Giáo trình Tác nhân phá hoại tài liệu

pdf 246 trang phuongnguyen 2070
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tác nhân phá hoại tài liệu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tac_nhan_pha_hoai_tai_lieu.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tác nhân phá hoại tài liệu

  1. GIÁO TRÌNH TÁC NHÂN PHÁ HOẠI TÀI LIỆU
  2. Mục lục Bảo vệ để chống những tổn thất do nước, hoả hoạn, Giới thiệu hệ thống phát hiện-cảnh báo cháy Lập kế hoạch chuẩn bị đối phó với thiên tai Thư mục về lĩnh vực quản lý trong trường hợp khẩn cấp Xử lý khẩn cấp sách và tài liệu ướt Phục chế khẩn cấp ảnh bị ướt Cứu chữa khẩn cấp các sách báo và giấy tờ bị mốc Bảo quản tư liệu lưu trữ trong thời gian tân trang, sửa chữa Xử lý đồng bộ hiện tượng xâm hại của sinh vật An ninh cho các bộ sưu tập
  3. Sherelyn Ogden - Trưởng ban bảo tồn, Hội sử học Minnesota Nghiên cứu để bảo vệ một cách tốt nhất cho nguồn tài liệu, chống lại những nguyên nhân gây tổn thất phổ biến là nguyên tắc cơ bản trong công tác bảo quản. Những hướng dẫn dưới đây sẽ giúp đỡ một cách đáng kể cho việc bảo đảm an toàn vốn tài liệu. Nếu cần thêm thông tin chi tiết hơn nữa về những chủ đề được thảo luận dưới đây, xin hãy tham khảo danh sách những tài liệu kỹ thuật của NEDCC ở cuối phần này. Những Tổn thất do nước và hoả hoạn gây ra: Cách tốt nhất để đối mặt với những tổn thất này là phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó. Những biện pháp sẵn sàng ứng phó với trường hợp khẩn cấp là phần quan trọng trong toàn bộ công tác bảo tồn. Một kế hoạch đối phó với trường hợp khẩn cấp như vậy cần phải tính đến tất cả các mối đe doạ, bao gồm cả những đe doạ đáng kể mà nước và lửa gây ra cho vốn tài liệu. Vì vậy, một kế hoạch được hoạch định chi tiết và có hệ thống bằng văn bản sẽ giúp bạn phản ứng nhanh chóng và hiệu quả với các trường hợp khẩn cấp xảy ra, giảm tối thiểu những nguy cơ đe doạ
  4. đến những nhân viên cũng như vốn tài liệu và toà nhà. Kế hoạch này phải bao gồm cả những biện pháp phòng ngừa lẫn những biện pháp khắc phục, đồng thời phải có cả phần đào tạo và hướng dẫn. Ví dụ như phải hướng dẫn và chỉ cho tất cả các nhân viên biết được vị trí và cách thức điều khiển các van đóng mở của hệ thống ống nước trong toà nhà lưu giữ vốn tài liệu. Phần này phải được triển khai thường xuyên, ít nhất là một lần/năm. Bản kế hoạch phải đưa ra được danh sách các bước cần thiết trong trường hợp đó. Bởi vì trong trường hợp khẩn cấp, do lúng túng và bối rối nên nhân viên rất dễ quên những bước phải làm và những nguồn lực có thể trợ giúp. Và hậu quả là những thời gian quý báu sẽ bị mất đi. Bản kế hoạch phải được sao ra và phát cho mỗi người có trách nhiệm trong những trường hợp khẩn cấp, được để bên ngoài và bên trong khu lưu giữ tài liệu. Chống những tổn thất do nước gây ra là thiết yếu đối với công tác bảo tồn của thư viện và cơ quan lưu trữ. Ngay cả một tai nạn nhỏ về nước như ống nước bị dò rỉ cũng có khả năng gây thiệt hại nặng nề và không thể sửa chữa được đối với vốn tài liệu. Một số biện pháp phòng ngừa phải được áp dụng kịp thời. Các mái che và máng nước phải được kiểm tra thường xuyên và được sửa chữa hoặc thay thế nếu cần. Các máy nước và ống thoát phải được
  5. thường xuyên làm sạch. Không nên đặt các hiện vật ở dưới các ống nước, ống hơi, bồn cầu, thiết bị điều hoà không khí hoặc các nguồn nước khác. Các hiện vật phải được đặt cách sàn nhà ít nhất 10 cm, không bao giờ được đặt tiếp xúc với sàn. Cần tránh lưu trữ dưới tầng hầm hoặc ở nhiều nơi có nguy cơ ngập nước cao. Nếu như bắt buộc phải lưu trữ ở những nơi này thì phải lắp đặt chuông báo động để nhanh chóng phát hiện nước. Thiệt hại do lửa gây ra còn nghiêm trọng hơn nước nhiều. Nếu như sau đám cháy mà các hiện vật vẫn còn tồn tại thì chúng cũng bị cháy đen, bị muội khói bao phủ, dễ vỡ do tiếp xúc với nhiệt độ cao, bị ướt do nước phun để dập đám cháy, ẩm mốc và có mùi khói. Hiện có một số biện pháp dập lửa và mỗi tổ chức cần phải trang bị ít nhất cho mình một phương pháp. Mặc dù hiện nay các hệ thống dập lửa bằng nước phun dưới dạng sương đang được bán rộng rãi và có nhiều triển vọng như các loại vòi phun tự động vẫn được các chuyên gia, người quản thủ thư viện, người lưu trữ và bảo tồn coi là biện pháp phòng chống hoả hoạn tối ưu nhất cho các thư viện và cơ quan lưu trữ. Lựa chọn loại vòi phun nào là tuỳ thuộc vào mục tiêu bảo quản của tổ chức đó. Trước khi lựa chọn, cần phải tham vấn những
  6. kỹ sư có kinh nghiệm về phòng chống hoả hoạn ở các thư viện và cơ quan lưu trữ, cũng như hiểu biết về những biện pháp mới trên thị trường. Ngoài ra, cũng nên tham khảo các ấn phẩm của Tổ chức phòng chống hoả hoạn quốc gia National Fire Protection Agency (NFPA), đóng tại Quincy, Massachusetts. Đối với các bộ sưu tập đặc biệt có giá trị, dễ bị hư hại do nước từ hệ thống vòi phun, thì trước đây thường được bảo vệ bởi hệ thống khí nén Halon tự động. Tuy nhiên, Halon chứa khí chloroflurocarbons, nên hiện nay nó bị cấm sử dụng, do gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường. Các phương pháp dập lửa dành riêng cho các bộ sưu tập có giá trị đặc biệt vẫn đang được nghiên cứu phát triển. Nhưng tóm lại, mỗi khu vực lưu trữ cần phải có một vài bình dập lửa cầm tay chứa hoá chất khô ABC và những nhân viên cần phải được hướng dẫn cách sử dụng. Mọi hệ thống dập lửa cần được kiểm tra thường xuyên và bảo dưỡng đúng cách, tuân thủ mọi yêu cầu kỹ thuật của nhà sản xuất. Tất cả các kho chứa tài liệu giấy cần được trang bị hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy. Hệ thống này được nối trực tiếp với sở cứu hoả địa phương hoặc bộ phận giám sát 24/24h. Hiện có nhiều loại hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy. Việc lựa chọn một hệ thống phù hợp với một tổ chức cụ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố riêng của tổ chức
  7. đó như kiến trúc và chức năng của toà nhà, và giá trị lưu trữ của nó. Cần tham vấn thêm một kỹ sư có kinh nghiệm về an toàn cứu hoả cũng như hiểu rõ về các loại hệ thống phát hiện và cảnh báo hoả hoạn hiện có. Tất cả các thiết bị phát hiện và chuông báo cần được kiểm tra thường xuyên và bảo dưỡng theo đúng yêu cầu kỹ thuật của nhà sản xuất. Các nhân viên của tổ chức cần làm việc với sở cứu hoả địa phương để xây dựng chương trình phòng chống hoả hoạn để bảo đảm loại trừ mọi nguy cơ hoả hoạn hiện có. Các khoá huấn luyện và kiểm tra về hoả hoạn cần phải được tổ chức thường xuyên. Các nhân viên cần được hướng dẫn cách thức thoát hiểm khi xảy ra hoả hoạn. Các tác nhân sinh học: Mặc dù chó, mèo, chim và con người cũng có khả năng gây hư hại cho các bộ sưu tập tư liệu nhưng các tác nhân sinh học chủ yếu lại là nấm mốc, các loài gặm nhấm và côn trùng. Nấm mốc là nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng, nhất là đối với các tổ chức ở các khu vực khí hậu nóng, ẩm hay gần khu vực chứa nước, độ ẩm không khí cao. Các bào tử nấm luôn thường trực trong môi trường. Sức phá hoại của nấm mốc là rất lớn nên cần thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn chúng. Biện pháp hiệu quả nhất là
  8. duy trì độ ẩm và nhiệt độ hợp lý, thông khí tốt, bảo đảm khu vực lưu trữ thông thoáng, sạch sẽ. Nhiệt độ lý tưởng không qúa 70 độ F và độ ẩm tương đối không quá 50%. Nhiệt độ và độ ẩm càng cao thì nguy cơ nấm mốc càng lớn. Nếu xảy ra sự cố khẩn cấp có liên quan đến nước như ngập lụt hay hoả hoạn thì cần xử lý ngay những tài liệu bị ướt trước khi nấm mốc phát triển. Khi nấm mốc đã xuất hiện cần cách ly những hiện vật bị nhiễm nấm khỏi bộ sưu tập. Khi di chuyển chúng cần đeo găng tay và khẩu trang. Sau đó, những vật này sẽ được làm khô một cách kỹ lưỡng vì khi chúng hoàn toàn khô thì nấm sẽ bị loại bỏ. Nên tham khảo ý kiến của chuyên gia bảo quản để biết cách xử lý tốt nhất trong những trường hợp cụ thể. Các tư liệu lưu trữ trong thư viện và phòng lưu trữ là đồ ăn ngon miệng đối với các loài gặm nhấm và côn trùng. Cần thực hiện những bước thích hợp để kiểm soát chúng. Những loài này thường bị những nơi bừa bộn và thức ăn thừa lôi cuốn cho nên ta không được phép để rác rưởi, bụi bẩn tích tụ, khu vực lưu trữ phải luôn sạch sẽ gọn gàng. Không được phép ăn uống trong các toà nhà, đặc biệt là những khu vực lưu trữ các bộ sưu tập. Các nhân viên chỉ được phép ăn ở phòng nhân viên được đặt càng xa nơi lưu
  9. trữ càng tốt. Tất cả các đồ đựng thức ăn thừa phải được đưa ra khỏi toà nhà mỗi ngày. Nhiệt độ cao và nhất là độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi cho loài gặm nhấm và côn trùng hoạt động, do vậy phải kiểm soát hai yếu tố này một cách chặt chẽ. Các cửa sổ, cửa ra vào, lỗ thông hơi cần được đóng kín vì chúng là nơi côn trùng dễ xâm nhập. Các toà nhà cần được bảo dưỡng chu đáo vì những kẽ hở hay vết nứt của chúng cũng là lối vào của chuột bọ. Cỏ, cành cây cần được cắt tỉa cách toà nhà ít nhất 50 cm. Nếu có thể, cần kiểm tra mọi vật được mang vào toà nhà lưu trữ xem có loài gặm nhấm, và nhất là côn trùng không. Những vật này bao gồm cả những hiện vật mới trong bộ sưu tập, những hiện vật cho mượn hoặc cho thuê nay được trả lại, và mọi thiết bị, bao gói khác. Cần tiến hành một chương trình quản lý phòng chống côn trùng. Khi phát hiện có loài gặm nhấm trong khu vực lưu trữ cần hành động ngay. Hiện nay trên thị trường có bán một số loại bẫy nhưng tốt nhất là hãy thuê một tổ chức chuyên nghiệp tiêu diệt loài gặm nhấm để bảo đảm an toàn cho nhân viên của cơ quan. Nếu như phát hiện thấy côn trùng gây hại thì cần cách ly ngay các hiện vật bị nhiễm ra khỏi bộ sưu tập. Các hiện vật ở cạnh vật bị nhiễm bệnh cũng
  10. cần được cách ly. Cần xác định được loài gây hại vì điều này giúp ích rất nhiều cho việc tiêu diệt và xác định được nguồn lây nhiễm. Không nên phun thuốc diệt côn trùng trực tiếp vào bộ sưu tập vì những hoá chất của chúng có thể gây hại cho bộ sưu tập đó. Ngoài ra, làm đông lạnh cũng là một biện pháp được ưa chuộng vì nó tránh được các hoá chất độc hại. Ngoài ra, còn có các biện pháp hun khói, làm thay đổi không khí cũng được sử dụng. Nếu như phát hiện ra sâu bọ xâm nhập vào nguồn tài liệu, cần liên hệ với một tổ chức bảo quản chuyên nghiệp để được tư vấn về những thông tin cập nhật. Trộm cắp và phá hoại: Do các hiện vật lưu trữ trong thư viện và các cơ quan lưu trữ có giá trị cao nên chúng cần phải được bảo vệ cẩn thận để tránh nạn trộm cắp và phá hoại. Các biện pháp bảo vệ rất đa dạng từ những ổ khoá đơn giản đến hệ thống an ninh tinh vi. Nói chung, các bộ sưu tập có giá trị bền vững cần được bảo đảm về an ninh nếu như toà nhà lưu trữ ở gần khu vực công cộng. Các biện pháp bảo vệ tốt nhất thường được sử dụng là các chuông báo động đột nhập vòng ngoài và máy phát hiện cử động ở bên trong, được nối trực tiếp với sở cảnh sát địa phương hay cơ quan giám sát bên ngoài suốt 24/24h. Trong thời gian làm việc,
  11. tốt nhất chỉ nên có một cửa ra vào cho nhân viên trong toà nhà và các nhà nghiên cứu. Tất cả các cửa khác cần được lắp đặt hệ thống báo động để phát hiện bất cứ sự sử dụng không được phép nào. Các cửa sổ cần được đóng và khoá kín. Các chìa khoá toà nhà và những khu vực lưu giữ những hiện vật có giá trị cao phải được quản lý chặt chẽ. Phải lên danh sách những người được giữ và yêu cầu nhân viên phải trả lại chìa khoá cho người lãnh đạo cơ quan trước khi ra về. Việc ra vào khu vực lưu trữ phải được hạn chế chặt chẽ, các nhà nghiên cứu phải đi kèm với một nhân viên của cơ quan nếu họ đi vào khu vực này. Việc sử dụng tài liệu của nhà nghiên cứu phải được quản lý và giám sát chặt chẽ. Không bao giờ được để mặc họ một mình. Tốt nhất là họ được sử dụng các tài liệu trong phòng cách biệt với khu vực lưu trữ. Họ phải để áo, túi và các đồ mang theo ở bên ngoài khu vực đọc và chỉ được phép mang theo một bút chì và giấy vào phòng đọc. Họ phải kí vào bản đăng ký, xuất trình và trao chứng minh thư cho người nhân viên củacơ quan quản lý tài liệu. Người nhân viên này là người sẽ lấy tài liệu mà người nghiên cứu yêu cầu khỏi nơi lưu trữ. Các yêu cầu sử dụng tài liệu của những bộ sưu tập đặc biệt phải được viết ra phiếu yêu cầu. Các giấy tờ đó phải được giữ lại để lập hồ sơ sử dụng. Chỉ nên trao cho người nghiên cứu một tài
  12. liệu/lần. Nếu họ cần nhiều tài liệu một lúc thì người nhân viên phải đếm cẩn thận số tài liệu trước mặt người mượn trước và sau khi sử dụng. Người nhân viên phải kiểm tra các tài liệu bằng mắt, trước và sau khi sử dụng để ngăn ngừa các hành động phá hoại. Chỉ trả lại chứng minh thư cho người nghiên cứu sau khi họ trả hết tài liệu cho nhân viên phòng đọc và người này phải đảm bảo chắc chắn sẽ không có hư hại nào xảy ra. Nếu như bạn phát hiện thấy những tài liệu quý giá bị đánh cắp khỏi bộ sưu tập của bạn, thì hãy báo cho cảnh sát, công ty bảo hiểm và các tổ chức khác có liên quan. Nếu bạn cần liên hệ với Hiệp hội những nhà bán sách cổ Hoa Kỳ (ABAA), hãy liên hệ theo số điện thoại (212)944- 8291, fax: (212)944-8293, email: abaa@panix.org. Trang web của họ ( được nối với nhiều nguồn thông tin có liên quan như báo cáo về nhiều tài liệu bị đánh cắp, những tài liệu được tìm lại và tài liệu giả mạo. Khi vụ trộm xảy ra, bạn sẽ cần phải chứng tỏ quyền sở hữu của mình đối với những tài liệu có giá trị đó. Việc đánh dấu tài liệu đó là một việc làm khôn ngoan. Nhiều văn bản mô tả những đặc điểm nhận dạng của tài liệu, ảnh chụp hoặc các bản sao chất lượng cao cũng phải được tập hợp thành hồ sơ.
