Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Phần 2)

pdf 57 trang phuongnguyen 7430
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_van_hoc_trung_dai_viet_nam_phan_2.pdf

Nội dung text: Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Phần 2)

  1. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -Tóm lại từ những tài liệu vay mƣợn, tác giả đã tạo ra một tác phẩm có quy mô lớn hơn bất cứ tác phẩm nào mà ông đã vay mƣợn. 2.Bút pháp tƣợng trƣng và khả năng phản ánh chân thực cuộc sống. -Trong Chinh phụ ngâm nghệ thuật ƣớc lệ đƣợc sử dụng một cách phổ biến. Ở đây tất cả các chi tiết không nên hiểu theo ý nghĩa xác thực của nó mà phải hiểu trong tính chất ƣớc lệ, tƣợng trƣng. - Sáng tác với bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ nhƣng Chinh phụ ngâm vẫn phản ánh chân thực cuộc sống bởi vì tác phẩm đã nói đƣợc vấn đề cơ bản của thời đại, tâm lí của con ngƣời thời đại. 3.Nghệ thuật biểu hiện tâm trạng. -Tác giả đã xây dựng đƣợc một kết cấu chặt chẽ, miêu tả đƣợc sự diễn biến phong phú, tinh vi trong tâm tình chinh phụ theo một trình tự lôgic tâm lí chặt chẽ bảo đảm sự thống nhất. Tác giả đã gắn tâm lí với hoàn cảnh, tôn trọng quy luật tâm lí. Ðau khổ tăng dần, nhận thức về chiến tranh cũng diễn biến. Ðây là kết quả của một quá trình suy ngẫm và thể hiện. -Tác giả đã chú ý tả cảnh để tả tình, tình cảnh có khi thống nhất hoặc mâu thuẫn. -Tác giả đã sử dụng thủ pháp trùng điệp (láy lại), liên hoàn (nối tiếp), chiếu ứng (so sánh) để tạo ra những đợt sóng cảm xúc. -Tác giả đã chú ý khai thác nhiều yếu tố tâm lí nhƣ liên tƣởng, hồi tƣởng, tƣởng tƣợng. -Ngôn ngữ điêu luyện: Chinh phụ ngâm có cả một kho từ vựng diễn tả tình cảm u sầu với những sắc thái khác nhau. *Tóm lại tác giả đã miêu tả tâm trạng của chinh phụ khá sâu sắc và tâm trạng ấy phản ánh con ngƣời Việt Nam- con ngƣời thiết tha với hạnh phúc. Vì thế tác phẩm giúp chúng ta hiểu con ngƣời Việt Nam trong hiện tại. 4.Thành công của bản dịch. Bản dịch đƣợc coi nhƣ là một sáng tác phẩm có giá trị độc lập tƣơng đối với nguyên văn. VI. KẾT LUẬN -Tuy có những hạn chế nhất định, nhƣng Chinh phụ ngâm là tiếng nói khao khát hạnh phúc, khao khát hòa bình của dân tộc ta trong một thời đại nhất định. Tiếng nói ấy càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì nó là tiếng nói của một ngƣời phụ nữ- nạn nhân đau khổ nhất của chế độ cũ. Ðƣơng thời tác phẩm đã góp phần vào cuộc đấu tranh cho quyền sống, quyền hƣởng hạnh phúc của con ngƣời, đấu tranh chống áp bức của giai cấp thống trị. -Ngày nay, tiếng nói thiết tha với hạnh phúc tình yêu của tác phẩm còn rất có ích trong việc xây dựng tâm hồn cho thế hệ trẻ, đó cũng là lí do khiến cho tác phẩm đƣợc đƣa vào chƣơng trình của phổ thông trung học. Chƣơng 13: HỒ XUÂN HƢƠNG I. CON NGƢỜI VÀ THƠ 54 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  2. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam 1. Con ngƣời Dựa vào một số tài liệu lƣu truyền, dƣạ vào những bài thơ đƣợc khẳng định là cuả Xuân Hƣơng, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bƣớc đầu về tiểu sử của nữ sĩ nhƣ sau: -Hồ Xuân Hƣơng thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lƣu, tỉnh Nghệ An. Ðây là một dòng họ lớn có nhiều ngƣời đỗ đạt và làm quan nhƣng đến đời Hồ Phi Diễn- thân sinh của bà thì dòng họ này đã suy tàn. -Bà sống vào thời kỳ cuối Lê, đầu Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX). Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hƣởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chƣúng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nƣớc phong kiến. -Thành phần xuất thân: Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiệnì sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những ngƣời phụ nữ bị áp bức trong xã hội. -Hồ Xuân Hƣơng ít chịu ảnh hƣởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng nhƣ về phƣơng diện văn chƣơng. -Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhƣng học hành cũng không đƣợc nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn-các nhà nho.Nữ sĩ còn làì ngƣời từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nƣớc. -Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhƣng đời tƣ lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hƣơng lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc *Tóm lại: Hồ Xuân Hƣơng là một nhà thơ đã sống một cuộc đời không âm thầm lặng lẽ nhƣ bao ngƣời đàn bà trong xã hội cũ mà bà đã sống một cuộc đời đầy sóng gió trong một hoàn cảnh xã hội cũng đầy sóng gió. 2.Thơ Hồ Xuân Hƣơng. -Thơ Xuân Hƣơng cũng rắc rối, phức tạp nhƣ chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lƣu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản. -Số thơ Nôm lâu nay đƣợc coi là của nữ sĩ khoảng năm mƣơi bài. Ðây là tập thơ Nôm luật Ðƣờng xuất sắc của nền văn học dân tộc (Tập thơ Xuân Hƣơng thi tập) Ngoài tập thơ này còn có tập thơ Lƣu Hƣơng kýï mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với những ngƣời bạn trai. -Ðọc kĩ ngƣời ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hƣơng và Lƣu Hƣơng ký, chủ yếu là về phong cách biểu hiện Trong Lƣu Hƣơng Ký có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần thơ chữ Nôm trong Lƣu Hƣơng Ký nếu so sánh với thơ lâu nay đƣợc coi là của Xuân Hƣơng thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ cữ Nôm trongLƣu Hƣong Ký có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc cạnh, gân guốc nhƣ ở Xuân Hƣơng thi tập. Vì lí do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn Lƣu Hƣơng Ký đƣợc coi là một tập thơ để tham khảo. II.XUÂN HƢƠNG THI TẬP 1.Những vần thơ viết về ngƣời phụ nữ. 55 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  3. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Vấn đề ngƣời phụ nữ là vấn đề thời sự của văn học giai đoạn này. Vấn đề ngƣời phụ nữ đƣợc đặt ra với qui mô sâu rộng và đƣợc soi sáng ở nhiều góc độ rất tinh tế. Dƣờng nhƣ trong giai đoạn này không có mấy nhà thơ không viết về ngƣời phụ nữ. Sáng tác trong bối cảnh văn học ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của mình, nhà thơ đã viết rất nhiều về ngƣời phụ nữ. 2.1.1.Ðối tƣợng ngƣời phụ nữ mà thơ Hồ Xuân Hƣơng hƣớng tới. Viết về ngƣời phụ nữ, bà đã viết về ngƣời phụ nữ lao động, ngƣời phụ nữ bình dân với nhiều bất hạnh. Bà viết về họ một cách trực tiếp với một thái độ dũng cảm. 2.1.2.Nỗi đau của hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng. Tiếp tục tiếng nói của truyền thống văn học dân tộc, viết về ngƣời phụ nữ Hồ Xuân Hƣơng cũng đã viết về nỗi đau của họ. Có thể nói hình ảnh ngƣời phụ nữ với cảm xúc khổ đau gần nhƣ thấm khắp các thi phẩm viết về mình, viết về ngƣời phụ nữ của Xuân Hƣơng. Ngƣời phụ nữ trong thơ bà dƣờng nhƣ chƣa một lần nhận diện đƣợc hạnh phúc. Nỗi đau của ngƣời phụ nữ hiện lên trong thơ bà cũng rất tập trung, rất nổi bật. 2.1.2.1.Nỗi đau của tình duyên không toại nguyện. Bài thơ tiêu biểu cho nỗi đau này là bài Mời trầu. Bài thơ cùng với chùm thơ tự tình I, II, III làm nên mảng thơ đặc biệt cuả Xuân Hƣơng thi tập- mảng thơ tâm sự, thơ thân phận. Ðây là những bài thơ trực tiếp thể hiện nỗi lòng, suy nghĩ và khát vọng của tác giả về cuộc đời và thân phận mình. Bài thơ có thể đƣợc sáng tác thời còn trẻ vì lời thơ chƣa đến nỗi chua chát. Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi. Có phải duyên nhau thì thắm lại, Ðừng xanh như lá, bạc như vôi. -Hai câu đầu nhân vật trữ tình giới thiệu miếng trầu và mời trầu +Miếng trầu bao gồm những sự vật nhỏ mọn, nếu không muốn nói là tầm thƣờng. +Ở đây miếng trầu, quả cau, ngôn ngữ tự xƣng và phong cách khẩu ngữ Này, mới quệt rồi, tất cả đã có ý nghĩa biểu hiện một người con gái có ý thức về bản thân, có bản lĩnh nhƣng cũng có tấm lòng bình dị, chân chất cũng có những tình cảm rất chân thành. -Hai câu cuối: Nhân vật trữ tình bộc bạch nguyện vọng trong quan hệ tình cảm lứa đôi. -Bài thơ có một kết cấu đặc biệt: câu ba là khát vọng, câu bốn là cảm nhận về hiện thực cay đắng trong cuộc sống tình duyên của ngƣời phụ nữ dƣới xã hội phong kiến. Phải chăng với kết cấu này, tác giả muốn nói rằng trong cuộc đời cũ đối với ngƣời phụ nữ hạnh phúc chỉ là điều có trong mơ ƣớc, còn khổ đau luôn là hiện thực. -Về phƣơng diện bút pháp, hai câu thơ nhắn nhủ, kêu gọi, răn đe này lại có tính chất đảo ngƣợc vị trí của quá trình chuyển hóa: Xanh+bạc=thắm(thắm,bạc,xanh. Bài thơ là lời kêu gọi về một tình yêu chân thành, say đắm, thủy chung nhƣng khép lại thì dƣ âm, ấn tƣợng về một hiện thực cay đắng xanh nhƣ lá, bạc nhƣ vôi vẫn cứ nặng trĩu trong tâm hồn ngƣời đọc. 56 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  4. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Bài tự tinh số I: Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom Oán hận trông ra khắp mọi chòm Mõ thảm không khua mà cũng cốc Chuông sầu không đánh cớ sao om Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ Sau giận vì duyên để mõm mòm Tài tử văn nhân ai đó tá Thân này đâu đã chịu già tom. -Hai câu đề: Bài thơ đƣợc mở đầu bằng tiếng gà gáy trên bom, qua tiếng gà văng vẳng là cả một không gian vắng lặng. -Hai câu thực: Hai câu thực nói rõ nỗi oán hận và gọi nó là sầu, là thảm. -Hai câu luận: Vẫn phô bày tiếp nỗi buồn, nỗi giận do những tiếng mõ thảm, những tiếng chuông sầu kia gợi nên. -Hai câu kết: Kết thúc bài thơ là tiếng gọi vừa có tính chất nghi vấn (hỏi), vừa có tính chất than- gọi Tài tử văn nhân ai đó tá. Ðó là cách gọi suông vì không có ai đáp lại và không đƣợc đáp lại thì ngƣời gọi đã buồn càng buồn hơn. Song câu kết thúc vẫn là một lời thách đố với số phận, với duyên kia. Duyên kia dù đã mõm mòm nhƣng thân này đâu đã chịu già tom. Câu thơ nhƣ nói lên cái bản lĩnh cứng cỏi, cái sức sống khỏe khoắn mang màu sắc bƣớng bỉnh của ngƣời con gái đầy oán hận đối với cuộc đời-Hồ Xuân Hƣơng. Qua bài thơ, chúng ta nhƣ nhận ra Hồ Xuân Hƣơng là nhà thơ đau hết chỗ đau, buồn hết độ buồn nhƣng vẫn bƣớng, vẫn ngang, vẫn không chịu đầu hàng, buông xuôi số phận. Vì lẽ đó mà bài thơ có giá trị nhân bản cao. Ở bài tự tình số II, tác giả lại viết: Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con Sự sống của đất trời cứ vận hành nhƣ muôn thƣở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình duyên. Ðọc thơ bà, ngƣời đọc có cảm giác ngƣời phụ nữ trong thơ Xuân Hƣơng gần nhƣ chƣa một lần nhận diện đƣợc hạnh phúc. 2.1.2.2.Nỗi đau không đƣợc làm chủ cuộc đời. Nỗi đau này đƣợc tác tác giả tập trung khắc hoạ trong bài Bánh trôi nƣớc và Tự tình III. Bài Bánh trôi nƣớc: 57 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  5. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son. -Hai câu khai thừa: +Câu1: Câu thơ nhƣ là sự bằng lòng, sự vừa ý của ngƣời phụ nữ ý thức đƣợc vẻ đẹp của mình. Ðó là vẻ đẹp của nƣớc da trắng nõn nà, thân hình gọn gàng, xinh xắn. +Câu 2: Con ngƣời với vẻ đẹp ấy đáng lí phải đƣợc sống trong hạnh phúc nhƣng không, ngƣời con gái ấy đã phải sống một cuộc đời bảy nổi ba chìm với nước non . -Hai câu chuyển hợp: +Câu 3: Rắn nát (cứng mềm), hạnh phúc hay đau khổ, đời minh ra sao, may mắn, rủi ro đến mức nào là hoàn toàn phụ thuộc vào ngƣời khác. Ngƣời khác đó là cha, là chồng, bởi xã hội phong kiến vốn là xã hội nam quyền. Mặc dầu, liên từ vừa nói sự phụ thuộc vừa hàm nghĩa đối lập, ta nhƣ nhận ra một thái độ bất chấp, bất cần cuã nhân vật trữ tình. Giọng thơ nhƣ thách thức. +Câu 4: Liên từ mà cũng hàm nghĩa đối lập (có nghĩa là nhƣng). Từ này đƣợc đặt ở vị trí đầu câu thơ nên ý nghĩa đối lập càng mạnh. Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn giữ được phẩm chất trong sạch, trắng trong của mình. Giọng thơ quả quyết, tự tin, tự hào. Ngƣời phụ nữ ý thức đƣợc một cách đầy đủ nỗi đau và vẻ đẹp-vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn của minh. 2.1.2.3.Nỗi đau của thân phận làm lẽ. -Bài thơ có giá trị nhất trong chùm thơ nói về nỗi đau khổ của ngƣời phụ nữ là bài Làm lẽ. + Hai câu đề: Câu phá đề: Nhà thơ nói thẳng ngay vào vấn đề một cách cụ thể bằng cách dựng lên cảnh: Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng Câu thơ đƣợc ngắt làm hai theo biện pháp đối ngẫu của thơ Ðƣờng luật, nhằm đối lập hai cảnh sống trái ngƣợc nhau, một bên thì ấm áp, một bên thì lạnh lẽo. Câu thừa đề: Tiếp tục ý của câu phá đề, mặt khác tác giả ném ngay cái bực bội, cái căm uất của mình lên cảnh sống bất công đó: Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Lời, ý của câu thơ rất mạnh bởi độüng từ chém mang thanh trắc rất gọn, sắc. Ðây là một lời chửi trong khẩu ngữ của quần chúng. 58 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  6. