Giáo trình môn học Triết học

pdf 230 trang phuongnguyen 2550
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn học Triết học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_mon_hoc_triet_hoc.pdf

Nội dung text: Giáo trình môn học Triết học

  1. Chương I TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI I. TRIẾT HỌC VÀ THẾ GIỚI QUAN 1. Triết học và đối tượng của triết học. a. Khái niệm triết học và điều kiện hình thành của triết học. - Khái niệm triết học: Triết học là hệ thống những quan điểm về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó. + Hệ thống những quan điểm về thế giới: Quan điểm là những ý kiến, những chính kiến của một cá nhân hay một nhóm, một cộng đồng về một vấn đề nào đó. Do điều kiện lịch sử, do địa vị của các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng mà cùng một vấn đề có thể có nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Vấn đề nào đó có thể có giá trị, hoặc không có giá trị, hoặc có giá trị ở mức độ nào đó, thậm chí có thể không có lợi vẫn có thể tồn tại trong xã hội. Hệ thống những quan điểm về thế giới của triết học bao gồm những nhận định, đánh giá để trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phương pháp luận trong hoạt động của con người. Do giải quyết vấn đề cơ bản của triết học khác nhau mà quan điểm của các trường phái triết học, của các nhà triết học cũng rất khác nhau trước một vấn đề cụ thể. Do đó, triết học có thể là khoa học, có thể là không khoa học, tuỳ theo giá trị của các quan niệm đó. Hệ thống những quan niệm là logic, là trật tự sắp xếp các quan niệm trong một hệ thống triết học. Có thể có một hệ thống triết học nhưng được trình bày theo những logic khác nhau. Điều đó do quá trình nhận thức của chính nhà triết học hoặc của trường phái triết học đó. + Vai trò của con người trong thế giới: Không chỉ có triết học mới trình bày vai trò của con người mà các khoa học khác đều trình bày các quan điểm về vai trò của con người nhưng dưới dạng mặc định. Triết học trình bày vai trò của con người về khả năng nhận thức và khả năng cải tạo thế giới vì con người dưới dạng học thuyết, nguyên lí và lí giải vấn đề đó dưới quan điểm này hay quan điểm khác.
  2. - Quá trình hình thành của triết học: Đã có nhiều quan niệm khác nhau về quá trình hình thành của triết học. Có quan niệm cho rằng, triết học ra đời cùng với sự ra đời của giai cấp và nhà nước. Điều đó có vẻ có lí nhưng không chính xác. Nhà nước ra đời cách đây khoảng 5000 năm, nhưng triết học ra đời vào khoảng thế kỉ thứ VI trước công nguyên. Triết học ra đời là do các điều kiện sau đây quyết định: + Con người có tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng là quá trình con người sử dụng ngôn ngữ để hình thành khái niệm, phán đoán nhằm phản ánh cấu trúc, bản chất và các mối quan hệ của hiện thực khách quan bằng các nguyên lí, các qui luật. Trong buổi bình minh của mình, loài người chưa có tư duy trừu tượng. Lúc đó, họ tư duy trực quan. Tư duy trừu tượng xuất hiện dần dần cùng với sự phát triển của con người, đặc biệt từ khi ngôn ngữ hình thành và hoàn thiện mà chữ viết là một bước ngoặt căn bản. Triết học phải trên nền tảng của tư duy trừu tượng mới hình thành được hệ thống những quan niệm về thế giới - phản ánh thế giới dưới hình thức trừu tượng. + Khoa học (đặc biệt là khoa học tự nhiên) đã có những thành tựu nhất định trong việc nghiên cứu thế giới xung quanh. Những quan niệm về thế giới của triết học không thể tư biện mà phải dựa vào những căn cứ nhất định. Những căn cứ đó có thể là các quan niệm của tôn giáo, của thần học, của các truyền thuyết, của các truyện thần thoại, nhưng căn cứ của khoa học là căn cứ có khả năng đứng vững trước mọi biến cố của lịch sử. Chính những căn cứ của khoa học giúp triết học trả lời được những câu hỏi: thế giới là gì, thế giới có cấu trúc như thế nào, thế giới vận động và phát triển ra sao, thế giới tác động đến con người và con người tác động đến thế giới trong quá khứ, hiện tại và tương lai có gì cần phải quan tâm. + Con người biết phân tích và phê phán những truyền thuyết và truyện thần thoại. Truyện thần thoại và truyền thuyết được con người sáng tạo trong quá trình nhận thức về thế giới xung quanh. Chúng tồn tại từ lâu cùng với xã hội loài người. Hạt nhân cơ bản của các truyện thần thoại và truyền thuyết là thần tạo ra thế giới, tạo ra con người, có thể đa thần, có thể độc thần. Các vị thần được suy tôn, được thờ tự. Đối với con người, các vị thần là linh thiêng, thế giới mà các vị thần tạo ra cũng là bất khả xâm phạm. Một thời gian dài thế giới được con người 2
