn học; đĩnh đạc bước vào và tỏa sáng trong văn học. Đây là thành tựu lớn lao của cả một trào lưu văn học mà công đầu thuộc về nhà thơ yêu nước Nam bộ Nguyễn Đình Chiểu. Nó đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quan niệm về con người và nghệ thuật ở một bộ phận những nhà nho ưu tú lúc này. Những "dân ấp dân lân" (theo cách gọi của Nguyễn Đình Chiểu) có một đời sống khác xa so với mẫu người nho sĩ kể trên. Họ vốn là người chỉ biết chuyên chú vào việc mưu sinh, ít có điều kiện để băn khoăn về các thứ tư tưởng, triết lý. Người dân quê suy nghĩ đơn giản, hành xử theo những nguyên tắc đạo lý đã được xác lập một cách bền chặt lâu đời. Tuy thế, giữa hai hình mẫu này (người sĩ phu và người nghĩa dân) vẫn có sự giống nhau rất cơ bản. Đó là trách nhiệm con dân của mình trước đất nước, cộng đồng. Khi nước nhà bị xâm lăng, họ dám vứt bỏ hết, xả thân cứu nước. Và điều này luôn luôn được lặp lại trong lịch sử dân tộc. Hình tượng người nông dân chống giặc xâm lược, vị nghĩa quên thân hiện hữu trong văn chương giai đọan này với những nét chân thực, sinh động hiếm thấy. Đối với người dân quê, được sống yên ổn dưới mái nhà của mình, cày cấy gieo trồng trên mảnh đất ông cha để lại, hương khói phụng thờ tổ tiên là một khát vọng vĩnh cửu. Song cái ước mơ bình dị ấy chẳng bao giờ được đảm bảo lâu dài; luôn luôn bị ngắt quãng bởi thiên tai, cường hào, quan lại và nhất là giặc giã bạo tàn. Khác với những đấng bậc trượng phu ôm hoài bão tung hoành thiên hạ, tạo lập công danh, bảng vàng bia đá để đời, người dân quê vốn bàng quan với bổng lộc, quan tước những thứ có được nhờ nỗ lực trong hoàn cảnh loạn ly. Khi sơn hà nguy biến, người dân quê phải đầu quân ứng nghĩa chứ thực ra thì bản thân họ cũng không hào hứng gì với trận mạc, hơn nữa họ cũng chẳng được phó thác một tư cách gì thật sự rõ ràng. Họ là người mà đúng ra phải được quan quân triều đình bảo vệ. Thế nhưng tình cảnh lúc này có khác. Từ chỗ là người đáng được bảo vệ, họ buộc phải tự vệ và trở thành người anh hùng bất đắc dĩ. Đây là một sự trớ trêu của lịch sử và điều này đã được Nguyễn Đình Chiểu phát hiện một cách tinh tế qua các sáng tác của mình. Thọat tiên, khi nghe tin giặc đến thì họ nháo nhác: "Tiếng phong hạc 23
  24. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa" (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Động thái này của người dân quê là rất thực. Họ lo lắng, xôn xao bởi lời đồn thổi (vì có bao giờ được nhận thông tin chính thống về những chuyện trọng đại đâu); và cũng chả biết làm gì hơn là chờ đợi. Thái độ trông chờ vào bề trên như thế không phải là do họ thiếu phương tiện, thiếu vũ khí (thực tế đã chứng minh những người dân cày hoàn toàn có thể tự vũ trang ngay lập tức để giáp trận khi cần). Đây là một trong những dấu hiệu về sự an phận cố hữu của họ. Nhưng đến khi không còn mong chờ gì được vào quan quân, những kẻ vốn sinh ra để bảo vệ dân, thì họ đành phải tự quyết lấy. Đấy là thời điểm mà người nghĩa dân Nam bộ đã tìm thấy lời giải đáp đúng đắn nhất trong cuộc xung đột gay gắt giữa tính cách ưa vô sự và bổn phận con dân của mình. Sự lựa chọn này cũng có cái gì đó rất giống với những trăn trở mà các nhà nho yêu nước đã đặt ra. Đây là lối ứng xử tự nhiên, hồn nhiên, nhưng đúng quy luật. Cũng như các bậc sĩ phu ái quốc, người nghĩa dân chống giặc dù rất ngoan cường nhưng thất bại là điều khó tránh khỏi. Sự hạn chế về khả năng tổ chức, kinh nghiệm trận mạc, về vũ khí đã khiến cho những nỗ lực hết mình của họ chỉ mang ý nghĩa tinh thần mà thôi. Tuy nhiên chính điều đó đã biến họ thành những con người bất tử. Có thể nói văn học yêu nước giai đoạn này đã tập trung vào việc khắc họa chân dung những nhân vật chính của thời đại: đó là người sĩ phu chống Pháp và người nghĩa sĩ bình dân. Hai nhân vật này bổ sung cho nhau, tôn tạo lẫn nhau và trở thành điểm sáng cho cả một chặng đường dài phát triển của lịch sử văn học Việt Nam. Tính thời sự như một đặc điểm nổi trội của văn chương giai đọan này không chỉ thể hiện qua những tác giả, tác phẩm thuộc xu hướng văn học yêu nước, chống xâm lược, chống đầu hàng mà nó trở thành một tính chất, một nét phổ biến của mọi hiện tượng văn học khác. Văn chương trào phúng cũng không nằm ngoài sự chi phối, ảnh hưởng này. So với trước đây, văn chương trào phúng Việt Nam ở giai đoạn này phát triển mạnh mẽ và rất tập trung về đề tài. Nếu như trước đây văn chương trào phúng chủ yếu gắn với loại hình văn học dân gian, còn đối với văn học nhà nho nó chỉ có mặt lẻ tẻ trong một số trường hợp (ngoại trừ một Hồ Xuân 24
  25. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Hương đầy bí ẩn), thì bây giờ nó đã qui tụ thành một dòng với những đại biểu ưu tú của mình; thành xu hướng văn chương phúng thích xã hội mang dấu ấn lịch sử rất rõ ràng. Trần Tế Xương (1870 - 1907) là nhà thơ cự phách nhất trong dòng thơ trào phúng giai đoạn này. Ông vốn có rất nhiều tên gọi. Thuở nhỏ, tên của ông là Trần Duy Uyên. Khi đi thi hương, ông lấy tên là Trần Tế Xương; về sau lại cải thành Trần Cao Xương. Ông đỗ tú tài năm Giáp Ngọ (1894) nên còn được gọi là Tú Xương. Tên tự của ông là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích. Cuộc đời của con người tài hoa, đầy cá tính này tuy ngắn ngủi, nhưng lại là cả một tấn bi kịch; một tấn bi kịch mang tính thời đại. Đây là trường hợp điển hình về sự bế tắc lý tưởng, thiếu lòng tin vào bản thân và cuộc sống, luẩn quẩn trong hành động của một lớp nhà Nho; là hình ảnh rất tiêu biểu cho mẫu nhà nho "lạc thời" những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Con người này không thể tìm thấy chỗ đứng của mình trong xã hội, trở nên lạc lõng. Nói một cách khác, trong dòng xoáy dữ dội của một xã hội thực dân buổi sơ khai, ông bị văng bắn ra ngoài quỹ đạo của nó, trở thành một "con người thừa" bất đắc dĩ. Di sản văn chương mà Trần Tế Xương để lại có số lượng không nhiều (nếu gạt ra khỏi danh mục những bài đang tồn nghi, số tác phẩm của ông không quá trăm bài). Tuy vậy, giá trị của những tác phẩm này lại vô cùng to lớn. Thơ ca của ông đã thể hiện một cách cụ thể, sinh động tâm trạng chán nản, phẫn uất đến cực điểm đối với xã hội. Đó là nỗi niềm chua xót thổ lộ qua những câu thơ cười cợt, phỉ báng đối với Nho học cuối mùa; đó còn là giọng trào lộng đầm đìa nước mắt của một nạn nhân trước bi kịch thi cử. Có lẽ Trần Tế Xương là người đã hạ được những vần tiêu sái nhất, cay đắng và trào lộng vào bậc nhất về chuyện học hành thi cử: Ngày mai tớ hỏng tớ đi ngay Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày Học đã sôi cơm nhưng chửa chín Thi không ăn ớt thế mà cay. Ông vẽ nên bức tranh tàn tạ, thê lương của đạo học (lối học truyền thống đã trở nên lạc lõng) dưới thời Tây. Một đàn thằng hỏng đứng mà trông Nó đỗ khoa này có sướng không? 25