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -Hai câu thực: Từ thái độ căm giận, Xuân Hƣơng đã chuyển sang miêu tả mối quan hệ vợ chồng của cảnh làm lẽ. Cũng tiếp tục ý của hai câu đề, tác giả trình bày sự thiệt thòi của ngƣời vợ lẽ một cách cụ thể hơn. Quan hệ ái ân giữa ngƣời chồng và ngƣời vợ diễn ra trong tình trạng: Năm thì mƣời họa hay chăng chớ Một tháng đôi lần có cũng không -Hai câu luận: Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn, mướn không công +Xuân Hƣơng đã vận dụng hai thành ngữ chịu đấm ăn xôi và làm mƣớn không công để nói lên thân phận người vợ lẽ. Sự láy lại xôi lại hẩm, mướn không công cùng với nghệ thuật tiểu đối đã cực tả đƣợc cảnh khổ nhục của ngƣời vợ lẽ. -Hai câu kết: Thân này ví biết nhƣờng này nhỉ Thà trước thôi đành ở vậy xong. Ðây là lời tâm sự của ngƣời vợ lẽ, tự lòng mình nói với mình. Hai tiếng thân này cùng với những từ biểu thị ý hối hận buông xuôi đi liền nhau:Ví biết, thà, thôi đành, vậy xong nghe như một tiếng thở dài não ruột, nhưng tiếng thở dài này lại chứa đựng một sự phản ứng, một lời tố cáo đối với chế độ đa thê. Tóm lại bài thơ đã nói lên nỗi xót xa, tủi nhục của kiếp lấy lẽ và thái độ của tác giả trƣớc thực trạng đó. 2.1.2.4.Nỗi đau của sự dở dang. Bài thơ Sự dở dang. Ở bài thơ này tác giả không trực tiếp phản ánh nỗi đau khổ, tủi nhục mà các cô gái lỡ làng phải chịu đựng nhƣng qua bài thơ ngƣời đọc cũng có thể hình dung ra đƣợc sự tàn bạo, sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến đối với họ. Tóm lại viết về nỗi khổ của ngƣời phụ nữ, Hồ Xuân Hƣơng đã viết đƣợc những điều mà không mấy ai viết đƣợc. Nhà thơ chƣa nói đến toàn bộ nỗi khổ của họ mà chủ yếu bà đi sâu vào những nỗi đau có tính chất giới tính nhƣng không kém phần bi kịch. Nhƣng những bài thơ trên của Hồ Xuân Hƣơng đã hòa vào tiếng nói chung của văn học đƣơng thời để nói lên tiếng nói về cuộc đời đầy bất hạnh của ngƣời phụ nữ. 2.1.3.Vẻ đẹp của hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng. Viết về ngƣời phụ nữ, Hồ Xuân Hƣơng còn có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của mình về vẻ đẹp tâm hồn; vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ; vẻ đẹp thân thể của ngƣời phụ nữ. 2.1 3.1.Vẻ đẹp tâm hồn. -Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự trinh trắng của ho:ü 59 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  7. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình Chị cũng xinh mà em cũng xinh Ðôi lứa như in tờ giấy trắng Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh -Trong bài Bánh trôi nƣớc, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của ngƣời phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ đƣợc tấm lòng son. -Trong bài Làm lẽ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của sức chịu đựng, sức phản kháng cuả ngƣời phụ nữ. -Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống. -Bài Sự dở dang lại là vẻ đẹp của đức hi sinh, của sức phản kháng. 2.1.3.2.Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ. -Trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện đƣợcsự tự ý thức về mình, thể hiện đƣợc tài năng của ngƣời phụ nữ. Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo Kìa đền thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được. Thì sự anh hùng há bấy nhiêu. Ði qua ngôi đền thờ tên tƣớng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cƣời, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Kìa là chỉ, trỏ, không đáng chú ý. Ðứng cheo leo: Thế đứng buồn tẻ, không có gì là vững chãi. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu đƣợc làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ nhƣ sự anh hùng của nhà ngƣơi đâu. 2.1.3.3.Vẻ đẹp thân thể. -Hồ Xuân Hƣơng còn công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của ngƣời phụ nữ. -Cách miêu tả của Xuân Hƣơng thuộc vào loại độc đáo nhất của thời dại. Bà chú ý đến những bộ phận thân thể thƣờng đƣợc dấu kín của con ngƣời. Những bộ phận đó văn học thời đại thƣờng né tránh. Riêng Hồ Xuân Hƣơng lại nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của ngƣời phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt: Ðôi gò Bồng đảo hương còn ngậm Một lạch Ðào nguyên suối chửa thông Tất cả còn phong nhụy, trinh nguyên. 60 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  8. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Tóm lại viết về ngƣời phụ nữ Hồ Xuân Hƣơng đã biểu thị một thái độ xót thƣơng, thông cảm, tin yêu và đấu tranh bênh vực cho quyền sống của họ. Cũng vì thế mà thơ bà có giá trị nhân đạo sâu sắc. 2.Những vần thơ trữ tình yêu đời. Hồ Xuân Hƣơng không phải chỉ là một con ngƣời nguyền rủa, đập phá mà bà còn là một con ngƣời chứa chan tình cảm, giàu khát vọng và thiết tha với đời. Con ngƣời trong thơ Hồ Xuân Hƣơng luôn luôn sẵn sàng mở rộng tấm lòng của mình đễ chào đón tất cả những gì trẻ trung, tƣơi tắn. Ðiều này thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn cảnh vật thiên nhiên của tác giả. Là một nhà thơ yêu đời Xuân Hƣơng thƣờng nhắc đến mùa xuân một cách trực tiếp hay gián tiếp với một tình cảm đằm thắm, lạc quan. Và bao giờ bà cũng tìm thấy ở mùa xuân một hứng thú mới để gắn bó hơn với cuộc sống. 3.Những vần thơ trào phúng. 2.3.1.Ðối tƣợng trào phúng. Ðó là những hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa, nhà sƣ, quan thị, những gƣơng mặt nam nhi không xứng mặt nam nhi. So với các tác khác cùng thời, so với văn học dân gian, đối tƣợng phê phán trong thơ Hồ Xuân Hƣơng phong phú hơn. 2.3.2.Nội dung trào phúng. -Hồ Xuân Hƣỡng lên án, châm biếm thói đạo đức giả . -Hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa là những ngƣời theo đòi giáo lý của Khổng- Mạnh, là những ngƣời luôn rêu rao tinh thần khắc kỷ để phục lễ, luôn đề cao khẩu hiệu nam nữ thụ thụ bất thân, tự cho mình là ngƣời không lƣu tâm đến sắc dục. Vậy mà trong thơ Xuân Hƣơng, những hạng ngƣời cao quý này lại hiện lên với những ham muốn sắc dục mãnh liệt và duy nhất chỉ có ham muốn ấy mà thôi. Viết điều ấy, đúng là nữ sĩ đã hạ bệ đối tƣợng chóp bu này không chút thƣơng tiếc. Tóm lại: Chùm thơ đả kích trào lộng này tuy chƣa đề cập đến đời sống vật chất của xã hội nhƣng ngòi bút trào lộng sắc sảo của Xuân Hƣơng cũng đã có những đóng góp đáng quý. Cùng với thơ ca dân gian thời kỳ này, chùm thơ phê phán hiện thực trên chắc chắn đã hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh của quần chúng bấy giờ. 4.Một số vấn đề về nghệ thuật. 2.4.1.Vấn đề tục và dâm trong thơ bà. Ðây là vấn đề từng gây nhiều tranh cãi và nói chung ở mỗi thời đại, mỗi giai cấp đều có những ý kiến khác nhau. *Trƣớc Cách mạng tháng tám: -Giai cấp phong kiến cho thơ bà không đứng đắn, tà dâm. -Giai cấp tƣ sản tán thành cái tình trong thơ bà nhƣng lại cho rằng thơ bà có ý lẳng lơ. *Sau Cách mạng tháng tám: 61 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  9. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -Nhờ có quan niệm mĩ học Mác-Lênin soi rọi các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng thơ Xuân Hƣơng chứa chan tinh thần nhân đạo và giá trị phê phán xã hội nhƣng vấn đề dâm và tục vẫn chƣa nhất trí, tựu trung có ba loại ý kiến: -Tƣ tƣởng chi phối tập thơ là tƣ tƣởng dâm. (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ông văn tânVăn Tần). -Thơ Xuân Hƣơng có bài dâm có bài không dâm mà chỉ là tục (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ôngTrần Thanh Mại). -Thơ Xuân Hƣơng có những hình ảnh tục nên một số bài có bị hạn chế nhƣng nhìn chung là tốt cả ( tiêu biêu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả nhà thơXuân Diệu). *Chúng ta cần hiểu cơ sở để xác định một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm văn chƣơng có yếu tố dâm hay không là xác định cho đƣợc mục đích phản ánh của cái tục là gì? Tác phẩm văn học là dâm khi nó lấy cái tục làm mục đích và lúc đó cái tục sẽ trở thành nội dung của nghệ thuật. Nếu cái tục chỉ là phƣơng tiện nghệ thuật để nhà văn biểu hiện cảm xúc, tình cảm lành mạnh nào đó thì không thể kết luận tác phẩm ấy có yếu tố dâm. Tóm lại: Tục và dâm khác nhau ở mục đích phản ánh của từng yếu tố ấy. Thực tế trong sáng, Xuân Hƣơng đã sử dụng cái tục làm phƣơng tiện nghệ thuật để phê phán, đả kích, trào lộng, để bộc lộ cảm xúc nhân đạo của mình. 2.4.2.Ngôn ngữ thơ ca. -Ngôn ngữ thơ bà đƣợc lựa chọn trong kho tàng ngôn ngữ của văn học dân gian. Trong kiến trúc câu thơ, yếu tố ca dao, tục ngữ đƣợc bà đặt rất đúng chỗ nên rất tự nhiên và nó có sức mạnh riêng của nó. -Tác giả dùng những vần khó gieo, thi pháp trung đại gọi là tử vận-vần chết, khó họa lại nhƣng khi sử dụng thành công lại có giá trị độc đáo. Ví dụ vần ênh trong bài Tự tình số III, vần này đã gợi cảm giác bất định, mong manh về số phận của ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến. -Thơ Ðƣờng luật vốn đƣợc dùng trong thi cử, niêm luật chặt chẽ, hình thức đƣờng bệ, nội dung cũng đƣờng bệ. Hồ Xuân Hƣơng đã đem đến cho thể thơ này một nội dung rất thông tục. III.KẾT LUẬN Xuân Hƣơng thi tập cũng là một tập thơ của thời đại, thời đại cuối Lê- đầu Nguyễn, thời đại đấu tranh sôi nổi để đẩy lùi lễ giáo phong kiến vô nhân đạo, đấu tranh để đòi hỏi đƣợc xác nhận thân phận, đòi hỏi để đƣợc xác nhận quyền sống tự do và hạnh phúc. Xuân Hƣơng thi tập đã thể hiện đƣợc phần nào những khát vọng đó của con ngƣời thời đại. Chƣơng 14: TRUYỆN THƠ NÔM I.MỘT SỐ VẤN CHUNG VỀ TRUYỆN THƠ NÔM -Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học phong kiến Việt Nam. Ðây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tƣơng đối rộng, vì vậy có ngƣời gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Bộ phận văn học này đƣợc sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn đƣợc viết theo thể lục bát- thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng. Một số ít khác viết theo thể thất ngôn bát cú (thơ Ðƣờng luật), tác phẩm Lâm Tuyền kỳ ngộ thuộc loại này. 62 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  10. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Bộ phận văn học này có một số lƣợng khá lớn và có vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của quần chúng lao động. -Giá trị của truyện Nôm đã đƣợc khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng hâm mộ của quần chúng ở nhiều thế hệ. Song hiện tại khi nghiên cứu bộ phận văn học này chúng ta sẽ gặp một số vấn đề khó giải quyết nhƣ: Nguồn gốc, sự phát triển, thời điểm sáng tác. Cố nhiên các nhà nghiên cứu bƣớc đầu cũng đã co đƣợcï những ý kiến về các vấn đề trên, tuy mới dừng lại ở mức độ của những giả thiết. 1.Vấn đề nguồn gốc và sự phát triển của truyện Nôm. -Hình thức đầu tiên của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong (hiện tƣợng hát rong xuất hiện ở nƣớc ta từ thế kỷ nào thì chƣa xác định đƣợc, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã có nhiều ngƣời sống bằng nghề này, nhất là sau thế kỷ XV). Những bài hát tự sự này phần lớn đƣọc các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc rút ra từ một truyện Nôm đã có trƣớc. Càng về sau, những bài hát này càng đƣợc bồi bổ thêm về mặt nội dung cũng nhƣ nghệ thuật và đến một lúc nào đố bài hát đã đƣợc ghi vào trong sách, từ đó chính thức trở thành một truyện Nôm (lọai này có thể kể đến truyện: Trƣơng Chi, Tấm Cám). -Nơi thứ hai sản sinh ra các truyện Nôm là các nhà chùa của đạo phật. Ðể tuyên truyền đạo phật cho các tín đồ mà phần đông là không biết chữ, một số nhà sƣ có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh phật, hình thức này ngày càng phát triển và nhiều truyện Nôm đã xuất hiện theo con đƣờng này. Trên đây là nguồn gốc ra đời của truyện Nôm, trong hai hình thức trên cái nào có trƣớc, cái nào có sau chúng ta vẫn chƣa xác định đƣợc. -Các hình thái của truyện Nôm. +Truyện Nôm ra đời và tồn tại với hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu. Sau một thời gian dài, khi phong trào truyện Nôm truyền khẩu phát triển mạnh mẽ thì các nho sĩ bình dân và bác học đã mạnh dạn sử dụng loại hình văn học này để sáng tác, hoặc ghi chép lại những truyện Nôm đã có. Từ đó truyện Nôm viết đƣợc xuất hiện. Cũng nhƣ mọi hình thái sáng tác, truyện Nôm không phải là đã kế tiếp nhau một cách dứt khoát mà mỗi cái khi xuất hiện đều tồn tại song song với những cái xuất hiện trƣớc hoặc sau nó. +Cho đến nay chúng ta vẫn chƣa xác định đƣợc truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào và sự phát triển của nó trong lịch sử văn học. Bởi vì cho đến nay hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng tác. +Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực đời sống xã hội, căn cứ vào tài liệu cấm đoán của giai cấp thống trị, căn cứ vào hình thức ngôn từ và thể loại mà đi đến một nhận định sơ bộ về sự phát triển của bộ phận văn học này nhƣ sau: Chính giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX là giai đoạn bộ phận văn học này ra đời và phát triển, thời kỳ cực thịnh của nó là thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Phần lớn các truyện Nôm lƣu hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ này. Sang đầu thế kỷ XX việc sáng tác truyện Nôm dần dần chấm dứt vì thể loại văn xuôi mới ra đời đã đủ sức thay thế nó. 2.Vấn đề khuyết danh. -Hiện nay chúng ta còn một số lƣợng khá lớn truyện Nôm không còn tên tác giả và thời điểm sáng tác, ngƣời ta gọi bộ phận văn học này là truyện Nôm khuyết danh.Nguyên nhân của hiện tƣợng văn học này? Có ba nguyên nhân. 63 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  11. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam +Do tâm lý coi thƣờng các sáng tácbằng chữ Nôm của các nhà nho. Tâm lý này đã ảnh hƣởng đến nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội kể cả những ngƣời sáng tác. Do bị coi thƣờng (bị coi là loại văn học nhảm nhí, nôm na, mách qué) cho nên khi các sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác giả của chúng không đƣợc chú ý đến và dần dần bị quên lãng. +Do sự cấm đoán, thái độ thù địch của giai cấp thống trị. Ðể tránh búa rìu của bọn chúng, nhiều tác giả đã không dám lƣu danh trong sáng tác. Ðây là một nguyên nhân quan trọng. +Nguyên nhân văn học:Trƣớc khi đƣợc ghi chép bằng chữ quốc ngữ, truyện Nôm đƣợc lƣu hành trong nhân dân chủ yếu là bằng miệng. Qua một thời gian dài lƣu hành từ ngƣời này sang ngƣời khác, từ vùng này sang vùng khác nhiều truyện Nôm dần dần mất tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm khuyết danh, có truyện đã trở nên rất gần gũi với các truyện cổ dân gian. 3.Vấn đề phân loại. Truyện Nôm có một số lƣợng khá lớn hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác nhau sáng tác cho nên nội dung cũng nhƣ nghệ thuật của nó đều không thuần nhất. Ðể tiện cho việc nghiên cứu ngƣời ta đã tiến hành phân loại bộ phận văn học này. Dựa theo những căn cứ khác nhau mà có những cách phân loại khác nhau. Có thể phân loại theo ba cách sau: 1.3.1.Dựa vào nguồn gốc đề tài có ba loại. -Loại lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian. Ví dụ: Trƣơng Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh. -Loại lấy đề tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc. Ví dụ: Truyện Hoa Tiên, Nhị độ mai, Phan Trần. -Loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích có thật ở Việt Nam. Ví dụ: Tống Trân-Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ. 1.3.2.Dựa vào nội dung và hình thức, có hai loại. -Truyện Nôm bình dân: Loại này do các nho sĩ bình dân sáng tác. +Về nội dung loại truyện này mang đậm tính chất quần chúng. +Về nghệ thuật: mộc mạc , giản dị. +Ví dụ: Tống Trân- Cúc Hoa, Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa. -Truyện Nôm bác học: Lọai này do các nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác. +Về nội dung, tƣ tƣởng có phần phức tạp hơn truyện Nôm bình dân. +Về nghệ thuật điêu luyện hơn truyện Nôm bình dân. +Ví dụ: Phan Trần, Nhị độ mai. 1.3.3.Dựa vào mối quan hệ với tác giả: phân làm hai loại. -Truyện Nôm hữu danh (còn tên tác giả, ví dụ truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự), loại này còn lại không nhiều. Truyện Nôm hƣũ danh phần lớn là truyện Nôm bác học. 64 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  12. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -Truyện Nôm khuyết danh (không còn tên tác giả). Phần lớn các truyện Nôm khuyết danh là truyện Nôm bình dân. .Cả ba hình thức phân loại trên chỉ có tính chất tƣơng đối, trong đó hình thức thức thứ hai là hình thức phân loại có giá trị khoa học. II.ÐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM BÌNH DÂN. 1.Nội dung. Vấn đề trung tâm đặt ra trong hầu hết các truyện Nôm bình dân là cuộc đấu tranh của những ngƣời bị áp bức chống cƣờng quyền bạo chúa bảo vệ tình yêu thủy chung, bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ nhân phẩm. Qua cuộc đấu tranh nhiều khi không cân sức ấy, tác giả truyện Nôm bình dân có ý thức làm nổi bật hai vấn đề cơ bản sau: -Tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến trên bƣớc đƣờng suy vong của nó. -Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động. -Ngoài ra các tác giả truyện Nôm bình dân cũng thƣờng đƣa ra những cách giải quyết tích cực, tiến bộ các vấn đề xã hội. Ba vấn đề này đƣợc coi là ba đặc điểm chính về nội dung của truyện Nôm bình dân. Ba đặc điểm này cũng đã nói lên rằng truyện Nôm bình dân có một nội dung gần gũi với quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của quần chúng lao động. 2.1.1.Tố cáo bộ mặt cực kỳ thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến. -Trong vấn đề phản ánh hiện thực, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, vạch rõ bản chất của xã hội phong kiến, nói lên những nỗi thống khổ của quần chúng lao động, tác giả của những truyện nôm giàu tính quần chúng này cũng chƣa có đƣợc cái nhìn đầy đủ, sâu sắc và toàn diện. Kẻ thù giai cấp của quần chúng hiện lên trong trụuyện chƣa phải là cả hệ thống giai cấp phong kiến thống trị đã cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân mà chỉ hiện lên lẻ tẻ. Hình thức bóc lột chính là bóc lột về mặt kinh tế vẫn chƣa đƣợc các tác giả của bộ phận văn học này đề cập đến. Song ở một mức độ nào đó các tác giả này cũng đã chung sức vạch rõ bản chất thối nát , tàn bạo của xã hội phong kiến. Họ cũng đã dũng cảm làm cái công việc mà những nhà thơ, nhà văn đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị không dám làm hoặc che dấu để dối mình, lừa ngƣời. Ðó là phơi bày chân dung thực vốn hết sức bẩn thỉu của giai cấp thống trị. Có thể nói, cùng với bộ phận văn học dân gian, truyện Nôm bình dân đã giúp chúng ta tìm hiểu thêm đƣợc nhiều mặt thuộc về bản chất của xã hội phong kiến, một xã hội mà lịch sử dân tộc ta mãi còn lên án. -Những truyện Nôm khuyết danh đã xây dựng đƣợc một hệ thống nhân vật phản diện từ vua chúa, quan lại, bọn nhà giàu ở nông thôn cho đến cả thần thánh (những thần thánh tàn ác). Qua hệ thống nhân vật phản diện này các tác giả đã vạch trần, tố cáo bản chất xấu xa của giai cấp bóc lột, áp bức đồng thời nói lên tình trạng thống khổ của các tầng lớp nhân dân với một thái độ đồng tình sâu sắc -Vua chúa: +Nếu nhƣ trong văn học bác học vua chúa thƣờng đƣợc nhắc đến với một thái độ tôn kính hoặc đƣợc coi nhƣ những thần tƣợng thiêng liêng tôn quý thì ở truyện Nôm bình dân chúng chỉ là những tên hôn quân, bạo chúa đáng lên án nhất. Loại truyện này nói rất nhiều đến việc vua chúa ép duyên trắng trợn. Hoặc chúng ép các tân khoa trạng nguyên phải bỏ vợ tào khang (ngƣời vợ đã cùng chung sống trong cảnh nghèo hèn) để lấy con gái mình (hai tên vua trong Tống Trân-Cúc Hoa đã lần lƣợt ép Tống Trân lấy con gái mình, bỉ ổi nhất là tên vua nƣớc Việt sau 65 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  13. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam khi không ép đƣợc Tống Trân hắn đã đẩy chàng đi xa). Hoặc những tên vua nhƣ Trang vƣơng trong Phạm Tải- Ngọc Hoa, vua Hung Nô trong Lý Công đã ép những ngƣời con gái đẹp bỏ chồng để lấy mình. Tàn bạo nhất vẫn là Trang Vƣơng, hành động ép buộc của y đã đẩy Ngọc Hoa-một cô gái đang yêu vào chỗ chết. Cái chết của nhân vật này đã gieo vào lòng ngƣời đọc một nỗi thƣơng tâm vô hạn và càng thấy căm thù hơn giai cấp phong kiến thống trị. +Có quyền, có lực bọn vua chúa tự cho phép mình làm những việc trái với luân thƣờng, đạo lý nhằm thỏa mãn dục vọng đen tối của mình nhƣng mặt khác đối với quần chúng lao động- những con ngƣời bị áp bức- bọn chúng lại ra sức kìm hãm tình cảm chân chính của họ. Tên vua Bảo Vƣơng trong Lý Công đã cƣơng quyết cắt đứt tình cha con, nhẫn tâm bắt con gái độc nhất cho voi giày, không đƣợc thì đem thả bể trôi sông chỉ vì công chúa đã tự tiện yêu đƣơng ngoài sự kiểm soát của cha mẹ. -Quan lại: Trong truyện Nôm bình dân, bon quan lại hiện lên chỉ là những kẻ bất tài, bất lực, chỉ giỏi việc xu nịnh vua, giỏi ức hiếp dân. Cả lũ triều thần trong Phạm Tải-Ngọc Hoa không ngăn cản nổi vua làm điều xằng bậy lại con xúi giục vua đi sâu vào tội lỗi. Tên quan trong Phƣơng Hoa chỉ vì không lấy đƣợc ngƣời con gái đã hứa hôn đã đem tay chân đến giết hại, cƣớp của, phá nhà của cô gái ấy. -Bọn nhà giàu ở nông thôn: Những phú ông, những trƣởng giả-bọn giàu có ở nông thôn đƣợc phản ánh trong các truyện Nôm khuyết danh bình dân khá sâu sắc. Nét nổi bật ở bọn ngƣời này là tâm lý tham tiền. Vì tiền, bọn chúng có thể làm tất cả. Có độc giả nào lại không căm ghét tên trƣởng giả trong Tống Trân-Cúc Hoa. Vì tiền mà hắn đã coi con gái nhƣ một món hàng có thể đánh mõ, rao làng, gả bán mấy lần cũng đƣợc. Chẳng cần giữ một chút liêm sĩ nào cả, y ép Cúc Hoa phải bỏ chồng đi vắng để lấy một ngƣời triệu phú trong làng. Khi con gái kháng cự lại, y đã hành hạ con không tiếc tay và cuối cùng vẫn gả bán con cho bằng đƣợc mặc cho cô gái tội nghiệp kêu than. *Tóm lại: Tất cả những bọn này để đạt đƣợc mục tiêu ích kỷ, đê hèn của mình đã không từ một âm mƣu, một thủ đoạn đen tối, hiểm độc nào. Chúng đã giày xéo lên những đạo đức, luân lý cơ bản nhất, giày xéo lên những pháp luật mà chúng đặt ra, giày xéo lên tính mạng của ngƣời dân và phá hoại hạnh phúc của bao nhiêu ngƣời vô tội. Ðồng thời với việc tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, tác giả của bộ phận văn học này đã nói lên đƣợc nỗi thống khổ của quần chúng lao động (hạnh phúc tan vỡ, tính mạng bị đe dọa .) với một thái độ đồng tình sâu sắc. 2.1.2.Ðề cao những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động. Truyện Nôm bình dân có một giá trị nhân đạo khá sâu sắc bởi nó không chỉ tố cáo những tội ác của giai cấp thống trị với quần chúng lao động , với những con ngƣời bị áp bức, đè nén mà các tác giả của bộ phận văn học này còn có ý thức đề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động, đặc biệt là đề cao ngƣời phụ nữ- con ngƣời thấp hèn nhất trong xã hội xƣa. -Khuynh hƣớng đề cao quần chúng lao động đều thể hiện rất rõ trong mọi truyện Nôm bình dân. Ta thấy rằng các nhân vật chính bao giờ cũng là những ngƣời lao động, những ngƣời bị áp bức, bóc lột. Truyện viết về họ nên tác giả thƣờng lấy tên họ đặt cho tác phẩm: Thạch Sanh, Tấm Cám, Trƣơng Chi . -Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúngü, tác giả của bộ phận văn học này chủ yếu viết về những tình cảm tốt đẹp và lòng nhân đạo cao quý của họ. Trƣớc hết là lòng thƣơng ngƣời, một tình thƣơng hết sức mộc mạc, chân thành mà cảm động và vững bền. -Ðó là những con ngƣời nhƣ Cúc Hoa, Ngọc Hoa sẵn sàng yêu thƣơng kẻ nghèo khó khốn cùng (mẹ con Phạm Công, Phạm Tải). Ðó là tấm lòng cƣu mang những con ngƣời sa cơ, lỡ vận; là tấm lòng chí hiếu của những nàng dâu đối với mẹ chồng nhƣ Thoai Khanh đối với mẹ Châu Tuấn, Cúc Hoa đối với mẹ Phạm Công. Quan hệ mẹ chồng-nàng dâu ở đây đƣợc khẳng định là một tình cảm tốt đẹp, đáng quý chứ không phủ định nhƣ ở ca dao. 66 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  14. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -Nổi bật nhất vẫn là tình cảm, tình yêu của những cặp vợ chồng, họ yêu thƣơng thắm thiết và chung thủy hết mực với nhau. Sự chung thủy của vợ chồng Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa đã giúp họ vƣợt qua mọi thử thách, mọi cảnh ngộ éo le mà xã hội phong kiến đã bày ra, giúo họ vƣợt lên trên sự cám dỗ của giàu sang, phú quý, đứng vững trƣớc sự đe dọa của cƣờng quyền, bạo lực. -Ðề cao quần chúng lao động, tác giả của bộ phận văn học này cũng đặc biệt chú ý đề cao ngƣời phụ nữ. Ðây cũng là một nét đặc sắc của văn học giai đoạn này đồng thời nó cũng là sự phản ánh vai trò, chức năng của ngƣời phụ nữ vào văn học. Các nhân vật phụ nữ xuất hiện trong các truyện Nôm bình dân có nhiều nét đổi mới: Họ xuất hiện với một tƣ thế của ngƣời vƣơn lên làm chủ vận mệnh. Thƣờng xuất thân từ lá ngọc cành vàng (con nhà triệu phú trở lên nhƣ Cúc Hoa) nhƣng các nhân vật nữ này lại có thân phận cụ thể của quần chúng lao động (họ cũng bị áp bức, đè nén; giàu lòng trắc ẩn, giàu lòng thƣơng ngƣời). Các điểm cần lƣu ý. +Các nhân vật nữ đã dám hành động theo suy nghĩ của mình chứ không theo đạo đức phong kiến. Hành động của Cúc Hoa, Ngọc Hoa quả là những hành động táo bạo. Hai cô gái này đã cƣơng quyết lấy ngƣời con trai mà mình đã thƣơng yêu dù những chàng trai đó là những ngƣời ăn mày nghèo nàn. Quan niệm về hôn nhân của Cúc Hoa, Ngọc Hoa là một quan niệm hết sức tiến bộ, nó vƣợt xa quan niệm môn đăng hộ đối của các cô gái quý tộc xƣa. Hai cô dám nhìn thẳng vào chân giá trị của những con ngƣời nghèo hèn nhất, đến với họ và đến với cả một tấm lòng yêu thƣơng và thông cảm. +Hoàn toàn khác với các cô gái trong truyện Nôm bác học, đến với tình yêu bằng sự rung động của giới tính, cac cô gái của truyện Nôm bình dân đã đến với tình yêu bằng sự rung động của đạo đức-lòng yêu thƣơng những ngƣời nghèo. Ðây chính là cơ sở của nhiều mối tình son sắt, thủy chung bất chấp những ngang trái của cuộc đời cũ. +Một số nhân vật nữ không chỉ dám chủ động xây dựng hạnh phúc mà còn tích cực đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc và tình yêu đẹp đẽ của mình (nên nhớ rằng các nhân vật này bảo vệ tình yêu, hạnh phúc của bản thân chứ không phải để bảo vệ đạo đức phong kiến). Và trong cuộc đấu tranh đó họ đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp (lòng vị tha, đức hi sinh, nghị lực phi thƣờng, trí thông minh quyết đoán ) mà nội dung phản ánh còn đƣợc mở rộng, ý nghĩa xã hội của chủ đề đƣợc nâng cao. Cuộc đấu tranh của họ ngoài ý nghĩa bảo vệ hạnh phúc, tình yêu còn có ý nghĩa bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ công lý. +Cố nhiên những phẩm chất đạo đức trên thƣờng bị tác giả quy vào những quan niệm: trung, hiếu, tiết, nghĩa của hệ thôïng luân lý Nho giáo. Nhƣng xét cho cùng những khái niệm đạo đức đó căn bản đã có một nội dung nhân đạo đƣợc nhân dân tán thành và ƣa chuộng. 