  3. tôn thờ như những vật linh. Song, quá trình sinh tồn càng ngày càng khó khăn, con người càng phải dựa vào tự nhiên, tính linh thiêng của thế giới cũng mất đi. Con người nghi ngờ và bắt đầu phân tích, đối chiếu, so sánh và phê phán tính xác thực của các truyền thuyết, các truyện thần thoại. Những người đưa ra những quan điểm bác bỏ sự hiện diện của các vị thần và xây dựng hệ thống những quan niệm mới về thế giới chính là manh nha của chủ nghĩa duy vật. Những người boả vệ sự linh thiêng của các vị thần và xây dựng hệ thống quan niệm về thế giới là manh nha của chủ nghĩa duy tâm triết học. + Con người có nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh. Từ khi hình thành, con người vẫn tồn tại cùng thế giới xung quanh. Loài người không chỉ dựa vào tự nhiên để sinh tồn mà còn hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. Đối với con người tiền sử, tự nhiên không chỉ là nguồn sống, mà còn là chốn linh thiên, tuyệt đối bí mật, con người không thể biết được. Quá trình phát triển của con người cũng là quá trình hiểu tự nhiên hơn. Tư duy trừu tượng, khoa học ra đời giúp con người nhận biết được những hiện tượng xung quanh họ. Từ đó, loài người nảy sinh ý định tìm hiểu thế giới xung quanh. Những câu hỏi mà con người đặt ra và tìm cách trả lời chính là những vấn đề mà triết học giải quyết. Các nhà khoa học đồng thời cũng là những nhà triết học trong lịch sử là một trong những điều kiện hình thành triết học. b. Đối tượng của triết học và sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử. - Đối tượng của triết học: nghiên cứu mối quan hệ giữa thế giới và tư duy. - Sự biến đổi đối tượng qua các giai đoạn lịch sử: + Thời kì cổ đại: giải thích bản nguyên của thế giới dưới hình thức duy vật hay duy tâm. + Thời trung cổ: giải thích giáo lí tôn giáo. + Thời cận đại: khoa học của mọi khoa học. + Thời hiện đại: Triết học Mác: mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan niệm duy vật. Triết học ngoài mác-xít: giải thích vai trò của triết học với các khoa học. 2. Triết học hạt nhân lý luận của thế giới quan. 3
  4. a. Thế giới quan hạt nhân lý luận của thế giới quan. - Khái niệm thế giới quan: Thế giới quan là toàn bộ quan niệm của con người về thế giới, về con người, về vị trí của con người trong thế giới đó. - Các yếu tố hình thành thế giới quan: + Tri thức: Những hiểu biết của con người về thế giới, là cơ sở trực tiếp cho quá trình hình thành thế giới quan. + Niềm tin: Là thái độ, là tình cảm của con người về một vấn đề hay một số vấn đề cụ thể nào đó. Có thể có niềm tin mù quáng, nhưng niềm tin dựa trên nền tảng tri thức thì mang tính vững bền, nó định hướng cho hoạt động của con người. - Các hình thái thế giới quan: + Thế giới quan huyền thoại: là thế giới quan mang tính tín ngưỡng, niềm tin đóng vai trò cơ bản. + Thế giới quan tôn giáo: là niềm tin, tín ngưỡng vào một đấng siêu nhiên cụ thể, được giải thích bởi một hệ thống giáo lí và một tổ chức chặt chẽ nên có tính vững bền. + Thế giới quan triết học: diễn tả quan niệm của con người bằng các phạm trù, qui luật theo một hệ thống chặt chẽ, nó định hướng cho con người trong quá trình hoạt động và suy nghĩ. b. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan. Về mặt bản chất, thế giới quan và triết học có cùng nội hàm, tức là những quan niệm về thế giới, về con người. Nhưng hệ thống những quan niệm của triết học được luận giải, được chứng minh một cách chặt chẽ, đặc biệt những hệ thống triết học dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên lại càng có sức thuyết phục hơn. Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo chủ yếu dựa vào niềm tin, tín ngưỡng, không cần phải chứng minh bằng tri thức khoa học. Triết học, dù theo trường phái duy vật hay trường phái duy tâm, đều có nền tảng từ khoa học tự nhiên nên những quan niệm của triết học có tính định hướng cao cho con người trong quá trình hoạt động, trong quá trình suy nghĩ. Nó là hạt nhân của thế giới quan. 4
  5. II. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM 1. Định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học. Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại[1] 2. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học, các trường phái triết học. a. Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học: Nhất nguyên luận và nhị nguyên luận trong triết học. Mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học là làm rõ giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau; cái nào quyết định, cái nào phụ thuộc. Khi giải quyết vấn đề này, triết học có hai trường phái cơ bản: nhất nguyên luận duy vật và nhất nguyên luận duy tâm, ngoài ra còn có trường phái thứ ba là nhị nguyên luận. - Trường phái nhất nguyên luận duy vật: trường phái này cho rằng vật chất tồn tại khách quan, ý thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Vật chất quyết định ý thức. Trong trường phái này, có ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. + Chủ nghĩa duy vật chất phác: hình thức duy vật sơ khai của các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Thời kì này, họ đồng nhất vật chất với một trạng thái nào đó của vật chất. Tuy còn mang tính trực quan nhưng cơ bản là đúng, vượt lên quan điểm của thần học hay tôn giáo. + Chủ nghĩa duy vật siêu hình: được thể hiện chủ yếu ở các nhà triết học duy vật thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII. Chịu ảnh hưởng của cơ học cổ điển, chủ nghĩa duy vật thời kì này chịu sự chi phối của phương pháp tư duy siêu hình - máy móc. Họ nhìn thế giới như một cổ máy khổng lồ, luôn luôn ở trong tráng thái biệt lập và [1] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.21, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, ,tr. 403. 5