  26. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng Trần Tế Xương diễu cợt một cách xót xa tình cảnh thảm hại của lớp nho sĩ cuối mùa. Thơ ông là nỗi bất bình trước cảnh nhốn nháo, bất công chốn trường ốc, là nỗi ê chề trước một lối thi cử pha tạp: Nhà nước ba năm mở một khoa Trường Nam thi lẫn với trường Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa Lọng cắm rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ đầm ra Nhân tài đất Bắc nào ai đó Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà (Trần Tế Xương, Vịnh khoa thi năm Đinh Dậu) Chính nỗi đau này đã khiến những bài thơ phúng thích khoa cử của Trần Tế Xương vượt hẳn lên, đạt đến một tầm mức tư tưởng rất cao mà ít có nhà thơ trào phúng đương thời nào sánh kịp. Ông đã lố bịch hóa cái tấn tuồng thi cử để bày tỏ thái độ phủ nhận của mình. Trần Tế Xương sống trong một hòan cảnh hết sức đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Những tháng năm cuối cùng của một xã hội cổ lỗ đang tắt và một xã hội tuy mới mẻ, nhưng hỗn độn đang hình thành. Đây là một bước thoái hóa, một sự đổ vỡ của những giá trị tinh thần đã được xây đắp qua cả ngàn năm phong kiến. Người ta bơ vơ, lạc lõng và hoang mang vì những chuẩn mực đạo đức bị phá hoại, bị đảo lộn. Thơ ông là nỗi phẫn uất của một tâm hồn trong sạch, lương thiện bị xúc phạm; là phản ứng của một tài năng lớn nhưng không vừa khuôn thước của chế độ phong kiến - thực dân lúc này. Trần Tế Xương xứng đáng được vinh danh là bậc "thần thơ thánh chữ", là người khai sinh ra một lối thơ, dòng thơ riêng biệt. Tiếng cười của ông tập trung xoáy sâu vào hiện trạng nhơ nhớp của một xã hội thực dân phong kiến buổi mới hình thành; ông đã dồn tất cả sự phẫn nộ của mình vào những kẻ bán nước, quan lại sâu mọt, sự đớn hèn của đám sĩ phu vong quốc, sự suy thoái đến độ thê thảm về phong hóa, đạo đức luân lý Tiếng cười phẫn khích, lối trào lộng đầm đìa nước mắt ấy mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và có ý nghĩa xã hội lớn lao. 26
  27. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Đồng thời và đồng hương với Trần Tế Xương còn có nhà thơ nổi danh Nguyễn Khuyến. Ông Tam nguyên này có một khối lượng tác phẩm rất lớn, với nhiều chủ đề khác nhau: nỗi niềm u uẩn, tâm trạng mặc cảm của một nhà nho bất lực trước thời cuộc, nhà thơ tài hoa về quê cảnh hương thôn ; trong đó những vần thơ trào phúng chiếm một vị trí quan trọng. Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại thôn Văn Khê, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục (nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, Hà Nam). Thuở nhỏ ông có tên là Nguyễn Thắng, lớn lên, khi đi thi và thành đạt, ông được đổi tên là Nguyễn Khuyến. Tên tự của ông là Mẫn Chi, hiệu Quế Sơn. Xuất thân trong một gia đình nông dân, người cha là một nhà Nho, từng thi đỗ tú tài, Nguyễn Khuyến dấn bước vào chốn khoa trường từ rất sớm. Năm 17 tuổi (1852), dự kì thi hương đầu tiên trong đời; qua 19 năm theo đòi cử nghiệp (với 9 kì thi), mãi tới năm 1871 ông mới được nhận cờ biển Tiến sĩ. Nguyễn Khuyến là một học trò xuất sắc của nhà trường phong kiến, một nhà Nho ưu tú về phẩm hạnh và học vấn nhưng ông cũng là nạn nhân của tư tưởng Nho giáo khi nó đã lâm vào tình trạng phá sản. Bi kịch của đời ông chính là ở chỗ đã ý thức được một cách sâu sắc cảnh ngộ bản thân trước thời cuộc. Trong ông luôn diễn ra nỗi mặc cảm về sự bất lực trước thời thế, sự lỗi thời của vai trò mình đang sắm Khác với Trần Tế Xương, người nổi tiếng bởi những vần thơ trào phúng cay độc, dữ dội, thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến sắc sảo, hóm hỉnh, thâm thúy. Đối tượng chủ yếu mà thơ trào phúng của ông hướng tới thường là lớp người đỗ đạt, những bậc thượng lưu trí thức nhưng vô dụng trước cơn vận ách của nước nhà. Chủ đề ưa thích nhất của Nguyễn Khuyến chính là sự nghiền ngẫm, phân tích bản thân. Ông thường hay tự trào, tự cười mình, lấy bản thân làm một cái đích để chế diễu: Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng Cờ đương dở cuộc không còn nước Bạc chửa thâu canh đã chạy làng Mở miệng nói ra gàn bát sách Mềm môi chén mãi tít cung thang Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng 27
  28. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX (Nguyễn Khuyến, Tự trào) Với sự lịch lãm của một người từng trải, Nguyễn Khuyến thường hướng sự phê phán, nỗi bất bình vào tầng lớp trên của xã hội. Ông gắn nỗi nhục mất nước, sự suy đồi về phong hóa đạo đức với trách nhiệm của các đối tượng ấy; lấy đó làm lý do đả kích. Những kẻ mang danh rường cột nước nhà, các bậc thượng lưu trí thức, nhất là các vị đỗ đạt cao, thường bị ông chế diễu rất sâu cay. Trong lịch sử văn chương nước ta, dễ thường chưa có ai đả kích ông nghè cay độc, ác liệt như Nguyễn Khuyến, dù bản thân ông là người hiển đạt. Ông nghi ngờ những giá trị đã hóa hư danh: Cũng cờ cũng biển cũng cân đai Cũng gọi ông nghè có kém ai Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng Nét son điểm rõ mặt văn khôi Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ Cái giá khoa danh ấy mới hời Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi (Nguyễn Khuyến, Vịnh tiến sĩ giấy) Mượn tiến sĩ giấy để mắng tiến sĩ thật, Nguyễn Khuyến lên giọng chì chiết: "Giấy má nhà bay đáng mấy xu". Ông coi nghi lễ rước xách long trọng lúc vinh quy chỉ là trò con trẻ: "Ân tứ dám đâu coi rẻ rúng/ Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe" (Mừng ông nghè mới đỗ). Sự khinh miệt của Nguyễn Khuyến không phải là vô căn cứ. Điều quan trọng đối với ông, khi xét con người, không phải ở cái danh hão mà là ở hành động. Trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng thì cái tài tầm chương trích cú của những ông tân khoa tiến sĩ là vô nghĩa. Ngẫm từ mình, ông thấu hiểu và giễu cợt sự vô duyên, vô dụng của tầng lớp trí thức ngay trong hình tượng "tiến sĩ giấy". Tâm trạng đó của Nguyễn Khuyến một mặt chứng tỏ tình cảm yêu nước thương nòi, lương tâm trong sáng nhưng mặt khác, cũng gián tiếp thừa nhận sự yếu hèn, thiếu dũng khí của một nhà nho, một trí thức lỗi thời. Trong hàng ngũ các tác giả trào phúng thời này, còn có nhiều gương mặt ở các vùng miền khác nhau. Có thể kể đến những nhân vật như Phan Văn Trị, Nguyễn Văn Lạc, Huỳnh Mẫn Đạt (7) Mỗi người một giọng, một lối trào phúng riêng nhưng đều tập trung vào chỗ đánh địch, chống đầu hàng. Chính tấm lòng thương nước, thương nhà của họ đã dẫn dắt ngọn bút, 28