  13. Nick Artim, Giám đốc phụ trách mạng lưới chống hoả hoạn, Middlebury Vermont Tóm lược Công tác quản lý các tài sản văn hoá cũng bao gồm nhiệm vụ bảo vệ và gìn giữ các toà nhà của tổ chức, các bộ sưu tập, các thiết bị vật chất và những người hoạt động trong tổ chức đó. Do vậy, cần có sự quan tâm thường xuyên để giảm thiểu những tác động tiêu cực của các yếu tố khí hậu, ô nhiễm, trộm cắp, phá hoại, côn trùng, ẩm mốc và hoả hoạn. Trong các yếu tố trên, hoả hoạn được coi là mối đe doạ nguy hiểm hơn cả do tốc độ và tính tàn phá khủng khiếp của nó. Các vật thể nếu bị con người hoặc môi trường tàn phá thì còn có thể khôi phục được. Các vật thể bị lấy cắp có thể được phát hiện thu hồi. Còn những vật thể bị lửa huỷ hoại sẽ vĩnh viễn mất đi. Nếu không được kiểm soát một đám cháycó thể tàn phá tất cả các vật thể trong một căn phòng chỉ trong vài phút và thiêu rụi một toà nhà chỉ trong vài giờ.
  14. Bước đầu tiên để ngăn ngừa hoả hoạn là xác định kịp thời vụ cháy, báo động cho các nhân viên làm việc trong toà nhà và sau đó báo cho các bộ phận cứu hoả chuyên nghiệp. Đây thường là chức năng của hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy. Có nhiều loại hệ thống với những hình thức khác nhau để lựa chọn tuỳ thuộc vào những đặc diểm cụ thể của khu vực cần bảo vệ. Các chuyên gia trong lĩnh vực phòng chống hoả hoạn đều thống nhất về cơ bản rằng một hệ thống vòi phun nước cứu hoả tự động có tác dụng lớn đối với một chương trình kiểm soát hoả hoạn. Nếu được thiết kế, lắp đặt và duy trì một cách phù hợp thì những hệ thống này sẽ giúp giảm bớt những nguy cơ trong công tác quản lý rủi ro, xây dựng nhà và ứng phó với các trường hợp khẩn cấp. Chúng còn giúp tăng cường tính linh động trong việc thiết kế toà nhà và tăng mức độ an toàn với hoả hoạn nói chung. Sau đây là những chi tiết về các hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy cũng như hệ thống vòi phun nưóc cứu hoả tự động bao gồm các thiết bị kèm theo, cách hoạt động và phần giải đáp những thắc mắc chung. 1. Sự hình thành đám cháy
  15. Trước khi tìm hiểu về hệ thống phát hiện hoả hoạn và vòi phun nước tự động, ta cần phải nắm được những kiến thức cơ bản về sự hình thành và diễn biến của một đám cháy.Với những thông tin này ta sẽ nhận thức rõ hơn về vai trò và phương thức hoạt động của các hệ thống an toàn hoả hoạn: Về cơ bản, cháy là phản ứng hoá học trong đó 1 chất gốc carbon (ví dụ như nhiên liệu) tiếp xúc với oxi (thường có trong không khí), được làm nóng tới điểm chúng sẽ tạo ra những khí dễ cháy. Những khí này sau đó sẽ tiếp xúc với 1 chất nào đó có nhiệt độ cao đủ nóng để bùng phát thành lửa, tạo thành phản ứng cháy. Nói 1 cách đơn giản là nếu 1 chất dễ cháy tiếp xúc với 1 vật có nhiệt độ cao thì sẽ gây ra cháy. Các thư viện, phòng lưu trữ, bảo tàng, các công trình có giá trị lịch sử thường có vô số những vật thể được coi là nhiên liệu như sách, các bản chép tay, băng ghi âm, đồ tạo tác, các vật trang trí dễ cháy, tủ, đồ đạc và các hoá chất trong phòng thí nghiệm. Cần ghi nhớ rằng bất cứ vật thể nào có thành phần cấu tạo từ gỗ, nhựa, giấy, vải sợi hoặc các chất lỏng dễ bắt lửa đều là những nhiên liệu tiềm tàng. Chúng cũng chứa các nguồn phát sinh ra lửa, bao gồm bất kì vật thể, hành động hay quá trình tạo nên sức nóng. Các
  16. yếu tố này là đèn điện, các hệ thống điện, các thiết bị sưởi và điều hoà không khí, các hoạt động duy tu và bảo tồn có tạo ra hơi nóng và các thiết bị điện trong văn phòng. Các hoạt động như hàn, cắt cũng là những nguồn có thể làm phát sinh ra lửa.Ngoài ra, thật không may là hành động cố ý gây hoả hoạn cũng là 1 trong những nguyên nhân phổ biến nhất phá hoại các tài sản văn hoá, và nó cũng cần phải được xem xét trong kế hoạch phòng chống hoả hoạn. Khi nguồn đánh lửa tiếp xúc với nhiên liệu thì sẽ tạo ra ngọn lửa và 1 đám cháy do nguyên nhân khách quan sẽ bắt đầu với tốc độ chậm, âm ỉ trong thời gian từ một và phút đến vài giờ. Giai đoạn khởi phát này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như cấu tạo vật chất của loại nhiên liệu và lượng oxi. Trong quá trình này, nhiệt độ sẽ tăng dần lên, tạo thành ngọn lửa và do đó giảm bớt lượng khói. Mùi khói đặc trưng là dấu hiệu đầu tiên báo hiệu giai đoạn đầu của đám cháy. Và ở giai đoạn này, việc phát hiện sớm (do người hay thiết bị tự động) và tiếp sau đó là sự phản ứng kịp thời với các thiết bị khẩn cấp dành cho hoả hoạn có thể giúp kiểm soát được đám cháy trước khi có những thiệt hại đáng kể. Khi đám cháy đạt đến giai đoạn cuối của thời kỳ khởi phát sẽ có đủ sức nóng để tạo thành những ngọn lửa rõ
  17. rệt. Một khi những ngọn lửa xuất hiện thì đám cháy sẽ chuyển từ 1 tình huống tương đối nhỏ thành 1 sự kiện nghiêm trọng do ngon lửa lan nhanh và sức nóng tăng mạnh. Nhiệt độ có thể lên tới mức tối đa là 1000C (1800F) chỉ trong vài phút đầu. Chúng có thể làm bốc cháy những đồ vật dễ bắt lửa và đe doạ tức thì sinh mạng cuả nhiều người trong căn phòng. Trong vòng từ 3-5 phút, trần nhà sẽ đóng vai trò như thiết bị hướng nhiệt trong lò nướng, làm nhiệt độ tăng cao đến giai đoạn “bùng cháy”, làm bốc lửa hầu như cùng lúc tất cả các vật có thể cháy được trong căn phòng. Lúc này, hầu hết các vật trong phòng đều bị huỷ hoại và con người không còn khả năng sống sót. Khói với khối lượng vài nghìn m3/phút bốc cao, che phủ tầm nhìn và gây ảnh hưởng đến các vật thể nằm ngoài đám cháy. Nếu khu vực nơi xảy ra đám cháy được xây dựng kiên cố thì sức nóng và lửa sẽ thiêu huỷ tất cả các vật thể dễ cháy còn lại và sau đó tự tàn lụi. Tuy nhiên, nếu khả năng chống chịu hoả hoạn của tường hay trần yếu (ví dụ như cửa mở những sai phạm trong xây dựng tường trần, toà nhà có nhiều chất dễ cháy) thì đám cháy có thể lan đến các khu vực lân cận và quá trình trên lại bắt đầu. Nếu như đám cháy vẫn không được kiểm soát thì cuối cùng nó sẽ
  18. thiêu rụi toàn bộ toà nhà và các vật thể bên trong. Việc dập tắt thành công đám cháy phụ thuộc vào việc dập tắt những ngọn lửa trước khi, hoặc ngay khi ngọn lửa bùng phát. Nếu không, thiệt hại sẽ rất nghiêm trọng và khó có thể phục hồi. Trong giai đoạn khởi phát của đám cháy, 1 người được huấn luyện tốt có thể dùng các thiết bị dập lửa cầm tay có tác dụng như bước hữu hiệu đầu tiên. Tuy nhiên, nếu bước này không được thực hiện hoặc ngon lửa lan quá nhanh thì các thiết bị này sẽ tỏ ra bất lực ngay trong phút đầu tiên. Ta phải cần đến các phương pháp dập lửa nhanh hơn như vòi cứu hoả trong toà nhà hoặc các hệ thống cứu hoả tự động. Một đám cháy sẽ không chỉ gây thiệt hại cho các toà nhà, các vật thể bên trong toà nhà cũng như hoạt động của tổ chức đó. Các hậu quả nói chung có thể xảy ra là: + Các bộ sưu tập bị huỷ hoại: Hầu hết các viện bảo tồn di sản đều lưu giữ các vật thể độc nhất vô nhị và không thể thay thế được. Đám cháy sẽ tạo sức nóng và khói gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc huỷ hoại hoàn toàn những vật thể đó mà không thể khôi phục được. + Gây ảnh hưởng đến những hoạt động và nhiệm vụ của tổ chức: Các tổ chức này thường có những thiết bị cho
  19. giáo dục, các phòng thí nghiệm về bảo tồn, các dịch vụ về thư mục, các văn phòng dành cho nhân viên quản lý và phục vụ, các dịch vụ ăn uống, bán lẻ và hàng loạt các hoạt động khác. Một đám cháy sẽ làm chúng ngưng trệ và gây ảnh hưởng tiêu cực đến các nhiệm vụ của một tổ chức cũng như khách hàng của nó. + Huỷ hoại về cơ sở hạ tầng: các toà nhà là nơi mà các bộ sưu tập được bảo vệ, nơi diễn ra các hoạt động và nơi các nhân viên làm việc mà không bị ảnh hưởng của các yếu tố về thời tiết, ô nhiễm, phá hoại cũng như hàng loạt các yẻu tố môi trường khác. Một đám cháy có thể phá huỷ các bức tường, sàn nhà, các kết cấu, trần/ mái nhà cũng như các hệ thống chiếu sáng, điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm, cung cấp điện gây hư hại đến các vật thể bên trong toà nhà và làm phát sinh các chi phí lớn. + Gây thiệt hại về mặt tri thức: sách vở, các bản chép tay, phim ảnh, băng ghi âm và các tài liệu được sưu tập khác chứa đựng khối lượng thông tin khổng lồ mà đám cháy có thể thiêu huỷ. + Gây thương tích hay ảnh hưởng đến tính mạng con người: đe doạ mạng sống của các nhân viên và khách tham quan.
  20. + ảnh hưỏng xấu đến các mối quan hệ cộng đồng: Các nhân viên và khách tham quan tin tưởng và những điều kiện an toàn của các toà nhà bảo tàng. Những người trao tặng hoặc cho mượn các bộ sưu tập thường mong rằng chúng được bảo vệ cẩn then. Một đám cháy lớn sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tin của công chúng và gây hậu quả nặng nề với quan hệ cộng đồng của tổ chức. + An ninh của toà nhà: hoả hoạn là mối đe doạ an ninh lớn nhất. Trong cùng một khoảng thời gian, một vụ hoả hoạn do nguyên nhân khách quan hay chủ quan có thể gây huỷ hoại cho các bộ sưu tập nhiều hơn bất cứ vụ trộm cắp nào. Lượng khói và các loại khí độc hại lớn có thể gây lộn xộn và hoảng loạn, là cơ hội tốt cho việc đột nhập bất hợp pháp và trộm cắp. Do đó, cần thiết phải có những hoạt động cứu hoả không hạn chế trong chương trình bảo vệ an ninh. Các vụ cố ý gây hoả hoạn nhằm che giấu tội ác cũng khá phổ biến. Nhằm giảm thiểu nguy cơ và hậu quả của nó, các viên bảo tồn nên thiết lập và thực hiện các chương trình phòng chống hoả hoạn toàn diện, bao gồm các nỗ lục phòng chống cháy, cải thiện kết cấu xây dựng của toà nhà, các phương pháp phát hiện một đám cháy ở giai đoạn đầu và cảnh báo cho những nhân viên chiệu trách nhiệm về các trường hợp khẩn cấp và các phương tiện để dập tắt đám cháy một cách hiệu quả. Mỗi yếu tố này có vai trò
  21. quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu an toàn hoả hoạn của tổ chức. Nhà quản lý cần chỉ ra những mục tiêu cần phải được bảo vệ nếu xảy ra cháy và lập ra một chương trình để thực hiện yêu cầu đó. Bởi vậy, câu hỏi cơ bản dành cho nhà quản lí tài sản là: “Tổ chức có thể chịu được đám cháy lớn tối đa và thiệt hại tối đa là bao nhiêu?”. Trả lời được câu hỏi này thì chương trình bảo vệ mục tiêu sẽ được xác lập. 2. Các hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy 2.1. Giới thiệu Vai trò một chương trình chống hoả hoạn là xác định kịp thời đám cháy và cảnh báo cho các nhân viên trong toà nhà và cho các tổ chức cứu hoả. Đó là chức năng của các hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy. Tuỳ thuộc tình huống hoả hoạn, kiến trúc nhà, loại hình và số lượng nhân viên, tầm quan trọng của các vật thể lưu trữ và nhiệm vụ của của tổ chức mà các hệ thống này có thể thực hiện các chức năng khác nhau. Trước hết, chúng cung cấp 1 phương tiện xác định đám cháy bằng phương pháp thủ công hoặc phương pháp tự động.Sau đó, chúng cảnh báo cho mọi người trong toà nhà về tình trạng đám cháy và yêu cầu mọi người di tản khỏi toà nhà. Một chức năng phổ biến khác trong hệ thống là truyền tín hiệu báo cháy tới
  22. phòng bảo vệ hoặc các tổ chức phản ứng nhanh khác. Chúng cũng có thể đóng các thiết bị điện, thông gió và dừng các hoạt động đặc biệt khác hoặc khởi động các thiết bị dập lửa tự động. Phần này sẽ dành để mô tả các khía cạnh cơ bản của các hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy. 2.2. Bảng kiểm soát Bảng kiểm soát là “bộ não” của hệ thống phát hiện và báo cháy. Nó chịu trách nhiệm giám sát nhiều thiết bị cảnh báo “đầu vào”, ví dụ như các thiết bị phát hiện cháy hoạt động thủ công hay tự động, sau đó khởi động các thiết bị cảnh báo “đầu ra” như còi, chuông, đèn báo, quay số điện thoại khẩn cấp và các thiết bị kiểm soát toà nhà. Các bảng kiểm soát rất đa dạng, từ đơn giản (thiết bị đầu vào và 1 thiết bị đầu ra) đến phức tạp (các thiết bị điều khiển bằng vi tính kiểm soát một vài toà nhà trong cùng một khu vực). Có 2 loại bảng kiểm soát cơ bản như sau: - Các hệ thống phát hiện và cảnh báo cháy kiểu “truyền thống”: là phương pháp được sử dụng từ rất lâu. Trong hệ thống này, 1 hay nhiều hệ thống mạch được thiết kế chạy trong toà nhà hoặc khu vực bảo vệ. Mỗi mạch điện có 1 hoặc nhiều thiết bị phát hiện hoả hoạn. Việc lựa chọn
  23. và lắp đặt các thiết bị này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như yêu cầu cảnh báo thủ công hay tự động, điều kiện nhiệt độ và môi trường xung quanh, dạng hoả hoạn có thể xảy ra và tốc độ phản ứng mong muốn. Do vậy, một hoặc nhiều thiết bị này thường được đặt dọc theo mạch điện tuỳ thuộc vào những nhu cầu và mối quan tâm khác nhau. Khi hoả hoạn xảy ra, một hoặc nhiều thiết bị sẽ hoạt động, làm đóng mạch điện. Bảng kiểm soát chuyển sang chế độ khẩn cấp, kích hoạt một hoặc nhiều mạch điện báo cháy để rung chuông báo cháy. Bảng kiểm soát này có thể gửi tín hiệu cháy tới 1 bảng kiểm soát khác để tình trạng này có thể được giám sát từ xa. Trong dạng hệ thống này, mọi phát hiện và cảnh báo cháy do thiết bị phần cứng điều khiển. Thiết bị này bao gồm nhiều mạch dây, cầu chì đóng mở và vô số điốt. Do cách bố trí này, các hệ thống thực sự điều khiển và giám sát các đoạn mạch của toàn hệ thống chứ không phải từng thiết bị riêng lẻ. Để giải thích rõ hơn, ta lấy ví dụ 1 hệ thống báo cháy của 1 toà nhà gồm có 5 mạch dây đánh số từ A đến E, mỗi mạch có 10 thiết bị phát hiện khói và 2 hộp vận hành bằng tay đặt ở nhiều phòng ở mỗi khu vực (A-E ). Nếu đám cháy xuất hiện ở một trong những phòng thuộc khu vực A, máy