  6. tĩnh tại. Mặc dù không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. + Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX; được V.I. Lênin bảo vệ và phát triển trong điều kiện lịch sử mới. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là sự kế thừa những tinh hoa của khoa học tự nhiên, của triết học, của kinh tế chính trị học, của tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng, đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình; nó trở thành công cụ cho quá trình nhận thức và hoạt động của lực lượng tiến bộ lịch sử. Triết học ra đời không phải vì có nhà nước, ví có giai cấp, nhưng những nguyên lí của triết học có thể đạt đến tri thức khoa học hay tri thức tư biện. Chính vì vậy, các giai cấp thống trị thường lợi dụng triệt để thành tựu đó của triết học để làm cơ sở lý luận cho chính sách cai trị của họ. Chủ nghĩa duy vật thường được các giai cáp thống trị tiến bộ sử dụng như một yếu tố không thể thiếu trong đời sống tinh thần của xã hội. Chủ nghĩa duy tâm thường được các giai cáp thống trị lỗi thời lợi dụng để chứng minh cho sự tồn tại hợp lí của họ. - Trường phái nhất nguyên luận duy tâm: Trường phái này cho rằng ý thức (với nhiều hình thức biểu hiện khác nhau) có trước, vật chất là sự biểu hiện cụ thể của ý thức, vật chất có sau, vật chất phụ thuộc ý thức. Trong trường phái này, có hai hình thức là: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. + Chủ nghĩa duy tâm khách quan: cho rằng tinh thần khách quan dưới các hình thức ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lí tính thế giới, v.v. có trước và tồn tại độc lập với con người. + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận ý thức con người là tính thứ nhất. Họ phủ nhận sự tồn tại của hiện thực khách quan và coi thế giới chỉ là sự sáng tạo, là phức hợp các cảm giác của con người, của cá nhân, của chủ thể. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm dưới hình thức này hay hình thức khác đều thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới bởi một lực lượng siêu nhiên. Chủ nghĩa duy tâm thường được tôn giáo sử dụng làm cơ sở lý luận để củng cố lòng tin, tín ngưỡng, mặc dù giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo có sự khác nhau căn bản. Chủ nghĩa 6
  7. duy tâm là sự tuyệt đối hoá nhận thức của con người, đồng thời là sự đề cao lao động trí óc đối với lao động chân tay. Chính vì vậy mà chủ nghĩa duy tâm thường được các giai cấp thống trị lỗi thời ủng hộ, sử dụng làm nền tảng lí luận cho những quan điểm chính trị - xã hội của mình. - Trường phái nhị nguyên luận: Quan điểm của trường phái này cho rằng có hai thực thể tồn tại khách quan, không phụ thuộc nhau, mỗi thực thể quyết định mỗi lĩnh vực. thực thể tinh thần quyết định ý thức; thực thể vật chất quyết định thế giới vật thể. Trường phái nhị nguyên luận có xu hướng điều hoà giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nhưng về bản chất chủ nghĩa nhị nguyên theo khuynh hướng duy tâm là cơ bản. b. Mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, triết học chia ra hai phái cơ bản: phái thừa nhận khả năng nhận thức và phái phủ nhận hoặc hoài nghi khả năng nhận thức. - Trường phái khả tri:. Trường phái này cho rằng, con người có khả năng nhận thức được bản chất của thế giới; khả năng này là vô hạn; chỉ có một số sự vật, hiện tượng con người chưa biết chứ nhất thiết không thể không biết. Quá trình nhận thức của con người sẽ khắc phục được hạn chế này. Quá trình đó diễn ra vô tận, vì thế mà con người có khả năng nhận thức được chân lí khách quan. - Trường phái bất khả tri: hay còn gọi là hoài nghi luận và thuyết không thết biết. Trường phái này cho rằng, con người không có khả năng nhận thức được bản chất của thế giới. Con người chỉ nhận thức được hiện tượng của thế giới, nhưng khả năng này là hữu hạn. Họ có lí vì nhận thức của con người vừa tuyệt đối vừa tương đối. Tính tương đối của nhận thức dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa hoài nghi. Hoài nghi là một trong những yếu tố để đạt đến chân lí. Nhưng chủ nghĩa hoài nghi là một trong những yếu tố kìm hãm khả năng nhận thức của con người. Thuyết không thể biết là sự cực đoan hoá tính tương đối của nhận thức. Nó triệt tiêu động lực của quá trình nhận thức, dẫn đến sự bất lực của con người trước thế giới. 3. Ý nghĩa vấn đề cơ bản của triết học: 7
  8. - Vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân biệt các trường phái triết học, nhận biết các quan điểm triết học và các nhà triết học: Trong lịch sử triết học, các nhà triết học có thể chỉ giải quyết những vấn đề riêng biệt, nhưng thực chất ở mức độ này hay mức độ khác họ đều tập trung giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy. Ngoại trừ triết học Mác, các trường phái triết học khác không thừa nhận mình là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm. Nhưng cách giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của họ là cơ sở để chúng ta phân biệt trường phái duy vật hay duy tâm. Mặt khác, không phải bất kì một nhà triết học duy vật nào cũng hoàn toàn duy vật, họ cũng có những quan niệm duy tâm, ngược lại, các nhà duy tâm cũng vậy. Do đó, khi đánh giá