  29. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX tạo nên một sự hòa nhập, tập trung, ăn ý để dồn tụ thành dòng, thành phong trào sâu rộng lúc này. * Có thể nói tính thời sự, thế sự là đặc điểm nổi bật và xuyên suốt trong các hiện tượng văn hóa, văn học giai đoạn này (đến mức hầu như không có ngoại lệ hoặc có chăng cũng rất cá biệt). Tất nhiên ở mỗi xu hướng cụ thể, đặc điểm này là khác nhau. Ngay trong một dòng, một xu hướng thì mức độ, sắc thái biểu hiện ở từng trường hợp cũng không giống nhau. Chính điều này đã khiến cho nền văn học dân tộc vừa nhất quán, thống nhất lại vừa đa dạng, phong phú. Bên cạnh các xu hướng văn chương yêu nước, văn chương phúng thích xã hội đã được trình bày ở trên, còn có nhiều dòng mạch, xu hướng khác rất đáng lưu ý. Chẳng hạn những tác giả, tác phẩm thuộc xu hướng văn chương cải cách, đổi mới, hoặc những nhà văn theo khuynh hướng cảm thương, nhân đạo truyền thống. Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871) là một trường hợp đặc biệt trong số các trí thức đương thời. Ông vốn xuất thân nho học nhưng vì theo đạo Giatô nên bị triều đình cấm, không được phép ứng thí. Năm 1858, ông được giáo hội gửi sang Phương Tây với mục đích đào tạo thành một chức sắc tôn giáo. Đây là cơ hội để ông tiếp xúc, học hỏi một cách đầy đủ, có hệ thống về các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật của người Phương Tây. Những tri thức tích lũy được từ sách vở cùng những điều trực tiếp trải nghiệm ở ngoại quốc đã trở thành tiền đề cho hàng loạt kế sách duy tân tự cường đất nước của người trí thức này. Trở về nước vào năm 1861, ông bắt đầu soạn thảo những chương trình cải cách xã hội đầy tâm huyết để chuyển lên triều đình. Liên tục từ 1863 đến cuối đời, Nguyễn Trường Tộ đã hoàn thành một khối lượng tác phẩm đồ sộ với 43 bản điều trần, kế sách đề nghị cải cách sâu rộng các lĩnh vực cơ bản của xã hội Việt Nam, từ chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Các bản luận văn nổi tiếng của ông như Thiên hạ phân hợp đại thế luận, Dụ tài tế cấp luận, Giáo môn luận không chỉ hàm chứa kiến văn uyên bác, mà còn thể hiện một tấm lòng sâu nặng, đầy tâm huyết đối với nước nhà. Đáng tiếc là dù được đánh giá cao nhưng những đề nghị rất quan trọng đó đã không được triều Nguyễn áp dụng. 29
  30. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Tiếp nối tư tưởng canh tân tự cường của Nguyễn Trường Tộ là những kế sách chấn hưng đất nước của một nhân vật nổi danh khác, Nguyễn Lộ Trạch (1852 - 1895). Mặc dù không có điều kiện kinh lịch nhiều nơi như bậc đàn anh nhưng với tư chất thông minh và khả năng học hỏi xuất sắc của mình, Nguyễn Lộ Trạch cũng đưa ra được những đánh giá về thời cuộc rất xác đáng cùng những kiến giải giàu tính thuyết phục. Tập luận văn Thời vụ sách của ông đã kế thừa được tinh thần đổi mới mà Nguyễn Trường Tộ khởi xướng; đồng thời ông còn biết cách gắn kết ý tưởng cải cách với những giải pháp có ý nghĩa thực tiễn trong một thời điểm đặc biệt của lịch sử. Điều này được ông trình bày ngay trong lời dẫn của Thời vụ sách: "Năm Đinh Sửu niên hiệu Tự Đức thứ 30, người Pháp định trả lại bốn tỉnh và nối lại hòa hiếu, triều đình vui mừng cho là đã được vô sự, cho nên trong khoa thi hội đã lấy việc "sứ nước Pháp vào chầu, hòa hiếu hợp lễ" làm đầu đề bài thi. Đương lúc mắt con cọp còn nhìn đăm đăm chưa ngớt, mà đã vội tỏ ra tự túc như thế, thì cái chí hướng thế nào cũng đủ biết rồi. Tôi trông thấy đau lòng, nên viết bài này". Rõ ràng đây không chỉ là những kiến giải về chính trị xã hội đơn thuần mà còn là những tâm trạng, những nỗi niềm dân quốc sâu nặng. Cũng trên mạch vận động canh tân, đổi mới nhưng khác với Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch, những người chủ trương kiên trì con đường tâu bày tấu sớ, một nhà nho nổi tiếng khác, Đặng Huy Trứ lại thể hiện tư tưởng cải cách theo một lối riêng. Đây cũng là người đã đi đến rất nhiều nước, có kiến văn quảng bác, lại hết sức tinh tế, nhạy bén nên tiếp thu cái mới rất nhanh. Ông tỏ ra sốt sắng trong việc cổ xúy cho phong trào duy tân cải cách, đồng thời tự mình thực hành nhiều công việc mới mẻ mong chấn hưng kinh tế, kỹ nghệ nước nhà. Ông viết sách giới thiệu kỹ thuật của người Tây, chỉ huy đóng tàu biển chạy bằng hơi nước, lập hiệu ảnh, điều hành họat động ngoại thương Không phải mọi cải cách của ông đều thành công song tác động của những việc ông đã làm được đối với xã hội Việt Nam thời ấy là không ít. Đặng Huy Trứ (1825 - 1874), tự Hoàng Trung, hiệu Vọng Tân, Tỉnh Trai; quê quán ở làng Thanh Lương, huyện Hương Điền, Thừa Thiên Huế là nhân vật rất nổi tiếng trong giới sĩ lâm Việt Nam thế kỷ XIX. Sự nghiệp trứ tác của ông rất phong phú với hàng chục cuốn sách các loại (sách sáng tác, biên khảo, dịch thuật) trải rộng trên nhiều lĩnh vực: triết học, lịch sử, khoa học, kinh tế Ông là một trong những nhà duy tân lớn thế kỷ XIX, được coi 30
  31. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX là người "gieo trồng mầm khai hóa ở Việt Nam" (như đánh giá của Phan Bội Châu). Khi giặc Pháp xâm lược, ông cũng là người đứng vào hàng ngũ các nhà nho "chủ chiến" ngay từ những ngày đầu. Đây là con người có nhãn quan thấu suốt, suy nghĩ sâu xa vượt trước thời đại trên nhiều phương diện. Tác phẩm văn chương của Đặng Huy Trứ gồm 12 tập thơ (1250 bài), với nhiều tác phẩm có giá trị. Trong dòng văn chương kháng Pháp, bài thơ Vãng Đà Nẵng quân thứ tức sự của ông có lẽ là một trong những tác phẩm xuất hiện sớm nhất đề cập đến tình thế căng thẳng trước thời điểm cuộc chiến nổ ra. Bài thơ được làm vào cuối năm 1856 (khoảng tháng 10), tức là trước khi cuộc chiến bắt đầu gần hai năm, với lời chú: "Đầu tháng tám, thuyền Tây dương đến đậu ở cửa Trà Sơn. Án sát Tôn Thất Dũng đem quân cùng với lãnh binh Phạm Truật lo đối phó. Chưa được một tuần, bọn Tây dương bắn phá đồn lũy, cướp bóc và bắt giữ quan quân. Việc được tâu lên, vua sai Trần Hoằng, Đào Trí, Nguyễn Duy đến đánh đuổi. Án sát Tôn Thất Dũng, lãnh binh Phạm Truật bị cách chức tùy thuộc sự sai phái của các quan mới cử đến. Ở đây hơn hai tháng, quân dân vất vả để giữ bờ cõi. Đầu tháng mười, tôi đi khám thuyền qua đây nên có thơ này: Như kim Đà Nẵng nhất Dương di Hạp cảnh binh dân bôn mệnh bì Cửu nguyệt tam thu hàn lạo hậu Thiên môn vạn hộ khiết khuy kì Tây chinh sĩ khí phong sương khổ Nam cố thần trung tiêu cán ti (tư) Nhục thực ngã như mưu vị quốc Chiến, hòa, dữ, thủ thục cơ nghi? (Rợ Tây nay đã kéo đến Đà Nẵng Quân dân vâng mệnh ra đi giữ bờ cõi trải biết bao vất vả Sau lụt tháng chín trăm vạn hộ thiếu ăn Chinh phạt giặc Tây quân sĩ chịu nhiều sương gió Đoái trông về Nam, nhà vua lo nghĩ ngày đêm Người ăn lộc nước như ta nếu lo việc nước thì chiến, hoà, nhường, giữ biết chọn kế nào?) Nhưng đáng chú ý hơn cả trong thơ văn Đặng Huy Trứ là những bài viết về cảnh sắc và đời sống dân quê. Nhà thơ đã phát hiện thấy chất thơ, nét đẹp tiềm ẩn từ những cảnh huống bình dị diễn ra hằng nhật, từ hạt lúa cọng rơm trở đi. Bài Mễ gia An Cựu là một ví dụ: 31
