Giáo trình môn Triết học

pdf 303 trang phuongnguyen 2650
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Triết học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_mon_triet_hoc.pdf

Nội dung text: Giáo trình môn Triết học

  1. BÀI 1 TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI I. TRIẾT HỌC LÀ GÌ ? 1. Triết học và đối tượng của triết học a) Khái niệm triết học; nguồn gốc của triết học Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây vào khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Người Trung Quốc hiểu triết học là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con người. Người Ấn Độ hiểu triết học là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Ở Phương Tây, thuật ngữ triết học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “yêu thích (philos) sự thông thái (sophia)”. Với người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người. Như vậy là ở cả phương Đông và phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần, thể hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, song chung quy lại : Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất ở trình độ trừu tượng hoá của con người với trình độ cao nhất định, cho nên nó không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã hội loài người. 5
  2. Từ buổi bình minh của nhân loại, để tồn tại, con người đã tiến hành hoạt động lao động sản xuất và những hoạt động khác nhau. Điều đó đem lại cho con người những tri thức nhất định về thế giới xung quanh và về bản thân con người, song đây mới chỉ là những tri thức rời rạc, còn ở dạng huyền thoại, chưa có hệ thống. Hệ thống tri thức lý luận triết học chỉ có thể xuất hiện trong những diều kiện nhất định. Đó là: - Con người đã tích luỹ được những tri thức, đạt đến khả năng rút ra được những quan niệm chung về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. - Xã hội đã phát triển đến thời kỳ xuất hiện tầng lớp lao động trí óc. Chính tầng lớp này đã nghiên cứu, hệ thống hoá những tri thức rời rạc thành hệ thống, thành lý luận và triết học ra đời. Những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Về nguồn gốc nhận thức, đó là lúc nhận thức của con người đạt đến trình độ trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, thành lý luận. Về nguồn gốc xã hội, đó là lúc lao động đã phân chia thành lao động chân tay và lao động trí óc, tức là xã hội phát triển đến mức đã phân chia thành giai cấp, có Nhà nước, và chế độ chiếm hữu nô lệ đã thay thế chế độ công xã nguyên thuỷ. Vì vậy, ngay từ khi ra đời, triết học đã mang tính giai cấp, nghĩa là nó phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những tầng lớp, những lực lượng xã hội nhất định. Những nguồn gốc trên có quan hệ với nhau và sự phân chia nói trên cũng chỉ mang tính tương đối. b) Đối tượng của triết học, sự biến đổi đối tượng của triết học qua các giai đoạn lịch sử. Đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của lịch sử. 6
  3. Triết học thời cổ đại được gọi là triết học tự nhiên, bao hàm tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm về sau này cho rằng triết học là khoa học của mọi khoa học. Thời kỳ cổ đại, triết học đã đạt đựơc nhiều thành tựu rực rỡ cả ở phương Đông và phương Tây, mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tri thức thời hiện đại, trong toán học, vật lý học, hoá học, thiên văn học và cả trong mỹ học, đạo đức học, dân tộc học, xã hội học Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội, triết học trở thành nô lệ của thần học. Triết học chỉ còn nhiệm vụ lý giải, chứng minh, biện hộ cho những tín điều trong Kinh thánh. Triết học tự nhiên bị thay bằng triết học kinh viện. Triết học thời kỳ này phát triển một cách chậm chạp trong đêm trường trung cổ. Đến thế kỷ XV, XVI, ở Tây Âu, xã hội bước vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản. Do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất, nhất là trong công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành đặc biệt là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập. Sự hình thành và phát triển quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, những phát hiện lớn về địa lý và thiên văn cùng những thành tựu khác của cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển triết học. Triết học duy vật có cơ sở tri thức là các khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đâú tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo và nó đã đạt tới đỉnh cao mới trong thế kỷ XVII-XVIII ở Anh, Pháp, Hà Lan, với những đại biểu tiêu biểu như Ph.Bêcơn, T.Hôpxơ (Anh), Điđrô, Henvêtiút (Pháp), Xpinôda (Hà Lan) Đây là thời kỳ phát triển mạnh của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và cách mạng tư sản. Chủ nghĩa duy vật lúc này là thế giới quan của giai cấp tư sản đang lên. 7
  4. Chủ nghĩa duy vật lúc đó là triết học trung thành với mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với mê tín, tôn giáo, chống duy tâm. Song đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, vì cơ sở của nó là khoa học thực nghiệm, nhất là cơ học và toán học. Tư duy triết học càng phát triển, phương pháp siêu hình được thay thế bằng phương pháp biện chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII-XIX có những đóng góp to lớn. Phép biện chứng mặc dù là duy tâm chủ nghĩa của Cantơ và đỉnh cao là Hêghen đã có những cống hiến xuất sắc trong sự phát triển tư duy của nhân loại. Sự phát triển của các bộ môn khoa học cụ thể làm phong phú thêm tri thức của nhân loại và từng bước làm cho triết học không thể đóng vai trò mà một số người kỳ vọng là “khoa học của các khoa học”. Song chính sự phát triển của các khoa học và nhu cầu của tiến bộ xã hội đòi hỏi có một khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Đó là triết học. Chủ nghĩa tư bản ra đời là một bước tiến trong lịch sử so với chế độ phong kiến. Song sự ra đời của nó lại đẻ ra những mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản. Lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ xung đột với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Đặc biệt là trong thời kỳ này, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội phát triển mạnh mẽ. Những tiền đề khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và thực tiễn xã hội yêu câù có một nền triết học mới ra đời, đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Đó là triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của C.Mác. Đây là một giai đoạn trong lịch sử phát triển tư tưởng của nhân loại. Đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của các khoa học”, triết học mácxit xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư 8
  5. duy. Đó là một khoa học triết học mở, phát triển cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình, khác với các khoa học cụ thể. Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử khoa học và lịch sử của bản thân sự phát triển tư tưởng triết học. Chính vì tính đặc thù như vậy của đối tượng triết học mà vấn đề tư cách khoa học của triết học và đối tượng của nó đã gây ra những cuộc tranh luận kéo dài cho đến ngày nay. Nhiều học thuyết triết học hiện đại ở phương Tây muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình như mô tả những hiện tượng tinh thần, phân tích ngữ nghĩa, chú giải văn bản Ở đây, cần nói rõ rằng, mỗi khoa học cụ thể cung cấp cho con người tri thức từng mặt về thế giới. Tổng hợp các tri thức đó làm thành cơ sở của triết học. Sự phát triển của tri thức nhân loại ngày càng tăng nhanh, do vậy, nếu xa rời miếng đất sinh động của tri thức khoa học hiện đại, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, xa rời thực tiễn xã hội, triết học sẽ không tránh khỏi biến thành một kết cấu kinh viện, tư biện, xa rời cuộc sống. Đồng thời, các khoa học cụ thể, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, cũng như khoa học xã hội, sẽ không thể phát triển được, nếu không có sự chỉ đạo của một thế giới quan khoa học. Dù muốn hay không, tự giác hay không tự giác, thì các nhà khoa học cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề là ở chỗ, các nhà khoa học ấy được chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt hay được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó. Triết học Mác - chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật 9
  6. lịch sử- chính là hình thức tư duy lý luận đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử. Triết học Mác - chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử - còn là phương pháp luận phổ biến của các ngành khoa học cụ thể. Các nhà khoa học cụ thể mà thiếu những kinh nghiệm tư duy duy vật biện chứng thì khó tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm về thế giới quan và phương pháp luận, sẽ kìm hãm sự phát triển của chính bản thân khoa học. Cuộc khủng hoảng của khoa học tự nhiên (vật lý học) hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là do các nhà khoa học tự nhiên không nắm vững chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính vì vậy, V.I.Lênin đòi hỏi phải có sự liên minh chặt chẽ giữa các nhà triết học macxít với các nhà khoa học tự nhiên và các nhà khoa học nói chung. Đó cũng là cơ sở để các nhà triết học macxít có điều kiện tiếp tục khái quát các thành tựu mới nhất của khoa học và thực tiễn xã hội để phát triển triết học, và các nhà khoa học xây dựng cho mình một cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học. 2.Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới, về bản thân của con người và về cuộc sống của con người và loài người. Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin, định hướng cho hoạt động của con người. Sự hình thành lý tưởng là trình độ phát triển cao của thế giới quan. Trước khi có thế giới quan triết học, nhận thức của con người còn ở giai đoạn huyền thoại. Huyền thoại là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên thuỷ. Trong huyền thoại, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái hoang đường, v v hoà quyện vào nhau. Khác với huyền thoại, trong niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực .v.v. 10
  7. Còn triết học thể hiện quan niệm của con người dưới dạng hệ thống các phạm trù, quy luật như những bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với ý nghĩa đó, triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình phát triển của nhận thức con người. Nếu thế giới quan đựơc hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người; trong đó tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới, thì triết học, với phương thức tư duy đặc thù đã tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới với tư cách là một chỉnh thể, trong đó có con người và mối quan hệ của nó với thế giới xung quanh. Như vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thể giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. II. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM 1. Vấn đề cơ bản của triết học Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”1. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thứ hai, ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan không? Hay nói một cách khác, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề cơ bản trong tất cả các vấn đề mà triết học giải quyết. Bởi vì: Một là, đó là vấn đề triết học rộng nhất, chung nhất. Hai là, nếu không giải quyết được vấn đề này thì không 1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t.21, tr.403. 11