  24. phát hiện khói sẽ báo hiệu. Bảng kiểm soát cháy sẽ thông báo có đám cháy ở đoạn mạch (khu vực) A. Nhưng nó không chỉ rõ loại máy nào phát hiện hoặc ở vị trí cụ thể nào trong khu vực. Bộ phận nhân viên bảo vệ sẽ phải kiểm tra toàn bộ khu vực để xác định thiết bị nào đang báo cháy. Nếu mỗi khu vực có nhiều phòng, hoặc có nhiều vùng cấm thì sẽ tốn nhiều thời gian và cơ hội quý giá kịp thời dập tắt đám cháy có thể bị bỏ lỡ. Ưu điểm của những hệ thống này là chúng tương đối đơn giản, phù hợp với các toà nhà nhỏ và vừa. Nhân viên giám sát không cần phải được đào tạo quá chuyên sâu. Hạn chế của nó là đối với những toà nhà lớn, việc lắp đặt sẽ rất tốn kém vì cần nhiều mạch điện để kiểm soát chính xác các thiết bị báo động. Các hệ thống này cũng đòi hỏi nhiều nhân lực, chi phí duy trì hệ thống cao. Mỗi thiết bị báo động cần phải được thay thế, lau chùi và kiểm tra định kỳ để tránh hỏng hóc. Với hệ thống loại này không có cách nào xác định chính xác thiết bị nào đang cần bảo dưỡng. Do vậy, ta phải tháo và bảo dưỡng từng chiếc một. Vì thế nó rất tốn thời gian, nhân lực và đòi hỏi nhiều cố gắng. Khi một sai sót xảy ra, báo động chỉ chứng tỏ là đoạn mạch có vấn đề chứ không chỉ ra cụ thể nơi nảy sinh vấn đề. Hậu quả là kỹ thuật viên
  25. phải kiểm tra lại toàn bộ đoạn mạch để xác định sai hỏng. - Các hệ thống “thông minh”: là sản phẩm của công nghệ phát hiện và cảnh báo cháy hiện đại. Khác với phương pháp báo động truyền thống, những hệ thống này kiểm soát từng thiết bị báo cháy qua các bộ vi xử lý và phần mềm hệ thống. Thực ra, mỗi hệ thống báo cháy thông minh là một máy vi tính nhỏ giám sát và điều khiển một tập hợp các thiết bị đầu vào và đầu ra. Cũng giống như hệ thống truyền thống, hệ thống thông minh gồm có một hoặc nhiều đoạn mạch chạy xung quanh toà nhà hoặc khu vực. Một hoặc nhiều thiết bị báo động cũng được đặt dọc theo những đoạn mạch này. Điểm khác biệt chủ yếu giữa 2 hệ thống là ở cách mà mỗi thiết bị này được kiểm soát. Với hệ thống thông minh, mỗi thiết bị báo động (thiết bị phát hiện tự động, hộp điều khiển bằng tay, công tắc vòi phun nước v.v ) đều có một “địa chỉ” cụ thể. Những địa chỉ này được lập trình từng cái một trong bộ nhớ của bảng kiểm soát với những thông tin như loại thiết bị, vị trí và chi tiết về cách hoạt động của chúng. Bộ vi xử lý của Bảng kiểm soát gửi tín hiệu liên lạc thường xuyên đến mỗi đoạn mạch. Bằng cách này, nó liên hệ đến từng thiết bị báo động để xác định được trạng thái của chúng (bình thường hay khẩn cấp ). Quá trình giám sát
  26. này được thực hiện liên tục với tốc độ cao, cứ 5-10 giây lại cho thông tin cập nhập của hệ thống. Hệ thống này cũng giám sát điều kiện hoạt động của mỗi đoạn mạch, xác định bất cứ lỗi mạch nào có thể xảy ra. ưu việt của các hệ thống này là khả năng xác định chính xác vị trí xảy ra lỗi mạch. Vì vậy, thay vì chỉ thông báo có lỗi ở đoạn mạch, chúng chỉ ra được vị trí sai hỏng, giúp xác định nhanh vấn đề, sửa chữa nhanh để trở về trạng thái hoạt động bình thường. Những ưu điểm của hệ thống báo cháy thông minh là tính ổn định, dễ bảo dưỡng và nâng cấp. Tính ổn định được bảo đảm bằng các phần mềm hệ thống. Nếu một thiết bị báo động phát hiện một dấu hiệu cháy nào đó, thì trước hết bảng kiểm soát sẽ tự thay đổi chế độ thật nhanh. Với các dấu hiệu giả như sâu bọ, bụi hay gió thì nó sẽ tự điều chỉnh trong quá trình khởi động lại, nhờ đó giảm thiểu khả năng báo động nhầm. Nếu như đó là dấu hiệu cháy (ví dụ khói) thì thiết bị báo động sẽ chuyển ngay chế độ chuông báo sau khi tự khởi động. Bảng điều khiển sẽ nhận định đây là hoả hoạn và bật chế độ báo động. Nếu được bảo dưỡng tốt thì các hệ thống loại này có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với hệ thống truyền thống. Trước hết, chúng có khả năng giám sát trạng thái của
  27. từng thiết bị cảm ứng. Nếu thiết bị này bị bẩn thì bộ vi xử lý sẽ phát hiện tình trạng xuống cấp đó và đưa ra yêu cầu bảo dưỡng. Đặc điểm này còn được gọi là khả năng kiểm tra độ cảm ứng của các thiết bị liên kết, cho phép bộ phận nhân viên nhận biết và bảo dưỡng các thiết bị cảm ứng cần sửa chữa chứ không phải mất nhiều thời gian và công sức để làm sạch toàn bộ các thiết bị. Các hệ thống cao cấp như FCI 72000 có thêm đặc tính tự cân bằng. Phần mềm hệ thống sẽ điều chỉnh độ cảm ứng để cân bằng với điều kiện môi trường có lượng bụi thấp. Nó giúp tránh được tình trạng thiết bị cảm ứng bị quá tải khi bị bụi che phủ phần “mắt đọc” của thiết bị. Khi nó đạt đến ngưỡng không thể tự điều chỉnh nữa thì Bảng kiểm soát sẽ báo cho nhân viên bảo dưỡng. Thay đổi các hệ thống này (ví dụ như thêm hay bỏ bớt 1 thiết bị cảm ứng) là việc kết nối hoặc tháo bỏ thiết bị tương ứng khỏi mạch điện, đồng nghĩa với việc thay đổi khu vực bộ nhớ tương ứng. Việc thay đổi bộ nhớ có thể được thực hiện ở bảng kiểm soát hoặc trên máy tính cá nhân bằng những thông tin được tải xuống chứa trong bộ vi xử lý của bảng kiểm soát. Nhược điểm cơ bản của hệ thống này là mỗi hệ thống có những đặc điểm hoạt động riêng. Do đó, nhân viên kỹ
  28. thuật phải được đào tạo kỹ lưỡng về hệ thống đó. Khoá đào tạo thường kéo dài 3-4 ngày tại cơ sở của nhà cung cấp hệ thống. Các khoá đào tạo định kỳ cũng rất cần thiết để cập nhật với các phương pháp mới. 2.3. Các thiết bị báo cháy Nếu như có mặt tại toà nhà, con người có khả năng phát hiện cháy tuyệt vời. Một người khoẻ mạnh có thể cảm thấy nhiều dấu hiệu hoả hoạn như sức nóng, ngọn lửa, khói và mùi. Do vậy, hầu hết các hệ thống báo cháy được thiết kế với một hay nhiều thiết bị kích hoạt bằng tay để người phát hiện đám cháy sử dụng. Nhưng không may là con người không phải là một biện pháp phát hiện hoả hoạn đáng tin cậy vì họ có thể không có mặt tại thời điểm xảy ra đám cháy, hoặc là họ không báo động một cách có hiệu quả hay họ không hoàn toàn khỏe mạnh để nhận biết những dấu hiệu của đám cháy. Đó cũng chính là nguyên nhân các thiết bị báo cháy tự động được chế tạo. Các thiết bị tự động nếu được lựa chọn và lắp đặt phù hợp sẽ là nguồn cảnh báo hoả hoạn có độ tin cậy cao. -Thiết bị báo cháy điều khiển bằng tay: là thiết bị dựa trên phương pháp phát hiện hoả hoạn lâu đời nhất. Nói một cách đơn giản, một người hét to lên cũng là một cách cảnh báo cháy. Nhưng âm thanh đó không phải lúc nào cũng
  29. được truyền đi khắp toà nhà. Vì vậy, các hộp chuông báo cháy vận hành bằng tay được lắp đặt. Nguyên lý thiết kế chung của chúng là đặt các hộp này trong tầm tay với, dọc theo các lối thoát hiểm. Do đó mà ta thường thấy chúng gần các cửa ra của các phòng lớn và các hành lang. Ưu điểm của các thiết bị này là chúng trao cho những người trong toà nhà một phương tiện cụ thể, luôn trong trạng thái sẵn sàng để khởi động hệ thống chuông báo cháy của toà nhà. Hệ thống này có thể thay thế cho tiếng hét của con người. Chúng chỉ là những thiết bị đơn giản, có độ tin cậy cao trong trường hợp có người trong toà nhà. Tuy nhiên, nhược điểm chính của chúng là chúng sẽ không hoạt động nếu như trong nhà không có người. Ngoài ra, chúng có thể bị sử dụng để báo động giả với ý đồ xấu. Tuy vậy, chúng vẫn là một bộ phận quan trọng trong bất kỳ hệ thống báo động hoả hoạn nào. - Các thiết bị cảm ứng nhiệt: là thiết bị báo cháy tự động cổ nhất, xuất hiện từ những năm 1850, và hiện nay một vài mẫu vẫn còn được sản xuất. Các thiết bị phổ biến nhất vẫn là các thiết bị đo lường nhiệt độ, hoạt động khi nhiệt độ căn phòng tăng đến nhiệt độ đã định trước (thường là 135-165 độ F hay 57-74 độ C). Sau đó là loại thiết bị cảm ứng tỷ lệ tăng của nhiệt độ. Thiết bị này nhận biết bất cứ
  30. sự tăng nhanh không bình thường nào của nhiệt độ trong một thời gian ngắn. Hai loại thiết bị trên đều được cố định tại các điểm xác định trên tường hoặc trần nhà. Loại thiết bị thứ ba là loại cảm ứng theo đường giới hạn nhiệt độ nhất định. Nó gồm 2 dây dẫn và một dây cách điện. Dây cách điện này được thiết kế tự động ngắt khi nhiệt độ tăng. ưu điểm của nó là mức độ cảm ứng nhiệt độ cao mà chi phí lại thấp. Các thiết bị cảm ứng nhiệt có độ tin cậy cao và rất bền với điều kiện môi trường bình thường. Chúng cũng rất dễ bảo dưỡng và có chi phí bảo dưỡng thấp. Hạn chế của chúng là chúng chỉ hoạt động khi nhiệt độ căn phòng đạt đến một mức nhất định, mà vào thời điểm đó đám cháy có thể đang lan nhanh và gây thiệt hại. Do đó, thiết bị này thường không được phép dùng trong các ứng dụng bảo vệ an toàn sinh mạng con người. Ngoài ra, nó cũng không được dùng ở những nơi đòi hỏi phải xác định được đám cháy trước khi đám cháy lớn xảy ra, ví dụ như ở những nơi lưu giữ những vật thể có giá trị cao nhưng dễ bị hư hại với nhiệt độ cao. - Các thiết bị phát hiện khói: được sản xuất trên công nghệ mới và được sử dụng rộng rãi vào những năm 70 và 80 cho các ứng dụng phục vụ gia đình và bảo vệ sinh mạng
  31. con người. Đúng như tên gọi của nó, các thiết bị này được thiết kế bắt chước khứu giác con người nhằm phát hiện ra đám cháy ngay ở giai đoạn đầu. Loại phổ biến nhất là loại được cố định trên trần hoặc tường nhà như các thiết bị cảm ứng nhiệt. Chúng hoạt động dựa trên nguyên tắc ion hoá hoặc nguyên tắc quang điện, tuỳ theo từng loại ứng dụng, mỗi nguyên tắc này thể hiện những ưu điểm vượt trội riêng. Với các không gian rộng như ở các phòng triển lãm hay sảnh lớn, loại thường được sử dụng là đèn chiếu tia. Thiết bị này gồm 2 bộ phận, 1 đèn chiếu tia và một máy thu. Chúng được treo cách xa nhau (khoảng 300 ft hay 100 m). Khi khói xuất hiện trong khoảng cách này, tia chiếu sẽ bị cản trở và máy thu không nhận được đủ tia sáng. Điều này được coi là dấu hiệu cháy và tín hiệu báo động sẽ được truyền đến bảng điều khiển. Loại thiết bị báo cháy thứ ba là hệ thống hút khí, hiện đang được sử dụng rộng rãi trong các khu vực đặc biệt nhạy cảm. Thiết bị này có 2 phần chính: 1 bộ phận điều khiển có khoang dò, 1 quạt gió và 1 mạch điều khiển; và 1 hệ thống ống dẫn. Trên những ống này có nhiều “cổng” để không khí có thể đi vào các ống dẫn và được truyền đến máy dò. Trong điều kiện bình thường, máy dò đều đặn chuyển 1 mẫu khí vào khoang dò qua hệ thống ống. Mẫu này sẽ được phân tích xem có khói hay không, rồi lại được
  32. truyền trả vào trong không khí. Nếu phát hiện khói trong mẫu thử, nó sẽ chuyển tín hiệu báo động tới bảng điều khiển chính. Loại thiết bị này đặc biệt nhậy cảm, và hiện nay nó là phương pháp báo cháy tự động nhanh nhất. Nhiều công ty công nghệ cao như các công ty truyền thông đã chuẩn hoá các hệ thống hút khí này. Để bảo vệ các tài sản văn hoá, người ta dùng chúng ở những khu vực lưu giữ các bộ sưu tập, ở các phòng có giá trị lớn. Ngoài ra, chúng còn thường được dùng ở những khu vực đòi hỏi tính thẩm mỹ cao vì những bộ phận của chúng dễ ẩn đi hơn so với các phương pháp khác. Ưu điểm vượt trội của các thiết bị phát hiện khói là chúng có khả năng xác định đám cháy ngay khi chúng mới hình thành. Do vậy, chúng tạo cơ hội cho các nhân viên bảo vệ kịp thời phản ứng và kiểm soát đám cháy trước khi xảy ra tổn thất nặng nề. Chúng cũng là phương pháp được ưa chuộng cho mục đích bảo vệ an toàn sinh mạng con người và những vật thể có giá trị lớn. Hạn chế của chúng là chi phí lắp đặt cao so với các thiết bị cảm ứng nhiệt và dễ bị báo động nhầm. Tuy nhiên, nếu được lựa chọn và thiết kế phù hợp, chúng vẫn có thể là những thiết bị đáng tin cậy với khả năng báo động nhầm rất thấp. - Các thiết bị phát hiện ngọn lửa: Đây là phương pháp thứ
  33. ba trong các phương pháp phát hiện cháy tự động, được thiết kế phỏng theo thị giác của con người. Chúng hoạt động nguyên lý tia hồng ngoại, tử ngoại hoặc kết hợp cả hai nguyên lý này. Nếu nguồn bức xạ có nhiệt độ từ 4.000 đến 7.700 Angstrom xuất hiện, thiết bị cảm ứng sẽ coi đây là dấu hiệu cháy và gửi tín hiệu báo động đến bảng điều khiển. Thiết bị này có ưu điểm là cực kỳ chính xác trong môi trường khắc nghiệt. Chúng thường được sử dụng trong các ứng dụng vận tải và năng lượng có giá trị lớn do các loại thiết bị khác rất dễ báo động nhầm. Những nơi sử dụng phổ biến khác là ở nơi bảo dưỡng máy bay, các trạm bảo dưỡng di động, trong các nhà máy lọc hoá, các phòng nạp nhiên liệu và hầm mỏ. Tuy nhiên, hạn chế của chúng là việc bảo dưỡng rất đắt và tốn nhân lực. Các thiết bị này phải được đặt đối diện với các nguồn có thể gây cháy trong khi các thiết bị cảm ứng nhiệt và thiết bị báo khói có thể nhận ra các dấu hiệu di chuyển của đám cháy. Do vậy, việc sử dụng các thiết bị này để bảo vệ tài sản văn hoá là giới hạn. 2.4. Các thiết bị “đầu ra” (các thiết bị báo cháy) Khi nhận được tín hiệu báo cháy, bảng kiểm soát phải thông báo cho con người biết rằng đang có tình trạng