  32. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Bất thiểu thiên hương dữ vạn tương Kỷ như An Cựu bạch nhi hương Chử tòng nguyệt hạ thiềm vô sắc Tân thượng phong xuy xạ mạc đương (Chẳng thiếu gì nghìn kho vạn cót Nhưng mấy nơi được như gạo de An Cựu vừa trắng lại vừa thơm Chày theo trăng xuống, trăng thua sắc Gió thổi cơm vần, xạ nhạt hương Đặng Huy Trứ, Gạo de An Cựu). Hoặc cảm giác sảng khoái khi được thưởng thức những sản vật bình thường như củ khoai lang, bát nước chè dân dã: Quát bì mãn tọa hồng đôi cẩm Trụy phấn doanh bàn bạch điểm sương Duyệt khẩu thiên nghi hàm giới thái Thanh tâm tối ái lão trà thang (Vỏ bóc gấm hồng vun cả đống Bột rơi sương trắng vãi đầy mâm Kèm dưa muối xổi ăn ngon miệng Khoái nước chè già uống nhẹ tâm Đặng Huy Trứ, Khoai lang đỡ đói) Qua những vần điệu này, thấy toát lên tình cảm đằm thắm, hồn hậu của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Cái đẹp bình dị của cuộc sống thôn quê đã đi vào thơ ông và trở nên sang trọng. Trong dòng mạch này còn phải kể đến Nguyễn Thông (1827 - 1884), một nhà hoạt động chính trị đầy tài năng đồng thời là nhà văn với nhiều tác phẩm rất có giá trị. Sự nghiệp trứ tác của Nguyễn Thông khá đa dạng. Ngoài các tập thơ: Ngọa du sào tập, Kì Xuyên thi sao, ông còn có Ngọa du sào văn tập và đặc biệt là một số truyện văn xuôi viết về các anh hùng chống Pháp trong Độn Am văn tập như Truyện Trương Định, Truyện Hồ Huân Nghiệp, Truyện Phan Văn Đạt Thơ Nguyễn Thông thể hiện một nỗi niềm ái quốc thiết tha, một mối day dứt khôn nguôi vì cảnh đất đai tổ quốc bị chia xé. Ông thường nói đến tâm sự "hoài Nam" - nỗi mong nhớ quê hương khắc khoải một cách kín đáo, đầy ngụ ý qua những sự vật, sự việc thường nhật. Chẳng hạn bài Phóng giá cô, kể về một chuyện rất bình thường (thả chim đa đa) nhưng qua đó lại biểu lộ rất rõ tình cảm da diết đối với quê nhà của kẻ ly 32
  33. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX hương. Bài thơ có lời chú thích rất cảm động: "Một người nhà quê già đem biếu ta mấy con chim đa đa, nói rằng nay tiết mùa xuân, đa đa béo, nấu cháo rất ngon. Sách xưa gọi chim đa đa là chim "hoài Nam" (nhớ phương Nam). Ta từ Nam kì ra đây đã 15 năm, thương nhớ quê hương, trông thấy chim đa đa thương xót ngậm ngùi, nên mở lồng thả cho nó bay đi. Nhân làm bài thơ ghi lại mối lòng cảm động của ta trong lúc ấy". Tâm sự của Nguyễn Thông là nỗi niềm "nhớ nước" của một nhà Nho trước sự biến cải, trầm luân của quê hương xứ sở. Sự phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn này quả là rất phong phú, đa dạng. Các biến cố lịch sử đã chi phối sâu sắc đến tính chất, quy luật vận động của văn học. Thơ văn yêu nước nở rộ, trở thành bộ phận chủ đạo, có vai trò tích cực trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhưng bên cạnh cũng có sự góp mặt của các dòng mạch, khuynh hướng vốn đã ổn định, có tính chất truyền thống khác; đồng thời đây cũng là lúc nảy nọc thứ văn chương xu thời, thậm chí có cả thứ văn chương nô dịch, văn chương độc hại Tất cả đều chịu sự tác động trực tiếp của hiện thực lịch sử, xã hội. Có thể xem đây chính là đặc điểm nổi trội thứ nhất của văn chương giai đọan này. * * * Giai đọan cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử của văn học dân tộc. Đây là chặng chuyển tiếp, là buổi giao thời giữa hai thời kì văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong vòng nửa thế kỷ, sau những biến động ghê gớm về đời sống chính trị, kinh tế, đất nước đã chuyển sang một hình thái xã hội mới và văn học, với những đổi thay không thể cưỡng lại được, cũng bắt đầu bước dần sang một thời kì mới. Sự đổi mới của văn học Việt Nam giai đọan này diễn ra theo một cách thức rất độc đáo. Trước tiên, loại hình văn học truyền thống (văn học nhà nho) có sự điều chỉnh khá rõ cả trên phương diện tư tưởng, quan niệm nghệ thuật lẫn hình thức thể hiện. Nguyên nhân của sự điều chỉnh này không gì khác là hiệu ứng từ cuộc chiến tranh chống xâm lược, chống đầu hàng của dân tộc và mục tiêu chính là để thích ứng với đòi hỏi của cuộc sống, của thời đại. Tất nhiên sự thay đổi này không tạo ra một "cú sốc", một bước nhảy vọt tức thì nào. Trước và sau mốc thời gian năm 1858, văn học không có những sự kiện, hiện tượng đột biến; phải chú ý quan sát kỹ mới có thể nhận ra những dấu hiệu đổi thay trong văn học thời bấy giờ. Đây là thời gian diễn ra 33
  34. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX quá trình tích lũy dần dần các yếu tố mới mẻ nhằm hướng tới những biến đổi quan trọng và cơ bản về sau. Những điều chỉnh chủ yếu của loại hình văn chương nhà nho diễn ra trước hết nằm ở hệ thống đề tài, chủ đề. Vào thời điểm này, vấn đề mang tính thời sự, cấp bách nhất của đời sống cộng đồng không gì ngoài chuyện chiến - hòa, sinh - tử, duy tân - thủ cựu. Văn học dù muốn dù không cũng bị cuốn hút vào vòng xoáy này. Và đương nhiên, những khuôn mẫu văn chương (vốn rất ổn định) cũng phải biến đổi để kịp thích ứng với yêu cầu thực tế. Tính chất qui phạm (xét ở phương diện đề tài, chủ đề ) đã có những thay đổi đáng kể. Mặc dù mới nhìn thoáng qua, diện mạo văn chương có vẻ vẫn như cũ song thực tế không phải vậy. Vẫn là câu chuyện về những con người yêu nước, con người trung nghĩa, nhưng hoàn cảnh mà nhân vật nếm trải lúc này hoàn toàn khác so với những gì từng có trước đây; cũng là những nguyên lý đạo đức truyền thống nhưng cách biểu hiện đã khác Chẳng hạn chuyện chống lại mệnh vua, phỉ báng triều đình mà vẫn được coi là trung nghĩa; hay nỗi u hoài, mặc cảm tội lỗi của một bộ phận đông đảo các nhà nho khi nhận ra sự lỗi thời của mình trước thời cuộc; hoặc sự xuất hiện của những người nghĩa dân anh hùng là điều chưa từng có hoặc rất hiếm hoi trong lịch sử văn học nước ta. Ngay đến các vấn đề xã hội, các đối tượng mà văn chương trào phúng nhằm vào cũng khác: đa dạng, phong phú nhưng lại tập trung hơn so với những gì mà tiếu lâm dân gian, chuyện Trạng từng đề câp đến. Điều này chứng tỏ đã có sự đổi thay trong quan niệm nghệ thuật, trong thi pháp của các tác giả. Cũng có thể nói một cách khác, chính những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống, của dân tộc đang diễn ra trước mắt đã khiến cho nhà văn phải có những điều chỉnh thích hợp. Đây cũng có thể xem là sự thắng thế của hiện thực cuộc sống đối với những quy phạm văn chương truyền thống. Song song với sự tự điều chỉnh của văn học cũ, đây cũng là thời điểm bắt đầu xuất hiện những yếu tố của một nền văn học mới: văn học quốc ngữ. Một thế hệ nhà văn mới hình thành, ra tay thực hiện sứ mạng lịch sử của mình. Bước chuẩn bị cho những đột phá, những cuộc cách mạng văn chương thực sự sẽ diễn ra trong một tương lai gần đã được khởi động. Sự hình thành thời đại mới của văn học Việt Nam gắn chặt với sự ra đời và hoàn thiện chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ, một thành tựu văn hóa lớn của dân tộc, vốn xuất hiện từ trước đó khá lâu. Ngay từ thế kỷ XVI, với mục 34
