Giáo trình Tài chính tiền tệ - Chương 2: Ngân sách nhà nước

pdf 44 trang phuongnguyen 1210
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tài chính tiền tệ - Chương 2: Ngân sách nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_mon_tai_chinh_tien_te_chuong_2_ngan_sach_nha_nuoc.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tài chính tiền tệ - Chương 2: Ngân sách nhà nước

  1. CHƯƠNG 2. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Mục tiêu học tập của chương Mục tiêu kiến thức: Về mặt tổng thể chương 2 muốn cung cấp các kiến thức nền tảng về NSNN trên cơ sở NSNN là một nguồn quỹ quan trọng bậc nhất trong hệ thống tài chính. Người học nắm được các nội dung lý thuyết về bản chất Ngân sách nhà nước (NSNN), việc phân cấp và quản lý hệ thống NSNN, và vai trò quan trọng của NSNN trong nền kinh tế. Thêm vào đó, người học nắm được các hoạt động thu chi kèm theo các nguyên tắc thu chi tương ứng và việc phân định thu chi giữa các cấp ngân sách. Cuối cùng người học cũng cần nắm được về chu trình ngân sách qua các giai đoạn khác nhau. Về mặt kỹ năng: Sinh viên sẽ phân tích một số tình huống kinh tế liên quan tới một số khái niệm của bài học và phân tích số liệu về ngân sách Việt Nam để làm rõ nội dung đang học.
  2. NỘI DUNG CHƯƠNG 2 Bài đọc 1 4 Bài đọc 2 5 I. Khái quát chung về NSNN 7 1. Khái niệm NSNN 7 2. Vai trò của NSNN 8 3. Những nguyên tắc cơ bản quản lý NSNN 10 4. Phương pháp quản lý NSNN 11 4.1. Phương pháp quản lý thường 11 4.2. Phương pháp tài khóa 12 4.3. Phương pháp kết hợp 13 II. Hệ thống NSNN 14 1. Khái niệm và nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN 14 2. Mô hình cơ bản của hệ thống NSNN 15 3. Khái niệm và nguyên tắc phân cấp NSNN 15 III. Thu NSNN 16 1. Khái niệm và đặc điểm 16 2. Nguyên tắc thu NSNN 16 3. Nội dung các khoản thu NSNN 17 3.1. Thu từ thuế 17 3.2. Thu từ phí, lệ phí 21 3.3. Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước 23 3.4. Thu từ hoạt động sự nghiệp: 23 3.5. Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước: 24 3.6. Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản: 24 3.7. Vay nợ: 24 4. Phân định nguồn thu giữa các cấp NSNN 26 IV. Chi ngân sách nhà nước 27 1. Khái niệm, đặc điểm 27 2. Nguyên tắc và điều kiện chi NSNN 28 3. Nội dung các khoản chi NSNN 28 3.1. Chi thường xuyên 28
  3. 3.2. Chi đầu tư phát triển 30 3.3. Chi trả nợ 31 4. Phân định chi giữa các cấp NS 32 V. Cân đối ngân sách Nhà nước 33 1. Khái niệm cân đối NSNN 33 2. Nguyên tắc cân đối NSNN 33 3. Xử lý bội chi NSNN 34 VI. Chu trình NSNN 35 1. Lập và phê chuẩn NSNN 36 2. Chấp hành NSNN 37 3. Quyết toán NSNN 38 Thảo luận tình huống 39 Câu hỏi ôn tập 40 Câu hỏi trắc nghiệm 41
  4. Bài đọc 1 Quốc gia vỡ nợ Quốc gia vỡ nợ khi nó không trả nợ được nữa. Khi chuyện này sảy ra thì lãi mẹ đẻ lãi con. Tính toán của hai nhà kinh tế Carmen Reinhart và Kenneth Rogoff cho thấy bình quân các quốc gia trong giai đoạn khủng hoảng chất chồng thêm khoảng 86% nợ nần, trong khi tổng thu quốc gia giảm trung bình 2% trong năm tiếp theo của khủng hoảng. Tình trạng này thường diễn ra vào những chu kỳ khủng hoảng kinh tế tài chính, như chuyện xảy ra cho các quốc gia Mỹ Latinh vào những năm cuối thập niên 80. Khi tình hình tài chính một quốc gia đi xuống, như đã xảy ra với Argentina hay Hy Lạp, các nhà đầu tư nước ngoài bán trái phiếu để tháo chạy, tạo áp lực đẩy lãi suất lên cao. Điều này kéo theo sự mất giá của đồng tiền, càng khiến cho quốc gia đó khó trả nợ hơn. Điều gì sảy ra nếu Mỹ vỡ nợ Thật khó có thể tưởng tượng sự hỗn loạn của nền kinh tế thế giới nếu nước Mỹ vỡ nợ., đồng USD sụt giảm, giá vàng tăng vọt, các nhà đầu tư hoảng loạn, chứng khoán thế giới lao dốc, nhiều tổ chức tài chính nguy cơ sụp đổ và có thể châm ngòi cho một cuộc suy thoái toàn cầu. Không chỉ bản thân Mỹ mà các nền kinh tế khác cũng có thể bị ảnh hưởng nếu Chính phủ Mỹ rơi vào tình trạng vỡ nợ. Trung Quốc cảm thấy lo ngại về khoản tiền hơn 1.300 tỉ USD mà họ đầu tư ở Mỹ. Mặc dù có khối lượng đầu tư vào nền kinh tế Mỹ kém Trung Quốc, nhưng Nhật Bản sẽ bị ảnh hưởng nặng hơn Bắc Kinh nếu Mỹ phá sản. Nhật giữ khối lượng trái phiếu kho bạc Mỹ trị giá 1,1 nghìn tỉ USD. Nguyên nhân nào dẫn tới vỡ nợ quốc gia Một nền tài chính quốc gia hoàn hảo được biểu hiện ở chỗ mọi khoản chi tiêu của chính phủ sẽ được bù đắp hoàn toàn từ thu thuế và đầu tư. Nhưng hầu như không có quốc gia thực hiện được công việc hoàn hảo đó. Quốc gia nào cũng phải bù đắp các chi tiêu bằng cách vay nợ và đưa ra lời hứa trả nợ cộng với lãi. Việc vay nợ được thực hiện dưới hình thức bán trái phiếu hoặc vay nợ trực tiếp từ nước ngoài Nhưng rất nhiều quốc gia đã không thực hiện được lời hứa đó khi nền kinh tế trong nước đi xuống, khi hệ thống quản lý nhà nước thiếu hiệu quả và phình to, khi xuất hiện tình trạng tham nhũng tràn lan, các hoạt động chi tiêu ngân sách không thể kiểm soát nổi. Khi ấy những nguồn thu để trả nợ bị cạn kiệt và lời hứa trả nợ tan thành bong bóng. Quốc gia vỡ nợ. Vỡ nợ quốc gia có phải là địa ngục cho quốc gia đó? Mặc dù vỡ nợ quốc gia để lại nhiều hậu quả thảm khốc trước mắt thường nhiều quốc gia trên bờ vực khủng hoảng tài chính và vỡ nợ lại có động lực để thay đổi và làm mới hệ thống của nó. Đặng Tiểu Bình bắt đầu công cuộc tự do hóa nền kinh tế Trung Quốc vào năm 1978 khi nước này đối mặt với khủng hoảng ngân sách và tỷ giá hối đoái. Ấn Độ bắt đầu cải cách nền kinh tế của họ vào năm 1991, khi tổng dự trữ ngoại hối chỉ đủ chi trả hai tuần nhập khẩu. Vào năm 1982, Mexico vỡ nợ, kéo theo khủng hoảng kinh tế trên toàn bộ khu vực Mỹ Latinh. Nhưng giới quan sát cho rằng cũng nhờ cuộc khủng hoảng này mà chủ nghĩa độc tài ở khu vực này sụp đổ: ở Argentina giới quân sự nắm quyền bị lật đổ vào năm 1983, còn Brazil thì trở thành một nền dân chủ vào năm 1985 Đôi khi việc tuyên bố vỡ nợ đã làm động lực cho các cải cách ở quốc gia đó và lại trả được nợ, như Nga (1998), Argentina (2001) và một số quốc gia khác. Tuy nhiên một quốc gia vỡ nợ dè sau đó có hồi phục được thì chưa chắc đã phục hồi được niềm tin và uy tín trên thị trường tài chính quốc tế.
  5. Bài đọc 2 Cuộc chiến ngân sách và nợ công trong lòng nước Mỹ Kể từ năm 1976 đến nay, chính phủ Mỹ đã phải “đóng cửa” 18 lần, trong đó, có 4 lần đóng cửa trong vòng 1 ngày. Lần đóng cửa lâu nhất là 21 ngày vào hồi tháng 12/1995, dưới thời Tổng thống Bill Clinton. Ngày 1/10/2013 vừa qua, thế giới lại một lần nữa tận mắt chứng kiến chính phủ liên bang Mỹ phải đóng cửa vì cạn ngân sách. Trong khi đó, “cuộc chiến nợ công” vẫn đang tiếp diễn giữa hai phe Dân chủ và Cộng hòa, đẩy nền kinh tế Mỹ đến bờ vực “vỡ nợ” và đe dọa nền kinh tế toàn cầu. Cuộc chiến ngân sách và nợ công Nước Mỹ vẫn tự hào về tính minh bạch trong hệ thống tam quyền phân lập của mình. Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất từng ngóc ngách liên quan tới đời sống chính trị của Mỹ lại là cả một vấn đề khó khăn. Đây dường như cũng chính là điểm hấp dẫn nhất đối với những ai say mê tìm hiểu về nó. Cuộc chiến ngân sách cũng như nợ công của Mỹ cũng thế. Nó không chỉ có nguyên nhân đơn thuần ở góc độ kinh tế, mà còn là rất nhiều vấn đề chính trị quan trọng còn bị mắc mớ trong trận chiến thẫm màu chính trị giữa hai phe Cộng hòa và Dân chủ. Lần tìm đến bản chất của vấn đề, thì cuộc chiến này lại xuất phát từ quy mô bộ máy tổ chức của chính quyền liên bang. Chi phí để duy trì hoạt động của bộ máy này chiếm tới 1/5 (tương đương với 22%) tổng sản phẩm quốc nội. Trong lúc đó, nợ quốc gia - khoảng 17 ngàn tỷ - giờ đã vượt quá tổng sản lượng kinh tế Mỹ. Có thể nói, tất cả các chương trình hoạt động của chính phủ Mỹ đều là những "máy ngốn tiền" ngân sách liên bang, và là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng nợ nần. Bởi vậy, từ mấy chục năm nay, ngân sách Mỹ bị bội chi liên tục. Chính quyền liên bang phải đi vay bằng việc phát hành trái phiếu, tức là bán “giấy nợ” lấy tiền thanh toán chi tiêu công và lãi vay. Khi chính phủ liên bang đã vay rồi mà vẫn chưa đủ thì phải xin Quốc hội nâng định mức đi vay, gọi là “trần nợ công”. Như vậy, trần nợ công là giới hạn số tiền tối đa chính phủ có thể đi vay mà Quốc hội Mỹ đặt ra. Và, Quốc hội luôn là cơ quan được quyền thiết lập trần nợ quốc gia. Giới hạn hiện tại là 16.699 tỷ USD. Việc nâng trần được thực hiện rất thường xuyên, trung bình hơn một lần mỗi năm. Kể từ năm 1940, các nhà làm luật nước này đã phải nâng trần nợ công 79 lần. Mặc dù vậy, từ nhiều năm qua, nâng trần nợ công luôn là cuộc chiến của các chính trị gia tại Mỹ. Lần gần đây nhất là tháng 8/2011, các nhà làm luật đã mất hàng tháng mới đạt thỏa thuận nâng trần nợ công, chỉ chưa đầy 24 giờ trước khi Mỹ chính thức rơi vào cảnh vỡ nợ. Việc này đã khiến họ lần đầu tiên bị hãng đánh giá tín nhiệm Standard & Poor’s hạ một bậc xếp hạng xuống AA+. Hiện tại, điều kiện để nâng trần nợ công của đảng Cộng hòa là cắt giảm chi tiêu và không cấp vốn hoặc hoãn thực hiện chương trình Obamacare để giảm thâm hụt ngân sách. Trong khi đó, Tổng thống Obama và các nghị sĩ đảng Dân chủ lại không chấp nhận đàm phán nếu có các điều kiện này. Nguồn: CNN
  6. Qua hai bài đọc trên chúng ta thấy việc quản lý NSNN mà trong đó có nợ công đóng vai trò quan trọng như thế nào đối với một quốc gia. Hai bài đọc trên đã cho thấy những hậu quả khủng khiếp của việc mất cân đối thu chi ngân sách quốc gia. Hơn thế nữa nó có thể trở thành công cụ cho các cuộc đấu đá chính trị giữa các đảng phái cầm quyền ở một số quốc gia. Bài học tại chương này tuy không đi sâu vào việc quản lý cũng như là vận hành hệ thống NSNN nhưng nó cung cấp các kiến thức nền tảng để người học nắm được bản chất của NSNN, hệ thống NSNN, các hoạt động thu chi và các vấn đề liên quan để người học có thể mường tượng được sự vận hành cũng như là vai trò của NSNN trong nền kinh tế.