  8. thể tiếp tục giải quyết các vấn đề khác, những vấn đề ít chung hơn. Ba là, giải quyết vấn đề này như thế nào sẽ quyết định tính chất của thế giới quan của các nhà triết học. Và thế giới quan ấy là cơ sở tạo ra phương hướng để xem xét và giải quyết tất cả những vấn đề còn lại. Với ý nghĩa đó, vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất là vấn đề cơ bản, chủ yếu của triết học. Các học thuyết triết học được chia thành hai trào lưu cơ bản: duy vật hay duy tâm, điều đó tuỳ thuộc vào tính chất việc giải quyết vấn đề cơ bản này. Tất cả các hệ thống triết học thừa nhận tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có trước; ý thức, tinh thần là cái có sau, đó là chủ nghĩa duy vật. Còn các hệ thống triết học coi ý thức là cái có trước, tồn tại là cái có sau, đó là trào lưu duy tâm. Việc xem xét và giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là tiêu chuẩn khoa học duy nhất để xác định tất cả các học thuyết triết học đã, đang và sẽ tồn tại là thuộc trào lưu nào: duy vật hay duy tâm ? 2. Các trường phái triết học a) Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm Tuỳ theo cách giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học mà các nhà triết học thuộc trường phái duy vật hay duy tâm: Trường phái duy vật coi vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất thuộc về vật chất, tính thứ hai là ý thức. Trường phái duy tâm coi ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất thuộc về ý thức, tính thứ hai là vật chất. Đây là hai trường phái lớn thừa nhận chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước và quyết định cái kia, nghĩa là cho thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất. Đó là phái nhất nguyên luận (duy vật hoặc duy tâm). Ngoài hai trường phái lớn, còn có các nhà triết học coi vật chất và ý 12
  9. thức tồn tại độc lập, chúng không nằm trong quan hệ sản sinh, cũng không nằm trong quan hệ quyết định nhau. Chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới. Đó là phái nhị nguyên luận. Có nhà triết học như Lépnít (người Đức) chẳng hạn lại cho rằng vạn vật là do vô số nguyên thể độc lập cấu thành. Đó là quan điểm đa nguyên luận triết học. Nhị nguyên luận thường sa vào chủ nghĩa duy tâm, còn đa nguyên luận triết học là một học thuyết triết học duy tâm. - Chủ nghĩa duy vật: Chủ nghĩa duy vật có ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. + Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại: Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan, nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn rất nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại nói chung đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế. + Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVII -XVIII là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của cơ học cho nên quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm địa vị thống trị. Phương pháp xem xét thế giới tự nhiên và con người chỉ như hệ thống máy móc phức tạp khác nhau mà thôi. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình là một bước tiến khổng lồ trong sự phát triển tư duy của nhân loại so với chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại và nó đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, điển hình là trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản chủ nghĩa. + Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là hình thức cơ bản thứ ba của chủ 13
  10. nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ thứ XIX, sau đó được V.I.Lênin và các thế hệ các nhà triết học sau này phát triển. Kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và dựa trên thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.Mác ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII, XVIII và mở ra một kỷ nguyên mới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xây dựng nên phép biện chứng duy vật khoa học, mở ra thời kỳ mới rực rỡ cho sự phát triển triết học và các khoa học cụ thể. Chủ nghĩa duy vật biện chứng triết học vì vậy chẳng những là công cụ nhận thức thế giới mà chính là công vụ cải tạo thế giới. - Chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi mọi sự vật, hiện tượng của thế giới chỉ là những tổng hợp cảm giác của chủ thể con người. + Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng đó là một thực thể tinh thần có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới v v Nó sản sinh ra và quyết định các qúa trình của thế giới vật chất và của con người. Chủ nghĩa duy tâm triết học coi ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên, như vậy là đã bằng cách này hay cách khác thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới. Do vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của họ. Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa 14
  11. duy tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí, xuất phát từ quan điểm cho ý thức, tinh thần là cái xuất phát, sản sinh ra thế giới vật chất. Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người. Chủ nghĩa duy tâm ra đời còn do nguồn gốc xã hội. Chính sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan niệm dường như tinh thần là cái có trước, là cái quyết định. Các lực lượng xã hội phản động thường ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm, coi đó là nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị - xã hội của họ. Như vậy, trong lịch sử tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng nhưng suy cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Lịch sử triết học cũng là lịch sử của cuộc đấu tranh giữa hai trường phái duy vật và duy tâm và của các phương pháp nhận thức thế giới: phép biện chứng và phép siêu hình. b) Thuyết không thể biết Đối với câu hỏi: “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”, tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả duy vật và duy tâm) trả lời một cách khẳng định: thừa nhận khă năng nhận thức thế giới của con người. Có một số nhà triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới và được gọi là thuyết không thể biết. Theo thuyết này, con người không thể hiểu được đối tượng hoặc có hiểu chăng chỉ là hiểu hình thức bề ngoài vì tính xác thực các hình ảnh về đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình nhận thức là không chân thực. Tính tương đối của nhận thức dẫn đến việc ra đời những người theo 15
  12. trào lưu hoài nghi luận từ triết học Hy Lạp cổ đại. Những người theo trào lưu này nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan. Hoài nghi luận thời Phục hưng có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng và quyền uy của Giáo hội thời trung cổ, vì hoài nghi luận thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo. Từ hoài nghi luận (Scepticisme) đến thuyết không thể biết (Agnosticisme). Nhưng những người theo thuyết không thể biết như Béccly, Hium và cả Cantơ nữa phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của tư duy con người, phủ nhận chân lý khách quan lại là sai lầm và rơi vào chủ nghĩa duy tâm. III. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG 1. Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng a) Phương pháp siêu hình Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật ở trạng thái biệt lập, ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc. Phương pháp siêu hình làm cho con người “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”1. b) Phương pháp biện chứng Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Phương pháp biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì 1.Sđd, t.20, tr.37. 16
  13. bên cạnh cái “hoặc là hoặc là ” còn có cả cái “vừa là vừa là ” nữa; nó thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau 2. Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng đắn cho nên phương pháp này trở thành công cụ hữu hiệu, giúp cho con người nhận thức đúng và cải tạo thế giới. 2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng Phương pháp biện chứng đã trải qua ba giai đoạn phát triển và có ba hình thức lịch sử của phép biện chứng; phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật. Một là, phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả phương Đông và phương Tây thời cổ đại coi các sự vật, hiện tượng trong thế giới có sinh thành, biến hoá trong những mối liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì mà họ nêu ra chỉ là những phỏng đoán thiên tài dựa trên sự quan sát trực tiếp, không có cứ liệu khoa học. Hai là, phép biện chứng duy tâm: Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Song phép biện chứng của họ là phép biện chứng của ý niệm, của thế giới tinh thần. Thế giới tự nhiên và loài người chỉ là sự biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của ý niệm tuyệt đối mà thôi. Do vậy, phép biện chứng của họ là phép biện chứng duy tâm. Ba là, phép biện chứng duy vật: Phép biện chứng duy vật được thể 2.Sđd, tr.696. 17
  14. hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. C.Mác và Ph. Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm cỏ điển Đức để xây dựng phép biện chứng duy vật trên nền tảng của khoa học và thực tiễn xã hội với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. IV. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học a) Chức năng thế giới quan của triết học Triết học ra đời xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn xã hội. Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới con người cần phải nhận thức thế giới và về bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới. Có thể nói với thế giới quan của mình con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như xem xét chính bản thân để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động nhằm đạt tới mục đích đó. Thế giới quan đúng đắn vì vậy là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và do vậy, trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của cá nhân cũng như của một cộng đồng xã hội nhất định. Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học. b) Chức năng phương pháp luận của triết học Sự phát triển của triết học trong lịch sử không chỉ diễn ra trong cuộc 18
  15. đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, mà còn là cuộc đấu tranh giữa hai phương pháp nhận thức thế giới đối lập nhau: phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Một lý luận triết học khi xem xét các sự vật, hiện tượng theo một quan điểm nhất định đã đồng thời thể hiện một phương pháp xem xét nhất định, hơn nữa, còn là một quan điểm chỉ đạo về phương pháp. Bởi vật một học thuyết triết học không những thể hiện ra là một thế giới quan nhất định mà còn là một phương pháp chung nhất để xem xét thế giới: biện chứng hoặc siêu hình. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là một nguyên lý lý luận về phương pháp. Sự phát triển của khoa học và của thực tiễn xã hội đã dẫn đến sự ra đời một lĩnh vực đặc thù của tri thức triết học và khoa học lý thuyết - đó là phương pháp luận. Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập, nhưng phương pháp luận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ: phương pháp luận ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất. - Phương pháp luận ngành (còn gọi là phương pháp luận bộ môn) là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó. - Phương pháp lụân chung là phương pháp luận được sử dụng cho một số ngành khoa học. - Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng là điểm xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức 19