  35. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX đích tìm kiếm phương tiện ngôn ngữ để chuyển tải kinh sách đạo Thiên Chúa sang Việt ngữ, các nhà truyền giáo Phương Tây đã khởi sự việc chế tác ra thứ chữ lấy tự dạng Latinh làm mẫu này. Quá trình thử nghiệm kéo dài với sự tham gia của rất nhiều người Phương Tây (trong đó vai trò của A. de Rhodes rất quan trọng) và các trí thức người Việt đã đạt kết quả mĩ mãn. Chữ quốc ngữ là một hệ thống chữ viết hiện đại, tiện lợi, nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, thọat đầu thứ chữ này đã không nhận được sự chào đón của cộng đồng, đặc biệt là giới trí thức Nho học. Phạm vi sử dụng của nó chủ yếu hạn chế trong khu vực nhà thờ, trong một bộ phận giáo dân và chỉ dùng vào việc truyền bá Thiên Chúa giáo. Nhưng đến những năm sáu mươi, khi người Pháp đã xác lập được vị thế của mình ở Việt Nam thì mọi việc hoàn toàn thay đổi. Chữ quốc ngữ được khuyến khích sử dụng, được đưa vào dạy trong nhà trường, được dùng trong giao dịch hành chính, dân sự. Thậm chí, ở xứ Nam kì, vùng đất thuộc địa của thực dân Pháp, chính quyền còn mạnh tay can thiệp bằng những sắc luật bắt buộc và ban bố những chính sách khuyến khích quyền lợi cụ thể đối với người biết chữ quốc ngữ. Kết quả, thứ chữ mới này đã đi vào đời sống, trở nên phổ biến, thông dụng. Đây là điều kiện thuận lợi cho nền văn học mới hình thành và phát triển. Cột mốc đầu tiên đánh dấu sự khởi phát của văn chương quốc ngữ được tính từ năm 1865, tức chỉ mấy năm sau sự kiện giặc Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Thực ra trong năm này không có sự kiện văn học nổi bật nào xảy ra. Sở dĩ lấy mốc 1865 vì đây chính là năm tờ báo quốc ngữ đầu tiên, tờ Gia Định báo được xuất bản (số ra mắt đề ngày 15/4/1865). Việc ra đời ấn phẩm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống văn hoá, văn học nước nhà. Trên tờ báo này, lần đầu tiên những tác phẩm văn chương quốc ngữ được công bố một cách có hệ thống; diễn đàn này cũng là nơi giới thiệu những gương mặt quan trọng nhất của lớp nhà văn hiện đại Việt Nam. Năm 1866 Trương Vĩnh Ký cho in Chuyện đời xưa lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích trên tờ Gia Định báo. Đây là tác phẩm văn xuôi quốc ngữ đầu tiên xuất hiện chính thức trên một ấn phẩm trong nước (8). Đúng như tên gọi của nó, những truyện được đăng tải lần đầu trên báo (sau này, khi in thành sách, tên truyện đổi thành Chuyện đời xưa) chủ yếu phỏng tác từ những truyện cổ, những giai thoại đã được lưu truyền lâu nay. Tuy nhiên, điều quan trọng là nó được thể hiện dưới một dạng thức hoàn toàn khác so với văn xuôi trung đại: tự dạng mới, cách kể mới, giọng điệu mới. 35
  36. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Văn xuôi quốc ngữ giai đọan này tuy kỹ thuật còn đơn giản, quy mô tác phẩm thường ngắn gọn, nhưng xu hướng hiện đại hóa về phương diện hình thức nghệ thuật là rất rõ ràng. Chẳng hạn một chuyện dưới đây: "Con ruồi bị thưa, bị đập. Một người kia ở xứ rẫy bái quê mùa. Đến bữa nọ đơm quảy dọn ra một mâm cúng, con ruồi lên đậu ăn. Thì người chủ giận sao nó có hỗn; mới đi thưa với quan huyện rằng: Lạy ông, tôi cúng cho cha mẹ tôi, mà con chi không biết, nó bay lên nó ăn trước, hỗn láo quá lắm. Ông huyện mới biểu nó: Hễ nó hỗn hào vô phép, thì gặp nó đâu đánh nó đó. Nói vừa buông miệng, con ruồi ở đâu bay lại, đậu trên mặt ông huyện ấy; thì thằng ấy nói: Bẩm ông, ông mới xử nó làm vậy, mà nó còn dễ ngươi tới đậu trên mặt ông. Và nói và giơ tay ra, dang cánh, đánh một vả trên mặt ông huyện xửng vửng"(9). Mẩu chuyện này mặc dù có đủ cốt truyện, tình huống, nhân vật, thời gian, địa điểm song thực ra nó mới chỉ là một phác thảo dưới dạng tiểu phẩm. Có điều qua đây đã thấy bắt đầu ló dạng một kiểu văn xuôi mới mà tinh thần cốt lõi của nó là: "nói tiếng An Nam ròng", "tiếng thường mọi người hằng nói", rồi từ đó tiến đến chỗ "Lấy trí riêng của mình mà đặt ra một câu chuyện tùy theo nhân vật phong tục trong xứ, dường như truyện có thật vậy" để làm ra những tiểu thuyết theo quan niệm hiện đại (như lời thông báo thể lệ cuộc thi tiểu thuyết trên báo Lục tỉnh tân văn sau đó mấy năm). Mặc dù còn sơ giản nhưng nếu so với lối văn xuôi trong các truyện truyền kì, tiểu thuyết chương hồi bằng Hán văn thì cách hành văn như trong Chuyện đời xưa quả là đã thuộc về một phạm trù văn chương mới lạ hoàn toàn. Sự khởi đầu mang tính đột phá của một tài năng ngôn ngữ - văn học như Trương Vĩnh Ký(10) có ý nghĩa rất quan trọng. Nhưng do chỗ loại hình văn học này quá mới mẻ, lại xuất hiện trong một tình thế đan xen với văn học truyền thống do vậy quá trình phát triển của nó cũng không hề dễ dàng. Sau tác phẩm có tính chất tiên phong vừa nêu, chính Trương Vĩnh Ký cũng phải mất đến mấy năm chuẩn bị mới có những sáng tác tiếp nối theo mạch này. Cuốn sách theo lối du khảo Chuyến đi Bắc kì năm Ất Hợi (1876) của ông mãi đến năm 1881 mới được ấn hành. Diện mạo của nền văn học mới chỉ thực sự lộ diện khoảng những năm tám mươi trở đi với các tác phẩm như Thầy Lazaro Phiền (Nguyễn Trọng Quản, 1887), mảng sách dịch của Trương Minh Ký gồm Truyện Phan Sa diễn ra quốc ngữ (1884); Tê Lê Mặc 36
  37. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX phiêu lưu ký (1885); Truyện nhi đồng Francinet (1885); Robinson trên đảo hoang (1885) mảng các truyện Nôm phiên âm quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký như Cổ tích tạp bút, Nhị độ mai, Lục súc tranh công (1884), Vân Tiên truyện (1889) Tất cả các tờ báo quốc ngữ đương thời, ngoài Gia Định báo còn có Nhật trình Nam kì (ra đời 1883), Bảo hộ Nam dân (1888), Thông loại khóa trình (1888), Đại Nam đồng văn (1892), Phan Yên báo (1898), Nông cổ mín đàm (1901) đều tham gia đăng tải tác phẩm văn chương, nhất là truyện văn xuôi quốc ngữ. Điều này đã góp phần tạo nên không khí sôi nổi, nhộn nhịp của đời sống văn học. Thực ra, trong lọat tác phẩm văn xuôi quốc ngữ xuất hiện chặng cuối thế kỷ XIX thì số lượng những sáng tác văn học đúng nghĩa không nhiều. Những tác phẩm đáng lưu ý nhất của Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Huỳnh Tịnh Của đang ở giai đọan thử nghiệm. Tuy nhiên, sự bổ sung của mảng sách dịch tiếng Pháp, Trung Quốc ra chữ quốc ngữ, các tác phẩm chữ Hán, chữ Nôm trong kho tàng cổ văn dân tộc được phiên âm quốc ngữ đã tạo dựng được một nền tảng văn chương chắc chắn. Đây chính là bệ phóng để văn chương Việt Nam cất cánh trong giai đọan tiếp theo của thế kỷ XX. * * * Lịch sử văn học Việt Nam trên con đường phát triển là một quá trình vận động liên tục, một sự kế thừa, tiếp nối bền bỉ, không ngừng. Với quãng thời gian nửa thế kỷ, giai đoạn từ giữa thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX được xem là giai đoạn chuyển tiếp, một quãng giao thời của văn học. Tính chất giao thời này sẽ còn được tiếp nối trong vài thập niên nữa, trước khi văn học có những thay đổi lớn lao để bước vào một thời kì mới. Ở giai đoạn này, văn học một mặt vẫn đang trong phạm trù văn học trung đại, chưa thoát ra khỏi sự chi phối của quy phạm mỹ học Á Đông cổ với những đặc thù về nội dung và hình thức, song đã bắt đầu xuất hiện những yếu tố mới mẻ làm tiền đề cho những bước phát triển đột phá trong giai đọan kế tiếp. Sự biến động của lịch sử, của xã hội là nguyên nhân chính tác động một cách sâu sắc đến đời sống văn học. Văn học giai đoạn này không chỉ tạo ra một diện mạo riêng, một sắc thái riêng, mà còn giành được một vị trí rất đáng lưu ý trong toàn bộ tiến trình lịch sử văn học Việt Nam. 37