luận điểm nào đó là duy vật hay duy tâm phải trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Một nhà triết học duy vật hay duy tâm cũng phụ thuộc vào việc hệ thống triết học cơ bản của họ giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức. Ngày nay, triết học giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm quyết định luận, nhưng thực chất nó vẫn không vượt ra khỏi vấn đề cơ bản của triết học. - Vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học: Triết học không chỉ có vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại mà còn giải quyết những vấn đề khác của đời sống thực tiễn. Những vấn đề của nhận thức luận, nhà nước, con người, v.v. được các nhà triết học giải quyết trên cơ sở vấn đề cơ bản của triết học. III. BIỆN CHỨNG VÀ SIÊU HÌNH 1. Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. a. Đặc trưng của phương pháp siêu hình; giá trị và hạn chế của nó. Phương pháp siêu hình là một trong những phương pháp nhận thức và hoạt động của con người. Phương pháp này là quá trình tập trung trí tuệ và nguồn lực để giải quyết triệt để một vấn đề cụ thể nhằm tạo nên bước phát triển cơ bản phù hợp mục tiêu nào đó. Tư duy siêu hình là quá trình nhận thức đối tượng cô lập, tĩnh tại, không vận động, không biến đổi, không chuyển hoá. 8
  9. Phương pháp siêu hình khác với tư duy siêu hình. Tư duy siêu hình chính là “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng” h[1]. Nhưng, phương pháp siêu hình lại rất cần thiết cho quá tỷình nhận thức và hoạt động của con người. Mặc dù khả năng của con người là vô hạn, nhưng trong một thời gian và không gian cụ thể lại hữu hạn. Vì vậy, việc tập trung trí tuệ và tài lực để giải quyết một vấn đề cụ thể phù hợp mục tiêu nào đó chính là tạo nên động lực cho sự phát triển là hết sức cần thiết. Trong xây dựng kinh tế – xã hội của một quốc gia cũng không vượt khỏi qui luật đó. b. Đặc trưng của phương pháp biện chứng; tính đúng đắn, khoa học của nó. - Phương pháp biện chứng hay còn gọi là tư duy biện chứng: là phương pháp nhận thức đối tượng trong mối liên hệ, trong sự vận động, phát triển, biến đổi và chuyển hoá không ngừng. - Đặc điểm của phương pháp biện chứng: có tính mềm dẽo, linh hoạt. Trong nhận thức vừa bao hàm cái “hoặc là hoặc là ”, vừa có cái “vừa là vừa là ”; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau, vừa gắn bó nhau. Phương pháp biện chứng phản ánh phù hợp hiện thực khách quan. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới. 2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng. a. Biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời cổ đại đều trên cơ sở quan sát để đưa ra những nhận định mang tính trực quan, mô tả về sự biến hoá, sinh thành của vũ trụ. Tuy những kết luận đó không có gì sai nhưng chưa thật sâu sắc và đầy đủ, song đó là những “viên gạch” đầu tiên cho những thành tựu của phép biện chứng sau này. h[1] Sđd, t.20, tr. 37. 9
  10. b. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức. Các nhả triết học duy tâm Đức là những người có công phát triển phép biện chứng lên đỉnh cao mới. Tuy phép biện chứng được nghiên cứu trong lĩnh vực tinh thần, ý thức không liên quan đến lĩnh vực vật chất nhưng đó chính là những ý tưởng sâu sắc về biện cứng của tự nhiên, biện chứng của thế giới vật chất. c. Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập. Kế thừa những tinh hoa của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử mà trực tiếp là thành tựu của triết học cổ điển Đức, C. Mác, Ph. Ăngghen đã xây dựng và sau đó được V.I. Lênin phát triển phép biện chứng duy vật như là “khoa học về những qui luật chung nhất về sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội và của tư duy”. IV. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Vai trò thế giơi quan và phương pháp luận của Triết học. a. Vai trò thế giới quan của Triết học. Thế giới quan là hệ thống những quan niệm về thế giới. Vào thuở ban đầu của nhân loại, con người chịu ảnh hưởng của thế giới quan tôn giáo, thế giới quan thần học. Xã hội phát triển xuất hiện thế giới quan khoa học, thế giới quan triết học. Thế giới quan triết học là thế giới quan dựa trên hệ thống các quan niệm của triết học để hình thành lập trường của các cá nhân, cũng như của cộng đồng. Đó chính là thế giới quan duy vật hoặc thế giới quan duy tâm. b. Vai trò phương pháp luận của Triết học. Phương pháp luận là hệ thống những nguyên lí, những qui luật về việc xây dựng, lựa chọn và vận dụng cách thức trong quá trình hoạt động của con người. Phương pháp luận của triết học là phương pháp chung nhất dựa trên thế giới quan triết học để giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, những vấn đề chung nhất về vận động và phát triển của thế giới, về hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. 2. Vai trò của Triết học Mác-Lênin. a. Sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp trong Triết học Mác - Lênin. Vai trò của Triết học Mác - Lênin trong nhận thức và thực tiễn cách mạng. 10
  11. Triết học Mác - Lênin giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo quan niệm duy vật triệt để, tức là duy vật cả trong tự nhiên, cả trong xã hội; mặt khác, triết học Mác xem xét thế giới theo phương pháp biện chứng duy vật. Vì vậy, triết học Mác vừa là lý luận, vừa là phương pháp. Do sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp, nên hệ thống triết học Mác - Lênin trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, trở thành những nguyên tắc của phương pháp luận cải tạo thế giới. b. Triết học Mác - Lênin với các khoa học cụ thể. Các khoa học cụ thể không chỉ nghiên cứu cấu trúc, bản chất, các mối quan hệ của vật chất mà còn nghiên cứu quá trình vận động, biến đổi, phát triển, chuyển hoá của các sự vật, hiện tượng. Triết học Mác - Lênin vừa là lí luận, vừa là phương pháp về quá trình đó, nên triết học Mác - Lênin không chỉ là thế giới quan mà còn là phương pháp luận khoa học cho các khoa học cụ thể. Thành tựu của các khoa học cụ thể là cơ sở khoa học cho triết học Mác - Lênin bổ sung vào lí luận và phương pháp của mình. Nghiên cứu triết học Mác - Lênin vừa để nâng cao năng lực tư duy sáng tạo, vừa củng cố bản lính chính trị trong quá trình hoạt động thực tiễn, hoạt động cách mạng vì mục tiêu tiến bộ xã hội. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Đặc trưng của tri thức triết học? Sự biến đổi đối tượng của triết học qua các giai đoạn lịch sử? 2. Vấn đề cơ bản của triết học? Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học? 3. Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình? 4. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội? 5. Vai trò của triết học Mác - Lênin đối với hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức? Mục đích của việc học tập, nghiên cứu triết học Mác - Lênin? 11
  12. Chương II KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC PHẦN I. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI I. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI 1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại. a. Điều kiện hình thành. - Điều kiện tự nhiên. Ấn Độ cổ đại là một bán đảo lớn vùng nam châu Á, có núi cao ở phía Bắc và Tây, biển ở phía Đông và Nam. Sông Hằng chảy về phía Đông. Sông Ấn chảy về phía Tây. Sản vật tự nhiên của Ấn Độ khá phong phú và quí. - Điều kiện kinh tế-xã hội. + Ấn Độ cổ đại ra đời vào khoảng thế kỷ XXV trước công nguyên + Hình thức xã hội là “công xã nông thôn"- ruộng đất được quốc hữu hoá. + Nền kinh tế tiểu nông kết hợp với tiểu thủ công nghiệp gia đình, tính tự cung, tự cấp là nổi bật, quan hệ thương mại yếu. - Điều kiện về văn hoá. + Vào thiên niên kỉ thứ hai trước công nguyên, Ấn Độ đã có nhiều thành tựu về thiên văn học; phát minh lịch 365 ngày; giải thích được hiện tượng nguyệt thực và nhật thực; trái đất hình cầu và tự xoay quanh trục của nó; trong toán học đã 12
  13. tìm được trị số của Π, số thập phân, quan hệ giữa các cạnh huyền của tam giác vuông; trong y học đã tìm được hơn 600 loài cây chữa bệnh, châm cứu, đã có bách khoa thư thống kê 2000 căn bệnh và cách chữa trị; kiến trúc phát triển (đặc biệt là chùa xây lối hình tháp có ý nghĩa triết học, tôn giáo và ý chí quyền lực). + Nét nổi bật trong văn hoá Ấn Độ là dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng tôn giáo và văn hoá tâm linh. Tất cả những đặc điểm trên là những tiền đề làm nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại. b. Các giai đoạn hình thành và phát triển. - Nền văn minh sông Ấn (khoảng thế kỷ XXV-XV tr.c.n). + Văn minh đồ đồng mang tính chất đô thị của xã hội đã vượt qua trình độ nguyên thuỷ, đang tiến vào giai đoạn đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ, trong đó nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp đã đạt tới một trình độ nhất định. + Kinh tế bao gồm nông nghiệp, thương nghiệp. Nghề dệt bông len, đúc đồng, điêu khắc, gốm sứ tráng men, làm đồ nữ trang phát triển. Xuất hiện chữ viết (nhưng chưa giải mã được). Thành phố được xây bằng gạch nung. Xã hội đã phân chia giàu, nghèo. Thờ Thần Shiva (Si va). Đầu thiên niên kỷ II tr.c.n, nền văn minh sông Ấn lụi tàn. Các học giả chưa thống nhất nguyên nhân tan rã của nền văn minh này. - Nền văn minh Vệ đà (thế kỷ XV-VIII tr.c.n). + Bộ lạc Arya phía Bắc tràn xuống châu thổ sông Hằng. Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên của người Arya và cũng là thời kỳ rực rỡ nhất của nền văn minh Ấn Độ cổ đại. + Hình thành nhiều tôn giáo lớn, gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của Ấn Độ cổ đại. Xuất hiện chế độ đẳng cấp. Chế độ này qui định cơ cấu xã hội và có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng Ấn Độ cổ đại. + Người ta chia xã hội Ấn Độ cổ đại thành nhiều đẳng cấp, nhưng có bốn đẳng cấp chính là đẳng cấp tăng lữ, lễ sư đạo Bà la môn; đẳng cấp vương công, vua 13