  34. khẩn cấp. Và đây là chức năng chính của bộ phận đầu ra trong một hệ thống. Có nhiều loại thiết bị báo động bằng hình và âm thanh và chúng chính là các thiết bị báo động đầu ra. Trong đó, chuông báo động là thiết bị báo động bằng âm thanh phổ biến và quen thuộc nhất, phù hợp với hầu hết các toà nhà. Còi báo động cũng có thể được lựa chọn nhưng nó hay được dùng ở những khu vực cần âm thanh báo động lớn như kho sách thư viện, hoặc là ở những toà nhà đòi hỏi cao về mặt thẩm mỹ nên thiết bị báo động cần phải được che khuất một phần. Các đoạn nhạc được dùng ở những nơi cần âm thanh nhẹ nhàng như ở các cơ sở y tế hay nhà hát. Loại thứ tư là âm báo động do người đọc, đây là những đoạn tin được ghi âm và lặp đi lặp lại. Nó rất phù hợp với các toà nhà lớn, nhiều tầng, cần sơ tán từng khu vực khi có hoả hoạn và nó góp phần làm tăng tính hiệu quả của những thông báo khẩn cấp nơi công cộng. Bên cạnh các thiết bị báo động bằng âm thanh, có nhiều loại thiết bị báo động bằng hình như các loại đèn báo chớp tắt. Loại thiết bị này được dùng ở các khu vực quá ồn ào đến nỗi người ta khó có thể nghe được âm thanh báo động hoặc ở những nơi có người khiếm thính. Những đạo luật như Đạo luật về Người tàn tật Mỹ (ADA) quy định phải lắp đặt thiết bị báo động bằng hình ở nhiều địa điểm như bảo tàng, thư viện hoặc
  35. địa danh lịch sử. Một chức năng quan trọng nữa của thiết bị đầu ra là chức năng yêu cầu trợ giúp khẩn cấp. Thường là nó sẽ truyền tín hiệu radio hay tín hiệu điện thoại tự động đến trung tâm giám sát của nhân viên bảo vệ. Nhận được báo động đó, trung tâm này sẽ liên hệ với trạm cứu hoả và thông báo cho họ về khu vực xảy ra cháy. Trong nhiều trường hợp, trung tâm giám sát có thể là đồn cảnh sát, trạm cứu hoả hoặc trung tâm 911. Ngoài ra, nó cũng có thể là 1 tổ chức giám sát tư nhân có hợp đồng với tổ chức đó. Còn đối với các tổ chức bảo tồn di sản văn hoá, phòng an ninh của tổ chức thường đảm nhận nhiệm vụ là trung tâm giám sát. 2.5. Tổng kết Có nhiều lựa chọn trong việc thiết kế hệ thống phát hiện và cảnh báo hoả hoạn cho một toà nhà. Tính tối ưu của loại hệ thống cùng với các thiết bị kèm theo phụ thuộc vào cấu trúc và giá trị của toà nhà, (các) chức năng của nó, những người làm việc bên trong toà nhà, các tiêu chuẩn yêu cầu, giá trị của các vật thể được lưu giữ và chức năng nhiệm vụ của tổ chức đó. Việc liên hệ với một kỹ sư hoặc chuyên gia về phòng chống hoả hoạn, những người nắm rõ các vấn đề về hoả hoạn, các loại thiết bị phát hiện và cảnh
  36. báo khác nhau thường được coi là bước cần thiết đầu tiên để xác định được loại hệ thống phù hợp. 3. Hệ thống ống phun nước 3.1. Giới thiệu Đối với hầu hết các đám cháy, nước là tác nhân dập lửa hữu hiệu nhất. Các vòi này phun nước trực tiếp vào ngọn lửa, làm nguội bớt đám cháy và ngăn không cho các vật dễ cháy bên cạnh không bắt lửa. Chúng có hiệu quả nhất khi đám cháy mới ở giai đoạn hình thành, tương đối dễ kiểm soát. Một hệ thống vòi phun đúng quy cách sẽ phát hiện ra sức nóng của ngọn lửa, báo động và phun nước dập lửa chỉ trong một vài phút sau khi ngọn lửa xuất hiện. Trong hầu hết các trường hợp, hệ thống này kiểm soát ngọn lửa chỉ trong vòng vài phút sau khi được kích hoạt, và cho hiệu quả tốt, hạn chế thiệt hại hơn nhiều so với trường hợp không có hệ thống ống phun. Ưu điểm của hệ thống ống phun là: - Xác định và kiểm soát tức thì một đám cháy đang lan: Các hệ thống phun nước luôn trong tư thế sẵn sàng, kể cả khi có ít người trong toà nhà. Phản ứng của nó với hoả hoạn hầu như tức thời.
  37. - Lập tức cảnh báo: kết hợp với hệ thống báo cháy của toà nhà, hệ thống phun nước tự động sẽ thông báo ngay cho những người trong toà nhà và nhân viên bảo vệ về đám cháy. - Hạn chế thiệt hại do sức nóng và khói gây nên: Hiển nhiên là nếu đám cháy bị dập tắt ngay ở giai đoạn đầu thì nó sẽ tạo ra ít khói và nhiệt hơn. - Đảm bảo an toàn cho con người: Do đám cháy được ngăn chặn nên các nhân viên, khách tham quan và những người cứu hoả sẽ chịu ít nguy hiểm hơn. - Linh hoạt trong thiết kế: Các hệ thống lối ra và ba-ri-e chống khói/lửa được sử dụng hạn chế hơn do các biện pháp quản lý hoả hoạn ban đầu đã cho phép giảm những hệ thống này. Nhiều quy định về xây dựng và phòng chống hoả hoạn đã cho phép sự linh hoạt trong thiết kế và hoạt động dựa trên sự tồn tại của 1 hệ thống vòi phun. - Tăng cường an ninh: Do hệ thống vòi phun kiểm soát được nguy cơ cháy một cách hữu hiệu, giảm thiểu những cơ hội trộm cắp và đột nhập khi có hoả hoạn nên nó giúp giảm bớt yêu cầu về lực lượng an ninh. - Giảm bớt chi phí bảo hiểm: Hoả hoạn ở khu vực có hệ thống ống phun nước gây thiệt hại ít hơn so với các khu
  38. vực không có hệ thống này. Người bảo hiểm có thể giảm bớt tiền đóng bảo hiểm cho những tài sản được hệ thống này bảo vệ. 3.2. Các bộ phận và hoạt động của hệ thống ống phun nước Hệ thống ống phun nước này là một tập hợp các ống nước với một nguồn cung cấp nước ổn định. ở những khoảng cách nhất định trên các ống này, người ta lựa chọn và đặt các van độc lập, được kích hoạt khi nhiệt độ lên cao. Chúng có dạng như những vòi hoa sen, có nhiệm vụ phun nước vào đám cháy. Hầu hết các hệ thống này đều có chuông báo động để cảnh báo cho những người trong toà nhà và đội bảo vệ khi vòi phun được khởi động (khi đám cháy xảy ra). Trong giai đoạn đầu của đám cháy, sức nóng tương đối thấp nên chưa thể kích hoạt hệ thống vòi phun. Tuy nhiên, khi đám cháy mạnh lên, sức nóng tăng (thường là khi vượt quá 57-107 độ C hay 135-225 độ F) sẽ làm biến dạng các bộ phận cảm ứng của vòi phun. Nếu như đám cháy ngày càng lớn, nhiệt độ tiếp tục tăng thì sau khoảng 30-120 giây, sức nóng sẽ làm giãn bộ phận cảm ứng, mối hàn ở đầu vòi phun bong ra và nước sẽ phun vào đám cháy. Trong hầu hết các trường hợp, chỉ cần 1 vòi phun đã có
  39. thể kiểm soát được đám cháy. Nhưng với trường hợp đám cháy bùng phát nhanh (như khi có các chất lỏng dễ bắt lửa) thì có thể cần đến 12 vòi. Ngoài những hoạt động thông thường như trên, hoạt động của hệ thống vòi phun có thể được liên kết để khởi động các thiết bị báo động trong toà nhà, dừng máy móc và các thiết bị chạy điện, đóng các cửa và van cứu hoả hay làm ngừng một số quá trình. Khi nhân viên cứu hoả đến, họ sẽ xem xét xem hệ thống đã hoàn toàn kiểm soát được đám cháy hay chưa. Nếu kết quả là tốt thì họ sẽ đóng van nước để hạn chế những thiệt hại mà nước có thể gây ra. Vào lúc này, các nhân viên khác đã được phép vào khu vực hoả hoạn và làm nhiệm vụ thu dọn. 3.3. Các bộ phận và loại hệ thống Các bộ phận cơ bản của một hệ thống vòi phun là các vòi phun, hệ thống ống dẫn, và một nguồn nước đáng tin cậy. Hầu hết các hệ thống đều cần một thiết bị báo động, các van kiểm soát hệ thống và các phương tiện để kiểm tra các thiết bị trên. Các vòi của hệ thống làm nhiệm vụ phun nước vào một khu vực cháy nhất định (diện tích thường là 14-21m2 hay
  40. 150-225ft2), mỗi vòi phun hoạt động ở mức cảm ứng nhiệt thực tế tại khu vực đó. Cấu tạo của nó gồm 1 khung, đầu nối cảm ứng nhiệt, nắp đậy, lỗ và bộ phận làm lệch. Kiểu dáng của mỗi phần có thể khác nhau nhưng chúng cùng có chung những nguyên tắc cơ bản. - Khung: là phần cấu trúc có nhiệm vụ cố định vòi phun. ống nước được nối vơí vòi phun ở phần đế của khung.Nó còn có tác dụng cố định bộ phận cảm ứng nhiệt và nắp đậy, nâng đỡ bộ phận làm lệch khi phun nước. Có nhiều loại khung như loại chuẩn, nghiêng, nằm ngang, và loại có mép chìm. Một số loại được thiết kế để phun trên khu vực lớn hơn các vòi phun thông thường. Các loại vòi tiêu chuẩn thường có màu đồng, crom, đen và trắng. Vòi trắng được dùng ở những khu vực đòi hỏi tính thẩm mỹ cao. ở những khu vực có độ ăn mòn lớn, các bộ phận của vòi phun được phủ 1 lớp bảo vệ đặc biệt. Việc lựa chọn loại khung nào cần dựa trên kích cỡ, loại hình diện tích của khu vực bảo vệ, những nguy hiểm có thể xảy ra, đặc điểm về tầm nhìn, và các điều kiện về không khí. - Đầu nối cảm ứng nhiệt: là bộ phận kiểm soát việc phun nước. Trong những điều kiện bình thường, đầu nối này giữ cố định bộ phận nắp và ngăn không cho nước chảy ra. Nhưng khi tiếp xúc với nhiệt độ tăng cao, nó yếu dần và
  41. thả lỏng nắp. Các loại đầu nối phổ biến gồm có loại cần kim loại hàn, bóng đèn thuỷ tinh dễ vỡ, viên nối bằng hợp kim hàn. Các loại này đều có độ an toàn như nhau. Sau khi nhiệt độ đạt đến mức cần thiết, hệ thống phun sẽ mất từ 30 giây đến 4 phút để có thể hoạt động. Đó là thời gian cần thiết để đầu nối giãn ra và nó phụ thuộc chủ yếu vào vật liệu của đầu nối. Hệ thống vòi phun thông thường cần khoảng 3-4 phút trong khi hệ thống phản ứng nhanh cần ít thời gian hơn nhiều. Việc lựa chọn mức độ phản ứng của vòi phun tuỳ thuộc vào các nguy cơ tiềm tàng, mức độ thiệt hại có thể chấp nhận và yêu cầu phản ứng mong muốn. Đối với công tác bảo tồn di sản, hệ thống phun nước phản ứng nhanh có những ưu thế vượt trội. Phản ứng của vòi phun với đám cháy càng nhanh thì hệ thống phun càng nhanh được kích hoạt và mức độ thiệt hại càng được giảm bớt. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc bảo đảm an toàn tính mạng con người và những vật thể có giá trị cao. ở đó, mục tiêu cứu hoả là càng nhanh và càng sớm càng tốt. Cần hiểu rằng thời gian phản ứng của vòi phun độc lập với nhiệt độ phản ứng. Một vòi phun phản ứng nhanh sẽ không hoạt động ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ kích hoạt của một vòi phun thông thường.
  42. - Nắp đậy: được đặt ở miệng của vòi phun. Đầu nối cảm ứng nhiệt giữ cố định nắp đậy và nó sẽ rơi khỏi vị trí này khi đầu nối nóng lên, cho phép nước chảy ra. Nắp đậy có thể được chế tạo bằng một kim loại duy nhất hoặc kim loại có phủ men chống dính. - Miệng vòi phun: là phần mằm ở đáy của khung đỡ, có nhiệm vụ phun nước dập lửa. Hầu hết miệng vòi phun có đường kính 15mm (1/2inch) với nhiều loại lỗ to nhỏ khác nhau được sử dụng tuỳ theo nguy cơ cháy là lớn hay nhỏ. - Bộ phận làm lệch: cũng được đặt trên khung đỡ, đối diện với miệng vòi phun. Chức năng của nó là làm đổi hướng dòng nước từ miệng vòi phun theo hướng/ hình hiệu quả hơn. Kiểu dáng của bộ phận làm lệch sẽ quyết định việc vòi phun được lắp đặt thẳng đứng (đặt trên ống), được treo (dưới ống, dưới trần nhà), hoặc đặt trên sàn nhà. Vòi phun phải được lắp đặt đúng như thiết kế để đảm bảo chúng hoạt động hiệu quả. Việc lựa chọn loại vòi phun nào thường phụ thuộc vào yêu cầu xây dựng của toà nhà. Loại vòi phun được sử dụng rộng rãi trong các bảo tàng là loại vòi bật/ tắt. Nguyên tắc hoạt động của sản phẩm này là khi hoả hoạn xảy ra, quá trình phun nước dập lửa cũng tương tự như loại vòi phun tiêu chuẩn. Nhưng khi nhiệt độ căn phòng đã giảm xuống mức an toàn, một chốt lưỡng
  43. kim tự động hình đĩa trong vòi phun sẽ đóng lại và nước ngừng chảy. Nếu sau đó ngọn lửa lại bùng lên thì vòi phun lại tiếp tục hoạt động. Ưu diểm của loại vòi phun này là chúng có khả năng tự đóng và về mặt lý thuyết có thể giúp tiết kiệm nước và giảm mức độ thiệt hại. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là đôi khi thời gian để nhiệt độ trong phòng giảm xuống đủ để vòi phun tự ngắt rất dài. ở các khu vực bảo tồn, cấu tạo toà nhà có độ giữ nhiệt cao khiến cho vòi phun lâu đóng. Trên thực tế, thường thì các lực lượng cứu hoả sẽ tới và có thể đóng các van điều khiển hệ thống vòi phun trước khi chúng tự động ngắt. Giá của hệ thống vòi phun bật tắt tự đồng thường cao gấp 8-10 lần vòi phun thông thường nên nó chỉ hợp lý khi phía bảo hiểm yêu cầu. Do vậy, trong công tác bảo tôn, các vòi phun loại này vẫn được sử dụng rất hạn chế Việc lựa chọn các loại vòi phun phải dựa vào các yếu tố như đặc điểm của nguy cơ cháy, nhiệt độ trong phòng, yêu cầu về thời gian phản ứng, tính nguy hiểm và các yếu tố thẩm mỹ. Trong một khu vực bảo tàng có thể sử dụng đồng thời một số loại vòi phun khác nhau. Mọi hệ thống vòi phun đều cần phải có nguồn cung cấp nước ổn định. ở các khu vực thành thị, nơi cung cấp nước là các địa điểm bơm nước công cộng. Trong khi đó các khu vực nông thôn
  44. thường sử dụng các bể chứa nước tư nhân, hoặc nguồn nước ở sông, hồ. Nếu như yêu cầu về độ ổn định của nguồn nước cao hoặc một nguồn cung cấp nước là không đủ thì có thể sử dụng đồng thời nhiều nguồn khác nhau. Các tiêu chuẩn đánh giá nguồn cung cấp nước gồm: - Nguồn cung cấp nước phải luôn sẵn có vào mọi thời điểm. Do hoả hoạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên nguồn nước cứu hoả phải luôn trong trạng thái sẵn sàng. Nguồn nước được đánh giá theo khả năng chống lại các hỏng hóc về đường ống, áp suất, hạn hán và các yếu tố khác ảnh hưởng đến tính sẵn có của nguồn nước. - Hệ thống phải có nguồn cung cấp nước với áp suất phù hợp. Một hệ thống vòi phun sẽ đặt ra các yêu cầu về lượng nước chảy và áp lực nước đối với hệ thống cung cấp nước. Nguồn cung cấp nước phải đáp ứng được điều này. Nếu không, hệ thống phải được trang bị thêm các thiết bị hỗ trợ khác như bơm cứu hoả hoặc bể chứa nước dự phòng. - Nguồn phải cung cấp đủ nước cho thời gian hoả hoạn dự kiến. Tuỳ theo đám cháy mà hệ thống cần từ vài phút đến hơn một giờ để dập lửa. Nguồn nước được chọn phải có khả năng cung cấp đủ nước để vòi phun có thể hoạt động đến khi dập xong đám cháy.
