Giáo trình môn Tài chính tiền tệ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Tài chính tiền tệ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_mon_tai_chinh_tien_te.pdf
Nội dung text: Giáo trình môn Tài chính tiền tệ
- Giáo trình Tài chính tiền tệ
- CHƯƠNG 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ TIỀN TỆ Mục tiêu: chương 1 được giới thiệu với mong muốn đem lại cho người học một cái nhìn tổng quan về tiền tệ: khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển cũng như chức năng và vai trò của tiền tệ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Từ những kiến thức đạt được, sinh viên sẽ có khả năng phân tích, đánh giá các vấn đề liên quan đến tiền tệ một cách chính xác hơn Số tiết: 8tiết Nội dung: Trong chương này bao gồm các phần sau: 1.1.Khái niệm tiền tệ 1.2.Vai trò của tiền tệ 1.3.Các chức năng của tiền tệ 1.4.Các hình thái tiền tệ 1.5.Bản vị tiền tệ 1.6.Khối tiền tệ Tóm tắt chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển của của tiền trãi qua bốn hình thái giá trị: hình thái giá trị giản đơn là hình thái trao đổi đầu tiên của loài người, tiếp đến là hình thái giá trị mở rộng: ở cả hai hình thái này đều là hình thái trao đổi trực tiếp, đổi vật này lấy vật khác, và để thực hiện trao đổi được đòi hỏi phải có “ý muốn trùng khớp” giữa những người trao đổi, điều này gây ra nhiều cản trở cho việc trao đổi hàng hoá. Để khắc phục được những tồn tại này, hình thái giá trị chung xuất hiện, việc trao đổi từ hình thức trực tiếp được chuyển dần sang gián tiếp: trao đổi thông qua một vật trung gian. Hình thái giá tiền tệ là hình thái trao đổi xuất hiện sau cùng và tiên tiến nhất, góp phần thúc đẩy và mở rộng nền kinh tế hàng hoá. Thông qua việc thực hiện các chức năng của mình, tiền tệ đã thể hiện tầm quan trọng của nó trong đời sống kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, tiền tệ không chỉ tồn tại với hình thái đơn giản như bản đầu là hoá tệ, tiền giấy mà nó còn được tồn tại dưới nhiều loại hình mới được dân chúng ưa chuộng sử dụng trong hoạt động thanh toán, tích trữ 1.1.Khái niệm tiền tệ: Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội. Vậy, tiền tệ là cái gì? Nó ra đời từ lúc nào?. Để tìm hiểu rõ về nguồn gốc ra đời của tiền tệ, có rất nhiều các quan điểm khác nhau. Trong kinh tế chính trị của các nước phương Tây hình thành nên hai trường phái: Một truờng phái cho rằng tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu khách quan của quá trình trao đổi hang hóa (Trường phái kinh tế chính trị học cổ điển như: Adam Smith, David Ricardo ) Trường phái thứ hai giải thích sự xuất hiện của tiền như là một sự kiện có tính chất tâm ly (như hai nhà tâm ly học W.Gherlop và Smondest). Họ cho rằng: “Nguồn gốc của tiền tệ không nằm trong quá trình trao đổi hàng hóa mà do lòng ham muốn hiểu biết và nhu cầu 1
- làm đẹp là bản tính của đàn bà. Còn bản tính của đàn ông lại là danh vọng, và sự ham muốn có nhiều tiền” Lần đầu tiên, C.Mác vận dụng phương pháp duy vật biện chứng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế. Ông đã nghiên cứu sự phát triển của các hình thái trao đổi từ hình thái trao đổi ngẫu nhiên đến quá trình trao đổi hàng hóa sử dụng tiền tệ, từ đó ông xác định bản chất của tiền tệ cũng như sự ra đời của nó. Theo Mác, trong lịch sử phát triển của loại người, lúc đầu con người sống thành bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân, chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ trong xã hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị (tương đối) của một vật được biểu hiện bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai trò vật ngang giá. Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, bộ lạc du mục tách khỏi toàn khối bộ lạc, hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên hơn. Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị mở rộng. Tham gia trao đổi bây giờ không phải là hai loại hàng hóa mà là một loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so với hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó còn bộc lộ một số thiếu sót: -Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hoàn tất, vẫn còn nhiều hàng hóa làm vật ngang giá. -Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa lại không thuần nhất. Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với nhau khi những người chủ của nó có cùng muốn trao đổi, muốn trùng khớp. Như vậy, cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và làm cho mâu thuẫn trong lao động và phân hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do đó, tất yếu đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung tất ra từ tất cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó, ví dụ như súc vật. Thích ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung. Nhưng trong giai đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào, trong những vùng khác nhau tì có những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá chung. Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải thống nhất một vật ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở một loại hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi đó, tất cả hàng hóa được biểu hiện giá trị của nó trong một thư hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật ngang giá chung. Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của các hình thài giá trị. Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. 2
- *Khái niệm tiền tệ Sau khi xem xét lịch sử hình thành tiền tệ, bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm tiền tệ. Mọi người đề biết tiền tệ là một thuật ngữ rất quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội, tuy nhiên, khó có thể tìm ra một khái niệm thống nhất về tiền tệ. Theo Mác, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. Theo các nhà kinh tế hiện đại: Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ. 1.2.Vai trò của tiền tệ Vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở ba mặt: -Thứ nhất: tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng hóa. C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta khổng thể tiến hàng sản xuất hàng hóa nếu như không có tiền và sự vận động của nó. Khi tiền tệ tham gia trong chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông là cho việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa trở nên giản đơn, thuận lợi và thống nhất, làm cho sự vận động của hàng hóa trong lưu thông tiến hành một cách trôi chảy. Mặt khác, khi sử dụng tiền trong sản xuất kinh doanh giúp cho người sản xuất có thể hạch toán được chi phí và xác định kết quả sản xuất kinh doanh, thực hiện được tích lũy tiền tệ để thực hiện tái sản xuất kinh doanh Tiền tệ trở thành công cụ duy nhất và không thể thiêu để thực hiện yêu cầu quy luật giá trị. Vì vậy, nó là công cụ không thể thiếu được để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng hóa. -Thứ hai: tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển chuyển sang nền kinh tế thị trường thì tiền tệ không những là phương tiện thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội trong phạm vi quốc gia mà còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Cùng với ngoại thương, các quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế, tiền tệ phát huy vai trò của mình để trở thành phương tiện cho việc thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế, nhất là đối với các mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới hình thành và phát triển làm cho xu thế hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, tài chính, tiền tệ ngân hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các nước. -Thứ ba: tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của người sử dụng chúng. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao thì hầu hết các mối quan hệ kinh tế-xã hội đều được tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan đều không thể thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiênh tiền tệ trở thành công cụ có quyền lực vạn năng xử l và giải tỏa mối ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã hội không những trong phạm vi quốc gia mà còn phạm vi quốc tế. Chính vì vậy mà tiền tệ có thể thỏa mãn mọi mục đích và quyền lợi cho những ai đang nắm giữ tiền tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì thế lực của đồng tiền vẫn còn phát huy sức mạnh của nó. 1.3.Chức năng của tiền tệ: Khi đề cập đến vấn đề chức năng của tiền tệ, các nhà kinh tế học đã cho rằng tiền tệ có ba chức năng thước đo giá trị, trung gian trao đổi và bảo toàn giá trị. Tuy nhiên, cũng có một 3
- số nhà kinh tế học thêm vào chức năng thứ tư: làm phương tiện thanh toán hoàn hiệu. Theo Mác, khi giả định vàng làm hàng hóa tiền tệ, ông đã cho rằng tiền có năm chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ và tiền tệ thế giới. Trãi qua quá trình phát triển, khoa học tiền tệ không ngừng phát triển, trong nền kinh tế hiện đại các chức năng ban đầu của tiền tệ vẫn có nghĩa nhất định. 1.3.1.Chức năng thước đo giá trị (standard of value) Tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị khi tiền tệ đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Chúng ta đo lường các giá trị của hàng hóa và dịch vụ bằng tiền giống như chúng ta đo khối lượng bằng kilogram hoặc đo khoảng cách bằng kilomét. Để thấy vì sao chức năng này lại quan trọng, chúng ta nhìn vào nền kinh tế đổi chác, trong đó tiền không thực hiện chức năng này. Nếu nền kinh tế chỉ có ba mặt hàng, ví dụ: vải, gạo, muối thì chỉ có ba giá để có thể trao đổi thứ này với thứ khác: giá của một mét vải tính bằng bao nhiêu kiliogram gạo, giá của một mét vải tính bằng bao nhiêu kilogram muối và giá của một kilogram gạo tính bằng bao nhiêu kilogram muối. Nếu có mười mặt hàng, chúng ta sẽ có 45 giá để trao đổi mặt hàng này với mặt hàng khác, với 100 mặt hàng chúng ta có đến 4950 giá, với 1000 mặt hàng có 499.500 giá. Công thức cho chúng ta biết số giá ta cần khi có N mặt hàng: N(N -1)/N Hãy tưởng tượng ra sự khó khăn đến thế nào nếu ta đi mua sắm trong một siêu thị với 1000 mặt hàng khác nhau. Khi quyết định giá của vật này rẻ hay đắt hơn giá cuả cái kia rất khó khăn vì giá của 1 kilogam gà được đo bằng 5 kilogam thóc, trong khi 1 kilogam cá được định giá băng 3 kilogam cà chua. Chắc chắn rằng bạn có thể so sánh giá của tất cả các mặt hàng, bảng giá của một mặt hàng sẽ phải kê ra 999 giá khác nhau và thời gian dung để đọc chúng rất lâu làm cho chi phí giao dịch tăng đáng kể. Giải pháp cho vấn đề này là đưa tiền vào nền kinh tế và dùng tiền để thể hiện giá ch tất cả các mặt hàng, như vậy chúng ta có thể dễ dàng so sánh được giá gạo, vải hay muối. Nếu chỉ có 3 mặt hàng trong nền kinh tế thì điều này sẽ không có nghĩa lớn so với nền kinh tế đổi chác vì chúng ta chỉ có 3 giá khi giao dịch. Tuy nhiên, với số lượng hàng hóa lớn hơn thì tầm quan trọng của tiền lúc này sẽ rất lớn, với 10 mặt hàng bây giờ chúng ta chỉ cần 10 giá, 100 mặt hàng chỉ cần 100 giá. Tại siêu thị có 1000 mặt hàng thì nay chỉ cần 1000 giá để xem chứ không phải 499.500 giá. Số lượng giá trong một nền kinh tế đổi chác và số lượng giá trong một nền kinh tế dùng tiền tệ được thể hiên qua bảng sau: SỐ LƯỢNG MẶT HÀNG SỐ LƯỢNG GIÁ TRONG NỀN SỐ LƯỢNG GIÁ TRONG NỀN KINH TẾ ĐỔI CHÁC KINH TẾ SỬ DỤNG TIỀN TỆ 3 3 3 10 45 10 100 4950 100 1.000 499.500 1.000 10.000 49.995.000 10.000 Chúng ta có thể thấy rằng việc dùng tiền để đo lường làm giảm hẳn chi phí thời gian để giao dịch trong một nền kinh tế, nhất là giảm hẳn số giá cần phải xem xét. Cái lợi của chức năng này của tiền tăng lên khi nền kinh tế trở nên phức tạp hơn. 4