  38. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX 1. Theo sách Đại Nam thực lục chính biên (Quốc sử quán triều Nguyễn, NXB KHXH, H. 1964), vào thời các chúa Nguyễn, đã có nhiều người Phương Tây làm việc trong các đơn vị bộ binh. Đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, trong nội các có 4 người được bổ nhiệm quan chức là J. B. Chaigneau (tên Việt là Nguyễn Văn Thắng), F. Vannier (tên Việt là Nguyễn Văn Chấn), De Forcant (tên Việt là Nguyễn Văn Lăng) và Desperles; mỗi người được cấp 50 lính để phục dịch, sai phái. 2. Theo Lịch sử Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 41. 3. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858 -1920, NXB Văn học, 1984, tr.472. 4. Phan Văn Trị (1830 - 1910), người làng Hanh Thông, huyện Bảo An, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Ông đậu cử nhân khoa Kỷ Dậu (1849), không ra làm quan, mở trường dạy học ở Phong Điền (Cần Thơ). Ông là người hăng hái và kiên trì chủ trương đánh Pháp, là một trong những người đề xướng phong trào "tị địa" để chống giặc trong những ngày đầu chiến tranh. Phan Văn Trị mất năm 1910 ở Phong Điền. Tôn Thọ Tường (1825 - 1877) cũng người Gia Định, là nhân vật theo Pháp làm tới chức Đốc phủ sứ ở Nam kì đầu tiên, về sau làm kẻ giúp việc cho lãnh sự Pháp ở Hà Nội, bị giết năm 1877. 5. Toàn văn bài Tự thuật, số IX (trong số 10 bài) của Tôn Thọ Tường: Kể mấy mươi năm nước lễ văn Trời đà xui thế, thế khôn ngăn Bốn đời chung đội ơn nuôi dạy Ba tỉnh riêng lo việc ở ăn Hết sức người theo trời chẳng kịp Hoài công chim lấp biển khôn bằng Phải sao chịu vậy thôi thì chớ Nhắm mắt đưa chân, lỗi đạo hằng 6. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, triều Nguyễn ký hòa ước với Pháp. Sự kiện này đã khiến văn thân cả nước nhất loạt phản đối. Sôi sục nhất là sĩ phu bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Nhằm dẹp yên dư luận, Tự Đức đã xuống chiếu trách cứ văn thân không hiểu thời thế, hành xử vượt quá bổn phận. Hành động này lại càng làm cho sĩ phu bất bình. Họ đã làm tờ tấu phản bác và phê phán nặng nề triều đình hèn đớn, đồng thời khẳng khái: "Thánh chỉ nói như thế, chúng tôi không dám vâng theo" (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858 -1920, sđd, tr. 467). 7. Nguyễn Văn Lạc (1842 - 1915), cũng còn gọi là Học Lạc, người làng Mỹ Chánh, Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Ông là người thông minh, sắc sảo; hay làm thơ trào phúng nhưng không để lại thi tập nào. Huỳnh Mẫn Đạt (1807 - 1883), người làng Tân Hội, huyện Tân Long, Gia Định (nay là TP HCM), đậu Cử nhân năm 1831; làm quan đến Tuần phủ dưới triều Tự Đức. Ông làm nhiều thơ văn đả kích giặc Pháp và tay sai nhưng không để lại thi tập nào. 8. Theo tư liệu của nhà nghiên cứu N.I. Niculin, tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện sớm nhất là cuốn Sách sổ chép các việc của Philip Bỉnh được hoàn thành tại Lisbon 38
  39. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX năm 1822. Cuốn sách kể về chuyến phiêu lưu của tác giả (chạy trốn khỏi các thế lực giáo hội), vượt qua ba đại dương như thế nào. Vị Thầy Cả này đã viết nhiều sách bằng chữ quốc ngữ trong khoảng thời gian sống ở Bồ Đào Nha (từ 1796 đến khoảng 1832). Tuy nhiên sách của ông chưa xuất hiện ở Việt Nam. (N.I. Niculin, Văn học Việt Nam - sơ thảo, trong sách Dòng chảy văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006). 9. Bằng Giang, Văn học quốc ngữ ở Nam kì 1865 - 1930, NXB Trẻ, 1998, tr.384. 10. Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) là một nhà thông thái tầm cỡ thế giới; có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của tiếng Việt và văn học quốc ngữ. Sự nghiệp trứ tác của ông rất phong phú, với hàng trăm đầu sách các loại. Ông sử dụng thành thạo rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Ngoài các sách dạy tiếng Việt, ông còn biên soạn sách giáo khoa dạy tới 9 ngoại ngữ khác nhau thuộc khu vực châu Á. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đọan giao thời, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. - Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. - Nguyễn Phong Nam (chủ biên) và tác giả khác (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương Triều Nguyễn, NXB Giáo dục, Hà Nội. - Nguyễn Phong Nam (1997, tái bản 2004), Giáo trình văn học Việt Nam giai đọan cuối thế kỷ XIX, NXB Giáo dục, Hà Nội. - Nguyễn Phong Nam (1998), Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội. - Nguyễn Phong Nam (2001), Dấu tích văn nhân, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng. - Nguyễn Xuân Ôn (1977), Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, NXB Văn học, Hà Nội. - Nhóm Trà Lĩnh (1990), Đặng Huy Trứ, con người và tác phẩm, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. - Chu Thiên, Đặng Huy Vận, Nguyễn Bỉnh Khôi (1976), Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, NXB Văn học, Hà Nội. - Nguyễn Thông (1984), Tác phẩm Nguyễn Thông, NXB Long An. - Lê Trí Viễn, Phan Côn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam (1976), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 4 a, NXB Giáo dục, Hà Nội. 39
  40. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 1. Cuộc đời và sự nghiệp Trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam giai đọan cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Đình Chiểu giữ một vị trí rất quan trọng. Ông là nhà văn có ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển của văn học dân tộc nói chung, văn học Nam bộ nói riêng. Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 (Nhâm Ngọ) tại Gia Định. Tên chữ của ông là Mạnh Trạch, hiệu là Trọng Phủ và Hối Trai. Thân phụ của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy, nguyên quán ở huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nguyễn Đình Huy từng phục vụ dưới trướng Tả quân Lê Văn Duyệt trong nhiều năm; từ lúc tướng quân họ Lê còn làm quan ở kinh đô cũng như khi được điều vào làm Tổng trấn Gia Định. Sau khi Lê Văn Duyệt chết, vào thời điểm nổ ra cuộc bạo động chống lại triều đình do Lê Văn Khôi (vị con nuôi của quan Tổng trấn) cầm đầu vào năm 1833, Nguyễn Đình Huy sợ bị liên lụy phải bỏ cả gia đình chạy về kinh. Một thời gian sau đó, ông trở về Nam tìm cách đưa Nguyễn Đình Chiểu ra Huế và gửi nhờ gia đình một người quen. Sau một thời gian khá dài nương náu ở Huế, năm 1840, Nguyễn Đình Chiểu quay về Gia Định sống với mẹ (bà Trương Thị Thiệt, vợ lẽ của Nguyễn Đình Huy) và dùi mài kinh sử chờ ngày thi. Khoa Kỷ Mão (1843), Nguyễn Đình Chiểu đậu Tú tài ở trường thi Gia Định. Năm đó ông mới ngoài hai mươi tuổi. Ba năm sau, ông ra Huế chờ dự kì thi Kỷ Dậu (1849), nhưng chưa kịp dự thi thì nhận được tin mẹ mất, phải trở về Nam để cư tang. Trên đường hồi Nam, ông ốm nặng, sau đó bị mù. Trong khoảng thời gian từ 1853 - 1854, ông sống tại Gia Định cùng với vợ (bà Lê Thị Điền); mãi cho đến khi thành này thất thủ vào tay người Pháp thì ông về trú ngụ tại làng Thanh Ba, Cần Giuộc (nay thuộc tỉnh Long An). Kể từ 1862 trở đi, khi triều Nguyễn ký Hiệp ước cắt 3 tỉnh miền Đông 40