  14. chúa, tướng lĩnh, võ sỹ; đẳng cấp thương nhân, điền chủ, thường dân và đẳng cấp tiện dân và nô lệ. Ngoài ra, còn có những người không được xếp vào đẳng cấp nào, đó là tầng lớp người cùng đinh, hạ đẳng. Đó là chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo, quan hệ giao tiếp, tập tục hôn nhân v.v. Tiêu biểu về mặt tư tưởng cho sự phân chia đẳng cấp xã hội là đạo Bà la môn. + Việc phân chia xã hội thành những đẳng cấp với những tính chất khắt khe, nghiệt ngã đã động chạm đến quyền lực của nông dân, thương nhân và thợ thủ công thành thị, ngăn cản sự phát triển của sức sản xuất xã hội dẫn xã hội đến sự bất bình đẳng và mất tự do gây nên cuộc đấu tranh giữa các tôn giáo chống lại sự thống trị của Đạo Bà la môn và Kinh Vệ đà. + Trong lĩnh vực tư tưởng, cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật, vô thần, chủ nghĩa hoài nghi chống uy thế của kinh Vệ đà và tín điều tôn giáo Bà la môn đã diễn ra quyết liệt ngay trong giai đoạn này. - Giai đoạn hình thành các trường phái triết học tôn giáo (thế kỷ VI-I tr.c.n). Có 6 trường phái chính thống và 3 trường phái không chính thống. c. Đặc điểm triết học. - Triết học chịu ảnh hưởng tôn giáo. + Giữa tôn giáo và triết học rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học ẩn giấu sau các lễ nghi tôn giáo, thể hiện qua các bộ kinh Vêda và Upanishad. + Các hệ thống triết học-tôn giáo đều tập trung lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan nhằm đạt tới sự đồng nhất giữa tinh thần cá nhân với tinh thần vũ trụ. - Tính kế tục trung thành các hệ thống học thuyết triết học cũ. - Có tính tư duy trừu tượng cao. 2. Các tư tưởng triết học cơ bản của các trường phái. a. Trường phái triết học Sàmkhuya. Thời sơ kỳ, Sam-khi-a có lập trường duy vật, thừa nhận vật chất là nguyên nhân tạo ra thế giới. Thời hậu kỳ, quan điểm triết học của trường phái này có khuynh hướng nhị nguyên. 14
  15. b. Trường phái triết học Mimànsa. Thời sơ kỳ có quan điểm vô thần. Thời hậu kỳ chuyển sang quan niệm duy tâm thần bí. c. Trường phái triết học Vedànta. Ve-dan-ta có nghĩa là “kết thúc Véda”, là trường phái triết học duy tâm thần bí, tuyên truyền cho sự tồn tại của Brátman, tức ý thức thuần tuý đầu tiên tạo ra thế giới. d. Trường phái triết học Yoga. Tư tưởng cốt lõi là “sự hợp nhất của tâm thể về một mối”, là trường phái triết học duy tâm thần bí có khuynh hướng lấy việc thực hiện các phương pháp luyện công trong thực tiễn để chứng minh các triết lý của mình. đ. Trường phái triết học Nyanya và Vaisésika. Đây là hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có những quan điểm triết học tương đối giống nhau. Họ cùng là tác giả của lý thuyết nguyên tử. Trong lý luận nhận thức, họ có đóng góp quan trọng trong việc phát triển các tư tưởng về lôgíc hình thức, với hình thức biện luận về quá trình nhận thức theo 5 bước (gọi là ngũ đoạn luận) nổi tiếng. e. Trường phái triết học Jaina. Nội dung triết học cơ bản của Jaina là học thuyết về “cái tương đối”, lý luận về phán đoán và thực thể tồn tại. Jaina cũng tin vào thuyết “luân hồi” và “nghiệp”. f. Trường phái triết học Lokayàta. Đây là trường phái triết học có quan điểm duy vật khá triệt để và phần nào giống với các trường phái triết học duy vật Hy Lạp cổ đại. g. Trường phái triết học Phật giáo. - Xuất hiện vào thế kỷ VI tr.c.n ở miền Bắc Ấn Độ (NêPan bây giờ). Ngư- ời sáng lập là Đức Thích Ca Màu Ni (Siddhattha) (563-483 tr.c.n, hoá Phật (Buđha) năm 483 tr.c.n khi Ngài tròn 35 tuổi). Phật giáo ra đời do sự chống đối đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp khắc nghiệt trong xã hội Ấn Độ cổ đại. - Tác phẩm kinh điển bao gồm Kinh, Tạng và Luận (Tam tạng). 15
  16. - Quan niệm về giới tự nhiên. Vũ trụ vô thuỷ, vô chung, vạn vật trong thế giới chỉ là những biến hoá vô thường, vô định không do Thần Thánh tạo nên. Thế giới không có thực thể luôn biến đổi không ngừng theo luật Nhân-Quả: Sinh-Trụ- Di-Diệt và chỉ có biến hoá này là hiện thực. - Quan niệm nhân sinh của Phật giáo gồm hai phần chính. + Phần một, chỉ ra nguyên nhân nỗi khổ của con người: Con người do Nhân, Duyên kết hợp mà thành và có hai phần là thể xác và tinh thần, hai phần đó là Cái Tôi sinh ra lý (tức là thể xác) có thể cảm giác được. Cái Tôi tinh thần, tâm lý, tức là Tâm, gọi là Danh (nâma). Cái Tôi tinh thần, tâm lý chỉ có tên gọi mà không có hình, có chất, không cảm giác được. + Phần hai, Phật giáo chủ trơng tìm kiếm mục tiêu “giải thoát”. "Tứ diệu đế" và "Thập nhị Nhân Duyên" là phương tiện để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp luân hồi và đây là triết lý nhân sinh chủ yếu của Phật giáo. Trong luận thuyết về nhân sinh và con đường giải thoát của Phật giáo mang nặng tính bi quan về cuộc sống. Chủ trương "xuất thế", "siêu thoát" có tính duy tâm, không tưởng về những vấn đề xã hội. Sau khi Phật viên tịch, Phật giáo được chia thành nhiều phái khác nhau. Trong đó, đáng chú ý có hai phái: Thượng toạ bộ (Tiểu thừa) và Đại chúng bộ (Đại thừa). Phật giáo bắt đầu suy yếu, đến khoảng thế kỷ IX sau công nguyên thì rơi vào khủng hoảng. Đến thế kỷ XII, Phật giáo hoàn toàn sụp đổ trước sự tấn công của các tôn giáo khác, đặc biệt là Hồi giáo ở Ấn Độ. 3. Một số nhận định về triết học Ấn Độ cổ, trung đại. - Hình thành từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I tr.c.n, triết học Ấn Độ cổ đại là một nền triết học có truyền thống lâu đời. Từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo, người Ấn Độ cổ đại đã sáng tạo ra nền triết học của mình, dựa trên tư duy trừu tượng, lý giải căn nguyên của vũ trụ, nhân sinh và cố gắng vạch ra bản chất đời sống tâm linh của con người. - Ngay từ khi ra đời, trong triết học Ấn Độ cổ đại đã diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa thế giới quan duy tâm, tôn giáo với tư tưởng duy vật, vô thần. Trong cuộc đấu tranh đó, các trường phái trong triết học Ấn Độ cổ đại kế thừa tư tưởng 16