- C.Mác đã cho rằng để thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ phải là tiền thực – tiền có đủ giá trị nội tại. Để đo lường và biểu hiện giá trị các hàng hóa, có thể sử dụng tiền trong niệm và cần phải có tiêu chuẩn giá cả, tiêu chuẩn giá cả là đơn vị đo lường tiền tệ của mỗi quốc gia bao gồm hai yếu tố: tên gọi của đơn vị tiền tệ và hàm lượng kim loại qu trong một đơn vị tiền tệ. Với việc đảm nhận chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã giúp cho mọi việc tính toán trong nền kinh tế trở nên đơn giản như tính GNP, thu nhập, thuế khóa, chi phí sản xuất, vay nợ, trả nợ, giá trị hàng hóa, dịch vụ 1.3.2.Chức năng phương tiện trao đổi (Medium of exchange) Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi khi tiền tệ môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. Khi tiền tệ xuất hiện, hình thái trao đổi trực tiếp bằng hiện vật dần dần nhường chỗ cho hình thái trao đổi gián tiếp thực hiện thông qua trung gian của tiền tệ. Hình thái trao đổi này trở thành phương tiện và động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, buôn bán trở nên dễ dàng, sản xuất thuận lợi. Có thể ví tiền tệ như một chất nhớt bôi trơn guồng máy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi mức dộ tiền tệ hóa ngày càng cao thì hoạt động giao lưu kinh tế càng được diễn ra thuận lợi, trôi chảy. Nghiệp vụ trao đổi giá tiếp thực hiện qua trung gian của tiền tệ, gồm hai vế: - Vế thứ nhất: bán hàng để lấy tiền:H-T - Vế thứ hai : dùng tiền để mua hàng T – H Nhưng thỉnh thoảng hai vế này không di liền với nhau. Tiền tệ là phương tiện làm trung gian trao đổi dần dần trở thành mục tiêu trong các cuộc trao đổi và được ưa chuộng. Chính sức mua (Purchasing power) của tiền tệ đã quyết định điều này. Do vậy muốn tiền thực hiện tốt chức năng phương tiện trao đổi đòi hỏi hệ thống tiền tệ của một quốc gia phải có sức mua ổn định, số lượng tiền tệ phải đủ liều lượng đáp ứng nhu cầu trao đổi trong mọi hoạt động kinh tế, hệ thống tiền tệ phải có đủ các loại tiền, đáp ứng kịp thời, nhanh chóng nhu cầu giao dịch của dân chúng. 1.3.3.Chức năng phương tiện thanh toán (standard of deferred payment) Quá trình lưu thông hàng hóa phát triển, ngoài quan hệ hàng hóa-tìen tệ, còn phát sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khóa, nộp địa tô bằng tiền. Trong những trường hợp này, tiền tệ chấp nhận chức năng thanh toán. Như vậy, khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền tệ không còn là môi giới của trao đổi hàng hóa, mà là khâu bổ sung cho quá trình trao đổi, tức là tiền tệ vận động tách rời sự vận động của hàng hóa. Tiền tệ khi thực hiện chức năng làm phương tiện chi trả đã tạo ra khả năng làm cho số lượng tiền mặt cần thiết cho lưu thông giảm đi tương đối vì sự mua bán chịu, thực hiện thanh toán bù trừ lẫn nhau. Muốn được chấp nhận làm phương tiện thanh toán, tiền tệ phải có sức mua ổn định, tương đối bền vững theo thời gian, chính sức mua ổn định đã tạo cho người ta niềm tin và sự tín nhiệm tiền tệ. 1.3.4.Chức năng phương tiện tích lũy (store of value or store of purchasing power) Tiền tệ chấp hành chức năng phương tiện tích lũy khi tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông, trở vào trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu chi dùng trong tương lai. 5
- Khi tiền tệ chưa xuất hiện, người ta thường thực hiện tích lũy dưới hình thái hiện vật, hìn thái này không tiện lợi vì nó đòi hỏi phải có chỗ rộng rãi, phải tốn nhiều chi phí bảo quản, dễ hư hỏng, khó lưu thông và it sinh lời. Khi tiền tệ xuất hiện, người ta dần dần thay thế tích lũy dưới hình thái hiện vật bằng hình thái tích lũy dưới dạng tiền tệ. Hình thái này có nhiều ưu điểm, điểm nổi bật là dễ lưu thông và thanh khoản. Tuy nhiên, tích lũy dưới hình thái tiền tệ có nhược điểm là có thể dễ mất giá khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy, để tiền tệ thực hiện được chức năng phương tiện tích lũy đòi hỏi hệ thống tiền tệ quốc gia phải đảm bảo được sức mua. 1.3.5.Chức năng tiền tệ thế giới (world currency) Tiền tệ thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền tệ thực hiện bốn chức năng thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy ở phạm vi ngoài quốc gia, nói cách khác là đồng tiền của một nước thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền của quốc gia đó được nhiều nước trên thế giới tin dùng và sử dụng như chính đồng tiền của nước họ Tóm lại, điều kiện quan trọng nhất để cho một vật được sử dụng làm tiền tệ thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy, tiền tệ thế giới là chúng phải có sức mua ổn định, bền vững, tạo được niềm tin và sự tín nhiệm của dân chúng. 1.4.Các hình thái tiền tệ 1.4.1.Hóa tệ (commodity money) Hóa tệ là loại tiền tệ bằng hàng hóa. Đấy chính là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được sử dụng trong một thời gian dài. Trong các loại hàng hóa được dùng làm tiền tệ được chia làm hai loại: hàng hóa không phải kim loại (non metallic commodities) và hàng hóa kim loại (metallic commodities). Do vậy, hóa tệ cũng bao gồm hai loại: hóa tệ không kim loại và hóa tệ kim loại: 1.4.1.1.Hóa tệ không kim loại Tức là dùng hàng hóa không kim loại làm tiền tệ. Đấy là hình thái cổ xưa nhất của tiền tệ, rất thường dùng trong các xã hội cổ truyền. Tùy theo từng quốc gia, từng địa phương, người ta dùng những loại hàng hóa khác nhau làm tiền tệ. Chẳng hạn: -Ở Hy Lạp và La Mã người ta dùng bò và cừu. -Ở Tây Tạng, người ta dùng trà đóng thành bánh. Nói chung, hóa tệ không kim loại có nhiều bất lợi khi đóng vai trò tiền tệ như: tính chất không đồng nhất, dễ hư hỏng, khó phân chia, khó bảo quản cũng như vận chuyển, nó chỉ được công nhận trong từng khu vực, từng địa phương. Vì vậy, hóa tệ không kim loại dần dần bị loại bỏ vì người ta bắt đầu dùng hóa tệ kim loại thay thế cho hóa tệ không kim loại. 1.4.1.2.Hóa tệ kim loại (Kim tệ) Tức là lấy kim loại làm tiền tệ. Các kim loại được dùng làm tiền tệ gồm: đồng, kẽm, vàng, bạc Nói chung, các kim loại có nhiều ưu điểm hơn hẳn hàng hóa không kim loại khi được sử dụng làm thành tiền tệ như: phẩm chất, trọng lượng có thể quy đổi chính xác hơn, dễ dàng hơn. Mặt khác, nó hao mòn chậm hơn, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi 6
- Trãi qua thực tiễn trao đổi và lưu thông hóa tệ kim loại, dần dần người ta chỉ chọn hai kim loại qu dùng để làm tiền tệ lâu dài hơn là vàng và bạc. Sở dĩ vàng hay bạc trở thành tiền tệ lâu dài là vì bản thân nó có những thuận tiện mà những kim loại khác không có được như: tính đồng nhất, tính dễ chia nhỏ, tính dễ cất trữ, tính dễ lưu thông. 1.4.2.Tín tệ (Token money) Tức là loại tiền mà bản thân nó không có giá trị, song nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dùng. Cũng chính vì ly do này mà nhiều lúc người ta gọi loại tiền tệ này là chỉ tệ. Tín tệ gồm hai loại: Tín tệ kim loại và tiền giấy. 1.4.2.1.Tiền kim loại (coin): Tiền kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với tiền kim loại thuộc hình thái hóa tệ ở chỗ: Trong hóa tệ kim loại giá trị của kim loại làm thành tiền bằng giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền, còn ở tín tệ kim loại, giá trị chất kim laọi đúc thành tiền và giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền không có liên hệ gì với nhau, có thể gắn cho nó một giá trị nào cũng được 1.4.2.2.Tiền giấy (Paper money or bank notes) Tiền giấy có hai loại: tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hóan. - Tiền giấy khả hoán: là một mảnh giấy được in thành tiền tiền và lưu hành, thay thế cho tiền bằng vàng hay tiền bằng bạc mà người ta k gửi tại ngân hàng. Người có loại tiền nà có thể đến ngân hàng để đổi lấy một số lượng vàng hay bach tương đương với giá trị ghi trên tờ giấy hoặc sử dụng làm tiền vào cất cứ lúc nào họ cần. Tại phương Tây, tiền giấy khả hoán xuất hiện vào thế kỷ 17, ông Palmstruck, người sang lập ra ngân hàng Stockholm của Thụy Điển vào thế kỷ 17 được công nhận là người đầu tiên sang chế ra tiền giấy khả hoán. Ở Phương Đông, tiền giấy khả hoán xuất hiện sớm hơn hẳn ở phương Tây. - Tiền giấy bất khả hoán là loại tiền giấy bắt buộc lưu hành và dân chúng không thể đem nó đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Đấy là loại tiền giấy mà ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều sử dụng. Tại Việt Nam, tiền giấy ra đời vào thế kỷ 15, dưới thời Hồ Qúy Ly. Tại Pháp, tiền giấy trở thành bất khả hoán năm 1720, từ năm 1848 đến năm 1850, từ năm 1870 đến năm 1875, từ năm 1914 đến năm 1828 và sau cùng kể từ ngày 01-10-1936 đến nay. Tại Hoa Kỳ, trong thời gian nội chiến vào những năm 1862-1863, nhiều nước đã phá hành tiền giấy bất khả hoán. Sau nội chiến kết thúc, trở thành khả hoán kể từ năm 1879. Có thể nói, chiến tranh thế giới lần thứ nhất và cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là nguyên nhân chính để dẫn đến việc sử dụng tiền giấy bất khả hoán rộng khắp các nước. 1.4.3.Bút tệ (Bank money) Bút tệ hay còn gọi là tiền ghi sổ được tạo ra khi phát tín dụng thông qua tài khoản tại ngân hàng,do vậy, bút tệ không có hình thái vật chất, nó chỉ là những con số trả tiền hay chuyển tiền thể hiện trên tài khoản ngân hàng. Thực chất, bút tệ là tiền phi vật chất, nhưng nó cũng có những tính chất giống như tiền giấy là được sử dụng trong thanh toán qua những công cụ thanh toán của ngân hàng như: séc, lệnh chuyển tiền mà còn có 7
- những ưu điểm hơn hẳn tiền giấy, đó là: an toàn hơn, chuyển đổi ra tiền giấy dễ dàng, thanh toán rất thuận tiện, kiểm nhận nhanh. Về nguồn gốc, trong kinh tế học người ta cho rằng bút tệ xuất hiện đầu tiên tại ngân hàng Anh vào giữa thế kỷ 19, sau đó dần dần lan sang các quốc gia khác. Ngày nay, bút tệ được sử dụng rộng rãi trong các cuộc giao dịch tại các nước công nghiệp, hậu công nghiệp. 1.4.4.Tiền điện tử (electronic money) Tiền điện tử là loại tiền đượ sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động hay còn gọi là hộp ATM (Automated teller machine). Đó là một hệ thống máy tính được nối mạng với toàn bộ hệ thống ngân hàng trung gian và một hộp chuyển tiền của chính phủ. Khi chúng ta đến một ngân hàng trung gian gửi tiền, bên cạnh việc trao cho chúng ta một chứng thư xác nhận việc gửi tiền, ngân hàng này sẽ trao cho chúng ta một tấm card bằng nhựa, bên trong được mã hóa điện tử và một mật mã từ 3 đến 5 con số để sử dụng. Hai phút sau khi chúng ta gửi tiền, toàn bộ số tiền ấy cùng với mật mã và số tài khoản của chúng ta được máy tính điện tử thông báo trên toàn hệ thống (Có thể trên phạm vi các quốc gia). Khi cần dùng tiền mặt, hoặc khi cần chuyển tiền vào tài khoản của một người nào đó chúng ta chỉ cần nhét tấm card ấy vào khe của máy ATM, sau khi bấm mật mã, màn hình của máy tính ATM sẽ xin lệnh, trong số tiền đã gửi chúng ta có thể rút tiền hoặc chuyển tiền qua ngân hàng. Sau một phút, tât cả mọi việc sẽ được hoàn tất. Chúng ta sẽ có tiền mặt trong tay hoặc đã chuyển tiền xong, mẫu phiếu thông báo quyết toán của máy tính in ran gay lập tức sau khi chúng ta rút tiền hoặc chuyển tiền, phiếu này cho biết rõ ngày giờ ta đã rút tiền mặt hoặc chuyển tiền, số tài khoản, số card, số tiền đã rút hoặc đã chuyển và số tiền còn lại trong tài khoản. Tấm card này được xem là tiền, tuy nhiên việc xem tấm card này là một hình thái tiền tệ vẫn chưa được thống nhất bởi lẽ có một số quan điểm cho rằng đó chỉ là phương tiện chi trả. Tóm lại, ở bất cứ nền kinh tế nào, dù ở bất cứ mức độ phát triển nào cũng có tính chất đa dạng nhất định của nó. Do vậy, việc tồn tại nhiều hình thái tiền tệ để thỏa mãn tất cả những nhu cầu đa dạng của xã hội, của các cá nhân là điều tất nhiên. 1.5.Bản vị tiền tệ Khi nói đến chế độ tiền tệ tức là nói đến hệ thống tổ chức lưu thông tiền tệ của một nước do pháp luật quy định, trong đó các nhân tố khác nhau của lưu thông tiền tệ được kết hợp thành một khối thống nhất. Chế độ tiền tệ được cấu thành bởi các yếu tố sau: -Bản vị tiền tệ: chính là cái được sử dụng làm căn cứ để định giá đồng tiền. Có thể chọn một kim loại nào đó hoặc có thể lấy ngoại tệ hay sức sản xuất trong nước để làm bản vị tiền tệ. -Đơn vị tiền tệ: mỗi một quốc gia có một đơn vị tiền tệ khác nhau, ví dụ ở Việt Nam là “đông”, ở Mỹ là “dollar” -Công cụ lưu thông tiền tệ: là những phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán được sử dụng, chẳng hạn như: tiền giấy, tiền tín dụng, tiền xu 8
- Trong lịck sưr tiền tệ, kể từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, các nước đã trãi qua nhiều chế độ bản vị tiền tệ khác nhau, cụ thể là: 1.5.1.Chế độ đơn kim bản vị Là chế độ tiền tệ trong đó chỉ có một kim khí, vàng hoặc bạc, được tự do đúc thành tiền và có khả năng miễn trái vô hạn. Tự do đúc thành tiền nghĩa là mọi người dân có thể biến đổi những thỏi kim khí thành những đồng tiền bằng cách đem đến nơi đúc tiền. Khả năng miễn trái vô hạn, nghĩa là bắt buộc mọi người phải nhận tiền kim khí pháp định, mặc dù số lượng là bao nhiêu. Ở nước nào sử dụng bạc làm bản vị, người ta gọi là đơn kim bản vị bạc, nước nào sử dụng vàng làm bản vị, người ta gọi là đơn kim bản vị vàng. Lúc đầu các quốc gia dùng bạc làm bản vị trước tiên, bởi lẽ bạc tương đối nhiều hơn vàng. Mặc khác giá vàng tương đối đắt hơn, do đó nếu sử dụng vàng để đúc thành tiền thì quá nhỏ. Về sau, người ta khám phá ra nhiều mỏ vàng hơn, do vậy có thể đúc vàng thành tiền. Từ đó, việc dùng vàng làm bản vị ngày càng trở nên phổ biến hơn. Tình trạng này đã dẫn đến hiện tượng các nước dùng cả bạc lẫn vàng làm bản vị tiền tệ. 1.5.2.Chế độ lưỡng kim bản vị Là chế độ tiền tệ trong đó có hai loại kim khí vàng và bạc được đúc thành tiền và có khả năng miễn trái vô hạn. Có một giá trị pháp định ggiữa giá trị tiền tệ của vàng và bạc. Ví dụ: trước năm 1914, tại Pháp đã định nghĩa đồng Franc vừa theo vàng vừa theo bạc như sau: 1Franc vàng = 322,5mg vàng chuẩn độ 0,900 1Franc bạc = 5g bạc chuẩn độ 0,900 Như vậy, một Franc bạc nặng gấp 15,5 lần 1 Franc vàng, tức là giá chính thức của 1 gam vàng bằng giá chính thức của 15,5 gam bạc. Trong thực tế, chế độ lưỡng kim bản vị là nguyên nhân của nhiều sự xáo trộn trong đời sống kinh tế, vì việc sử dụng đồng tiền vàng hay đồng tiền bạc phụ thuộc vào giá vàng hay giá bạc lên xuống trên thị trường. Ở Mỹ, áp dụng chế độ lưỡng kim bản vị năm 1792, nhưng kể từ năm 1792 đến năm 1834, giá bạc trên thị trường rớt hẳn so với tương quan chính thức là 1 vàng, 15 bạc. Kết quả là đồng tiền vàng biến mất chỉ còn lại những đồng tiền bạc kém giá hơn. Đầu năm 1848, nhờ sự khám phá được nhiều mỏ vàng ở Calcornia và năm 1851 tại Australia, số lượng vàng được sản xuất gia tăng, vàng dần dần mất giá trong khi bạc lại cao giá hẳn. Đồng tiền bạc dần biến mất trên thị trường. Một kinh tế gia người Anh ở thế kỷ 17 tên là Gresham đã đưa ra một định luật, được gọi là định luật Gresham. Đinh luật này cho rằng: trong một quốc gia, khi nào hai thứ tiền tệ cùng dược pháp luật chấp nhận theo một giá trị chênh lệch, đồng tiền xấu sẽ dần trục xuất đồng tiền tốt ra khỏi thị trường. Tiền xấu được hiểu là đồng tiền đang mất giá, tiền tốt là tiền đang có giá. Kể từ năm 1867 trở đi, do bạc được sản xuất nhiều, bạc dần bị mất giá gây nhiều khó khăn cho các nước áp dụng chế độ lưỡng kim bản vị, các nước lần lượt chấm dứt chế độ lưỡng kim bản vị và thiết lập chế độ bản vị vàng (gold stardand). Nước Anh bãi bỏ bản vị bạc năm 1819, Úc 1871, Hà Lan 1875, Áo 1892 9
- 1.5.3.Các chế độ vàng biến thể Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chỉ còn một im loại qu là vàng làm bản vị tiền tệ. Kể từ đấy tiền giấy trở nên thôg dụng hẳn, chủ yếu là tiền giấy khả hoán, còn đồng tiền vàng ngày càng ít lại. Điều này đã làm cho châu Âu đã đổi kim bản vị vàng nguyên thủy biến thẻ qua một vài hình thái: chế độ bản vị tiền vàng, chế độ bản vị vàng thoi, chế độ bản vị hối đoái vàng. -Chế độ bản vị tiền vàng: (gold specie stardand) là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán được chuyển đổi thành tiền vàng theo định nghĩa chính thức. -Chế độ bản vị vàng thoi hay hay là chế độ kim định bản vị (gold bullion stardand), theo chế độ này tiền giấy không được tự do đổi ra tiền vàng mà phải có một khối lượng tiền giấy nhất định mới đổi được một thoi vàng. Chế độ bản vị vàng thoi thi hành ở Anh năm 1925, muốn đổi tiền giấy lấy vàng phải đổi ít nhất 1500 bảng Anh, ở Pháp năm 1928 con số tối thiểu này là 225.000 Franc. -Chế độ bản vị hối đoái vàng hay là chế độ kim hoàn bản vị (gold exchange stardand). Đấy là chế độ trong đó tiền giấy không được đổi trực tiếp ra vàng, muốn chuển đổi ra vàng phải thông qua một đồng tiền trung gian khác. Thông thường đồng tiền trung gian là đồng tiền mình có quan hệ chuyển đổi ra vàng. Việc từ bỏ chế độ bản vị vàng cũng có nghĩa là các chính phủ thừa nhận quy luật hình thành giá vàng theo cung cầu. Giá vàng ở Việt Nam thay đổi cùng chiều và cùng mức độ với giá vàng thế giới là một hiện tượng bình thường. Cùng với chính sách đổi mới, “mở cửa”, mở rộng giao lưu hang hóa, trong đó có giao lưu vàng, với thế giới bên ngoài, quy luật hình thành giá vàng theo cung-cầu ở Việt Nam đang phát huy tác dụng. Sauk hi hệ thống bản vị vàng sụp đổ, nhiều nước chuyển sang hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. 1.5.4.Chế độ ngoại tệ bản vị (exchange stardand) Chế độ ngoại tệ bản vị là chế độ tiền tệ trong đó dơn vị tiền tệ của một nước được định nghĩa theo một ngoại tệ nhất định, thường là ngoại tệ mạnh. Khác với chế độ bản vị hối đoái vàng, ngoại tệ bản vị không có liên hệ gì với vàng. Ngoại tệ mạnh được dùng làm bản vị có thể không chuyển đổi ra vàng theo một giá cố định như trong bản vị hối đoái vàng. Ở chế độ ngoại tệ bản vị, chỉ có sự liên hệ giữa đơn vị tiền tệ này với đơn vị tiền tệ khác được dùng làm bản vị tiền tệ theo một giá trị chính thức cố định. Đơn vị ngoại tệ mạnh được chọn là để làm phương tiện thanh toán trong các cuộc giao dịch quốc tế. Những nước theo chế độ ngoại tệ bản vị thường tích lũy số dư ngoại tệ được chọn làm bản vị và gửi có sinh lãi tại ngân hàng trung gian của nước có đơn vị tiền tệ dùng làm bản vị. Về nguyên tắc, trong chế độ bản vị ngoại tệ, nước ngoài có thể đem tiền quốc gia đó lấy ngoại tệ và ngược lại theo định nghĩa chính thức. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều quốc gia thực hiện chính sách kiểm sóat ngoại hối không thực hiện chính sách này. Chế độ ngoại tệ bản vị phát triển nhanh và trở nên phổ biến từ khi các nước lần lượt bãi bỏ tiền giấy khả hoán, chuyển sang sử dụng tiền giấy bất khả hoán. 10
- Việc chuyển sang thực hiện chế độ ngoại tệ bản vị đã dẫn đến những sự kiện quan trọng sau: -Hình thành khuynh hướng sử dụng ngoại tệ thay cho vàng trong các cuộc giao dịch quốc tế.Theo nguyên tắc khi mua hàng hóa của nước nào thì phải dùng tiền của nước đó để thanh toán cho người bán. Như vậy đáng lẽ ngoại tệ nào cũng được coi có công dụng để trả nợ cho chính nước phát hành ra đồng tiền đó. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có một số ngoại tệ đóng vai trò là tìền tệ quốc tế, chẳng hạn như Bảng Anh, Dollar Mỹ bởi lẽ những ngoại tệ này được các nước ưa chuộng sử dụng. -Sự xuất hiện các khu vực tiền tệ: Một số ngoại tệ mạnh đóng vai trò lãnh đạo đối với một số đồng tiền khác trên thế giới. Điều này đã dẫn đến hình thành một số khu vực tiền tệ riêng biệt (moneytery zone). Trong lịch sử tiền tệ thế giới có năm khu vực tiền tệ riêng biệt, đó là: khu vực bảng Anh (các nước trong khối liên hiệp Anh, một số nước ngoài liên hiệp Anh như: Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Ỉan, Jordan, Argentina, Thái Lan, Cộng Hòa Ái Nhĩ Lan, một số nước nằm trong vùng biển Baltic). Khu vực Dollar Mỹ (Các nước thuộc ảnh ưởng của Mỹ như Trung Mỹ, Nam Mỹ, những đảo quốc thuôc Thái Bình Dương ). Khu vực thuộc Franc Pháp (Các nước thuộc liêp hiệp Pháp, Algeirie, Guyane, Guadeloupe, Martinique, Togo, Cameroun, Gabon ). Khu vực Escudo (Bồ Đào Nha, các lãnh thổ hải ngoại của Bồ Đào Nha. Khu vực đồng Rouble (Liên xô (cũ) và các nước theo chủ nghĩa xã hội) *Bản vị dollar: Nền tảng vật chất của đồng dollar là nền kinh tế của Mỹ. Giá trị của dollar được chính phủ Mỹ mà đại diện là ngân hang trung ương Mỹ điều tiết và duy trì ổn định. Trước năm 1971, đồng dollar có bản vị vàng, sau đó tuy dollar không còn được đổi ra vàng theo tỷ lệ cố định nữa nhưng duy trì giá trị của dollar vẫn luôn luôn là một chủ trương hàng đầu của chính phủ Mỹ. Đồng dollar là đồng tiền mạnh, có giá trị ổn định, thuận tiền trong thanh toán quốc tế, do vậy nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Nhiều nước đã gắn đồng tiền nước mình với dollar, còn được coi là theo bản vị dollar, nhất là trước năm 1971, khi đồng dollar có bản vị vàng. Ở Việt Nam, tuy không cố định giá trị đồng tiền của mình với dollar, nhưng tâm lý bản vị dollar cũng khá mạnh, mặc dầu tạo ra một tiêu chuẩn cho giá trị đồng tiền, nhưng nó có những hạn chế sau: -Đồng dollar cho dù là một đồng tiền mạnh, nó vẫn là một đại lượng biến thiên. Ngoài ra, điều quan trọng hơn là vai trò duy trì sức mua (giá trị) của đồng dollar là thuộc về chính phủ Mỹ mà đại diện là ngân hang trung ương Mỹ chứ không thuộc về chính phủ nước theo bản vị dollar. Do vậy, việc theo đuổi bản vị dollar sẽ bị động và khó bảo đảm cho đồng tiền nước mình được ổn định do vẫn có tình hình vĩ mô thất thường ở Mỹ. -Thay đổi tỷ giá (giá dollar) là một phương pháp quan trọng nhằm điều tiết tình hình xuất nhập khẩu. Cố định tỷ giá sẽ tước đoạt quyền sử dụng phương pháp này. Việc định giá đồng tiền cao hơn có tác dụng hạn chế xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu. Ngược lại, việc định giá đồng tiền thấp hơn thì có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Ở Việt Nam, từ năm 1989 đến nay, việc giá dollar tăng nhanh đã thể hiện là một nhân tố quan trọng trong việc khuyến khích xuất khẩu, cân bằng đựoc cán cân thanh toán trong điều kiện bị mất nguồn viện trợ tương đương hang tỷ dollar mỗi năm từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có từ trước. -Đồng tiền là tấm gương phản ánh thực trạng nền kinh tế. Nền kinh tế rât phức tạp và phong phú như một cơ thể sống. Có nhiều nhân tố luôn tác động đến trạng thái của nền kinh tế như sự thay đổi về điều kiện khai thác tài nguyên thiên nhiên, sự thay đổi trong quan hệ đối ngoại, sự thay đổi về kỹ thuật và công nghệ trên thế giới, sự thay đổi về mức 11
- sống thực tế Do đó bản thân đồng tiền cũng có thuộc tính vận động cho thích hợp với thực trạng của nền kinh tế. Tất cả các đồng tiền đều thay đổi thước đo của mình cùng với thời gian, nhưng các đồng tiền có mức thay đổi chậm (thể hiện ở lạm phát) ở mức có thể chấp nhận được. Việc cố định tỷ giá dài hạn là không phù hợp với thực tế thị trường. Vấn đề ở chỗ việc cố định tỷ giá không những đòi hỏi một quỹ dự trữ lớn, mà còn ở chỗ nó có thể làm hao mòn quỹ ngoại tệ mà không đạt được mục tiêu ổn định kinh tế đề ra. Hiện nay đa số các nước, trong đó có cả Việt Nam đều thi hành chế độ tỷ giá thị trường có quản lý. Theo chế độ này, nhà nước thừa nhận rằng việc cố định tỷ giá một cách cứng nhắc là không phù hợp với kinh tế thị trường, mà chủ trương nên để cho các lực lượng thị trường hình thành tỷ giá. Chính phủ không chế tỷ giá ở mức độ hợp lý và được thị trường chấp nhận. Thả nổi tỷ giá không có nghĩa là giá dollar tăng lên mãi, mà nó thường xoay quanh điểm cân bằng thị truờng, nhất là trong điều kiện chính phủ coi chống lạm phát là quốc sách. Tại điểm cân bằng thị trường, nhà nước chỉ cần một lượng hạn chế ngoại tệ cũng có thể giữ được tỷ giá tương đối ổn định. Cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết không mâu thuẫn, trái lại là phù hợp với mục tiêu ổn định thị trường, giá cả. Trạng thái ổn định ở đây được hiểu là ở trạng thái năng động, tức là không ổn định cứng nhắc mà chuyển từ trạng thái ổn định này sang trạng thái khác có độ ổn định cao hơn. 1.5.5.Bản vị lương thực (Food Standard) Xã hội và nền kinh tế không thể phát triển nếu thiếu cơ sở lương thực. Tầm quan trọng của lương thực được thừa nhận rộng khắp tại tất cả các nước trên thế giới. Là một nước nghèo đã trãi qua nhiều năm đói kém nên trong những năm trước đây lương thực được đặc biệt coi trọng ở Việt Nam. Do vậy không lấy làm lạ khi khái niệm bản vị lương thực đã từng được một số người đề xuất. Theo quan điểm bản vị lương thực thì giá trị đồng tiền sẽ được đảm bảo nếu giá lương thực ổn định. Quan điểm này có vẻ đề cao vai trò của lương thực, nhưng trong thực tế nó không có tác dụng tốt đối với nông nghiệp. Thực tế cho thấy nếu kinh tế vĩ mô không được quản lý tốt, thì cho dù giá lương thực giữ được ổn định, thậm chí giảm xuống thì giá các mặt hang phi lương thực vẫn tăng, lạm phát vẫn diễn ra. Chẳng hạn, trong khoảng thời gian từ tháng 01/1992 đến 11/1992 giá lương thực đã giảm 11%, trong khi đó chỉ số giá chung lại tăng 13,5%. Trong điều kiện lạm phát mà giá lương thực vẫn ổn định thì điều đó có nghĩa là giá lương thực đã giảm tương đối so với các mặt hang khác, tỷ lệ trao đổi trở nên bất lợi đối với nông sản, làm giảm thu nhập thực tế của nông dân. Dân số Việt Nam cũng như dân số nhiều nước đang phát triển khác, vẫn đang tăng nhanh. Cùng với quá trình tăng dân số, nhu cầu thiết yếu của nhân dân về thóc gạo sẽ ngày càng tăng. Với mức tiêu thụ của một người hiện nay, khi dân số nước ta đạt 100-120 triệu người thì hang năm chúng ta phải có 34-40 triệu tấn lương thực. Nếu kể đến nhu cầu lương thực ngày càng tăng lên trên thế giới thì trách nhiệm sản xuất lương thực của Việt Nam còn nặng nền hơn. Làm thế nào để đáp ứng nhu cầu sống còn của nhân dân trong điều kiện đất trồng trọt là có hạn? Rõ rang là hải tăng chi phí đầu vào để thâm canh, khai thác các vùng đất trồng trọt xấu hơn. Điều đó không tránh khỏi dẫn đến tăng chi phí cho việc sản xuất ra một tấn lương thực. Đây là một quy luật kinh tế khách quan cần được nhận thức đầy đủ. Do đó cùng với 12
- quá trình tăng nhu cầu về lương thực, để bảo đảm nông nghiệp phát triển, chúng ta phải chấp nhận một mức giá lương thực cao hơn trước, bù đắp được chi phí sản xuất tăng lên. Sự tăng giá lương thực được thể hiện tương đối ở sự thay đổi tỷ lệ trao đổi lương thực với các mặt hang khác. Nhân tố khoa học và công nghệ mới không chỉ có tác động giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, mà còn ở tất cả các ngành sản xuất khác, do đó để đơn giản hóa, có thể quan niệm rằng mức độ tác động của khoa học và công nghệ tới các ngành là như nhau, do đó ít ảnh hưởng tới tương quan giá cả. Sự thay đổi tăng lên tương đối của giá lương thực không hề mâu thuẫn với mục tiêu ổn định mức giá chung, bởi vì trong khi giá lương thực tăng lên tương đối thì giá các mặt hang khác lại giảm xuống tương đối, đồng thời nhà nước còn có các biện pháp mạnh mẽ khác để giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Việc điều chỉnh tăng giá lương thực khi thấy cần thiết cũng là một tác nhân để nền kinh tế chuyển sang một trạng thái mới có độ ổn định cao hơn. Khả năng điều chỉnh tăng một giá cả riêng lẻ mà vẫn giữ được sự ổn định chung của giá cả không phải là nhược điểm của giá cả, mà chính là “vẻ đẹp” của giá cả. Việc điều chỉnh giá lương thực nhiều khi gặp trở ngại vì nó có tác động nhất định đến đời sống của người tiêu dung, nhất là tầng lớp thu nhập thấp. Cần thấy rằng vấn đề ổn định mức sống không nên hạn chế trong việc giữ ổn định giá lương thực, vì nó có phạm vi rộng rãi hơn nhiều, số lượng lương thực trên đầu người, an toàn lương thực, đời sống của nông dân, năng suất lao động, công ăn việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bù giá vào lương Giá lương thực được điều chỉnh sẽ khuyến khích nông nghiệp phát triển, do đó có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dung của nhân dân. Giá trị đồng tiền không thể chỉ được đảm bảo bởi lương thực, mà còn bởi nhiều hang hóa và dịch vụ khác. Xã hội càng tiến bộ thì lương thực cũng chỉ chiếm một tỷ lệ hạn chế trong cơ cấu tiêu dung của nhân dân. 1.5.6.Bản vị hàng hóa (Commodity Standard) Nếu như bản vị vàng gắn đơn vị tiền tệ với một lượng vàng nhất định, thf bản vị hang hóa lại gắn tiền với hàng hóa. Bản vị hàng hóa hay đồng tiền được bảo đảm bằng hàng hóa đã xuất hiện và được áp dụng tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Thông qua hệ thống thương nghiệp nhà nước và hệ thống giá nhà nước, đồng tiền được bảo đảm bằng hàng hóa cung cấp, thậm chí theo nhiều nhóm hàng. Bạn đường của hệ thống này là chế độ tem phiếu. Liệu trong hệ thống kế hoạch hành chính này đồng tiền có phải là đồng tiền ổn định? Trong hệ thống này, đồng tiền được coi là ổn định trong chừng mực mà nhà nước còn duy trì được sự mua bán bình thường theo hệ thống giá nhà nước. Cái giá cao phải trả cho việc cố duy trì hệ thống này là chi phí cao, hiệu quả thấp, trao đổi mang tính gò ép, hình thành cơ cấu kinh tế không hợp lý, thị trường không có vai trò điều tiết nền kinh tế Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trong đó hệ thống giá nhà nước là một bộ phận quan trọng, đã thể hiện là không có hiệu quả và kèm theo nhiều tiêu cực khác, do vậy nó đã bị bác bỏ khi các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành cải cách, cải tổ và đổi mới nền kinh tế theo hướng thị trường. Trong khuôn khổ của kinh tế thị truờng, bản vị hàng hóa có nội dung như thế nào? Cũng giống như trong bản vị vàng, bản vị hàng hóa riêng lẻ (thí dụ bản vị lương thực) cũng không được kinh tế thị trường chấp nhận. Tuy nhiên nếu như nhà nước ổn định được gá 13
- thị trường trong tổng thể (điều tiết nền kinh tế sao cho chỉ số giá thị trường hàng tiêu dung CPI=1) trong khi vẫn thừa nhận sự biến đổi tự nhiên của các giá cả riêng lẻ theo tình hình thị trường, thì khái niệm bản vị hàng hóa trong trường hợp này hoàn toàn có thể chấp nhận vì nó có tính khoa học, khả thi và hiện thực. 1.6.Khối tiền tệ Sau khi chế độ tiền được bảo chứng bằng quý kim được thay thế hoàn toàn bằng tiền pháp định, không ai còn nghĩ rằng tiền là một loại vật chất quý như đồng vàng hay đồng bạc ngày xưa mà đã có nhận thức mới về tiền. Dấu hiệu cơ bản để một công cụ được gọi là tiền gồm có ba điểm: -Thứ nhất có thể được dùng để trao đổi, thanh toán khi mua bán hàng hóa, sản phẩm, sức lao động, trí tuệ -Thứ hai có thể được dùng để mua bán hoặc chuyển nhượng -Thứ ba có thể chuyển thành tiền mặt của chính phủ vào bất cứ lúc nào (có tính thanh khoản cao). Trước thập niên 80, quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng thế giới đã theo quan điểm hẹp về khối tiền tệ của một quốc gia. Nghĩa là khối tiền tệ bao gồm hai thành phần đó là tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn, còn tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn không được xem là thành phần của khối tiền tệ, mà chỉ được xem là “chuẩn tiền”. Kể từ thập niên 1980 trở đi, nhiều nhà kinh tế học bắt đầu xem những “chuẩn tiền” là thành phần của khối tiền tệ. Lúc này Quỹ tiền tệ và Ngân hàng thế gới gần như chấp nhập quan điểm này. Tuy nhiên, được phân biệt thành nhiều dạng khối tiền tệ: Khối tiền tệ M1 -Tiền mặt -Tiền gửi không kỳ hạn Khối tiền tệ M2 -M1 -Tiền gửi tiết kiệm -Tiền gửi định kỳ tại ngân hàng Khối tiền tệ M3 -M2 -Các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác Khối tiền tệ L -M3 -Trái phiếu kho bạc ngắn hạn -Trái phiếu tiết kiệm dài hạn của kho bạc -Thương phiếu -Các thuận nhận của ngân hàng. Từ khối tiền tệ M1 đến khối tiền tệ L số lượng các thành phần tăng dần, tuy nhiên tính lỏng (khả năng thanh khoản) của các yếu tố này giảm dần. *Lý thuyết lượng cầu về tài sản: là một lý thuyết rất quan trọng, được dùng để ứng dụng trong việc lựa chọn đầu tư sao cho hợp lý. -Các yếu tố quyết định lượng cầu tài sản: 14
- +Của cải: là toàn bộ tiềm lực kinh tế của nhà đầu tư. Lượng cầu về một tài sản thường có tương quan thuận với sự gia tăng của của cải. Khi của cải tăng lên, lượng cầu về các loại tài sản khác nhau sẽ tăng theo những mức độ khác nhau. Ví dụ: tại thời điểm một cá nhân A có số lượng của cải là 10 triệu, cá nhân này sẽ giữ cho mình một lượng tiền mặt là 1triệu (chiếm 10% tổng số của cải), tuy nhiên khi cá nhân A có số lựong của cải là 100 triệu, thì lúc đó ông ta chỉ giữ tiền mặt là 5triệu (chiếm 5% tổng số của cải), số còn lại ông ta dùng để đầu tư vào bất động sản, chứng khoán Như vậy, khi số lượng của cải tăng lên thì nhu cầu đầu tư cũng tăng. +Lợi tức dự tính của một tài sản so với lợi tức của tài sản khác: các loại tài sản có cùng mức độ rủi ro và số tiền đầu tư tương đương nhau, nếu tài sản nào có lợi tức dự tính cao hơn thì được yêu thích đầu tư hơn. +Rủi ro kèm với lợi tức tài sản: các loại tài sản có cùng mức lợi tức dự tính tương đương nhau, nếu tài sản nào có độ rủi ro dự tính thấp hơn thì thường được yêu thích lựa chọn. Như vậy nhà đầu tư có mối quan tâm hàng đầu tới lợi tức của một tài sản. Song mức rủi ro về lợi tức của tài sản cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của họ vào tài sản đó. +Sở thích của nhà đầu tư: tùy thuộc vào sở thích của các nhà đầu tư:yêu thích mạo hiểm hay thích tính ổn định, ngại rủi ro thì các loại tài sản khác nhau được lựa chọn đầu tư. +Tính lỏng của tài sản: các loại tài sản có tính thanh khoản cao thường được lựa con đầu tư. Thời gian và chi phí để chuyển sang tiền mặt của các tài sản khác nhau là khác nhau. Một trái phiếu kho bạc không đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí cao khi chuyển nó ra tiền mặt, vì thế tính lỏng của loại trái phiếu này cao. Trong khi đó, việc bán một ngôi nhà để thu tiền mặt về lại đòi hỏi thời gian thực hiện và chi phí giao dịch ( chi phí tư vấn, mội giới ), vì thế ngôi nhà có tính lỏng thấp hơn. Tính lỏng của trái phiếu kho bạc cao hơn ngôi nhà, do đó lượng cầu về trái phiếu đó sẽ lớn hơn so với lượng cầu về ngôi nhà. -Các phép đo một số nhân tố quyết định lượng cầu tài sản: +Lợi tức dự tính: n RETe = ∑ RETi x Pi i = 1 RETi: các lợi tức của việc thực hiện của một phương án đầu tư Pi: Xác suất của các lợi tức thực hiện N: Số lượng lợi tức thực hiện của một phương án -Các phép đo một số nhân tố quyết định lượng cầu tài sản: +Để đo độ rủi ro, nhà đầu tư cần đo độ lệch của những lợi tức thực tế so với lợi tức dự tính ở các phương án đầu tư: n n δ2 = ∑ (RETe – RETi)2Pi hay δ=[ ∑ (RETe – RETi)2Pi ]1/2 i = 1 i =1 -Các phép đo một số nhân tố quyết định lượng cầu tài sản: +Lợi tức cuối cùng của danh mục đầu tư: n RETp = ∑ RET ei x Wi i = 1 Wi là tỷ lệ tài sản i được đầu tư trong tổng số của cải N: là số lượng tài sản được đầu tư khác nhau RETei là lợi tức dự tính của mỗi phương án i 15
- -Các phép đo một số nhân tố quyết định lượng cầu tài sản: +Độ rủi ro của mỗi danh mục đầu tư thông qua độ lệch chuẩn được tính theo công thức n n δ2p = ∑W2iδ2i hay δp= ∑(W2iδ2i )1/2 i = 1 i =1 *Tiền tệ ở Việt Nam qua các thời kỳ: Ở nước ta, thời Hùng Vương tiền được đúc bằng đồng. Vào thế kỷ thứ 6, thời vua Lý Nam Đế, đã đúc tiền đồng lấy tên là “Thiên Ấu Thống Bảo” (544-548). Giặc ngoại xâm tại phương Bắc tràn vào thủ tiêu đồng tiền nước ta và bắt nhân dân ta sử dụng đồng tiền của chúng “Khải Nguyên Thống Bảo”(713-741) và “Can Nguyên Thang Bảo”(758-760). Đến Nhà Đinh, Đinh Tiên Hoàng (968-978) dẹp loạn, cho đúc tiền tại Hoa Lư, đặt tên “Thái Bình Hưng Bảo” cho lưu thông trong nước. Các thời nhà Đinh, tiền Lê, Lý, Trần, hậu Lê đã có các loại tiền đúc riêng khác nhau. Thời Hồ Quý Ly (1400-1407) đã in ra tiền giấy, năm 1428 Lê Lợi xóa bỏ tiền giấy khôi phục tiền đúc. Thời nhà Mạc đúc tiền “Minh Đức Thông Bảo” bằng sắt, bằng đồng. Đó là loại tiền sắt duy nhẩ trong lịch sử tiền tệ nước ta thời phong kiến. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, có chế độ tiền tệ của hai miền nhưng cả hai đều hoạt động dưới chiêu bài phò Lê nên đồng tiền “Cảnh Hưng” của vua Lê vẫn lưu hành trong cả nước. Trong thời kỳ này có nhiều loại tiền như tiền của những người cần đầu quân khởi nghĩa chống phong kiến, tiền của thầy phù thủy, của bọn nhà giàu Thời Quang Trung có đồng tiền “Quang Trung Thông Bảo”. Các triều đại nhà Nguyễn đúc tiền kẽm, đúc vàng, bạc dưới dạng thoi nén. Thời Gia Long có tiền bạc tròn nặng 27,3 gram. Minh Mạng có tiền bạc nặng 13 gram. Tại thế kỷ 17, trước khi thực dân Pháp xâm chiến nước ta, bọn tư bản Phương Tây đến Việt Nam mang theo nhiều loại tiền để mua hàng hóa. Thực dân Pháp lập ngân hàng Đông Dương thay các loại tiền trên (21-01-1875), phát hành tiền giấy và tiền kim loại. Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, ngày 01-12-1945, nước ta lưu hành tiền bằng nhôm do Bộ Tài Chính phát hành. Đó là đồng tiền đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngày 03-02-1945, phát hành tiền giấy miền Nam Trung Bộ. Kỳ họp thứ hai, khó một của Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộg Hòa quyết định phát hành trong cả nước. Việc phát hành do Bộ Tài Chính thực hiện. Năm 1951 Ngân hàng Quốc gia phát hành giấy bạc ngân hàng thay cho giấy bạc tài chính, nâng cao giá trị đồng tiền nước ta. Tháng 12-1959, thu đồng tiền cũ, phát hành tiền mới theo tỷ lệ một đồng tiền mới bằng 1000 đồng tiền cũ. Sauk hi Miền Nam giải phóng, tháng 05-1975, tại Miền Nam nhà nước phát hành tiền mới theo tỷ lệ một đồng tiền mới băng 500 đồng tiền cũ. Ngày 03-05-1978, nhà nước phát hành tiền Ngân hàng mới, thay đổi thống nhất trong cả nước theo tỷ lệ một đồng tiền mới bằng một đồng tiền cũ của miền Bắc và một đồng tiền mới bằng 0,8 đồng tiền cũ của Miền Nam. Tháng 09-1985, nhà nước thực hiện cải các tiền tệ, phát hành tiền mới theo tỷ lệ một đồng tiền mới bằng 10 đồng tiền cũ. 16