  7. I. Khái quát chung về NSNN 1. Khái niệm NSNN Ngân sách nhà nước là một thành phần chủ chốt trong hệ thống tài chính. Đây là quỹ tiền tệ tập trung trung ương lớn nhất dưới sự điều hành của chính phủ. Ngân sách Nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Nhà nước bằng quyền lực chính trị và xuất phát từ nhu cầu về tài chính để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã đặt ra những khoản thu, chi của Ngân sách Nhà nước. Điều này cho thấy chính sự tồn tại của Nhà nước, vai trò của Nhà nước đối với đời sống kinh tế xã hội là những yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và tính chất hoạt động của Ngân sách Nhà nước. Điều 1 Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam năm 2002 đã định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Như vậy nói tới NSNN là nói tới các khoản thu và chi trong thời gian 1 năm theo các tiêu chí khác nhau và được thực hiện nghiêm ngặt theo một bản kế hoạch do Quốc hội thông qua gọi là dự toán NSNN. Dự toán NSNN chính là một bản kế hoạch thu chi của một quốc gia được thực hiện trước một năm tài khóa để đảm bảo các hoạt động của chính phủ được diễn ra liên tục. Việc hiểu về NSNN như trên là tìm hiểu về mặt hình thức hay biểu hiện ra bên ngoài của NSNN. Về mặt bản chất, ngân sách nhà nước là hệ thống những quan hệ tài chính giữa nhà nước và xã hội, phát sinh, gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của mình trên cơ sở luật định. Bảng 1. Chín tài liệu của dự toán NSNN tại Việt Nam STT Nội dung 1 Dự toán thu, chi ngân sách của các tỉnh, thành phố trực thuộc TW 2 Dự toán chi Chương trình mục tiêu quốc gia
  8. 3 Dự toán chi NSTW của từng Bộ, cơ quan Trung ương theo từng lĩnh vực chi và những nhiệm vụ chi của NSTW 4 Dự toán chi Ngân sách trung ương theo lĩnh vực 5 Các khoản thu, chi quản lý qua NSNN 6 Dự toán chi Ngân sách Nhà nước, chi NSTW, chi NSĐP theo cơ cấu chi 7 Dự toán thu Ngân sách Nhà nước theo lĩnh vực 8 Cân đối nguồn thu, chi dự toán NSTW và NSĐP 9 Cân đối Ngân sách Nhà nước 2. Vai trò của NSNN NSNN đóng các vai trò sau: (i) Vai trò của ngân sách tiêu dùng: Đảm bảo hay duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước, phân phối nguồn lực tài chính, và giám đốc các quá trình huy động và chi tiêu NSNN: Thứ nhất, từ các nguồn tài chính tập trung được, Nhà nước tiến hành phân phối các nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo tỷ lệ hợp lý nhằm vừa đảm bảo duy trì hoạt động và sức mạnh của bộ máy nhà nước, vừa đảm bảo thực hiện chức năng kinh tế- xã hội của Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Thứ hai, Khi thực hiện chức năng tiêu dùng, NSNN đóng vai trò phân phối nguồn lực tài chính: Chính phủ thông qua các kênh khác nhau (thu thuế, lệ phí, thị trường mở, vay vốn ) đã tập hợp được các nguồn tiền về chính phủ. Sau đó chính phủ sử dụng các nguồn tiền này cho các hoạt động như vận hành bộ máy chính phủ, các hàng hóa công (chi thường xuyên), hay đầu tư phát triển (chi đầu tư phát triển). Việc phân bổ các nguồn lực này nếu hiệu quả sẽ là động lực cho nền kinh tế phát triển. Thứ ba, NSNN đóng vai trò giám đốc quá trình huy động các nguồn thu và thực hiện các khoản chi tiêu: Thông qua quá trình lập ngân sách, chính phủ phân loại được nguồn thu - chi nào là cơ bản của từng thời kỳ, rà soát lại việc thực hiện từng loại thu chi và do đó có những giải pháp để làm tốt thu – chi.
  9. Khi NSNN thực hiện tốt vai trò thu chi của mình nó sẽ đóng vai trò quan trọng tới các mặt khác của đời sống kinh tế xã hội, cụ thể: . Phát triển nền kinh tế thông qua việc thực hiện các chính sách tài khóa hợp lý (thuế và đầu tư công) . Phát triển các hàng hóa công góp phần cải thiện đời sống xã hội; . Đảm bảo an ninh và trật tự xã hội thông qua các hoạt động chi tiêu cho bộ máy công chức và việc chức cũng như các vấn đề an ninh quốc phòng. (ii). Vai trò của ngân sách phát triển: là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Thứ nhất, NSNN đóng vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô. Nhà nước có thể sử dụng việc thu chi ngân sách như là chính sách thắt chặt tài khóa (tăng thu thuế, giảm đầu tư công) khi nền kinh tế tăng trưởng nóng, lạm phát cao hoặc chính sách mở rộng tài khóa (giảm thu thuế, tăng đầu tư công) khi nền kinh tế gặp suy thoái. Thứ hai, Thông qua NSNN, Nhà nước định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo các định hướng của Nhà nước cả về cơ cấu vùng, cơ cấu ngành. Tại Việt Nam do các doanh nghiệp quốc doanh vẫn đóng một vai trò rất lớn trong nền kinh tế nên chính phủ có thể thông qua các hoạt động đầu tư vào các doanh nghiệp quốc doanh để tạo ra các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong ngắn, trung và dài hạn. Thứ ba, thông qua chi NSNN, Nhà nước đầu tư cho kết cấu hạ tầng- lĩnh vực mà tư nhân sẽ không muốn tham gia hoặc không thể tham gia. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, thức đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống dân cư. Thứ tư, NSNN góp phần lớn trong việc ổn định kinh tế xã hội. Điều này thể hiện ở điểm NSNN có những khoản dự phòng cho những trường hợp thiên tai, mất mùa, giá cả những mặt hàng quan trọng biến động mạnh, tỷ giá thay đổi không như mong muốn (iii). Vai trò thực hiện sự công bằng xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội:
  10. Thứ nhất, Trong việc thực hiện công bằng, Nhà nước cố gắng tác động theo hai hướng: Giảm bớt thu nhập cao của một số đối tượng và nâng đỡ những người có thu nhập thấp để rút ngắn khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. . Giảm bớt thu nhập cao: đánh thuế (lũy tiến) vào các đối tượng có thu nhập cao, đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất cao vào những hàng hóa mà người có thu nhập cao tiêu dùng và tiêu dùng phần lớn. . Nâng đỡ các đối tượng có thu nhập thấp: giảm thuế cho những hàng hóa thiết yếu, thực hiện trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu như lương thực, điện, nước và trợ cấp xã hội cho những người có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn. Thứ hai, Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội: Thông qua NSNN, tài trợ cho các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, văn hóa, tài trợ cho các chương trình việc làm, chính sách dân số, xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội 3. Những nguyên tắc cơ bản quản lý NSNN Quản lý NSNN được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất. Nguyên tắc thống nhất: Theo nguyên tắc này, mọi khoản thu, chi của một cấp hành chính đưa vào một kế hoạch ngân sách thống nhất. Thống nhất quản lý chính là việc tuân thủ một khuân khổ chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, thanh quyết toán, xử lý các vấn đề vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Thực hiện nguyên tắc quản lý này sẽ đảm bảo tính bình đẳng, công bằng, đảm bảo có hiệu quả, hạn chế những tiêu cực và những rủi ro, nhất là những rủi ro, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các khoản chi tiêu. Thứ hai, Nguyên tắc dân chủ: Một chính sách tốt là một ngân sách phản ảnh lợi ích của các tầng lớp, các bộ phận, các cộng đồng người trong các chính sách, hoạt động thu chi ngân sách. Sự tham gia của xã hội, công chúng được thực hiện trong suốt chu trình ngân sách, từ lập dự toán, chấp hành đến quyết toán ngân sách, thể hiện nguyên tắc dân chủ trong quản lý ngân sách. Sự tham gia của người dân sẽ làm cho ngân sách minh bạch hơn, các thông tin ngân sách trung thực, chính xác hơn.