  17. của nhau, tạo nên những khái niệm, phạm trù triết học, tôn giáo cơ bản, mang tính truyền thống, nhưng vô cùng phong phú, chịu sự chi phối mạnh mẽ của Kinh Vệ đà và các tôn giáo lớn của Ấn Độ cổ đại. - Triết học Ấn Độ cổ đại có nội dung tư tưởng và hình thức đa dạng, nền triết học đó phản ánh sâu sắc cuộc sống của xã hội Ấn Độ cổ đại, đề cập đến hầu như toàn bộ các lĩnh vực khác nhau của triết học: Từ bản thể luận đến nhận thức luận, từ tâm lý, đạo đức đến các quan điểm chính trị, xã hội, pháp luật dới những hình thức muôn màu, muôn vẻ. Nhưng hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại đều tập trung lý giải về bản nguyên của vạn vật, của vũ trụ, chú ý đến bản chất đời sống tâm linh, tìm căn nguyên nỗi khổ của cuộc đời, vạch ra cách thức, con đường để giải thoát con người khỏi những nỗi khổ đó. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ đại gắn liền với tôn giáo, là triết học đời sống, đạo đức nhân sinh. - Triết học Ấn Độ cổ đại được các lãnh tụ của nhân dân Ấn Độ vận dụng trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và cũng được truyền bá rộng rãi tới nhiều quốc gia trên thế giới. II. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI Trung Quốc là một trong những chiếc nôi văn minh của nhân loại, là trung tâm văn hoá và triết học cổ xa, rực rỡ, phong phú nhất của phương Đông. Sự phát sinh và phát triển của các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với quá trình biến đổi của điều kiện kinh tế-xã hội và sự phát triển của những mầm mống khoa học tự nhiên trong xã hội Trung Quốc qua từng thời kỳ. 1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ, trung đại. a. Điều kiện hình thành - Điều kiện tự nhiên: Trung Quốc cổ, trung đại là một quốc gia rộng lớn, phía Bắc có sông Hoàng Hà, khí hậu khắc nghiệt, phía Nam có sông Dương Tử, khí hậu thuận lợi, phía Tây là các dãy núi cao, phía Đông là biển. - Điều kiện kinh tế-xã hội. + Thời kỳ Xuân thu (722-475 tr.c.n) Trong thời kỳ này của lịch sử Trung Quốc, công cụ lao động và sự phân công lao động đã phát triển khá mạnh: lưỡi cày bằng sắt và dùng bò kéo cày, thuỷ nông 17
  18. cũng dần trở thành kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Chăn nuôi tách khỏi tách khỏi trồng trọt từ thời Thương-Chu theo chế độ “tỉnh điền” nay do sức sản xuất tăng, nông dân vỡ hoang tạo ra số lượng ruộng tư ngày càng nhiều, đồng thời bọn quý tộc phong kiến chiếm đoạt đất công tạo ra chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển mạnh: bên cạnh các nghề cổ truyền là sự ra đời và phát triển của các nghề mới như luyện kim, đúc, rèn sắt, nhuôm, đồ gốm v.v. + Thời kỳ Chiến quốc (475-221 tr.c.n) Thời Chiến quốc công cụ lao động và sự phân công lao động phát triển mạnh hơn. Nghề luyện sắt hưng thịnh, phần vì nhu cầu của chiến tranh, phần vì năng suất và hiệu quả lao động được nâng cao nhờ sử dụng công cụ lao động bằng sắt. Buôn bán phát triển tạo nên những đô thị và các làng trên các bờ sông được sử dụng làm đường giao thông. Các nghề thủ công như đồ gốm, nghề chạm bạc, ươm tơ, dệt lụa và tiền bằng kim loại ra đời. Thuỷ lợi và các kỹ thuật canh tác nông nghiệp càng phát triển, các công trình thuỷ lợi được xây dựng nhiều tại các lưu vực sông Hoàng Hà đến Trường Giang. Chế độ tự do mua, bán ruộng đất đã làm cho bọn quý tộc phong kiến, thương nhân giàu có trở thành những địa chủ lớn, thuê mướn nông dân và phát canh, thu tô. Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần chiếm ưu thế trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn này của lịch sử Trung Quốc, tồn tại sáu trường phái triết học chính (Nho gia, Mặc gia, Lão giáo, Danh gia, Âm Dương gia và Pháp gia). Trong giai đoạn đầy biến động đó của lịch sử Trung Quốc cổ đại, một loạt những vấn đề về tư tưởng đã đặt ra cho các nhà tư tưởng lớn. Sự phức tạp của xã hội làm nẩy sinh sự đa dạng của những tư tưởng triết học Trung Quốc thời kỳ này. Các tư tưởng triết học của nhiều trường phái khác nhau đã đấu tranh với nhau hết sức quyết liệt tạo nên không khí sôi động trong đời sống tinh thần của xã hội Trung Quốc cổ đại. - Điều kiện về văn hoá. Triết học Trung Quốc cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I tr.c.n và phát triển rực rỡ ở thời Xuân thu-Chiến quốc. 18