- Câu hỏi ôn tập chương 1: 1. Trình bày lịch sử hình thành và khái niệm tiền tệ? 2. Các chức năng của tiền tệ? Cho ví dụ minh họa? 3. Trình bày các hình thái tiền tệ? 4. Trình bày khái niệm và các loại bản vị tiền tệ? Bài tập chương 1: Bài tập 1: Hãy phân biệt những khái niệm tiền tệ trong những câu sau: Bạn kiếm được bao nhiêu tiền trong tuần trước? Khi tôi đi đến siêu thị tôi cần có nhiều tiền Lòng ham muốn về tiền là gốc rễ của mọi điều xấu “Đưa tiền đây nếu không anh sẽ chết” Anh ấy là một người rất giàu có, anh ấy có nhiều tiền. Bài tập 2: Có ba loại hàng hoá do ba người sản xuất: chuối của người trồng chuối, bánh ngọt của người thợ làm bánh ngọt và táo của người chủ vườn táo. Giả sử người chủ vườn táo chỉ thích chuối, người trồng chuối chỉ thích bánh ngọt và người làm bánh ngọt chỉ thích táo. Phân tích hành động thương mại giữa ba người trong nền kinh tế không sử dụng tiền? Việc đưa tiền vào nền kinh tế có ảnh hưởng như thế nào? Bài tập 3: Hãy sắp xếp những tài sản sau đây theo thứ tự tính lỏng giảm dần và giải thích các sắp xếp đó: Tiền mặt Nhà Ô tô Máy giặt Trái phiếu Tiền gửi có kỳ hạn 9 tháng Cổ phiếu Tiền gửi không kỳ hạn Tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng Tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng Bài tập 4: Anh chị hãy giúp cho nhà đầu tư lựa chọn danh mục đầu tư có hiệu quả: Danh mục đầu tư 1: 50% tài sản để mua trái khoán của công ty A 50% tài sản để mua trái khoán của công ty B Danh mục đầu tư 2: 30% tài sản để mua trái khoán của công ty A 70% tài sản để mua trái khoán của công ty B Biết rằng:Trái khoán của công ty A có ½ thời gian sẽ có lợi tức 15% và ½ thời gian còn lại sẽ có lợi tức 5% Trái khoán của công ty B có ½ thời gian sẽ có lợi tức 20% và ½ thời gian còn lại có lợi tức là 1 % 17
- Bài tập 5: Một cá nhân được quyền chọn một trong những danh mục đầu tư gồm tài sản A và B sau đây: Danh mục 1 Danh mục 2 Danh mục 3 Đầu tư vào tài sản A 75% 25% 50% Đầu tư vào tài sản B 25% 75% 50% Biết rằng: Lợi tức dự tính của tài sản A = 5% Lợi tức dự tính của tài sản B = 10% Phương sai của tài sản A = 16% Phương sai của tài sản B = 24% Cá nhân này sẽ chọn danh mục đầu tư nào nếu ông ta là: Một người không ưa mạo hiểm Một người ưa thích mạo hiểm Tài liệu tham khảo: 1. Bá Nha. Cung cầu tiền trong nền kinh tế thị trường. Nhà xuất bản thống kê, 1997 2. Hoàng Nghĩa. Lịch sử tiền tệ. Nhà xuất bản trẻ, 2006 3. TS.Nguyễn Ngọc Hùng. Lý thuyết tiền tệ - ngân hàng. Trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Tài chính. 4.TS.Tô Chính Thắng. Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2002. 5. Trịnh Thị Mai Hoa. Giáo trình Kinh tế học tiền tệ - ngân hàng. Nhà xuất bản đại học Quốc gia Hà Nội 6.Quản lý và kinh doanh tiền tệ. Trường Đại học Tài chính kế toán Hà Nội Nhà xuất bản Tài chính Hà nội, 1999. 18
- CHƯƠNG 2 LẠM PHÁT Mục tiêu: Chương Lạm phát mong muốn cung cấp cho người học những vấn đề cơ bản của một hiện tượng tiền tệ phổ biến xảy ra ở hầu hết các nước trên thế giới khi quy luật lưu thông tiền tệ không được đảm bảo đó là lạm phát. Từ việc phân tích khái niệm, tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả do lạm phát mang lại cho nên kinh tế nói chung và mỗi cá nhân nói riêng, chương Lạm phát đưa ra một số biện pháp cơ bản nhằm giúp người đọc nhìn nhân được cách thức giải quyết ngăn chặn, hạn chế lạm phát. Số tiết: 10 tiết Nội dung: 2.1.Khái niệm lạm phát 2.2.Biểu hiện và điễn biến của lạm phát 2.3.Hậu quả của lạm phát 2.4.Nguyên nhân của lạm phát 2.5.Những biện pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát Tóm tắt chương 2: Lạm phát là một “căn bệnh trầm kha” xảy ra phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới, tuy nhiên nó thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau nên cách nhìn nhận về nó của các nhà kinh tế học cũng khác nhau. Có thể khái quát về việc tìm hiểu một cách chính xác khái niệm lạm phát được chia thành bốn giai đoạn, trong đó ở mỗi giai đoạn điều đưa ra các nguyên nhân dẫn đến lạm phát và biện pháp khắc phục khác nhau. Trên cơ sở khắc phục các nhược điểm mà các giai đoạn nghiên cứu trước mắc phải, cuối cùng thì khái niêm lạm phát hoàn chỉnh đã ra đời. Với quan điểm Lạm phát là hiện tượng thừa tiền trong lưu thông, làm cho đồng tiền bị giảm giá trị so với tất cả các loại hàng hoá, vàng, ngoại tệ và được đo lường bằng chỉ số giá tổng quát ngày càng tăng, các nguyên nhân dẫn đến lạm phát, cũng như biểu hiện và diễn biến của lạm phát đã được trình bày. Trên cơ sở đó, một số biện pháp đã được đề xuất nhằm góp phần khắc phục hạn chế lạm phát. 2.1.Khái niệm lạm phát Lạm phát là một phạm trù kinh tế vốn có của nền kinh tế hàng hóa-tiền tệ, là căn bệnh nảy sinh khi yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ không được tôn trọng. Các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều lý thuyết để chẩn đoán và xác định các giải pháp chữa chạy. Song, trước khi xem xét “căn bệnh” và các giải pháp, cần phải xách định lạm phát là gì? Lạm phát là vấn đề không máy xa lạ đối với một nền kinh tế hàng hóa và hầu hết mọi người đã chứng kiến và trãi qua thời kỳ lạm phát ở các mức độ khác nhau. Nhưng hiểu chính xác lạm phát là gì không phái là dễ. Ngay cả các nhà kinh tế học cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát. Xét về mặt nội dung thì có thể chia quá trình phát triển của khái niệm lạm phát thành các giai đoạn sau:
- 2.1.1.Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1890 trở về trước: Lạm phát được coi là sự phát hành quá nhiều tìen mặt (tiền giấy) dẫn đến tình trạng giảm giá trị đồng tiền, nghĩa là tăng giá ( tăng chỉ số giá). Đó là quan điểm lan truyền rộng rãi khắp các nước phương Tây. ạm phát là sự tràn ngập các lượng lưu thông những tờ giấy bạc thừa gây nên sự mất giá của đồng tiền ” Trong một số quyển sách cũng có định nghĩa tương tự:” lạm phát là sự mất giá của đồng tiền do vi phạm quy luật lưu thông tiền tệ” Có thể có nhiều định nghĩa khác nữa nhưng chủ yếu đều tập trung vào hai điểm cơ bản: -Một là phát hành quá nhiều tiền giấy, tức là vi phạm “quy luật lưu thông tiền tệ” -Hai là thể hiện chủ yếu nhất hoặc hậu quả trực tiếp nhất của sự lạm phát là sự mất giá đồng tiền, cũng là sự tăng giá cả. Định nghĩa này xuất phát từ lý thuyết về số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, nó được tính theo công thức sau: n Σ PiXi i=1 S = (1) V Trong đó: S: là lượng tiền cần thiết trong lưu thông Pi:là giá đơn vị của hàng hóa i Xi:là số lượng hàng hóa i SSố hạng tại tử số biểu thị tổng giá cả. Vậy lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng gia cả chia cho só vòng quay của đồng tiền. Thoạt nhìn, công thức trên có vẽ như một công thức định lượng chính xác, nhưng thực tế ấy chỉ là một công thức định tính. Trước hết hãy xem xét cách tính tổng giá cả. Tổng giá cả là một khái niệm mà không biết những loại hàng hóa nào thì được kể vào để tính, tính một lần hay tính mấy lần. Chẳng hạn những bát động sản sau:nhà cửa, vườn tược khi đem bán rồi còn tính vào tổng giá cả hay không? Hoặc một loại hàng hóa mua đi bán lại nhiều lần, thậm chí người mua dùng một thời gian rồi bán lại thì cách tính toán vào tổng giá cả như thế nào? Không có tiêu chuẩn quy định chặt chẽ thì không thể tính chính xác được. Còn số quay vòng đồng tiền V: đối với một gia đình hoặc một xí nghiệp kinh doanh, gười ta đề xuất cách tính, nhưng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì V cũng là một con số không chính xác, do vậy S cũng là một con số không chính xác. Bây giờ hãy bỏ qua thực tế và coi như công thức (1) được hoàn toàn chính xác, người tga đã nêu lên định nghĩa về chỉ số lạm phát α (hoặc còn gọi là mức độ lạm phát, tỷ lệ lạm phát, tốc độ lạm phát) S - S α = S
- Trong đó: S là lượng tiền thực tế phát hành. Như vậy S – S là số tiền phát hành quá mức cần thiết và chỉ số lạm phát chính là tỷ lệ giữa số tiền phát hành quá mức cần thiết so với lượng tiền cần thiết. Dễ dàng chứng minh bằng toán học được rằng, nếu giữ nguyên vòng quay của đồng tiền thì lượng tiền phát hành them bao nhiêu phần trăm thì chỉ số giá cũng tăng lên bấy nhiêu phầm trăm. Vậy tỷ lệ lạm phát cũng chính là tỷ lệ tăng giá. Trong thực tế, mối quan hệ lượng tiền phát hành và chỉ số giá không chặt chẽ như thế này mà chỉ là một quan hệ định tính, nghĩa là khi phát hành quá nhiều tiền mặt thì nói chung giá cả sẽ tăng lên. Một nhận xét khác đối với định nghĩa trên là không nhữngnó thiếu chặt chẽ về số lượng mà còn thiếu chặt chẽ cả về khái niệm. Ta hãy xét một ví dụ sau: phát hành them nhiều tiền, dẫn đến tăng giá mà không lạm phát. Thật vậy, nếu chúng ta phát hành saôch số tiền lưu thông tăng lên mười lần và nhà nước đền bù cho mỗi người bằng chin lần số tiền mà họ có. Điều này có ý nghĩa như một thay đổi đơn vị tiền tệ, hoàn toàn không có gì liên quan đến lạm phát. Chỉ có sự tăng giá không đồng đều mới có quan hệ đến lạm phát, còn sự tăng giá đồng đều chỉ có ý nghĩa như một cuộc đổi đơn vị đồng tiền mà thôi. Với quan niệm rất hạn hẹp như trên nên việc chống lạm phát rất giản đơn, đó làm tìm cách hạn chế việc phát hành tiền mặt. Nhưng việc phát hành tiền mặt đâu phải tùy chính phủ mỗi nước muốn thế nào cũng được. Trong rất nhiều trường hợp, nhất là trong chiến tranh, có những khoản chi mà chính phủ không thể bác bỏ, nhưng cũng không có nguồn thu nào ngoài việc phát hành tiền. Việc phát hành đó là bắt buộc. Chính phủ không có khả năng lựa chon phát hành nhiều hay ít. Thực tế đó đã mở đường cho một giai đoạn mới của khái niệm tiền tệ. 2.1.2.Giai đoạn thứ hai: Từ những năm sau 1890 đến những năm trước 1950, lạm phát được coi là tình trạng cầu lớn hơn cung, dưới gốc độ tài chính thì chính là chi lớn hơn thu. Chỉ số lạm phát được định nghĩa theo công thức: Chi – Thu α = % Thu Theo quan điểm này, khi xuất hiện chênh lệch chi lớn hơn thu là có lạm phát. Ví có nhiều hình thức thu chi khác nhau: thu chi ngân sách, thu chi tiền mặt, thu chi tín dụng, nên cũng sinh ra nhiều khái niệm lạm phát khác nhau: lạm phát ngân sách, lạm phát tiền mặt, lạm phát tín dụng. Như vậy, khái niệm lạm phát ở giai đoạn này chính là đi vào nguyên nhân trực tiếp của khái niệm lạm phát ở gia đoạn thứ nhất. Vấn đề này có nguyên nhân lịch sử của nó: đó là giai đoạn từ lúc phôi thai của chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho đến khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Các nước gây chiến và tham chiến trước và trong chiến tranh thì nhu cầu chi tăng lên gấp bội, sau chiến tranh do bị tàn phá, sản xuất ngưng trệ, nguồn thu giảm sút nghiêm trọng, cho nên chênh lệch thu chi trong thời gian này ở nhiều nước như: Đức, Ý, Nhật, Pháp, Liên Xô, Hungari đi đến mức khủng hoảng, chẳng có cách nào là phải phát hành tiền để bù đắp vào chỗ thiếu hụt, làm cho đồng tiền bị mất giá một cách thảm hại. Ở Liên Xô, số lượng tiền lưu thông năm 1923 gấp 630.000 lần so với năm 1914, và chỉ số giá trong thời kỳ này tăng lên 21 triệu lần.
- Với quan niệm lạm phát thực chất là chênh lệch thu chi thì biện pháp chống lạm phát chủ yếu là giảm chênh lệch đó, nghĩa là làm thế nào để tăng thu giảm chi. -Tăng thu chủ yếu nhờ vào chính sách thuế, chính sách khuyến khích sản xuất, chính sách đầu tư và thu hút vốn vay, phát hành công trái, xin viện trợ. -Giảm chi chủ yếu nhờ vào chính sách tiêu dùng xã hội, chính sách tiết kiệm bắt buộc, giảm biên chế hành chính và thu gọn biên chế nhà nước Cho dù khái niệm lạm phát được xem xét theo nội dung của giai đoạn thứ nhất hay thứ hai thì vẫn xét đến việc tăng giá vì phát hành nhiêu tiền hay cầu lớn hơn cung gây ra sự tăng giá. Như vậy sự tăng giá vừa là biểu hiện vừa là hậu quả trực tiếp của hai tình huống trên, cho nên giá cả trở thành cốt lõi của vấn đề. Đó chính là nội dung của lạm phát trong một giai đoạn mới. 2.1.3.Giai đoạn thứ ba: từ năm 1950 đến năm 1972 Trong giai đoạn này lạm phát được đồng nhất với sự tăng giá; cho đến nay một số tiêu chí trên thế giới vẫn sử dụng khái niệm này, chăng hạn người ta nói năm 1986 chỉ số lạm phát ở Việt Nam là 700% thì điều đó có nghiã là chỉ số giá cuối năm 1986 gấp 700 lần chỉ số giá đầu năm 1986 (tức là cuối năm 1985). Như chúng ta đã biết vấn đề giá là vấn đề rất phức tạp; tất cả những vấn đề phức tạp nhất về chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, đối nội, đối ngoại, đều liên quan đến vấn đề giá. Như vậy, việc tăng giá không chỉ do nguyên nhân phát hành tiền, chênh lệch cung cầu, hay bội chi mà còn do nhiều nguyên nhân khác mà người ta gọi chung là nguyên nhân phi tìền tệ, phi tài chính: chẳng hạn do tâm lý, do quản lý, do chi phí sản xuất thực tế tăng lên, do sự phá hoại của đối phương Như vậy, tiến bộ ở giai đoạn thứ ba là nêu lên được vấn đề mấu chốt của lạm phát là vấn đề tăng giá mà trước đó người ta coi như là một biểu hiện hay hậu quả trực của lạm phát. Ngoài ra, lạm phát được coi là một vấn đề tổng hợp, trong đó vấn đề tiền tệ, tài chính, tuy rất quan trọng nhưng không phải là tất cả. Và tất nhiên giải pháp chống lạm phát không thể chỉ bao gồm giải pháp tiền tệ hoặc tài chính đơn thuần. 2.1.4.Giai đoạn thứ tư: từ năm 1972 đến nay. Cái mốc thời gian 1972 có những sự kiện đáng ghi nhớ: -Đông Đollar giấy từ bỏ “kim bản vị” tức là không còn được đản bảo bằng vngf. Điều này liên quan đến “học thuyết tiền tệ” của Friedman -Lý thuyết hệ thống, cách tiếp cận hệ thống, các quan điểm và nguyên lý của điều khiển học xâm nhập mạnh mẽ vào một số lĩnh vực nghiên cứu và quản lý. -Các nhà kinh tế Mác-xít ấu trĩ cuối cùng cũng đã bắt đầu nhận ra rằng, sự giảm giá không phải lúc nào cũng hay và sự tăng giá không phải lúc nào cũng dỡ, và lạm phát không phải là căn bệnh chỉ dành riêng cho CNTB. Cái mới về nội dung của lạm phát ở đây là các vấn đề về tiền tệ, giá cả, tài chính, tiền lương được xem xét như một tổng thể (quan điểm hệ thống) trong đó giá cả là vấn đề trung tâm, mối quan hệ giữa chúng không phải là mối quan hệ nhân quả mà là mối quan hệ vừa nhân vừa quả, nghĩa là mỗi yếu tố vừa là nguyên nhân vừa là hậu qủa của các yếu tố khác. Giá tăng lên là do nguyên nhân phát hành tiền và chênh lệch cung cầu, nhưng nó cũng tác động trở lại đến việc làm phát hành và làm thay đổi chênh lệch cung cầu. Các mối quan hệ này được mô tả bằng sơ đồ sau:
- TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GIÁ CẢ TIỀN LƯƠNG Khi đó lạm phát được miêu tả như sau: trong quá trình vận hành của nền kinh tế, nếu 4 yếu tố: tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương đạt được một sự phối hợp hài hòa , nghĩa là giữa chúng có một sự cân bằng (cân bằng động) thì lúc đó không có lạm phát, giá cả tiền tệ ổn định, cung cầu, thu chi cân bằng, tiền lương trang trãi đủ cuộc sống. Nếu không đạt được trạng thái cân bằng đó thì nền kinh tế có những biến động. Sự biến động này có thể xảy ra theo hai hướng: -Một là, giá cả tăng hơn giá trị, tiền phát hành quá mức cần thiết, bội chi tăng, tiền lương thực tế giảm, đó là khuynh hướng lạm phát. -Hai là, giá cả giảm xuống và nhỏ hơn hẳn giá trị, tiền lương phát hành ít hơn mức cần thiết, bôi chi tăng lên, tiền lương thực tế tăng, đó là khuynh hướng thiểu phát. Điều đáng chú ý ở đây là không nhất thiết cả 4 yếu tố đều ngả về cùng một phía, rất có thể một số yếu tố ngả về phía này, còn các yếu tố khác lại ngả về hướng khác. Ngoài ra sự thiểu phát cũng gây ra những tác hại không kém gì lạm phát. Tóm lại, hiện nay chúng ta có thể hiểu khái niệm lạm phát như sau: Lạm phát là trong lĩnh vực lưu thông tràn ngập khối lượng tiền thừa, làm cho tiền tê ngày càng mất giá so với toàn bộ sản phẩm hàng hóa, vàng, ngoại tệ và được đo lường bằng chỉ số giá cả tổng quát ngày càng tăng. Chỉ số giá cả tổng quát (Chỉ số giá tiêu dùng CPI): n n CPI = ∑pi1qi0 / ∑pi0qi0 i=1 i=1 n: số mặt hàng có trong giỏ hàng của một người tiêu dùng bình quân pi0: giá mặt hàng i thời kỳ gốc pi1: giá mặt hàng i thời kỳ so sánh qio : số lượng mặt hàng i thời kỳ gốc -CPI = 1: nền kinh tế ổn định, đồng tiền có tính ổn định, đáng tin cậy. -CPI 1: giá trị đồng tiền giảm, nển kinh tế có lạm phát. *Giá trị thời điểm của đồng tiền:
- Cũng như các sự vật khác, giá trị của đồng tiền cũng vận động không ngừng. Cùng với sự giảm sức mua, giá trị của đồng tiền cũng giảm theo cùng tỷ lệ với mức lạm phát. Tại mỗi thời điểm nhất định, giá trị của đồng tiền là một đai lượng xác định. Có thể gọi giá trị này là giá trị thời điểm của đồng tiền. Mối quan hệ giữa giá trị thời điểm của đồng tiền với giá trị của đồng tiền tại thời điểm được chọn làm gốc có thể được biểu hiện bởi công thức sau: GT=GTo/CPI (*) Trong đó: GT: giá trị thời điểm của đồng tiền GTo: giá trị của đồng tiền tại thời điểm gốc CPI: chỉ số giá hàng tiêu dùng trong khoảng thời gian từ thời điểm gốc đến thời điểm tính toán. Có thể tính CPI căn cứ vào chỉ số tiêu dùng theo từng tháng hoặc từng năm: CPI = CPI1 x CPI2 x CPI3 x CPIi x x CPIn Trong đó: CPI1 là chỉ số giá hàng tiêu dùng tháng (năm) đầu CPI2 là chỉ số giá hàng tiêu dùng tháng (năm) thứ hai CPIi là chỉ số giá hàng tiêu dùng tháng (năm) thứ i CPIn là chỉ số giá hàng tiêu dùng tháng (năm) thứ n Nếu mức lạm phát không thay đổi qua các tháng (năm) thì: CPI = CPIin, khi đó công thức (*) có dạng: GT = Gto/CPIin Giá trị của đồng tiền là một khái niệm kinh tế trừu tượng, không thể xác định giá trị tuyệt đối của nó được, nhưng hoàn toàn có thể xác định giá trị tương đối của nó, tức là có thể so sánh giá trị thời điểm với giá trị tại thời điểm gốc. Giá trị tương đối của đồng tiền phản ánh mức độ thay đổi giá trị của đồng tiền. Bằng cách coi giá trị của đồng tiền tại thời điểm gốc Gto = 1, công thức (*) có dạng như sau: GT = 1/CPI ( ) GT = 1/CPIin ( ) (khi mức lạm phát không thay đổi trong các năm) Sau đây chúng ta sử dụng công thức ( ) để xác định giá trị của đồng tiền tại các năm khác nhau khi coi giá trị đồng tiền tại năm gốc nhận giá trị bằng 1 và mức lạm phát không thay đổi trong các năm. Trường hợp mức lạm phát = 0, ta có CPIi = 1 và GT = 1 Trường hợp mức lạm phát = 5%, ta có CPIi = 1,05 và GT = 1/1,05n 2.2.Biểu hiện và điễn biến của lạm phát Biểu hiện của lạm phát là tiền giấy bị mất giá, giá cả hàng hóa tăng. Lúc đầu giá vàng tăng, sau đó lan rộng ra đối với giá cả các hàng hóa khác, nhưng giá cả các loại hàng hóa tăng không giống nhau. Đối với hàng tư liệu tiêu dùng thiết yếu (lương thực, thực phẩm, hàng may mặc), giá cả tăng cao so với các hàng tiêu dùng khác. Đối với tư liệu sản xuất thì giá cả tăng nhanh nhất lsf những vật tư nguyên liệu quan trọng (sắt, thép, kim loại ) Giá cả hàng hóa tăng lên làm cho đời sống người lao động ngày càng khó khăn, vì vậy cơ cấu tiêu dùng của người lao động sẽ bị thay đổi theo chiều hướng giảm tiêu dùng xa xỉ, lâu dài, tập trung cho tiêu dùng trước mắt. Điều đó khiến cho chỉ số lạm phát của từng nhóm mặt hàng có thể không giống nha, thậm chí có những mặt hàng giảm giá, nhưng chỉ số giá chung thì vẫn tăng. Ngoài những biểu hiện nói trên, lạm phát còn biểu hiện là tỷ giá ngoại tệ tăng liên tục, tức là tiền trong nước bị giảm giá còn ngoại tệ thì tăng giá.
- Thông thường trong nước có lạm phát, tiền giấy bị mất giá so với vàng, giá vàng trong nước tăng thì nó cũng sẽ làm tỷ giá ngoại tệ tăng. Điều này đối với nước có lạm phát cũng có lợi thế là có thể đẩy mạnh được xuất khẩu hàng hóa. Cần chý ý là vì biểu hiện trực tiếp của lạm phát là sự tăng liên tục của giá cả hàng hóa, nên người ta thường đồng nhất lạm phát và tăng giá, và vì vậy người ta lấy chỉ số tăng gủa giá cả hàng hóa (nói cung) làm chỉ số lạm phát. Thực ra chỉ số lạm phát và chỉ số tăng giá không hoàn toàn giống nhau. Nói cách khác tỷ lệ tăng tiền (tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ hay tố độ tăng tiền) và tỷ lệ mất giá của tiền giấy(chỉ số tăng giá-tỷ lệ lạm phát) không phải là hai khái niệm đồng nhất. Tại Việt Nam, từ năm 1990 trở về trước, tỷ lệ tăng giá (lạm phát) cao hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, chứng tỏ lạm phát rất nghiêm trọng. Từ sự phân biệt nói trên người ta đánh giá tình trạng của lạm phát qua việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ lệ tăng giá (tỷ lệ lạm phát) và tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Từ đó cho rằng lạm phát diễn biến qua hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: ở giai đoạn này tỷ lệ lạm phát (tỷ lệ tăng giá) nhỏ hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, nói cách khác tốc độ mất giá của tiền giấy chậm hơn tốc độ tăng tiền. Tình trạng này xảy ra ở Mỹ từ năm 1982 đến nay, còn ở Việt Nam, bắt đầu từ năm 199 tỷ lệ tăng giá thấp hơn tỷ lệ tăng tiền. Theo các nhà nghiên cứu khi tỷ lệ lạm phát (tăng giá) nhỏ hơn tỷ lệ tăng tiền thì có nghĩa là lạm phát đang ở trong tình trạng có thể chấp nhận được và thậm chí người ta còn cho rằng với điều kiện đó lại là liều thuốc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn thứ hai: đấy là bước phát triển nguy hiểm hơn của lạm phát. Tỷ lệ lạm phát (tăng giá) cao hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, nói cách khác tốc độ mất giá tiền giấy lớn hơn, nhanh hơn tốc độ tăng tiền. tình trạng này xảy ra ở Việt Nam từ năm 1990 trử về trước. Tại Mỹ từ năm 1971 đến năm 1981 đã xảy ra tình trạng này. Khi tố độ tăng giá lớn hơn tốc độ tăng tiền nghĩa là tiền tăng thêm ít mà giá cả tăng lên tì nhiều. Trong trường hợp này, lạm phát không còn là hiẹn tượng của tiền tệ nữa, và vì vậy chứng tỏ một tình trạng nguy hiểm và bi đát của nền kinh tế tài chính.Lạm phát như vậy là lạm phát nguy hiểm và trầm trọng vô cùng. Ở đó, người ta thấy sự mất giá của tiền giấy diễn ra nhanh chóng như một cổ xe xuống dốc mất thắng. Đánh giá mức độ lạm hpát bằng cách so sánh nó với tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ mới thấy tình trạng nguy hiểm và hiệu ứng của nó đối với nền kinh tế xã hội. Ngoài ra người ta còn đánh giá mức độ của lạm phát bằng cách đưa vào tỷ lệ tăng giá. Theo đó, nếu tỷ lệ tăng giá càng cao thì lạm phát được coi là nghiêm trọng. Có 3 mức độ khác nhau của lạm phát: -Lạm phát vừa phải: (Reasonable Inflation): đó là lạm phát mà tỷ lệ tăng giá cả hàng hóa trong khoảng 10% trở lại. Mới đầu lạm phát này còn được gọi là lạm phát một con số, người ta cho rằng lạm phát một con số là lạm phát có thể chấp nhận được, nhiều nước coi lạm phát một con số như là một chính sách của nhà nước để phát triển kinh tế. -Lạm phát cao: là lạm phát mà chỉ số tăng của giá cả là tương đối cao. Đó là mức lạm phát ở hai con số (dưới 100%), còn gọi là lạm phát thực sự. -Siêu lạm phát: đó là lạm phát với cường độ lớn từ 100% lên vài ba trăm phần trăm mỗi năm. Với mức độ lạm phát này thì nó ảnh hưởng ghê gớ đến đời sống kinh tế xã hội.
- 2.3.Hậu quả của lạm phát Ngoài trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (lạm phát một con số) có tác dụng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội, còn lại nói chung lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế xã hội. -Tác hại thứ nhất là làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá trị hay nói đúng hơn là thước đo này co dãn thất thường, do đó xã hội không thể tính toán hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình. -Thứ hai, tiền tệ và thuế là 2 công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hóa, vì tiền tệ bị mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của lạm phát và do vậy tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế, ngay cả trong trường hợp nhà nước có thể chỉ số hóa luật thuế thích hợp với mức lạm phát, thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng vẫn bị hạn chế. -Thứ ba, phân phối lại thu nhập, làm cho một số người nắm giữ các hàng hóa có giá trị tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những người có các hàng hóa mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ tiền bị nghèo đi. -Thứ tư, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí. -Thứ năm, xuyên tác bóp méo các yếu tố của thị trường làm ch các điều kiện của thị trường bị biến dạng. Hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá cả hàng hóa, giá cả tiền tệ, giá cả lao động Một khi những giá cả này tăng hay giảm đột biến và liên tục thì các yếu tố của thị trường không thể tránh khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo. -Thứ sáu, sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có lợi nhuận cao. -Thứ bảy, ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày càng giảm về ặt giá trị. -Thứ tám, đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của ngân hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội. -Thứ chín, đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc biệt là đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. Mặt khác lạm phát cũng làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện tượng là tmf cách tháo chạy ra khỏi đồng tiền và tìm mua bất cứ hàng hóa dù không có nhu cầu. Từ đó làm giàu cho những người đầu cơ tích trữ. Tóm lại: Hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây ra hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của môi nước. Lạm phát làm cho việc phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh tế qua giá cả đều khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho một nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Nhưng suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của người lao động, chính người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát. Chính vì các tác hại trên, việc kiểm soát lạm phát, giữ lạm phát ở mức độ hợp lý và tỷ lệ lạm phát thấp (Tỷ lệ lạm phát phù hợp với nhịp độ tăng trưởng kinh tế) trở thành một trong những mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát không đồng nghĩa với việc đưa tỷ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ, lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì lạm phát ở một mức độ vừa phải, kiềm chế điều tiết được mức
- lạm phát đó thì có lợi cho sự phát triển kinh tế, lạm phát đó không còn là một căn bệnh nguy hiểm nữa mà nó lại trở thành một công cụ điều tiết kinh tế. 2.4.Nguyên nhân của lạm phát Mỗi một loại lạm phát có những nguyên nhân của nó, nguyên nhân của lạm phát vừa phải có điều tiết khác với nguyên nhân của siêu lạm phát; nguyên nhân lạm phát của một nền kinh tế phát triển có hiệu quả khác với nguyên nhân lạm phát của một nền kinh tế suy thoái không có hiệu quả. Không những thế, lạm phát ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển khác với lạm phát ở các nước đang phát triển, cũng như là ở các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao. Song dù có những sự khác nhau như thế nào đi nữa, các cuộc lạm phát đều có những nguyên nhân có tính chất chung. Những nguyên nhân đó cụ thể là: -Những nguyên nhân có liên quan đến chính sách của nhà nước: việc thay đổi, ban hành mới các chính sách của Nhà nước ví dụ như chính sách Thuế, chính sách ưu tiên phát triển cho một số ngành nghề, lĩnh vực, thay đổi cơ cấu kinh tế có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển mất cân đối giữa các ngành nghề và dẫn đến lạm phát. -Những nguyên nhân có liên quan đến các chủ thể kinh doanh: việc thay đổi giá nhân công, giá nguyên vật liệu ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, từ đó dẫn đến giá của sản phẩm trên thị trường tăng cao, đây cũng có thể là nguyên nhân gây ra lạm phát. -Những nguyên nhân có liên quan đến các điều kiện quốc tế:giá xăng dầu trên thế giới tăng, giá vàng tăng có thể gây ra lạm phát ở một nước. -Những nguyên nhân có liên quan đến các điều kiện tự nhiên: bão lụt, hạn hán Tuỳ theo các điều kiện cụ thể, mà có thể có những cuộc lạm phát bắt nguồn từ một, hoặc nhiều nguyên nhân. 2.5.Những biện pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát Khi lạm phát đã xảy ra nặng nề và nghiêm trọng thì chính phủ của các nước phải tìm cách để chống lại lạm phát nhằm hồi phục sức mua của đồng tiền. Nói như vậy có nghĩa là việc tghực hiện các biện pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ trở thành một trong những chính sách lớn trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước. Ổn định tiền tệ nói chung và kiềm chế lạm phát nói riêng là việc nhà nước áp dụng các biện pháp về kinh tế, tài chính, kỹ thuật để ổn định sức mua của đồng tiền tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong thời kỳ các nước công nghiệp phát triển gắn với chế độ bản vị vàng, ổn định tiền tệ là áp dụng các biện pháp để khôi phục lại quan hệ bình thường giữa tiền giấy so với vàng. Với mục tiêu đó, các nước đã từng áp dụng các biện pháp cải thiện như: -Biện pháp loại bỏ tiền giấy không khả hoán (Annulation) -Biện pháp khôi phục (Restoration) -Biện pháp phá giá tiền tệ (Devaluation) Trong thời đại hiện nay, trên danh nghĩa pháp lý, vàng không còn là cơ sở của lưu thông tiền tệ, không còn là cơ sở bảo đảm trực tiếp cho tiền giấy lưu thông trong nước nữa thì các biện pháp ổn định và kiềm chế lạm phát đã có sự thay đổi quan trọng. Ổn định tiền tệ ngày nay là ổn định sức mua của tiền giấy trên cơ sở ngăn chặn leo thang của giá cả hàng hóa bằng các giải quyết các vấn đề của mối quan hệ giữa tiền và hàng. Nhưng dù có áp
- dụng biện pháp gì đi nữa thì các mục tiêu cơ bản vẫn phải đạt được, nếu không thì chính sách tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ không có đầy đủ ý nghĩa của nó. Những mục tiêu đó là ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm Như vậy việc áp dụng các biện pháp đó có thể bao gồm các biện pháp có tính chất chiến lược cùng các biện pháp cấp bách trước mắt. 2.5.1.Những biện pháp cơ bản chiến lược Biện pháp cơ bản chíến lược nhằm tác động đồng bộ lên mọi mặt hoạt động của nền kinh tế, với ý tưởng tạo ra một sức mạnh vào tiềm tiềm lực nền kinh tế của đất nước. Một quốc gia có nền kinh tế phát triển tốt và ổn định thì ở đó đồng tiền được ổn định vững chắc, lạm phát ít có cơ hội để phát triển bộc phát. Những biện pháp cơ bản chiến lược chưa thể phát huy tác dụng ngay, nhưng nếu không áp dụng biện pháp đó thì tình trạng lạm phát, tình trạng rối loạn của lưu thông tiền tệ sẽ xảy ra triền mien không lối thóat. Những biện pháp cơ bản chiến lược có thể bao gồm những biện pháp như: -Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đúng đắn: Ở Việt Nam, kể từ khi đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có điều tiết, đã có tác dụng rất to lớn. -Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển ngành mũi nhọn: Ổn định cơ cấu kinh tế nhằm đáp ứng được nhu cầu cơ bản về đời sống và việc làm của người lao động, do đó tùy hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có những chiến lược điều chỉnh cơ cấu kinh tế khác nhau. Ở Việt Nam cơ cấu kinh tế được điều chỉnh theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa, trước mắt nông-lâm-ngư nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng, phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ (ngân hàng-bưu điện-du lịch ) Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo cho nền kinh tế phát triển mạnh và chắc chắn. Ngoài ra, còn phát triển ngành kinh tế mũi nhọn xuất khẩu, bởi vì trong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế thì hoạt động ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng có vị trí quan trọng, nó vừa tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia vừa tác động đến các hoạt động của các ngành kinh tế khác, ổn định lưu thông tiền tệ trong nước. -Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước: Vai trò của Nhà nước đối với quản lý kinh tế rất to lớn. Nhà nước là nguời duy nhất đảm bảo tính công bằng và ổn định kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể tác động thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Bằng các công cụ về pháp luật, tài chính, giá cả, tiền tệ đã tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước được coi như là biện pháp mang tính chiến lược để ổn định tiền tệ, tinh giảm biên chế, kiệm toàn bộ máy quản lý hành chính. 2.5.2.Những biện pháp cấp bách trước mắt Biện pháp cấp bách trước mắt để ổn định tiền tệ và chống lại lạm phát được thực hiện trong hoàn cảnh lạm phát xảy ra nghiêm trọng, cơn sốt lạm phát cao thì có tác dụng nhưng chóng hơn. Những biện pháp như vậy được gọi là biện pháp tình thế để đối phó với thực trạng báo động của tình hình tiền tệ, giá cả.
- -Biện pháp tiền tệ tín dụng: Xuất phát từ quan điểm cho rằng lạm phát bao giờ cũng là hiện tượng của tiền tệ, năm biện pháp ổn định tiền tệ và chống lạm phát phải bắt đầu từ lĩnh vực tiền tệ-tín dụng: • Quản lý chặt chẽ việc cung ứng tiền. • Quản lý và hạn chế thật mạnh khả năng “tạo tiền” của ngân hàng thương thương mại bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng. • Nâng cao lãi suất tín dụng để thu hút tiền mặt trong nền kinh tế-xã hội, làm giảm lượng tiền cung ứng, mặt khác, nâng cao lãi suất tín dụng cũng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng thương mại. • Trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp cải cách tiền tệ, phát hành tiền mới thu hồi tiền cũ, lập lại trật tự trong lưu thông tiền tệ. -Biện pháp với tài chính ngân sách: áp dụng biện pháp về tài chính ngân sách có ý nghĩa quan trọng và then chốt, bởi vì người ta đều đồng ý rằng sau khủng hoảng của hệ thống tài chính Nhà Nước, ngân sách bị thâm hụt là nguyên nhân chính của lạm phát, do đó nếu dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ ổn định, lạm phát được kiểm soát. • Trước hết phải tìm cách để giảm dần bội chi tiền tạo thăng bằng thu chi ngân sách bằng cách tiết kiệm chi, nhất là những khoản chi cho bộ máy quản lý hành chính, những khoản chi chưa thật cấp thiết cũng cần phải cắt bớt hoặc giảm thiểu để làm giảm sự căng thẳng của ngân sách. • Tăng cường bồi dưỡng và mở rộng các khoản thu từ nền kinh tế, chống thất thu thuế, đồng thời phải thực hiện thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống. • Sử dụng tín dụng nhà nước bằng cách vay trong nước và nước ngoài. • Trong nước phát hành trái khoán Nhà nước ngắn hạn, trung và dài hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ Tăng các khoản vay và viện trợ từ bên ngoài với các điều kiện ưu đãi. -Ngăn chặn sự leo thang của giá cả: Sự leo thang của giá cả do tác động bởi nhiều yếu tố như sản xuất xuất kém, cung cầu hàng hóa trên thị trường mất cân đối làm giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao, cũng có thể do lượng tiền cung ứng tăng cao hơn tố độ tăng của sản xuất, ngoài ra còn có yếu tố tâm lý, đầu cơ Việc áp dụng các biện pháp để ngăn chặn sự leo thang của giá cả trước hết cần phải giải quyết ở khâu lưu thông phân phối như thực hiện mậu dịch tự do, nới lỏng hàng rào thuế quan để đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa. Có thể can thiệp bằng vàng và ngoại tệ bằng cách bán ra để ổn định giá vàng, giá ngoại tệ, từ đó tạo tâm lý ổn địn giá cả các loại mặt hàng khác. Mặt khác, quản lý thị trường tốt, chống buôn lậu, chống độc quyền, tranh mua tranh bán *Những phương thức chống lạm phát ở các nước phát triển Ở các nước phát triển, người ta thường đeo đuổi việc thực hiện một chính sách kinh tế vĩ mô nào đó mà việc thực hiện một chính sách như vậy thường cũng sinh ra lạm phát. Trước hết đó là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết nạn thất nghiệp. Các nhà nghiên cứu kinh tế ở Mỹ và các nước tư bản phát triển đã thống nhất rằng khi chính phủ muốn thực hiện chỉ tiêu công ăn việc làm cao (thất nghiệp giảm) có thể dẫn đến lạm phát. Kế đến phải nói đến thâm hụt ngân sách, hầu như ai cũng thừa nhận giảm thâm hụt ngân sách và lạm phát là bạn đồng hành với nhau. Tuy vậy, nếu thâm hụt ngân sách được trang trãi bằng các khoản vay của Chính phủ (bán trái khoán) thì nó sẽ
- không gây lạm phát. Thâm hụt ngân sách chỉ gây ra lạm phát khi nó được bù đắp bằng việc phát hành tiền. Việc lựa chọn phương thức chống lạm phát ở các nước không hoàn toàn giống nhau, ngay cả ở một nước, trong những thời kỳ khác nhau người ta cũng áp dụng những phương thức khác nhau. Nhìn chung, có hai loại phương thức dưới đây: -Phương thức “hạn chế tiền tệ”-kiểm soát chặt chẽ lượng tiền cung ứng: phương thức này xuất phát từ luận điểm của Friedman cho rằng sự tăng trưởng kinh tế ổn định và có hiệu quả chỉ có thể dựa trên sự kiểm sóat chặt chẽ khối lượng tiền tệ phát hành trong lưu thông, nghĩa là kiểm soát sự cung ứng tiền tệ kết hợp với chính sách kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Phương thức hạn chế tiền tệ được áp dụng ở Mỹ trong nhiều thập niên và tỏ ra có hiệu quả, vì vậy nó được nhiều nước thừa nhận như là phương thức chủ yếu để ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát. -Phương thức “nới lỏng tiền tệ”-lấy lạm phát trị lạm phát: phương thức này dựa trên quan điểm của Keynes cho rằng một nền kinh tế tăng trưởng và có hiệu quả là giải quyết đầy đủ công ăn việc làm. Muốn vậy phải kích cầu bằng các chính sách vĩ mô của nhà nước. Trong đó, việc nới lỏng tiền tệ, mở rộng việc cung ứng tiền tệ sẽ kích thích mặt cầu, giải quyết được nạn thất nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ đó lạm phát sẽ được kiểm soát. Theo quan điểm này, người ta coi lạm phát và chống lạm phát như một quá trình liên tục, nghĩa là vừa chống lạm phát lại vừa thực hiện chính sách tiền tệ lạm phát. Phương thức này đựoc thừa nhận ở Mỹ vào những thập niên 40, 50, 60 sau đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước Nam Mỹ, Argentina, Peru, Brazil, Bolivia có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân hàng năm lên đến trên dưới 300%, các nước khác như Urugoay, Mexico có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân hàng năm khoảng trên dưới 60% là một trong những bằng chứng vêf thực hiện quan điểm nói trên. Câu hỏi ôn tập: 1.Anh (chị) hãy trình bày khái niệm lạm phát? 2.Biểu hiện, diễn biến và hậu quả của lạm phát? 3.Nguyên nhân dẫn đến lạm phát?Tìm ví dụ thực tế minh họa. 4.Các phương thức khắc phục lạm phát Tài liệu tham khảo: 1.Hỏi đáp các vấn đề về tiền tệ - ngân hàng, Luật sư Võ Hưng Thanh, Đoàn luật sư thành phồ Hồ Chí Minh, nhà xuất bản lao động, 2002. 2.Những vấn đề tiền tệ và ngân hàng, Vũ Ngọc Nhung, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1998. 3.Thị trường tiền tệ Việt Nam trong quá trình hội nhập, PGS.TS.Lê Hoàng Nga, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2004. 4.Vận dụng cân đối tiền-hàng để triệt tiêu lạm phát, Nguyễn Cao Dũng, Nhà xuất bản Phương Đông, 2005.
- CHƯƠNG 3 LÃI SUẤT TÍN DỤNG Mục đich: Chương Lãi suất tín dụng sẽ cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về lãi suất: từ việc giải thích khái niệm lãi suất, vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế đến việc phân loại lãi suất nhằm giúp cho người đọc có một cái nhìn tổng quan hơn về lãi suất, đánh giá chính xác tầm quan trọng của lãi suất cũng như có thể vận dụng được trong các môn học khác và trong thực tế. Số tiết: 7tiết Nội dung: 3.1.Khái niệm lãi suất 3.2.Vai trò của lãi suất 3.3.Phân loại lãi suất 3.4.Lãi suất hoà vốn bình quân 3.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất Tóm tắt chương 3: Trong tất cả các hoạt động kinh tế hàng ngày từ đầu tư cho đến tích luỹ, lãi suất luôn luôn đóng một vai trò rất quan trọng, góp phần giúp các nhà đầu tư đưa ra các quyết định chính xác nhất, chúng ta có thể thấy rõ điều đó thông qua khái niệm của lãi suất cũng như vai trò của nó trong đời sống kinh tế-xã hội. Lãi suất là một yếu tố quan trọng tác động đến nhiều lĩnh vực, tuy nhiên bản thân nó cũng chịu sự tác động của nhiều yếu tố như cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế, lạm phát, sự ổn định của nền kinh tế, các chính sách của nhà nước .Trên cơ sở phân tích các tác động đó để nhà nước đưa ra được các chính sách thích hợp để điều chỉnh lạm phát. 3.1.Khái niệm lãi suất: Lãi suất là một trong những chỉ tiêu quan trọng, được cập nhật thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, nó có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư hay tiết kiệm của một cá nhân cũng như của tổ chức, doanh nghiệp, bên cạnh đó nó còn là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương dùng để điều tiết lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế. Mỗi một sự biến động, thay đổi nhỏ của lãi suất cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của cả nền kinh tế, do đó chúng ta cần phải tìm hiểu lãi suất là gì? Lãi suất là chi phí phải bỏ ra cho việc vay tiền, là giá cả của quyền được sử dụng tiền tệ trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó. Thông thường, lãi suất được biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm (%) của tổng số tiền vay tính cho một đơn vị thời gian là tháng hoặc năm. Cơ sở kinh tế của vấn đề lãi suất tín dụng đó là: -Hiện tượng tạm thời “thừa”, tạm thời “thiếu” vốn tiền tệ trong các luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế hàng hóa. -Vai trò trung gian của ngân hàng trong tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ thông qua công cụ lãi suất. Như vậy, việc duy trì và sử dụng công cụ lãi suất trong nền kinh tế hàng hóa là một tất yếu khách quan, song tác dụng của lãi suất đến mức nào lại là do sự vận dụng chính sách
- lãi suất. Mức lãi suất sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế và chế độ quản lý kinh tế hiện tại, phù hợp với quy luật vận động khách quan của tín dụng trong mối quan hệ với các quy luật kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa thì lúc đó lãi suất sẽ trở thành một chìa khóa thần kỳ để mở mang, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế thị trường thông thường ngân hàng trung ương ấn định khung lãi suất chung. Trong phạm vi khung lãi suất riêng theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Khung lãi suất chính là giới hạn tối đa của lãi suất cho vay và tối thỉểu của lãi suất tiền gửi mà ngân hàng trung ương quy định để khống chế và quản lý chung về mặt lãi suất đối với các tổ chức tín dụng. Khung lãi suất được ngân hàng trung ương công bố và thay đổi tùy thuộc vào giá cả thị trường, sức mua của đồng tiền, cung cầu tín dụng và chính sách của nhà nước. 3.2.Vai trò của lãi suất -Lãi suất là công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội tập trung vào quỹ tín dụng. Thông thường khi có một khoản tiền tiết kiệm, dân chúng thường nghĩ đến việc làm thế nào để có thể sinh lời trên khoản tiền đó như: đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua vàng, gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, Một trong những hình thức đầu tư có tính an toàn khá cao đối với người dân là gửi tiền vào ngân hàng. Để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng mình thì lãi suất là một trong những biện pháp hấp dẫn mà các ngân hàng thường sử dụng. -Lãi suất là công cụ để đo lường “sức khoẻ” của nền kinh tế: mỗi một sự biến động, dù là nhỏ nhất cũng ảnh hưởng đến hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức và của cả nền kinh tế. Ở các nước kinh tế phát triển, giá trái khoán và lãi suất được yết giá hàng ngày trên các tờ báo của cơ quan chính phủ. Người ta có thể căn cứ vào sự biến động của lãi suất để dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách. Các yếu tố này hợp thành chỉ tiêu “sức khỏe” của nền kinh tế. Người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp lập kế hoạch chỉ tiêu trong tương lai của họ, trong khi đó ngân hàng và các nhà đầu tư cần dự báo lãi suất để quyết định xem chon mua tài sản nào. -Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế: ngân hàng trung ương thay mặt chính phủ để thực hiện chính sách tiền tệ, và để thực hiện tốt chức năng đó ngân hàng trung ương phải sử dụng các công cụ điều tiết mà một trong số đó là lãi suất. Một khi ngân hàng trung ương muốn thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ, nghĩa là “bơm” thêm tiền vào nền kinh tế nhằm giúp các dơn vị tổ chức có thêm vốn để mở rộng họat đôngj kinh doanh của mình, ngân hàng trung ương sẽ hạ thấp lãi suất tín dụng, lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, rút bớt tiền ra khỏi lưu thông, ngân hàng trung ương sẽ nâng cao tỷ lệ lãi suất tín dụng, lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu. +Lãi suất góp phần giữ vững cân đối giữa sản suất và tiêu dùng. +Lãi suất góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia kích thích đầu tư nền kinh tế. +Lãi suất là công cụ tác động mạnh mẽ vào lạm phát. +Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
- 3.3.Phân loại lãi suất Khi nói đến khái niệm lãi suất, chúng ta thấy sẽ có rất nhiều loại lãi suất khác nhau và phạm vi hoạt động của chúng cũng khác nhau. 3.3.1.Phân loại theo nguồn sử dụng: -Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. Để đảm bảo sự công bằng, trong nền kinh tế thị trường, về mặt kinh tế, việc định các mức lãi suất huy động khác nhau chỉ căn cứ vào đối tượng huy động (tiền hay vật đảm bảo có giá trị) và thời hạn huy động. -Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay. Về mặt lý thuyết, các mức lãi suất cho vay khác nhau được căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân của đối tượng đầu tư và thời hạn cho vay. Tuy nhiên với ý nghĩa là một công cụ điều tiêt vĩ mô nền kinh tế, điều đó không phải bao giờ cũng đúng, vì nó còn tùy thuộc vào mục tiêu chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Theo nguyên tắc hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu của chúng là kinh doanh tiền tệ là lãi suất cho vay bao giờ cũng phải lớn hơn lãi suất huy động để đảm bảo ngân hàng có thể bù đắp được các chi phí hoạt động đã bỏ ra và có lợi nhuân. Thông thường, lãi suất cho vay và lãi suất huy động có mối quan hệ được xác định như sau: Lãi suất lãi suất Rủi ro cho vay = huy động + Chi phí + tối thiểu + Lợi nhuận 3.3.2.Phân loại theo giá trị thực: Hàng ngày chúng ta thường gặp các loại lãi suất được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức sử dụng một số loại lãi suất đó để làm đơn vị tính toán trong các hoạt động của mình. Tuy nhiên, hầu hết các loại lãi suất này là lãi suất chưa tính đến yếu tố lạm phát, và để xác định được giá trị thực của các loại lãi suất này, người ta phải tính thêm một yếu tố đó là tỷ lệ lạm phát dự tính. -Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho mỗi kỳ hạn gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận trước. -Lãi suất thực: là loại lãi suất xác định giá trị thực của các khoản lãi được trả hoặc thu được. Lãi suất Lãi suất Tỷ lệ thực = danh nghĩa - lạm phát Việc xác định tỷ lệ lạm phát dự tính này được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau. Các nhà kinh tế học thường sử dụng hai phương pháp để dự đoán về lạm phát: -Phương pháp 1: lạm phát được dự đoán trên cơ sở xem xét tỷ lệ lạm phát trong quá khứ. -Phương pháp 2: lạm phát được dự đoán trên cơ sở phân tích và vận dụng vào thực tế. Phương pháp này không chỉ xuất phát từ phương pháp ngoại suy một cách mày móc từ các hiện tượng trong quá khứ mà còn xem xét đến các thông tin có liên quan có sẵn như các dữ kiện về ngân sách nhà nước, chính sách tiền tệ, những triển vọng về kinh tế, việc
- khai thác các nguồn tài nguyên, sự phát triển về chính trị và những lý do khác có ảnh hưởng đến lạm phát. Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng, đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp. Đối với người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát và trong suốt thời gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng lạm phát tăng thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không sợ lỗ vì trượt giá khi trả nợ. 3.3.3.Phân loại theo phương pháp tính lãi -Lãi suất đơn: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay ban đầu không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế tiếp. -Lãi suất kép: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay, số tiền vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay (lãi mẹ đẻ lãi con) 3.3.4.Phân loại theo loại tiền -Lãi suất nội tệ: là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ (kể cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay) -Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất tính toán áp dụng cho đồng ngoại tệ Lãi suất ngoại tệ có ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu hay nhâp khẩu: để khuyến khích xuất khẩu, người ta thường áp dụng cơ chế lãi suất ngoại tệ cho vay thấp hơn, trong huy động thì cao hơn so với lãi suất nội tệ và ngược lại. Với cơ chế này sẽ khuyến khích các nhà xuất khẩu vay tiền để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình trong trường hợp lãi suất cho vay đối với đồng ngoại tệ thấp và ngược lại. 3.3.5.Phân loại theo độ dài thời gian: Theo cách phân loại ày, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, thời gian càng dài thì lãi suất càng cao. Cơ sở của cơ chế lãi suất này là ở chỗ thời gian thuê vốn (cả huy động và cho vay) càng dài thì lợi nhuận làm ra càng nhiều, đồng thời tính rủi ro mất vốn cũng càng cao. -Lãi suất ngắn hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm. -Lãi suất trung hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. -Lãi suất dài hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm. Theo cách phân loại này, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, thời gian càng dài thì lãi suất càng cao. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt lãi suất ngắn hạn có thể cao hơn lãi suất trung và dài hạn, ví dụ: khi nền kinh tế trong quá trình khôi phục lại sau chiến tranh, khủng hoảng kinh tế nhà nước cần một số lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, lúc này lãi suất huy động ngắn hạn sẽ được ưu tiên nâng cao hơn các loại lãi suất khác.
- 3.4.Lãi suất hoà vốn bình quân Là mức lãi suất cho vay chung mà tại đó, tổng số lãi thu đuợc từ việc cho vay nhiều nguồn khác nhau theo mức lãi suất hoà vốn tương ứng khác nhau sẽ vừa đủ để trả tổng số lãi phải trả từ các nguồn huy động. n ∑Airi Ai các loại vốn huy động từ 1 đến i Rbq= i=1 ri lãi suất hoà vốn loại i, ri = Li/Ai n Li lãi suẩt huy động nguồn i ∑Ai i=1 Trong thực tế, lãi suất hòa vốn bình quân thường cao hơn theo công thức trên vì lý do số vốn huy động được không phải được cho vay hoàn toàn do hai nguyên nhân: -Thứ nhất, phải nộp một tỷ lệ nhất định trên toàn bộ số vốn huy động vào ngân hàng trung ương (theo quy định về nộp dự trữ bắt buộc, đồng thời còn phải để tại quỹ một tỷ lệ nhất định phòng bất ổn trong cán cân thanh toán của chính tổ chức tín dụng đó. -Thứ hai, không phải ngân hàng nào và không phải lúc nào toàn bộ số vốn khả dụng đều được cho vay hết, do việc cho vay còn lệ thuộc vào nhu cầu vay vốn của xã hội. 3.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất 3.5.1.Mức cung cầu tiền tệ -Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để giao dịch thanh toán trên thị trường. Các nhà kinh tế đã định nghĩa M là tiền giao dịch bao gồm: M1 là tổng số tiền kim khí và tiền giấy lưu thông bên ngoài ngân hàng cộng với tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc và định nghĩa rộng hơn (M2) bao gồm những tài sản như tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoài tiền kim khí, tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc. Quyền kiểm soát mức cung tiền tệ được dành cho Chính phủ, bởi vì hạn chế mức cung tiền tệ là điều cần thiết để tiền có giá trị. -Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của cá nhân, đơn vị, tổ chức để làm phương tiện giao dịch, trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ Lãi suất P (% năm) D S 6 4 D 2 M Tiền tệ (M1)