  41. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX cho Pháp thì ông cùng gia đình lại chuyển đến Ba Tri (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Nguyễn Đình Chiểu là bậc trí thức có uy tín, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cộng đồng. Ông được coi là một trong những người chủ xướng phong trào yêu nước chống Pháp vùng Nam bộ (làm mưu sĩ cho các thủ lĩnh kháng chiến, phát động những cuộc di tản, "tị địa" để tẩy chay kẻ thù xâm lược ), mở trường dạy học, làm thuốc trị bệnh cứu người, sáng tác văn chương truyền bá đạo lý Mặc dù bị mù lòa bệnh tật, song con người đó đã không cam chịu, không chấp nhận số phận mà tìm cách vượt lên, làm những việc hữu ích cho xã hội. Ông trở thành kẻ hướng đạo và chạy chữa cho mọi người với một niềm tin tưởng sắt đá vào sự chiến thắng của chính nghĩa, của cái thiện. Nguyễn Đình Chiểu là danh nhân văn hóa của dân tộc. Ông đã đạt được thành quả lao động xuất sắc trên nhiều lĩnh vực khác nhau: giáo dục, y học và văn học. Trên cương vị người thầy, Nguyễn Đình Chiểu đã đào luyện được nhiều thế hệ học trò có phẩm chất tốt. Đạo đức, uy vọng của ông đã thấm sâu vào các môn sinh, góp phần hun đúc "nguyên khí" cho vùng đất mới phương Nam. Với tư cách nhà văn, ông đã có những đóng góp quan trọng cho văn học dân tộc bằng sự nghiệp trứ tác của mình. Ngay cả trong lĩnh vực y học, ông cũng đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp là một hiện tượng lạ trong kho tàng y văn truyền thống của dân tộc. Cuốn sách này chứa đựng nhiều điều khiến ta phải ngạc nhiên, thán phục về tầm quảng bác, sự uyên thâm của tác giả. Đây rõ là một tác phẩm văn học nhưng lại cũng là một cuốn sách thuốc rất độc đáo. Nó không chỉ chứa đựng một quan niệm tiến bộ về đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, mà còn tỏ rõ sự thông hiểu, am tường rất mực của ông trong nghề thuốc. Không hiểu ông đã kịp tích lũy được một khối lượng tri thức y học hết sức phong phú như vậy (gồm cả kinh nghiệm chữa bệnh dân gian, y văn Việt Nam và Trung Quốc) vào lúc nào để có thể tập hợp, trình bày cặn kẽ trong cuốn sách đồ sộ đến thế. Bởi từ năm 27 tuổi ông đã bị mù, đến 38 tuổi thì bị cuốn vào cảnh tao loạn, điều kiện để tiếp xúc với sách vở, tài liệu rõ ràng là rất hạn chế. Chỉ riêng điều đó cũng có thể thấy cái quyết tâm, nghị lực phi thường của ông trong cuộc sống. Cái mục đích học tập, tu luyện của Nguyễn Đình Chiểu thật đáng trân trọng. Bài học đầu tiên về Nguyễn Đình Chiểu chính là bài học về cách sống. Sự sống là điều quý giá nhất, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải biết quý trọng và gìn giữ nó; phải biết vượt qua mọi bế tắc tuyệt vọng để giành lấy một cuộc sống đẹp, có ích. 41
  42. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng về lòng yêu quê hương đất nước. Tình nghĩa dân quốc sâu nặng đã trở thành một "phẩm chất" của con người này. Cũng vì thế mà ông đặc biệt nhạy cảm trước mọi vấn đề thuộc về đời sống chính trị xã hội và biết cách xử lý các tình huống đúng đắn, chính xác. Vào thời điểm cả nước đang xao xác vì cái tin triều đình ký hiệp ước nhường đất Nam Kì, Nguyễn Đình Chiểu, với trực cảm của một nhà Nho chân chính, suốt đời gắn bó với đất nước quê hương, đã ngay lập tức nhận ra sai lầm của nhà cầm quyền. Suy nghĩ về sứ mạng kẻ sĩ, trách nhiệm con dân của ông rất rõ ràng: "Mến nghĩa bao đành làm phản nước/ Có nhân sao nỡ phụ tình nhà?". Cái đạo lý lớn lao nhất, có ý nghĩa nhất ở đời là "đạo" yêu nước, là đại nghĩa; cho nên ông không chấp nhận lối hành xử bạc nhược của triều đình. Cắt đất cho giặc là bỏ nước, cũng có nghĩa là bất nhân phi nghĩa. Đây chính là nguyên do khiến ông kiên quyết đứng về phe chủ chiến, khởi xướng phong trào "tị địa". Bước đường phiêu bạt của ông hòa vào dòng người bồng bế dắt díu nhau rời khỏi quê hương đã thể hiện rất rõ thái độ "bất cộng đái thiên" đối với kẻ thù; mặt khác, nó cũng chứng tỏ tấm lòng son sắt của ông đối với đất nước. Lòng yêu nước đã soi rọi cho bước chân của người trí thức mù loà hòa nhập vào đúng xu hướng tiến lên của lịch sử. Vào thời điểm ấy, cả dân tộc được đặt trước ngã ba, ngã bảy của sự lựa chọn. Lối đi mà Nguyễn Đình Chiểu đã chọn: cùng với nhân dân chống Pháp xâm lược, chống triều đình bán nước cũng chỉ là một. Và lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn của sự lựa chọn này. 2. Tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu Di sản văn chương của Nguyễn Đình Chiểu để lại cho hậu thế rất phong phú. Tuy nhiên, do sớm bị mù lòa, ông sáng tác trong điều kiện hết sức khó khăn; không thể tự mình viết, phải dựa chủ yếu vào trí nhớ để làm ra tác phẩm rồi nhờ người thân ghi chép lại. Công việc sáng tạo nghệ thuật theo phương thức này rõ ràng là đầy cực nhọc và kém hiệu quả. Trước hết là những khó khăn trong khâu chỉnh sửa, hoàn thiện tác phẩm. Đối với Nguyễn Đình Chiểu thì đây là công đoạn tốn nhiều công sức nhất và trở ngại do vậy cũng sẽ lớn hơn rất nhiều so với các tác giả khác. Điều này rõ ràng có ảnh hưởng đến độ trau chuốt, sự tinh xảo (nhất là về mặt ngôn từ) của tác phẩm. Ngoài ra, cũng vì ông không để lại thủ bút cho nên việc nghiên cứu, tiếp nhận tác phẩm rất khó khăn. Từ trước tới nay, việc xử lý văn bản tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu luôn là một thách đố đặt ra cho giới nghiên cứu. Sự nghiệp trứ tác của Nguyễn Đình Chiểu gồm hai mảng chủ yếu: các bài thơ, văn tế và các truyện thơ Nôm. Mặc dù chúng được sáng tác trong 42