  45. - Hệ thống cũng phải cung cấp đủ nước cho các vòi cứu hoả cùng hoạt động với hệ thống vòi phun. Khi hoả hoạn xảy ra, hầu hết các lực lượng cứu hoả đều sử dụng vòi rồng cứu hoả để hỗ trợ cho hệ thống vòi phun. Nguồn cung cấp nước cũng phải đủ khả năng cung cấp cho nhu cầu này mà không gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của hệ thống vòi phun. Nước chảy đến vòi phun qua một hệ thống các ống dẫn và khớp nối cố định. Các ống này có thể được làm từ nhiều loại hợp kim thép, đồng, nhựa chịu lửa khác nhau. Thép là vật liệu phổ biến nhất. Các ống thép, đồng và nhựa được sử dụng ở nhiều khu vực nhạy cảm. Khi lựa chọn loại vật liệu làm ống dẫn cần xem xét các điểm cơ bản sau: + Tính dễ lắp đặt: vật liệu càng dễ lắp đặt thì càng ít gây ảnh hưởng đến hoạt động cũng như nhiệm vụ tổ chức. Khả năng lắp đặt một hệ thống mà gây ít xáo trộn nhất là một cân nhắc quan trọng, đặc biệt khi lắp thêm các bộ phận vòi phun ở những khu vực mà hoạt động của nó vẫn tiếp diễn trong quá trình lắp đặt. + So sánh chi phí vật liệu với giá trị của khu vực cần bảo vệ: trong một hệ thống vòi phun, ống dẫn đòi hỏi chi phí
  46. lớn hơn cả. Do đó, nhiều nơi thường giảm chi phí bằng cách sử dụng những ống dẫn làm bằng vật liệu rẻ tiền hơn. Điều đó hoàn toàn có thể chấp nhận được trong một số trường hợp nhất định như trong văn phòng hoặc những khu thương mại. Tuy nhiên trong việc bảo tồn di sản, nơi mà giá trị các vật thể cần bảo vệ vượt xa chi phí của hệ thống vòi phun thì ta cần coi trọng đến sự phù hợp của các ống dẫn hơn là chi phí. + Nhà thầu xây dựng phải quen thuộc với loại vật liệu đó: Cần phải tránh trường hợp sau khi đã lựa chọn nhà thầu và vật liệu ống dẫn rồi mới phát hiện ra nhà thầu không có kinh nghiệm với loại ống dẫn đó. Điều này có thể gây ra nhiều khó khăn trong việc lắp đặt, tăng thêm chi phí và tăng nguy cơ thất bại. Nhà thầu cần thể hiện được kinh nghiệm của họ với loại vật liệu mong muốn trước khi được lựa chọn. + Các yêu cầu và một số khó khăn khác trong việc lắp đặt: Trong một số trường hợp, ví dụ như ở nơi lưu giữ các tác phẩm mỹ thuật, người ta giới hạn thời gian được phép làm việc trong khu vực. Do đó nhiều công việc phải được thực hiện ngoài khu vực đó. Một số loại vật liệu rất phù hợp với tình huống này. + Tính sạch sẽ của vật liệu: Một số loại vật liệu ống dẫn
  47. sạch sẽ hơn khi lắp đặt so với các loại vật liệu khác. Điều đó giúp giảm bớt nguy cơ làm bẩn các bộ sưu tập, các đồ trưng bày hoặc trang trí trong toà nhà. Nhiều vật liệu có khả năng hạn chế những tích tụ trong hệ thống ống nước, mà những cặn bẩn đó có thể phun vào các vật thể trưng bày khi hoả hoạn. Tính sạch sẽ trong thi công lắp đặt và trong khi phun nước cứu hoả cần phải được bảo đảm. + Các đòi hỏi về nhân lực: Một số loại vật liệu nặng hơn và cồng kềnh hơn các loại vật liệu khác. Chúng đòi hỏi nhiều nhân công lắp đặt hơn và vì thế làm tăng chi phí lắp đặt. Nếu như số lượng công nhân xây dựng được phép vào toà nhà bị giới hạn thì những loại vật liệu nhẹ hơn sẽ cho ích lợi hơn. Các ưu nhược điểm của mỗi loại vật liệu cần được xem xét đánh giá trước khi lựa chon loại vật liệu làm đường ống dẫn. Các bộ phận chính khác trong hệ thống vòi phun bao gồm: + Các van điều khiển: Người ta phải có khả năng đóng hệ thống vòi phun lại sau khi đã kiểm soát được đám cháy, hoặc để bảo dưỡng định kỳ hay sửa chữa thay thế. Trong một hệ thống đơn giản nhất, một van khoá được đặt ở nơi
  48. mà nguồn cung cấp nước được nối tới toà nhà. ở các toà nhà lớn hơn thì hệ thống vòi phun có thể được chia ra làm nhiều khu vực, mỗi khu vực do một van điều khiển. Các van này cần được đặt ở những vị trí dễ xác định để có thể hỗ trợ kịp thời cho các nhân viên cứu hoả. + Chuông báo: Các chuông này sẽ cảnh báo những nhân viên làm việc trong toà nhà và các lực lượng cứu hoả khi hệ thống vòi phun bắt đầu hoạt động. Các chuông báo đơn giản nhất là những chuông đĩa hoạt động nhờ lực đẩy của nước. Với những toà nhà lớn, các công tắc hoạt động nhờ dòng điện và áp lực được nối với hệ thống báo cháy của toà nhà được dùng phổ biến hơn. Các chuông này cũng dùng để cảnh báo cho nhân viên quản lý toà nhà khi van phun nước đã đóng. + ống thoát nước và các kiểm tra kết nối: Hầu hết các hệ thống vòi phun đều có hệ thống thoát nước dành cho việc bảo dưỡng hệ thống. Các ống thoát này phải được lắp đặt phù hợp để loại bỏ hết nước khỏi hệ thống vòi phun và ngăn không cho nước dò rỉ vào các khu vực được bảo vệ trong quá trình bảo dưỡng. Nên lắp đặt các ống này ở nơi xa nguồn cung cấp nước để khi bảo quản có thể xối nước loại bỏ rác rưởi trong đường ống một cách hiệu quả. Các kiểm tra kết nối thường được tiến hành để kích thích hoạt
  49. động của vòi phun, và nhờ vậy kiểm tra điều kiện hoạt động của các chuông báo. Chúng thường được tiến hành 6 tháng một lần. + Các van đặc biệt: Các hệ thống vòi phun cảm ứng và hệ thống đường ống khô đòi hỏi phải có các van kiểm soát đặc biệt và phức tạp, được thiết kế để ngăn nước không cho chảy vào hệ thống ống đẫn khi chưa cần thiết. Những van này đi kèm với thiết bị bảo dưỡng nén khí và các hệ thống hoạt động khẩn cấp. + Các kết nối vòi rồng cứu hoả: Các nhân viên cứu hoả thường trợ giúp hệ thống vòi phun bằng cách lắp đặt các kết nối vòi rồng này với hệ thống vòi phun. Khi thiết kế hệ thống vòi phun nói chung cần tính đến cả nhu cầu về cung cấp nước cho chúng nhằm tránh ảnh hưởng xấu đến hoạt động của hệ thống. 3.4. Các loại hệ thống Có 3 loại hệ thống vòi phun cơ bản là hệ thống đường ống khô, đường ống ướt và hệ thống cảm ứng. Mỗi loại có những ứng dụng riêng phụ thuộc vào nhiều điều kiện đa dạng như nguy cơ hoả hoạn tiềm tàng, mức độ lan nhanh dự kiến của đám cháy, lượng nước cung cấp, các điều kiện bên ngoài và yêu cầu phản ứng của hệ thống. Với những
  50. ứng dụng đa chức năng như các thư viện hoặc viện bảo tàng lớn thì có thể sử dụng từ 2 hệ thống trở lên. Hệ thống đường ống ướt là hệ thống vòi phun phổ biến nhất. Đúng như tên gọi của nó, hệ thống đường ống ướt là một hệ thống mà luôn có nước trong đường ống vòi phun. Khi một vòi phun hoạt động thì ngay lập tức nước được phun vào đám cháy. Các ưu điểm của hệ thống đường ống ướt là: + Tính đơn giản và đáng tin cậy của hệ thống: Các hệ thống này có ít các bộ phận cấu thành nhất và do đó là hệ thống có ít các bộ phận có thể hỏng hóc nhất. Nó tạo cho hệ thống tính tin cậy vượt trội. Đặc tính này rất quan trọng vì các vòi phun có thể chờ nhiều năm mới có cơ hội hoạt động. Tính đơn giản về mặt thiết bị này cũng rất quan trọng nếu như hệ thống không được bảo dưỡng thường xuyên đúng tiêu chuẩn. + Chi phí lắp đặt và bảo dưỡng tương đối thấp: Do tính đơn giản của toàn bộ hệ thống nên hệ thống này đòi hỏi hơi ít thời gian và chi phí lắp đặt. Thời gian bảo dưỡng nói chung cũng ít hơn so với các loại hệ thống khác nên tiết kiệm được chi phí bảo dưỡng. Những tiết kiệm này có ý nghĩa quan trọng khi ngân sách bảo dưỡng đang cạn dần.
  51. + Dễ thay đổi: Các tổ chức bảo tồn di sản hay có rất nhiều thay đổi về không gian hoạt động và trưng bày. ở đây, hệ thống đường ống ướt cho thất những ưu điểm vượt trội do việc thay đổi bao gồm đóng nguồn cung cấp nước, các ông thoát nước Sau đó, hệ thống được kiểm tra và khôi phục, tránh được việc phát hiện và sử dụng các thiết bị kiểm soát đặc biệt, và một lần nữa lại tiết kiệm được thời gian và chi phí. + Thời gian ngừng sau đám cháy: hệ thống ống ướt đòi hỏi ít công sức khôi phục lại nhất. Trong hầu hết các trường hợp, chỉ cần khôi phục sự bảo vệ của hệ thống bằng cách thay thế các vòi phun và mở nguồn cung cấp nước. Các hệ thống còn lại cần nhiều công sức lắp đặt lại các thiết bị điều khiển hơn. Nhược điẻm chính của hệ thống này là chúng không phù hợp với điều kiện môi trường quá lạnh, do ở những nơi này (ví dụ như một số nhà kho) đường ống nước dễ bị hỏng nặng. Những ưu điểm của các hệ thống này khiến cho chúng được sử dụng phổ biến ở các ứng dụng bảo tồn di sản. Chúng là sự lựa chọn để bảo vệ cho các toà nhà có ý nghĩa lịch sử, thư viện, bảo tàng với rất ít ngoại lệ.
  52. Loại hệ thống thứ hai là hệ thống đường ống khô. Trong các ống này chứa đầy không khí hoặc khí nitơ nén, có nhiệm vụ giữ một van ở trạng thái đóng. Van ống khô này được đặt trong khu vực có nhiệt độ cao, ngăn không cho nước chảy vào đường ống cho đến khi đám cháy kích hoạt một hoặc nhiều vòi phun. Khi đó, không khí thoát ra và van này mở ra. Nước tràn vào đường ống, chảy qua các vòi phun vào đám cháy. Ưu điểm chủ yếu của các hệ thống vòi phun đường ống khô là chúng có khả năng bảo vệ tự động ở những khu vực được đóng băng. Chúng thường được lắp đặt ở các nhà kho, gác mái không có hệ thống sưởi ấm, các cảng chất hàng, và trong các kho hàng thương mại. Nhiều nhà quản lý các viện bảo tàng thấy rằng các vòi phun đường ống khô cho những lợi thế vượt trội khi bảo vệ các bộ sưu tập và các khu vực nhạy cảm với nước khác. Vì rõ ràng là hệ thống đường ống dẫn ướt khi bị hư hỏng có thể gây rò rỉ trong khi các đường ống khô không gặp trục trặc này. Tuy nhiên, trong những trường hợp đó, hệ thống đường ống khô không còn điểm nào vượt trội hơn so với hệ thống đường ống ướt nữa. Khi vòi phun hoạt động, phải mất một vài phút để khí trong đường ống được xả ra hết trước khi nước chảy.
  53. Những hệ thống này cũng có một số nhược điểm cần được đánh giá trước khi lựa chọn hệ thống, bao gồm: + Phức tạp hơn: Các hệ thống ống khô cần lắp đặt thêm các thiết bị điều khiển cũng như các bộ phận cung cấp khí nén, làm tăng tính phức tạp của hệ thống. Nếu không được bảo dưỡng tốt thì sử dụng hệ thống này sẽ không được yên tâm như hệ thống đường ống ướt. + Chi phí lắp đặt và bảo dưỡng cao hơn: Tính phức tạp cũng ảnh hưởng đến chi phí lắp đặt của toàn bộ hệ thống, tăng chi phí bảo dưỡng, trước hết là chi phí thuê nhân công nhiều hơn. + Tính linh hoạt trong thiết kế giảm: Các hệ thống đường ống khô phải tuân thủ các quy định chặt chẽ về kích thước tối đa (thường là 750 galông). Những hạn chế này có thể khiến nhà quản lý gặp khó khăn trong việc lắp đặt thêm cho hệ thống. + Làm tăng thời gian cần thiết để hệ thống phun nước cứu hoả: hệ thống có thể mất tới 60 giây từ khi các vòi phun được khích hoạt đến khi nước phun vào đám cháy. Điều này sẽ làm chậm hoạt động dập lửa khiến cho tổn thất có thể tăng thêm. + Làm tăng khả năng ăn mòn: Sau khi hoạt động, các hệ
  54. thống vòi phun đường ống khô phải được thoát nước và làm khô hoàn toàn. Nếu không, lượng nước còn lại trong đường ống có thể ăn mòn và gây hỏng đường ống. Trong khi đó, đối với hệ thống đường ống ướt thì đây không phải là một hạn chế và luôn có nước trong hệ thống ống dẫn. Loại trừ ở các khu vực không được sưởi ấm và các phòng làm lạnh, các hệ thống đường ống khô không còn bất cứ ưu điểm nào vượt trội hơn các hệ thống đường ống ướt. Do đó, chúng thường không được sử dụng trong các khu vực bảo tồn. Loại hệ thống vòi phun thứ 3 là hệ thống cảm ứng: Nó được cấu tạo trên nguyên tắc cơ bản của hệ thống đường ống khô là thông thường, không có nước trong các ống dẫn. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở đây là nước được ngăn không cho chảy vào ống dẫn nhờ một van điện, còn được gọi là van cảm ứng. Van này hoạt động khi nó tự phát hiện ra nguồn khói, nhiệt hay lửa một cách độc lập. Để vòi phun phun nước cần có đủ hai yếu tố riêng lẻ đó. Trước hết, hệ thống phát hiện hoả hoạn phải xác định được một đám cháy đang phát triển rồi mở van cảm ứng, cho phép nước chảy vào trong hệ thống đường ống và tạo ra một hệ thống đường ống ướt một cách hiệu quả. Sau đó, các đầu vòi phun mở ra để nước phun vào đám cháy.
  55. ở một số trường hợp, hệ thống cảm ứng được thiết kế thêm đặc tính liên động theo đó khí nén hoặc khí nitơ được bơm vào hệ thống đường ống. Nó cho hai hiệu quả cùng lúc đó là ngăn không cho nước dò rỉ và giữ nước không chảy vào hệ thống ống dẫn khi phát hiện nhầm sự kiện cháy. Do vậy, hệ thống này được ứng dụng phổ biến trong các nhà kho làm lạnh. Ưu điểm vượt trội của hệ thống này là để nước chảy cần phải có hai hành động xảy ra là van cảm ứng phải hoạt động và đầu vòi phải phun nước. Nó làm tăng mức độ bảo vệ, tránh phun nước trong trường hợp báo động giả. Vì vậy, các hệ thống này thường được sử dụng trong những môi trường nhạy cảm với nước như các hầm lưu trữ tư liệu, các phòng lưu giữ mỹ thuật, các thư viện lưu giữ sách quý và các trung tâm máy tính. Nhưng hệ thống cũng có một số hạn chế như: + Chi phí lắp đặt và bảo dưỡng cao hơn: hệ thống cảm ứng phức tạp hơn vì nó có thêm nhiều bộ phận thiết bị, đặc biệt là hệ thống phát hiện hoả hoạn, khiến tổng chi phí nói chung tăng lên. + Khó khăn trong thay đổi nâng cấp: Cũng như hệ thống đường ống khô, hệ thống vòi phun cảm ứng cũng bị giới
  56. hạn về kích cỡ, ảnh hưỏng đến việc nâng cấp hệ thống trong tương lai. Hơn nữa, các thay đổi về hệ thống có thể gây biến đổi trong hệ thống phát hiện và kiểm soát hoả hoạn khiến hệ thống này hoạt động không chuẩn xác. + Tính bất ổn tiềm tàng: Mức độ phức tạp cao trong hệ thống này khiến cho một bộ phận nào đó có thể không hoạt động khi cần thiết. Do đó, để bảo đảm tính ổn định của hệ thống cần phải bảo dưỡng thường xuyên. Bởi vậy, nếu như ban quản lý của tổ chức quyết định lắp đặt hệ thống bảo vệ này thì đồng thời họ phải cam kết sử dụng những thiết bị có chất lượng cao nhất cũng như duy trì hệ thống theo đúng những yêu cầu đặt ra của nhà sản xuất. Các khu vực bảo tồn di sản có thể sử dụng hệ thống này chủ yếu là ở những nơi nhạy cảm với nước nếu phù hợp. Sự khác biệt giữa các loại vòi phun cảm ứng là ở hệ thống van khoá nước. Về cơ bản nó là một hệ thống cảm ứng gồm các vòi phun mở. Khi hệ thống phát hiện hoả hoạn hoạt động, nó sẽ thả lỏng van khoá nước và lập tức đưa nước chảy qua tất cả các vòi phun vào một khu vực nhất định. Ta thường thấy các ứng dụng của các loại hệ thống van khoá này ở các khu công nghiệp đặc biệt như viện nghiên cứu hàng không và các nhà máy hoá chất. Chúng ít được dùng và không khuyến khích sử dụng trong các tổ
  57. chức bảo tồn. Ngoài ra, các hệ thống cảm ứng còn khác nhau ở hệ thống bật/ tắt, hệ thống này tận dụng cấu trúc sắp xếp cơ bản của hệ thống cảm ứng, cùng với bảng điều khiển báo động một máy dò nhiệt. Hệ thống này hoạt động giống như bất kỳ một hệ thống vòi phun cảm ứng nào khác, chỉ khác là sau khi dập được lửa, một thiết bị biến nhiệt sẽ tự làm mát để bảng điều khiển ra lệnh đóng van nước. Nếu như đám cháy lại bùng lên thì hệ thống sẽ vận hành trở lại. Trong nhiều ứng dụng nhất định, hệ thống bật/tắt tỏ ra rất có hiệu quả. Tuy nhiên, ta vẫn cần cẩn thận khi lựa chọn các thiết bị trên để chắc chắn rằng chúng hoạt động đạt hiệu quả mong muốn. ở hầu hết các khu đô thị, các đội cứu hoả thường đến trước khi hệ thống tự ngắt, do vậy những khả năng ngắt của hệ thống không còn là một lợi thế. 3.5. Các vấn đề về vòi phun Trên thực tế tồn tại 1 số hiểu lầm về hệ thống vòi phun nên các nhà quản lý và điều hành các toà nhà bảo tồn di sản ngần ngại khi sử dụng hệ thống vòi phun cho mục đích phòng chống hoả hoạn, đặc biệt là ở khu vực lưu giữ các bộ sưu tập hay các khu vực nhạy cảm với nước.
  58. + Khi một vòi phun hoạt động thì tất cả các vòi phun khác cũng hoạt động theo: Trừ trường hợp hệ thống vòi phun có van khoá nước (sẽ được giải thích sau trong tài liệu này), chỉ những vòi phun nào tiếp xúc trực tiếp với nhiệt độ cao do đám cháy gây ra mới hoạt động. Theo số liệu thống kê, khoảng 61% trường hợp hoả hoạn ở những nơi có lắp đặt hệ thống vòi phun được dập tắt bởi 1 hoặc 2 vòi phun mà thôi. + Các vòi phun hoạt động khi tiếp xúc vói khói: Các vòi phun hoạt động khi các bộ phận cảm ứng của chúng tiếp xúc với nhiệt độ cao. Trong trường hơp chỉ có khói mà không cao nhiệt độ cao thì hệ thống cũng không hoạt động. + Các hệ thống vòi phun sẽ nhanh bị rò rỉ hoặc dễ bị trục trặc: Các số liệu bảo hiểm cho thấy tỷ lệ hỏng của hệ thống này là 1/16.000.000 vòi phun được lắp đặt 1 năm. Các bộ phận và hệ thống vòi phun là những phần được kiểm tra thường xuyên nhất trong một toà nhà. Do vậy, khả năng 1 hệ thống đúng tiêu chuẩn gặp trục trặc là rất hãn hữu. Nếu trục trặc xảy ra, thường đó là hậu quả của việc thiết kế, lắp đặt, hoặc bảo dưỡng không đúng. Vì thế, để tránh những trục trặc này, tổ chức cần phải lựa chọn kỹ càng
  59. người chịu trách nhiệm lắp đặt và phải cam kết tuân thủ quy trình bảo dưỡng. + Khi vòi phun hoạt động, nước sẽ phun mạnh làm hư hại các vật thể và cấu trúc trưng bày: Điều này có thể xảy ra khi 1 vòi phun hoạt động. Tuy nhiên, khi so sánh với các phương pháp dập lửa khác thì nó không nghiêm trọng bằng. Một vòi phun thông thường sẽ phun khoảng 100-250 GPM. Như vậy, vòi phun thường gây ít tổn thất hơn. Hơn nữa, do vòi phun hoạt động trước khi đám cháy bùng phát lớn nên tổng khối lượng nước cần thiết sẽ ít hơn so với trường hợp cứ để đám cháy tiếp diễn cho tới khi cứu hoả tới. Bảng sau so sánh lượng nước sử dụng của các phương pháp dập lửa tự động hoặc thủ công khác nhau: Bảng 31. Lượng nước sử dụng cho cứu hoả Phương pháp ứng dụng Lít/phút Gallon/phút Bình cứu hoả cầm tay 10 2,5 Vòi phun nước cá nhân cầm tay 380 100
  60. Hệ thống vòi phun (1) 95 25 Hệ thống vòi phun (2) 180 47 Hệ thống vòi phun (3) 260 72 Đội cứu hoả, vòi rồng đơn đường 380 100 kính 1,5 inch Đội cứu hoả, vòi rồng đôi đường kính 760 200 1,5 inch Đội cứu hoả, vòi rồng đơn đường 950 250 kính 2,5 inch Đội cứu hoả, vòi rồng đôi đường kính 1900 500 2,5 inch Điểm cuối cùng cần xem xét là những hư hại do vòi phun nước gây ra có thể sửa chữa hay phục hồi được không. Nhưng cần lưu ý rằng những vật đã bị cháy thì không thể khôi phục được.
  61. + Hệ thống vòi phun trông rất xấu, ảnh hưởng đến thẩm mỹ của công trình: Phải thừa nhận rằng có những hệ thống được thiết kế rất cẩu thả và nêu ra ý kiến trên có thể là người đã nhìn thấy hệ thống này. Tuy nhiên, các hệ thống vòi phun hoàn toàn có thể được thiết kế và lắp đặt mà không ảnh hưởng đến yêu cầu thẩm mỹ. Để đảm bảo hệ thống được thiết kế phù hợp, nhà quản lý cũng như nhóm nhân viên thiết kế phải đóng vai trò tích cực trong việc lựa chọn những thiết bị bên ngoài. Hệ thống đường ống phải được thiết kế ẩn đi hoặc có phần trang trí bên ngoài. Chỉ nên sử dụng những vòi phun được thiết kế đẹp, chất lượng cao. Thông thường, ngoài danh mục màu sắc vòi phun nhất định, nhà cung cấp cũng sản xuất những vòi phun có màu mà người mua yêu cầu. Ngoài ra, nhà lắp đặt hệ thống cũng cần phải hiểu được tính thẩm mỹ trong xây dung. Để đảm bảo thành công chung của kế hoạch, nhà thiết kế hệ thống vòi phun phải nhận thức được những mục tiêu bảo vệ, hoạt động và cả những nguy cơ hoả hoạn của tổ chức. Người này phải nắm rõ những yêu cầu của hệ thống và phải linh hoạt để tìm ra giải pháp phù hợp và toàn diện cho những khu vực có yêu cầu cao về tính thẩm mỹ hoặc quy định thi công và anh ta phải có kinh nghiệm thiết kế hệ thống trong các ứng dụng có yêu cầu cao về mặt kiến
  62. trúc. Về mặt lý thuyết, nhà lắp đặt hệ thống phải có kinh nghiệm trong các ứng dụng bảo tồn di sản. Tuy nhiên, ta cũng có thể lựa chọn nhà thầu lắp đặt có kinh nghiệm trong các ứng dụng nhạy cảm với nước như viễn thông, dược phẩm hay chế tạo công nghệ cao. Các công ty lớn như AT&T, Bristol Meyers Squibb và IBM có những đòi hỏi rất chặt chẽ về lắp đặt hệ thống vòi phun. Nếu như 1 nhà thầu chứng tỏ được họ đã thành công với những tổ chức như trên thì họ cũng có khả năng thoả mãn những yêu cầu của 1 tổ chức bảo tồn. Các thiết bị vòi phun được lựa chọn phải do 1 nhà sản xuất có uy tín cung cấp (mà nhà sản xuất này phải có kinh nghiệm đối với những vấn đề đặc biệt về nước). Sự khác biệt về chi phí mua thiết bị chất lượng trung bình và thiết bị chất lượng tốt nhất là không đáng kể mà lợi ích lâu dài mới là điều quan trọng. Nếu xét về giá trị của nơi lưu giữ và các vật thể được lưu giữ thì một khoản chi phí thêm cũng là xứng đáng. Nếu được lựa chọn, thiết kế và bảo dưỡng phù hợp thì các hệ thống vòi phun sẽ không gây ra tác động tiêu cực nào. nếu như nhà quản lý hoặc đội thiết kế không có kinh nghiệm lựa chọn hệ thống phù hợp thì tốt nhất nên mời 1
  63. kỹ sư chuyên về phòng chống hoả hoạn có kinh nghiệm về ứng dụng bảo tồn. 3.6. Hệ thống vòi phun sương Một trong những công nghệ dập lửa tự động nhiều triển vọng nhất là hệ thống phun nước hạt nhỏ mới xuất hiện gần đây, còn gọi là hệ thống vòi phun sương. công nghệ này cũng là một công cụ dập lửa tự động và được sử dụng trong các ứng dụng bảo vệ tài sản văn hoá. Những nơi có thể sử dụng hệ thống này là những khu vực không có nguồn cung cấp nước đảm bảo, những nơi nước phun quá mạnh hoặc những nơi mà yêu cầu về xây dựng và thẩm mỹ ảnh hưởng đến việc sử dụng các vòi phun có hướng phun đúng tiêu chuẩn. Các hệ thống phun sương có thể là giải pháp phù hợp đối với những khoảng không bảo vệ do những yêu cầu về môi trường. Công nghệ phun sương được hình thành bắt nguồn từ những yêu cầu sử dụng ngoài khơi như trên tàu thuỷ hoặc giàn khoan dầu. Cả 2 ứng dụng này đều đặt ra yêu cầu kiểm soát những đám cháy lớn đồng thời phải hạn chế được lượng nước phun ra (vì nó có thể ảnh hưởng đến sự cân bằng của tàu). Do vậy, những hệ thống này được nhiều tổ chức đường biển trong nước và quốc tế ủng hộ và giữ vai trò là hệ thống bảo vệ chuẩn trong vòng 8-10 năm
  64. qua. Hiệu quả của chúng đối với các vụ hoả hoạn trên biển và trong một số ứng dụng trên đất lion (chủ yếu ở châu Âu) đã được ghi nhận. Gần đây, một số hệ thống cho các ứng dụng trên đất lion ở Bắc Mỹ cũng đã được chấp nhận. Hệ thống này phun ra lượng nước nhất định có áp suất cao hơn hệ thống vòi phun nước. Áp suất này dao động trong khoảng 100 đến 1000 psi, với những hệ thống áp suất cao hơn thường tạo ra số lượng tia xịt lớn hơn nhiều. Những hạt “sương” được phun ra có đường kính từ 50- 200 micro mét (so với 600-1000 micro mét của hệ thống vòi phun nước thông thường), cho hiệu quả vượt trội trong việc làm dịu bớt và kiểm soát đám cháy với lương nước ít hơn nhiều. Trong hầu hết các trường hợp, các đám cháy được kiểm soát với lượng nước xấp xỉ 10-25% lượng nước dùng cho hệ thống vòi phun nước. Hệ thống đủ nước hoạt động cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt quy trình cứu hoả. Những lợi ích khác của hệ thống này giảm tác động tiêu cực đến những giá trị thẩm mỹ và tiêu chuẩn an toàn môi trường. Một hệ thống phun sương điển hình bao gồm những bộ phận sau: + Nguồn cung cấp nước: Nguồn cung cấp nước cho hệ thống có thể là hệ thống bơm nước của toà nhà hoặc là bể
  65. chứa nước riêng. trong 1 số trường hợp, những hệ thống công suất thấp có thể sử dụng hệ thống đường ống vòi phun hiện có. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp đều cần đến các máy bơm bổ sung. Ngoài ra, cũng có thể sử dụng những thùng chứa nước hoặc nitơ để cung cấp nước trong một thời gian ngắn. + Hệ thống ống dẫn và miệng vòi: hệ thống ống dẫn ở đây có thể được giảm xuống đáng kể. Với người hệ thống áp suất thấp, các ống thường nhỏ hơn từ 25-50%. Trong những hệ thống áp suất lớn hơn, các ống này còn nhỏ hơn nữa (ống tiêu chuẩn là 12,7-17,78 mm). Cũng giống như vòi phun, các miệng vòi được kích hoạt riêng rẽ khi tiếp xúc với nhiệt độ cao của đám cháy. Kích cỡ của chúng được lựa chọn phụ thuộc vào kích cỡ phần ống và tuỳ theo nguy cơ cháy. + Thiết bị dò và kiểm soát: Trong một số trường hợp, các thiết bị phát hiện thông minh, có độ tin cậy cao hoặc hệ thống phát hiện khói công nghệ cao VESDA có thể kiểm soát được việc phun sương. Chúng được thiết kế dựa trên công nghệ phát hiện hoả hoạn tiên tiến và tối ưu nhất, có khả năng cảnh báo cháy ngay ở giai đoạn đầu, cũng như hạn chế khả năng phun nước khi không có cháy. Một trong những hạn chế chính của hệ thống phun sương