  16. năng phương pháp luận chung nhất. Và trong một hệ thống triết học mỗi quan điểm lý luận của triết học đó như trên đã nêu rõ, đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp. Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận nói trên, triết học Mácxít có vai trò to lớn trong việc cải tạo thế giới vì sự nghiệp giải phóng con người và xã hội loại người. 2. Vai trò của triết học Mác - Lênin Triết học Mác - Lênin là một giai đoạn phát triển của tư duy triết học trong lịch sử nhân loại. Đó là hệ thống triết học mở, đã kế thừa và phát triển các thành tựu của tư duy nhân loại, đồng thời nó sẽ được bổ sung và phát triển cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội. Nó được C.Mác và Ph.Ăngghen sáng tạo và V. I. Lênin phát triển một cách xuất sắc. a) Sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp trong triết học Mác - Lênin. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Triết học Mác - Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó là chủ nghĩa duy vật triệt để trong việc xem xét giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học macxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. Phép biện chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận động và phát triển của hiện thực; do đó, nó không chỉ là lý luận về 20
  17. phương pháp mà còn là sự diễn tả quan niệm về thế giới , là lý luận về thế giới quan. Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật macxít, do tính đúng đắn và triệt để của nó đem lại, đã trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận. Như vậy, trong triết học macxít, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất với nhau một cách hữu cơ. Nắm vững triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan khoa học mà còn là xác định một phương pháp luận đúng đắn. Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận dụng phương pháp biện chứng. Sự thống nhất thế giới quan và phương pháp luận khoa học làm cho triết học của C.Mác, như V.I.Lênin nhận xét: là một “chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị’, đồng thời là “công cụ nhận thức vĩ đại”. b) Triết học Mác-Lênin với các khoa học khác Mặc dù có vai trò rất quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, nhưng triết học Mác-Lênin không thay thế cho các khoa học khác trong việc nhận thức thế giới. Triết học Mác-Lênin phủ nhận quan niệm xem triết học là “khoa học của mọi khoa học”, mà coi triết học và các khoa học khác có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sự gắn bó của triết học với các khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Thành quả của các khoa học cụ thể là những tư liệu để triết học rút ra những kết luận của mình. Những kết luận ấy đưa lại thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển của các khoa học. Chính vì vậy, sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà triết học và các nhà khoa học khác là điều hết sức cần thiết. Sự hợp tác này làm cho lý luận triết học không khô cứng và lạc hậu; làm cho sự phát triển của các khoa học 21
  18. không mất phương hướng và đạt được những thành quả cao nhất mà nó có thể đạt được, đặc biệt trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Triết học Mác-Lênin còn giúp cho con người tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của công cuộc đổi mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, triết học Mác-Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn cách giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tránh cả hai thái cực sai lầm: hoặc xem thường triết học hoặc là tuyệt đối hoá vai trò của triết học. Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động và sáng tạo. Tuyệt đối hoá vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý, những quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những trường hợp riêng, dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại. Mục đích của việc nghiên cứu triết học là nhằm bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng; đề phòng và chống chủ nghĩa chủ quan, giáo điều, tránh phương pháp tư duy siêu hình, sáng tạo trong vận dụng nguyên lý khoa học vào thực tiễn, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. 22
  19. BÀI 2 VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC I. VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT 1. Vật chất là gì? Đứng trước vô số các sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới xung quanh, các nhà triết học đều đưa ra câu hỏi rằng cái gì đã tạo ra chúng. Có rất nhiều ý kiến khác nhau trả lời cho câu hỏi này, tựu trung lại, có hai loại quan điểm đối lập nhau: Loại quan điểm cho rằng cái sinh ra các sự vật, hiện tượng phong phú, đa dạng của thế giới xung quanh chúng ta là tinh thần. Đây là quan điểm duy tâm. Nhìn chung, các nhà triết học duy tâm tuy chia thành nhiều trường phái khác nhau, nhưng lại giống nhau về cơ bản ở chỗ họ luôn luôn tìm cách xuyên tạc hoặc loại bỏ phạm trù vật chất. Theo họ, nếu loại bỏ được phạm trù vật chất cũng có nghĩa là loại bỏ được chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa duy vật. Đối lập hoàn toàn với quan điểm duy tâm là loại quan điểm cho rằng, cái sinh ra mọi vật là vật chất. Đây là quan điểm duy vật. Chủ nghĩa duy vật cho rằng mọi sự vật, hiện tượng và quá trình xung quanh chúng ta chỉ là sự biểu hiện các dạng khác nhau của vật chất đang vận động. Vì vậy đối với chủ nghĩa duy vật nói chung, phạm trù vật chất là phạm trù xuất phát, cơ bản, trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống triết học của mình. Nhưng vật chất là gì thì trong lịch sử triết học, các nhà triết học duy vật đã có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau. Đó cũng là lẽ đương nhiên, vì để hiểu và định nghĩa đúng vật chất phải có một quá trình phát triển nhất định của hoạt động thực tiễn, của khoa học và của nhận thức. 23
  20. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất Chủ nghĩa duy vật trước Mác có rất nhiều định nghĩa khác nhau về vật chất, trong đó có các định nghĩa điển hình sau đây: Định nghĩa đầu tiên về vật chất cho rằng vật chất là một vật thể cụ thể, hữu hình đặc biệt nhất định. Xuất phát từ nhận thức trực quan, cảm tính, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng mọi sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới đều được bắt nguồn từ một nguyên thể đầu tiên rõ rệt. Đây là quan điểm nhất nguyên thể. Chẳng hạn, Talét cho vật chất là nước. Anaximen cho vật chất là không khí. Hêraclít cho vật chất là lửa. Một số nhà triết học khác lại cho rằng thế giới sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới do một số nguyên thể đầu tiên tạo thành. Đây là quan điểm đa nguyên thể. Chẳng hạn, nhà triết học Hy Lạp cổ đại Empêdôclơ (khoảng 490 - 430 trước công nguyên) và trường phái triết học không chính thống Lôkayata ở Ấn Độ cổ đại đều cho rằng bốn yếu tố: đất, nước, lửa (hay ánh sáng), không khí (hay gió) sinh ra mọi vật. Còn thuyết ngũ hành của triết học Trung Quốc cổ đại cho rằng năm yếu tố: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ là những yếu tố khởi nguyên cấu tạo nên mọi vật. Nhìn chung, quan điểm đa nguyên thể giải thích sự biến đổi của giới tự nhiên là do sự kết hợp khác nhau của những nguyên thể đầu tiên. So với quan điểm nhất nguyên thể thì quan điểm đa nguyên thể là một bước tiến nhất định trong quá trình nhận thức về vật chất, vì quan điểm này cho cơ sở của mọi vật là một số đối tượng rộng hơn. Bước tiến mới trên con đường xây dựng quan điểm duy vật về vật chất là định nghĩa vật chất của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Anaximăngđrơ. Ông cho rằng, cơ sở đầu tiên của mọi vật trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn, đó là Apâyrôn. Theo ông, Apâyrôn luôn ở trong trạng thái vận động không ngừng, từ đó nảy sinh ra những mặt đối lập bao trùm trong nó như nóng và lạnh, khô và ướt, sinh ra 24
  21. và chết đi v.v Apâyrôn cũng vẫn là một vật thể, nhưng là một vật thể mà người ta không nhìn thấy được; còn tất cả các vật thể mà người ta nhìn thấy được là những trạng thái khác nhau của Apâyrôn. Đây là một cố gắng muốn thoát ly cách nhìn trực giác về vật chất, muốn đi tìm một bản chất sâu sắc hơn đằng sau mặt cảm tính bên ngoài của các sự vật, hiện tượng. Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật chất của hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại: Lơxíp (khoảng 500 - 440 trước công nguyên) và Đêmôcrít . Hai ông định nghĩa vật chất là nguyên tử, căn nguyên của mọi vật là nguyên tử. Nguyên tử là những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia. Nguyên tử tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng tạo ra và cũng không thể bị huỷ diệt. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới là do sự kết hợp và phân giải của các nguyên tử mà thành. Tuy còn hạn chế như quy vật chất về một dạng cụ thể của vật chất, nhưng học thuyết nguyên tử là một bước phát triển mới trên con đường hình thành phạm trù vật chất trong triết học, tạo cơ sở triết học mới cho nhận thức khoa học về vật chất sau này. Các quan điểm nhất nguyên thể, đa nguyên thể, Apâyrôn sang các thời kỳ khác đã bị bỏ qua, nhưng học thuyết nguyên tử của Lơxíp và Đêmôcrít vẫn được các nhà triết học và khoa học tự nhiên thời kỳ phục hưng và cận đại (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII) như Galilê, Đêcáctơ, Bêcơn, Hốpxơ, Xpinôda, Hônbách, Điđơrô, Niutơn v.v đứng trên lập trường duy vật, khẳng định và tiếp tục phát triển thêm. Thậm chí sang thế kỷ XIX người ta vẫn còn đồng nhất vật chất với nguyên tử, vẫn coi nguyên tử là viên gạch nhỏ cuối cùng xây dựng lên lâu đài thế giới vật chất. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX bác bỏ quan điểm duy vật siêu hình về vật chất. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên mà chủ yếu là vật lý học đã có một loạt phát minh rất quan trọng đem lại cho con người 25
  22. những hiểu biết mới về cấu trúc và tính chất của vật chất trong lĩnh vực vi mô, đã làm thay đổi căn bản quan niệm cổ truyền về vật chất. Năm 1895, nhà vật lý học Đức Rơnghen đã phát hiện ra tia X. Đó là những sóng điện từ có bước sóng rất ngắn. Phát minh này đã xác định được nguồn gốc của tia X ở nguyên tử. Điều đó chứng tỏ nguyên tử không phải là một cái gì hoàn toàn đơn giản. Năm 1896, nhà vật lý học Pháp Béccơren phát hiện được hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Uranium; rằng, do quá trình phóng xạ, sau khi bức xạ ra hạt anpha (α), nguyên tố phóng xạ biến thành nguyên tố khác. Phát minh này chứng tỏ rằng các nguyên tố hoá học không phải là bất biến mà có thể chuyển hoá lẫn nhau. Nguyên nhân của sự biến đổi ấy là do tính không bền vững của nguyên tử gây ra. Điều đó bác bỏ quan niệm siêu hình cho rằng nguyên tố hóa học là bất biến. Năm 1897, nhà vật lý học Anh Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Điều đó chứng tỏ rằng nguyên tử rất phức tạp và có thể phân chia được. Năm 1901, nhà vật lý học Đức Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là bất biến mà biến đổi theo vận tốc của điện tử, rằng trong quá trình vận động: khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Phát minh này bác bỏ quan điểm siêu hình coi khối lượng là bất biến và đồng nhất vật chất với khối lượng. Tất cả những phát minh ấy đưa lại cho con người những hiểu biết mới sâu sắc về nguyên tử rằng, nguyên tử có cấu trúc phức tạp, không phải là đơn vị nhỏ nhất, mà có thể bị phân ra và chuyển hoá. Điều đó đã gây ra một cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong các nhà triết học và khoa học tự nhiên, khiến cho những nhà khoa học "giỏi khoa học nhưng kém cỏi về triết học" đã trượt từ chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, đến chủ nghĩa tương đối, hoài nghi và cuối cùng rơi vào quan điểm của chủ nghĩa duy 26