2.1.3.Cách giải quyết các vấn đề xã hội. -Truyện Nôm bình dân không chỉ đặt ra những vấn đề lớn lao mà truyện Nôm còn đƣa ra đƣợc cách giải quyết tích cực là để những ngƣời lƣơng thiện chiến thắng các lực lƣợng bạo tàn. Ðây là phần lãng mạn tích cực của bộ phận văn học này vì thực ra trong chế độ phong kiến nói chung nhân dân lao động làm gì kiếm ra đƣợc hạnh phúc trọn vẹn bởi các cuộc khởi nghĩa của nông dân thƣờng đi đến thất bại hoặc chỉ đƣa đến một sự thay đổi triều đại rồi đâu lại vào đấy. -Nhƣng có một điều là sống trong xã hội đen tối đó quần chúng lao động bao giờ cũng có một ƣớc mơ về một xã hội không có sự bất công, bất bình đẳng, một xã hội thái bình trong đó ngƣời ta sống yêu thƣơng nhau và có hạnh phúc đầy đủ, họ ƣớc mơ một xã hội có vua tốt, tôi hiền. (Văn học dân gian nói đến vấn đề này rất rõ). Ðó là những mơ ƣớc chính đáng (xét trong hoàn cảnh xã hội) chứ chƣa phải là nhữnh mơ ƣớc đúng đắn nhất, đầy đủ nhất. Tác giả của bộ phận văn học này là những ngƣời có cuộc sống khá gần gũi với quần chúng lao động nên họ hiểu đƣợc quần chúng nhiều hơn và phản ánh đƣợc những ƣớc mơ đẹp đẽ, phản ánh đƣợc tinh thần lạc quan mạnh khỏe của 67 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  15. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam quần chúng vào sáng tác của mình. Vì thế các sáng tác của các tác giả bình dân này đã tiếp thêm sức sống cho con ngƣời lao động trong xã hộ xƣa, quần chúng tìm đến những sáng tạo nghệ thuật này một phần cũng vì lý do trên. -Chúng ta cũng cần biết thêm rằng: Do những hạn chế của lịch sử cho nên các tác giả cũng chƣa nhìn thấy ở quần chúng cái động lực để giải quyết các vấn đề thời đại đặt ra, cho nên trong đấu tranh họ phải nhờ đến những lực lƣợng siêu hình nhƣ thần phật giúp đỡ. Nhƣng thần phật cũng chỉ có mặt để cho con ngƣời chiến đấu hết mình với hoàn cảnh. Trong cuộc đấu tranh sinh tử ấy, con ngƣời vẫn phải chủ động, vẫn phải nỗ lực rất nhiều. 2.Ðặc điểm nghệ thuật. 2.2.1.Kết cấu cốt truyện. -Truyện Nôm bình dân có một phong cách gần giống với truyện cổ dân gian, có thể coi nó là gạch nối giữa văn học dân gian và văn học bác học. -Phần lớn các truyện bình dân này đều mƣợn kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân gian và bảo lƣu khuôn dạng của truyện cổ. Cơ sở cốt truyện là xung đột xã hội, xung đột giữa thiện, ác nhƣng các truyện Nôm bình dân chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc; chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến; kết cấu theo đƣờng thẳng; kết thúc có hậu; tình tiết phát triển theo sự phát triển của nhân vật chính. -Tuy nhiên so với văn học dân gian, truyện Nôm bình dân cũng có một số nét khác biệt thể hiện của một thể loại có khả năng phản ánh hơn truyện cổ nhƣ tác giả đã chú ý mô tả một số cảnh sinh hoạt xã hộivà con ngƣời, yếu tố trữ tình ít nhiều đã có vị trí đáng kể, thỉnh thoảng có tác giả đã chú ý miêu tảí tâm trạng của nhân vật. Ngoài ra truyện Nôm bình dân cũng không còn những lời bình luận, triết lý về cuộc đời của tác giả ở đầu hay cuối truyện nhƣ ở truyện cổ. 2.2.2.Nhân vật. Nhà văn quan tâm đến việc dựng câu chuyện, đến hành động chứ không chú ý đến tâm ly ïnhân vật. Thƣờng nhân vật phản diện thành công hơn nhân vật chính diện. Nhiều nhân vật còn rất đơn giản mặc dù đã đúng về bản chất. 2.2.3.Phƣơng pháp sáng tác. Ðã có sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn nhƣng sự kết hợp này còn non nớt vô cùng, nó chƣa phản ánh đƣợc một cách chân thực quá trình phát triển biện chứng của nhân vật, mỗi truyện đều chƣa có đƣợc phong cách riêng, nhiều chuyện còn có chung môtip về nhân vật chính diện (nho sĩ nghèo đỗ trạng nguyên(bị ép duyên rồi vì từ chối mà bị hãm hại hoặc đi sứ xa, sau đƣợc sum họp). III.MỘT SỐ NÉT HẠN CHẾ -Thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt trong xã hội mới ở khía cạnh đấu tranh bảo vệ tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. -Chƣa phản ánh khía cạnh giai cấp thống trị cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân về kinh tế. -Chƣa gắn đƣợc cuộc đấu tranh giữa những ngƣời bị áp bức vào cuộc đấu tranh của quần chúng lao động trong xã hội. -Ƣớc mơ cuối cùng của tác giả là thay đổi triều đại chứ chƣa phải là thay đổi chế độ xã hội. 68 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  16. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Những hạn chế trên là tất yếu vì sống trong xã hội phong kiến các tác giả không thể thoát khỏi ảnh hƣởng nhiều hay ít của tƣ tƣởng thống trị xã hội cũng nhƣ không thể vƣợt qua đƣợc hạn chế của lịch sử. IV.KẾT LUẬN Tuy còn có một số hạn chế nhất định nhƣng Truyện bình dân vẫn là một bộ phận văn học có giá trị, là vốn quý trong gia tài văn hóa chung của dân tộc. Bộ phận văn học này đã đóng góp tiếng nói vào loại hình tự sự của nền văn học nƣớc nhà. Cùng với các bộ phận truyện Nôm khác, bộ phận truyện Nôm khuyết danh tạo nên một nền rộng rãi để trên cơ sở đó xuất hiện kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Chƣơng 15: Nguyễn Du và Truyện Kiều. Phần thứ nhất. VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI, CON NGƢỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG CỦA NGUYỄN DU I.CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƢỜI 1.Thời đại. Thời đại là một cơ sở sâu xa tạo nên sự xuất hiện gƣơng mặt thiên tài văn học Nguyễn Du. -Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tính ra dƣơng lịch là ngày 3 tháng 1 năm 1766) tại kinh đô Thăng Long và lớn lên ở đấy. Ông mất ngày 16 tháng 9 năm 1920 tại Huế. Nhà thơ sống vào giai đoạn lịch sử xã hội Việt Nam có nhiều biến động dữ dội, nhất là khoảng 30 năm đầu của cuộc đời nhà thơ. Nguyễn Du đã có dịp chứng kiến những biến cố lịch sử trọng đại nhất: Sự sụp đổ thảm hại của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh, vận mệnh ngắn ngủi nhƣng rạng rỡ của phong trào Tây Sơn và triều đại Quang Trung, công cuộc trung hƣng của nhà Nguyễn. -Ông đã sống trong một thời đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc đƣợc kết tinh một cách rực rỡ. -Những biến cố xã hội, truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc của thời đại đã để lại những âm hƣởng, những màu sắc trong nhân cách cũng nhƣ sáng tác của nhà thơ. 2.Gia đình. -Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, trí thức, tài hoa và có danh vọng vào bậc nhất đƣơng thời. Không những thế, gia đình này còn có một truyền thống về văn học. Hoàn cảnh gia đình đã có những tác động rõ rệt đối với sự hình thành thiên tài văn học ở Nguyễn Du. -Gia đình Nguyễn Du có nhiều ngƣời đậu đạt cao và làm quan to tại triều đình: + Thân sinh của Nguyễn Du đậu tiến sĩ, từng làm tể tƣớng. +Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức lớn dƣới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông . +Nguyễn Huệ, bác ruột Nguyễn Du, đậu tiến sĩ. 69 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  17. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam +Theo Phạm Ðình Hổ thì dòng họ này có 12 tiến sĩ và 5 quận công. Hoàn cảnh gia đình đã để lại những dấu ấn vàng son trong tâm hồn nhà thơ và cũng chắc chắn rằng qua thực tiễn của gia đình, ông cũng đã nhận thức đƣợc nhiều điều về giới quan lại đƣơng thời. -Dòng họ này còn có truyền thống văn học.Thân sinh của ông là Nguyễn Nghiễm là một sử gia cũng là một nhà thơ. Nguyễn Khản giỏi thơ Nôm, tƣơng truyền có dịch Chinh phụ ngâm. Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện (cháu gọi Nguyễn Du bằng chú) đều là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đƣơng thời. 3.Bản thân Nguyễn Du. -Là một con ngƣời tài năng. -Xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc có danh vọng vào loại bậc nhất đƣơng thời nhƣng Nguyễn Du sống trong cuộc sống nhung lụa không đƣợc bao lâu. Bởi vì nhà thơ lớn lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh chóng theo đà sụp đổ của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đƣơng đầu với những biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Có lúc nhà thơ cũng bị hất ra giữa cuộc đời, đã từng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng 16 năm sống lƣu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Những năm tháng bất hạnh này có ảnh hƣởng trực tiếp quyết định đến sự hình thành con ngƣời nghệ sĩ vĩ đại ở ông. -Nguyễn Du là một nhà thơ có tấm lòng nhân đạo sâu xa. Qua thơ chữ Hán, Văn chiêu hồn, Truyện Kiều ta thấy ông luôn day dứt về số phận con ngƣời, trong tác phẩm của mình đã hơn một lần nhà thơ thốt lên: Ðau đớn thay phận đàn bà *Tóm lại: Nguyễn Du đã có những yếu tố cơ bản đêí trở thành một nghệ sĩ thiên tài: tài năng, tri thức, vốn sống, tâm hồn, tƣ tƣởng tình cảm. II.SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG Nhà thơ đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Hán và chữ Nôm. 1.Về chữ Hán. Ông có ba tập thơ: -Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) 1786-1804. -Nam trung tạp ngâm: 1805-1812. -Bắc hành tạp lục: 1813-1814. Cả ba tập thơ đã đƣợc tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du do nhóm Lê Thƣớc và Trƣơng Chính giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243 bài thơ. 2.Về chữ Nôm. -Ðoạn trƣờng tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm). -Văn chiêu hồn (còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh). 70 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  18. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -Sinh tế Trƣờng Lƣu nhị nữ. -Thác lời trai phƣờng nón. Chƣơng 16: NGUYỄN CÔNG TRỨ (1778-1858) I.THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP -Nguyễn Công Trứ sinh năm 1788, mất năm 1858, thọ 81 tuổi. Ông lấy biệt hiệu là Hy Văn. Ông quê ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. -Thân sinh là Nguyễn Công Tấn, giữ chức quan nhỏ dƣới triều Lê. Khi Tây Sơn ra Bắc, ông chống lại Nguyễn Huệ lên ngôi ông không chịu ra làm quan mà trở về quê hƣơng mở trƣờng dạy học. Gia đình Nguyễn Công Trứ vì vậy cũng sa sút và nghèo đi. -Nguyễn Công Trứ là ngƣời thích lối sống tự do, phóng khoáng. Ông cũng là ngƣời có tài, ham học, có chí và rất hăm hở trong việc lập danh. Ông đi thi rất nhiều lần, trƣợt vẫn không nản, 41 tuổi mới đậu giải nguyên, 42 tuổi mới ra làm quan (chức hành tẩu ở Sứ quán). -Con đƣờng làm quan của ông dƣới triều Nguyễn có nhiều thăng trầm, có lúc làm tƣớng , làm tôíng đốc Hải An nhƣng có lúc phải làm một anh lính ở biên cƣơng. Trong thời gian 28 năm làm quan thì ông bị đến năm lần giáng chức và cách chức. -Trong cuộc đời làm quan của Nguyễn Công Trứ có hai điểm đáng chú ý: +Ông là ngƣời kiên quyết bảo vệ trật tự xã hội phong kiến vì thế ông có nhiều công trạng đối với nhà Nguyễn trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa (chủ yếu là của nông dân) chống lại triều đình. +Ngƣợc lại trong thời gian làm Dinh điền sứ ở Thái Bình và Ninh Bình ông đã chiêu mộ nông dân lƣu vong ở các nơi đến để khai khẩn đất hoang ở hai tỉnh này và đã lập nên hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Hai việc làm này mới nhìn vào có vẻ trái ngƣợc nhau nhƣng trong thâm tâm, trong nhận thức bao giờ Nguyễn công Trứ cũng đinh ninh rằng việc làm của ông là trên vì vua, dƣới vì dân. II.THƠ VĂN NGUYỄN CÔNG TRỨ -Sáng tác của Nguyễn Công Trứ hầu hết bằng chữ Nôm và bị thất lạc nhiều. Hiện nay sƣu tầm đƣợc khoảng 150 bài gồm thơ, ca trù, phú. -Ngoài ra ông còn có một số tác phẩm thơ văn chữ Hán. -Thơ văn ông bao hàm nội dung khá phức tạp, kết tinh trạng thái ý thức của một thế hệ nhà nho nhƣ Nguyễn Công Trứ. Nhƣng tổng quát, thơ ông tập trung vào ba chủ đề chính: +Chí nam nhi. +Cái nghèo và thế thái, nhân tình. +Triết lí hƣởng lạc. 71 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  19. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam 1.Chí nam nhi. (chí của kẻ làm trai, chí anh hùng). *Tại sao chí nam nhi trở thành một chủ đề lớn trong thơ Nguyễn Công Trứ? -Nguyễn Công Trứ xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ, mới một đời làm quan, hƣởng ân huệ của triều Lê- Trịnh không bao nhiêu. -Nguyễn Công Trứ lớn lên giữa lúc Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn lên thay, đang tích cực củng cố địa vị thống trị của mình, xã hội có vẻ ổn định. -Không vƣớng mắc với tƣ tƣởng trung thần bất sự nhị quân, những năm tuổi trẻ nhà thơ đã hăm hở bƣớc đi dƣới triều đại mới, lòng đầy hoài bão về sự nghiệp. Hoài bão ấy đã để lại một dấu ấn rất đậm trong thơ ông. Ðọc thơ ông ngƣời ta thấy có một khái niệm thƣờng trở đi trở lại nhƣ một điệp khúc, đó là chí nam nhi”. *Nội dung của chí nam nhi. -Nguyễn Công Trứ quan niệm rằng kẻ làm trai sống ở đời nhất thiết phải làm những việc có ích cho đời, không thể "tiêu lƣng ba vạn sáu. -Nhiều lần trong thơ Nguyễn Công Trứ đã đặt vấn đề; Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu. (Chí nam nhi). Ðã mang tiếng trong trời đất Phải có danh gì với núi sông. (Ði thi tự vịnh) Vũ trụ giai ngô phận sự Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn. (Nợ tang bồng) -Cái công danh trong thơ Nguyễn Công Trứ thực ra không phải là cái danh hão, không phải là một quan niệm hƣởng thụ, là cái bã vinh hoa tầm thƣờng. Xét trong toàn bộ cuộc đời và thơ văn của ông chúng ta thấy quan niệm công danh của nhà thơ trƣớc hết có ý nghĩa là nhiệm vụ của kẻ làm trai. Kẻ làm trai sống ở trên đời nhất thiết phải chiếm lấy một địa vị để trên cơ sở đó làm những việc có ích cho đời. Nguyễn Công Trứ có đề cao cá nhân nhƣng nội dung chủ yếu là đòi hỏi phải đóng góp cho xã hội. Nhà thơ coi nhiệm vụ đó nhƣ một món nợ lần phải trả. -Tang bồng là cái nợ Làm trai chi sợ áng công danh. (Quân tử cố cùng I) -Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái Cái công danh là cái nợ lần 72 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  20. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Nợ nam nhi) -Có một điều đáng quý là trong khi khẳng định nhiệm vụ của kẻ làm trai, Nguyễn Công Trứ đồng thời rất ý thức đƣợc tài năng của bản thân vì thế mà nhà thơ có một niềm tin lạc quan, một niềm tin mãnh liệt vào hoài bão của mình. Suốt thời kỳ tuổi trẻ, mặc dù sống trong cảnh nghèo, ông vẫn hăm hở đi học, đi thi mãi tới năm 41 tuổi mới đậu nhƣng vẫn không nản. -Mộng công danh đó, niềm tin mãnh liệt đó, lòng hăng say đó của Nguyễn Công Trứ sẽ có ý nghĩa tích cực, sẽ có lợi cho dân cho nƣớc biết bao nếu nhƣ ông sống trong một triều đại phong kiến tích cực, tiến bộ. Nhƣng đáng tiếc ông sống vào giai đoạn lịch sử mà giai cấp phong kiến thống trị đã đi vào phản động, đã đi ngƣợc lại với quyền lợi của nhân dân. Vì thế mà lý tƣởng nam nhi của ông không khỏi nhuốm màu hình thức chủ nghĩa. Nguyễn Công Trứ đã vận dụng lý tƣởng tốt đẹp của nhà nho vào một hoàn cảnh xã hội không còn tiền đề tồn tại cho nó nữa. -Trải qua thực tế dần dần nhà thơ cũng đã nhận thức ra tính chất xấu xa, tàn bạo của chế độ nhà Nguyễn và tinh thần lạc quan ban đầu ấy của nhà thơ cũng dần dần bị sụp đổ và thay vào đó là một thái độ cực đoan. Ðó là sự bất mãn đến chua chát đối với chế độ xã hội và một tinh thần bi quan có tính chất hƣ vô chủ nghĩa. -Ôi nhân sinh là thế đấy Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao Cuộc đời đối với ông không còn nghĩa lí gì. Thậm chí có những lúc nhà thơ ao ƣớc đừng bao giờ trở lại làm ngƣời mà chỉ làm cây thông đứng giữa trời mà reo -Con ngƣời tích cực hoạt động ấy, con ngƣời say sƣa với lí tƣởng, công danh ấy cuối cùng đã phải rút lui khỏi quan trƣờng, sống một cuộc đời ẩn dật, ngông nghênh. Cuộc đời nhà thơ vì vậy cũng đã có ý nghĩa tố cáo chế độ phản động nhà Nguyễn. 2.Tâm sự trong cảnh nghèo và thế thái, nhân tình. -Buổi đầu nhà thơ say sƣa với chí nam nhi, trải qua nhiều năm tháng làm quan cho nhà Nguyễn, va chạm với nhiều thực tế, dần dần Nguyễn Công Trứ nhận ra bản chất phản động của triều đaiû đƣơng thời, ông đâm ra chán ghét nó. Cũng nhờ vậy mà Nguyễn Công Trứ đã có đƣợc những nhận thức khách quan về xã hội, về con ngƣời. Ðó cũng là nguyên nhân làm cho thơ của ông mang nhiều chất hiện thực. -Ông tố cáo thói đen bạc trong xã hội phong kiến đã làm cho những ngƣời nghèo khổ không thể ngóc đầu dậy đƣợc. -Gớm chết nhân tình thế thái Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy (Nhân tình thế thái) -Thế thái nhân tình gớm chết thay! Lạt nồng, trông chiếc túi vơi đầy Hễ không điều lợi, khôn thành dại, Ðã có đồng tiền dở cũng hay 73 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  21. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Vịnh nhân tình thế thái) -Nhà thơ tố cáo sức tàn phá của đồng tiền đối với nhân cách, đạo đức con ngƣời: Tiền tài hai chữ son khuyên ngược Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi (Thế thái bạc bẽo) -Ông phê phán bọn quan lại bâït tài, bọn giá áo túi cơm nhƣng lại tàn bạo hay hại ngƣời: Tuổi tác càng già càng xốp xáp Ruột gan không có, có gai chông. Những câu thơ viết về thế thái, nhân tình đậm thấm cảm xúc sâu sắc của một con ngƣời từng trải cho nên mặc dù phần nào có trừu tƣợng, chung chung, thiếu những hình ảnh sinh động của cuộc sống nhƣng chúng vẫn có sức lay động mạnh đối với ngƣời đọc. -Thơ văn Nguyễn Công Trứ cũng đã ghi lại đƣợc tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông đồng thời cũng là tình cảnh của các nho sĩ lớp dƣới đƣơng thời. Tình cảnh ấy đƣợc thể hiện tập trung trong bài phú Nôm Hàn nho phong vị phú (Bài phú về phong vị cảnh nghèo của một nhà nho chƣa đậu đạt). Bài phú là một bức tranh sinh động về cái nghèo. Ngòi bút của nhà thơ có màu sắc trào lộng nhẹ nhàng. Tuy nhiên tác giả chƣa thấy đƣợc nguyên nhân của sự nghèo khổ nên đi đến giải thích sai lệch. Ông cho khổ là bởi tại trời, tại số mạng. Vì vậy thái độ của nhà thơ vẫn là thái độ cam chịu, chờ đợi. 3.Triết lí hƣởng lạc. -Ngay từ đầu, Nguyễn Công Trứ đã có chủ trƣơng con ngƣời có quyền hƣởng lạc. Ông xếp nó trở thành một mục trong chƣơng trình sống lí tƣởng của mình. Thời kì đầu ông cho rằng con ngƣời chỉ đƣợc hƣởng lạc khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Con ngƣời chỉ có thể thảnh thơi với thơ phú, với bầu rƣợu khi nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo. Nhà thơ quan niệm hành lạc là một thứ đãi ngộ, là phần thƣởng cho kẻ anh hùng, cho ngƣời hành động. Nội dung hành lạc thời kì đầu cũng rất thanh sạch; du lãm trong thiên nhiên với thơ, với rƣợu, với đàn. -Về sau, ông lại nâng quan niệm hành lạc ấy lên thành một triết lí sống. Ông kêu gọi mọi ngƣời ăn chơi, hành lạc: Nhân sình bất hành lạc Thiên tuế diệc vi thương. Nội dung của hành lạc trong giai đoạn này cũng không còn là cuộc sống tiêu dao trong thiên nhiên với rƣợu, với đàn, với thơ mà còn cả gái đẹp đi theo. Ðẩy hành lạc lên thành một triêt lí sống đó là một bƣớc sa đọa về phƣơng diện tƣ tƣởng của Nguyễn Công Trứ. Thực chất đó cũng là cách nhà thơ phản ứng lại xã hội, phản ứng lại triều đình nhà Nguyễn nhƣng phản ứng này lại mang tính chất cá nhân, tiêu cực. III.NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN CÔNG TRỨ 74 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  22. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -Hoạt động thơ văn không phải là hoạt động chính, hoạt động chủ yếu của cuộc đời Nguyễn Công Trứ (hoạt động chính là quân sự, chính tri, kinh tế). Thơ văn cũng chỉ nhằm phục vụ cho sự nghiệp kinh bang tế thế của ông. Vì thế nhà thơ ít chú trọng gia công về nghệ thuật nên thơ ông có cái mộc mạc, nôm na. -Ông rất kiên trì sáng tác chữ Nôm. -Nhà thơ thành công nhất với thể ca trù (là loại bài hát phổ nhịp cho các cô đào hát trong các hành viện), ông nâng nó thành một thể thơ dân tộc độc đáo. IV.TỔNG KẾT -Ðiều giá trị nhất trong thơ văn Nguyễn Công Trứ là nhà thơ đã tuyên dƣơng một lý tƣởng sống tích cực . -Con ngƣời Nguyễn Công Trứ là con ngƣời hành động, ý thức đƣợc tài năng, phẩm chất của mình Chƣơng17: CAO BÁ QUÁT (?-1855) I.THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP 1.Thân thế. -Cao Bá Quát là một nhà thơ lỗi lạc đồng thời là một lãnh tụ của phong trào nông dân khởi nghĩa ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. -Cao Bá Quát sinh vào khoảng 1808-1810 và mất năm 1855. -Cao Bá Quát tự là Chu Thần (bậc thần tử của nhà họ Chu), hiệu là Cúc Ðƣờng, Mẫn Hiên. Ông ngƣời làng Phú Thọ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. - Cao Bá Quát xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Thân sinh của ông sống vào thời kỳ Lê mạt, xã hội loạn lạc nên ông không đi thi để ra làm quan mà chỉ sống bằng nghề dạy học. Nhƣng dòng họ Cao là một dòng họ có truyền thống về thi phú và khoa bảng. -Ngay từ nhỏ, ông đã là một ngƣời thông minh, học giỏi và bản lĩnh. Tƣơng truyền năm 14 tuổi ông đã lều chõng đi thi nhƣng không đỗ, chín năm sau (1831) ông mới đỗ thứ hai kỳ thi hƣơng (đỗ á nguyên, sau giải nguyên, đỗ cử nhân thứ hai nhƣng sau bộ Lễ xếp lại đánh tuộtt xuống cuối bảng). Sau đó nhiều lần Cao Bá Quát đi thi hội ở kinh đô nhƣng không đậu, trƣợt mãi (chắc không phải vì bất tài mà vì ông là ngƣời cƣơng trực nên bị bọn quan lại ghen ghét). Mặt khác ông vốn là ngƣời tự do, phóng túng nên không chịu viết văn theo khuôn phép trƣờng thi. -Ðậu cử nhân từ năm 1831 nhƣng mãi đến năm 1841 ông mới đƣợc bổ làm một chức quan nhỏ mọn: chức hành tẩu bộ Lễ (bộ Lễ: nơi làm việc của quan văn có nhiều chức, chức hành tẩu là nhỏ nhất chỉ là chân thƣ ký). Thời gian này ông đƣợc cử làm sơ khảo kỳ thi hƣơng ở trƣờng thi Thừa Thiên. Thấy một số bài thi xuất sắc nhƣng phạm húy, ông đã cùng một ngƣời bạn chữa lỗi cho những bài thi đó để lấy đậu nhƣng bị phát giác. Ông bị khép vào tội chết, sau triều đình xét lại chỉ cách chức và đày vào Ðà Nẵng. Sau ba năm bị giam, ông đƣợc cử đi phục dịch một đoàn sứ bộ của triều đình đi công cán ở Xinhgapo để lập công chuộc tội (gọi là đi dƣơng trình hiệu lực). -Ở nƣớc ngoài về, ông đƣợc giữ chức cũ một thời gian rồi lại bị thải, ông trở về sống với vợ con ở Thăng Long. 75 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  23. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -1847, ông lại nhận đƣợc chiếu chỉ của nhà vua bổ vào làm việc ở Viện Hàn Lâm (sƣu tầm, sắp xếp các bài thơ cho nhà vua ngâm vịnh). Nhƣng vốn là một con ngƣời có tài.và cƣơng trực cho nên Cao Bá Quát trở thành cái gai trong mắt bọn quan lại ở triều đình, vì thế chúng đã tìm cách đẩy ông đi xa. -1852, ông bị đẩy đi làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai, Sơn Tây (chức quan trông coi việc học hành ở một vùng). Nơi này là một vùng hẻo lánh, ít ngƣời đi học. Ðối với ông, đó là một việc đày ải thực sự nên càng làm cho ông bất bình. Năm ấy mùa màng lại bị châu chấu tàn phá, nhân dân vô cùng đói khổ, nhất là ở vùng Sơn Tây. Bị đẩy đến bƣớc đƣờng cùng, họ đã đứng lên chống bọn địa chủ, quan lại để giành sự sống. Cao Bá Quát liên lạc đƣợc với các lãnh tụ khởi nghĩa bèn vứt bỏ chức Giáo thụ quèn. Ông mƣợn cớ phò Lê, tôn Lê Duy Cự làm minh chủ, mình làm quốc sƣ đứng lên kêu gọi nhân dân vùng này khởi nghĩa đánh đổ triều Nguyễn. Ðáng tiếc là cuộc khởi nghĩa lại sớm thất bại. Cao Bá Quát hi sinh trong một cuộc chiến với quân triều đình. Sau khi ông mất, nhà Nguyễn đã trả thù dòng họ này một cách dã man bằng cách thi hành lệnh tru di tam tộc cả dòng họ. 2.Sự nghiệp thơ văn. -Sáng tác của Cao Bá Quát chủ yếu bằng chữ Hán, chữ Nôm cũng có nhƣng ít. Khác với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát sống vào thời kỳ chính sách đề cao chữ Hán của nhà Nguyễn đã có ảnh hƣởng sâu rộng trong giới nho sĩ. Có lẽ Cao Bá Quát chịu ảnh hƣởng của chủ trƣơng này. -Về tác phẩm chữ Hán ông có hai tập thơ: Chu Thần thi tập và Cúc Ðƣờng thi thảo. Cả hai tập thơ này có tên chung là Cao Bá Quát thi tập. Số bài thơ của hai tập thơ này chƣa rõ là bao nhiêu nhƣng chắc chắn nhiều hơn số hiện nay chúng ta sƣu tập đƣợc: 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi. Sau khi nhà thơ qua đời, tác phẩm của ông cũng phải chịu sự bạc đãi của triều đình nhà Nguyễn. -Về mặt chữ Nôm: ông có bài phú nổi tiếng Tài tử đa cùng (Ngƣời tài giỏi có nhiều điều cùng khổ). Ngoài ra ông còn có một số bài thơ Ðƣờng luật và ca trù. II.MỘT SỐ NÉT ĐẶC SẮC TRONG THƠ CAO BA QUÁT. 1.Thơ ông chứa đựng một nội dung hiện thực phong phú. -Thơ văn Cao Bá Quát thuộc khuynh hƣớng phê phán hiện thực, bộ mặt của xã hội đƣơng thời đƣợc phản ánh khá rộng rãi, đa dạng và phong phú trong tác phẩm của ông. Chẳng hạn qua thơ văn của ông ngƣời ta có thể thấy cuộc sống thiếu thốn, vất vả của một nhà nho nghèo có hoài bão, tâm huyết đến cuộc sống của một kẻ bị tù tội oan uổng; những sức ép tàn bạo bằng ngục tù, roi đòn của nhà Nguyễn đối với những con ngƣời có tài năng, có tƣ tƣởng tiến bộ rồi cuộc đời cùng quẫn của nhân dân lao động trong xã hội đƣơng thời. Cũng nhƣ bao nhà thơ tiến bộ khác, Cao Bá Quát cũng bắt đầu từ những vấn đề của cá nhân để đi đến những vấn đề có tính xã hội và càng về sau thơ văn ông càng giàu tính hiện thực. Từ những chi tiết mang tính hiện thực ấy ta thấy hiện lên bộ mặt của một chế độ đã già cỗi, tàn bạo, bất nhân đáng nguyền rủa và đáng bị tiêu diệt. 2. Thơ Cao Bá Quát chứa đựng nhiều tình cảm tốt đẹp, nhiều tƣ tƣởng tiến bộ. Thơ văn Cao Bá Quát là sản phẩm tinh thần của một con ngƣời có nhân cách cứng cỏi, trí tuệ sáng suốt; một tâm hồn lộng gió thời đại, một trái tim nhạy bén giàu cảm xúc. Vì vậy thơ văn ông chứa đựng nhiều tình cảm tốt đẹp, nhiều tƣ tƣởng tiến bộ. 2.2.1.Lòng yêu nƣớc và tự hào dân tộc. -Khâm phục và ngƣỡng mộ những ngƣời anh hùng cứu nƣớc, ông viết các bài thơ Vịnh Phù Ðổng Thiên Vƣơng, Vịnh Trần Hƣng Ðạo Qua việc ca ngợi những ngƣời anh hùng đó Cao Bá Quát bộc lộ ƣớc muốn 76 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  24. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam cứu dân, cứu nƣớc của mình. Ông nhƣ tìm thấy sự tiếp sức từ trong lịch sử của dân tộc. Ðây là điểm khác biệt giữa thơ vịnh lịch sử của ông và các nhà thơ khác (họ vịnh lịch sử để quay lƣng với hiện thực cuộc sống). -Cao Bá Quát còn là con ngƣời say mê với những cảnh đẹp của non sông đất nƣớc, ông ca ngợi những cảch đẹp ấy. Hầu hết các danh lam thắng cảnh của miền Bắc, ông đều có đến thăm và đề thơ ngâm vịnh nhƣ: núi Ba Vì, hồ Tây, núi Thúy Dục, sông Hƣơng. Nét đặc sắc của nhà thơ khi miêu tả các cảnh này là ở chỗ ông không miêu tả nó theo lối của những ẩn sĩ đi du ngoạn để chữa bệnh tinh thần mà lại kèm theo hào khí dân tộc. Dải sông Hƣơng mềm mại đến thế mà khi hiện lên trong thơ ông vẫn mang một hào khí hùng tráng: Trường giang như kiếm lập thanh thiên (Con sông dài như thanh kiếm dựng giữa trời xanh) (Buổi sáng qua sông Hƣơng). Núi Dục Thúy, núi Tản Viên, hồ Tây từ lâu đã trở thành niềm tự hào của đất nƣớc và đặc biệt là là hình tƣợng núi Tản đã từng tƣợng trƣng cho khí phách hào hùng của dân tộc ta. Và trong thơ Cao Bá Quát nét đặc sắc là câu tự vấn của tác giả: Non sông nhƣ thế, mình thì sao đây? khi đứng trƣớc những thắng cảnh ấy. Tình cảm của ông bao giờ cũng là tình cảm hai chiều: Yêu thƣơng và trách nhiệm. Ðây không phải là điều dễ tìm thấy ở các nhà thơ đƣơng thời. -Ðặc biệt trong thời đại sống của mình Cao Bá Quát đã ý thức, đã băn khoăn cho số mệnh của đất nƣớc trƣớc hiểm họa xâm lăng từ phƣơng Tây. 2.2.2.Lòng yêu thƣơng con ngƣời nghèo khổ, bất hạnh. Ðây là nét đặc sắc nổi bật nhất, phân cách giữa Cao Bá Quát và các nhà thơ đƣơng thời. Cao Bá Quát có một ý thức vì dân thực sự, ông đã đứng về phía quần chúng lao động để thông cảm với những nỗi khổ đói cơm, rách áo của họ. -Nhà thơ đã thực sự xúc động trƣớc những tình cảnh đói cơm, rách áo của những ngƣời dân nghèo: +Bài thơ Dọc đƣờng gặp ngƣời đói giúp ta cảm nhận đƣợc một tấm lòng yêu thƣơng với tình cảm dạt dào. +Bài Ngƣời tát nƣớc trên đồng cao buổi sángtáïc giả miêu tả cảnh những ngƣời lao động đang tát nƣớc trên đồng cao. Buổi sáng sƣơng núi còn dày đặc, trời rét, bụng đói, môi run cầm cập mà cứ phải luôn tay kéo gàu. +Bài Cô gái từ trên cầu trở về lúc buổi tối (Mộ kiều qui nữ) tả cảnh buổi chiều tối, trời rét, một cô gái phải đi bán áo để mua cám cho gia đình, khi trở về qua cầu gió hun hút thổi mà cô gái vẫn thản nhiên bƣớc đi bởi lòng cô nhƣ ấm lên khi nghĩ tới ngƣời nhà đang tựa cửa chờ mình. -Cao Bá Quát cũng đã nhìn thấy đƣợc nguyên nhân của sự đói khổ của quần chúng lao động là do sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Vì thế nhà thơ đã hết sức căm giận và trực tiếp phê phán chính sách cai trị hà khắc của triều đình nhà Nguyễn. Lòng yêu thƣơng quần chúng của Cao Bá Quát cũng đã biến thành trách nhiệm, đây cũng là nét đặc sắc của tác giả này. Ông băn khoăn, day dứt về trách nhiệm của mình đối với dân. Có lúc ông tỏ ra bực tức vì thấy mình đã già, đã bất lực: Lòng thẹn với lòng này hóa lão Cúi đầu lẳng lặng dựa bên tường 77 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  25. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam 2.2.3.Thơ ông chứa đựng nhiều tình cảm đậm đà, chung thủy trong quan hệ bè bạn, gia đình, làng xóm.Thời kỳ bị giam, nhà thơ đã viết nhiều bài thơ thể hiện lòng thƣơng vợ, nhớ con, nhớ quê hƣơng, bạn bè da diết. -Ở bài thơ Tiếp thƣ của vợ gửi áo rét, bút và vài thứ nhà thơ đã viết những câu thơ thật xúc động: Trước đèn thư mở lệ muôn hàng Hồn gửi phòng the luống vấn vương -Bài Mộng vong nữ (Chiêm bao thấy con gái đã mất) là tiếng nói yêu thƣơng, đau xót thể hiện một tâm hồn giàu chất nhân văn của nhà thơ. Tronh mơ ông thấy ngƣời con gái đã mất trở về với quần áo mong manh, rách nát, sắc diện thê thiết. -Bài Trả lời ngƣời bạn hỏi thăm viết khi bị thải về nhà: Chợt nghĩ tới mình ruột gan như từng khúc Nhớ bạn mỗi ngày tính đến trăm lần 2.2.4.Thơ ông còn chứa đựng nhiều tƣ tƣởng tiến bộ. -Ông là ngƣời có thái độ đúng đắn trƣớc sức mạnh vật chất của ngƣời phƣơng Tây. Ông không tỏ ra khiếp sợ tuy có ngạc nhiên. Bài thơ Hồng mao hỏa thuyền ca ông miêu tả con tàu không buồm, không chèo, không ngƣời đẩy mà đi ngang, chạy ngƣợc nhanh nhƣ ngựa phi. Khói phun ngùn ngụt, sóng tung tóe ầm ầm nhƣ sóng. Nhƣng kết thúc bài thơ, ông kết luận đầy khí phách, cảnh cáo con tàu đừng chủ quan khi đến biển Ðông. Bởi sóng nƣớc ở đây không dễ dàng nhƣ bể Tây đâu. -Ông có một thái độ đúng đắn và tiến bộ trƣớc lối học từ chƣơng khoa cử của nền giáo dục phong kiến từ ngàn đời nay. Cao Bá Quát là ngƣời đầu tiên dám phê phán và phủ định lối học đó, ông coi lối học từ chƣơng là trò nhai văn nhá chữ, là lối học trẻ con, hoàn toàn xa lạ với cuộc sống thực tế. Ông phê phán bằng lời và cả hành động của mình. Việc ông chữa các bài phạm húy tựu trung cũng mang ý nghĩa phản kháng, phê phán, xuất phát từ chỗ ông không đồng ý với những phép tắc ngu xuẩn của trƣờng thi thời bấy giờ. -Ông quan tâm đến tác dụng của văn thơ và đề xuất một số quan niệm về văn thơ rất tiến bộ. Ông cho rằng thơ vừa phải có quy cách vừa phải có tính tình nhƣng tính tình là cái quyết định. 3.Thơ Cao Bá Quát in đậm dấu ấn bản lĩnh và phong cách nhà thơ. Cao Bá Quát là một con ngƣời phóng túng, có nhân cách cứng cỏi, có tâm hồn, có trái tim giàu cảm xúc. Những điều đó đã in đậm vào sáng tác và trở thành phong cách riêng của nhà thơ, phong cách đó tạm quy vào mấy nét sau: -Sáng tác của ông mang tính chất phóng túng: Tiêu biểu nhất là trong thơ chữ Hán, ông sử dụng nhiều hình tƣợng mới mẻ, có nhiều tứ thơ đột xuất. Nói tới hoa mai, các nhà thơ xƣa thƣờng ca ngợi sự trắng trong và tinh khiết của nó. Cao Bá Quát cũng ca ngợi cái tinh khiết, cái trắng trong đó của hoa mai nhƣng thiết thực hơn ông muốn tự tay mình gieo lên núi một rừng mai để rồi khi xuân đến mai sẽ xanh tƣơi điểm tô cho bầu trời, mai sẽ trở thành bức tranh tuyệt tác cho đời xem chung (Tài mai). Nói đến dòng sông Hƣơng của Huế, ngƣời ta thƣờng nghĩ tới một dòng sông hiền hòa mềm mại, nhƣng dƣới con mắt của Cao Bá Quát thì sông Hƣơng lại giống nhƣ một thanh kiếm dựng đứng giữa trời xanh. Bài phú Tài tử đa cùng cũng là một hiện tƣợng đặc biệt. Do tính chất biền ngẫu của câu văn nên phú thƣờng có cái gò bó của nó nhƣng đọc bài phú của Cao Bá Quát ta thấy ngòi bút của ông vẫn phóng túng hết mực. Ông vẫn diễn tả đƣợc một cách sôi nổi cái háo hức của tuổi trẻ. Trong bài phú ông dùng nhiều động từ diễn tả hành động mạnh bạo để thể hiện tƣ tƣởng lành mạnh, tiến bộ của mình. 78 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  26. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -Thơ Cao Bá Quát kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy nghĩ, giữa tình cảm và lí trí. Lí trí làm cho tình cảm của nhà thơ trở nên sâu sắc hơn, đậm đà hơn ngƣợc lại tình cảm làm cho suy nghĩ của nhà thơ trở nên đúng đắn hơn. Ông luôn băn khoăn về con đƣờng đi của mình, về trách nhiệm của một nhà nho đối với nhân dân. -Hiện thực trong thơ ông nôm na mà bay bổng (chất thơ) để nói rõ sự việc Cao Bá Quát đã không ngại đi vào những chi tiết chân thực nhất của cuộc sống. III.KẾT LUẬN Cao Bá Quát là nhà thơ lớn nhất trong khuynh hƣớng phê phán hiện thực của văn học nửa đầu thế kỷ XIX. Ðóng góp của thơ văn Cao Bá Quát trƣớc hết là ở nội dung, cái hơn ngƣời của ông là nội dung tƣ tƣởng, là lòng dũng cảm, là sự sáng suốt cả về chính trị lẫn văn hóa. Cuộc đời của ông vẫn là một bài học quí, khi cần thiết ông biết ném cây bút để nắm lấy Long tuyền. Chƣơng 18: HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ. I.VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 1.Tác giả. -Ý kiến truyền thống: Một số nhà nghiên cứu cho rằng tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí là ba anh em thuộc dòng họ Ngô Thì, ngƣời làng tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông cũ (nay là tỉnh Hà Sơn Bình). Ngô Thì Chí là ngƣời khởi thảo viết bảy hồi đầu. Ngô Thì Du và Ngô Thì Thiến viết mƣời hồi cuối. -Các tác giả này đều là cựu thần của nhà Lê. Bản thân Ngô Thì Chí từng làm quan văn dƣới thời Lê Chiêu Thống và là ngƣời đã trung thành với vua Lê cho đến phút cuối cùng của đời mình. 2.Tác phẩm -Hoàng Lê nhất thống chí ghi chép các sự kiện lịch sử lớn nhất của xã hội phong kiến Việt Nam vào khoảng ba mƣơi năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu của thế kỷ XIX. Cụ thể tác phẩm ghi chép các sự kiện từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa, Ðặng Thị Huệ lộng quyền cho đến khi Nguyễn Aïnh lật đổ nhà Tây Sơn lập nên triều đại nhà Nguyễn (1768-1802). -Cuốn sách đƣợc viết bằng chữ Hán và theo lối diễn nghĩa của tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc. -Tác phẩm do nhiều ngƣời viết nhƣng về nội dung và hình thức vẫn có đƣợc một sự thống nhất bởi vì ngƣời khởi thảo cũng nhƣ ngƣời tục biên đều tuân thủ một phƣơng pháp: ghi chép ngƣời thực và việc thực theo một chủ đề nhất định. Và các tác giả này đều có thái độ tôn trọng sự thật lịch sử khách quan. -Cho đến nay Hoàng Lê nhất thống chí đã có tới bốn bản dịch trong đó có hai bản dịch đƣợc coi là thành công nhất là bản dịch của Ngô Tất Tố (1942) và bản dịch của Kiều Ðức Vân và Nguyễn Thu Hoạch(1964). II.NỘI DUNG 1.Sự sụp đổ không gì cƣỡng lại đƣợc của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh. Mặc dù lập trƣờng tƣ tƣởng là lập trƣờng tƣ tƣởng phong kiến và với tƣ cách là bề tôi trung thành của nhà Lê, momg ƣớc cho chính quyền nhất thống về tay nhà Lê, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí vẫn phải ghi nhận một sự thật lịch sử:Sự sụp đổ của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh là không thể tránh khỏi. -Tác phẩm có đến hàng trăm nhân vật và các sự kiện lớn nhỏ nhƣng tất cả chỉ xoay quanh thể hiện mấy ông vua, mấy ông chúa và các bề tôi miếu đƣờng của chúng. Hàng ngày tất cả những con ngƣời này vây quanh chiêïc ngai vàng đã mục nát, ọp ẹp để tranh giành quyền lực, địa vị. Có khi đó là cuộc tranh giành trong nội bộ nhà vua Lê hoặc trong nội bộ nhà chúa Trịnh, có khi đó là cuộc tranh giành giữa vua Lê và chúa Trịnh. -Ngay từ thế kỷ XVI, giai cấp phong kiến thống trị đã bộc lộ bản chất xấu xa bên trong của mình. Nhƣng có lẽ không lúc nào bằng lúc này- những ngày mạt vận, chúng bộc lộ một cách đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất xấu 79 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  27. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam xa của mình. Dƣới ngòi bút miêu tả hiện thực sắc sảo của các tác giả, bọn vua chúa, những thần tƣợng vốn đƣợc coi là thiêng liêng, tôn quí thì nay chỉ còn là những con ngƣời bế tắc về trí tuệ, sa đọa về đạo đức, cùng mòn trong đƣờng lối chính trị. -Vua chúa: +Vua Lê Hiển Tông: Ông vua đầu tiên của giai đoạn này bề ngoài có đầy đủ khí tƣợng đế vƣơng, nào là râu rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phƣợng, đi nhẹ nhƣ nước, ngồi vững như non nhưng bốn mươi năm trên ngôi là bốn mươi năm khoanh tay rủ áo, quẩn quanh trong một xó hoàng cung. Tiêu phí thời gian bằng cách sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác, chia thế ba nƣớc: Ngụy, Thục, Ngô rồi dạy cho họ cách ngồi, đứng, đâm, đỡ để mua vui. Ðáng sợ nhất là ở chỗ ông taý thức đƣợc thân phận bù nhìn của mình nhƣng vẫn không lấy đó làm điều sỉ nhục, trái lại vẫn vui vẻ nhƣ thƣờng vì triết lí sống của vua ta là: Trời sai chúa phò ta, chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui, mất chúa tức cái lo lại về ta, ta còn vui nỗi gì. Y là hiện thân đầy đủ cho sự bất tài, bất lực của tập đoàn phong kiến nhà Lê. +Vua Lê Chiêu Thống: Ðây là một tên vua bán nƣớc cầu vinh mà lịch sử dân tộc muôn đời lên án. Nhờ Tây Sơn mà y đƣợc lên ngôi vua. Thực tế những ngày ngồi trên ngai vàng, y cũng chẳng làm đƣợc gì. Vì quyền lợi ích kỷ của bản thân mà y sẵn sàng bán rẻ quyền lợi dân tộc. Nổi bật ở con ngƣời này vẫn là sự bất tài, tham lam, bạc nhƣợc. Ðứng trên lập trƣờng dân tộc, tác giả đã phê phán tên vua này nhƣ sau: Nƣớc Nam ta từ khi có đế có vƣơng đến nay chƣa có ông vua nào đê hèn và luồn cúi như vậy . Bởi vì tiếng là làm vua nhưng niên hiệu vẫn viết Càn Long, việc gì cũng do viên tổng đốïc họ Tôn khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc. Có thể nói khi bán rẻ quyền lợi dân tộc, Lê Chiêu Thống cũng bán rẻ luôn nhân cách của mình. Những ngày cuối đời y sống ở Trung Quốc thật là nhục nhã, cái chết mà y phải đón nhận thật xứng đáng với phần đời mà y đã sống và làm hại dân tộc. +Trịnh Sâm: Tác giả giới thiệu y là một ngƣời cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ hơn ngƣời, có đủ tài cả văn lẫn võ. Nhƣng thực tế y chỉ là một kẻ chuyên quyền, cậy thế. Ðọc tác phẩm, chúng ta không thấy tài cán của chúa đƣợc thể hiện ở đâu hết, chỉ thấy lúc nào chúa cũng ăn chơi trác táng, cung điện đầy ắp cung nữ để chúa mặc ý vui chơi thỏa thích. Trịnh Sâm cũng đã trở thành đầu mối của mọi cuộc biến loạn trong phủ chúa với tội trạng bỏ con trƣởng, lập con thứ. Y say mê Ðặng Thị Huệ mà đi đến bỏ bê cả triều chính. +Trịnh Tông: Là ngƣời nối tiếp Trịnh Sâm. Nhờ đám kiêu binh mà y dành lại đƣợc ngôi chúa và thực ra y cũng chỉ là con rối trong tay đám kiêu binh mà thôi. -Quan lại: +Châu tuần xung quanh bọn vua chúa trên là những quan lớn , quan nhỏ. Tất cả chỉ là một lũ bất tài, hám danh, tâm địa tráo trở. Có thể nói nguyên tắc sống cao nhất của đám quan lại lúc bấy giờ là quyền lợi, là địa vị, vì những cái đó chúng sẵn sàng làm tất cả: vu oan, tố cáo, hãm hại, chém giết, sát phạt, lẫn nhau. Và nếu cần, buôn vua bán chúa chúng cũng không nề hà. Có nhiều kẻ đã trở thành bọn đầu cơ chính trị, nhân việc nƣớc trôi giạt mà mƣu cầu phú quí. +Ðinh Tích Nhƣỡng: Là một võ tƣớng, con nhà dòng dõi mƣời tám đời làm quận công, trƣớc y theo chúa chống vua, thấy chúa thất thế y ngã về phía vua, khi vua không còn sức lực để tồn tại nữa thì y ngã về phía Tây Sơn và cho quân đi báo với Tây Sơn chỗ ở của vua và xin sai quân đến bắt. Chỉ cần với một câu nói của y mà tác giả đã khái quát đƣợc nhân cách bỉ ổi của tên võ tƣớng này: Vua không thương ta, ta còn cần gì vị nể nhà vua nữa. Ở đây tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã thấy đƣợc tính chất cơ hội chủ nghĩa hết sức bỉ ổi là nét tâm lí hếøt sức điển hình của bọn ngƣời này mà tập trung ngòi bút của mình, xoáy sâu vào phê phán. +Nguyễn Hữu Chỉnh: con ngƣời này hiện lên trong tác phẩm nhƣ một tên gian hùng của đời loạn. Là một con ngƣời có tài, nhƣng xuất thân từ tầng lớp thƣơng nhân nên lúc nào y cũng mang trong mình những ý nghĩ đen tối, tham lam. Vì địa vị, quyền lợi của mình, y sẵn sàng làm tất cả- phản chủ, giết bạn, giết ngƣời thân thích. Gió chiều nào y xoay theo chiều đó. -Binh lính: Từ chỗ là đội quân ƣu binh, là đội quân đặc biệt đã từng là nanh vuốt của triều đình, đến giai đoạn này chỉ còn là bọn kiêu binh. Một đội quân kiêu căng, hống hách, tàn phá triều đình từ bên trong. Tất cả triều đình phải bó tay, ai cũng e sợ trƣớc sức tàn phá của bọn này. -Trên cái đà tàn lụi đó của chế độü thì tất cả những cái đƣợc gọi là cƣơng thƣờng đạo lí, nền móng của xã hội đều bị đảo lộn: Nghĩa cả vua tôi, tình thầy trò, cha con, vợ chồng, anh em, mẹ con không còn gì là thiêng liêng nữa. *Tóm lại, một xã hội từ vua chúa, quan lại, binh lính cho đến nền móng đều thối nát, sụp đổ nhƣ thế thì còn sức nào đứng vững đƣợc nữa. Nhƣ thế về khách quan Hoàng Lê nhất thống chí đã nêu đƣợc xu thế tất yếu của lịch sử: Sự sụp đổ của tập đoàn vua Lê- chúa Trịnh là không thể tránh khỏi. Nguyên nhân thì có nhiều nhƣng trƣớc hết vẫn 80 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  28. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam do bản chất xấu xa thối nát của chính giai cấp này gây nên. Và rồi chính bão tố của phong trào nông dân khởi nghĩa đã nhanh chóng đƣa chúng đến sào huyệt của mình 2.Khí thế quật khởi quyết liệt chống thù trong giặc ngoài của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Có thể nói các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã dũng cảm phản ánh phong trào, dám ghi lại khí thế quật khởi của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù chƣa thật hiểu, chƣa miêu tả và phản ánh đƣợc một cách đúng đắn và đầy đủ về phong trào nhƣ nó vốn có trong lịch sử, nhƣng cho đến nay Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là tác phẩm duy nhất ghi lại đƣợc khí thế quật khởi của cuộc khởi nghĩa này. -Thành công của tác phẩm khi phản ánh sự kiện này là ở chỗ: +Bằng hình tƣợng nghệ thuật Hoàng Lê nhất thống chí đã dựng lên đƣợc hình ảnh Nguyễn Huệ và phong trào khởi nghĩa trên một bối cảnh lịch sử rộng lớn với giai đoạn phát triển khá dài, từ khi Tây Sơn dựng cơ dấy nghiệp, trải qua nhiều chiến công hiển hách cho đến lúc bị bại vong. +Tác phẩm đã khẳng định sức mạnh vô địch của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, khẳng định Nguyễn Huệ nhƣ một anh hùng chân chính có nhiều công lao đối với dân tộc, đất nƣớc. +Ðặc biệt ở hồi thứ XIV của tác phẩm, các tác giả đã miêu tả cuộc hành quân, tiến quân ra Bắc đánh tan hơn hai mƣơi vạn quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn. Hồi thứ XIV đã đƣợc xem nhƣ một bản anh hùng ca nổi bật giữa những trang văn xám xịt miêu tả sự khủng hoảng thối nát của tập đoàn phong kiến thống trị Lê- Trịnh. Từ chỗ là ngƣời chứng kiến, tác giả đã nhập thân vào cuộc chiến đấu, theo sát từng trận đánh, miêu tả thật tỉ mỉ. Ðặc biệt họ đã tập trung khắc họa Nguyễn Huệ, vua Quang Trung đã trở thành linh hồn của cuộc chiến đấu. Ba chữ vua Quang Trung cứ trở đi trở lại nhƣ một điệp khúc tự hào trong hồi XIV này. Chính nhiệt tình yêu nƣớc ở các tác giả đã giúp họ phần nào chiến thắng đƣợc định kiến giai cấp của mình. Họ không đồng tình với khởi nghĩa Tây Sơn nhƣng họ lại tán đồng, lại ca ngợi hành động chống xâm lƣợc của nghĩa quân. 3.Nguyên nhân thành công và hạn chế của tác phẩm. 2.3.1.Nguyên nhân thành công: Nguyên nhân chính làm nên phần thành công của tác phẩm là lập trƣờng dân tộüc và sự tác độüng của đời sống thực tế. 2.3.2. Hạn chế của tác phẩm: Tác phẩm có những hạn chế là tất yếu bởi vì những ngƣời cầm bút đều mang tƣ tƣởng chính thống phò Lê. Các tác giả còn rơi vào duy tâm siêu hình khi đánh giá các sự kiện lịch sử. Họ cắt nghĩa những biến cố lịch sử bằng vai trò của cá nhân và tƣ tƣởng thiên mệnh. III.NGHỆ THUẬT 1.Thể loại. Cũng có thể là không nên gò ép tác phẩm thuộc thể loại nào nhƣng chúng ta vẫn phải xác định Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm thuộc thể loại kí sự lịch sử. Khẳng định nhƣ vậy là xét về hoàn cảnh ra đời, nội dung phản ánh hiện thực và đặc trƣng kết cấu cuả tác phẩm. 2.Nghệ thuật miêu tả. -Ðiểm đáng chú ý nhất trong Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là nghệ thuật miêu tả. Ðọc tác phẩm ta thấy tất cả các sự kiện lịch sử chính xác nhƣ những sự kiện trong một cuốn sách sử học nhƣng không phải đƣợc kể lại một cách khô khan, trần trụi mà đƣợc các tác giả miểu tả, dựng lên thành những bức tranh cụ thể, sinh động và có ý nghĩa khái quát hóa, có giá trị về mặt mĩ học. -Hiện thực đƣợc phản ánh ở đây phong phú đa dạng cho nên ngòi bút miêu tả của các tác giả cũng trở nên đa dạng, phong phú và mang nhiều sắc thái thẩm mĩ khác nhau. Ðối với bọn vua chúa, quan lại bao giờ tác giả cũng dùng ngòi bút miêu tả có tính chất trào phúng, khôi hài và cũng có khi châm biếm sâu cay. Khi miêu tả cảnh kiêu binh phò Trịnh Tông lên ngôi chúa, tác giả đã dùng ngòi bút so sánh để làm nổi bật tính chất khôi hài, trò hề trong hành động của Tông. Ðây cũng là một trong những cảnh có ý nghĩa trong tác phẩm. 81 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  29. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam -Ngòi bút miêu tả đó cũng có khi mang không khí trang trọng hùng tráng của anh hùng ca. Ðó là trƣờng hợp nhà văn miêu tả Nguyễn Huệ duyệt binh và ra lệnh cho quân lính trong buổi lễ xuất quân tiến thẳng ra Thăng Long tiêu diệt quân ngoại xâm. Dƣới ngòi bút của tác giả, chiến dịch này nhƣ một bản anh hùng ca bất diệt, tác giả miêu tả nó với một thái độ hả hê, sảng khoái. -Chính ngòi bút miêu tả hiện thực phong phú đa dạng với nhiều sắc thái thẩm mĩ đã góp phần tạo nên giá trị phản ánh hiện thực lớn lao của tác phẩm. 3.Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Các nhân vật tuy chƣa đạt tới tính cách hoàn chỉnh nhƣng mỗi nhân vật đã có đƣợc vẻ mặt riêng, cuộc sống riêng độc đáo, gây ấn tƣợng ở ngƣời đọc. Chẳng hạn cùng tính toán đêí bảo vệ lợi ích cá nhân nhƣng cách làm của Lê Hiển Thông khác với cách làm của Lê Chiêu Thống, cách làm của quận Huy khác với cách làm của Nguyễn Hữu Chỉnh. IV.TỔNG KẾT Trong văn xuôi chữ Hán của văn học dân tộc, trƣớc và sau Hoàng Lê nhất thống chí không có một tác phẩm thứ hai nào có qui mô lớn và đạt nhiều thành công nhƣ tác phẩm này Chƣơng 19: KHÁI QUÁT VĂN HỌC YÊU NƢỚC VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX (1858-1900) I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ: 1.Sự xâm lƣợc của thực dân Pháp trên đất nƣớc ta: Thực dân Pháp đã có ý đồ xâm chiếm nƣớc ta từ lâu, từ cuối thế kỷ XVIII nhƣng âm mƣu này chƣa thực hiện đƣợc. Mãi đến cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp lấy cớ triều đình nhà Nguyễn đã bắn giết các giáo sĩ và ngăn chặn thông thƣơng nên đã chính thức xâm lƣợc Việt Nam. Thực dân Pháp phải mất gần 40 năm mới đặt ách thống trị trên đất nƣớc ta và non một thế kỷ nhân dân ta phải sống dƣới sự cai trị của Pháp. Trong điều kiện xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX thì sự kiện Pháp xâm lƣợc Việt Nam là sự kiện quan trọng, nổi bật, chi phối các sự kiện khác và có ảnh hƣởng rất lớn đến mọi tầng lớp ngƣời trong xã hội. 2.Sự đấu tranh của nhân dân ta chống Pháp: Trƣớc sự xâm lƣợc của thực dân Pháp, nhân dân ta đấu tranh chống Pháp quyết liệt. Giai cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối nhƣng ngày càng yếu ớt và cuối cùng thì nhƣợng bộ, thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nông dân chống triều đình phong kiến đầu hàng và chống Pháp xâm lƣợc. Chẳng hạn nhƣ cuộc khởi nghĩa của Ba Cai Vàng, Ðoàn Hữu Trƣng, Trần Tấn Phong trào đấu tranh yêu nƣớc của các sĩ phu, các lãnh binh đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp dƣới ngọn cờ Cần Vƣơng cũng nổ ra rầm rộ kéo dài từ Bình Ðịnh, Quảng Bình ra đến Hƣng Yên, Thái Bình, Tây Bắc. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhƣ Phan Ðình Phùng, Ðinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám Phong trào chống Pháp tuy sôi nổi, đều khắp nhƣng không có lực lƣợng hậu thuẫn làm nồng cốt nên cuối cùng phong trào đấu tranh chống Pháp bị thất bại. Mất nƣớc là do nhà Nguyễn phản động, sợ dân hơn sợ giặc chứ hoàn toàn không phải do định mệnh. Mặc dù thất bại nhƣng cũng chứng tỏ đƣợc tinh thần yêu nƣớc nồng nàn, tinh thần dũng cảm của nhân dân, khẳng định phong trào đấu tranh mang tính nhân dân sâu sắc. Có thể nói, đây là giai đoạn lịch sử đau thƣơng mà hùng tráng của dân tộc, nhiều hi sinh mất mát nhƣng rất tự hào, giai đoạn Khổ nhục nhƣng vĩ đại. 82 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  30. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam 3.Sự phân hóa giai cấp trong xã hội: Trƣớc những biến cố lớn lao, xã hội có sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Mỗi tầng lớp bị phân hóa đều mang sắc thái tâm lý riêng, một thái độ chính trị riêng. Trong hàng ngũ giai cấp phong kiến, giai cấp thống trị cũ của xã hội, thái dộ của họ không giống nhau nhƣng tâm lý chủ yếu của tầng lớp này là đầu hàng, thỏa hiệp. Bên cạnh đó có một số sĩ phu, trí thức phong kiến thấy rõ quyền lợi của phong kiến cũng chỉ là quyền lợi làm tay sai cho đế quốc(*)) , họ tiếp thu truyền thống yêu nƣớc của dân tộc, sống gần gũi với nhân dân nên đã hăng hái cùng với nhân dân chống giặc. Số khác là những nhà thơ, nhà văn yêu nƣớc đã dùng ngòi bút để chiến đấu, để nói lên tâm tƣ, nguyện vọng và thái độ của mình trƣớc cảnh nƣớc mất, nhà tan. Bên cạnh lực lƣợng nho sĩ, nhiều tầng lớp mới xuất hiện nhƣ tƣ sản, tiểu tƣ sản và vô sản, quyền lợi đối lập nhau. Giai cấp tƣ sản mới hình thành nên chƣa đủ mạnh để chống lại tƣ sản chính quốc, cũng chƣa đủ sức để vƣơn cao ngọn cờ yêu nƣớc. Giai cấp vô sản hầu hết xuất thân từ giai cấp nông dân, giai cấp này lớn mạnh nhanh chóng nhất là sau chiến tranh thế giới I. Tuy nhiên, sáng tác văn học giai đoạn này vẫn thuộc về giai cấp cũ nên văn học vẫn chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến rõ nét. 4.Về văn hóa tƣ tƣởng, khoa học kỹ thuật: Vẫn trong tình trạng lạc hậu, trì trệ. Triều đình tôn sùng nho học, xem nho giáo là quốc giáo, lợi dụng tôn giáo là công cụ để thống trị xã hội Khổng, Mạnh, Trình đƣợc xem là những vị thánh. Sách vở của họ là thiên kinh địa nghĩa. Học trò đi thi chỉ học thuộc lòng một số câu, đoạn trong sách vở Ðiều này làm hạn chế óc sáng tạo của con ngƣời. Ngoài nho giáo thì Ðạo giáo, Phật giáo và các tín ngƣỡng khác cũng rất phát triển. Binh tƣớng đều xem bổn mạng trƣớc khi ra trận, trời hạn hán lâu ngày, các triều thần lập đàn cầu đảo để đƣợc mƣa Ðiều đó lộ rõ đƣợc sự bảo thủ nặng nề trong mọi hoạt động. Con ngƣời tin vào mệnh trời. Họ tin vào lực lƣợng siêu hình có khả năng giải quyết mọi thành bại ở trên đời. Ðiều đó làm hạn chế sự cố gắng của con ngƣời. Trƣớc tình hình đó vẫn có một số sĩ phu có đầu óc canh tân nhƣ Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trƣờng Tộ có dịp học hỏi khoa học kỹ thuật tiến bộ nên đã nhiều lần đƣa ra những kiến nghị cải cách xã hội. Nguyễn Trƣờng Tộ đả kích lối học từ chƣơng, hƣ văn, chủ trƣơng học khoa học kỹ thuật, học thiên văn, địa lý, luật, sinh ngữ Học tức là học cái chƣa biết để mà biết, biết để mà làm (Tế cấp bát điều). Ông say sưa với những đề nghị cải cách đất nƣớc thậm chí viết cả trên giƣờng bệnh. Giống nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch chủ trƣơng mở rộng giao thiệp với nƣớc ngoài, trọng việc học kỹ nghệ Việc học kỹ nghệ không phải khó nhƣ việc cắp nách túi Thái Sơn để vượt qua biển Bắc như lời thầy Mạnh. Vả lại, theo tình hình khẩn cấp, lúc khát mới lo đào giếng thì đã chậm, nhưng chậm còn hơn là không biết mãi. Dù mất dê mới lo làm chuồng cũng chưa phải là muộn (Thời vụ sách thứ hai) Nhƣng triều đình mục nát không nghĩ gì đến vận nƣớc nên nhiều bản điều trần của hai ông bị vùi trong quên lãng. Tƣ tƣởng con ngƣời quay về với nề nếp nho gia, cổ hủ, có ảnh hƣởng làm hạn chế sự phát triển của văn học đƣơng thời. II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC: 1. Về nội dung văn học 1.1. Văn học mang tính thời sự: Tính chất thời sự chi phối toàn bộ đời sống văn học và làm thay đổi diện mạo văn học. Văn học giai đoạn này ra đời trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt có nhiều biến cố trọng đại nên văn học gắn với chính trị và phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị. Với yêu cầu cấp thiết đó, văn học đã phản ánh những vấn đề trung tâm nóng hổi của thời đại: Cuộc đấu tranh của nhân ta chống thực dân Pháp. Ðây là chủ đề chính của văn học thời kỳ này. Trƣớc kia chƣa có một giai đoạn nào mà sự chuyển biến về chủ đề và đề tài trong văn học lại nhanh chóng và theo sát biến cố đến vậy. Nhiều tác phẩm yêu nƣớc ra đời đã ghi lại những biến cố lớn lao của đất nƣớc. Miên Thẩm có nhắc đến sự kiện Pháp tấn công Ðà Nẵng: 83 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  31. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Nẵng tuế Tây di phạm Quảng Nam Quan quân chiến bại huyết thành đàm. (Mại chỉ y) Dịch nghĩa: Năm kia giặc tây đánh Quảng Nam. Quân ta thua chạy máu chảy thành đầm. (Mua áo giấy) Phạm Văn Nghị trên đƣờng hành quân vào Ðà Nẵng đã làm bài Trà sơn quân thứ nói lên lòng căm thù giặc của mình. Nguyễn Ðình Chiểu có viết hàng loạt tác phẩm yêu nƣớc phản ánh cuộc chiến đấu của nhân dân, tố cáo tội ác của giặc và kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp. 1.2. Văn học mang tính trữ tình: Văn học giai đoạn này đã kế thừa tính trữ tình của văn học dân gian và văn học bác học đồng thời có sự vƣơn một buớc theo hoàn cảnh mới của lịch sử. Vì vậy nó chịu ảnh hƣởng sâu sắc tính trữ tình của văn học giai đoạn trƣớc, chủ yếu đi sâu vào chủ đề con ngƣời nên chất trữ tình của nó rất phong phú và đa dạng. Nhƣng trữ tình ở đây là trữ tình yêu nƣớc, phát triển trên cảm hứng mới của chủ đề đó là lòng yêu nƣớc gắn liền với những biến cố lớn lao của đất nƣớc. Văn học giai đoạn này đã thể hiện tình cảm yêu nƣớc của nhân dân bằng những lời lẽ thiết tha sâu nặng. Do đó yếu tố lãng mạn đã giữ vai trò không thể thiếu đƣợc để đảm bảo cái nhìn vừa đúng hiện thực vừa vừa phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Ngay Nguyễn Khuyến và Tú Xƣơng là những nhà thơ hiện thực trào phúng nhƣng cũng có những bài thơ trữ tình độc đáo. Có thể nói, văn thơ yêu nƣớc phong phú về trữ tình nhƣng không thiếu tự sự kể cả trào phúng, tính trữ tình là yếu tố căn bản của văn học yêu nƣớc chống Pháp. 2. Về hình thức 2.1. Ngôn ngữ: Vẫn tồn tại hai thành phần chữ Hán và chữ Nôm. Có tác giả viết hoàn toàn bằng chữ Hán nhƣ Miên Thẩm, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn Có tác giả viết bằng chữ Hán vừa bằng chữ Nôm nhƣ Nguyễn Khuyến. Có tác giả viết chủ yếu bằng chữ Nôm nhƣ Nguyễn Ðình Chiểu, Trần Tế Xƣơng Bên cạnh đó chữ quốc ngữ cũng đƣợc khích lệ dƣới nhiều hình thức: Báo chí, phiên âm, dịch thuật . Trƣơng Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của đã cò nhiều hoạt động rộng rãi nhằm phổ biến chữ quốc ngữ nhƣ phiên âm, dịch một số tác phẩm chữ Nôm và chữ Hán ra chữ quốc ngữ, biên soạn truyện cổ tích bằng chữ quốc ngữ, làm tự điển, ngữ pháp Sự ra đời cuốn Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của xuất bản năm 1895 và 1896 là một công trình biên soạn có giá trị. Một loạt những ngôn ngữ hàng ngày rất mới, rất mộc mạc đã đi vào thơ văn và có giá trị hiện thực đáng quý. 2.2. Thể loại: Thể loại thể hiện tính đại chúng, tính nhân dân sâu sắc. - Các thể loại dài nhƣ: Truyện thơ Lục vân Tiên , Dƣong Từ Hà Mậu, Ngƣ Tiều y thuật vấn đáp. - Các thể loại ngắn nhƣ: Sử ca, thơ Ðƣờng, thơ lục bát, vè hịch, văn tế Trong đó hịch và văn tế là hai thể loại tiêu biểu vì nó thích hợp cho việc kêu gọi và diễn đạt tình cảm lớn. Các thể loại ngắn là thể loại thành công hơn cả vì nó sáng tác nhanh, mang tính thời sự và phục vụ kịp thời đáp ứng đƣợc yêu cầu của cuộc chiế đấu và tình cảm của nhân dân. - Các thể loại sân khấu: Tuồng, chèo cũng phát triển . Về nội dung chƣa có gì đổi mới đáng kể so với trƣớc nhƣng về hình thức thì có nhiều đóng góp. 84 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  32. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam 2.3. Về mặt hình thức nghệ thuật: Phƣơng pháp chính vẫn là phƣơng pháp sáng tác truyền thống. Nhƣng do yêu cầu phản ánh trung thực và gần gũi để động viên chiến đấu nên văn học đã vận dụng hniều chất liệu hiện thực, mang sắc thái phê phán và ít nhiều đã phá vỡ những khuôn khổ của phƣơng pháp sáng tác truyền thống. Ðặc biệt là Trần Tế Xƣơng, tác giả có nhiều đóng góp trong việc sáng tác một phƣơng pháp mang đậm tính hiện thực. Trong bộ phận văn học chữ Hán, phong cách biểu hiện của thơ vẫn chƣa có gì đổi mới, vẫn chƣa thoát khỏi biểu hiện có tính chất công thức, ƣớc lệ của văn học phong kiến. Riêng văn xuôi chữ Hán có phần khác trƣớc, câu văn trong sáng, giản dị hơn, lập luận cũng chặt chẽ, lô gích hơn. Trong bộ phận văn học chữ Nôm, nghệ thuật biểu hiện một mặt kế thƣà truyền thống; mặt khác có sự đổi mới đáng kể. Văn học giai đoạn này bớt lối diễn đạt chung chung, ƣớc lệ, không cụ thể mà bám sát đời sống. Trong thơ hiện thực trào phúng nổi bật lên tính cụ thể, cá thể rõ nét, các nhà thơ đã dùng tiếng cƣời để xua tan mọi suy nghĩ siêu hình, tự biện, chất sống của nó rõ hơn trong thơ trữ tình. Cùng với lối biểu hiện có tính chất cá thể, cụ thể lịch sử, thơ thời kỳ này còn xuất hiện cái tôi trữ tình. Phong cách cá nhân rõ nét. Những đại từ ngôi thứ nhất số ít nhƣ Tôi, tớ, anh, em, ông, mình đã thay thế cho ta, hoặc một ẩn chủ ngữ cùng loại. Ðiều này đã làm cho văn học giai đoạn này có tiếng nói riêng vừa gần gũi vừa đại chúng. III. CÁC KHUYNH HƢỚNG VĂN HỌC: 1.Khuynh hƣớng yêu nƣớc chống Pháp: Yêu nƣớc vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc. Trải qua hàng chục thế kỷ chống ngoại xâm, từ buổi đầu dựng nƣớc cho đến khi có văn học thành văn, nhân dân ta thể hiện lòng yêu nƣớc mãnh liệt của mình. Ðến nửa cuối thế kỷ XIX, khi Pháp sang, truyền thống yêu nƣớc vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc lại có dịp bùng lên một cách mạnh mẽ. Văn học chống Pháp ra đời đã kế thừa một cách tốt đẹp truyền thống yêu nƣớc trong lịch sử và và có những bƣớc phát triển phù hợp với hoàn cảnh mới của lịch sử. Văn thơ yêu nƣớc đã vạch trần những luận điệu hèn nhát, bỉ ổi của triều đình, bọn vua quan vô trách nhiệm, bè lũ Việt gian bán nƣớc thành những bản án đanh thép hoặc những trang châm biếm sắc sảo. - Hịch đánh Tây của Lãnh Cồ - Hà thành thất thủ ca. - Hà thành chính khí ca. - Vè thất thủ kinh đô. - Biểu trần tình của Hoàng Diệu - Phú kể tội Pháp đánh Bắc kỳ lần I của Phạm Văn Nghị. - Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây của Nguyễn Ðình Chiểu - Mặt khác , nó còn phản ánh tâm lý đau xót của nhân dân trƣớc cảnh nƣớc mất, nhà tan (bài Cảm tác của Phan Văn Trị, Vè thất thủ kinh đô của nhân dân Huế, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Ðình Chiểu ) Khuynh hƣớng này đã đem đến cho văn học một luồng sinh khí mới, một sức sống mới. Các tác giả tiêu biểu của khuynh hƣớng này là Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn 2. Khuynh hƣớng hiện thực trào phúng: Có quan hệ chặt chẽ với khuynh hƣớng yêu nƣớc chống Pháp. Các nhà văn này, ban đầu sáng tác văn học yêu nƣớc nhƣng về sau khi phong trào kháng pháp thất bại, Pháp chiếm toàn bộ đất nƣớc ta, xã hội bộc lộ những chƣớng tai gai mắt nên các nhà văn này đã dùng ngòi bút của mình để phơi bày những mặt trái của xã hội bằng khiếu hài hƣớc nhạy bén của mình. Họ đã lấy việc tố cáo làm phƣông tiện để gây căm thù nhằm mục đích kêu gọi chiến đấu. Khuynh hƣớng này phát triển thành một khuynh hƣớng độc lập, tuy kkông đông đúc nhƣ khuynh hƣớng yêu nƣớc chống Pháp nhƣng cũng khá đa dạng, phát triển khắp trong Nam ngoài Bắc. Các tác giả tiêu biểu của khuynh hứơng này là Nguyễn khuyến, Trần Tế Xƣơng, Học Lạc, Nguyễn Thiện kế, Tú Quỳ, Kép trà, Trần Tích Phiên,, Nguyễn Hiển Dĩnh, Học Quế Bên cạnh đó còn có những tác giả dân gian, của loại truyện Ba giai Tú Xuất, chất tố cáo càng mạnh mẽ. 85 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  33. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Các bài thơ tiêu biểu : - Ông làng hát bội, Chó chết trôi của Học lạc. - Vịnh Lê Hoan, Vịnh tri phủ Quảng Oai của Nguyễn Thiện kế. - - Ông Phỗng đá, Thầy đồ ve gái góa của Nguyễn Khuyến. - Ðất Vị hoàng, Mùng hai tết viếng cô Ký của Trần Tế Xƣơng Khuynh hƣớng này có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc. 3. Khuynh hƣớng thoát ly hƣởng lạc: Khuynh hƣớng này ra đời và phát triển song song với khuynh hƣớng hiện thực trào phúng. Ða số các nhà thơ thuộc khuynh hƣớng này đều xuất thân từ tầng lớp quan lại phong kiến suy tàn, mang tâm lý hƣởng lạc, cá nhân, tùy thời. Trong bối cảnh chung là sự thất bại của phong trào chống Pháp và việc đặt ách thống trị lên đất nƣớc ta, một số khác ra làm quan mục đích để hƣởng nhàn chứ không đàn áp phong trào kháng chiến, số khác thoát ly vào thơ, rƣợu, vào mộng, vào tình yêu Khuynh hƣớng này thƣờng viết về thiên nhiên, thời thế,tâm trạng, thỉnh thoảng có bày tỏ nỗi lòng yêu nƣớc thầm kín nhƣng chủ yếu nói về cuộc sống ăn chơi, hƣởng lạc của họ. Các tác giả tiêu biểu nhƣ Dƣơng Lâm, Dƣơng Khuê, Chu Mạnh Trinh Sáng tác của họ thƣờng bằng chữ Nôm nên đã có những đóng góp nhất định trong việc trau dồi ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên, khuynh hƣớng này thƣờng chủ trƣơng là co về mình, thích hƣởng lạc, lao vào ăn chơi nên ít nhiều cũng gây ảnh hƣởng tai hại. 4. Khuynh hƣớng nô dịch: Ðây là khuynh hƣớng phản động bao gồm những tên tay sai cho Pháp, nhƣ Tôn Thọ Tƣờng, Hoàng Cao Khải. Nội dung của khuynh hƣớng này là ca ngợi ngƣời Pháp, bênh vực biện hộ cho những tên tay sai, phục vụ cho mục đích chính trị của Pháp. Trong thời kỳ đầu khuynh hƣớng này còn tỏ ra ra dè dặt, úp mở nhƣng càng về sau càng lộ rõ tính chất phản động của nó. Tiêu biểu có Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh. IV. ÐẶC ÐIỂM CỦA VĂN HỌC YÊU NƢỚC CHỐNG PHÁP: 1.Văn thơ yêu nƣớc gắn liền với vận mệnh dân tộc: Văn thơ yêu nƣớc tự phát tham gia gánh vác nhiệm vụ của dân tộc một cách vẻ vang. Nó gắn liền với vận mệnh của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử bi tráng. Ðồng thời nêu lên hai vấn đề có liên quan đến vận mệnh của dân tộc: Vấn đề chính trị và vấn đề nhân sinh. 1.1. Vấn đề chính trị: -Vấn đề Duy tân đƣợc thể hiện qua các bản điều trần của những sĩ phu có đầu óc canh tân nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. Hai ông đã nhiều lần đề nghị triều đình nghiên cứu thực hiện chủ trƣơng cải cách đất nƣớc, nhƣng không đƣợc triều đình chấp nhận, việc Duy tân thất bại. - Vấn đề chống Pháp, chống thỏa hiệp đầu hàng là vấn đề trọng tâm của văn học yêu nứơc chống Pháp. - Vấn đề vai trò của ngƣời dân có ý nghĩa lịch sử quan trọng, nhất là trong việc chống ngoại xâm. Thơ văn yêu nƣớc của Nguyễn Ðình Chiểu không chỉ ca ngợi ngƣời dân ở chiến lƣợc, chiến thuật, về tinh thần chiến đấu mà còn ở nhận thức tự phát của họ: Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình. Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Trong bức thƣ Phan Ðình Phùng trả lời Hoàng cao Khải nhân dân là mục tiêu phục vụ, mục tiêu bảo vệ và chiến đấu của nghĩa quân, nhân dân gắn liền với phong trào kháng chiến. 1.2. Vấn đề nhân sinh quan: Nói đến nhân sinh quan là nói sống để làm gì? Sống nhƣ thế nào?Thái độ của con ngƣời trƣớc sự sống và cái chết? Ðể giải quyết các vấn đề chính trị, thơ văn yêu nƣớc đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa thời sự. - Vấn đề sống - chết được giải quyết không theo quan điểm con người trừu tượng theo kiểu tôn giáo mà từ góc dộ của cuộc đấu tranh dân tộc. Tức là sống trọng nghĩa và chết đúng đắn 86 Thandieu2 _ Sƣu tầm
  34. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Làm người sao khỏi thác, thác trung thần thác cũng thơm danh (Hịch Quản Ðịnh) Hay: Ninh cam tử táng sài lang vẫn Khẳng nhẫn sinh phùng bạch quỷ ưu. (Nguyễn Cao điếu Nguyễn Tri Phương) - Khái niệm vinh - nhục theo quan điểm thà chết vinh hơn sống nhục. Sống đánh giặc cứu nƣớc là sống đúng, chết vì nƣớc nhà là vinh, sống theo giặc đầu hàng phản bội là sống nhục (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trƣơng Ðịnh, Thơ điếu Phan Tòng). - Khái niệm chính khí gắn với hành động vì nghĩa: Nhớ câu kiến nghĩa bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng (Nguyễn Ðình Chiểu) Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi (Thấy nghĩa há đành làm kẻ không có dũng) (Hồ Huấn Nghiệp) Các vấn đề nhân sinh quan đƣợc đặt ra dựa vào các hệ tƣ tƣởng vốn có ở nƣớc ta nhƣng chủ yếu từ cơ sở, tƣ tƣởng Việt Nam, từ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. 2. Văn thơ yêu nƣớc gắn với cuộc sống dân tộc và con ngƣời thời đại: 2.1. Văn thơ yêu nƣớc phản ánh về dân tộc và về thời cuộc: Văn thơ yêu nƣớc là cuốn sử thi của thời đại đã ghi chép một cách cảm động trung thành cuộc đấu tranh của dân tộc. Ðó còn là lịch sử khổ nhục nhƣng vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này. Văn thơ yêu nƣớc còn chứng tỏ rằng dẫu nƣớc mất nhƣng còn dân, còn giá trị tinh thần truyền thống và tin tƣởng vào thắng lợi của dân tộc. 2.2. Văn thơ yêu nƣớc phản ánh về con ngƣời thời đại: Ðó là những con ngƣời tiêu biểu nhƣ ngƣời sĩ phu, ngƣời trí thức bất hợp tác, ngƣời nông dân, ngƣời phụ nữ, ngƣời nghĩa sĩ Bên cạnh đó còn có những tên sâu dân mọt nƣớc nhƣ bọn vua quan, bọn tay sai và cả một bức tranh xã hội Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đƣợc tái hiện một cách đấy đủ, sinh động. Có thể nói, với những nét hào hùng về thời đại, về dân tộc, về con ngƣời, văn thơ yêu nƣớc đƣợc xem nhƣ pho sử thi đau thƣơng nhƣng không kém phần hùng tráng của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn lịch sử khổ nhục nhƣng vĩ đại. 3.Văn thơ yêu nƣớc là bản anh hùng ca: Cuộc đấu tranh trong giai đoạn này rất hào hùng nhƣng không tránh khỏi thất bại. Âm hƣởng chung của văn thơ yêu nƣớc giai đoạn này là âm điệu đau thƣơng nhƣng anh dũng. Thậm chí cái buồn, cái bi quan cũng không phải không gây phẫn uất. Do đó, nó là một âm điệu bi hùng. V.KẾT LUẬN CHUNG: Ðây là giai đoạn cuối cùng của văn học đƣợc sáng tác dƣới sự chi phối của ý thức hệ phong kiến. Văn học giai đoạn này đã bám sát cuộc sống, cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống Pháp, đã ghi lại một cách sinh động trung thành một giai đoạn lịch sử đau thƣơng mà hùng tráng của dân tộc, ghi lại cuộc chiến đấu bền bỉ của dân tộc ta. Có thể nói, giai đoạn này mang tính chiến đấu cao, tính dân tộc, tính đại chúng dồi dào, rõ rệt. Cho đến nay, những tác phẩm yêu nƣớc vẫn luôn mới về tinh thần đấu tranh chống xâm lƣợc, chống thỏa hiệp đầu hàng, và nó đã để lại không ít bài học về nhiều mặt, từ tƣ tƣởng đến tình cảm, không chỉ cho một thời mà còn cho lâu dài. Chƣơng 20: NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU (1822-1888) I.GIỚI THIỆU VỀ CUỘC ÐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC 87 Thandieu2 _ Sƣu tầm