  66. là chi phí cao, gấp 1,5-2 lần hệ thống vòi phun tiêu chuẩn. Tuy nhiên, chi phí này có thể được giảm bớt do tiết kiệm được chi phí nhân công lắp đặt. ở những vùng nông thông, là nơi những nguồn cung cấp nước đáng tin cậy cho hệ thống vòi phun rất tốn kém thì hệ thống phun sương tỏ ran ngang bằng hoặc thậm chí ít tốn kém hơn hệ thống vòi phun tiêu chuẩn. Ngoài ra, một hạn chế nữa của hệ thống này là không có nhiều bộ phận đa dạng như hệ thống vòi phun nước. Do vậy, các nhà quản lý hay nhân viên cứu hoả có thể không nhận ra chúng. Hơn nữa, số nhà thầy lắp đặt có kinh nghiệm với công nghệ này không nhiều. Tuy nhiên, những vấn đề này sẽ được giải quyết khi hệ thống này được sử dụng rộng rãi. 3.7. Tổng kết Tóm lại, các loại vòi phun tự động là một trong những lựa chọn quan trọng cho mục tiêu phòng chống hoả hoạn của hầu hết các tổ chức bảo tồn. Tuy nhiên, việc ứng dụng chúng có hiệu quả hay không phụ thuộc vào các kỹ sư và nhà thầu có khả năng thiết kế và lắp đặt đúng những bộ phận chất lượng cao của hệ thống. Một hệ thống được lựa chọn, thiết kế và lắp đặt phù hợp sẽ cho độ tin cậy tối đa. các bộ phận của hệ thống cần được lựa chọn kỹ lưỡng phù hợp với các mục tiêu xác định của tổ chức. Các hệ thống đường ống ướt cho độ tin cậy cao nhất và là hệ thống phù
  67. hợp hơn cả đối với công tác phòng chống hoả hoạn cho khu vực bảo tồn. So với hệ thống đường ống ướt, hệ thống đường ống khô chỉ vượt trội hơn 1 điểm duy nhất là chúng có thể ứng dụng ở những khu vực đông lạnh. Còn hệ thống vòi phun cảm ứng lại rất phù hợp trong những khu vực nhạy cảm với nước. Các hệ thống này có hoạt động hiệu quả hay không là phụ thuộc vào việc nhà quản lý lựa chọn được các thiết bị phát hiện và dập lửa phù hợp cũng như việc ông ta cam kết duy trì và bảo dưỡng hệ thống theo đúng tiêu chuẩn. Hệ thống vòi phun sương có thể thay thế cho các hệ thống sử dụng khí một các hiệu quả. Beth Lindblom Batkus - chuyên gia tư vấn bảo tồn, Walpole, MA và Karen Motylewki - nguyên Giám đốc Dịch vụ,Trung tâm bảo tồn tài liệu Đông Bắc Những thảm hoạ tự nhiên, ví dụ như cơn bão Andrew tháng 8/1992 tàn phá miền Nam Florida và Louisiana đã giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về những tổn thất mà ta có thể gánh chịu khi thiên tai xảy ra. May mắn là những thảm hoạ có sức tàn phá lớn như vậy rất ít khi xảy ra, nhưng khi đã xảy ra thì chúng lại xảy ra ở nhiều dạng thức khác nhau. Ví dụ như vụ vỡ đường ống nước
  68. đã làm ngập lụt Hội sử học Chicago năm 1986, trận hoả hoạn đã tàn phá nặng nề Cabildo ở New Orleans năm 1988; trân động đất Loma Prieta đã huỷ hoại một số bảo tàng và thư viện ở San Francisco năm 1989; vụ cháy do chập điện đã tạo đám khói lớn bao trùm các bộ sưu tập của Gallery Huntington năm 1985, nấm mốc đã de doạ các bộ sưu tập tài liệu của Mount Vernon. Dù ở quy mô lớn hay nhỏ, do tự nhiên hay do con người gây ra, chúng đều gây nguy hiểm cho các nhân viên cũng như các bộ sưu tập của cơ quan. Thật không may là các nhân viên trong cơ quan chỉ nhận thấy tầm quan trọng của việc chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống khẩn cấp khi chính bản thân họ đã trải qua tình huống này. Nhưng không phải tình huống khẩn cấp nào cũng có thể trở thành một thảm hoạ thực sự. Trên thực tế, ta có thể làm nhẹ bớt hoặc tránh được những nguy cơ đó bằng một chương trình sẵn sàng đối phó với trường hợp khẩn cấp một cách có hệ thống và toàn diện. Những chương trình này có chức năng nhận biết và ngăn ngừa rủi ro, từ đó phản ứng một cách tích cực với các trường hợp khẩn cấp. Ngày càng có nhiều người có chuyên môn nhận thức được rằng có thể ngăn chặn được những tình huống
  69. khẩn cấp quy mô nhỏ, nếu như các nhân viên được chuẩn bị sẵn sàng để đối phó một cách nhanh chóng. Và thậm chí đối với những nguy cơ lớn hơn, thì vẫn có thể hạn chế được những thiệt hại có thể xảy ra. Ví dụ như các cơ quan văn hoá ở Charleston, South Caroline đã thành lập một liên kết nhằm sẵn sàng đối phó với các thảm hoạ một vài năm trước khi cơn bão Hugo đổ bộ vào năm 1989. Nhiều cơ quan trong số này chỉ bị thiệt hại nhẹ do họ đã thực hiện nhiều biện pháp dự phòng. Việc hoạch định kế hoạch để đối phó với các thảm hoạ là rất phức tạp, kế hoạch này phải được thể hiện bằng văn bản, và nó phải là kết quả của nhiều hoạt động khảo sát đa dạng. Kế hoạch hoàn chỉnh sẽ đạt hiệu quả tố đa, nếu như nó được chính thức giao phó cho một người nào đó với tư cách là người hoạch định kế hoạch để đối phó với thảm hoạ của cơ quan. Giám đốc của cơ quan có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định kế hoạch này, hoặc giao phó trách nhiệm này cho một ai đó. Nhưng cần phải nhớ rằng muốn quá trình này mang lại hiệu quả thì nó phải nhận được sự hỗ trợ từ cấp lãnh đạo cao nhất của cơ quan. Người hoạch định kế hoạch phải lập được một thời gian biểu cho dự án này và xác định phạm vi và mục tiêu của kế hoạch, chủ yếu dựa trên cơ
  70. sở những nguy cơ mà cơ quan phải đối mặt. Nhận định rủi ro Bước đi quan trọng đầu tiên là lập danh sách các nguy cơ về mặt địa lý, khí hậu và các nguy cơ khác có khả năng đe doạ toà nhà và các bộ sưu tập. Nó có thể bao gồm các cơn bão, lốc xoáy, lũ quét, động đất, cháy rừng và thậm chí cả những nguy cơ bất thường như núi lửa phun. Cần xem xét các nguy cơ do con người gây ra như mất điện, vòi nước phun, mất nước/nhiên liệu, đổ hoá chất, cố ý gây hoả hoạn, nguy cơ đánh bom và nhiều vấn đề khác nữa. Hãy ghi lại những nguy cơ về môi trường xung quanh cơ quan của bạn cũng như các nhà máy hoá chất, các tuyến vận chuyển vật liệu nguy hiểm bằng đường sông/biển và các dự án xây dựng lân cận mà có thể ảnh hưởng đến cơ quan. Mặc dù các cơ quan đều không phải đối mặt với mọi loại nguy cơ, nhưng trong kế hoạch đối phó với các thảm hoạ, thì kế hoạch của bạn cũng phải bao trùm mọi loại nguy cơ có thể xảy ra. Hãy xem xét cẩn thận toà nhà và khu vực xung quanh. Kiểm tra địa hình xem toà nhà có nằm trên đường dốc hay không? Phần nền có nằm trên mực nước lụt hay không? Có cây to có gần toà nhà không? Có gần các loại cột công cộng và cột cờ hay không? Mái nhà có bằng
  71. phẳng không? Nước có bị tích tụ không? Hệ thống van và ống thoát nước có hoạt động tốt không? Chúng có được làm sạch thường xuyên không? Các cửa sổ và cửa mái có được gắn chặt không? Có tiền sử về dò rỉ hay các vấn đề về kiến trúc và xây dựng hay không? Bên trong toà nhà, các hệ thống cứu hoả, hệ thống điện, bơm nước và môi trường là những vấn đề cần quan tâm nhất. Có đủ bình cứu hoả không? Chúng có được thường xuyên kiểm tra không? Toà nhà có chuông báo cháy và hệ thống dập lửa không? Chúng có được bảo dưỡng tốt không? Chúng có được giám sát 24/24h trong ngày không? Các lối thoát hiểm có bị chắn không? Dây dẫn nước mới hay cũ, có bị quá tải không? Các ống dẫn nước còn tốt không? Có thiết bị phát hiện nước không và chúng có hoạt động bình thường không? Có vấn đề gì với hệ thống kiểm soát khí hậu không? Chắc hẳn bạn cũng đã suy nghĩ về nhiều câu hỏi khác nữa. Bạn nên tổng hợp chúng thành một danh sách đánh giá nguy cơ của riêng mình. Cũng cần phải xem xét tính dễ tổn thương của các hiện vật trong bộ sưu tập. Chúng được làm bằng những vật liệu gì? Có dễ bị hư hỏng không? Có dễ bị ảnh hưởng bởi độ ẩm, cháy, vỡ hay những vấn đề tương tự không? Các
  72. bộ sưu tập được lưu trữ ở đâu và như thế nào? Chúng có được để trong khung/hộp bảo vệ không? Giá lưu trữ có được gắn chặt vào các kết cấu của toà nhà không? Chúng có vững chắc không? Có hiện vật nào được để ngay trên sàn nhà, nơi mà chúng dễ bị ngập lụt hoặc nước dò rỉ làm hư hại không? Mọi hiện vật phải được đặt cách sàn nhà ít nhất là 10 cm và được đặt trên giá không thấm nước. Có hiện vật nào được để dưới hoặc gần các nguồn nước không? Hãy phân tích các quy trình an ninh và bố trí trong toà nhà của bạn. Nguồn tài liệu của bạn có nằm trong nguy cơ bị trộm cắp, phá hoại của con người hay của côn trùng không? Hãy xem xét những rủi ro về mặt quản lý. Các bộ sưu tập của cơ quan bạn đã được bảo đảm chưa? Việc kiểm kê tài liệu đã chính xác và đầy đủ chưa? Bản sao kết quả kiểm kê này đã được lưu giữ tại các vị trí khác chưa? Đã lập danh mục ưu tiên cho bộ sưu tập của bạn chưa? Nói cách khác, bạn đã biết bộ sưu tập nào của cơ quan mình cần được quan tâm trước tiên trong trường hợp hoả hoạn, ngập nước hoặc các trường hợp khẩn cấp khác xảy ra chưa? Bạn đã sao lưu dự phòng danh mục những tài liệu cần ưu tiên chưa, nếu như trong trường hợp bạn không thể tiếp cận được với những hiện vật đáng được ưu tiên hàng đầu này khi mà những huỷ hại của toà nhà
  73. hay của các thảm hoạ tự nhiên xẩy ra? Dường như có quá nhiều câu hỏi, nhưng khi bạn đã kết thúc quá trình khảo sát, bạn sẽ có cái nhìn đúng đắn về những nguy cơ có thể xảy ra đối với cơ quan của mình. Mặc dù có nhiều loại nguy cơ khác nhau nhưng các nguy cơ phổ biến nhất là nước, lửa, huỷ hoại vật chất do hoá chất, hoặc là sự kết hợp các loại nguy cơ trên. Các quy trình cụ thể của một kế hoạch đối phó với rủi ro tập trung vào việc ngăn ngừa và giảm nhẹ những huỷ hoại đó. Làm giảm nguy cơ Khi đã chỉ ra được các nguy cơ có thể xảy ra đối với cơ quan, người chịu trách nhiệm hoạch định kế hoạch cần phải đưa ra một chương trình với những mục tiêu cụ thể, phụ thuộc vào các nguồn lực đã có và các hoạt động của cơ quan để loại trừ đến mức tối đa những rủi ro có thể xảy ra. Các yếu tố địa lý và khí hậu thì không thay đổi được, nhưng các yếu tố khác thì con người có thể thay đổi được. Nếu như giám sát, sửa chữa và cải tiến thường xuyên các điều kiện của nguồn tài liệu và toà nhà thì có thể loại trừ được nhiều tình huống khẩn cấp. Nếu chưa có một chương trình giám định và bảo dưỡng
  74. thường xuyên toà nhà thì phải đặt việc này thành ưu tiên số một. Nó giúp ngăn ngừa và giảm thiểu những rủi ro thông thường do các đường ống bị nổ, thiết bị kiểm soát khí hậu bị hỏng, dây điện mòn, đường thoát nước bị tắc và các vấn đề khác nữa gây ra. Nếu không thể thực hiện được ngay các cải tiến này thì hãy lập kế hoạch và thực hiện nó. Nếu một số vấn đề trong chương trình này tỏ ra không khả thi hay bị trì hoãn thì hãy chuyển sang bước kế tiếp và quay trở lại khi nó có khả năng dễ thực thi hơn. Một khi các hệ thống và toà nhà hoạt động ổn định, hãy thiết lập một lịch trình bảo dưỡng. Sửa chữa chắp vá và trì hoãn công việc bảo dưỡng chỉ đẩy nhanh sự suy thoái, làm tăng các nguy cơ hư hại mà thôi. Hãy ghi chép và lưu lại các sự cố của toà nhà như đường ống tắc và thiết bị hư hỏng. Bạn càng biết nhiều về toà nhà và những hoạt động của nó thì càng có thể sửa chữa nhanh hơn (và ít tốn kém hơn). Thảm hoạ phổ biến nhất với các bảo tàng và thư viện là do nước gây ra, nhưng mỗi cơ quan lưu giữ các tài liệu quý hiếm, có giá trị cần phải có một hệ thống phòng chống hoả hoạn thật tốt. Do hầu hết các trường hợp khẩn cấp đều xảy ra ngoài giờ làm việc, nên đầu tư cho một hệ
  75. thống phát hiện và cảnh báo hoả hoạn đáng tin cậy, được giám sát một cách chuyên nghiệp 24/24h là một đầu tư khôn ngoan. Nếu có thể, các bộ sưu tập phải được một hệ thống cứu hoả có trách nhiệm dập lửa bảo vệ. Khí halon không còn được sử dụng nữa, mà các chuyên gia làm công tác bảo quản hiện nay khuyên các thư viện và cơ quan lưu trữ nên dùng hệ thống vòi phun đường ống ướt. Ngoài ra, trong những năm gần đây, các hệ thống phun sương ngày càng trở nên phổ biến. Chúng có tác dụng dập lửa với lượng nước sử dụng ít hơn nhiều so với hệ thống vòi phun truyền thống. Trước khi lựa chọn một hệ thống phòng chống hoả hoạn, cần tham vấn một chuyên gia bảo quản hoặc chuyên gia phòng chống hoả hoạn để biết thêm những thông tin về các thành tựu mới nhất trong phòng chống hoả hoạn và có những lời khuyên phù hợp cho trường hợp cụ thể của bạn. Mọi hệ thống phòng chống hoả hoạn cần phải được các chuyên gia có kinh nghiệm với các bảo tàng, cơ quan lưu trữ và thư viện thiết kế và lắp đặt vì các cơ quan này có nhu cầu rất khác biệt so với các hộ gia đình. Hãy nói chuyện với các đồng nghiệp ở các cơ quan, địa phương khác hoặc với một chuyên gia bảo quản để được hướng dẫn. Phải kiểm tra, xem xét các vấn đề mà họ giới thiệu.