  23. tâm, rằng "vật chất tiêu tan". Lợi dụng cơ hội này, các nhà triết học duy tâm, một mặt đã biện hộ cho những quan điểm sai lầm của mình; mặt khác, đẩy mạnh cuộc tấn công trực diện vào khái niệm vật chất. Họ la lối lên rằng nếu nguyên tử bị phá vỡ, tức là "vật chất tiêu tan" và chủ nghĩa duy vật dựa trên nền tảng khái niệm vật chất đó cũng phải bị biến mất theo. Bác bỏ sự giải thích duy tâm chủ nghĩa đối với phạm trù vật chất, V.I. Lênin chỉ ra rằng không phải là vật chất tiêu tan mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là giới hạn của sự nhận thức về vật chất. V.I. Lênin gọi những nhà vật lý suy nghĩ theo lối siêu hình là những nhà "duy tâm vật lý". Người vạch rõ những phát minh mới nhất của khoa học tự nhiên không hề bác bỏ vật chất mà chỉ chứng tỏ sự hiểu biết của con người về vật chất còn hạn chế. Giới hạn nhận thức của chúng ta ngày hôm qua là nguyên tử, hôm nay là các hạt cơ bản và ngày mai thì chính cái giới hạn ấy cũng sẽ mất đi. Nhận thức của con người ngày càng đi sâu vào vật chất, phát hiện những thuộc tính, những kết cấu mới của nó. Để giải quyết cuộc khủng hoảng đó, V.I. Lênin cho rằng: "Tinh thần duy vật cơ bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ chiến thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình"1. Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin Tình hình mới của lịch sử và thời đại đặt ra là phải chống lại chủ nghĩa duy tâm các loại và khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác trong quan niệm về vật chất. Muốn vậy phải có một quan niệm chính xác về vật chất. V.I. Lênin đã hoàn thành nhiệm vụ đó. Một mặt, trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên; mặt khác, kế thừa và tiếp tục 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr. 379. 27
  24. phát triển những tư tưởng triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự đối lập giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể v.v, vào năm 1908, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán V.I. Lênin đã nêu ra định nghĩa khoa học về vật chất: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"1. Để nắm nội dung định nghĩa vật chất của V.I. Lênin, trước hết cần tìm hiểu phương pháp định nghĩa vật chất. V.I.Lênin chỉ ra rằng không thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp định nghĩa các khái niệm thông thường. Phương pháp định nghĩa các khái niệm thông thường là quy khái niệm cần định nghĩa vào khái niệm rộng hơn nó, rồi chỉ ra đặc điểm của nó. Chẳng hạn định nghĩa: hình vuông là hình tứ giác có bốn cạnh bằng nhau, bốn góc vuông và có hai đường chéo bằng nhau, giao điểm giữa hai đường chéo vuông góc và chia đường chéo thành hai nửa bằng nhau. Nhưng đối với phạm trù vật chất, với tư cách là một phạm trù triết học - một phạm trù khái quát nhất và rộng cùng cực, không thể có một phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất - thì duy nhất về mặt phương pháp luận chỉ có thể định nghĩa vật chất bằng cách đối lập tuyệt đối nó với ý thức, xem vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức là cái phản ánh nó. V.I. Lênin chỉ ra rằng "không thể đem lại cho hai khái niệm nhận thức luận này một định nghĩa nào khác ngoài cách chỉ rõ rằng trong hai khái niệm đó, cái nào được coi là có trước". Vì vậy, trong định nghĩa vật chất đã xuất hiện từ cảm giác (tức ý thức). Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao hàm các nội dung sau đây: 1. Sđd, tr.151. 28
  25. Một là, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan. Khi nói vật chất với tư cách là một phạm trù triết học thì nó là một sự trừu tượng. Vì vậy "chúng ta không biết, vì chưa có ai nhìn được và cảm thấy vật chất với tính cách là vật chất bằng con đường cảm tính nào khác"1. Song sự trừu tượng này chỉ cái đặc tính chung nhất, bản chất nhất mà mọi sự vật, hiện tượng cụ thể nào của vật chất cũng có, đó là đặc tính tồn tại khách quan” và độc lập với ý thức của loài người. Đặc tính này là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Khi nghiên cứu nội dung này cần phải chú ý cả hai khía cạnh phân biệt nhau, nhưng lại gắn bó với nhau, đó là tính trừu tượng và tính hiện thực cụ thể của vật chất. Nếu chỉ thấy tính trừu tượng, thổi phồng tính trừu tượng mà quên mất những biểu hiện cụ thể của vật chất thì không thấy vật chất đâu cả, sẽ rơi vào lập trường duy tâm. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng, "có thể nhận biết được vật chất bằng cách nghiên cứu những vật thể riêng biệt"2. "Chúng ta rất có thể ăn được trái anh đào và trái mận, nhưng chúng ta không thể ăn được trái cây vì chưa có ai ăn được trái cây với tính cách là trái cây"3 Ngược lại, nếu chỉ thấy tính hiện thực cụ thể của vật chất sẽ đồng nhất vật chất với vật thể. Cần khẳng định rằng chủ nghĩa duy vật mácxít không bao giờ quy vật chất thành những "viên gạch nhỏ của lâu dài thế giới" có tính chất bất biến mà luôn luôn hiểu vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức và được ý thức của con người phản ánh. Ý nghĩa của nội dung này là ở chỗ: thứ nhất, khắc phục triệt để sai lầm cơ bản của chủ nghĩa duy vật trước Mác, đó là quy vật chất về một 1,2,3. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr. 726, 727. ” Cần chú ý rằng: Trong tồn tại khách quan có bao hàm "tồn tại cảm tính", tức là có bao hàm cái tồn tại mà chúng ta cảm biết được thông qua các giác quan của mình. Do vậy, khái niệm tồn tại khách quan chỉ bao hàm chứ không phải đồng nhất với khái niệm tồn tại cảm tính, vì có những cái tồn tại khách quan nhưng hiện này chúng ta chưa cảm biết được. Nếu thừa nhận điều khác nhau cơ bản giữa vật chất và ý thức là ở sự tồn tại cảm tính này thì có nghĩa phải thừa nhận rằng những cái gì tồn tại một cách khách quan nhưng chúng ta chưa cảm biết được không phải là vật chất. 29
  26. dạng cụ thể của vật chất; đưa học thuyết duy vật tiến lên một bước mới, đáp ứng được những đòi hỏi mới do những phát minh mới nhất của khoa học tự nhiên đề ra; thứ hai, cho chúng ta cơ sở khoa học để nhận thức vật chất dưới dạng xã hội, đó là những quan hệ sản xuất, tổng hợp các quan hệ sản xuất là cơ sở hạ tầng, tạo thành quan hệ vật chất, và từ đây làm nảy sinh quan hệ tư tưởng, đó là kiến trúc thượng tầng. Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Hai là, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Với nội dung này, V.I. Lênin làm rõ mối quan hệ giữa thực tại khách quan và cảm giác, rằng thực tại khách quan (tức là vật chất) là cái có trước ý thức, không phụ thuộc vào ý thức, độc lập với ý thức; còn cảm giác (tức là ý thức) của con người là cái có sau vật chất, do vật chất sinh ra, phụ thuộc vào vật chất. Như vậy vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức; không có cái bị phản ánh là vật chất sẽ không có cái phản ánh là ý thức. Ý thức là sản phẩm của sự tác động của vật chất vào giác quan con người. Tất cả những gì tồn tại khách quan tác động vào giác quan đem lại cho con người trong cảm giác đều là vật chất. Ý nghĩa của nội dung này là ở chỗ: nó chống lại mọi luận điệu sai lầm của chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức như duy tâm chủ quan, duy tâm khách quan, nhị nguyên luận v.v. là những trường phái triết học cố luận giải cho tinh thần là cái sinh ra mọi sự vật, hiện tượng phong phú, đa dạng của thế giới xung quanh chúng ta. Ba là, thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh. Với nội dung này, V.I. Lênin chứng minh vật chất tồn tại khách quan, nhưng không phải tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại 30
  27. một cách hiện thực dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể, và con người bằng các giác quan của mình có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được. Nghĩa là, ngoài dấu hiệu tồn tại khách quan, vật chất còn có một dấu hiệu quan trọng khác đó là tính có thể nhận thức được. Khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh V.I. Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau như chép lại, chụp lại, phản ánh con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Vì vậy, về nguyên tắc, không có đối tượng vật chất nào không thể nhận biết, chỉ có những đối tượng vật chất chưa nhận thức được mà thôi. Ý nghĩa của nội dung này là ở chỗ: thứ nhất, hoàn toàn bác bỏ thuyết không thể biết; thứ hai, cổ vũ các nhà khoa học ngày càng đi sâu vào nghiên cứu, phát hiện ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới cũng như những quy luật vận động và phát triển của thế giới vật chất, từ đó làm giàu thêm kho tàng tri thức của nhân loại. Là kết quả của sự khái quát trên phương diện triết học những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên và hoạt động thực tiễn của con người, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải đáp một cách khoa học, sâu sắc cả hai mặt nội dung vấn đề cơ bản của triết học. Vì vậy, ngoài ý nghĩa thế giới quan khoa học trên đây, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin còn có ý nghĩa phương pháp luận chung đối với chúng ta trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vì vật chất có trước, tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức, ý thức có sau vật chất; vật chất quyết định ý thức, cho nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn "phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan"1, phải xuất phát từ điều kiện vật chất 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.30. 31
  28. khách quan đã và đang có làm cơ sở cho mọi hành động của mình; không được lấy ý muốn, nguyện vọng chủ quan làm điểm xuất phát. Yêu cầu khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cho địa phương mình, đơn vị mình, ngành mình, phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan thì mới nêu ra mục đích, chủ trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn. Ngược lại, cần chống thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, không đếm xỉa đến điều kiện vật chất khách quan, tuỳ tiện, phiến diện; lấy ý muốn, nguyện vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương, chính sách; hậu quả là đường lối không hiện thực, không tưởng và tất yếu sẽ đi đến thất bại trong hoạt động thực tiễn. 96 năm đã trôi qua, định nghĩa kinh điển về vật chất của triết học mácxít do V.I. Lênin nêu ra luôn luôn có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận khoa học đối với giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong công cuộc sáng tạo xã hội mới. Và cả trong thời đại hiện nay, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin vẫn là cơ sở lý luận khoa học cho các đảng cộng sản và công nhân trong cuộc đấu tranh cho sự trong sáng của lý luận mácxít, chống lại mọi sai lầm của các trào lưu triết học tư sản hiện đại, chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại trong triết học. 2. Các hình thức tồn tại của vật chất Sẽ là không đầy đủ, nếu sau khi làm rõ vật chất là gì, chúng ta không đề cập đến một vấn đề liên quan chặt chẽ với vật chất, đó là vật chất tồn tại bằng cách nào? Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động, và vận động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận động, không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất. Vận động 32
  29. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng như sự phát triển của khoa học hiện đại đã chứng minh rằng: không thể hiểu vận động chỉ theo nghĩa cơ học, tức là sự chuyển dịch vị trí của vật thể trong không gian, mà phải hiểu vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Tư tưởng ấy đã được Ph.Ăngghen khái quát như sau: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy"1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất: Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, điều đó có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Như vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng ở trong trạng thái vận động. Từ các thiên thể khổng lồ đến những hạt vô cùng nhỏ, từ giới vô sinh đến giới hữu sinh, từ các sự vật, hiện tượng tự nhiên đến xã hội loài người, tất cả đều không ngừng biến đổi dưới hình thức này hay hình thức khác. Nguồn gốc của vận động nằm trong ngay bản thân sự vật, bản thân vật chất: Vật chất bao giờ cũng ở trong trạng thái vận động, bởi vì bất cứ sự vật, hiện tượng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có một kết cấu nhất định. Kết cấu đó gồm những nhân tố, những bộ phận, những xu hướng khác nhau, đối lập nhau. Sự tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau của các yếu tố đó gây ra những biến đổi nói chung, tức là vận động. Vì vậy, nguồn gốc của vận động là do sự tác động của các mặt khác biệt bên trong của các kết cấu vật chất tạo nên. Do đó, vận động của vật chất là tự vận động. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất: 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr. 519. 33
  30. Thế giới vật chất biểu hiện ở tính hiện thực khách quan thông qua các dạng cụ thể là các sự vật, hiện tượng, quá trình muôn màu, muôn vẻ. Do đó, các hình thức vận động cụ thể của các đối tượng vật chất cũng vô cùng phong phú. Song, với cách nhìn khái quát theo quan điểm duy vật biện chứng, Ph.Ăngghen đã rút ra năm hình thức vận động cơ bản của vật chất là: Một là, vận động cơ học (sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian). Hai là, vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động của điện từ, của các quá trình nhiệt, điện v.v.). Ba là, vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá học và phân giải các chất). Bốn là, vận động sinh vật (sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường). Năm là, vận động xã hội (sự biến đổi, thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội). Các hình thức vận động cơ bản có sự khác nhau về chất, nhưng lại tồn tại trong mối liên hệ biện chứng với nhau. Mỗi hình thức vận động được thực hiện là do tác động qua lại với nhiều hình thức vận động khác. Mối liên hệ giữa các hình thức vận động cơ bản còn biểu hiện ở chỗ: mỗi hình thức vận động đều có khả năng chuyển hoá thành hình thức vận động khác. Vận động và đứng im: Mọi sự vật, hiện tượng vật chất đều ở trong quá trình không ngừng vận động. Song, điều đó không loại trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối. Vậy đứng im là gì ? Đứng im là biểu hiện của một trạng thái vận động trong thăng bằng, trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa biến đổi. Không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật cụ thể nào tồn tại và phát triển được. Đứng im tương đối là điều kiện chủ yếu để một vật này tách biệt được với một vật khác. Muốn hiểu được sự thống nhất giữa vận động và đứng im cần phải nắm vững đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im là có tính tương đối và 34
  31. tạm thời. Nghĩa là: Thứ nhất, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định, chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Thứ hai, hiện tượng đứng im chỉ là đối với một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Thứ ba, hiện tượng đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động. Đó là, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Chính nhờ trạng thái ổn định này mà vật chất biểu hiện thành các sự vật, hiện tượng cụ thể và qua đó sự vật mới có điều kiện để thực hiện sự phân hoá tiếp theo. Do đó, trạng thái đứng im được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định. Vận động cá biệt có xu hướng hình thành một sự vật, hiện tượng ổn định nào đó, nhưng sự vận động nói chung, tức là sự tác động qua lại của các mặt, các bộ phận, các yếu tố trong sự vật, và của vô số những sự vật, hiện tượng làm cho tất cả đều không ngừng biến đổi. Vì vậy, đứng im chỉ có thể là một hiện tượng tạm thời. Chính vì thế mà Ph.Ăngghen viết: "Vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt"1. Tóm lại, vận động là tuyệt đối và vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời. Đây cũng là một trong những quan điểm xuất phát cơ bản của phép biện chứng duy vật. Không gian và thời gian Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động ấy không ở đâu khác "ngoài không gian và thời gian". Không gian và thời gian là một thuộc tính khách quan của vật chất, gắn liền với sự vận động của vật chất. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, sđd, t.20, tr. 740. 35
  32. Mọi sự vật tồn tại khách quan đều có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn, ngang dọc, cao thấp của nó. Tất cả những thuộc tính đó được gọi là không gian. Mọi sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến đổi diễn ra đều có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau, tất cả những thuộc tính đó được gọi là thời gian. Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu; còn thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình. Chính vì vậy, V.I.Lênin viết: "Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian"1. Tính chất của không gian và thời gian: Không gian và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách rời nhau của vật chất vận động. Vì vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau đây: Tính khách quan: không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất, tồn tại gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cùng tồn tại khách quan. Tính vĩnh cửu của thời gian và tính vô tận của không gian. Những thành tựu của vật lý hiện đại về lĩnh vực vi mô cũng như vũ trụ học ngày càng xác nhận những tính chất này. Trong thế giới của chúng ta, không gian thực tế có ba chiều, còn thời gian chỉ có một chiều từ quá khứ đến tương lai. 3. Tính thống nhất vật chất của thế giới 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr. 209 - 210. 36
  33. Xuất phát từ quan điểm: thế giới vật chất tồn tại khách quan, luôn luôn vận động và phát triển; mọi sự vật, hiện tượng đều là các dạng cụ thể muôn hình, muôn vẻ; nhưng tất cả đều có cùng một bản chất vật chất, đều có một đặc tính cơ bản và quan trọng đó là "thực tại khách quan" tồn tại độc lập với ý thức con người. Thế giới thống nhất ở bản chất vật chất. Kết luận khái quát đó được rút ra từ quá trình phát triển lâu dài của triết học và của các ngành khoa học cụ thể đã khẳng định sự đối lập về quan điểm giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, đồng thời cũng bác bỏ cả quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau, do đó tất yếu họ phải tìm nguồn gốc và bản chất của thế giới vật chất từ sự thống nhất của ý thức. Quan điểm đó cũng chính là cơ sở lý luận của các thuyết tôn giáo. Vì từ xưa, tôn giáo đều chia thế giới làm ba bộ phận tuyệt đối khác nhau về bản chất: thiên đường, trần gian, địa ngục và cho rằng các bộ phận đó đều do các đấng thiêng liêng, một lực lượng nào đó ở bên ngoài tự nhiên tạo ra và chi phối. Chủ nghĩa duy vật trước Mác đều có một khuynh hướng chung đúng đắn là muốn tìm nguồn gốc, bản chất và sự thống nhất của thế giới vật chất ở ngay trong bản thân nó. Nhưng do phương pháp xem xét siêu hình, máy móc, nên các nhà triết học duy vật siêu hình đều có xu hướng cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều được cấu tạo từ những vật thể "ban đầu" giống nhau, thống nhất với nhau; hoặc cho rằng thế giới thống nhất là ở sự tồn tại của nó. Những quan niệm này không phản ánh đúng sự biến đổi nhiều vẻ, tính vô tận của thế giới hiện thực. Vì vậy, nó đã dẫn đến sự khủng hoảng về quan điểm và không tránh khỏi rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm. Căn cứ vào sự phát triển của hoạt động thực tiễn và sự phát triển khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật chất và thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều này đã được thể 37
  34. hiện ở những điểm cơ bản sau: Một là, chỉ có một thế giới thống nhất và duy nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người. Hai là, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều có mối liên hệ vật chất thống nhất với nhau, chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất. Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn và vô tận. Trong thế giới đó không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau theo những quy luật khách quan của thế giới vật chất. Bốn là, tính vật chất của thế giới được biểu hiện cụ thể trong đời sống hiện thực của con người. Đó là, con người không bao giờ bằng ý thức của mình mà sản sinh ra được các đối tượng vật chất. Con người với ý thức chỉ có thể nhận thức được những quy luật vận động, phát triển của thế giới vật chất, cải biến thế giới vật chất theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Những quan điểm khái quát đó của chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải chỉ được khẳng định bằng kinh nghiệm thực tiễn mà còn được chứng minh bằng khoa học hiện đại như: - Vật lý học hiện đại đã chứng minh được sự tồn tại khách quan của các hạt cơ bản cấu tạo nên các dạng khác nhau của vật chất. Vật lý thực nghiệm không những đã chứng minh sự tồn tại khách quan của các hạt sơ cấp, mà còn tạo ra được các hiện tượng ấy trong những điều kiện nhân tạo, nhằm phục vụ cho các nhu cầu của hoạt động thực tiễn. Từ đó bác bỏ sự xuyên tạc và phủ nhận sự tồn tại khách quan của các hạt sơ cấp trong lĩnh vực vật lý vi mô. - Hoá học cũng đã chứng minh được rằng, sự thống nhất vật chất của thế giới biểu hiện ở sự thống nhất giữa vô cơ và hữu cơ. Giới hữu cơ chỉ là từ giới vô cơ phát triển lên, có kết cấu và trình độ tổ chức phức tạp hơn mà thôi. Và các vật thể hữu cơ phân hoá lại có thể chuyển hoá thành các vật 38
  35. thể vô cơ. Do đó, giới vô cơ và hữu cơ là có cùng bản chất vật chất, có sự thống nhất và chuyển hoá lẫn nhau. - Sự phát triển của sinh vật học, từ những phát hiện về tế bào, tiến hoá luận, đến lý thuyết về các phân tử ADN và ARN đã khẳng định rằng, thực vật, động vật và cơ thể con người có thành phần vô cơ không khác nhau, có cấu trúc và phân hoá tế bào giống nhau, là các bậc thang tiến hoá của nhau, có cùng một cơ chế chi phối di truyền sự sống như nhau. Các cơ thể sống đều qua trao đổi chất với môi trường mà duy trì phát triển sự sống. - Trong quá trình phát triển của hoạt động thực tiễn và khoa học, con người còn phát hiện được những mắt khâu trung gian, chuyển hoá giữa các lĩnh vực cơ bản trong thế giới hiện thực, đó là: sự phát hiện cấu trúc của các hy-đrô-các-bua và các phân tử hữu cơ tiền tế bào đã chứng minh được mối liên hệ giữa giới vô cơ, hữu cơ và sự sống. Sự phát hiện về vượn người đã chứng minh mối liên hệ giữa động vật với con người có ý thức. Các mắt khâu trung gian đó chứng tỏ khả năng chuyển hoá giữa các bộ phận và các lĩnh vực khác nhau của thế giới. Phát hiện được sự giống nhau giữa các lĩnh vực khác nhau của hiện thực và các mắt khâu trung gian chuyển hoá giữa chúng đã chứng tỏ rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều thống nhất ở bản chất vật chất. Thế giới vật chất luôn vận động và phát triển. Mọi sự vật và hiện tượng đều có khả năng chuyển hoá lẫn nhau, nên chúng biểu hiện ra rất đa dạng và phong phú. Điều đó khẳng định quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng là: chỉ có một thế giới thống nhất và duy nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan, luôn vận động và phát triển theo những quy luật vốn có của nó. Các sự vật, hiện tượng và quá trình cụ thể phong phú, đa dạng của thế giới đều thống nhất ở bản chất vật chất của chúng. II. Ý THỨC - NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC 39
  36. Ý thức là vấn đề hết sức trừu tượng, cho nên không thể nhận thức nó bằng trực quan cảm tính. Không có một giác quan nào của chúng ta có thể trực tiếp hoặc gián tiếp biết được ý thức (không thể nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, sờ thấy, nếm được ý thức); cũng không thể dùng máy móc để nhìn và cân đo ý thức. Rõ ràng ý thức hoàn toàn không có đặc tính vật lý như những vật thể. Song, như thế không có nghĩa là ý thức thuộc về giới siêu tự nhiên và không phụ thuộc vào vật chất, không có nghĩa là chúng ta không nghiên cứu được ý thức. Trước khi nghiên cứu quan điểm khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc và bản chất của ý thức, chúng ta hãy xem xét một số quan điểm sai lầm về ý thức. 1. Một số quan điểm sai lầm về ý thức Chủ nghĩa duy tâm Trong triết học trước Mác, chủ nghĩa duy tâm, đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm biện chứng có nhiều đóng góp trong việc phát hiện ra tính năng động, tích cực của ý thức tư tưởng. Song, khi nêu tính năng động, tích cực của ý thức thì chủ nghĩa duy tâm phạm phải sai lầm cơ bản là nó đã tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, gán cho ý thức có khả năng đặc biệt là tồn tại tách rời khỏi vật chất. Mỗi hệ thống triết học duy tâm bằng cách này hay cách khác đã giải thích ý thức là một thực thể siêu tự nhiên, có đời sống độc lập, vĩnh cửu; ý thức không những không phụ thuộc vào vật chất, mà hơn thế nữa, nó còn có trước vật chất, sáng tạo ra thế giới vật chất và điều khiển sự phát triển của thế giới vật chất. Chủ nghĩa duy vật trước Mác Khác với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chủ nghĩa duy vật, từ triết học duy vật cổ đại đến triết học duy vật cận đại của Phoiơbắc đều khẳng định rằng: giữa vật chất và ý thức, thì vật chất là cái có trước ý thức, ý thức là cái có sau vật chất và do vật chất sinh ra. Nhưng do hạn chế về nhận thức 40
  37. và do khoa học chưa phát triển, cho nên chủ nghĩa duy vật trước Mác đã giải thích sai lầm về nguồn gốc và bản chất của ý thức. Chẳng hạn, triết học vật hoạt luận không phân biệt được dạng vật chất nào mới có khả năng sản sinh ra ý thức, mà lại cho rằng ý thức là đặc tính phổ biến của mọi dạng vật chất. Theo các nhà vật hoạt luận, thì không chỉ có con người mà cả động vật và bất cứ sinh vật nào của giới tự nhiên hữu sinh cũng như vô sinh đều có ý thức, có điều nó không nói ra nên ta không biết được. Chủ nghĩa duy vật tầm thường- trào lưu triết học ở giữa thế kỷ XIX lại không thấy được ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất và có bản chất riêng biệt, cho nên chủ nghĩa duy vật tầm thường đã đồng nhất vật chất với ý thức, coi ý thức cũng là một dạng vật chất. Chẳng hạn, nhà triết học duy vật Pháp Cabanít (1757-1808) cho rằng, óc tiết ra tư tưởng giống như gan tiết ra mật, như tuyến tụy tiết ra dịch vị mà thôi. Quan niệm máy móc này không phân biệt được đặc tính riêng của những hiện tượng tinh thần, ý thức. V.I. Lênin chỉ ra rằng: "Gọi tư tưởng là có tính vật chất, thì tức là bước một bước sai lầm đến chỗ lẫn lộn chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm"1. Cho ý thức là vật chất sẽ tạo điều kiện cho chủ nghĩa duy tâm chứng minh ngược trở lại rằng vật chất cũng là ý thức. 2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý thức Nguồn gốc của ý thức Nguồn gốc tự nhiên: Chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng thuộc tính phản ánh của vật chất dẫn đến sự ra đời của ý thức là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. 1. V.I.Lênin: Toàn tập, sđd, t.18, tr. 300. 41
  38. Phản ánh là năng lực một hệ thống vật chất này (A) tái hiện ở trong nó những đặc điểm (dưới dạng ít nhiều đã biến đổi) của một hệ thống vật chất khác (B), khi chịu tác động của B. Phản ánh được biểu hiện ra qua sự tác động lẫn nhau của các hệ thống vật chất. A là hệ thống vật phản ánh, B là hệ thống vật được phản ánh (hay vật gây tác động), trong đó vật được phản ánh giữ vai trò quyết định. Vì vậy, nếu không có vật được phản ánh thì cũng không có vật phản ánh tác động vào. Tuy hệ thống vật được phản ánh quy định nội dung vật phản ánh, nhưng tính chất, mức độ đầy đủ, chính xác của sự phản ánh lại phụ thuộc vào bản tính, trình độ tổ chức vật chất của hệ thống vật phản ánh. Có thể nhận thấy điều đó qua xem xét các hình thức tiến hoá của thuộc tính phản ánh. Các hình thức phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý thức: Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Thuộc tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Tất cả mọi dạng vật chất, từ vật chất vô sinh đến vật chất hữu sinh và đến vật chất dưới dạng xã hội đều có thuộc tính phản ánh. Thuộc tính phản ánh cũng trải qua một quá trình tiến hoá tương ứng từ vô sinh đến hữu sinh và đến xã hội, cuối cùng nảy sinh ra ý thức. Sự khác biệt giữa khái niệm phản ánh và ý thức được V.I. Lênin chỉ rõ rằng, nếu “khẳng định rằng hết thảy mọi vật chất đều có ý thức là không hợp với lôgíc, nhưng giả định rằng hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất gần giống như cảm giác, đặc tính phản ánh, thì như vậy lại hợp với lôgíc"1. Phản ánh vật lý là hình thức phản ánh đơn giản nhất của vật chất, đặc 1 V.I.Lênin: Toàn tập, sđd, t.18, tr. 104. 42
  39. trưng cho giới tự nhiên vô sinh. Ví dụ: tiếng vang của âm thanh dội vào vách núi vọng lại; mặt nước, mặt gương phản chiếu ánh sáng; một thanh sắt han gỉ do chịu sự tác động của không khí, hơi nước. Sự phản ánh đó không phải chỉ do tác động bên ngoài mà còn phụ thuộc vào tính chất bên trong của vật phản ánh. Do đó, sự phản ánh sẽ khác nhau đối với các vật khác nhau. Sự phản ánh của vật chất không sống là sự phản ánh đơn giản, thụ động, không có sự định hướng, chưa có tính chọn lọc. Phản ánh sinh vật hình thành trên cơ sở phản ánh vật lý. Đây là hình thức phản ánh mới về chất chỉ có ở cơ thể sống - thế giới thực vật và thế giới động vật, gắn liền với quá trình chuyển hoá biện chứng từ thế giới không sống sang thế giới sống. Hình thức phản ánh đơn giản nhất ở cơ thể sống là tính kích thích do tác động của môi trường. Tính kích thích đặc trưng cho thế giới thực vật và các động vật bậc thấp chưa có hệ thần kinh. Đó là sự phản ánh ít nhiều có tính định hướng, có sự "chọn lọc" của cơ thể đối với những tác động bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sống của chúng. Nhờ vậy sinh vật có thể định hướng và thích nghi được với môi trường xung quanh. Chẳng hạn, rễ cây phát triển mạnh về phía đất có nhiều chất dinh dưỡng, cây cối phát triển cành lá về phía có nhiều ánh sáng mặt trời để nhận năng lượng, hoặc động vật tiết ra các chất, hay là phản ứng lại các tác động của môi trường về mặt dinh dưỡng hay tự vệ nhằm duy trì sự sống. Quá trình tiến hoá tiếp theo của các cơ thể sống dẫn đến sự ra đời của các cơ thể động vật có hệ thần kinh. Tương ứng với giai đoạn tiếp theo trong sự tiến hoá của cơ thể sống, các thuộc tính phản ánh gắn liền với hình thức phản ánh mới, cao hơn, hình thành trên cơ sở tính kích thích, đó là tính cảm ứng (hay là năng lực có cảm giác). So với tính kích thích, thì tính cảm ứng hoàn thiện hơn nhiều và đã có sự khác biệt cơ bản: hình thức phản ánh này được thực hiện ở ngay trong quá trình hệ thần kinh điều khiển mối liên 43
  40. hệ của cơ thể với môi trường, thông qua các phản xạ bẩm sinh, tự nhiên, bản năng vốn có của loài vật - các phản xạ không điều kiện. Quá trình tiến hoá của sinh vật dẫn đến sự xuất hiện hệ thần kinh trung ương ở động vật bậc cao. Mối liên hệ của cơ thể động vật bậc cao với môi trường xung quanh bây giờ được thực hiện dưới sự điều khiển của hệ thần kinh trung ương bằng các phản xạ có điều kiện (những phản xạ có tính tạm thời và hình thành trong những điều kiện nhất định). Điều đó có nghĩa là, trong những điều kiện nhất định, sự vật, hiện tượng tác động đến động vật có hệ thần kinh trung ương đã hình thành những mối liên hệ tạm thời trong bộ óc động vật. Hình ảnh hình thành trên cơ sở những liên hệ tạm thời như vậy ở trong bộ óc động vật, đó là phản ánh tâm lý. Phản ánh tâm lý gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện. Tâm lý động vật là trình độ cao nhất của sự phản ánh khi con người chưa ra đời. Tuy nhiên, tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới chỉ là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối. Phản ánh ý thức là phản ánh đặc trưng của con người đối với hiện thực khách quan. Ý thức nảy sinh từ sự phát triển của các hình thức phản ánh gắn liền với các dạng vật chất có tổ chức khác nhau. Ý thức là đặc trưng riêng của con người và là hình thức phản ánh cao nhất về thế giới xung quanh. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc người, nội dung của nó là thông tin về sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới khách quan được phản ánh. Bộ óc người - cơ quan vật chất có tổ chức cao là sản phẩm phát triển cao của thế giới vật chất. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc người thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc người thì hoạt động ý thức không thể xảy ra. Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới khách quan tác động lên bộ 44
  41. óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Song không phải cứ có sự tác động của thế giới vật chất lên bộ óc người là sẽ có ý thức. Để cho ý thức ra đời, cần phải có những điều kiện xã hội hay còn gọi là nguồn gốc xã hội. Nguồn gốc xã hội: Những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc con người, dưới ảnh hưởng của lao động, của ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội. Động vật tồn tại nhờ vào những thứ sẵn có trong tự nhiên. Nó bị môi trường chi phối toàn bộ đời sống, nó chỉ hành động theo bản năng gây ra những biến đổi đơn giản, ngẫu nhiên các sự vật tự nhiên, phục vụ nhu cầu sống của nó. Trái lại, con người vì cuộc sống của mình phải tiến hành lao động sản xuất, chủ động biến đổi giới tự nhiên theo hướng thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân. Đó là quá trình con người dùng công cụ tác động vào thế giới xung quanh để tạo ra những thứ khác với dạng tồn tại sẵn có trong giới tự nhiên. Trong quá trình hoạt động, ngay từ đầu lao động đã liên kết con người những thành viên xã hội lại với nhau thành các quan hệ xã hội khách quan, tất yếu. Cùng với sự phát triển của hoạt động lao động, các quan hệ khách quan, tất yếu này cũng không ngừng được củng cố và đã "phát triển đến mức là họ thấy cần thiết phải nói với nhau một cái gì đấy"1. Do nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức, phân công lao động trong quá trình lao động đã xuất hiện ngôn ngữ. Ph.Ăngghen viết: "Trước hết là lao động; sau 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr. 645. 45