  43. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX nhiều thời điểm, đề cập đến những vấn đề khác nhau của đời sống xã hội thế nhưng lại rất nhất quán, rất thống nhất về cảm hứng chủ đạo, về tư tưởng nghệ thuật. Có thể gọi đó là sự quán xuyến của tư tưởng "nhân nghĩa Nguyễn Đình Chiểu" - một giá trị tinh thần độc đáo mà nhà văn đã thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật của mình. Tư tưởng này thấm đẫm trong tất cả mọi tác phẩm, từ các bài thơ, văn tế cho đến những truyện thơ quy mô lớn. Các dạng thức biểu hiện tuy khác nhau song cái cốt lõi chỉ là một. Có khi nhà văn tập trung vào việc biểu dương cái thiện, đấu tranh chống lại cái ác trong phạm trù đạo đức xã hội; lại có khi ông tập trung vào việc biểu dương lòng yêu quê hương xứ sở, đất nước ông bà; đấu tranh chống lại những kẻ độc ác làm hại nhân dân, những biểu hiện thuộc phạm trù chính trị xã hội. Biện chứng trong tư tưởng của tác giả là: Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương. Ông đã dồn hết tất cả nỗi căm phẫn, khinh ghét của mình (ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm) vào những gì làm hại dân. Cái chuẩn để ông bộc bạch thái độ yêu ghét của mình là vì dân. Cái độc đáo, nét khu biệt trong tư tưởng Nguyễn Đình Chiểu là ở đó. Nguyễn Đình Chiểu ý thức rất rõ trách nhiệm, sứ mạng của người cầm bút. Điều này được ông khái quát trong câu thơ bất hủ, mang ý nghĩa một tuyên ngôn nghệ thuật: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. Đấy cũng là tư tưởng bao trùm, có ý nghĩa xuyên suốt trong mọi tác phẩm của ông. 2.1. Thơ, văn tế Căn cứ vào tư liệu hiện có, số lượng các bài thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu không nhiều. Tất cả chỉ gồm 46 đơn vị tác phẩm: 1 bài hịch (Thảo thử hịch), 1 bức thư (Ký bào đệ thơ); 3 bài văn tế (Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn, Điếu Trương tướng quân văn, Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn) còn lại là các bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật (trong đó có 2 bài liên hoàn: Điếu Trương tướng quân liên hoàn thập nhị thủ và Điếu Ba Tri đốc binh Phan công trận vong thập thủ). Danh mục tác phẩm nêu trên cho ta thấy chủ đề trong thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu rất tập trung. Phần lớn sáng tác của ông đều hướng đến việc ngợi ca những gương anh hùng nghĩa sĩ quên thân vì đại nghĩa, nỗi xót xa trước cảnh đất nước bị họa xâm lăng và lòng căm giận kẻ thù xâm lược. Đây cũng là phần đóng góp xuất sắc của ông vào dòng văn học yêu nước - dòng chủ lưu của văn học Việt Nam giai đoạn này. 43
  44. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Trong mảng thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu thì các khúc ca bi tráng về những con người nghĩa dũng buổi đầu kháng Pháp là những áng văn chương có giá trị nổi bật nhất. Với nhóm tác phẩm này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, hình tượng người anh hùng kiểu mới của thời đại đã xuất hiện và đi vào bất tử. Đó là các lãnh tụ của phong trào chống giặc giữ nước, bảo vệ dân lành: Làm người trung nghĩa đáng bia son Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn Cơm áo đền rồi ơn đất nước Râu mày giữ vẹn phận tôi con Tinh thần hai chữ phau sương tuyết Khí phách ngàn thu rỡ núi non Gẫm chuyện ngựa Hồ chim Việt cũ Lòng đây tưởng đó mất như còn (Điếu Ba Tri đốc binh Phan công trận vong thập thủ, bài X) Những bậc nghĩa dũng như Trương Định, Phan Tòng, Hồ Huân Nghiệp đúng là những nhân cách cao cả, đã tỏa sáng trong một giai đoạn lịch sử đầy cam go của dân tộc. Họ tôn thờ đạo lý, coi trọng cương thường, nhưng không phải là người cố chấp, câu nệ. Khi phải đối mặt với thực tế nghiệt ngã, cần lựa chọn, họ dám khẳng khái kháng chỉ, trái mệnh vua để "theo bụng dân" chống xâm lược, chống đầu hàng. Trước cơn vận ách của nước nhà, bậc sĩ phu sẵn sàng đứng ra gánh vác trọng trách với tâm niệm: Vì nước tấm thân đã gửi còn mất cũng cam/ Giúp đời cái nghĩa đáng làm nên hư nào nại. Những con người dám xả thân vì đại nghĩa đó đã hiện diện trong văn chương cụ Đồ Chiểu với một khí phách hào hùng, quả cảm. Nguyễn Đình Chiểu là người đầu tiên và cũng là người duy nhất xây dựng thành công hình tượng người nông dân yêu nước chống xâm lược trong văn học Việt Nam thời trung đại. Bằng những bài văn tế xuất sắc, ông đã tạo dựng tượng đài cho người nghĩa dân, những kẻ thuộc giai tầng hèn kém nhất trong xã hội. Bức chân dung ấy được dựng bằng một tấm lòng nhân hậu vô bờ, một sự ngưỡng mộ sâu sắc và một tài năng trác tuyệt. Ông đã đưa thể loại văn tế tiến những bước nhảy vọt. Người đương thời đánh giá rất cao văn nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu qua các bài văn tế này. Tùng Thiện vương Miên Thẩm đọc điếu văn của ông đã phải thốt lên: Quốc ngữ danh tề Manh Tả sử Quỷ hùng ca đáo Khuất Bình ai (Đọc Điếu văn nghĩa dân tử trận của Nguyễn Đình Chiểu) 44
  45. Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Lời của bậc vương giả so sánh văn chương Đồ Chiểu với những Tả Khâu, Khuất Nguyên - hai nhân vật lừng danh trong lịch sử văn hóa Trung Hoa cổ không phải là ngoa ngôn. Văn tài cũng như "thốn tâm đan" (tấc lòng son) mà Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện trong các bài văn tế xứng đáng được đề cao như vậy. 2.2. Truyện thơ nôm Di sản truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu gồm 3 tác phẩm: Ngư Tiều y thuật vấn đáp; Dương Từ Hà Mậu và Lục Vân Tiên. Đây là một con số rất ấn tượng bởi trong giới văn nhân nước ta thời trước, chỉ có hai người đạt đến con số này(1). Các truyện thơ của ông đều ở trong tình trạng không có di cảo và cũng không thể xác định được thời điểm sáng tác cụ thể vào lúc nào. Truyện Ngư Tiều y thuật vấn đáp (tên đầy đủ là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca) dài tới 3642 câu lục bát, ngoài ra còn kèm thêm 21 bài thơ Đường luật, rất nhiều phụ chú, trích dẫn từ các sách thuốc cũ của Trung Quốc. Đây là tác phẩm về nghề thuốc, được diễn đạt dưới dạng vấn đáp cho sinh động, diễn ca cho dễ nhớ, dễ phổ biến. Toàn bộ những kiến thức y học, đạo lý nghề y được trình bày một cách khúc chiết, rành rẽ trên nền một tác phẩm văn học: câu chuyện hai người tầm sư học đạo nhằm mục đích cứu đời, cứu người. Bởi thế, có thể xem Ngư Tiều y thuật vấn đáp là một cuốn sách y - văn học. Cốt truyện tác phẩm này đặc biệt ở chỗ những yếu tố chuyên môn (y học) được lồng ghép hết sức khéo léo vào trong các sự kiện mang tính lịch sử, thế sự một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn. Điều lý thú nữa là mặc dù mang đầy đủ tính chất một giáo trình y học, thế nhưng dư âm của thực tại (hoàn cảnh lịch sử dân tộc những năm năm mươi, sáu mươi thế kỷ XIX) lại in dấu ấn rất rõ trên từng trang, từng dòng của tác phẩm. Nhân vật chính trong tác phẩm là Mộng Thê Triền và Bào Tử Phược (những tên gọi có nhiều ẩn ý). Cuộc đời của họ thực sự là những ẩn dụ về nỗi khổ "vợ bìu con ríu". Mộng Thê Triền làm tiều phu núi Bạch Vân, mới 40 tuổi mà lấy vợ những 5 lần. Bốn đời vợ trước chết yểu, người thứ năm cũng đang lâm cảnh ốm đau bệnh tật đến cùng bần khốn khổ. Bào Tử Phược làm ngư ông ở Đông Xuyên, 30 tuổi, có 10 đứa con thì hữu sinh vô dưỡng đến 8 đứa. Hai kẻ bất hạnh về đường thê tử này gặp nhau, cảm thông cảnh ngộ của nhau và cùng phát nguyện đi tìm danh y học thuốc nhằm cứu mình và giúp đời. Qua môi giới của một người có tên Đạo Dẫn, họ gặp Kì Nhân Sư, một bậc thánh trong nghề thuốc. Ông thầy tài giỏi này có một lai lịch 45