  76. Các hoạt động làm giảm nguy cơ cho toà nhà và bộ sưu tập bao gồm duy trì việc kiểm kê bộ sưu tập, cải thiện điều kiện lưu trữ và tuân thủ các quy trình an ninh. Bản kiểm kê sẽ cung cấp một danh sách cơ bản, có tác dụng hỗ trợ trong việc thiết lập ưu tiên, và có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm an toàn cho nguồn tài liệu. Việc cải thiện điều kiện lưu trữ như đóng hộp và đặt các hiện vật cách sàn nhà sẽ làm giảm hoặc loại trừ những thiệt hại khi xảy ra rủi ro. Các quy trình an ninh toàn diện sẽ ngăn ngừa được sự trộm cắp, phá hoại và các nguy cơ hoả hoạn khác. Kế hoạch hợp tác Việc hoạch định kinh nghiệm đối phó với các rủi ro không thể tiến hành một cách riêng rẽ, mà để đạt được hiệu quả, cần kết hợp nó với các quy trình hoạt động khác của cơ quan. Trên thực tế, bạn có thể nhận thấy rằng khi hoạch định kế hoạch đối phó với các thảm hoạ, bạn còn có thể giúp hoàn thiện nhiều mục tiêu khác nữa. Ví dụ như một hệ thống kiểm soát khí hậu hoạt động tốt sẽ ngăn ngừa sự tăng giảm thất thường của nhiệt độ và độ ẩm, giúp ổn định môi trường và tăng cường tuổi thọ cho các bộ sưu tập. Cùng lúc, nó cũng giúp ngăn chặn nguy cơ dò rỉ nước từ các thiết bị điều hoà không khí.
  77. Tương tự, nếu một cơ quan khảo sát tốt các bộ sưu tập và đưa ra bản kiểm kê cho việc hoạch định kế hoạch, thì đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà nghiên cứu và nhân viên dễ dàng tiếp cận với các bộ sưu tập hơn. Cần ghi nhớ 3 đặc tính quan trọng của một kế hoạch đạt hiệu quả cao đó là: tính toàn diện, đơn giản và linh hoạt. Kế hoạch này phải chỉ ra được mọi tình huống khẩn cấp và nguy cơ mà cơ quan có thể gặp phải. Nó phải đưa ra được biện pháp phản ứng tức thời cũng như việc xử lý dài hạn và nỗ lực khôi phục khi cần thiết. Bản kế hoạch cũng phải đề cập đến cả trường hợp những dịch vụ thông thường bị gián đoạn. Bạn sẽ xử lý thế nào nếu không có điện, nước và điện thoại? Kế hoạch phải dễ thực hiện. Con người không thể suy nghĩ chín chắn khi đối mặt với thảm hoạ nên một kế hoạch thành công, nhất thiết phải đưa ra các chỉ dẫn chính xác và được đào tạo để thực hiện. Chìa khoá cho sự thành công này là văn phong thể hiện kế hoạch phải rõ ràng, đơn giản mà không mất tính toàn diện. Trên hết, cần ghi nhớ rằng bạn không thể đi sâu vào mọi chi tiết, nên phải đảm bảo rằng kế hoạch mà bạn đưa ra bao gồm những hướng dẫn cơ bản, nhưng cũng cho phép sáng tạo
  78. trên thực tế. Hãy quyết định xem ai sẽ chịu trách nhiệm đối phó với các tình huống khẩn cấp. Ai sẽ là người quyết định cuối cùng? Ai sẽ liên lạc với các cơ quan cứu hoả, cảnh sát hay dân phòng? Ai sẽ nói chuyện với báo chí? Ai sẽ đóng vai trò hỗ trợ thay thế, nếu như các thành viên trong nhóm của bạn không thể đến được hiện trường? Xác định vị trí đặt sở chỉ huy trung tâm (nếu cần), và khu vực làm khô các bộ sưu tập. Thiết lập một hệ thống báo tin cho các thành viên của đội cứu hộ. Do những thông tin trên văn bản ít bị hiểu nhầm hơn nên chiến lược thông tin của bạn nên có những “thông báo” được đưa đến tận nơi. Liên lạc tốt sẽ giúp tránh được nhầm lẫn và tăng cường các nỗ lực trong tình huống khẩn cấp. Cuối cùng, nếu như quá trình hoạch định có quá nhiều công việc thì hãy chia nó thành các giai đoạn. Xem loại thảm hoạ nào có khả năng xảy ra nhất trong cơ quan của bạn và bắt đầu lập kế hoạch để đối phó với nó. Sau đó có thể mở rộng kế hoạch để phối hợp đối phó với các thảm hoạ khác. Xác định các nguồn lực Phải tiến hành một số bước quan trọng trước khi lập kế
  79. hoạch. Trước hết, hãy xác định các nguồn hỗ trợ khi thảm hoạ xảy ra. Quyết định những gì cần thiết để đối phó với các thảm hoạ và dành nỗ lực tối đa để cứu vớt các bộ sưu tập cụ thể. Các đồ cần thiết như giẻ polyethylene, bọt biển, đèn pin và găng cao su cần được mua và chuẩn bị sẵn sàng. Chúng phải được giữ ở nơi được đánh dấu rõ ràng, được kiểm kê định kỳ và được thay thế (nếu cần thiết). Nếu bạn khoá nơi giữ những dụng cụ này thì phải bảo đảm chìa khoá luôn sẵn sàng trong tình huống khẩn cấp. Tài liệu này có kèm theo một danh sách các đồ dùng cơ bản. Hãy giữ một danh sách các đồ phụ trợ để phòng trường hợp cần đến. Danh sách này phải ghi tên, địa chỉ và số điện thoại của người cung cấp, cũng như các nguồn cung cấp dự phòng. Cũng phải thu xếp mọi khoản tiền cho trường hợp khẩn cấp vì đôi khi có thảm hoạ xảy ra, việc này rất khó khăn. Trong những năm gần đây, nhiều cuốn hướng dẫn hoạch định kế hoạch đối phó với thảm hoạ cũng đã cung cấp danh sách các nhà cung cấp, các công ty dịch vụ và các nguồn hỗ trợ kỹ thuật. Hãy nghiên cứu kỹ lưỡng các loại hình dịch vụ đó (vì đây là một phần thiết yếu của quá trình hoạch định). Nếu có thể, hãy mời nhà cung cấp dịch vụ đến cơ quan của bạn để họ có hiểu biết trước về thực tế, và hiểu rõ về các bộ sưu tập của cơ quan bạn. Cũng
  80. cần phải sắp xếp để có các công ty dự phòng, chịu trách nhiệm cung cấp các thiết bị và dịch vụ quan trọng trong trường hợp có nguy cơ mang tính khu vực rộng lớn. Hãy xem xét việc phối hợp với các cơ quan khác nằm trong địa bàn. Người hoạch định kế hoạch cần xác định được mọi việc đối phó cần thiết với các thảm hoạ cũng như các dịch vụ khắc phục phù hợp nhất. Việc đối phó này rất đa dạng, bao gồm từ lực lượng cảnh sát, cứu hoả, dịch vụ cấp cứu đến công nhân bảo dưỡng, nhân viên bảo hiểm và các công ty tiện ích. Có một số công ty nhà nước cung cấp các dịch vụ khắc phục sau thảm hoạ như làm giảm độ ẩm và làm khô bằng đông lạnh chân không. Cần phải duy trì tốt quan hệ với các cơ quan dịch vụ khẩn cấp của địa phương để họ có thể ứng phó kịp thời trong trường hợp xảy ra thảm hoạ. Ví dụ như bạn có thể cung cấp cho sở cứu hoả danh sách các khu vực được ưu tiên bảo vệ tránh khỏi nước trong trường hợp xảy ra cháy. Bạn có thể thu xếp với họ để cho phép một số nhân viên nhất định của cơ quan bạn vào toà nhà để đánh giá hoặc tham gia công tác cứu hộ nếu điều kiện an ninh cho phép. Có thể dùng dây ngăn phần hiện trường để điều tra hoả hoạn, cách biệt với khu vực cho phép tiếp cận. Tất cả những sắp xếp này phải được đề ra ngay từ đầu để đảm
  81. bảo việc đối phó có hiệu quả. Các nguồn hỗ trợ quý báu khác là các cơ quan của địa phương, của tiểu bang và liên bang. Trong khi nhiều cơ quan biết rằng Cơ quan quản lý liên bang về trường hợp khẩn cấp (FEMA) cung cấp các chương trình hỗ trợ đối phó với thảm hoạ, nhưng họ lại không biết rằng cơ quan này còn hỗ trợ cho việc khôi phục các tác phẩm nghệ thuật và văn hoá. Tháng 10/1991, một chính sách đã được sửa đổi cho phép cơ quan liên bang hỗ trợ tài chính cho việc bảo tồn các hiện vật bị thảm hoạ làm hư hại. FEMA định nghĩa bảo tồn là “những bước tối thiểu” đảm bảo cả hai điều kiện cần thiết và khả thi để đưa các hiện vật trở lại trưng bày, tuy nhiên không khôi phục chúng trở lại trạng thái hoàn toàn bình thường như trước thảm hoạ được. FEMA không trang trải chi phí cho việc thay thế các hiện vật bị huỷ hoại. Lên kế hoạch ưu tiên Trong bất cứ thảm hoạ nào, ưu tiên tối cao là sự an toàn của con người. Không bao giờ nên mạo hiểm đánh đổi tính mạng của nhân viên hoặc của khách để cứu các bộ sưu tập.
  82. Đối với những thảm hoạ nghiêm trọng, sở cứu hoả, quan chức địa phương hoặc những nhà chuyên môn khác có thể hạn chế mọi người tiếp cận với toà nhà cho đến khi đánh giá được toàn bộ căn nhà. Khi đã đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn cho con người, bước ưu tiên tiếp theo là các tài liệu và thiết bị thiết yếu cho hoạt động của cơ quan như các bản đăng kí tên của người đọc, bản kiểm kê và sổ đăng ký tài liệu quản lý. Cứu hộ các bộ sưu tập và ổn định lại toà nhà là ưu tiên kế tiếp. Các hiện vật và bộ sưu tập có giá trị quan trọng đối với cơ quan phải được xác định từ đầu. Nếu không có thể sẽ mất nhiều thời gian quý báu cho việc cứu hộ những vật thể có giá trị thấp, hay mất thời gian qúy báu tranh luận xem nên cứu vật gì trước. Tốt nhất là ở bước này, phải xác định rõ trong bản kế hoạch danh sách các hiện vật cần ưu tiên cứu trước. Danh sách này phải được đính kèm vào kế hoạch đối phó với các thảm hoạ. Nhưng cũng cần phải tính toán đến sự an toàn của những thông tin loại này.Tốt nhất là nên giới hạn chỉ những ngưòi có trách nhiệm mới được tiếp cận với những thông tin này trước khi xảy ra tình huống khẩn cấp thực sự. Những ưu tiên cứu hộ không nên chỉ dựa trên giá trị của hiện vật mà còn phải dựa vào khả năng dễ bị hư hại
  83. trong tình huống khẩn cấp. Nếu bạn không nắm được kiến thức về những nguy hiểm đối với những loại vật liệu khác nhau thì hãy liên hệ với một chuyên gia bảo quản để hỗ trợ bạn trong việc đưa những vấn đề này vào kế hoạch cứu hộ. Ví dụ như giấy và vải dễ bị mốc khi chúng bị ẩm/ướt. Nhiều kim loại bị ăn mòn nhanh chóng trong những điều kiện tương tự. Nước mặn có thể đẩy nhanh quá trình huỷ hoại này. Các vật thể bằng len, ngà và sơn mài dễ bị phồng lên và rạn nứt nhanh chóng nếu ở trong môi trường nhiệt độ và độ ẩm cao. Đồ đạc và các lớp gỗ trang trí có thể được gắn bằng loại chất dán dễ hoà tan trong nước. Các vật thể có thể bị giòn, dễ vỡ sau khi tiêp xúc với nhiệt độ cao của đám cháy. Mọi loại sưu tập có giá trị mà các nhà chuyên môn có kinh nghiệm đưa ra, cần có các quy trình vận chuyển và cứu hộ riêng. Do phạm vi bài viết này đề cập đến các hướng dẫn cứu hộ cho nhiều loại hiện vật đa dạng của bộ sưu tập, nên để biết thêm thông tin, hãy tham khảo danh sách các tài liệu kèm theo. Soạn thảo kế hoạch Khi đã hoàn thành các bước chuẩn bị cần thiết, có thể bắt tay vào soạn thảo kế hoạch. Do mỗi bản kế hoạch có đặc điểm khác nhau nên sau đây là một dàn ý mẫu:
  84. 1. Phần giới thiệu: nêu tên những người chịu trách nhiệm trong cơ quan và các sự kiện mà bản kế hoạch cần đề cập đến. 2. Các hoạt động cần thực hiện nếu đã có dấu hiệu cảnh báo trước. 3. Những quy trình ứng phó đầu tiên, bao gồm những người cần phải liên hệ trước nhất trong từng trường hợp khẩn cấp, các bước khẩn cấp cần thực hiện và bằng cách nào để thông báo cho các nhân viên khác. 4. Các quy trình khẩn cấp để liên hệ với các bộ phận khác trong từng tình huống cấp thiết mà bản kế hoạch đã đề ra. Nó bao gồm: những việc cần làm khi sự cố xảy ra, các quy trình cứu hộ cần thiết và thích hợp tiếp theo cần được thực hiện, khi những phút kinh hoàng ban đầu đã qua. Bao gồm cả các kế hoạch phụ. 5. Các kế hoạch khắc phục để cơ quan có thể trở lại hoạt động bình thường. 6. Phần phụ lục: có thể bao gồm kế hoạch sơ tán, danh sách các cơ quan dịch vụ cần liên hệ trong tình huống khẩn cấp, danh sách các thành viên của đội ứng phó nhanh và nhiệm vụ của họ; nơi đặt điện thoại, vị trí để chìa kháo, các quy trình báo động cháy/đột nhập; danh
  85. sách ưu tiên của các bộ sưu tập; sắp xếp lại vị trí các bộ sưu tập, danh sách các thiết bị bên trong toà nhà, danh sách các nhà cung cấp và dịch vụ bên ngoài, thông tin bảo hiểm, danh sách người tình nguyện, danh mục những điều cần tránh, mẫu tài liệu ghi lại các hiện vật bị di chuyển trong quá trình cứu hộ và các quy trình cứu hộ chi tiết Duy trì kế hoạch Cho dù bạn có nỗ lực tạo ra một bản kế hoạch đối phó với thảm hoạ hoàn hảo đến đâu thì nó cũng trở nên vô ích nếu như các nhân viên khác không hiểu biết về nó, hoặc nó đã bị lỗi thời hay không thể tìm được nó khi thảm hoạ xảy ra. Do vậy, cần phải tập trung giáo dục và đào tạo cho nhân viên về các quy trình khẩn cấp. Mỗi nhân viên cần phải nhận thức được nhiệm vụ của mình. Cần phải luyện tập thường xuyên (nếu có thể). Hãy giữ một vài bản sao kế hoạch ở những vị trí khác nhau, kể cả bên ngoài toà nhà (tốt nhất là trong những hộp không thấm nước). Mỗi bản sao kế hoạch phải có thông tin về nơi cất các bản sao khác. Quan trọng hơn cả là kế hoạch này phải được cập nhật theo định kỳ, lý do là tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại và nhân sự thường xuyên thay đổi, thiết bị cũng luôn đổi
  86. mới. Nếu một bản kế hoạch không được cập nhật thường xuyên thì nó không thể có tác dụng hỗ trợ một cách có hiệu quả khi đối phó với thiên tai. Việc hoạch định kế hoạch đối phó với thiên tai có ý nghĩa thiết yếu với mọi cơ quan nhằm bảo vệ tốt nhất các bộ sưu tập của cơ quan đó. Thảm hoạ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, với quy mô lớn hoặc nhỏ, nhưng nếu cơ quan luôn ở trong trạng thái sẵn sàng thì có thể giảm nhẹ và thậm chí có thể tránh được thảm hoạ đó. Bản kế hoạch này phải được coi như một tài liệu “sống”. Danh sách đánh giá rủi ro của nó phải được xem xét theo định kỳ, các danh sách khác phải được cập nhật, các ưu tiên cho bộ sưu tập cần được đánh giá lại khi cần thiết. Một kế hoạch đối phó hiệu quả với các thảm hoạ sẽ phát huy hết khả năng bảo đảm an toàn cho các bộ sưu tập lịch sử trong các cơ quan văn hoá của chúng ta. Tài liệu đọc thêm Các nguồn sau đây cung cấp thêm các tài liệu cơ bản về hoạch định kế hoạch đối phó với thảm họa cho các thư viện và phòng lưu trữ. Xin tham khảo tài liệu “Emergency Managerment Bibliography” (Danh mục quản lý tình trạng khẩn cấp) của NEDCC để biết thêm