  42. lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người"2, tâm lý động vật thành ý thức. Ngôn ngữ ra đời và trở thành cái vỏ vật chất của tư duy, thành phương tiện thể hiện ý thức. Nếu trong thí nghiệm của Páplốp*, ánh sáng đèn đóng vai trò tín hiệu của thức ăn khiến chó tiết nước bọt thì đối với con người, ngôn ngữ là tín hiệu của thức ăn. Ánh sáng đèn cũng chỉ là kích thích trực tiếp lên giác quan con vật, nhưng ngôn ngữ hơn hẳn ở tính gián tiếp của sự phản ánh. Do đó, Páplốp gọi ngôn ngữ là "tín hiệu của tín hiệu". Nhờ ngôn ngữ làm công cụ khái quát và trừu tượng mà phản ánh ý thức hơn hẳn phản ánh tâm lý ở tính sáng tạo và khả năng vượt trước hiện thực. Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, nhưng đến lượt nó, ngôn ngữ thúc đẩy lao động phát triển về chất lượng. Thông qua hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới khách quan, con người nhận thức được bản chất của thế giới, nhờ ngôn ngữ ghi lại tri thức về đối tượng, đồng thời tổng kết hoạt động của con người và giữa các thế hệ người với nhau trong lịch sử. Nếu ở động vật, kinh nghiệm sống chủ yếu được trao đổi qua di truyền, bản năng, thì ở loài người chủ yếu qua kỹ thuật và ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm hiểu biết của người này được truyền cho người kia, thế hệ này truyền cho thế hệ khác. Như vậy, ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân, mà là một hiện tượng có tính chất xã hội; do đó, không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Từ những điều đã trình bày trên đây, có thể khẳng định rằng, để cho ý thức xuất hiện phải cần và đủ bốn yếu tố: hiện thực khách quan, bộ óc 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr. 646. * Ivan Pêtrôvíc Páplốp (1849 - 1936): Nhà khoa học tự nhiên người Nga, người đặt cơ sở cho việc nghiên cứu thực nghiệm khách quan hoạt động thần kinh cao cấp của động vật và con người bằng phương pháp phản xạ có điều kiện. Thí nghiệm thành lập cơ chế tiết nước bọt ở chó. 46
  43. người, lao động và ngôn ngữ. Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội. Bản chất của ý thức Việc phân tích nguồn gốc của ý thức cũng bao hàm trong đó sự giải thích bản chất của nó. Tuy nhiên, trên một ý nghĩa nhất định, bản chất ý thức không nằm trong những điều kiện sinh ra nó. Ý thức là phạm trù triết học chỉ những hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất, diễn ra trong bộ óc người, được hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ. Vì vậy, ý thức không có đặc tính vật chất như quan niệm của chủ nghĩa duy vật tầm thường, và cũng không phải là cái gì thần bí, siêu tự nhiên, một thực thể độc lập như quan niệm của chủ nghĩa duy tâm. Ý thức chỉ là đặc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Ý thức là hiện tượng tâm lý - xã hội bao hàm nhiều yếu tố khác nhau có quan hệ với nhau, như tri thức, tình cảm, ý chí, lòng tin v.v., là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ óc của con người. Ý thức "chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó"1. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực, chủ động. Động vật phản ứng lại các tác động của môi trường mang tính trực tiếp; do vậy, theo một ý nghĩa nhất định, nó phải chấp nhận ân huệ của tự nhiên, lệ thuộc vào hoàn cảnh có tính chất bản năng. Nhưng con người 1. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, sđd, t.23, tr. 35. 47
  44. khác hẳn con vật ở khả năng lựa chọn của sự phản ánh. Sự phản ánh của con người mang tính mục đích. C.Mác viết: "Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt , con ong còn làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi"1. Tính mục đích của sự phản ánh ý thức còn tạo ra khả năng phản ánh vượt trước hiện thực, hướng dẫn hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan. Sự phản ánh đó không dừng lại ở cái trực tiếp bề ngoài, mà đi sâu vào nắm bắt bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật. Từ đó con người dự báo được kết quả, lường trước được những tình huống tốt hoặc xấu ảnh hưởng đến kết quả hoạt động và điều chỉnh chương trình, dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, xây dựng nên các các mô hình lý tưởng, vạch ra phương pháp hoạt động thực tiễn nhằm đạt mục đích. Phản ánh ý thức mang tính sáng tạo: Tâm lý động vật phản ánh nguyên xi thế giới bên ngoài theo nghĩa chúng chỉ lợi dụng những cái đã có sẵn trong tự nhiên. Còn "ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan"2. Tuy nhiên, tính sáng tạo của ý thức không phải là sự sáng tạo hoàn toàn tách khỏi hiện thực vật chất, không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Phản ánh sáng tạo của ý thức bao giờ cũng xuất phát từ hiện thực, sáng tạo trong khuôn khổ và theo tính chất, quy luật của sự phản ánh. Bởi vì, trong mọi trường hợp bao giờ “ý thức chỉ là phản ánh của tồn tại”3. Phản ánh sáng tạo là đặc tính chỉ xuất hiện ở con người nhờ khả năng tư 1 Sđd, t.23, tr. 266 - 267. 2 V.I. Lênin: Toàn tập, sđd, t.29, tr. 228. 3 V.I. Lênin: Toàn tập, sđd, t.18, tr. 404. 48
  45. duy trừu tượng. Từ hiện thực vật chất đã có, con người sáng tạo ra những vật phẩm hoàn toàn mới đáp ứng nhu cầu của mình. Ý thức ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hoạt động thực tiễn xã hội, do thực tiễn xã hội cùng các quy luật xã hội chi phối, quyết định; cho nên ý thức mang bản chất xã hội. Đây là sự khác biệt rất cơ bản của ý thức con người so với tâm lý động vật. Đây cũng là chỗ phân biệt về nguyên tắc rằng ý thức của con người khác với cái gọi là "suy nghĩ" của máy móc. III. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN Ở hai phần trên (I và II) chúng ta đã nghiên cứu vật chất và ý thức ở mức độ nguyên lý chung, khẳng định vấn đề cơ bản của triết học rằng vật chất tồn tại khách quan, là tính thứ nhất và quyết định ý thức; còn ý thức phản ánh vật chất, là tính thứ hai và phụ thuộc vào vật chất. Song khắc hẳn với mọi trào lưu triết học trước đây, triết học mácxit không chỉ giải thích khoa học về thế giới mà còn là cơ sở lý luận khoa học cho việc hoạch định mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp cải tạo thế giới, vì cuộc sống của con người. Do vậy, chúng ta không thể dừng lại ở việc tìm hiểu những nguyên lý chung về vật chất, về ý thức. Điều quan trọng đối với chúng ta là vận dụng những nguyên lý của triết học mácxit về vật chất và ý thức vào đời sống cụ thể, từ đó rút ra ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận chung cho nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng chỉ ra rằng sự đối lập giữa vật chất và ý thức vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Sự đối lập tuyệt đối chỉ giới hạn khi định nghĩa vật chất và ý thức, thể hiện ở chỗ: giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái có trước, cái quyết định ý thức; còn ý thức là cái có sau, là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Đó là sự khác nhau tuyệt đối về mặt thế giới quan. Đây cũng là tiêu chí cơ bản để phân biệt chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. V.I.Lênin nhận xét 49
  46. rằng chủ nghĩa duy tâm không xem ý thức và vật chất là khác nhau, đem đồng nhất ý thức và tinh thần với vật chất, biến vật chất thành một thứ do tinh thần sản sinh ra: hoặc thành một tập hợp các cảm giác, hoặc như một giai đoạn phát triển tạm thời của tinh thần, ý niệm, như một dạng tồn tại khác của nó. Ngoài giới hạn đó ra, thì sự đối lập này có tính tương đối. Bởi vì ý thức không phải là một hiện tượng thần bí, tự nó mà nó bắt nguồn từ vật chất, là thuộc tính đặc biệt của vật chất trong quá trình phát triển. Ý thức không phải là cái gì từ bên ngoài, tồn tại song song với vật chất mà chỉ là một thuộc tính nội tại của chính bản thân vật chất. Cho nên sự đối lập này là sự đối lập tương đối giữa vật chất và một thuộc tính đặc biệt của nó. V.I. Lênin viết: “Sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”1. Điều đó có nghĩa là trong hoạt động thực tiễn giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại; ở đây nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định, còn nhân tố tinh thần có vai trò tác động trở lại rất tích cực tới nhân tố vật chất. 1. Vai trò quyết định của nhân tố vật chất Nhân tố vật chất là gì? Nhân tố vật chất bao gồm các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và tất cả các yếu tố, như phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số; điều kiện sinh hoạt, các tổ chức đảng phái, chính quyền, đoàn thể, các đơn vị sản xuất Vai trò quyết định của nhân tố vật chất thể hiện: Một là, những mục đích, chủ trương mà chúng ta đặt ra cho hoạt động 1 V.I. Lênin: Toàn tập, t.18, Nxb Tiến bộ Mátxcơva 1980, tr.173. 50
  47. thực tiễn là đúng đắn, là hiện thực phải xuất phát từ điều kiện vật chất, thực tế khách quan và các quy luật khách quan. Ngược lại, nếu không chú ý đến tính quy định của điều kiện, hoàn cảnh khách quan, làm trái nguyên tắc đó thì sẽ đề ra mục tiêu, nhiệm vụ không hiện thực, không tưởng, và tất yếu sẽ đi đến thất bại trong công tác. Hai là, mục tiêu, nhiệm vụ đúng, phải có biện pháp thực hiện đúng thì mới đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn. Những biện pháp mà con người dùng để cải tạo thế giới vật chất không phải là sự sáng tạo thuần tuý của ý thức mà là dựa vào những gì đang có trong hiện thực. Nghĩa là những cách thức, phương pháp, kết cấu tổ chức trong quá trình sử dụng phương tiện và công cụ vật chất cũng phải rút ra từ những quan hệ cụ thể, là tìm từ các yếu tố, như phương thức sản xuất vật chất, hoàn cảnh địa lý và dân số chứ không phải từ ý thức tư tưởng chủ quan. Bao giờ cũng vậy, khi tiến hành một công việc nào đó, người ta cũng phải căn cứ vào những tiền đề vật chất để đề ra biện pháp phù hợp. Ba là, bản thân tư tưởng, dù là tư tưởng tốt đẹp đến mấy, tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. C.Mác đã chỉ ra rằng: “lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất”1, cho nên muốn thực hiện được tư tưởng phải có lực lượng vật chất. Trong mọi trường hợp, mọi lúc, mọi nơi, nhân tố vật chất luôn luôn giữ vai trò quyết định; còn ý thức bao giờ cũng chỉ là phản ánh vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Bốn là, ý thức tư tưởng chỉ có thể được duy trì và phát triển được trên cơ sở những quan hệ vật chất nhất định, cho nên không thể dùng ý thức tư tưởng để duy trì những quan hệ vật chất trong lịch sử được. Vì rằng những quan hệ vật chất tồn tại theo những quy luật khách quan vốn có của nó không phụ thuộc vào ý thức tư tưởng. Trái với các nhà triết học duy tâm 1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t.1, tr. 580. 51
  48. muốn biến ý thức con người thành động lực của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Xưa nay, tư tưởng không thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được; trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi. Thật vậy, tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”1. Ý thức muốn được thực hiện và có tác dụng, nhất thiết phải thâm nhập vào quần chúng và được con người tổ chức thực hiện trong thực tiễn. “Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”2. 2. Sự tác động trở lại của nhân tố tinh thần đối với nhân tố vật chất Nhân tố tinh thần là gì? Nhân tố tinh thần bao gồm: trình độ nhận thức, sự hiểu biết, tập quán sinh hoạt, tâm lý, tình cảm, nguyện vọng, tư tưởng, ý chí, chủ trương, chính sách, biện pháp của các tổ chức đảng phái, chính quyền và đoàn thể . Triết học mácxit chỉ ra rằng nhân tố quyết định sự phát triển của lịch sử là nhân tố vật chất, nhân tố kinh tế. Nhưng nếu cho đó là nhân tố duy nhất quyết định, chỉ thấy nhân tố vật chất tác động một chiều tới ý thức thì sẽ phủ nhận vai trò của ý thức. Cho nên khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, triết học mácxit đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại rất to lớn của ý thức (nhân tố tinh thần) đối với vật chất (nhân tố vật chất). Sự tác động trở lại của nhân tố tinh thần tới nhân tố vật chất thể hiện: 1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t.2, tr.181. 2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t,1, tr. 580. 52
  49. Một là, muốn đề ra mục đích, chủ trương và biện pháp hành động thực tiễn đúng, phải nhận thức đúng được điều kiện vật chất khách quan. Như vậy, ngay từ đầu, ý thức giữ vai trò rất quan trọng. Vì, nếu không nhận thức đúng điều kiện vật chất khách quan cho phép thì sẽ đề ra mục đích, chủ trương và biện pháp sai lầm. Vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải là ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan, từ đó hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp đúng đắn, đồng thời có ý chí, quyết tâm cần thiết cho hoạt động của mình. Sức mạnh của con người là ở chỗ xuất phát từ thực tế khách quan, căn cứ vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý chí và quyết tâm cao nhằm phục vụ lợi ích của con người và xã hội. Phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì cải tạo thế giới khách quan mới có hiệu quả. Ở đây vai trò năng động, sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan của con người có vị trí hết sức quan trọng. Bảo thủ trì trệ, hoặc tiêu cực thụ động, ỷ lại ngồi chờ chính là kìm hãm sự phát triển, triệt tiêu tính năng động tích cực, sáng tạo của ý thức. Hai là, khi đã có mục đích, chủ trương và biện pháp đúng, muốn cho những khả năng khách quan thành hiện thực, con người cần có ý chí, nghị lực quyết tâm thực hiện nó. Ở đây ý thức tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng, và trong những điều kiện hoàn cảnh vật chất cụ thể cho phép, những nhân tố tinh thần giữ vai trò quyết định cho con người hoạt động thành công hay thất bại khi thực hiện những khả năng khách quan. Ba là, ý thức tư tưởng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, nhưng sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức đúng đắn dựa trên quy luật khách quan của con người có tác dụng tích cực, làm biến đổi 53
  50. hiện thực, biến đổi hoàn cảnh khách quan theo nhu cầu của mình. Ý thức sai lầm, trái quy luật khách quan của con người có tác dụng tiêu cực, thậm chí phá hoại các điều kiện khách quan, hoàn cảnh khách quan, kéo lùi lịch sử. 3. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn Từ nguyên lý triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, có thể rút ra một số kết luận có tính chất phương pháp luận cho nhận thức và hoạt động thực tiễn như sau: Một là, không được quan niệm một cách giản đơn rằng nói vật chất có trước ý thức, ý thức có sau vật chất; hoặc ngược lại, nói ý thức có trước vật chất, vật chất có sau ý thức thì có sao đâu; mà phải thấy rằng nói như thế nào là khẳng định lập trường và phương pháp giải quyết các vấn đề của cuộc sống, của nhận thức khoa học hoàn toàn trái ngược nhau. Hai là, chống bệnh chủ quan duy ý chí, mà biểu hiện là quá đề cao, tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của nhân tố chủ quan; là quan niệm sai trái cho rằng con người có thể làm được tất cả những gì con người mong muốn, bất chấp sự tác động của quy luật khách quan, không dựa vào các điều kiện vật chất tối thiểu, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Điều đó yêu cầu phải nắm vững nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc khách quan đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động không được chủ quan, duy ý chí, không được lấy ý muốn chủ quan nóng vội, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược hay sách lược cách mạng; phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ bản thân sự vật, phản ánh sự vật một cách trung thành như nó vốn có, phải tôn trọng sự thật, phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; như Đảng ta đã kết luận: “Mọi đường lối, chủ trương của 54
  51. Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”1. Ba là, phải biết nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý chí không ngừng tiến công cải tạo hiện thực theo nhu cầu tiến bộ của xã hội. Phải chống thái độ tiêu cực, thụ động, vin vào điều kiện khách quan mà ngồi chờ, ỷ lại không dám hành động. Thái độ đầu hàng, chịu bó tay trước khó khăn của hoàn cảnh . suy cho cùng là do coi thường, hạ thấp vai trò và tác dụng của ý thức tư tưởng, của tính năng động sáng tạo của con người trong hoạt động thực tiễn. Hiện nay, để thực hiện được mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải phát huy tốt tính năng động chủ quan, tính sáng tạo của ý thức. Muốn vậy, phải nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ đảng viên, phải “thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên đường lối, chủ trương của Đảng, các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những kiến thức mới của thời đại”1. “Phấn đấu chậm nhất từ năm 2005 trở đi, nói chung những cán bộ chủ chốt dưới 45 tuổi từ cấp huyện trở lên ít nhất phải có trình độ đại học về chuyên môn, cao cấp về lý luận chính trị”2. Bốn là, để thực hiện nguyên tắc khách quan và phát huy tính năng động chủ quan của con người, phải nhận thức và vận dụng đúng đắn lợi ích, phải tạo ra động lực hoạt động cho mọi người bằng cách quan tâm đến lợi ích; phải kết hợp các loại lợi ích khác nhau, như lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Phải 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự Thật, Hà Nội 1991, tr.5 - 6. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, tr.140. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, tr.84. 55
  52. có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi. Tóm lại, trong hoạt động thực tiễn của con người, nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Xác định và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này chúng ta mới tập trung được sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần trong thực hiện nhiệm vụ. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đã mắc khuyết điểm nóng vội, chủ quan trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Với đường lối đổi mới đúng đắn do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, gần 18 năm qua (1986 - 2004) thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, nhân dân ta “đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng”1. Những thành tựu đó “đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế”2. Từ Đại hội VIII của Đảng năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp, thực hiện mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”3. Song, chúng ta đang đứng trước “bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ - tụt hậu xa hơn về kinh tế, so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan 1, 2, 3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 79, 72, 85 - 86. 56
  53. xen, tác động lẫn nhau”4 là những thách thức đang đối mặt với đất nước ta. Bởi vậy, chúng ta phải "khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu"5, lấy việc “phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững"1. Chúng ta cần rút ra những bài học kinh nghiệm của thời kỳ trước đây, cần tránh sai lầm chủ quan, nóng vội trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, kiên định "thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" 2; “thực hiện nhất quan đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”3. Đó chính là con đường đi tới mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. 4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 67. 5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 107. 1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 108 - 109, 86, 119. 57
  54. BÀI 3 PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT Hêracơlít được mệnh danh là ông tổ của phép biện chứng thời cổ đại. Dưới con mắt các nhà biện chứng cổ đại thì mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động và biến đổi. Và bức tranh mộc mạc về thế giới do họ vẽ lên cũng từ những chất liệu cảm tính có được từ sự quan sát trực tiếp. Sự mộc mạc, chất phác, hồn nhiên trong quan niệm về thế giới chính là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng sơ khai cổ đại. Sự hạn chế đó là do ở thời cổ đại trình độ nhận thức phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển. Với sự phát triển của khoa học ở thế kỷ XV-XVI, phép biện chứng cổ đại đã bị phép siêu hình, xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XV thay thế. Nhưng do tính chất máy móc, phép siêu hình lại bị phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học cổ điển Đức ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX phủ định, trong đó người tiêu biểu nhất là Hêghen. Thực chất phép biện chứng duy tâm của Hêghen là phép biện chứng của ý niệm. Biện chứng của ý niệm đã sản sinh ra biện chứng của sự vật, hiện tượng- phép biện chứng “lộn đầu xuống đất”. Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà triết học trước đó, dựa trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử loài người cũng như thực tiễn xã hội vào giữa thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, giữa tính đảng, tính cách mạng và tính khoa học là đặc trưng của triết học Mác. Vì vậy phép biện chứng duy vật đã khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những mâu thuẫn của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. 58
  55. Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý cơ bản, ba quy luật cơ bản và sáu quy luật không cơ bản, tức là sáu cặp phạm trù cơ bản. Với những nội dung được thể hiện trong các nguyên lý, những quy luật phổ biến, những phạm trù cơ bản, phép biện chứng duy vật đã phản ánh đúng đắn hiện thực và đã trở thành hạt nhân của thế giới quan và phương pháp luận khoa học. I. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN 1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến a) Quan niệm về sự tồn tại của các mối liên hệ Trước sự tồn tại độc lập của các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới đã xuất hiện câu hỏi: Sự tồn tại đó có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trong lịch sử triết học, có nhiều lời giải khác nhau cho các câu hỏi đó. Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự liên hệ lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, cũng có một số nhà siêu hình cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ ấy rất đa dạng, phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau. Ngược lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Ví dụ, tình trạng phá rừng làm nương rẫy chẳng những làm cho rừng bị thu hẹp dần mà còn làm cho đất rừng ngày càng bị xói mòn, môi trường nước, không khí cũng bị ô nhiễm và kéo theo những 59