  19. Người ta thường chia lịch sử tư tưởng Trung Quốc thành hai giai đoạn chính. - Giai đoạn thứ nhất- Giai đoạn Thương-Chu (1766-256 tr.c.n). Ở thời kỳ này, những tư tưởng triết học đầu tiên đã xuất hiện, chỉ mới ở mức độ sơ khai và còn chịu ảnh hưởng bởi thế giới quan thần thoại và tôn giáo. - Giai đoạn thứ hai - Giai đoạn Xuân Thu-Chiến Quốc (722-221 tr.c.n). Đây là thời kỳ chế độ nô lệ ở Trung Quốc cổ đại đã phát triển tới đỉnh cao, các mâu thuẫn của một xã hội có các giai cấp đối kháng bộc lộ ngày càng sâu sắc. Về mặt tư tưởng, thời kỳ này các trường phái triết học bắt đầu xuất hiện phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp cùng các mâu thuẫn xã hội đang ngày càng gay gắt trong xã hội đư- ơng thời. Trong giai đoạn này xuất hiện 6 trường phái triết học chủ yếu là Nho gia (Nho giáo), Đạo gia (Lão giáo), Mặc gia, Pháp gia, Danh gia và Âm Dương gia. b. Đặc điểm tư tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại - Nhấn mạnh tinh thần nhân văn. - Triết học của nền chính trị đạo đức. - Nhấn mạnh sự hài hoà giữa tự nhiên và xã hội. - Nền tư duy trực giác. 2. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ, trung đại a. Thuyết Âm Dương, Ngũ hành. - Tư tưởng triết học về Âm-Dương: Trong triết học Trung Quốc cổ đại, quan niệm Âm-Dương đã có từ thời Thương (1766-1122 tr.c.n), xuất phát từ Kinh Dịch cổ. + Ban đầu, Âm biểu tượng chỗ không có ánh sáng Mặt Trời, Dương biểu hiện chỗ có ánh Mặt Trời. Sau đó Âm có nghĩa là đêm, lạnh, giống cái, yếu, suy, tiểu nhân, số chẵn, vạch đứt - - v.v., Dương có nghĩa là ngày, ấm, giống đực, mạnh, thịnh, quân tử, số lẻ, vạch liền __ v.v. + Hai thế lực Âm, Dương không tồn tại biệt lập mà quan hệ với nhau theo các nguyên lý sau: * Âm-Dương thống nhất thành Thái cực: Tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Tư tưởng về sự thống nhất và bất biến và biến đổi. * Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm: Khả năng biến đổi của Âm- Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực. 19
  20. + Từ một sự vật được gọi là Thái cực sinh ra Âm, Dương (gọi là Lưỡng nghi), rồi từ Lưỡng nghi sinh ra Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương (gọi là Tứ tượng, tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng, hành tinh), Tứ tượng sinh ra Bát quái [Càn (Trời, giống đực), Ly (Lửa, sáng), Cấn (Núi, tĩnh, an), Tốn (Gió, vào) {thuộc Dương} và Khôn (Đất, giống cái), Khảm (Nước, hiểm trở), Đoài (Đầm, vui vẻ), Chấn (Sấm, động){thuộc Âm}], Bát quái sinh ra Trùng quái (64 quẻ). Mỗi quẻ lại có 6 hào). Như vậy, 64 quẻ x 6 hào = 384 hào, tạm đủ để giải thích nhiều sự vật, hiện tượng trong Trời, Đất. - Tư tưởng triết học về Ngũ hành. Trong triết học Trung Quốc cổ đại, quan niệm Ngũ Hành ra đời bởi chỉ riêng 384 hào của Thuyết Âm-Dương vẫn không đủ giải thích mọi sự biến thiên phức tạp của vạn vật. + Năm "Hành" được định sẵn cùng với năm cặp số "sinh-thành" ra chúng, có vị trí "tiên thiên" qui định: Thuỷ (số 1,6; phía Bắc, mùa Đông, màu Đen), Hoả (số 2,7; phía Nam, mùa Hè, màu Đỏ), Mộc (số 3,8; phía Đông, mùa Xuân ), Kim (số 4,9; phía Tây, mùa Thu, màu trắng), Thổ (số 5,10; Trung tâm, giao thời giữa bốn mùa, màu vàng,). + Năm "Hành" đó tương tác lẫn nhau và tuân theo cơ chế hai chiều đối xứng Âm-Dương, tức cơ chế "tương sinh, tương khắc", trong đó, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ: Đây là quá trình các Hành tác động, chuyển hoá lẫn nhau, tạo ra sự biến đổi trong vạn vật. Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ: Đây là quá trình các Hành ràng buộc, qui định lẫn nhau. b. Nho gia. - Những người sáng lập. Khổng Tử (551-479 tr.c.n). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia được Mạnh Tử (372-289 tr.c.n) và Tuân Tử (315-230 tr.c.n) hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau là duy tâm và duy vật. Trong đó, Nho gia dòng Khổng-Mạnh có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và các nước lân cận. - Kinh điển của Nho gia: Tứ thư và Ngũ kinh. 20
  21. - Nho gia được lưu truyền ở Việt Nam từ trước đến nay là tư tưởng Khổng-Mạnh với cách giải thích của Trình-Chu (Trình Hạo 1032-1085, Trình Di 1033-1107, Chu Hy 1130-1200, đời nhà Tống). - Tư tưởng về vũ trụ và giới tự nhiên. Xuất phát từ tư tưởng của Kinh Dịch, Khổng Tử cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong Trời Đất luôn sinh thành, biến hoá không ngừng theo “Đạo”, “Thiên lý” của nó. Nguồn gốc của sự vận động đó bắt nguồn từ sự tương tác giữa Âm-Dương trong một thể thống nhất mà ông gọi là Thái cực, còn Đạo, Thiên lý là lực vô hình giữ cho Âm-Dương, Trời-Đất trung hoà để vạn vật sinh, hoá không ngừng. Đạo, Thiên lý là vô hình, lưu hành khắp vũ trụ, quy định cuộc sống của vạn vật (trong đó có con người) nên Khổng Tử gọi Đạo, Thiên lý là “Thiên mệnh” và cho rằng Trời có ý chí, làm chủ vũ trụ, chi phối mọi sự vận động của mọi sự vật, hiện tượng cho điều hoà. - Học thuyết về đạo đức. Dựa trên quan niệm “Thiên Nhân tương đồng” của mình, Khổng Tử xây dựng những nguyên tắc đạo đức căn bản nhất với các khái niệm như: Nhân, Lễ, Trí, Dũng, v.v. và hệ thống quan niệm về chính trị-xã hội như: Nhân trị, Chính danh, Thượng hiền, Quân tử, Tiểu nhân v.v. trong đó chữ Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người và các mối quan hệ giữa con người với nhau, từ gia đình đến xã hội, không những thế, Nhân còn có quan hệ với các khái niệm khác trong hệ thống triết lý nhân sinh của Khổng Tử. Nhân là nguyên lý đạo đức cơ bản của ông bởi vì sống đúng với mình và sống phải với mọi người là người có Nhân, mặt khác, do sự thúc bách của thời Xuân Thu- là thời kỳ mà lịch sử đặt ra là phải ổn định xã hội đương thời nên Khổng Tử chủ trơng dùng Nhân, Đức để giáo hoá con người, ổn định xã hội. - Học thuyết về chính trị-xã hội. + Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là nền tảng của xã hội. