Giáo trình môn Tài chính doanh nghiệp

doc 106 trang phuongnguyen 3502
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Tài chính doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_mon_tai_chinh_doanh_nghiep.doc

Nội dung text: Giáo trình môn Tài chính doanh nghiệp

  1. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH A. MỤC ĐÍCH CỦA CHƯƠNG - Học sinh nắm được các nội dung cơ bản sau: - Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển của Tài chính ( Nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ và Nhà nước ). - Biểu hiện bên ngoài và bản chất bên trong của Tài chính. - Chức năng của Tài chính ( Chức năng phân phối và chức năng giám đốc). - Hệ thống tài chính nước ta hiện nay ( bao gồm các khâu: Tài chính Nhà nước, Tài chính Doanh nghiệp, Bảo hiểm, Tín dụng, Tài chính các tổ chức xã hội và Tài chính hộ gia đình). - Khái niệm và nội dung của chính sách tài chính quốc gia. B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG (5 tiết) I. Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển của Tài chính - Cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, phân công lao động xã hội đã bắt đầu phát triển, đặc biệt là sự phân công giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp. Trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoa đó, tiền tê đã xuất hiện. - Cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, khi chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội bắt đầu phân chia thành các giai cấp và có sự đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội. Chính sự xuất hiện sản xuất và trao đổi hàng hoá và tiền tệ là một trong các nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy mạnh mẽ sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp. Trong điều kiện lịch sử đó, Nhà nước đã xuất hiện. Bằng quyền lực chính trị của mình, nhà nước là người có quyền quyết định việc in tiền, đúc tiền và lưu thông đồng tiền, tác động đến sự vận động độc lập của đồng tiền và tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. - Trong điều kiện kinh tế hàng hoá - tiền tệ, hình thức tiền tệ đã được các chủ thể trong xã hội sử dụng vào việc tham gia phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để tạo lập nên các quỹ tiền tệ phục vụ cho các mục đích riêng có của mỗi chủ thể, cụ thể: + Thông qua các loại thuế , nhà nước đã tập trung vào tay mình một bộ phận sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ để lập ra quỹ Ngân sách nhà nước và các quỹ Tài chính nhà nước khác phục vụ cho hoạt động của nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tê - xã hội. + Ở các chủ thể khác như ở các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các hộ gia đình: các quỹ tiền tệ được hình thành và sử dụng cho những mục đích trực tiếp ( sản xuất hoặc tiêu dùng ) ; bên cạnh đó các quỹ tiền tệ cũng có thể được hình thành như những tụ điểm trung gian để tự cung ứng phương tiện tiền tệ cho những mục đích trực tiếp. Tóm lại: Những phân tích trên cho thấy: sản xuất hàng hoá - tiền tê và nhà nước là những tiền đề khách quan quyết định sự ra đời và tồn tại của nhà nước. II. Bản chất của Tài chính
  2. 1. Biểu hiện bên ngoài của Tài chính Biểu hiện bên ngoài của tài chính thể hiện ra dưới dạng các hiện tượng thu vào bằng tiền và các hiện tượng chi ra bằng tiền ở các chủ thể kinh tế - xã hội, chẳng hạn: + Doanh nghiệp, dân cư nộp thuế bằng tiền cho nhà nước. + Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn. + Các cơ quan bảo hiểm trả tiền ( bồi thường thiệt hại) cho dân cư khi họ bị mất sức lao động tạm thời hay vĩnh viễn ( từ quỹ Bảo hiểm xã hội) hay khi họ bị tai nạn rủi ro ( từ quỹ Bảo hiểm kinh doanh). + Nhà nước cấp phát tiền từ Ngân sách nhà nước tài trợ cho việc xây dựng đường giao thông, trường học, bệnh viện công * Nhận xét - Từ các hiện tượng tài chính trên, có thể thấy hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính là sự vận động của vốn tiền tệ. Ở đây, tiền tệ đại diện cho một lượng giá trị, một thế năng về sức mua nhất định và được gọi là nguồn tài chính. - Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình. Sự vận động của các nguồn tài chính phản ánh sự vận động của những bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị. - Kết quả của quá trình phân phối các nguồn tài chính là sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Các quỹ tiền tệ là một lượng nhất định các nguồn tài chính được dùng cho một mục đích nhất định. Các quỹ tiền tệ có 3 đặc điểm sau: + Đặc điểm 1: Các quỹ tiền tệ luôn luôn biểu hiện các quan hệ sở hữu. Kết thúc một giai đoạn vận động nào đó của quỹ thì mỗi chủ thể của hình thức sở hữu này hay hình thức sở hữu khác sẽ nhận được cho mình một phần nguồn lực tài chính như là kết quả tất yếu của quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Việc sử dụng các quỹ tiền tệ cũng phụ thuộc quyền sở hữu, cũng như tuỳ thuộc vào quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý chí chủ quan của người sở hữu trong quá trình phân phối. + Đặc điểm 2: Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện tính mục đích của nguồn tài chính. Phần lớn các quỹ tiền tệ đều có mục đích cuối cùng: tích luỹ hoặc tiêu dùng. Chẳng hạn: - Ngân sách nhà nước - quỹ tiền tệ đặc biệt của nhà nước - phục vụ việc thực hiện chức năng của nhà nước. - Vốn của doanh nghiệp: phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Ngân sách gia đình: phục vụ mục đích tiêu dùng của gia đình Ngoài ra, còn có cả những quỹ tiền tệ trung gian (như các quỹ kinh doanh của các tổ chức tín dụng, công ty tài chính ) được hình thành và sử dụng có thời hạn cho việc hình thành các quỹ tiền tệ có mục đích sử dụng cuối cùng khác. + Đặc điểm 3: Tất cả các quỹ tiền tệ đều vận động thường xuyên, tức là chúng luôn luôn được tạo lập và sử dụng.
  3. Quá trình vận động của các nguồn tài chính thông qua hoạt động phân phối của tài chính kéo theo sự chuyển dịch giá trị từ quỹ tiền tệ này sang quỹ tiền tệ khác, do đó luôn luôn có quỹ tiền tệ được tạo lập và có quỹ tiền tệ được sử dụng. Những phân tích kể trên cho thấy quan niệm tài chính được xác định trước hết là những hiện tượng, những biểu hiện bên ngoài của nó: các hiện tượng thu, chi bằng tiền, là sự vận động của các nguồn tài chính, sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể trong xã hội. 2. Nội dung bên trong của Tài chính Nguồn tài chính trong xã hội luôn vận động một cách liên tục và trong mối quan hệ chằng chịt, đa dạng giữa các chủ thể trong xã hội dẫn tới việc làm thay đổi lợi ích kinh tế của các chủ thể đó, ví dụ: - Các tổ chức, doanh nghiệp khi nhận được sự tài trợ nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước sẽ có điều kiện để duy trì và đây mạnh hoạt động của mình. - Khi tập trung thêm được các nguồn tài chính từ các chủ thể khác trong xã hội vào ngân sách nhà nước, nhà nước có thêm điều kiện vật chất thực hiện các chức năng của mình. Như vậy, các hiện tượng - biểu hiện bên ngoài của tài chính là sự thể hiện và phản ánh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình phân phối các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Các quan hệ kinh tế như thế được gọi là các quan hệ tài chính. Các quan hệ tài chính biểu hiện mặt bản chất bên trong của tài chính ẩn dấu sau các biểu hiện bên ngoài của tài chính. Như vậy có thể hiểu: Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. * Chú ý: Giữa tài chính và các phạm trù giá trị khác như tiền tệ, giá cả, tiền lương có quan hệ với nhau rất gần gũi và giữa chúng có sự khác nhau về bản chất. - Tiền tệ về bản chất là một hàng hoá đặc biệt đóng vai trò là vật ngang giá chung trong quan hệ mua bán, trao đổi của nền sản xuất hàng hoá với chức năng thước đo giá trị, trung gian trao đổi, chức năng dự trữ giá trị và chức năng thanh toán. Còn tài chính là sự vận động của tiền tệ chỉ với hai chức năng thanh toán và phương tiện dự trữ giá trị và luôn gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định để thoả mãn các mục đích khác nhau. - Giá cả là một phạm trù phân phối dưới hình thức giá trị nhưng khác rất rõ với phạm trù tài chính. Đặc trưng cơ bản của phân phối tài chính là luôn kéo theo sự chuyển dịch giá trị gắn với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể kinh tế - xã hội khác nhau. Còn ở phạm trù giá cả, việc chuyển dịch giá trị không xảy ra vì giá cả xuất hiện trong quan hệ trao đổi, mua bán theo nguyên tắc ngang giá (thậm chí trong trường hợp trao đổi không ngang giá, quá trình phân phối dưới hình thức giá trị của phạm trù giá cả được thực hiện kèm theo quá trình trao đổi mua bán với sự vận động ngược chiều của các hình thái giá trị khác nhau, không giống như phân phối của tài chính thực hiện thông qua sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ và không kèm theo sự vận động ngược chiều nào của giá trị). - Tiền lương là một phạm trù phân phối dưới hình thức giá trị. Tiền lương được trả cho người lao động với biểu hiện là một số tiền nhất định và cũng là một bộ phận của nguồn tài chính
  4. hình thành nên ngân sách gia đình, tài chính dân cư. Tài chính là phương tiện để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động của tiền lương trong lĩnh vực bù đắp sức lao động. III. Chức năng của Tài chính 1. Chức năng phân phối - Khái niệm: Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó, các nguồn tài lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho những mục đích khác nhau và những lợi ích khác nhau của đời sống xã hôi. - Đối tượng phân phối: là của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là tổng thể các nguồn tài chính có trong xã hội. Bao gồm: - Bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra trong kỳ. Đó là tổng sản phẩm trong nước ( GDP). - Bộ phận của cải xã hội còn lại từ thời kỳ trước. Đó là phần tích luỹ quá khứ của xã hội. - Bộ phận của cải được chuyển từ nước ngoài vào và bộ phận của cải từ trong nước chuyển ra nước ngoài. - Bộ phận tài sản, tài nguyên quốc gia có thể cho thuê, nhượng bán có thời hạn. -Chủ thể phân phối: có thể là Nhà nước ( các tổ chức, cơ quan Nhà Nước), các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các hộ gia đình hay cá nhân dân cư. - Kết quả phân phối: sự hình thành ( tạo lập) hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể trong xã hội nhằm những mục đích đã định. - Đặc điểm phân phối: + Một là, phân phối của tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, không kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị. Thông qua chức năng phân phối của tài chính, các quỹ tiền tệ nhất định được hình thành và sử dụng, nhưng chính trong việc hình thành và sử dụng các quỹ, đặc điểm của tài chính - phân phối dưới hình thức giá trị - vẫn không thay đổi. + Hai là, phân phối của tài chính là sự phân phối luôn luôn gắn liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tê nhất định. Phân phối của tài chính luôn làm chuyển dịch giá trị, biểu hiện bằng sự vận động của các nguồn tài chính từ quỹ tiền tệ này sang quỹ tiền tệ khác. Điều này liên quan đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau. + Ba là, phân phối của tài chính là quá trình phân phối diễn ra một cách thường xuyên, liên tục bao gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại, trong đó phân phối lại có phạm vi rộng lớn và mang tính chất chủ yếu. Phân phối lần đầu: là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hoặc thực hiện các dịch vụ trong các đơn vị sản xuất và dịch vụ. Qua phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội mới chỉ được chia thành những phần thu nhập cơ bản.
  5.  Phân phối lại: là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, những quỹ tiền tệ được hình thành trong phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội hoặc theo những mục đích cụ thể hơn của các quỹ tiền tệ. 2. Chức năng giám đốc - Khái niệm: Chức năng giám đốc của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo các mục đích đã định. - Đối tượng của giám đốc tài chính: là quá trình vận động của các nguồn tài chính, quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. - Chủ thể của giám đốc tài chính: cũng chính là các chủ thể phân phối. Bởi vì, để cho các quá trình phân phối đạt tới tối đa tính mục đích, tính hợp lý, tính hiệu quả; bản thân các chủ thể phân phối phải tiến hành kiểm tra xem xét các quá trình phân phối đó. - Kết quả của giám đốc tài chính: phát hiện ra những mặt được và chưa được của quá trình phân phối, từ đó giúp tìm ra các biện pháp hiệu chỉnh các quá trình vận động của các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải xã hội theo các mục tiêu đã định nhằm đạt hiệu quả cao của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. - Đặc điểm của giám đốc tài chính: + Giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền, nhưng nó không đồng nhất với mọi loại giám đốc bằng đồng tiền khác trong xã hội. Giám đốc tài chính được thực hiện đối với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, Trong khi đó, giá cả là một phạm trù giá trị có khả năng giám đốc bằng đồng tiền nhưng khác biệt với phạm trù tài chính. Trong quan hệ trao đổi, mua bán; khả năng giám đốc của giá cả trước hết nhờ vào chức năng thước đo giá trị của tiền tệ để đo lường giá trị của hàng hoá nhằm đảm bảo nguyên tắc ngang giá. + Giám đốc tài chính là loại giám đốc rất toàn diện, thường xuyên, liên tục và rộng rãi. => Chức năng phân phối và chức năng giám đốc của tài chính có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ gắn bó với nhau, làm tiền đề và bổ sung cho nhau. Chức năng phân phối là tiền đề cho chức năng giám đốc vì phân phối tạo ra nhu cầu và khả năng kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền đối với toàn bộ quá trình phân phối. Ngược lại, chức năng giám đốc được thực hiện đảm bảo cho việc thực hiện chức năng phân phối phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan, nâng cao tính hiệu quả của phân phối. IV. Hệ thống tài chính nước ta trong giai đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN 1.Quan niệm hệ thống tài chính và khâu tài chính Hoạt động của con người về sử dụng phạm trù tài chính tồn tại khách quan là hoạt động tài chính. Trong đời sống thực tiễn, hoạt động tài chính luôn gắn liền với các hoạt động kinh tế - xã hội. Hệ thống tài chính là tổng thể các luồng vận động của các nguồn tài chính trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau về việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội hoạt động trong các lĩnh vực đó Hay Hệ thống tài chính là tổng thể các khâu tài chính có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình hoạt động.
  6. Hệ thống tài chính của một quốc gia là một thể thống nhất do nhiều mắt khâu tài chính hợp thành. Hệ thống tài chính nước ta hiện nay bao gồm các khâu: 1. Ngân sách Nhà nước. 2. Tài chính Doanh nghiệp. 3. Bảo hiểm. 4. Tín dụng. 5. Tài chính các tổ chức xã hội và Tài chính hộ gia đình. Chú thích: Quan hệ trực tiếp. Quan hệ thông qua thị trường.
  7. Hay: Khái quát chung về các khâu tài chính 2.1 Ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Đây là một “ tụ điểm “ của các nguồn tài chính gắn với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước với mục đích phục vụ cho sự hoạt động của bộ máy Nhà nước các cấp và thực hiện các chức năng của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội. - Ngân sách Nhà nước có các nhiệm vụ sau: + Thứ nhất, động viên tập trung các nguồn tài chính cho việc tạo lập quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước - quỹ Ngân sách - từ các khoản huy động mang tính bắt buộc ( thuế, phí, lệ phí) hoặc mang tính chất tự nguyện ( viện trợ, vay nợ trong và ngoài nước) + Thứ hai, phân phối và sử dụng quỹ Ngân sách cho việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội như duy trì bộ máy Nhà nước, củng cố an ninh quốc phòng, phát triển văn hoá xã hội, phát triển kết cấu hạ tầng, đầu tư kinh tế + Thứ ba, giám đốc và kiểm tra đối với các khâu tài chính khác và với mọi hoạt động khác nhau của xã hội, với tất cả các khâu khác trong hệ thống tài chính; do đó nó có khả năng và cần phải thực hiện việc kiểm tra đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính có quan hệ với việc tạo lập và sử dụng quỹ Ngân sách ở mọi khâu tài chính và mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội.
  8. 2.2.Tài chính Doanh nghiệp Tài chính Doanh nghiệp là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia. Đây là một “ tụ điểm “ của các nguồn tài chính gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá hay dịch vụ. Hoạt động Tài chính Doanh nghiệp luôn gắn liền với các chủ thể của nó là các doanh nghiệp ( pháp nhân hay thể nhân). Sự tạo lập vốn ban đầu có thể và trước hết là dựa vào thị trường tài chính, thu hút vốn qua góp vốn cổ phần ( phát hành cổ phiếu) hay đi vay ( phát hành trái phiếu, vay ngân hàng ). Sau đó, do gắn liền với sản xuất kinh doanh, vốn và các quỹ tiền tệ khác được bổ sung, tái tạo thông qua việc phân phối doanh thu tiêu thụ sản phẩm, lập các quỹ bù đắp ( như quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bù đắp vốn lưu động) và tạo lập các quỹ từ lợi nhuận. Mỗi quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp đều có mục đích nhất định, nhưng tính chất chung của chúng là gắn liền với sản xuất kinh doanh, chi dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh và phần tiêu dùng để hình thành thu nhập của những người tham gia sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. Tài chính Doanh nghiệp có các nhiệm vụ sau đây: + Một là, Bảo đảm vốn và phân phối vốn hợp lý cho các nhu cầu của sản xuất kinh doanh. + Hai là, Tổ chức cho vốn chu chuyển một cách liên tục và có hiệu quả. + Ba là, Phân phối doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp theo đúng các quy định của nhà nước. + Bốn là, Kiểm tra mọi quá trình vận động của các nguồn tài chính trong doanh nghiệp; đồng thời, kiểm tra mọi hoạt động sản xuất kinh doanh gắn liền với các quá trình đó. Tài chính Doanh nghiệp có quan hệ với các khâu khác của hệ thống tài chính như quan hệ với Tài chính hộ gia đình thông qua trả lương, thưởng, lợi tức cổ phần, trái phiếu; quan hệ với Ngân sách thông qua nộp thuế; quan hệ với các tổ chức tín dụng thông qua việc thu hút nguồn tài chính để tạo vốn hoặc trả nợ gốc và lãi vay Quan hệ giữa Tài chính Doanh nghiệp với các khâu tài chính khác có thể là trực tiếp với nhau, cũng có thể thông qua thị trường tài chính. 2.3.Bảo hiểm Bảo hiểm là một khâu trong hệ thống tài chính nước ta. Bảo hiểm có nhiều hình thức và nhiều quỹ tiền tệ khác nhau, nhưng tính chất chung và đặc biệt của các quỹ bảo hiểm là được tạo lập và sử dụng để bồi thường tổn thất nhiều dạng cho những chủ thể tham gia bảo hiểm tuỳ theo mục đích của quỹ. Theo tính chất của hoạt động bảo hiểm, bảo hiểm được chia thành hai nhóm: - Bảo hiểm kinh doanh: ( bao gồm bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và các nghiệp vụ bảo hiểm khác) được hình thành từ sự đóng góp của những người ( thể nhân hoặc pháp nhân) tham gia bảo hiểm và chủ yếu được sử dụng để bồi thường tổn thất cho họ khi họ gặp rủi ro bất ngờ, bị thiệt hại vật chất theo nguyên tắc đặc thù là “ lấy số đông bù số ít ”. Phần lớn các quỹ bảo hiểm kinh doanh được tạo lập và sử dụng có tính chất thương mại, vì mục đích kinh doanh lấy lợi nhuận. - Bảo hiểm xã hội: ( bao gồm bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế ) được hình thành và sử dụng không vì mục đích kinh doanh lấy lãi. Trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ Bảo hiểm, Bảo hiểm có quan hệ trực tiếp với các khâu khác qua việc thu phí Bảo hiểm và chi bồi thường. Đồng thời do khả năng tạm thời
  9. nhàn rỗi của các nguồn tài chính trong các quỹ Bảo hiểm, các quỹ này có thể được sử dụng tạm thời như các quỹ tín dụng. Như vậy, Bảo hiểm cũng có thể có quan hệ với các khâu khác thông qua thị trường tài chính. Do vậy Bảo hiểm được xem như là một khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính. 2.4.Tín dụng Tín dụng là một khâu quan trọng của hệ thống tài chính. Đặc trưng cơ bản của tín dụng là gắn liền với các quỹ tiền tệ được tạo lập bằng việc thu hút các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi và sử dụng để cho vay theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức. Ở nước ta, các tổ chức tín dụng bao gồm các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng ( như các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính ), các tổ chức tín dụng hợp tác ( quỹ tín dụng nhân dân) , tuy nhiên phổ biến nhất vẫn là các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại là các trung gian tài chính với chức năng chủ yếu là huy động vốn và cho vay; hoạt động với các nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có, nghiệp vụ môi giới trung gian. Thông qua hoạt động của các tổ chức tín dụng, khâu tín dụng có quan hệ chặt chẽ và trực tiếp với các khâu khác của hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng cũng là các tổ chức hoạt động trên thị trường tài chính, là cầu nối giữa người có khả năng cung ứng và người có nhu cầu sử dụng tạm thời các nguồn tài chính. Do đó, tín dụng không những có quan hệ với các khâu khác thông qua thị trường tài chính mà còn trở thành khâu tài chính trung gian quan trọng của hệ thống tài chính. 2.5. Tài chính các tổ chức xã hội và Tài chính hộ gia đình (dân cư) - Các tổ chức xã hội là khái niệm chung để chỉ các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể xã hội, các hội nghề nghiệp Các tổ chức này còn được gọi là các tổ chức phi chính phủ. Các tổ chức xã hội có quỹ tiền tệ riêng để đảm bảo hoạt động của mình, và được hình thành từ nhiều nguồn rất đa dạng: hội phí đóng góp từ các thành viên tham gia tổ chức; quyên góp, ủng hộ, biếu tặng của các tập thể, cá nhân; tài trợ từ nước ngoài; tài trợ của Chính phủ và nguồn từ những hoạt động có thu của các tổ chức này. Các quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội chủ yếu được sử dụng cho mục đích tiêu dùng trong hoạt động của các tổ chức đó. Khi quỹ chưa được sử dụng, số dư ổn định của chúng có thể tham gia thị trường tài chính thông qua các quỹ tín dụng hoặc các hình thức khác ( mua tín phiếu, trái phiếu ). -Các quỹ tiền tệ của các hộ gia đình được hình thành từ quỹ tiền lương, tiền công, thu nhập của các thành viên trong gia đình do lao động trong sản xuất kinh doanh; từ nguồn thừa kế tài sản; từ nguồn biếu tặng lẫn nhau trong quan hệ gia đình hay quan hệ xã hội ở trong hay từ ngoài nước; từ các nguồn khác như lãi suất gửi ngân hàng, lợi tức từ những khoản góp vốn, mua trái phiếu, cổ phiếu Quỹ tiền tệ của các hộ gia đình chủ yếu được sử dụng cho mục đích tiêu dùng của gia đình. Một phần nguồn tài chính của các quỹ này có thể tham gia vào quỹ Ngân sách nhà nước dưới hình thức nộp thuế, phí, lệ phí; tham gia vào các quỹ Bảo hiểm theo các mục đích bảo hiểm khác nhau; tham gia vào các quỹ tín dụng dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm Nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của các hộ gia đình cũng có thể được sử dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong phạm vi kinh tế hộ gia đình, hoặc tham gia vào thị trường tài chính qua việc góp cổ phần, mua cố phiếu, trái phiếu, tín phiếu * CHÚ Ý
  10. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các khâu của hệ thống tài chính vừa có quan hệ trực tiếp với nhau, vừa có quan hệ với nhau thông qua thị trường tài chính. Thị trường tài chính không phải là một khâu tài chính mà nó là môi trường cho sự hoạt động của các khâu tài chính và cho sự vận động của các nguồn tài chính. Thị trường tài chính là nơi diễn ra mua bán trong lĩnh vực tài chính. Đối tượng mua bán ở đây là quyền sử dụng các nguồn tài chính ngắn hạn hoặc dài hạn. Giá cả của sự mua bán là số lợi tức mà người mua quyền sử dụng vốn trả cho người nhượng ( bán ) quyền sử dụng vốn. Người mua và người bán có thể là tất cả các chủ thể đại diện cho các khâu của hệ thống tài chính. Trên thị trường tài chính, các tổ chức tài chính trung gian ( Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm ) giữ vai trò rất quan trọng, hoạt động từ những “ cầu nối “ giữa người mua và người bán quyền sử dụng các nguồn tài chính, giúp cho việc lựa chọn lĩnh vực bỏ vốn, giảm chi phí tìm kiếm và giao dịch cũng như rủi ro đầu tư; từ đó cho phép huy động tối đa các nguồn tài chính hiện có trong nền kinh tế cũng như một số nguồn lực từ nước ngoài. Do điều kiện, tính chất, thời gian sử dụng và hình thức vận động của các nguồn tài chính, trên thị trường đã nảy sinh sự chuyên môn hoá và có sự phân biệt giữa các bộ phận chuyên môn hoá của thị trường tài chính: Thị trường tiền tệ, Thị trường vốn và Thị trường chứng khoán. - Thị trường tiền tệ: là bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng ngắn hạn. Thời gian trao quyền sử dụng các nguồn tài chính ở đây thường là dưới một năm. Do thời hạn đó, các nguồn tài chính ở đây chủ yếu được sử dụng làm phương tiện thanh toán. Giá cả mua bán trên thị trường này - lợi tức tiền vay ngắn hạn - là một trong những công cụ quan trọng để điều hoà lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế. - Thị trường vốn: là bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng dài hạn. Do thời hạn đó, các nguồn tài chính ở đây chủ yếu được sử dụng để đầu tư dài hạn vào sản xuất kinh doanh ( đầu tư vốn cố định, đầu tư vốn lưu động của các doanh nghiệp). - Thị trường chứng khoán: là một bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hoá về việc mua bán các giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng các nguồn tài chính cả ngắn hạn và dài hạn và quyền nhận lợi tức do có sự thay đổi chủ thể có quyền nhận lợi tức đó. Giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng các nguồn tài chính được gọi là chứng khoán. Chứng khoán được mua bán ở đây bao gồm tất cả các giấy chứng nhận quyền sử dụng các nguồn tài chính dài hạn (cổ phiếu, trái phiếu các loại) cũng như ngắn hạn ( tín phiếu, giấy nhận nợ các loại). Xét theo sự luân chuyển các chứng khoán, sự luân chuyển các nguồn tài chính; thị trường chứng khoán bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán chứng khoán lần đầu kèm theo việc làm tăng quy mô tài chính được đưa vào thị trường. Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán chứng khoán từ lần hai trở đi và không làm tăng quy mô nguồn tài chính được đưa vào thị trường. Các bộ phận chuyên môn hoá của thị trường tài chính có liên quan chặt chẽ với nhau; ranh giới giữa thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán có vùng giao nhau lớn nhưng chúng không hoàn toàn trùng nhau. V. Chính sách tài chính quốc gia 1. Khái niệm Chính sách tài chính quốc gia là chính sách của nhà nước về sử dụng các công cụ tài chính bao gồm hệ thống các quan điểm, mục tiêu, chủ trương và giải pháp về tài chính - tiền tệ của nhà
  11. nước phù hợp với đặc điểm của đất nước trong từng thời kỳ nhằm bồi dưỡng, khai thác, huy động và sử dụng các nguồn tài chính đa dạng phục vụ có hiệu quả cho việc thực hiện các kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong thời kỳ tương ứng. 2. Nội dung Chính sách tài chính quốc gia bao gồm nhiều nội dung phong phú và phức tạp bao quát mọi khâu của hệ thống tài chính và mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau của tài chính. Ví dụ: - Chính sách đối với hoạt động của một khâu tài chính, như chính sách ngân sách - Chính sách đối với một lĩnh vực hoạt động nào đó của tài chính, như chính sách tài chính đối ngoại - Chính sách về sử dụng các công cụ tài chính, như chính sách thuế, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá - Chính sách đối xử của Nhà nước ( về mặt tài chính ) đối với một chủ thể hay một lĩnh vực hoạt động nào đó, như: chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách tài trợ, chính sách bảo hộ Có thể khái quát các nội dung của chính sách tài chính quốc gia thành các bộ phận chính sách sau đây: 2.1. Chính sách phát triển nguồn lực tài chính Bộ phận chính sách này bao gồm các giải pháp sử dụng các công cụ tài chính - tiền tệ nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, phát triển bền vững, từ đó gia tăng nguồn lực tài chính cho xã hội. 2.2. Chính sách khai thác, động viên nguồn lực tài chính Bộ phận chính sách này bao gồm các giải pháp sử dụng các công cụ tài chính để khơi dậy, giải phóng các nguồn lực tài chính trong các thành phần kinh tế, các lĩnh vực hoạt động khác nhau, đưa chúng vào quá trình vận động của chu trình tuần hoàn kinh tế đáp ứng yêu cầu của các hoạt động kinh tê - xã hội, đồng thời để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia vào tay Nhà nước phục vụ các nhu cầu chung có tính chất toàn xã hội. 2.3. Chính sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính Bộ phận chính sách này bao gồm các giải pháp sử dụng công cụ tài chính để phân bổ nguồn lực tài chính một cách hợp lý, đảm bảo các quan hệ cân đối lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời chi dùng nguồn lực tài chính một cách tiết kiệm và hiệu quả. C. TÓM TẮT CHƯƠNG 1. Tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan. Nó thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Giữa tài chính và các phạm trù giá trị khác như tiền tệ, giá cả, tiền lương có quan hệ với nhau rất gần gũi nhưng giữa chúng có sự khác nhau về bản chất. 2. Có 2 tiền đề cho ra đời, tồn tại và phát triển của Tài chính, đó là sản xuất hàng hoá - tiền tệ và nhà nước, trong đó nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ là tiền đề mang tính quyết định, còn nhà nước là tiền đề mang tính định hướng.
  12. 3. Tài chính có 2 chức năng: Chức năng phân phối và Chức năng giám đốc. Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó, các nguồn tài lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho những mục đích khác nhau và những lợi ích khác nhau của đời sống xã hội. Còn chức năng giám đốc của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo các mục đích đã định. Hai chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ gắn bó với nhau, làm tiền đề và bổ sung cho nhau. 4. Hệ thống tài chính là tổng thể các luồng vận động của các nguồn tài chính trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau về việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội hoạt động trong các lĩnh vực đó. Hệ thống tài chính bao gồm các khâu: Ngân sách Nhà nước, Tài chính Doanh nghiệp, Bảo hiểm, Tín dụng, Tài chính các tổ chức xã hội và Tài chính hộ gia đình. Trong đó, Ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo; Tài chính Doanh nghiệp là khâu cơ sở; Bảo hiểm và Tín dụng được xem như là khâu tài chính trung gian của hệ thống tài chính. Các khâu trong hệ thống tài chính có mối quan hệ mật thiết với nhau. 5. Chính sách tài chính quốc gia là một chính sách lớn của nhà nước. Nội dung của chính sách tài chính quốc gia bao gồm: Chính sách phát triển nguồn lực tài chính; Chính sách khai thác, động viên nguồn lực tài chính; Chính sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính. D. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Tài chính là gì? Trình bày các tiền đề quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của Tài chính. 2. Tài chính có những chức năng nào? Trình bày mối quan hệ giữa các chức năng đó. 3. Hệ thống tài chính có những khâu nào? Các khâu của hệ thống tài chính quan hệ với nhau như thế nào? Cho ví dụ minh họa 4. Anh (chị) hiểu như thế nào về chính sách tài chính quốc gia? Trình bày nội dung của chính sách tài chính quốc gia.
  13. Chương 2 TỔNG QUAN VỀ TIỀN TỆ A. MỤC ĐÍCH CỦA CHƯƠNG Học sinh nắm được các nội dung cơ bản sau: _ Sự ra đời và bản chất của tiền tệ _ 4 chức năng của tiền tệ: chức năng đo lường giá trị, chức năng trung gian trao đổi và chức năng dự trữ giá trị, chức năng thanh toán _ Các vai trò của tiền tệ _ Các hình thái tiền tệ: hóa tệ, tín tệ, bút tệ (tiền ghi sổ) và tiền điện tử _ Các khối tiền tệ ( M1, M2, M3,L) và các chế độ tiền tệ (chế độ đơn bản vị, chế độ song bản vị, chế độ bản vị ngoại tệ, chế độ lưu thông tiền giấy) _ Cầu tiền tệ và các nhân tố ảnh hưởng _ Cung tiền tệ và các kênh cung ứng tiền _ Lạm phát (khái niệm, các loại lạm phát, nguyên nhân dẫn đến lạm phát, hậu quả lạm phát mang lại cũng như các biện pháp tình thế và chiến lược nhằm khắc phục lạm phát) B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG (5 tiết) I. Bản chất, chức năng và vai trò của tiền tệ 1. Sự ra đời và bản chất của tiền tệ Khi loài người mới bắt đầu xuất hiện, họ phải tự tìm kiếm hoặc làm ra tất cả những vật mình cần mà không phải dựa vào người khác. Cộng đồng này sống độc lập với cộng đồng khác, họ tự lo chỗ ở, tự tìm kiếm thức ăn khi đói và tự tạo quần áo để tránh rét. Khi loài người phát triển hơn, họ không những có thể kiếm đủ cho nhu cầu hàng ngày mà còn có vật phẩm dư thừa, hoạt động trao đổi những vật phẩm dư thừa này bắt đầu xuất hiện giữa các cộng đồng người. Việc trao đổi này mang tính chất trực tiếp, một hàng hóa này lấy một hàng hóa khác mà không cần có vật môi giới trung gian. Cách thức trao đổi này đòi hỏi mỗi người phải tìmcho được một người khác muốn cái anh ta đang thừa và có cái anh ta muốn. Khi trao đổi phát triển hơn, việc tìm kiếm một người như vậy trở nên khó khăn, bên cạnh đó còn tốn kém nhiều thời gian. Những hạn chế của trao đổi trực tiếp đã làm xuất hiện những tập đoàn người với đủ thứ hàng hóa khác nhau, đi từ nơi này đến nơi khác để tiến hành trao đổi với nhiều cộng đồng người khác nhau. Cùng với sự phát triển của các hoạt động thương mại, sự ra đời của các quốc gia đã kéo theo nhiệm vụ quản lý của cải dư thừa bởi việc bóc lột nô lệ, nông nô, nông dân; bởi việc trao đổi giữa các vùng xa cách nhau hoặc từ việc cướp bóc của các dân tộc láng giềng. Nó đòi hỏi phải xác định giá trị các cống vật, thuế khóa và tiêu chuẩn hóa các phương thức và phương tiện thanh toán tại những nơi họp chợ và các thương cảng. Những vật làm trung gian trong trao đổi xuất hiện, được mọi người chấp nhận làm phương tiện để trao đổi với các hàng hóa khác. Ở thời kỳ này, đã có nhiều đồ vật được sử dụng với mục đích này, chẳng hạn như vải dệt, hạt cacao, ốc, vàng, sắt thỏi, đại mạch, lúa mì, đồng, kê, lụa, trong đó kim loại có vị trí đặc biệt khiến nó dần trở thành công cụ được ưa thích nhất trong các hoạt động buôn bán và đóng thuế Đầu tiên kim loại được sử dụng làm phương tiện trao đổi dưới dạng thỏi, sau đó nó được đúc dưới dạng tiền đúc. Ban đầu các kim loại sắt, thiếc, kẽm, đồng được sử dụng để đúc tiền, sau
  14. đó là những đồng tiền đúc bằng bạc và vàng. Đến đầu thế kỷ 19, vàng được sử dụng phổ biến để đúc tiền ở các nước. Với sự xuất hiện của hệ thống ngân hàng vào đầu thế kỷ 14, các chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn được sử dụng làm phương tiện thanh toán ở Châu âu, sau đó nó được thay thế bằng giấy bạc được đảm bảo bằng vàng của ngân hàng phát hành và lưu hành song song với tiền đúc của nhà nước. Đến đầu thế kỷ 20, giấy bạc ngân hàng thay thế hoàn toàn các loại tiền đúc bằng kim loại quý như vàng, bạc. Sau khi chế độ tiền tệ Bretton Woods sụp đổ, giấy bạc ngân hàng không còn mối liên hệ chính thức với vàng như trước nữa. Như vậy, sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã đòi hỏi phải có một vật nào đó làm môi giới trung gian trong trao đổi, đóng vai trò vật ngang giá chung khi trao đổi chuyển từ trực tiếp sang gián tiếp. Cũng chính sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa cùng với sự can thiệp của nhà nước đã dẫn tới sự thanh thế phương tiện trao đổi này bằng phương tiện trao đổi khác. Từ đó, có thể hiểu bản chất của tiền tệ: Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo lường giá trị của các hàng hóa khác hay Tiền tệ là bất kỳ một phương tiện nào được thừa nhận chung để thanh toán cho việc giao hàng và thanh toán công nợ. Nó là một phương tiện trao đổi. 2. Chức năng của tiền tệ Hầu hết các nhà nghiên cứu về tiền tệ đều thống nhất rằng tiền tệ có bốn chức năng. Các chức năng này giúp chúng ta có thể phân biệt hàng hóa thông thường với hàng hóa tiền tệ. 2.1. Chức năng đo lường giá trị Đo lường giá trị là yêu cầu trước tiên và không thể thiếu được của trao đổi hàng hóa. Trong mua bán hay trao đổi hàng hóa, người ta thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Muốn đảm bảo được nguyên tắc trao đổi ngang giá thì điều kiện tiên quyết là phải đo lường và xác định được giá trị hàng hóa. Với chức năng đo lường giá trị, tiền tệ có thể giải quyết được yêu cầu này. Ngoài việc trao đổi ra, trong một số hoạt động khác như kế toán, kế hoạch, tài chính, người ta cũng cần đo lường giá trị và sử dụng tiền tệ như những đơn vị tính toán. Qua việc thực hiện chức năng này, giá trị của các hàng hóa và dịch vụ được biểu hiện ra bằng tiền, như việc đo khối lượng bằng kilogram, đo độ dài bằng mét, nhờ đó mà việc trao đổi hàng hóa được diễn ra thuận tiện hơn. Nếu giá trị hàng hóa không có một đơn vị đo chung là tiền, mỗi hàng hóa sẽ được định giá bằng tất cả các hàng hóa còn lại, và như vậy số lượng giá các mặt hàng trong nền kinh tế sẽ nhiều đến mức người ta không còn thời gian cho việc tiêu dùng hàng hóa, do phần lớn thời gian đã được dành cho việc đọc giá hàng hóa. Khi giá của các hàng hóa và dịch vụ được thể hiện bằng tiền, không những thuận lợi cho người bán hàng hóa mà việc đọc bảng giá cũng đơn giản hơn rất nhiều với chi phí thời gian ít hơn sử dụng cho các giao dịch. Muốn đo lường giá trị, trước hết người ta phải gán cho tiền tệ một giá trị để nó thể hiện được giá trị. Kế đến người ta phải tiêu chuẩn hóa giá trị của nó thông qua việc định nghĩa đơn vị tiền tệ quốc gia. Đơn vị tiền tệ của một quốc gia được xác định thông qua hai yếu tố: _Tên gọi của đơn vị tiền tệ Ví dụ: dollar là tên gọi đơn vị tiền tệ của Mỹ, đồng là tên gọi đơn vị tiền tệ của Việt nam _ Hàm lượng kim loại quy định trong đơn vị tiền tệ đó
  15. Ví dụ: hàm lượng kim loại quy định trong 1 dollar Mỹ là 0,7366412 gram vàng nguyên chất Đơn vị tiền tệ của một quốc gia nào đó muốn làm tốt chức năng đo lường giá trị thì đòi hỏi:  Đơn vị tiền tệ đó phải có giá trị nội tại của nó  Giá trị tiền tệ đó (sức mua của đồng tiền) phải ổn định hoặc có thay đổi thì vẫn không thay đổi nhiều qua thời gian. 2.2. Chức năng trung gian trao đổi Một khi người ta chấp nhận tiền tệ như là một thước đo giá trị thì người ta có khuynh hướng quy đổi tất cả giá trị của những hàng hóa khác ra tiền. Từ đó, việc trao đổi hai hàng hóa có công dụng hay giá trị sử dụng khác nhau, nhưng có giá trị như nhau được thực hiện thông qua trung gian tiền tệ. Công thức chung cho quá trình trao đổi hàng hóa với tiền tệ làm trung gian như sau: H – T – H’ thay vì H – H’ như trong trao đổi hàng hóa trực tiếp. Sự xuất hiện tiền tệ như là trung gian xuất phát từ nhu cầu tiện lợi trong trao đổi, và sở dĩ tiền tệ có thể làm được điều này là vì nó là biểu hiện của giá trị và dễ dàng được người ta ưa chuộng và chấp nhận trong trao đổi. Sự xuất hiện của tiền tệ với tư cách là trung gian trao đổi khiến cho hai quá trình mua và bán có thể tách rời nhau về mặt không gian và thời gian. Người ta có thể bán một hàng hóa ở nơi này, lúc này để rồi mua lại hàng hóa khác ở nơi khác, lúc khác. Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, tiền phải có những tiêu chuẩn nhất định: _ Được chấp nhận rộng rãi Nó phải được con người chấp nhận rộng rãi trong lưu thông, bởi vì chỉ khi mọi người cùng chấp nhận nó thì người có hàng hóa mới đồng ý đổi hàng của mình lấy tiền _ Dễ nhận biết Con người phải nhận biết nó dễ dàng _ Có thể chia nhỏ được Để tạo thuận lợi cho việc đổi chác giữa những hàng hóa có các giá trị rất khác nhau _ Dễ vận chuyển Tiền tệ phải đủ gọn nhẹ để dễ dàng trong việc trao đổi hàng hóa ở những khỏang cách xa _ Không bị hư hỏng một cách nhanh chóng _ Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng Để số lượng của nó đủ dùng trong trao đổi _Có tính đồng nhất Các đồng tiền có cùng mệnh giá phải có sức mua ngang nhau 2.3. Chức năng dự trữ giá trị Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian. Khi người ta nhận được thu nhập mà chưa muốn tiêu nó hoặc chưa có điều kiện để chi tiêu ngay, tiền là một phương tiện để giúp cho việc cất giữ sức mua trong những trường hợp này hoặc có thể người ta giữ tiền chỉ đơn thuần là việc để lại của cải. Việc cất trữ như vậy có thể thực hiện bằng nhiều phương tiện như cổ phiếu, trái phiếu, đất đai, nhà cửa, , một số loại tài sản như vậy đem lại một mức lãi cao hơn cho người giữ. Tuy nhiên người ta vẫn giữ tiền với mục đích dự trữ giá trị bởi vì tiền có thể chuyển đổi một cách nhanh chóng ra các tài sản khác, còn các tài sản khác nhiều khi đòi hỏi một chi phí giao dịch cao
  16. khi người ta muốn chuyển đổi nó sang tiền. Những điều đó cho thấy, tiền là một phương tiện dự trữ giá trị bên cạnh các loại tài sản khác. 2.4. Chức năng thanh toán Nhờ có tiền tệ thực hiện chức năng thanh toán, quan hệ tín dụng có thể thực hiện dưới hình thái tiền tệ, do đó dễ dàng thỏa thuận giao dịch dưới hình thái hiện vật 3. Vai trò của tiền tệ Khi bàn về vai trò của tiền tệ, câu hỏi thường được đặt ra là tiền tệ đóng vai trò như thế nào đối với nền kinh tế. Để dẽ hình dung, ta tự tưởng tượng xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu tiền tệ bỗng dưng biến mất khỏi nền kinh tế. Lúc ấy, chắc chắn các hoạt động kinh tế sẽ bị xáo trộn và rối loạn: việc chi trả lương sẽ như thế nào, hàng hóa được trao đổi như thế nào, Không có tiền tệ làm thước đo, người bán và người mua sẽ không tìm được tiếng nói chung và do đó không thực hiện mua bán với nhau được. Hàng hóa sản xuất ra không bán được làm cho sản xuất bị thu hẹp và ngưng trệ, dẫn đến suy thoái và khủng hoảng kinh tế. Vai trò quan trọng của tiền tệ đối với nền kinh tế sẽ dễ nhận biết hơn khi phân tích vai trò của nó trong từng hoạt động kinh tế - xã hội. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, tiền tệ là vốn khởi sự và duy trì hoạt động của doanh nghiệp. Đối với hoạt động ngân hàng và tín dụng, tiền tệ lại càng quan trọng hơn vì các hoạt động này liên quan trực tiếp đến tiền tệ và chỉ có sử dụng tiền tệ hoạt động này mới phát triển được. Trong nền kinh tế thị trường tiền tệ có các vai trò sau: _ Tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển kinh tế hàng hóa. Thực tế không thể tiến hành sản xuất hàng hóa nếu như không có tiền và sự hoạt động của nó. Nhờ có tiền, giá trị của hàng hóa được biểu hiện vừa đơn giản thuận lợi, vừa thống nhất; sự vận động của hàng hóa trong lưu thông được trôi chảy. nhờ có tiền, người sản xuất kinh doanh mới hạch toán được chi phí, kết quả kinh doanh, thực hiện tích lũy tiền tệ để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. _ Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế Cùng với ngoại thương, các quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế, tiền tệ đã phát huy vai trò của mình để trở thành phương tiện cho việc thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế, nhờ đó mà các mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới được hình thành và phát triển. _ Tiền tệ là công cụ phục vụ cho mục đích của người sở hữu chúng Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa phát triển cao độ thì hầu như mọi quan hệ kinh tế - xã hội đều bị tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, đều không thể thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện đó, tiền tệ trở thành công cụ xử lý và giải tỏa mọi ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế - xã hội. Chính vì vậy mà tiền tệ có thể thỏa mãn mọi mục đích và quyền lợi đối với những ai đang nắm giữ tiền tệ. II. Các hình thái tiền tệ Qua quá trình phát triển, tiền tệ đã tiến hóa qua rất nhiều hình thái: từ những hình thái thô sơ ban đầu cho đến những hình thái hiện đại như ngày nay. Đó là các hình thái: hóa tệ, tín tệ, bút tệ (tiền ghi sổ) và tiền điện tử 1. Hóa tệ Hóa tệ là hình thái cổ xưa và sơ khai nhất của tiền tệ theo đó một loại hàng hóa nào đó do được nhiều người ưa chuộng nên có thể tách ra khỏi thế giới hàng hóa nói chung để thực hiện các chức năng của tiền tệ, tức là thực hiện các chức năng mà các hàng hóa thông thường khác không
  17. có được. Hàng hóa này dần dần trở thành loại hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung và được sử dụng thường xuyên để trao đổi với những hàng hóa khác Hóa tệ có thể chia thành 2 loại: hóa tệ không phải kim loại và hóa tệ kim loại _ Hóa tệ không phải kim loại Là loại hàng hóa xuất phát từ hàng hóa không phải là kim loại. Loại hóa tệ này khác nhau tùy theo tập quán từng địa phương, chẳng hạn như súc vật, vòng đá, lông da thú, ngọc trai, muối, mè khô, Hóa tệ rất bất tiện khi lưu thông với tư cách là tiền tệ vì những thuộc tính kém thuận lợi như dễ hư hỏng, không bền theo thời gian, khó bảo quản và vận chuyển, khó chia nhỏ thành đơn vị, và không có tính đồng nhất. Những thuộc tính kém thuận lợi này khiến cho hóa tệ không thể tồn tại lâu dài và dần dần bị đào thải khỏi lưu thông khi con người phát hiện ra kim loại. _ Hóa tệ kim loại Là tiền xuất phát từ hàng hóa nhưng ở đây hàng hóa là kim loại. Khi phát hiện ra kim loại, người ta nhận thấy kim loại có thể khắc phục được những nhược điểm của hóa tệ không kim loại, chẳng hạn như bền hơn, dễ bảo quản hơn, dễ vận chuyển hơn, có thể chia nhỏ thành đơn vị. Với những thuộc tính ưu việt này, người ta có khuynh hướng nhanh chóng chuyển sang sử dụng kim loại làm tiền tệ. Lúc đầu là những kim loại rẻ như đồng, kẽm, chì được sử dụng làm tiền tệ, về sau người ta nhận thấy trong số những loại kim loại tìm thấy có bạc và vàng là hai thứ kim loại ưu việt hơn hết nếu sử dụng làm tiền tệ. Ngoài tính chất bền, dễ bảo quản, dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ, vàng và bạc là những kim loại quý nên chỉ cần một lượng nhỏ cũng đủ đại diện cho một hàng hóa có giá trị tương đối lớn. Do vậy nếu dùng chúng làm tiền tệ thì rất tiện lợi cho lưu thông, không cần khối lượng lớn nhưng có thể trao đổi được với những hàng hóa có giá trị cao. Ngoài ra việc chia nhỏ thành đơn vị và nhập những đơn vị nhỏ thành đơn vị lớn hơn rất dễ dàng và hầu như vẫn bảo tồn được giá trị của chúng. Từ đó, bạc và sau này là vàng độc chiếm ngôi vị tiền tệ lâu dài cho đến khi nhân loại phát minh ra tiền giấy. Hóa tệ kim loại trong quá trình sử dụng bộc lộ một số nhược điểm khiến nó không còn được tiếp tục sử dụng lâu dài hơn nữa trong vai trò tiền tệ, đặc biệt là khi nền kinh tế phát triển khiến hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều, thương mại phát triển khiến giao lưu hàng hóa ngày càng rộng thì những nhược điểm của lưu thông tiền vàng, tiền bạc càng bộc lộ rõ nét: Những thương nhân mua bán khối lượng hàng hóa lớn nếu thanh toán bằng tiền vàng thì việc vận chuyển vàng trở nên rất nặng nề chứ không còn nhẹ nhàng và dễ dàng như trước đây. Những thương nhân mua bán ở phạm vi rộng, thậm chí xuyên quốc gia, nếu sử dụng tiền vàng trong thanh toán thì việc bảo quản và vận chuyển tiền, tránh nạn cướp bóc trên đường đi, trở thành một nỗi lo nặng nề. Những nhược điểm này đòi hỏi phải có hình thái tiền tệ nào khác ưu việt hơn để thay thế cho tiền vàng và bạc. 2. Tín tệ Tín tệ là loại tiền tệ được đưa vào lưu thông nhờ vào sự tín nhiệm của công chúng, chứ bản thân nó không có hoặc có giá trị không đáng kể. Nó được sử dụng thay thế cho tiền vàng và tiền bạc (là những loại tiền thực). Tín tệ có hai loại: tín tệ kim loại và tiền giấy 2.1. Tín tệ kim loại
  18. Là loại tín tệ được đúc bằng kim loại rẻ tiền thay vì đúc bằng kim loại quý như bạc hay vàng. Khi phát hiện được vàng và bạc có những thuộc tính đặc biệt phù hợp với vai trò của tiền tệ, người ta đã sử dụng bạc và vàng để làm tiền suốt một thời gian khá dài. Trong quá trình sử dụng, hàm lượng vàng trong mỗi đơn vị tiền tệ hao hụt dần đi khiến cho giá trị thực tế của đồng tiền không còn đúng như giá trị danh nghĩa của nó; tuy nhiên khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán tiền tệ bao giờ cũng thực hiện theo giá trị danh nghĩa. Lợi dụng điều này, sở đúc tiền chủ động giảm bớt hàm lượng vàng trong mỗi đơn vị tiền tệ để tiết kiệm vàng. Tiến xa hơn một bước nữa, thay vì sử dụng kim loại quý như vàng và bạc để đúc tiền, người ta sử dụng kim loại rẻ tiền để đúc tiền nhằm hai mục tiêu: (1) tiết kiệm vàng bạc của quốc gia (2) giảm bớt sự căng thẳng do thiếu vàng bạc làm phương tiện lưu thông khi nền kinh tế ngày càng phát triển. 2.2. Tiền giấy Từ đầu thế kỷ 17, ở Hà Lan, ngân hàng Amsterdam đã cấp cho những thân chủ gửi vàng bạc vào ngân hàng những giấy chứng nhận bao gồm nhiều từ nhỏ. Khi cần, có thể đem những giấy từ nhỏ này đổi lấy vàng hoặc bạc tại ngân hàng. Trong thanh toán cho người khác, các giấy tờ nhỏ này cũng được chấp nhận. Sau đó một chủ ngân hàng người Thụy Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để cho vay. Từ đó ngân hàng Palmstruch có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự có. Từ khi ra đời cho đến nay, tiền giấy nói chung có hai loại: tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán. _ Tiền giấy khả hoán Là thứ tiền giấy được lưu hành thay cho tiền vàng hay tiền bạc ký thác ở ngân hàng. Bất cứ lúc nào mọi người cũng có thể đem tiền giấy khả hoán đó đổi lấy vàng hoặc bạc có giá trị tương đương với giá trị được ghi trên tiền giấy khả hoán đó. _ Tiền giấy bất khả hoán Là thứ tiền giấy được lưu hành nhưng khi cần vàng hoặc bạc người ta không thể chuyển đổi nó ra vàng hay bạc theo hàm lượng đã quy định mà phải mua vàng hay bạc theo giá thị trường. Xét về mặt lịch sử, lúc đầu tiền giấy ra đời dưới hình thức khả hoán nhưng dần dần về sau do lạm phát, chiến tranh khiến cho dự trữ vàng của quốc gia dùng để hoán đổi tiền ra vàng bị hao hụt không còn đủ vàng để cho dân chúng có thể hoán đổi. Khi ấy nhà nước phải phá giá đồng tiền. Nếu sau khi phá giá, nhu cầu chuyển đổi ra vàng của dân chúng vẫn ở mức cao và nếu tiếp tục chính sách hoán đổi thì có nguy cơ dự trữ vàng sẽ cạn kiệt, khi ấy nhà nước tuyên bố ngừng hoán đổi tiền ra vàng, đồng tiền trở thành bất khả hoán. Thời đại ngày nay, việc sử dụng tiền giấy được trở thành phổ biến, do tính thuận lợi của nó trong việc làm phương tiện trao đổi hàng hóa. Đó là: Dễ mang theo để làm phương tiện trao đổi hàng hóa, thanh toán nợ Thuận lợi khi thực hiện chức năng dự trữ giá trị Bằng cách thay đổi các con số trên mặt đồng tiền, một lượng giá trị lớn hay nhỏ được biểu hiện 3. Bút tệ (Tiền ghi sổ) Bút tệ ra đời vào giữa thế kỷ 19 khi ngân hàng Anh quốc tìm cách né tránh các thể lệ phát hành tiền giấy quá cứng nhắc nên đã sáng chế ra hệ thống thanh toán bằng cách ghi trên sổ sách