  11. Tuy nhiên, thực hiện dân chủ, tăng cường sự tham gia hoạt động của người dân trong quản lý ngân sách đôi khi làm cho quản lý ngân sách trở lên khó khăn. Các nhà lãnh đạo sẽ phải đối mặt với các ý kiến, các luồng quan điểm khác nhau của người dân, đôi khi là những hành động mang tính lợi dụng, chống đối. Thứ ba, Nguyên tắc cân đối ngân sách: Kế hoạch ngân sách được lập và thu, chi ngân sách phải cân đối. Mọi khoản chi phải có nguồn thu bù đắp. Thứ tư, Nguyên tắc công khai, minh bạch: ngân sách là một chương trình, là tấm gương phản ánh các hoạt động của chính phủ bằng các số liệu. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định thu chi tài chính, hạn chế những thất thoát và đảm bảo tính hiệu quả. Nguyên tắc công khai, minh bạch được thực hiện trong suốt chu trình ngân sách. Thứ năm, Nguyên tắc quy trách nhiệm: Nhà nước là cơ quan công quyền, sử dụng các nguồn lực của nhân dân thực hiện các mục tiêu đề ra. Đây là nguyên tắc yêu cầu về trách nhiệm của các đơn vị cá nhân trong quá trình quản lý ngân sách, bao gồm: . Quy trách nhiệm giải trình về các hoạt động ngân sách; chịu trách nhiệm về các quyết định về ngân sách của mình. . Trách nhiệm đối với cơ quan quản lý cấp trê và trách nhiệm đối với công chúng, đối với xã hội. Quy trách nhiệm yêu cầu phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị, chính quyền các cấp trong thực hiện ngân sách Nhà nước theo chất lượng công việc đạt được. 4. Phương pháp quản lý NSNN Có ba phương pháp quản lý NSNN: (i) Phương pháp quản lý thường, (ii) Phương pháp tài khóa, và (iii) Kết hợp phương pháp quản lý thường và tài khóa. 4.1. Phương pháp quản lý thường Ngân sách dự trù các khoản thực thu và thực chi sẽ được thực hiện thật sự (thực thu, thực chi) trong năm tài chính. Nghiệp vụ thực hiện trong năm nào thì phải trả tiền, thu tiền và
  12. hạch toán, quyết toán vào ngân sách năm đó. Phương pháp này chú trọng đến giai cuối cùng của nghiệp vụ: Sự trả tiền và sự thu tiền. Như vậy bảng quyết toán gồm tất cả các nghiệp vụ thực hiện trong một niên khóa, dù nghiệp vụ phát sinh trong niên khóa đó hoặc thuộc về niên khóa trước. Ưu điểm của phương pháp: - Bảng quyết toán được lập nhanh và rõ ràng; - Có thể biết rõ tình hình tài chính thực sự bất cứ lúc nào; - Việc bãi bỏ thời gian chỉnh lý giúp tránh được sự thực hiện thể thức chi chuyển nguồn hoặc chi bổ sung - Việc hành thu sẽ được xúc tiến trong 12 tháng để tông trọng các dự toán ngân sách - Tránh được việc lấy tiền của tài khóa sau để bù đắp số thâm hụt của tài khóa trước trong thời gian chỉnh lý Khuyết điểm của phương pháp: - Không trình bày bảng tổng kết tài khóa trung thực: Không để ý tới những số thu chưa thu được và những công tác hay dịch vụ đã thi hành trong năm đó chưa kịp trả tiền. - Khuyến khích che giấu sự thật: Về thu, cố gắng thu nhiều hơn số phát sinh (thu trước của năm sau). Về chi, hoãn trả nợ các chủ nợ để đưa gánh nặng tài khóa sang năm sau. Như vậy phương pháp này có thể làm sai lệch tình hình tài chính của các niên khóa sau bằng cách hoãn trả hay thu gấp. 4.2. Phương pháp tài khóa Phương pháp tài khóa là tập hợp trong một hệ thống ngân sách tất cả các công việc đã thực hiện và các quyền thụ hưởng (quyền đòi nợ) đã được xác lập từ đầu năm đến cuối năm chỉ danh tài khóa, không kể đến ngày thực sự trả tiền. Các nghiệp vụ phát sinh các khoản thu
  13. và chi tiêu trong thời gian thuộc về năm nào, phải ghi vào tài khóa năm đó. Mọi khoản chi tiêu đều căn cứ vào thời gian của hành vi phát sinh nợ. Ưu điểm của phương pháp: - Minh bạch và không thiếu sót: Về chi, quyền đòi nợ và trả nợ phát sinh năm nào thì được vào tài khóa của năm đó. Về thu cũng cũng có sự sắp xếp từng tài khóa để tiện phân biệt nhằm dễ kiểm soát và truy thu. - Cho biết chính sách tài chính của Chính phủ, vì bao gồm toàn thể nghiệp vụ thu chi của 1 niên khóa nhất định. - Tránh được những trở ngại do việc thu thuế chậm gây ra. Khuyết điểm của phương pháp: - Chậm trễ trong việc lập bảng quyết toán (vì có thời gian bổ túc) - Có thể hạch toán sai lầm vì hai tài khóa điều hành song song - Các sự phiền phức của thể thức chi phí chuyển tiếp - Các nhà quản trị có thể lấy tiền của tài khóa sau (thu trong thời gian chỉnh lý) để bù đắp số thâm hụt của tài khóa trước. 4.3. Phương pháp kết hợp Tại Việt Nam, việc quản lý NSNN kết hợp giữa phương pháp quản lý thường và phương pháp tài khóa. Về phần thu Ngân sách thì thì thực hiện phương pháp quản lý thường. Về phần chi Ngân sách thì thực hiện phối hợp giữa hai phương pháp. Khoản 2 điều 62 Luật NSNN 2002 nêu rõ: Toàn bộ các khoản thu thuộc NS các năm trước nộp trong năm sau phải hạch toán vào năm sau. Như vậy đây là sử dụng phương pháp quản lý thường. Trong khi đó Điều 66 Nghị định 60/2003: Các khoản chi NS thuộc dự toán năm trước nếu chưa thực hiện hoặc chưa thực hiện hết không được chuyển năm sau chi tiếp. Nghĩa là sau ngày 31/12 không được sử dụng kinh phí thuộc dự toán năm trước còn lại. Ngoại trừ trường
  14. hợp được Bộ trưởng Bộ tài chính (đối với NSTW) hoặc Chủ tịch UBND (NS ĐP) quyết định chi tiếp cho năm sau. Như vậy đây là sử dụng phương pháp tài khóa. II. Hệ thống NSNN 1. Khái niệm và nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể các cấp ngân sách có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình sử dụng các nguồn tài chính để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp ngân sách Thông thường ở các nước hệ thống ngân sách được tổ chức phù hợp với hệ thống hành chính. Ở nước ta với mô hình nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ chức theo hai cấp chính: ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương. trong đó ngân sách địa phương bao gồm các cấp ngân sách: ngân sách thành phố (hay tỉnh), ngân sách quận (huyện), ngân sách xã (phường). Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung và dân chủ, thể hiện: . Tính thống nhất: đòi hỏi các khâu trong hệ thống ngân sách phải hợp thành một thể thống nhất, biểu hiện các cấp ngân sách có cùng nguồn thu, cùng định mức chi tiêu và cùng thực hiện một quá trình ngân sách. . Tính tập trung: thể hiện ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn thu lớn và các nhiệm vụ chi quan trọng. Ngân sách cấp dưới chịu sự chi phối của ngân sách cấp trên và được trợ cấp từ ngân sách cấp trên nhằm đảm bảo cân đối của ngân sách cấp mình. . Tính dân chủ: Dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ ngân sách cấp dưới, đồng thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và được quyền chi phối ngân sách cấp mình. . Công khai và minh bạch: Các khoản thu chi phải được công khai, được giám sát và kiểm tra thường xuyên của các cấp có thẩm quyền; . Phân công và phân cấp quản lý: Hoạt động quản lý NSNN được phân công rõ ràng trong bộ máy quản lý nhà nước từ Quốc hội, chính phủ tới các các cấp chính quyền
  15. địa phương. Đồng thời việc quản lý này cũng được phân cấp rõ ràng giữa các cấp ngân sách như cấp trung ương và cấp địa phương. . Gắn quyền hạn và trách nhiệm: Các cá nhân, tập thể, cấp chính quyền tham gia quản lý ngân sách được gắn các quyền hạn cụ thể đồng thời phải chịu các trách nhiệm cụ thể nếu để các sai phạm xảy ra hoặc không hoàn thành nhiệm vụ. Điều 3 – Luật NSNN 2002 Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. 2. Mô hình cơ bản của hệ thống NSNN Trên thế giới, hệ thống NSNN được tổ chức theo một trong hai mô hính sau: Mô hình thứ nhất, mô hình nhà nước liên bang. Theo mô hình này, NSNN được phân ra làm ba cấp như sau: . Ngân sách liên bang; . Ngân sách bang; . Ngân sách địa phương. Mô hình thứ hai, Mô hình nhà nước thống nhất. Theo mô hình này, NSNN được phân làm hai cấp: . Ngân sách trung ương; . Ngân sách địa phương Tại Việt Nam, NS địa phương được chia nhỏ ra làm ba cấp theo thứ tự ngân sách thành phố (hay tỉnh), ngân sách quận (huyện), ngân sách xã (phường). 3. Khái niệm và nguyên tắc phân cấp NSNN Phân cấp NSNN là việc phân định nguồn thu và các khoản chi của mỗi cấp ngân sách theo những nguyên tắc hoặc phương pháp nhất định. Phân cấp quản lý ngân sách nhằm tạo điều kiện về tài chính cho chính quyền nhà nước các cấp tham gia vào quá trình tổ chức, huy động, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để thực hiện các chức năng nhiệm vụ xác định. Khi phân cấp quản lý ngân sách cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
  16. . Đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và vị trí độc lập của ngân sách địa phương trong hệ thống ngân sách nhà nước thống nhất. . Xác định cụ thể trách nhiệm và quyền hạn thu chi giữa các cấp ngân sách. . Đảm bảo sự hợp lý và công bằng giữa các địa phương. III. Thu NSNN 1. Khái niệm và đặc điểm Để có kinh phí chi cho mọi hoạt động của mình, nhà nước đã đặt ra các khoản thu (các khoản thuế khóa) do mọi công dân đóng góp để hình thành nên quỹ tiền tệ của mình. Thu NSNN là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ ngân sách nhà nước nhằm thỏa mãn các mục đích chi tiêu của nhà nước. Việc thực hiện thu NSNN đã phát sinh ra hệ thống các mối quan hệ kinh tế Thu NSNN có những đặc điểm như sau: . Thu ngân sách nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Mọi khoản thu của nhà nước đều được thể chế hóa bởi các chính sách, chế độ và pháp luật của nhà nước; . Thu ngân sách nhà nước phải căn cứ vào tình hình hiện thực của nền kinh tế; biểu hiển ở các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội GDP, giá cả, thu nhập, lãi suất, v.v . Thu ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là chủ yếu. 2. Nguyên tắc thu NSNN Thu NSNN phải đảm bảo theo các nguyên tắc như sau: . Nguyên tắc ổn định và lâu dài: trong điều kiện hoạt động kinh tế bình thường thì phải ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế, không được gây xáo trộn trong hệ thống thuế; đồng thời tỷ lệ động viên của ngân sách nhà nước phải thích hợp, đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trưởng, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa tạo thuận lợi cho việc kế hoạch hóa ngân sách nhà nước
  17. và tạo điều kiện để kích thích người nộp thuế cải tiến đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh . Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng: hiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với mọi người chịu thuế, không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế. Do đó việc thiết kế hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả năng thu nhập của người chịu thuế. Để đảm bảo được nguyên tắc công bằng trong thiết kế hệ thống thuế phải kết hợp sắc thuế trực thu với sắc thuế gián thu . Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn: nguyên tắc này đòi hỏi trong thiết kế hệ thống thuế các điều luật của các sắc thuế phải rõ ràng, cụ thể ở từng mức thuế, cơ sở đánh thuế, phương pháp tính thuế Các từ ngữ được sử dụng của văn bản phải thông dụng, dễ hiểu không chứa đựng nhiều hàm ý để tất cả mọi người đều hiểu được và chấp hành giống nhau.Đảm bảo nguyên tắc này giúp cho việc tổ chức chấp hành luật thống nhất, tránh được tình trạng lách luật, trốn lậu thuế. . Nguyên tắc thu không hoàn trả trực tiếp: Khi thu thuế trực tiếp từ đối tượng thì khoản thuế này sẽ không được trả lại trực tiếp cho đối tượng mà sẽ hoàn trả lại gián tiếp thông qua các chính sách của nhà nước (các dịch vụ công, trợ cấp ). . Nguyên tắc đơn giản: nguyên tắc này đòi hỏi trong các sắc thuế cần hạn chế số lượng thuế suất, xác định rõ mục tiêu chính, không đề ra quá nhiều mục tiêu trong một sắc thuế. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai luật thuế vào thực tiễn, tránh được những hiện tượng tiêu cực trong thu thuế . Nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế: theo nguyên tắc này thiết lập hệ thống thuế phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế về đối tượng tính thuế, phương thức thu nộp thuế suất. Đồng thời phải thực hiện đầy đủ các cam kết mang tính chất quốc tế. 3. Nội dung các khoản thu NSNN 3.1. Thu từ thuế Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Việc thu thuế nhằm tái
  18. phân phối thu nhập, hay nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội. Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức cho nhà nước nhằm đảo bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế có những đặc trưng sau: Thứ nhất, nguồn gốc của thuế là một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp trong xã hội. Các cá nhân, doanh nghiệp là người hưởng lợi ích từ chi tiêu ngân sách nhà nước và họ có thu nhập nên phải có nghĩa vụ trích một phần thu nhập nộp vào ngân sách nhà nước, bằng hình thức trực tiếp (thuế thu nhập) hoặc gián tiếp (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu ) Thứ hai, thuế là một hình thức phân phối lại một bộ phận nguồn tài chính của xã hội. Sự phân phối này không mang tính hoàn trả trực tiếp, mà hoàn trả gián tiếp cho người nộp và không tương đương về hình thức và số lượng đối với khoản đóng góp. Người chịu thuế được hưởng các hàng hoá và dịch vụ nhà nước cung cấp không mất tiền hoặc với giá thấp và không phân biệt giữa người nộp thuế nhiều và người nộp ít. Thứ ba, thuế mang tính chất cưỡng chế, được thiết lập theo luật định. Thuế mang tính cưỡng chế vì thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước, nhưng do tính chất không hoàn trả trực tiếp và tương đương nên người chịu thuế không tự giác nộp. Đóng thuế vừa là quyền lợi được thực thi trách nhiệm công dân đóng góp cho sự phát triển phồn vinh của đất nước, vừa là nghĩa vụ phải thực hiện của mỗi công dân. Trong phân loại về thuế chúng ta có thể chia ra làm thuế trực thu và thuế gián thu: . Là loại thuế thu trực tiếp vào khoản thu nhập, lợi ích thu được của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân. Thuế trực thu là loại thuế mà người, hoạt động, tài sản chịu thuế và nộp thuế là một. Ví Dụ như một người nhập hàng hóa từ nước ngoài về và tiêu dùng luôn, hay như thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế thu nhập cá nhân, tài sản Thuế đánh lên thu nhập hoặc tài sản với kỳ vọng rằng người bị thu thuế sẽ thực sự là người bị mất sức mua.
  19. . Là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu thành của giá cả hàng hoá.Thuế gián thu là hình thức thuế gián tiếp qua một đơn vị trung gian (thường là các doanh nghiệp) để đánh vào người tiêu dùng.Thuế gián thu là thuế mà người chịu thuế và người nộp thuế không cùng là một. Chẳng hạn, chính quyền đánh thuế vào công ty (công ty nộp thuế) và công ty lại chuyển thuế này vào chi phí tính vào giá hàng hóa và dịch vụ, do vậy đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Ví dụ: thuế VAT,thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt được thu từ nhà sản xuất, người bán hàng với kỳ vọng chúng sẽ được chuyển sang cho người tiêu dùng. Thuế này chuyển sức mua khỏi người tiêu dùng cuối cùng bằng cách tạo khoảng chênh lệch giữa số tiền chi trả cho nhà sản xuất và giá bán. Các nguyên tắc chung về thuế: Các sắc thuế đều cần thỏa mãn ba nguyên tắc chung sau đây: . Trung lập: sắc thuế không được bóp méo các hoạt động sản xuất, dẫn tới phúc lợi xã hội (tổng hiệu dụng) của nền kinh tế bị giảm đi. . Đơn giản: việc thiết kế sắc thuế và tiến hành trưng thu thuế phải không phức tạp và không tốn kém. . Công bằng: sắc thuế phải đánh cùng một tỷ lệ vào các công dân có điều kiện như nhau. Giữa các công dân có điều kiện khác nhau, thì thuế suất cũng cần khác nhau (vì thông thường người có điều kiện tốt hơn có xu hướng tiêu dùng hàng hóa công cộng nhiều hơn). Riêng các sắc thuế địa phương còn cần thỏa mãn một số nguyên tắc nữa: . Cơ sở thuế phải bất biến: nghĩa là công dân, hoạt động và đồ vật phải tương đối cố định, không hay di chuyển giữa các địa phương. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo địa phương này không đánh thuế lên công dân, hoạt động và đồ vật vốn là của địa phương khác.
  20. . Nguồn thu ổn định: nghĩa là quy mô dân số địa phương và quy mô các hoạt động, đồ vật không nên biến động thường xuyên. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo thu ngân sách của địa phương không bị biến động . Nguồn thu phân bố đồng đều giữa các địa phương. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách giữa các địa phương không quá chênh lệch. . Chính quyền địa phương phải có trách nhiệm tài chính. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo chính quyền địa phương không lạm dụng quyền hạn thuế của mình để đánh thuế quá mức. Trong thực tế, khó có sắc thuế nào đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc đòi hỏi cho nó. Vì thế, theo nguyên tắc về "cái tốt thứ hai", sắc thuế nào càng thỏa mãn nhiều nguyên tắc, thì càng xứng đáng là một sắc thuế tốt. Việc ban hành phần lớn các sắc thuế thường cần phải được quốc hội phê chuẩn và phải có luật về sắc thuế đó. Tại Việt Nam, đứng dưới góc độ NSNN, việc phân chia các loại thuế chi tiết hơn để phục vụ cho mục đích quản lý kinh tế và thu NSNN. Các loại thuế được quy định là nguồn thu cho NSNN (căn cứ theo điều 30 – Luật NSNN) bao gồm: . Thuế giá trị gia tăng: Là một loại thuế gián thu đánh trên khoản giá trị tăng thêm cuả hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách Nhà nước theo mức độ tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. . Thuế xuất khẩu, nhập khẩu: Là loại thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu. Theo điều 2 Luật thuế Xuất khẩu, thuế nhập khẩu, điều 1 Nghị định 87: Đối tượng chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu gồm: Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam. Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước. Hàng hóa mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. . Thuế tiêu thụ đặc biệt: Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu đánh vào tiêu dùng của xã hội, được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Mục tiêu của loại thuế này là nhằm điều tiết mạnh vào các loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp hay những sản phẩm tiêu dùng không có lợi cho sức khỏe, góp phần hướng dẫn phát triển sản xuất kinh doanh, tiêu dùng xã hội theo định hướng của Nhà nước, qua đó góp phần đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Thuế tiêu thụ đặc biệt được quy định tại Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008. . Thuế thu nhập doanh nghiệp: Là loại thuế trực thu đánh vào phần lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý. Tổ chức nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2013.
  21. . Thuế thu nhập cá nhân: Đây là loại thuế trực thu quy định khoản tiền mà người có thu nhập phải trích nộp một phần tiền lương hoặc từ các nguồn thu nhập khác vào ngân sách nhà nước. Các đối tượng nộp thuế được quy định tại Luật thuế thu nhập cá nhân 2013. . Thuế tài nguyên: Thuế tài nguyên là loại thuế thu vào các hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên. Các loại tài nguyên thiên nhiên khi khai thác phải nộp thuế được quy định tại Luật thuế tài nguyên 2009. Căn cứ vào cách phân loại này mà hệ thống kế toán NSNN thiết kế các loại tài khoản thu cùng các quy định về ghi nhận nội dung thu tương ứng được quản lý trên hệ thống TABMIS (Thông tư 08/2013/TT-BTC: Hướng dẫn thực hiện kế toán nhà nước áp dụng cho Hệ thống thông tin quản lý Ngân sách và Kho bạc - TABMIS) 3.2. Thu từ phí, lệ phí Các khoản phí và lệ phí gắn chặt với chức năng cung cấp hàng hóa công. Người dân có trách nhiệm trả các khoản phí này vì đã sử dụng các hàng hóa công đó. Phí và lệ phí là khoản thu có tính chất bắt buộc, nhưng mang tính đối giá, nghĩa là phí và lệ phí thực chất là khoản tiền mà mọi công dân trả cho nhà nước khi họ hưởng thụ các dịch vụ do nhà nước cung cấp. So với thuế, tính pháp lý của phí và lệ phí thấp hơn nhiều. Phí gắn liền với với vấn đề thu hồi một phần hay toàn bộ chi phí đầu tư đối với hàng hóa dịch vụ công cộng hữu hình. Lệ phí gắn liền với việc thụ hưởng những lợi ích do việc cung cấp các dịch vụ hành chính, pháp lý cho các thể nhân và pháp nhân. Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hoặc bất thường như phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối với những hoạt động phục vụ người nộp phí. Đây là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Pháp lệnh về phí và lệ phí ban hành năm 2001. Nhà nước sẽ thu ngân sách các loại phí nếu các dịch vụ này là do các cơ quan nhà nước cung cấp. Ví dụ một số loại phí như: thủy lợi phí, phí kiểm dịch động vật, phí thẩm định đầu tư, phí giám định hàng hóa Lệ phí là khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc thực hiện một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Nó là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước được quy định trong Danh mục
  22. lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh về phí và lệ phí ban hành năm 2001. Ví dụ một số lệ phí như: Lệ phí bảo hộ quyền tác giả, Lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Nếu nhà nước quy định số tiền nộp lệ phí nào đó lớn nhằm tăng thu ngân sách nhà nước thì không gọi là lệ phí mà gọi là thuế, hay thuế mang tính chất lệ phí như thuế môn bài. Phí và lệ phí vừa mang tính chất phục vụ người nộp lệ phí (hoàn trả trực tiếp), vừa mang tính chất động viên đóng góp cho ngân sách nhà nước. Phân biệt thuế - phí – lệ phí Phân biệt: thuế, phí và lệ phí Thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo quy định của pháp luật của các cá nhân và pháp nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp. Lệ phí là khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc thực hiện một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hoặc bất thường như phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối với những hoạt động phục vụ người nộp phí. Thuế và lệ phí, phí đều là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và đều mang tính pháp lý nhưng giữa chúng có sự khác biệt như sau: * Xét về mặt giá trị pháp lý Thuế có giá trị pháp lý cao hơn lệ phí, phí. Thuế được ban hành dưới dạng văn bản pháp luật như: Luật, Pháp lệnh do Quốc hội và ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Trình tự ban hành một Luật thuế phải tuân theo một trình tự chặt chẽ. Trong khi đó lệ phí, phí được ban hành đưới dạng Nghị định, Quyết định của chính phủ; Quyết định của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp tỉnh. * Xét về mục đích và mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế - xã hội Thuế có ba tác dụng lớn: - Tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. - Ðiều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và định hướng phát triển kinh tế. - Ðảm bảo sự bình đẳng giữa những chủ thể kinh doanh và công bằng xã hội. Qua đó chúng ta thấy thuế có tác động lớn đến toàn bộ qúa trình phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, đồng thời thuế là một bộ phận rất quan trọng cấu thành chính sách tài chính quốc gia. Trong khi đó lệ phí, phí không có những tác dụng nói trên, nó chỉ có tác dụng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc tạo nguồn này không phải dùng đáp ứng nhu cầu chi tiêu mọi mặt của Nhà nước, mà trước hết dùng để bù đắp các chi phí hoạt động của các cơ quan cung cấp cho xã hội một số dịch vụ công cộng như: dịch vụ công chứng, dịch vụ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản, dịch vụ hải quan Ngoài dấu hiệu là thuế được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước, thuế còn được phân biệt với lệ phí, phí ở chổ các cá nhân và pháp nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước nhưng không trên cơ sở được hưởng những lợi ích vật chất tương ứng mang tính chất đối giá. Trong khi đó hình thức lệ phí, phí và công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của lệ phí và phí chỉ xảy ra khi chủ thể nộp lệ phí, phí thừa hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp. Bên cạnh đó, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế thể hiện ở chổ Nhà nước thu thuế từ các cá nhân và pháp nhân trong xã hội nhưng không bị ràng buộc bởi trách nhiệm phải hoàn trả lại cho người nộp. Người nộp thuế suy cho cùng sẽ
  23. nhận được các lợi ích vật chất từ việc sử dụng các dịch vụ công cộng do Nhà nước sử dụng các khoản chi của ngân sách Nhà nước để thực hiện các chính sách kinh tế xã hội chung cho cả cộng đồng. Tuy nhiên, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Tính chất này của thuế cho phép chúng ta phân biệt thuế với lệ phí, phí và các khoản thu mà Nhà nước tập trung vào ngân sách Nhà nước nhưng ràng buộc trách nhiệm hoàn trả cho đối tượng nộp dưới các hình thức như vay nợ, tạm ứng cho ngân sách Nhà nước. * Xét về tên gọi và mục đích Mục đích của từng loại lệ phí rất rõ ràng, thường phù hợp với tên gọi của nó. Nói một cách chính xác hơn, tên gọi của loại lệ phí nào phản ánh khá đầy đủ mục đích sử dụng loại lệ phí đó. Mỗi một Luật thuế đều có mục đích riêng. Tuy nhiên, đa số các sắc thuế có tên gọi không phản ánh đúng mục đích sử dụng, mà thường phản ánh đối tượng tính thuế. Nói chung mục đích của việc sử dụng của các loại thuế thường là tạo nguồn qũy ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi ngân sách Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý xã hội của Nhà nước./. 3.3. Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước Nhà nước tham gia hoạt động kinh tế và thu được lợi nhuận trên phần vốn đầu tư của mình. Các khoản thu này tồn tại dưới nhiều hình thức, biểu hiện hoạt động kinh tế đa dạng của nhà nước, bao gồm: . Thu lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, cổ phần của nhà nước vào các cơ sở kinh tế, . Thu tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước từ các doanh nghiệp nhà nước. Khoản thu này trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp theo tỷ lệ từ 0,2% tới 0,5% vốn ngân sách nhà nước cấp trên tháng. Vốn ngân sách nhà nước cấp gồm có vốn do ngân sách nhà nước cấp và vốn có nguồn gốc từ ngân sách (như viện trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, các khoản lợi nhuận phải nộp ngân sách được phép giữ lại bổ sung vốn), . Tiền thu hồi vốn của nhà nước tại các cơ sở kinh tế, ví dụ tiền thu từ việc bán cổ phần tại các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, bán doanh nghiệp nhà nước làm ăn yếu kém mà không cần thiết giữ lại, . Tiền thu hồi từ cho vay của nhà nước (cả gốc và lãi) từ các tổ chức, cá nhân trong nước, vay qua hệ thống ngân hàng, từ chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế, 3.4. Thu từ hoạt động sự nghiệp: Các khoản thu có lãi và chênh lệch từ các hoạt động của các cơ sở sự nghiệp có thu của nhà nước, ví dụ các khoản thu học phí từ trường công, các khoản thu phí thăm quan của khách du lịch tại viện bảo tàng
  24. 3.5. Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước: Khoản thu này mang tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính chất phân phối lại, vừa có tính chất phân phối lại, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản quốc gia vừa tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các nguồn thu từ bán hoặc cho thuê tài sản, tài nguyên, thiên nhiên; thu về bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước. 3.6. Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản: Các khoản thu này cũng là một phần thu quan trọng của thu ngân sách nhà nước và được pháp luật quy định. 3.7. Vay nợ: Các khoản vay nợ của Chính phủ phản ánh việc vận dụng tín dụng nhà nước, trong đó nhà nước là người vay vốn để đảm bảo chi tiêu của ngân sách. Chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng nhà nước bao gồm: chính quyền nhà nước trung ương, chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, các tổ chức xã hội, dân cư và các chủ thể nước ngoài. Huy động vốn bằng vay nợ của chính phủ có hai loại: - Vay ngắn hạn (dưới 1 năm), thường để bù đắp các khoản bội chi tạm thời của ngân sách nhà nước. - Vay trung và dài hạn (thời hạn hơn 1 năm), nhằm huy động vốn cho đầu tư phát triển, đầu tư cơ sở hạ tầng mà hiệu quả mang lại sau một thời gian khá dài. Vay nợ trong nước được tiến hành dưới hình thức phát hành trái phiếu nhà nước, gồm: - Trái phiếu chính phủ, có 3 loại gồm, tín phiếu kho bạc (có thời hạn dưới 1 năm), trái phiếu kho bạc (có thời hạn từ 1 năm trở lên) và trái phiếu công trình (còn gọi là trái phiếu đầu tư). Vay trái phiếu công trình do cơ quan chính phủ quản lý và sử dụng cho đầu tư một công trình nhất định. Trái phiếu, tín phiếu có thể phát hành qua hệ thống ngân hàng nhà nước hoặc qua kho bạc nhà nước). - Trái phiếu chính quyền địa phương: dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuộc phần trách nhiệm của địa phương. Nước nào có mức độ phân cấp quản lý ngân sách cao thì trái phiếu địa phương phát triển hơn.
  25. - Công trái: nhà nước phát hành khi đất nước gặp khó khăn do chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, cần sự ủng hộ của người dân để vượt qua. Công trái có lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường và thời hạn vay thường dài. Vay nước ngoài thực hiện dưới các hình thức sau: - Vay vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ nước ngoài (- vay song phương) hoặc của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (- vay đa phương). Vốn ODA thường gồm một phần không hoàn lại, phần còn lại là vay ưu đãi. Phần vay ưu đãi được tính vào khoản vay nước ngoài để theo dõi và có kế hoạch trả nợ. Lưu ý, các khoản vay ưu đãi thường có những ràng buộc về chính trị, về các điều khoản hợp tác thương mại quốc tế, công nghệ kỹ thuật, về mục đích sử dụng vốn thông qua các chương trình, các dự án đầu tư phát triển. - Vay mượn theo các hiệp định vay mượn giữa chính phủ với các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới; vay của các thương nhân, tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài. - Phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế tại các thị trường vốn quốc tế. Phân tích cơ cấu nguồn thu từ dự toán NSNN 2013 của Việt Nam Bảng dưới đây cung cấp thông tin về cơ cấu nguồn thu của NSNN theo dự toán năm 2013. Hãy nhận xét về khả năng đóng góp vào NSNN từ các nguồn thu và nhận xét sơ bộ về đặc điểm nguồn thu của Việt Nam
  26. STT Chỉ tiêu Dự toán 2013 Tỷ trọng Tổng thu cân đối NSNN 816,000 I Thu nội địa 545,500 66.85% 1 Thu từ khu vực DNNN 174,236 21.35% 2 Thu từ khu vực DN Đầu tư NN 107,339 13.15% Thu từ khu vực công thương nghiệp - 3 166,500 20.40% ngoài quốc doanh 4 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 28 0.00% 5 Thuế thu nhập cá nhân 54,826 6.72% 6 Lệ phí trước bạ 13,442 1.65% 7 Thuế bảo vệ môi trường 14,295 1.75% 8 Các loại phí, lệ phí 10,378 1.27% 9 Các khoản thu về nhà, đất 45,707 5.60% 10 Thu khác ngân sách 3,977 0.49% 11 Thu từ quỹ đất công ích, hoa lợi công sản 989 0.12% II Thu từ dầu thô 99,000 12.13% III Thu cân đối từ hoạt động XNK 166,500 20.40% IV Thu viện trợ 5,000 0.61% 4. Phân định nguồn thu giữa các cấp NSNN Có 4 phương pháp thực hiện phân phối nguồn thu giữa các cấp ngân sách: . Phương pháp thu đủ chi đủ: nội dung của phương pháp này là toàn bộ số thu và các nhiệm vụ chi của ngân sách đều do ngân sách trung ương đảm nhận. Phương pháp này đảm bảo cho trung ương quyền chủ động nhưng hạn chế khả năng sáng tạo của địa phương. . Phương pháp khoán gọn: Trung ương giao cho địa phương được thu một số khoản thu xác định để đảm bảo nhiệm vụ chi cho địa phương. Phương pháp này khuyến khích địa phương quan tâm và bồi dưỡng nguồn thu của mình nhưng không chú ý đến nguồn thu của trung ương. . Phương pháp dự phần: Theo phương pháp này ngân sách địa phương được hưởng một phần từ các khoản thu chung được xác định theo tỷ lệ phần trăm hay còn gọi là tỷ lệ điều tiết. Phương pháp này khuyến khích địa phương quan tâm đến khoản thu nhưng phân định nguồn thu giữa các cấp ngân sách rất phức tạp và hàng năm phải điều chỉnh.
  27. . Phương pháp hỗn hợp: Là phương pháp áp dụng hỗn hợp cả ba phương pháp trên, nguồn thu của ngân sách địa phương bao gồm 3 phần chính: Các khoản thu ổn định, các khoản thu điều tiết và các khoản trợ cấp từ ngân sách trung ương. Phân cấp các khoản thu NSNN tại Việt Nam theo Luật NSNN 2002 Các khoản thu NSNN được chia thành các nhóm: (i) các khoản thu ngân sách TW hưởng 100%; (ii) các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa NSTW và NSĐP; (iii) các khoản thu được phân cấp cho NSDP 100%. Cụ thể : (i) Các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% như : Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu; Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu; Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành; Các khoản thuế và thu khác từ dầu, khí theo quy định của Chính phủ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật; (ii) Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương như : Thuế giá trị gia tăng[2]; Thuế thu nhập doanh nghiệp[3]; Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài[4]; Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá, dịch vụ trong nước; Thuế bảo vệ môi trường. Tỷ lệ phân chia NSTW và địa phương được giữ cố định trong giai đoạn từ 3-5 năm với mục tiêu giúp chính quyền địa phương có sự ổn định trong thực hiện nhiệm vụ ngân sách của mình. (iii) Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%: Thuế nhà, đất; Thuế tài nguyên, không kể thuế tài nguyên thu từ dầu, khí; Thuế môn bài; Thuế sử dụng đất nông nghiệp và phi nông nghiệp; Tiền sử dụng đất; Tiền cho thuê đất; Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; Lệ phí trước bạ; Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Ngân sách địa phương cũng được nhận một khoản thu quan trọng là thu từ chuyển giao ngân sách trung ương cho địa phương gồm bổ sung cân đối ngân sách (với những địa phương chưa thể tự cân đối ngân sách) và bổ sung có mục tiêu. Theo nguyên tắc phân chia này, phân cấp NSNN của Việt Nam theo phương pháp hỗn hợp IV. Chi ngân sách nhà nước 1. Khái niệm, đặc điểm Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện nhiệm vụ của nhà nước. Nó chính là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào ngân sách nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Chi NSNN có các đặc điểm như sau: . Chi ngân sách nhà nước gắn với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ;
  28. . Chi ngân sách nhà nước gắn với quyền lực nhà nước, mang tích chất pháp lí cao; . Các khoản chi của ngân sách nhà nước được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô; . Các khoản chi của ngân sách nhà nước mang tính chất không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu; . Các khoản chi của ngân sách nhà nước gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền lương, tín dụng, v.v (các phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ). 2. Nguyên tắc và điều kiện chi NSNN Các nguyên tắc chi NSNN được thực hiện như sau: . Nguyên tắc thứ nhất: Chi phải dựa trên khả năng của nguồn thu. Việc chi phải gắn chặt các khoản thu để bố trí các khoản chi. Nếu vi phạm nguyên tắc này dẫn đến bội chi NSNN, gây lạm phát mất cân bằng cho sự phát triển xã hội; . Nguyên tắc thứ hai: Tiết kiệm và hiệu quả. Việc chi phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố chí các khoản chi tiêu của NSNN; . Nguyên tắc thứ ba: Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhất là các khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội; . Nguyên tắc thứ tư: Tập trung có trọng điểm. Nguyên tắc này đòi hỏi việc phân bổ nguồn vốn từ NSNN phải tập trung vào các chương trình trọng điểm,các ngành mũi nhọn của nhà nước; . Nguyên tắc thứ năm: Bố trí các khoản chi thích hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cấp.; . Nguyên tắc thứ sáu: Kết hợp chặt chẽ các khoản chi ngân sách nhà nước với các yếu tố khác trong nền kinh tế vĩ mô đặc biệt là phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái. 3. Nội dung các khoản chi NSNN 3.1. Chi thường xuyên Chi thường xuyên là quá trình phân phối, sử dụng NSNN để đáp ứng nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước về cơ bản mang tính chất chi tiêu dùng. Chi thường
  29. xuyên được chia thành hai bộ phận cơ bản. Một bộ phận vốn được sử dụng để đáp ứng nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của nhà nước và một bộ phận chi để đáp ứng các nhu cầu của dân cư trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội, có mối quan hệ trực tiếp với thu nhập của dân cư và nâng cao mức sống dân cư. Trong quản lý ngân sách nhà nước, yêu cầu chi thường xuyên không được lớn hơn số thu từ thuế và phí của ngân sách nhà nước, hàng năm phải dành ra một phần thu từ thuế, phí cho đầu tư phát triển. Trong dự toán NSNN tại Việt Nam. Chi thường xuyên được phân thành 17 loại, trong đó quan trọng nhất là 9 loại chi sự nghiệp, một loại chi lương hưu và bảo đảm xã hội một loại chi quản lý hành chính, một loại chi trợ giá mặt hàng chính sách, một loại chi cho an ninh và quốc phòng. . Chi sự nghiệp: Bao gồm các khoản chi (i) Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo, dạy nghề, (ii) Chi sự nghiệp y tế, (iii) Chi sự nghiệp dân số và kế hoạch hóa giá đình, (iv) Chi sự nghiệp khoa học – Công nghệ, (v) Chi sự nghiệp văn hóa thông tin, (vi) Chi sự nghiệp thể dục thể thao, (vii) Chi sự nghiệp kinh kế, (viii) Chi sự nghiệp phát thanh, truyền hình, thông tấn và (ix) Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường. Nội dung chi của từng khoản chi (chi cho nội dung cụ thể gì) được quy định cụ thể trong các văn bản khác nhau, ví dụ: Thông tư liên tịch số: 45/2010/TTLT-BTC-BTNMT về hướng dẫn việc quản lý kinh phí sự nghiệp môi trường. . Chi lương hưu và bảo đảm xã hội: Bao gồm các khoản chi lương cho người nghỉ hưu, chi trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hàng tháng, chi cứu tế xã hội. Những khoản chi này góp phần giúp những người không còn khả năng lao động, những đối tượng gặp khó khăn về đời sống. Những khoản chi này hình thành nên một bộ phận quan trọng của phúc lợi xã hội. . Chi quản lý hành chính: Là các khoản chi phục vụ cho các hoạt động quản lý hành chính của Nhà nước ví dụ như chi lương, chi công tác phí, văn phòng phẩm, điện nước, xăng dầu, sửa chữa tài sản Các khoản chi này thường chiếm một tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu chi thường xuyên.
  30. . Chi trợ giá mặt hàng chính sách: Là việc chi NSNN cho các mặt hàng mà sự biến động về giá của nó ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống nhân dân. Một số mặt hàng trong danh mục chi trợ giá bao gồm: lúa gạo, xăng dầu . Chi an ninh và chi quốc phòng: Đây là hai loại chi khác nhau phục vụ cho hoạt động đảm bảo an ninh và quốc phòng của quốc gia. Tại Việt Nam con số này không được thể hiện rõ trong dự toán ngân sách công bố ra công chúng. 3.2. Chi đầu tư phát triển Đây là những khoản chi ngân sách nhà nước nhằm tạo dựng cơ sở vật chất cho các lĩnh vực, nhất là các cơ sở kinh tế của nhà nước và thực hiện các mục tiêu để phát triển đất nước. . Chi đầu tư xây dựng cơ bản: Là khoản chi tài chính nhà nước được đầu tư cho các công trình thuộc kết cấu hạ tầng (cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống thuỷ lợi, năng lượng, viễn thông ) các công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các công trình và dự án phát triển văn hóa xã hội trọng điểm, phúc lợi công cộng nhằm hình thành thế cân đối cho nền kinh tế, tạo ra tiền đề kích thích qúa trình vận động vốn của doanh nghiệp và tư nhân nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Đây là khoản chi lớn nhất trong kết cấu chi đầu tư phát triển. . Bù lãi suất tín dụng ưu đãi: Là khoản lãi suất mà chính phủ hỗ trợ gián tiếp cho các đối tượng vay tín dụng từ các ngân hàng thông qua việc chi trả trực tiếp cho ngân hàng. Ví dụ một đối tượng trong diện được bù lãi suất sẽ vay ngân hàng với lãi suất là niêm yết là 10% nhưng đối tượng này chỉ cần vay với lãi suất 6% do chính phủ đã bù 4% lãi suất. . Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước: Các khoản chi góp vốn để đầu tư hoặc hỗ trợ vốn khi doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn hoặc cần mở rộng phát triển. . Góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước.
  31. . Chi cho quỹ hỗ trợ phát triển, và quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình mục tiêu quốc gia (chương trình mục tiêu giải quyết việc làm, phủ xanh đất trống đồi trọc ) . Chi dự trữ nhà nước để hình thành các quỹ dự trữ quốc gia Tổng số chi của tài chính nhà nước cho đầu tư phát triển phụ thuộc vào mức tăng thu nhập quốc dân, mục tiêu của chính sách kinh tế. 3.3. Chi trả nợ Đây cũng là khoản chi chính của chính phủ trong việc trả lãi và nợ gốc đối với các khoản vay nợ và các khoản viện trợ chính thức. Khoản chi này bao gồm hai loại chi chính: . Chi trả nợ: Là các khoản chi dùng để trả nợ cho các tổ chức hoặc cá nhân mà chính phủ vay thông qua các nghiệp vụ trên thị trường mở hay vay trực tiếp từ các tổ chức hay chính phủ khác. Bao gồm chi trả nợ trong nước và nước ngoài. Chi trả nợ trong nước là khoản nợ mà nhà nước vay của các tầng lớp dân cư, các tổ chức trong nước bằng phát hành các loại trái phiếu, tín phiếu kho bạc. Chi trả nợ nước ngoài: các khoản nợ nước ngoài mà nhà nước vay của chính phủ các nước, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ quốc tế . Chi trả viện trợ: Là các khoản chi dùng để trả các khoản viện trợ chính thức từ nguồn vốn ODA. Phân tích cấu trúc nguồn chi Bảng dưới đây cung cấp thông tin về chi NSNN. Hãy nhận xét về cơ cấu chi, đặc điểm chi tiêu và gánh nặng chi tiêu của Việt Nam.
  32. STT Chỉ tiêu Dự toán 2013 Tỷ trọng Tổng số chi cân đối NSTW 550,325 I Chi đầu tư phát triển 81,900 14.88% 1 Chi đầu tư xây dựng cơ bản 77,087 14.01% 2 Bù lãi suất tín dụng ưu đãi 2,598 0.47% Chi cho vay thực hiện chính sách, hỗ trợ doanh 3 1,665 0.30% nghiệp công ích 4 Chi bổ sung dự trữ quốc gia 550 0.10% II Chi trả nợ và viện trợ 105,000 19.08% 1 Chi trả nợ 103,700 18.84% 2 Chi viện trợ 1,300 0.24% III Chi thường xuyêm 337,025 61.24% 1 Chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo, dạy nghề 30,881 5.61% 2 Chi sự nghiệp y tế 12,566 2.28% 3 Chi sự nghiệp dân số và kế hoạch hóa GĐ 887 0.16% 4 Chi sự nghiệp khoa học - Công nghệ 5,813 1.06% 5 Chi sự nghiệp văn hóa thông tin 2,513 0.46% 6 Chi sự nghiệp phát thanh, truyền hình, thông tấn 1,200 0.22% 7 Chi sự nghiệp thể dục thể thao 605 0.11% 8 Chi lương hưu và bảo đảm xã hội 81,330 14.78% 9 Chi sự nghiệp kinh tế 30,885 5.61% 10 Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường 1,172 0.21% 11 Chi quản lý hành chính 34,103 6.20% 12 Chi trợ giá mặt hàng chính sách 10,800 1.96% IV Dự phòng 10,800 1.96% V Chi thực hiện cải cách tiền lương 15,600 2.83% B Chi từ các khoản thu quản lý qua NSNN 64,621 C Chi từ nguồn vay nước ngoài về cho vay lại 34,430 Tổng số (A+B+C) 649,376 4. Phân định chi giữa các cấp NS Phân công quản lý nhà nước về kinh tế xã hội giữa các cấp chính quyền là cơ sở để phân định chi giữa các cấp ngân sách. Phân cấp quản lý chi giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc: . Ngân sách trung ương đảm nhận nhiệm vụ chi theo các chương trình quốc gia hoặc các dự án phát triển nhằm hình thành thế cân đối cho nền kinh tế và tạo môi trường
  33. thuận lợi kích thích quá trình tích tụ và đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và dân cư. . Ngân sách địa phương thực hiện các khoản chi gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. V. Cân đối ngân sách Nhà nước 1. Khái niệm cân đối NSNN Cân đối NSNN phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi NSNN nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước đã đề ra ở tầm vĩ mô cũng như trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong một tài khóa được thể hiện qua ba trạng thái sau: . NSNN cân bằng: Nguồn thu huy động đủ bù đắp chi; . NSNN thặng dư: Nguồn thu huy động vượt chi; . NSNN bội chi: Nguồn thu huy động nhỏ hơn chi 2. Nguyên tắc cân đối NSNN Thông thường có hai nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước: . Nguyên tắc thứ nhất: Thu ngân sách nhà nước (không bao gồm vay nợ) - Chi ngân sách thường xuyên > 0 Với nguyên tắc này thu ngân sách nhà nước trước hết phải đảm bảo cho nhu cầu chi thường xuyên và còn để chi đầu tư phát triển và trả nợ. . Nguyên tắc thứ hai: Thu ngân sách nhà nước - chi thường xuyên = chi đầu tư + chi trả nợ.
  34. 3. Xử lý bội chi NSNN Bội chi ngân sách nhà nước là tình trạng chi ngân sách nhà nước vượt quá thu ngân sách nhà nước trong một năm, là hiện tượng ngân sách nhà nước không cân đối thể hiện trong sự so sánh giữa cung và cầu về nguồn lực tài chính của nhà nước. Nguyên nhân bội chi: . Nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân khách quan: Do nên kinh tế suy thoái và khủng hoảng làm cho nguồn thu vào ngân sách nhà nước bị giảm sút, nhưng nhu cầu chi tiêu lại gia tăng để giải quyết những vấn đề khó khăn mới về kinh tế- xã hội như: trợ cấp xã hội, các khoản chi để phục hồi nền kinh tế, . Nguyên nhân chủ quan: Do quản lý, điều hành ngân sách nhà nước bất hợp lý. Biểu hiện qua những vấn đề sau: Tác động từ chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước, việc khai thác và đánh giá nguồn thu chưa tốt, phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước còn nhiều bất cập, gây thất thoát và lãng phí nguồn lực tài chính của nhà nước, vấn đề phân cấp quản lý ngân sách ngân sách nhà nước chưa khuyến khích địa phương nổ lực trong khai thác nguồn thu và phân bổ chi tiêu hiệu quả. Điều đó đã làm nguồn thu vào ngân sách nhà nước bị thất thoát, hoạt động thu không hiệu quả và không đủ cho hoạt động chi của nhà nước. Ngoài ra do nhà nước chủ động sử dụng bội chi ngân sách nhà nước như là một công cụ để thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng tạo sự tăng trưởng cho nền kinh tế, khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế Các biện pháp xử lý bội chi: . Tăng các khoản thu, chủ yếu là tăng thuế: Biện pháp này có khả năng bù đắp và giảm bội chi ngân sách nhà nước. Có hai cách để tăng thuế: Một là, tăng thuế suất. Hai là, mỡ rộng, nuôi dưỡng nguồn thu và chống thất thu thuế.Tuy nhiên đây không phải là những giải pháp cơ bản để xử lý bội chi ngân sách nhà nước, bỡi lẽ nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến giá cả hàng hóa tăng, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người dân, nghiêm trọng hơn sẽ làm mất động lực kinh doanh của các doanh nghiệp, làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
  35. . Thiết lập chính sách chi hiệu quả và cắt giảm chi ngân sách nhà nước: chính phủ cần phải thiết lập một chính sách chi ngân sách nhà nước hiệu quả và tiến tới cắt giảm chi ngân sách nhà nước và tăng cường tiết kiệm. Đây là giải pháp mang tính tình thế nhưng vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia khi xãy ra bội chi ngân sách nhà nước. Việc cắt giảm bội chi ngân sách nhà nước chỉ phát huy tác dụng khi nhà nước cắt giảm những khoản chi tiêu lãng phí, bất hợp lý, các khoản chi bao cấp cho xã hội và doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước cần triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư và chi thường xuyên của ngân sách nhà nước. . Phát hành tiền: Xử lý bội chi ngân sách nhà nước thông qua phát hànhbtiền và đưa ra lưu thông sẽ giúp cho chính phủ huy động nhanh nguồn vốn để cân đối ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, giải pháp này có thể gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành quá nhiều tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, sẽ gây ra những vấn đề khó khăn cho nền kinh tế sau này như: Kinh tế tăng trưởng nóng, không cân đối với khả năng tài chính hiện tại của đất nước, Nhưng nếu phát hành tiền ở mức hợp lý, phù hợp với diễn biến của nền kinh tế và sử dụng tiền đó có hiệu quả thì sẽ không làm tăng lạm phát, không gây tác động xấu đến nền kinh tế mà sẽ góp phần khắc phục tình trạng bội chi ngân sách nhà nước, thúc đẩy kinh tế phát triển và đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước. . Vay nợ: Nhà nước tiến hành vay nợ theo hai cách để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước vay trong nước hay vay nước ngoài đều phải trả nợ gốc và cả lãi, càng vay thì gánh nặng về nợ sẽ càng tăng. Nếu về lâu dài sử dụng biện pháp vay nợ để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước thì sẽ gây nhiều áp lực cho chính phủ về nợ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề cân đối ngân sách nhà nước, ngân sách nhà nước khó đạt mức cân bằng. VI. Chu trình NSNN Chu trình ngân sách là một quá trình bao gồm 3 giai đoạn: lập và phê chuẩn ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách. Quá trình ngân sách cho thấy toàn bộ hoạt động của một ngân sách từ khi bắt đầu hình thành cho tới khi kết thúc để chuyển sang ngân
  36. sách của năm tài chính mới. Thời gian của quá trình ngân sách dài hơn so với năm tài chính (còn được gọi là năm ngân sách hay tài khoá) điều đó được thể hiện ở chổ giai đoạn lập và phê chuẩn ngân sách được bắt đầu trước năm tài chính, giai đoạn quyết toán ngân sách được thực hiện sau năm tài chính và trong năm tài chính là thời gian chấp hành ngân sách. Quá trình ngân sách của nước ta được qui định trong luật Ngân sách Nhà nước. 1. Lập và phê chuẩn NSNN Mục tiêu của giai đoạn này là để xác định nhiệm vụ động viên, phân phối tối ưu các nguồn vốn nhằm bảo đảm tính vững chắc, tính khả thi của ngân sách. Giai đoạn này bao gồm: (i) Lập ngân sách (lập dự toán ngân sách) Hàng năm vào thời điểm qui định trước khi năm tài chính bắt đầu Chính phủ và Bộ tài chính ra thông báo về yêu cầu, nội dung và hướng dẫn lập dự toán ngân sách cho các ngành, các cấp. Các đơn vị căn cứ vào hướng dẫn của bộ tài chính lập dự toán ngân sách cho đơn vị mình dựa trên hệ thống luật, định hướng phát triển kinh tế xã hội của năm kế hoạch và các chính sách, định mức tài chính. Các Bộ và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành tổng hợp dự toán ngân sách ở phạm vi mình quản lý gởi cho Bộ tài chính. Bộ tài chính sẽ xem xét dự toán thu chi của các Bộ và địa phương, tính toán khả năng thu chi, các giải pháp cân đối ngân sách và tổng hợp thành dự toán ngân sách của năm tài chính trình Chính phủ. Chính phủ xem xét, thảo luận, điều chỉnh lại các khoản thu chi nếu thấy cần thiết và trình Quốc hội. (ii) Phê chuẩn ngân sách Dự toán ngân sách nhà nước trước hết sẽ được uỷ ban kinh tế và ngân sách của quốc hội nghiên cứu, xem xét, điều chỉnh và trình Quốc hội. Quốc hội sẽ thảo luận dự toán ngân sách nhà nước về các nội dung: điều chỉnh tăng giảm các khoản thu trên cơ sở sửa đổi luật thuế, điều chỉnh tăng giảm các khoản chi dựa trên các giải pháp bảo đảm cân đối ngân sách. Sau khi thảo luận và thông qua Quốc hội ra nghị quyết phê chuẩn dự toán ngân sách nhà nước và dự toán ngân sách nhà nước trở thành một đạo luật của nhà nước mà mọi pháp nhân và thể nhân trong xã hội điều có trách nhiệm thực hiện.