  19. ngân hàng. Ngày nay bút tệ được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các nước, nhưng ở các nước phát triển dân chúng có thói quen sử dụng bút tệ hơn ở các nước kém phát triển. Bút tệ là những khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng. Đó là tiền do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Việc sử dụng bút tệ được thực hiện bằng các bút toán ghi Nợ và Có trên các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng. Cùng với trình độ ngân hàng ngày càng hiện đại, bút tệ đã giữ vị trí chủ yếu trong tổng mức cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Hiện nay là thời đại của bút tệ (tiền ghi sổ) bởi lẽ nó có những ưu việt vốn có: Giảm bớt một cách đáng kể các chi phí về lưu thông tiền mặt: in tiền, bảo quản, vận chuyển, đếm, đóng gói, Nhanh chóng và thuận tiện cho các chủ nhân tham gia thanh toán qua ngân hàng Bảo đảm an toàn trong việc sử dụng đồng tiền, hạn chế được những hiện tượng tiêu cực Bút tệ tạo ra điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trung ương trong việc quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng 4. Tiền điện tử Trong những năm gần đây nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin và công nghệ ngân hàng nên các loại thẻ tín dụng và thẻ thanh toán ngày càng được sử dụng rộng rãi, kể cả trong và ngoài nước. Những loại thẻ này có thể thực hiện được các chức năng của tiền tệ và ngày càng thay thế tiền giấy trong đời sống kinh tế. Do vậy chúng cũng được xem như là một hình thái tiền tệ mới - tiền điện tử. III. Khối tiền tệ và chế độ tiền tệ 1. Khối tiền tệ Các khối tiền trong lưu thông tập hợp các phương tiện được sử dụng chung làm phương tiện trao đổi, được phân chia tùy theo “độ lỏng” của các phương tiện đó trong những khoảng thời gian nhất định của một quốc gia. Độ lỏng của một phương tiện trao đổi được hiểu là khả năng chuyển đổi từ phương tiện đó ra hàng hóa, dịch vụ; tức là phạm vi và mức độ có thể sử dụng những phương tiện đó trong việc thanh toán chi trả. 1.1. Khối tiền tệ M1 Bao gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hóa mà không phải qua một bước chuyển đổi nào. Khối tiền tệ này bao gồm: Tiền đang lưu hành (gồm toàn bộ tiền mặt do Ngân hàng trung ương phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng) Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại (tiền gửi mà chủ sở hữu của nó có thể phát hành séc để thanh tóan tiền mua hàng hóa, dịch vụ) 1.2. Khối tiền tệ M2 Khối tiền tệ này bao gồm: Khối tiền tệ M1 Tiền gửi tiết kiệm ở các ngân hàng thương mại 1.3. Khối tiền tệ M3 Khối tiền tệ này bao gồm: Khối tiền tệ M2
  20. Tiền gửi có kỳ hạn ở ngân hàng thương mại 1.4. Khối tiền tệ L Khối tiền tệ này bao gồm: Khối tiền tệ M3 Chứng từ có giá có “tính lỏng” cao, chẳng hạn như chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu, 2. Chế độ tiền tệ Chế độ tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một nước, được xác định bằng luật pháp, dựa trên một cơ sở nhất định gọi là bản vị tiền tệ Bản vị tiền tệ là tiêu chuẩn chung mà mỗi nước chọn dùng làm cơ sở cho đơn vị tiền tệ của mình. 2.1. Chế độ đơn bản vị bạc và chế độ đơn bản vị vàng Từ khi phát hiện ra bạc và vàng, bạc và vàng đã được đúc thành tiền theo một hình dáng và trọng lượng nhất định và cho lưu hành trong nước như là đồng tiền chính thức, hợp pháp và có hiệu lực thanh toán vô hạn trên phạm vi lãnh thổ quốc gia. Nước nào dùng bạc làm bản vị thì gọi là chế độ đơn bản vị bạc Nước nào dùng vàng làm bản vị thì gọi là chế độ đơn bản vị vàng 2.2. Chế độ song bản vị Chế độ song bản vị là chế độ tiền tệ trong đó cả bạc và vàng đều được sử dụng làm tiền tệ lưu hành song song nhau và cả hai đều có giá trị thanh toán theo một tương quan do nhà nước ấn định. Chế độ song bản vị dẫn đến những xáo trộn trong đời sống kinh tế và lưu thông tiền tệ do nạn đầu cơ tiền vàng hay tiền bạc tùy theo sự thăng trầm của giá bạc và giá vàng trên thị trường. Ví dụ nếu giá vàng trên thị trường cao hơn so với chính thức thì người ta có xu hướng tích lũy tiền vàng và đưa tiền bạc vào lưu thông thay thế cho tiền vàng. Điều đó đưa đến kết quả chỉ có tiền bạc xuất hiện trong lưu thông trong khi tiền vàng dần dần biến mất khỏi lưu thông. 2.3. Chế độ bản vị ngoại tệ Dưới chế độ bản vị ngoại tệ, đơn vị tiền tệ quốc gia được xác định bằng đơn vị tiền tệ của nước ngoài. Đó phải là các ngoại tệ mạnh và được tự do chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Chế độ bản vị này được sử dụng phổ biến đối với các nước thiếu vàng hoặc về mặt chính trị bị lệ thuộc vào nước khác (các nước trong khối cộng đồng Anh sau thế chiến thứ nhất) 2.4. Chế độ lưu thông tiền giấy (tiền dấu hiệu) Chế độ lưu thông tiền giấy (tiền dấu hiệu) là đặc trưng cơ bản của lưu thông tiền tệ trong giai đoạn phát triển sau này của Chủ nghĩa tư bản. Việc lưu thông tiền giấy bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau Trong chế độ phong kiến, việc lưu thông tiền giấy tạo ra thu nhập cho việc in tiền và phát hành tiền và tập trung kim loại để phục vụ cho quyền lợi của bộ máy tập quyền Trong giai đoạn phát triển Chủ nghĩa tư bản, do nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh phát sinh tình trạng khan hiếm tiền kim loại, mặt khác sử dụng kim loại trong lưu thông còn bị hao mòn, biến chất
  21. Khi hệ thống ngân hàng thương mại đã phát triển tạo điều kiện cho sự ra đời các công cụ lưu thông tín dụng IV. Cung - cầu tiền tệ 1. Cầu tiền tệ Tiền tệ là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hóa, còn sản xuất hàng hóa thì nhu cầu về tiền tệ là sự cần thiết mang tính chất khách quan. Trong thời đại ngày nay với nền kinh tế tiền tệ đang phát triển mạnh mẽ thì một thực tế khách quan là hầu hết giao dịch giữa các cá nhân hoặc các tổ chức đều được giải quyết bằng tiền. Do vậy nhu cầu về tiền tệ và việc sử dụng tiền có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội. Cầu tiền tệ là số lượng tiền tệ mà dân chúng, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước, cần để thỏa mãn các nhu cầu chi dùng của mình _ Cầu tiền cho đầu tư Cầu tiền cho đầu tư phụ thuộc vào các nhân tố sau: + Lãi suất tín dụng ngân hàng Lãi suất tín dụng ngân hàng là mức thu nhập mang tính bình quân của các phương án đầu tư trong nền kinh tế, là cột mốc để so sánh với các mức tỷ suất lợi nhuận của các ngành khác và nó cũng là nhân tố kích thích các nguồn tiết kiệm trong dân cư đi tìm những hoạt động đầu tư. + Mức lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư như sản xuất kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động khác cũng là nhân tố tác động đến nhu cầu đầu tư. + Thu nhập Để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư, vấn đề đặt ra là phải có tích lũy mà mức tích lũy lại phụ thuộc vào nhân tố hàng đầu là thu nhập. Nếu thu nhập càng cao, tích lũy càng lớn. Trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển, với các khoản tiền tích lũy được, các tổ chức, cá nhân thường tìm mọi biện pháp để sinh lợi và thực hiện đầu tư vào nhiều lĩnh vực, vừa phân tán rủi ro, vừa đa dạng hình thức sử dụng vốn _ Cầu tiền cho tiêu dùng Cầu tiền cho tiêu dùng phụ thuộc vào các nhân tố sau: + Thu nhập Nếu kinh tế tăng trưởng, thu nhập quốc dân tăng lên, từ đó tác động đến thu nhập của từng thành viên trong xã hội theo chiều hướng thu nhập bình quân đầu người tăng thì cầu về tiêu dùng có xu hướng tăng. Nếu mức thu nhập quốc dân giảm, thu nhập bình quân đầu người giảm thì việc hạn chế nhu cầu tiêu dùng, thực hiện tiết kiệm và kiểm soát chi tiêu là điều tất yếu. Đặc biệt đối với chính phủ, nhu cầu chi thường được giải quyết bằng những khoản thu chủ yếu từ thuế, trong điều kiện nền kinh tế khó khăn thì nguồn thu hàng năm thường không bảo đảm những khoản chi, nếu nhà nước sử dụng biện pháp lạm phát để giải quyết thì phần lạm phát này có thể xem là số cầu tiền tệ “thuần” của nhà nước. + Giá trị của những hoạt động giao dịch Trong trường hợp các nhân tố khác không đổi, sự biến động của hệ thống giá cả hàng hóa, dịch vụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cầu tiêu dùng + Lãi suất Lãi suất tăng sẽ làm giảm mức cầu tiền tệ trong quỹ các doanh nghiệp hoặc trong tay các tầng lớp dân cư, giảm bớt nhu cầu tiêu dùng, mua sắm để tăng nguồn tích lũy nhằm sinh lợi cho đồng tiền
  22. _ Cầu tiền cho dự phòng Các cá nhân cần dự trữ tiền tệ để đề phòng khi bất trắc như đau ốm, thỏa mãn các nhu cầu đột xuất trong quan hệ xã hội bình thường. Các doanh nghiệp dự trữ tiền tệ để đáp ứng các nhu cầu đột xuất khi có thời cơ dự trữ các loại nguyên liệu khan hiếm, thuê mướn thêm nhân công để mở rộng sản xuất trong các cơ hội kinh doanh không lường trước được, hoặc dự trữ hàng hóa. 2. Cung tiền tệ Cung tiền tệ là khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo cho các nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hóa cũng như các nhu cầu chi tiêu khác của nền kinh tế - xã hội Hàng năm trên cơ sở tính toán nhu cầu tiền trong lưu thông biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số trượt giá của nền kinh tế, mức thâm hụt ngân sách nhà nước, thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, ngân hàng trung ương sẽ lên kế hoạch cung ứng tiền vào lưu thông qua các kênh chủ yếu là: _ Kênh tín dụng Thực hiện thông qua việc ngân hàng trung ương cung ứng tín dụng cho các ngân hàng thương mại qua nghiệp vụ tái chiết khấu _ Kênh thị trường mở Đây là kênh điều tiết tiền tệ được sử dụng thường xuyên và hiệu quả nhất tại các nước công nghiệp phát triển. Trên thị trường mở, ngân hàng trung ương sẽ mua vào hoặc bán ra các chứng khoán ngắn hạn, chủ yếu là tín phiếu kho bạc để thay đổi cung ứng tiền trong lưu thông _ Kênh ngân sách Được thực hiện thông qua việc ngân hàng trung ương cho vay ngắn hạn mang tính tạm ứng cho ngân sách nhà nước nhằm bù đắp những khoản chi đã nằm trong kế hoạch thu hàng năm của ngân sách. _ Kênh thị trường hối đoái Được thực hiện qua sự can thiệp của ngân hàng trung ương tham gia điều tiết giá vàng, ngoại tệ. Vấn đề điều tiết cung ứng tiền của ngân hàng trung ương luôn có quan hệ hữu cơ với điều tiết kinh tế nhằm đạt mục tiêu kinh tế của chính sách tiền tệ phù hợp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. V. Lạm phát 1. Khái niệm Lạm phát là một hiện tượng đi liền với nền kinh tế thị trường. Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ này nhưng nói chung chưa có sự thống nhất hoàn toàn. Trong khi đó lạm phát luôn diễn ra và tác động đến nhiều mặt đối với nền kinh tế các nước bao gồm các nước phát triển và đang phát triển. Không chỉ dừng lại ở việc không thống nhất được với nhau một định nghĩa đúng về lạm phát mà còn không thống nhất được với nhau những tác động do lạm phát mang lại Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng lên liên tục của giá cả - nói cách khác đó là tình trạng mức giá cả tăng và tăng liên tục. Có quan điểm cho rằng lạm phát là việc phát hành tiền giấy vượt quá mức đảm bảo bằng vàng, bạc, ngoại tệ của quốc gia vì vậy gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao.
  23. Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và hàng trong nền kinh tế, sự mất cân đối tiền lớn hơn vàng khiến cho giá cả tăng lên ở mọi lúc mọi nơi. Việc nhìn nhận lạm phát bằng định nghĩa này hay định nghĩa khác khó đi đến thống nhất. Tuy nhiên dù sao lạm phát thể hiện qua những đặc trưng cơ bản như sau: _ Sự thừa tiền do cung cấp tiền tệ tăng quá mức _ Sự tăng giá cả đồng bộ và liên tục theo sự mất giá của tiền giấy _ Sự phân phối lại qua giá cả _ Sự bất ổn về kinh tế - xã hội 2. Các loại lạm phát Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế chia lạm phát thành 3 loại khác nhau: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát. 2.1. Lạm phát vừa phải Lạm phát vừa phải là loại lạm phát một con số, biểu hiện mức tăng giá ở tỷ lệ thấp, dưới 10% trong một năm. Với loại lạm phát này, mức giá cả tăng chậm, được giới hạn ở mức một con số hàng năm. Với lạm phát vừa phải, giá cả tăng chậm đến nỗi người ta không cảm nhận là đang có lạm phát và do đó được coi như là giá cả tương đối ổn định. Trong trường hợp này, dân chúng vẫn còn tin vào giá trị đồng tiền. 2.2. Lạm phát phi mã Lạm phát phi mã là loại lạm phát hai hay ba con số trong vòng một năm. Với mức lạm phát này, mức độ tăng giá gây tác hại nghiêm trọng đối với nền kinh tế, thể hiện bằng đồng tiền mất giá một cách nhanh chóng. Trong trường hợp này người dân tránh giữ tiền mặt mà muốn bảo tồn của cải dưới dạng phi tiền tệ. 2.3. Siêu lạm phát Siêu lạm phát là loại lạm phát với tốc độ tăng giá trên ba con số trong vòng một năm. Đồng tiền bị mất giá đến mức chóng mặt. Dân chúng chìm ngập trong khối tiền để tìm kiếm một chút ít hàng hóa vì hàng hóa đều hết sức khan hiếm. Trong trường hợp này, chức năng quan trọng đầu tiên của tiền là làm phương tiện trao đổi bị triệt tiêu. Tiền có sẳn nhưng không mua được hàng hóa vì không ai muốn bán hàng hóa để đổi lấy những đồng tiền bị mất giá quá mức. 3. Nguyên nhân Lạm phát xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau: _ Nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, sản xuất sút kém, ngân sách quốc gia bị thâm hụt. Đây được coi là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, nói cách khác sự khủng hoảng về kinh tế và tài chính của một quốc gia là nguyên nhân cơ bản và sâu xa đưa đến lạm phát. _ Gắn liền với bội chi ngân sách là bộc phát tiền mặt, cung tiền tệ tăng trưởng quá mức cũng là nguyên nhân trực tiếp của lạm phát. _ Hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác động bên trong và bên ngoài làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ của Nhà nước giảm dần, từ đó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút. _ Lạm phát còn xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, đó là việc nhà nước chủ động sử dụng lạm phát như là một công cụ để thực thi chính sách kinh tế của Nhà nước. 4. Hậu quả
  24. Ngoại trừ trường hợp lạm phát vừa phải có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế, còn lại nói chung lạm phát đều ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế - xã hội. _ Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh Khi có lạm phát, giá cả vật tư hàng hóa, nguyên liệu tăng làm cho việc sản xuất kinh doanh giảm sút, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, làm tăng tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành. _ Trong lĩnh vực lưu thông buôn bán Giá cả hàng hóa tăng dẫn đến tình trạng đầu cơ tích trữ hàng hóa, làm cho quan hệ cung - cầu hàng hóa bị mất cân đối giả tạo, lĩnh vực lưu thông bị rối loạn. _ Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng Lạm phát làm cho sức mua đồng tiền giảm, lưu thông tiền tệ diễn biến khác thường. Hoạt động của ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi trong xã hội bị giảm sút nghiêm trọng làm nhiều ngân hàng bị mất khả năng thanh toán và thua lỗ trong kinh doanh. Điều này làm cho hệ thống tiền tệ bị rối loạn và không kiểm soát được. _ Trong lĩnh vực tài chính nhà nước Mặc dù lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho Ngân sách nhà nước qua cơ chế phân phối lại và cơ chế phát hành, nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát, những nguồn thu của ngân sách nhà nước mà chủ yếu là thuế ngày càng giảm (do hiệu quả kinh doanh bị giảm sút). Có thể nói, hậu quả của lạm phát là rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Lạm phát dẫn đến việc phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc dân, khiến quá trình phân hóa giàu nghèo càng nghiêm trọng hơn. Bên cạnh đó, lạm phát làm cho một nhóm người này thu được lộc lớn còn nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai người lao động. 5. Biện pháp khắc phục lạm phát Lạm phát tăng cao và kéo dài gây ra những hậu quả lớn trong đời sống dân cư và tăng trưởng kinh tế. Trong từng trường hợp cụ thể, Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp tình thế và biện pháp mang tính chiến lược sau: 5.1. Biện pháp tình thế _ Biện pháp giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông. Biện pháp này còn được gọi là biện pháp đóng băng tiền tệ. + Ngừng thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác + Ngừng việc mua các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ + Không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách nhà nước + Ngân hàng trung ương bán các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, bán ngoại tệ, và phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế nhằm bù đắp bội chi ngân sách nhà nước + Tăng lãi suất tiền gửi, đặc biệt là lãi suất tiết kiệm _ Thực hiện chính sách tài chính thắt chặt như + Cắt giảm chi tiêu đến mức có thể + Tạm hoãn các khoản chi chưa cần thiết + Áp dụng các biện pháp cân đối lại thu chi ngân sách nhà nước _ Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách
  25. + Giảm thuế quan kích thích sản xuất + Khuyến khích tự do mậu dịch + Biện pháp thu hút hàng hóa từ nước ngoài vào _ Vay, xin viện trợ từ nước ngoài _ Cải cách tiền tệ 5.2. Biện pháp chiến lược _ Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa _ Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính nhằm giảm chi thường xuyên của ngân sách nhà nước, góp phần hạn chế tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. _ Tăng cường quản lý công tác điều hành ngân sách nhà nước nhằm tăng thu ngân sách nhà nước, hạn chế thất thu ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả các khoản chi ngân sách nhà nước. C. TÓM TẮT CHƯƠNG 1. Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo lường giá trị của các hàng hóa khác. Tiền tệ ra đời cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. 2. Tiền tệ có bốn chức năng: chức năng đo lường giá trị, chức năng trung gian trao đổi, chức năng dự trữ giá trị, chức năng thanh toán. Các chức năng này giúp chúng ta có thể phân biệt hàng hóa thông thường với hàng hóa tiền tệ. 3. Tiền tệ tiến hóa qua rất nhiều hình thái: từ những hình thái thô sơ ban đầu cho đến những hình thái hiện đại như ngày nay. Đó là các hình thái: hóa tệ, tín tệ, bút tệ (tiền ghi sổ) và tiền điện tử. 4. Các khối tiền trong lưu thông tập hợp các phương tiện được sử dụng chung làm phương tiện trao đổi, được phân chia tùy theo “độ lỏng” của các phương tiện đó trong những khoảng thời gian nhất định của một quốc gia. Có 4 khối tiền tề đó là khối tiền tệ M1, M2, M3, L trong đó M1 nhỏ nhất, L lớn nhất. 5. Chế độ tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một nước, được xác định bằng luật pháp, dựa trên một cơ sở nhất định gọi là bản vị tiền tệ. Có các chế độ tiền tệ sau: Chế độ đơn bản vị bạc và chế độ đơn bản vị vàng, chế độ song bản vị, chế độ bản vị ngoại tệ và chế độ lưu thông tiền giấy (tiền dấu hiệu). 6. Cầu tiền tệ là số lượng tiền tệ mà dân chúng, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước, cần để thỏa mãn các nhu cầu chi dùng của mình. Các loại cầu tiền bao gồm: cầu tiền cho đầu tư, cầu tiền cho tiêu dùng, cầu tiền cho dự phòng. Cầu tiền chịu ảnh hưởng bới các nhân tố khác nhau. 7. Cung tiền tệ là khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo cho các nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hóa cũng như các nhu cầu chi tiêu khác của nền kinh tế - xã hội. Ngân hàng trung ương cung ứng tiền vào lưu thông qua các kênh: kênh tín dụng, kênh thị trường mở, kênh ngân sách, kênh thị trường hối đoái. 8. Đến nay có nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa đúng cho lạm phát cũng như những tác động do lạm phát mang lại. Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng lên liên tục của giá cả. Có quan điểm cho rằng lạm phát là việc phát hành tiền giấy vượt quá mức đảm bảo bằng vàng, bạc, ngoại tệ của quốc gia vì vậy gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao. Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và hàng trong nền kinh tế, sự mất cân đối tiền lớn hơn vàng khiến cho giá cả tăng lên ở mọi lúc mọi nơi. Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế chia lạm phát thành 3 loại khác nhau: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
  26. 9. Lạm phát xuất phát từ nhiều nguyên nhân và gâu ra nhiều hậu quả không mong muốn. Ngoại trừ trường hợp lạm phát vừa phải có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế, còn lại nói chung lạm phát đều ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế - xã hội trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, buôn bán,tiền tệ - tín dụng, và trong lĩnh vực tài chính nhà nước. Trong từng trường hợp cụ thể, Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp tình thế và biện pháp mang tính chiến lược nhằm khắc phục lạm phát. D. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày sự ra đời và bản chất của tiền tệ. 2. Hãy chứng minh rằng tiền tệ ra đời gắn liền với sự phát triển và lưu thông hàng hóa. 3. Trình bày các chức năng của tiền tệ. 4. Tiền tệ có vai trò như thế nào trong nền kinh tế thị trường? 5. Trình bày quá trình phát triển các hình thái tiền tệ. 6. Trình bày các khối tiền tệ và chế độ tiền tệ. 7. Có các loại cầu tiền tệ nào? Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ. 8. Ngân hàng trung ương cung ứng tiền tệ vào nền kinh tế thông qua các kênh nào? 9. Lạm phát là gì? Hãy trình bày các loại lạm phát. 10. Trình bày nguyên nhân gây ra lạm phát. 11. Lạm phát tác động như thế nào đến nền kinh tế - xã hội? 12. Trình bày các biện pháp khắc phục lạm phát.
  27. Chương 3 NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC A. MỤC ĐÍCH CỦA CHƯƠNG Học sinh nắm được các nội dung cơ bản sau: - Khái niệm, đặc điểm, vai trò của NSNN. - Những nội dung cơ bản về thu NSNN và chi NSNN ( Khái niệm, đặc điểm, nội dung, các nhân tố ảnh hưởng ). - Hệ thống NSNN và phân cấp quản lý NSNN B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG (5 tiết) I. Những vấn đề chung về Ngân sách Nhà Nước ( NSNN ) 1. Khái niệm NSNN NSNN đã có quá trình ra đời và phát triển từ thế kỷ XII đến nay. Thế nhưng hiện nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm NSNN, phổ biến là: Thứ nhất, NSNN là bản dự toán thu - chi tài chính của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Thứ hai, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước. Thứ ba, NSNN là những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau. Ngoài ra, Điều 1 Luật NSNN đã được Quốc Hội nước C.H.X.H.C.N Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20/03/1996 có ghi: NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Từ các quan điểm trên, ta có thể xác định: NSNN là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. 2. Đặc điểm của NSNN - Đặc điểm 1: Việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN gắn với quyền lực của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. - Đặc điểm 2: NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng. Lợi ích của Nhà nước ( lợi ích chung của quốc gia ) thể hiện trong phân phối thu nhập của các doanh nghiệp, của dân cư, phân phối GDP, GNP và cả trong phân bổ các nguồn lực tài chính cho các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của quốc gia. - Đặc điểm 3: Quỹ NSNN luôn được phân chia thành các quỹ tiền tệ nhỏ hơn trước khi đưa vào sử dụng. Quá trình phân chia quỹ NSNN chính là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các loại quỹ nhằm thoả mãn các nhu cầu chi tiêu của các lĩnh vực, các ngành theo yêu cầu quản lý của Nhà nước. - Đặc điểm 4: Hoạt động thu, chi NSNN được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. 3. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường 3.1. Về mặt kinh tế
  28. NSNN là công cụ chủ yếu phân bổ các nguồn tài chính quốc gia, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền, định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững. - NSNN cung cấp nguồn kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đây cũng là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền. - Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh. Việc đặt ra các loại thuế với thuế suất ưu đãi, các quy định miễn thuế, giảm thuế có tác dụng kích thích mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp. Một chính sách thuế có lợi sẽ thu hút được doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nơi cần thiết; ngược lại, một chính sách thuế khắt khe sẽ giảm bớt luồng di chuyển vốn vào nơi cần hạn chế sản xuất kinh doanh. 3.2. Về mặt xã hội NSNN là công cụ có hiệu lực của Nhà nước để điều chỉnh trong lĩnh vực thu nhập, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. - Thông qua các khoản chi của NSNN nhằm thực hiện các chính sách xã hội: chi hoạt động bộ máy nhà nước, lực lượng quân đội, công an, chi giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thể thao Bên cạnh đó, hàng năm Chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt đối với tầng lớp dân cư có thu nhập thấp thông qua các loại trợ giúp trực tiếp được dành cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt như chi trợ cấp xã hội, các loại trợ giúp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu ( lương thực, điện, nước ), các khoản chi phí thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, các chương trình quốc gia lớn về chống mù chữ, chống dịch bệnh, các chi phí cho việc cung cấp các hàng hoá công cộng - Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm điều tiết những đối tượng có thu nhập cao để phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, tiến tới đảm bảo công bằng xã hội về thu nhập. - Đối với các loại thuế gián thu ( như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng ), Nhà nước áp dụng mức thuế suất thấp đối với những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu và mức thuế suất cao đối với những mặt hàng xa xỉ, các loại dịch vụ cao cấp nhằm phân phối lại một bộ phận thu nhập của người giàu trong xã hội. 3.3. Về mặt thị trường NSNN là công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát. - Qua thu ( đặc biệt là thuế), chi tiêu, dự trữ nhà nước có tác động rất lớn đến quan hệ cung cầu và bình ổn giá cả trên thị trường. + Đối với thị trường hàng hoá: hoạt động điều tiết của Chính phủ được thực hiện thông qua việc sử dụng các quỹ dự trữ nhà nước ( bằng tiền, bằng ngoại tệ, các loại hàng hoá, vật tư chiến lược, ) được hình thành từ nguồn thu ngân sách. + Đối với thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động hoạt động điều tiết của Chính phủ thông qua việc thực hiện một cách đồng bộ giữa các công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả trong đó công cụ ngân sách với các biện pháp như phát hành công trái, chi trả nợ, các biện pháp tiêu dùng của Chính phủ cho toàn xã hội, đào tạo - NSNN được sử dụng như một công cụ có hiệu lực để kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Khi xảy ra lạm phát, giá cả tăng lên do cung cầu mất cân đối ( cung nhỏ hơn cầu), Chính phủ có thể sử dụng biện pháp thuế như tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu tư và thắt chặt chi tiêu của NSNN, nhất là các khoản chi cho tiêu dùng. Ngoài ra, để kiềm chế lạm phát, nhà nước có thể
  29. tăng cường các khoản vay trong dân góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong nền kinh tế; triệt để không phát hành tiền tệ để bù đắp thiếu hụt ngân sách. Ngoài ba vai trò trên, NSNN còn có vai trò củng cố, tăng cường sức mạnh bộ máy nhà nước, bảo vệ đất nước, giữ gìn an ninh; vai trò kiểm tra các hoạt động tài chính khác trong việc làm nghĩa vụ nộp thuế, các khoản phải nộp, trong việc sử dụng các tài sản quôc gia và thực hiện các pháp luật, chính sách về ngân sách và các pháp luật, chính sách khác có liên quan. II. Thu NSNN 1. Những vấn đề chung về thu NSNN 1.1. Khái niệm Thu NSNN là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia nhằm thoả mãn các nhu cầu của nhà nước. 1.2. Đặc điểm - Cơ cấu các khoản thu NSNN đều gắn với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước là điều kiện xuất hiện những khoản thu NSNN. Ngược lại đến lượt mình, các khoản thu NSNN là tiền đề vật chất không thể thiếu được để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Mọi khoản thu của nhà nước đều được thể chế hoá bởi các chính sách, chế độ, pháp luật của nhà nước. - Thu NSNN được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng chung quy lại là bắt nguồn từ nền kinh tế quốc dân và gắn chặt với kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy thu NSNN phải dựa vào thực trạng nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. 1.3. Nội dung và phân loại thu NSNN *Nội dung: a. Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật: - Thuế là hình thức đóng góp nghĩa vụ theo luật định của các tổ chức kinh tế và dân cư cho nhà nước bằng một phần thu nhập của mình. - Phí là khoản huy động bắt buộc nhằm bù đắp một phần chi phí mà Nhà nước đã bỏ ra đáp ứng yêu cầu của đối tượng nào đó. Ví dụ: phí cầu phà, phí đường, phí bay qua bầu trời - Lệ phí là khoản huy động bắt buộc do cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp thực hiện như lệ phí trước bạ, lệ phí công chứng, lệ phí làm hộ chiếu, lệ phí toà án b. Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước như: - Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế. - Tiền thu hồi vốn của Nhà nước từ các cơ sở kinh tế. - Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước ( cả gốc và lãi). c. Thu từ hoạt động sự nghiệp. d. Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước. e. Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân nước ngoài, từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. f. Thu khác: như thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản *Phân loại thu NSNN: - Phân loại theo nội dung kinh tế: + Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc gồm thuế, phí, lệ phí với nhiều hình thức cụ thể do luật định. + Nhóm thu không thường xuyên: các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước và các khoản thu khác. - Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN:
  30. + Thu trong cân đối NSNN: bao gồm các khoản thu thường xuyên và thu không thường xuyên. + Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: Khi số thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu và nhà nước phải đi vay, bao gồm: vay trong nước từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội, vay từ nước ngoài. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN a. Thu nhập GDP bình quân đầu người Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Thu nhập GDP bình quân đầu người là nhân tố quyết định đến mức động viên của NSNN. b. Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn là nhân tố quyết định đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN. c.Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên Đối với các nước đang phát triển và nguồn tài nguyên phong phú thì nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến số thu NSNN. d. Mức độ trang trải các khoản chi phí của nhà nước Nhân tố này phụ thuộc vào: - Quy mô tổ chức của bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó. - Những nhiệm vụ kinh tế - xã hội nhà nước đảm nhận trong thời kỳ. - Chính sách sử dụng kinh phí của nhà nước. Trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi phí Nhà nước không có khả năng tăng lên, việc tăng mức độ chi phí của nhà nước sẽ dẫn đến tỷ suất thu NSNN tăng. e. Tổ chức bộ máy thu nộp Tổ chức bộ máy thu nộp sẽ ảnh hưởng tới thu NSNN. Nếu bộ máy thu nộp được tổ chức gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả cao, chống thất thu do trốn, lậu thuế thì sẽ là nhân tố tích cực làm tăng thu NSNN. 2. Những nguyên tắc thiết lập hệ thống thu NSNN - Trong lịch sử, xác lập hệ thống thu ( nhất là hệ thống thuế ) thường có hai nguyên tắc sau: + Nguyên tắc thu thuế theo lợi ích: Theo nguyên tắc này, việc thiết lập hệ thống thuế phải căn cứ vào lợi ích người nộp thuế có thể nhận được từ hàng hoá xã hội mà Nhà nước cung cấp. Tuy nhiên, trên thực tế khó mà xác định được mức độ lợi ích mà từng người nộp thuế có thể nhận được từ việc cung cấp hàng hoá xã hội của Nhà nước. Mặt khác, việc thu thuế của Nhà nước không chỉ nhằm trang trải các chi phí Nhà nước bỏ ra để sản xuất hàng hoá xã hội mà còn nhằm vào mục đích xã hội khác như trợ cấp, cứu tế Do vậy, nếu sử dụng nguyên tắc này trong việc thiết lập hệ thống thu sẽ thu hẹp các chức năng xã hội của Nhà nước. + Nguyên tắc thu thuế theo khả năng: Theo nguyên tắc này, việc thiết lập hệ thống thuế căn cứ vào khả năng thu nhập của mỗi người. Nguyên tắc này có nhược điểm là khó xác định một cách chính xác, đầy đủ khả năng thu nhập của người nộp thuế và phải tạo ra nhiều mức thuế mới đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc này. Do vậy, hai nguyên tắc trên được coi như những quan điểm định hướng cho việc thiết lập một hệ thống thuế, chứ không thể là nguyên tắc để thực thi. - Trong cải cách thuế hiện nay ở nước ta, người ta thường đưa ra các nguyên tắc cụ thể sau đây:
  31. a. Nguyên tắc ổn định và lâu dài Theo nguyên tắc này, trong những điều kiện hoạt động kinh tế bình thường cần thiết phải ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế, không gây xáo trộn thuế trong nền kinh tế. b. Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng Theo nguyên tắc này, việc thiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với mọi người chịu thuế, không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế. Việc thiết lập hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả năng thu nhập của người chịu thuế. c. Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn Nguyên tắc này yêu cầu các sắc thuế được quy định trong luật phải thể hiện đầy đủ các tiêu thức ( đối tượng nộp, đối tượng tính, mức thu, thủ tục nộp, ). d. Nguyên tắc đơn giản Theo nguyên tắc này, mỗi sắc thuế cần hạn chế số lượng thuế suất, có thể tiến đến áp dụng một thuế suất, cần xác định rõ mục tiêu chính và không nên đề ra quá nhiều mục tiêu trong một sắc thuế. e. Nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế Thiết lập hệ thống thuế phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế về đối tượng tính thuế, phương thức thu nộp, thuế suất 3. Biện pháp bồi dưỡng nguồn thu NSNN Muốn tăng trưởng nền kinh tế phải có số vốn lớn và phải huy động tối đa các nguồn tài chính để dùng cho đầu tư phát triển kinh tế và cần phải đảm bảo sự tăng trưởng bền vững. Để bồi dưỡng nguồn thu NSNN cần phải thực hiện các giải pháp sau: - Thứ nhất, Nhà nước bên cạnh việc khai thác, cho thuê, nhượng bán tài sản, tài nguyên quốc gia tăng thu cho ngân sách thì cũng cần phải dành kinh phí thoả đáng để nuôi dưỡng, tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên ấy, không làm cạn kiệt và phá huỷ tài sản, tài nguyên vì mục đích trước mắt. - Thứ hai, chính sách thuế Nhà nước phải vừa huy động được cho Nhà nước, phải vừa khuyến khích tích tụ vốn của doanh nghiệp và dân cư. Vì vậy, cần phải ổn định mức huy động bằng thuế của Nhà nước và phải sửa đổi, bổ sung chính sách thuế cho phù hợp với thu nhập của các doanh nghiệp và của dân cư. - Thứ ba, chính sách vay dân để bù đắp thiếu hụt NSNN cần được đặt trên cơ sở thu nhập và mức sống của dân. Nếu Nhà nước vay quá lớn, dân sẽ không cải thiện được đời sống, không còn khả năng tự đầu tư để phát triển, giải quyết những vấn đề mà Nhà nước chưa giải quyết được như thu nhập, việc làm đồng thời khó khăn trong việc tạo ra nguồn tài chính mới. - Thứ tư, Nhà nước sử dụng vốn NSNN để đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp quan trọng trên những ngành, những lĩnh vực then chốt nhằm định hướng phát triển kinh tê - xã hội và tạo ra nguồn tài chính mới. Bên cạnh đó, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào con người, đào tạo nghề, nâng cao dân trí, phát triển khoa học, chăm sóc sức khoẻ để có một đội ngũ lao động có tay nghề cao, năng suất lao động cao. - Thứ năm, Nhà nước phải giảm chi tiêu cho tiêu dùng, tinh giản bộ máy Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính để tích luỹ vốn chi đầu tư, đồng thời khuyến khích mọi người tiết kiệm tiêu dùng dành vốn cho đầu tư phát triển. III. Chi NSNN 1. Những vấn đề chung về chi NSNN 1.1. Khái niệm Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. 1.2. Đặc điểm
  32. - Chi NSNN luôn gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - chính trị- xã hội của Nhà nước. - Chi NSNN gắn với quyền lực Nhà nước. Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất quyết định quy mô, nội dung, cơ cấu chi NSNN và phân bổ nguồn vốn ngân sách cho các mục tiêu quan trọng nhất. Chính phủ là cơ quan hành pháp, có nhiệm vụ quản lý, điều hành các khoản chi NSNN. Do đó, chi NSNN mang tính pháp lý cao làm cho NSNN trở thành công cụ có hiệu lực trong quá trình điều hành, quản lý kinh tê - xã hội của Nhà nước. - Tính hiệu quả của các khoản chi NSNN được xem xét trên tầm vĩ mô, thông qua việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng mà các khoản chi ngân sách đảm nhận. - Chi NSNN mang tính chất không hoàn trả trực tiếp. Đó là hình thức cấp phát trực tiếp của Nhà nước vào các lĩnh vực của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Các khoản cấp phát từ NSNN cho các ngành, các cấp, các hoạt động kinh tế - xã hội, giúp đỡ người nghèo không phải trả giá hoặc hoàn lại cho Nhà nước. Tuy nhiên, NSNN cũng có những khoản chi cho việc thực hiện chương trình mục tiêu dưới hình thức cho vay ưu đãi có hoàn trả gốc với lãi suất rất thấp ( hoặc không có lãi) như chi giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo - Chi NSNN là một bộ phận cấu thành luồng vận động tiền tệ và nó gắn chặt với sự vận động của phạm trù giá trị khác tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái Mối quan hệ giữa chi NSNN với các chính sách tiền tệ, chính sách tài chính có ý nghĩa cực kỳ to lớn trong việc thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô như tăng trưởng, công ăn việc làm, giá cả 1.3. Nội dung a.Căn cứ theo mục đích chi tiêu, nội dung chi NSNN được chia thành hai nhóm: - Chi tích luỹ của NSNN: là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế, bao gồm: chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi cấp vốn lưu động, chi dự trữ vật tư của nhà nước, và các khoản chi tích luỹ khác. - Chi tiêu dùng của NSNN: là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai, bao gồm chi sự nghiệp kinh tế, chi sự nghiệp văn hoá xã hội, chi quản lý hành chính Nhà nước, chi quốc phòng an ninh và chi tiêu dùng khác . b.Căn cứ vào lĩnh vực chi tiêu, nội dung chi NSNN bao gồm: - Chi đầu tư kinh tế. - Chi cho y tế. - Chi cho giáo dục, đào tạo, khoa học. - Chi cho văn hoá, thể dục thể thao. - Chi về xã hội. - Chi quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể. - Chi cho an ninh, quốc phòng. - Chi khác. c.Căn cứ theo yếu tố và phương thức quản lý Nhà nước, nội dung chi NSNN được chia thành bốn nhóm: - Chi thường xuyên: là các khoản chi nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của Nhà nước. Về cơ bản, nó mang tính chất tiêu dùng, không trực tiếp tạo ra của cải vật chất để tiêu dùng trong tương lai. Ví dụ: các khoản chi lương, tiền công, chi mua sắm hàng hoá và dịch vụ - Chi đầu tư phát triển: là các khoản chi làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và góp phần làm tăng trưởng kinh tế. Nó là các khoản chi mang tính chất chi tích luỹ như chi đầu tư xây dựng