  37. (iii) Công bố ngân sách nhà nước Sau khi dự toán ngân sách nhà nước được Quốc hội phê chuẩn sẽ được chuyển sang cho nguyên thủ quốc gia: Chủ tịch nước để công bố và giao cho Chính phủ thực hiện bằng cách uỷ nhiệm cho Bộ tài chính giao các chỉ tiêu pháp lệnh về thu và chi ngân sách cho từng Bộ và từng địa phương để thi hành. 2. Chấp hành NSNN Dự toán ngân sách được phê chuẩn và được thực hiện khi năm tài chính bắt đầu. Nội dung của giai đoạn này là tập trung đầy đủ, kịp thời mọi nguồn thu vào ngân sách và cấp phát cho các nhiệm vụ chi đã xác định nhằm động viên, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính của xã hội để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong năm tài chính. Chấp hành ngân sách bao gồm chấp hành thu ngân sách nhà nước và chấp hành chi ngân sách nhà nước. . Chấp hành thu ngân sách nhà nước: là quá trình tổ chức và quản lý nguồn thu của ngân sách nhà nước. Hệ thống tổ chức thu ngân sách hiện nay ở nước ta có các cơ quan thuế và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ thu. Các cơ quan này có trách nhiệm kiểm soát các nguồn thu ngân sách nhà nước, xác định và thông báo số phải nộp cho các pháp nhân và thể nhân. Cơ quan tài chính, kho bạc nhà nước phối hợp với ngành thuế và các cơ quan được giao nhiệm vụ thu để tổ chức thực hiện thu nộp cho ngân sách nhà nước và trích chuyển kịp thời các khoản thu giữa các cấp ngân sách nhà nước theo qui định. . Chấp hành chi ngân sách nhà nước: là quá trình tổ chức và quản lý các khoản chi của ngân sách nhà nước. Tham gia vào chấp hành chi ngân sách gồm có các đơn vị sử dụng vốn ngân sách. Việc cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước được thực hiện theo qui định: - Căn cứ vào dự toán ngân sách được giao, các đơn vị thụ hưởng lập kế hoạch chi gởi cơ quan tài chính cùng cấp và kho bạc nhà nước nơi giao dịch để được cấp phát.
  38. - Cơ quan tài chính xem xét kế hoạch chi của đơn vị, căn cứ vào khả năng của ngân sách để bố trí số chi hàng quý thông báo cho đơn vị thụ hưởng và kho bạc nhà nước để thực hiện. 3. Quyết toán NSNN Nội dung của giai đoạn này là nhằm phản ảnh, đánh giá và kiểm tra lại quá trình hình thành và chấp hành ngân sách nhà nước. Sau khi kết thúc năm tài chính, các đơn vị sử dụng vốn ngân sách nhà nước phải khoá sổ kế toán và lập quyết toán ngân sách nhà nước theo số thực thu, thực chi theo hướng dẫn của Bộ tài chính. Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ tài chính các đơn vị thụ hưởng ngân sách lập quyết toán thu chi của đơn vị mình gởi cơ quan quản lý cấp trên, số liệu quyết toán phải được đối chiếu và được kho bạc nhà nước nơi giao dịch xác nhận. Thủ trưởng các cơ quan nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, xử lý quyết toán thu chi ngân sách của các đơn vị trực thuộc, lập quyết toán thu chi ngân sách thuộc phạm vi mình quản lý gởi cho cơ quan tài chính cùng cấp. Cơ quan tài chính các cấp ở địa phương xét duyệt quyết toán thu chi ngân sách của các cơ quan cùng cấp, thẩm tra quyết toán ngân sách cấp dưới, tổng hợp lập quyết toán ngân sách địa phương trình uỷ ban nhân dân cùng cấp để uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét trình hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và gởi cho Bộ tài chính. Bộ tài chính xem xét và tổng hợp quyết toán thu chi ngân sách của các bộ, ngành ở trung ương, kiểm tra xem xét quyết toán ngân sách của các địa phương, sau đó tổng hợp và lập tổng quyết toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ để Chính phủ đệ trình Quốc hội. Quốc hội sau khi nghe báo cáo kiểm tra của cơ quan Tổng kiểm toán quốc gia sẽ xem xét và phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước.
  39. Thảo luận tình huống Dự thảo cắt giảm 100.000 công chức, viên chức: Những đối tượng nào "phải đi"? Bộ Nội vụ đề xuất, cán bộ, công chức dôi dư do sắp sếp lại tổ chức, chưa đạt trình độ hoặc có chuyên môn không phù hợp, hạn chế về năng lực, nghỉ ốm nhiều có thể sẽ nằm trong diện tinh giản biên chế. Theo kế hoạch khoảng 100.000 công chức sẽ bị cho nghỉ việc hoặc về hưu sớm với trong vòng 6 năm từ 2014 đến 2020. Bộ Nội vụ cho biết, tinh giản biên chế không chỉ cán bộ, công chức trong biên chế mà còn gồm cả: Viên chức, người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động không xác định thời hạn theo quy định của pháp luật, người giữ chức danh lãnh đạo quản lý trong các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, người làm việc trong biên chế của các hội có tính chất đặc thù. Dự kiến, việc tinh giản biên chế sẽ được thực hiện trong vòng 6 năm (2014 - 2020), trong đó khoảng 80% giải quyết nghỉ hưu trước tuổi và 20% giải quyết thôi việc. Mức phí bình quân cho một người nghỉ hưu trước tuổi khoảng 75 triệu đồng, còn một người thôi việc là khoảng 90 triệu đồng nên tổng kinh phí dự kiến để thực hiện chính sách tinh giản biên chế là khoảng 8.000 tỷ đồng. Trước đó, tại cuộc họp thứ nhất Ban chỉ đạo Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức đầu năm 2013, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, chế độ công chức hiện vẫn nặng tính bao cấp, chưa phát huy được trí tuệ của cán bộ. Đó là chế độ chi vẫn tính trên tổng biên chế nói chung mà chưa tính đến việc làm cụ thể của từng vị trí. Hiện tại, cả nước có khoảng 2,8 triệu công chức, nhưng theo một Phó thủ tướng, 30% trong số đó (khoảng 840.000 người) không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu “sáng cắp ô đi, tối cắp về”. Câu hỏi thảo luận: Tại sao Bộ nội vụ lại đưa ra dự thảo cắt giảm 100,000 công chức.
  40. Câu hỏi ôn tập 1. Bản chất của NSNN là gì? 2. Phân biệt ngân sách nhà nước, ngân sách doanh nghiệp, ngân sách gia đình và cá nhân 3. Tại sao ở nước ta ngân sách nhà nước lại chia thành bốn cấp ngân sách và mỗi cấp lại gắn liền với mỗi cấp chính quyền? 4. Phương pháp quản lý NSNN tại Việt Nam là gì? 5. Nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở nước ta là gì? 6. Nguồn thu chủ yếu của NSNN là gì? Tại sao? 7. Nguồn chi chủ yếu của NSNN là gì? Tại sao? 8. Phân tích tình hình cân đối ngân sách nhà nước tại Việt Nam năm 2013.
  41. Câu hỏi trắc nghiệm 1. Hệ thống những quan hệ tài chính giữa nhà nước và xã hội, phát sinh, gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước được gọi là: a. Chính sách tài chính quốc gia b. Bản chất của NSNN c. Chính sách chi tiêu công d. Cả a và b và c đúng 2. Tiền thu từ bán vé thăm danh lam thắng cảnh ở Việt Nam a. Là một khoản thu về phí vào ngân sách nhà nước b. Là một khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước vào ngân sách nhà nước c. Là một khoản thu từ tài nguyên quốc gia d. Không câu nào đúng 3. Tiền thu từ thuế thu nhập cá nhân là: a. Khoản thu thuế gián thu b. Khoản thu thuế trực thu c. Khoản thu thuế do thu nhập cao d. a và c đúng 4. Tiền thu từ lợi nhuận các tập đoàn của Nhà nước: a. Là một khoản thu về phí vào ngân sách nhà nước b. Là một khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước vào ngân sách nhà nước c. Là một khoản thu từ đơn vị sự nghiệp có thu của Nhà nước d. Là khoản thu thuế thu nhập của các Tập đoàn Nhà nước 5. Chi trả lương cho cán bộ viên chức nhà nước thuộc về: a. Chi đầu tư phát triển; b. Chi quản lý hành chính;
  42. c. Chi sự nghiệp d. Chi trả nợ 6. Chi xây dựng đường cao tốc thuộc về: a. Chi thường xuyên; b. Chi đầu tư phát triển c. Chi đầu tư cho doanh nghiệp thực hiện dự án đường cao tốc d. Không câu nào đúng 7. Thông thường, loại hình chi nào chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu chi: a. Chi đầu tư xây dựng cơ bản b. Chi đầu tư phát triển c. Chi thường xuyên d. Chi trả nợ 8. Chi cứu trợ lũ lụt là loại hình chi lấy từ: a. Quỹ chi sự nghiệp b. Quỹ chi đầu tư phát triển c. Quỹ dự trữ quốc gia d. Quỹ chi lương hưu và bảo đảm xã hội 9. Khoản thu vào ngân sách nhà nước từ việc chính phủ phát hành trái phiếu chính phủ bán cho các tổ chức và cá nhân a. Là một khoản thu vay nợ của nhà nước vào ngân sách nhà nước b. Là một khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước vào ngân sách nhà nước c. Là một khoản đầu tư vào trái phiêu của chính phủ d. Cả a và b 10. Câu nào sau đây đúng a. Chi trả nợ thuộc chi tích lũy
  43. b. Chi đầu tư phát triển thuộc chi tích lũy c. Không câu nào đúng d. a và b đúng 11. Phát biểu nào sau đây thuộc về nguyên tắc chi NSNN: a. Chi ngân sách phải dựa trên khả năng của nguồn thu b. Chi ngân sách phải dựa trên nguyên tắc hoàn trả trực tiếp c. Chi ngân sách phải gắn chặt với chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô d. a và c đúng 12. Khoản thu nào dưới đây chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam: a. Thuế b. Phí c. Lệ phí d. Sở hữu tài sản: DNNN và các tài sản khác 13. Phương pháp phân định nguồn thu giữa cấp ngân sách tại Việt Nam là: a. Phương pháp thu đủ chi đủ b. Phương pháp khoán gọn c. Phương pháp dự phần d. Phương pháp hỗn hợp 15. Phương pháp quản lý ngân sách tại Việt Nam hiện nay là: a. Phương pháp quản lý thường b. Phương pháp tài khóa c. Kết hợp phương pháp quản lý thường và tài khóa d. Không câu nào đúng 16. Ngân sách nhà nước thường được tổ chức theo mô hình:
  44. a. Cơ cấu địa lý b. Nhà nước liên bang c. Nhà nước thống nhất d. b hoặc c đúng 17. Việc thu thuế phải đảm bảo một số nguyên tắc sau đây: a. Ổn định và lâu dài; b. Đảm bảo sự công bằng và không hoàn trả trực tiếp; c. Rõ ràng, chắc chắn và phù hợp với thông lệ quốc tế d. a và b và c đúng