  33. cơ bản, chi vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước, chi cho các dự án, chương trình quốc gia. - Chi trả nợ và viện trợ: bao gồm các khoản chi để nhà nước thực hiện nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay trong nước và vay ngoài nước khi đến hạn ( bao gồm cả nợ gốc và lãi) và các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng - Sự phát triển của lực lượng sản xuất: là nhân tố vừa tạo ra khả năng và điều kiện cho việc hình thành nội dung, cơ cấu chi một cách hợp lý, vừa đặt ra yêu cầu thay đổi nội dung, cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định. - Khả năng tích luỹ của nền kinh tế: nhân tố này càng lớn thì khả năng chi đầu tư phát triển tăng càng lớn. Tuy nhiên, việc chi NSNN cho đầu tư phát triển còn tuỳ thuộc ở khả năng tập trung nguồn tích luỹ vào NSNN và chính sách chi của Nhà nước trong từng giai đoạn. - Mô hình tổ chức bộ máy của Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tê - xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ. - Ngoài ra, chi NSNN còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như biến động kinh tế, chính trị, xã hội, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái. 2. Những nguyên tắc tổ chức chi NSNN - Nguyên tắc 1: Gắn chặt khả năng thu để bố trí các khoản chi. Chi NSNN phải dựa trên cơ sở có nguồn thu thực tế từ nền kinh tế. Mức độ chi, cơ cấu các khoản chi phải dựa vào khả năng tăng trưởng GDP của đất nước. Nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ dẫn tới tình trạng bội chi NSNN. -Nguyên tắc 2: Bảo đảm yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các khoản chi tiêu của NSNN. Trong thực tế, tình trạng lãng phí và kém hiệu quả trong việc sử dụng các khoản chi NSNN ( đặc biệt là các khoản chi xây dựng cơ bản) diễn ra rất phổ biến. Do vậy cần phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong các khoản chi NSNN. -Nguyên tắc 3: Tập trung có trọng điểm. Việc phân bổ nguồn vốn NSNN phải căn cứ vào chương trình trọng điểm của Nhà nước. Thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ đảm bảo tính mục đích và khả năng tiết kiệm các khoản chi, sẽ có tác động dây chuyền thúc đẩy các ngành, các lĩnh vực phát triển. -Nguyên tắc 4: Nhà nước và nhân dân cùng làm trong việc bố trí các khoản chi NSNN, nhất là các khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi khi quyết định các khoản chi NSNN cho một lĩnh vực nhất định cần phải cân nhắc khả năng huy động các nguồn vốn khác để giảm nhẹ các khoản chi tiêu của NSNN. -Nguyên tắc 5: phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cấp theo luật định để bố trí các khoản chi cho thích hợp. Áp dụng nguyên tắc này tránh được việc bố trí các khoản chi chồng chéo, khó kiểm tra giám sát, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các cấp. -Nguyên tắc 6: Tổ chức chi NSNN trong sự phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái để tạo nên công cụ tổng hợp cùng tác động đến các vấn đề của kinh tế vĩ mô. 3. Bội chi NSNN và các giải pháp xử lý Bội chi NSNN là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu. Bội chi NSNN có thể xảy ra do sự thay đổi chính sách thu chi của Nhà nước gọi là bội chi cơ cấu; hoặc có thể do sự thay đổi các chu kỳ kinh tế gọi là bội chi chu kỳ. Bội chi NSNN với tỷ lệ cao; quy mô lớn là nguyên nhân trực tiếp và quyết định gây ra lạm phát, tăng lãi suất thị trường, cản trở đầu tư, thúc đẩy tình trạng nhập siêu, gây ra những khó khăn trong tìm kiếm việc làm và ảnh hưởng đến đời sống người lao động. Các giải pháp xử lý bội chi:
  34. a. Tăng thu, giảm chi NSNN: Tận thu các nguồn thu, đồng thời cắt giảm các khoản chi không cần thiết. b. Vay nợ trong và ngoài nước để bù đắp bội chi: Nhà nước thực hiện phát hành trái phiếu chính phủ, vay các Chính Phủ, các NHTM nước ngoài, các tổ chức tài chính quốc tế, Về nguyên tắc, chỉ được sử dung cho chi đầu tư phát triển. c. Phát hành tiền: Với biện pháp này, Nhà nước cần có sự xem xét kỹ lưỡng trên cơ sở thực trạng của nền kinh tế để xác định lượng tiền phát hành hợp lý. Phát hành tiền phải đảm bảo nguyên tắc: chỉ sử dụng cho chi đầu tư phát triển, không được sử dụng cho tiêu dùng để tránh tình trạng gây ra lạm phát. IV. Tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp quản lý NSNN 1. Tổ chức hệ thống NSNN - Khái niệm: Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu chi của mỗi cấp ngân sách. Muốn xây dựng hệ thống NSNN phải căn cứ vào Hiến pháp. Trên cơ sở các nguyên tắc của Hiến pháp, luật NSNN cụ thể hoá hệ thống NSNN. - Nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN: + Nguyên tắc thống nhất và tập trung dân chủ: Ở nước ta chỉ có một NSNN thống nhất do Quốc hội phê chuẩn dự toán và quyết toán NSNN, Chính phủ thống nhất quản lý NSNN. Ngân sách là công cụ của Nhà nước, vì vậy hệ thống NSNN phải được xây dựng theo nguyên tắc thống nhất và tập trung dân chủ. Ở mỗi cấp chính quyền, HĐND thảo luận quyết định ngân sách cấp mình, nhưng phải được UBND cấp trên và Chính phủ xét duyệt lại để thống nhất vào Ngân sách cấp trên và NSNN. NSNN các cấp đều phải chấp hành các luật, các nghị quyết của Quốc hội, các quyết định của Chính phủ về chính sách, chế độ thu chi, mục lục NSNN và những quy định khác có liên quan đến NSNN. + Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp giữa cấp ngân sách với cấp chính quyền Nhà nước. Cơ sở: xuất phát từ yêu cầu bảo đảm nguồn tài chính cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền Nhà nước. Nội dung: xây dựng cho mỗi cấp chính quyền có ngân sách cấp mình, có nguồn thu và các khoản chi, có quyền quyết định ngân sách của cấp mình trên cơ sở chấp hành pháp luật của Nhà nước. Tác dụng: Phát huy được quyền dân chủ, tính chủ động và tích cực trong khai thác nguồn thu, quản lý chi tiêu. Hạn chế: Có thể nảy sinh tính cục bộ, địa phương và dễ phân tán nguồn tài chính có hạn. - Hiện nay, theo luật NSNN, hệ thống NSNN Việt nam gồm ngân sách trung ương ( NSTW) và ngân sách địa phương ( NSĐP), trong đó NSĐP bao gồm: Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ( gọi chung là Ngân sách cấp tỉnh); Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh ( gọi chung là Ngân sách cấp huyện); Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn ( gọi chung là Ngân sách cấp xã). + NSTW: bao gồm các đơn vị dự toán của cấp này. Mỗi Bộ, mỗi cơ quan trung ương là một đơn vị dự toán của NSTW. NSTW cung ứng nguồn tài chính cho các nhiệm vụ, mục tiêu chung cho cả nước trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hỗ trợ chuyển giao nguồn tài chính cho Ngân sách cấp tỉnh. + NSĐP: Ngân sách cấp xã vừa là một cấp ngân sách, vừa là một bộ phận cấu thành của Ngân sách cấp huyện. Ngân sách cấp huyện vừa là một cấp ngân sách, vừa là một bộ phận cấu thành của Ngân sách cấp tỉnh.
  35. NSĐP cung ứng nguồn tài chính cho các nhiệm vụ của chính quyền Nhà nước ở địa phương và hỗ trợ chuyển giao nguồn tài chính cho chính quyền cấp dưới. 2. Phân cấp NSNN 2.1. Khái niệm phân cấp NSNN - NSNN là một thể thống nhất gồm nhiều cấp ngân sách, mỗi cấp ngân sách đều chịu sự ràng buộc bởi các chế độ thể lệ chung, vừa có tính độc lập tự chịu trách nhiệm. Theo cách hiểu này, phân cấp NSNN là sự phân định trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích của các cấp chính quyền Nhà nước trong quản lý NSNN. Thực chất của việc phân cấp NSNN là giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nước trung ương với các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề của hoạt động NSNN. Phân cấp NSNN có tác dụng phát huy được tính chủ động sáng tạo của địa phương trong việc khai thác nguồn thu và bố trí các khoản chi phù hợp để giải quyết các nhu cầu tại chỗ của địa phương, khắc phục tâm lý ỷ lại của các cơ sở hoặc bệnh quan liêu của cấp trên. - Phân cấp NSNN thực hiện theo các yêu cầu sau: + Đảm bảo tính thống nhất của NSNN: Các cấp chính quyền đều phải chấp hành thống nhất các luật pháp Tài chính - Ngân sách, các quy định của Chính phủ và Bộ Tài chính. Tuân thủ yêu cầu này sẽ giúp phát huy quyền dân chủ, tính chủ động sáng tạo của các cấp chính quyền trong khai thác, bồi dưỡng, huy động nguồn thu; giúp tính toán chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các khoản chi NSNN. + Phân cấp NSNN phải phù hợp với phân cấp các lĩnh vực khác của Nhà nước, tạo ra một sự đồng bộ trong thực hiện và quản lý các ngành, các lĩnh vực của Nhà nước. + Nội dung phân cấp NSNN phải phù hợp với Hiến pháp và luật pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cấp chính quyền, bảo đảm mỗi cấp ngân sách có các nguồn thu, các khoản chi, quyền và trách nhiệm về ngân sách tương xứng nhau. 2.2. Nội dung phân cấp NSNN - Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành các chính sách, chế độ thu chi, quản lý NSNN. Qua phân cấp NSNN phải xác định rõ quyền hạn ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức, phạm vị mức độ quyền hạn của mỗi cấp trong việc ban hành chính sách, chế độ NSNN. Có như vậy, việc quản lý và điều hành NSNN mới đảm bảo tính ổn định, tính pháp lý, tránh tư tưởng cục bộ địa phương. - Giải quyết mối quan hệ vật chất ( mối quan hệ lợi ích) trong quá trình phân giao nhiệm vụ chi, nguồn thu và cân đối NSNN. + Xác định rõ nhiệm vụ kinh tế, chính trị của mỗi cấp chính quyền, khả năng tạo ra nguồn thu trên từng địa bàn mà chính quyền đó quản lý. + Quy định chi tiết các nguồn thu và các khoản chi cho từng cấp ngân sách. Theo chế độ phân cấp NSNN hiện nay được quy định tại các điều khoản trong Chương III của luật NSNN, mỗi cấp ngân sách nếu có các khoản thu được hưởng trọn vẹn 100% và các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm nhất định. Riêng ngân sách các địa phương ( tỉnh, huyện , xã) còn được khoản thu trợ cấp trực tiếp từ ngân sách cấp trên. Về chi tiêu, mỗi cấp ngân sách đều có các khoản chi thường xuyên và chi đầu tư tuỳ thuộc vào phạm vi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền Nhà nước theo luật định. - Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện chu trình ngân sách: Chu trình ngân sách là quá trình lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Phân cấp NSNN là phải xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc lập, chấp hành và quyết toán NSNN, mức vay nợ trong dân, các khoản phụ thu bổ sung
  36. cho ngân sách cấp dưới, thời hạn lập, xét duyệt, báo cáo NSNN ra HĐND và gửi lên cấp trên sao cho vừa nâng cao trách nhiệm của chính quyền trung ương, vừa phát huy tính năng động, sáng tạo của chính quyền cơ sở. 2.3. Các nguyên tắc phân cấp NSNN - Phân cấp NSNN phải được tiến hành đồng bộ với phân cấp kinh tế và tổ chức bộ máy hành chính. Phân cấp kinh tế là tiền đề và là điều kiện bắt buộc để thực hiện phân cấp NSNN; tổ chức bộ máy Nhà nước là cơ sở để xác định phạm vi, mức độ thu chi của ngân sách ở mỗi cấp chính quyền. Tuân thủ nguyên tắc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền, xác định rõ nguồn thu trên địa bàn và quy định được nhiệm vụ chi của các cấp chính quyền một cách chính xác. - Đảm bảo thể hiện vai trò chủ đạo của NSTW và vị trí độc lập của NSĐP trong hệ thống NSNN thống nhất. + NSTW là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn thu của quốc gia và thực hiện các khoản chi trọng yếu của quốc gia. Do vậy phải đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW trong quá trình Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. + Vị trí độc lập của NSĐP thể hiện ở: Các cấp chính quyền có quyền lập, chấp hành và quyết toán ngân sách của mình trên cơ sở chính sách, chế độ đã ban hành. Các cấp chính quyền phải chủ động sáng tạo trong việc động viên, khai thác các thế mạnh của địa phương để tăng nguồn thu, đảm bảo chi, thực hiện cân đối ngân sách của cấp mình. - Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp NSNN Việc giao nhiệm vụ thu chi cho địa phương phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, nhưng phải cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá, xã hội do hậu quả của phân cấp nảy sinh giữa các vùng lãnh thổ. V. Chu trình quản lý NSNN 1. Năm ngân sách và chu trình NSNN - Năm ngân sách ( còn gọi là năm tài chính, tài khoá ) là giai đoạn mà trong đó dự toán thu - chi tài chính của Nhà nước đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành. - Để có dự toán NSNN cho năm ngân sách phải có khâu lập dự toán NSNN và nó được thực hiện trước khi năm ngân sách bắt đầu. Ở nước ta, thời gian lập dự toán NSNN ở cơ sở là từ tháng 6, Bộ Tài chính tổng hợp trình Chính phủ trong tháng 10 và Quốc hội quyết định dự toán NSNN trước ngày 30 tháng 11 năm trước. Then chốt của một chu trình ngân sách là khâu chấp hành ngân sách của chu trình đó mà thời gian chấp hành ngân sách trùng với năm ngân sách. Sau khi năm ngân sách kết thúc, phải đánh giá tình hình chấp hành ngân sách, đó là khâu quyết toán NSNN. Tóm lại, một chu trình NSNN có ba khâu nối tiếp nhau: lập ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách. Trong một năm ngân sách, đồng thời có cả ba khâu đó: chấp hành ngân sách của chu trình hiện tại, quyết toán ngân sách của chu trình trước, và lập ngân sách của chu trình sau. 2. Nội dung chủ yếu của chu trình quản lý NSNN 2.1. Lập NSNN Hình thành ngân sách là quá trình bao gồm các công việc: lập ngân sách, phê chuẩn ngân sách và thông báo ngân sách. Lập ngân sách là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ các khâu của quá trình quản lý ngân sách. Lập ngân sách thực chất là quá trình dự toán các khoản thu - chi của ngân sách trong một năm ngân sách. - Căn cứ lập NSNN: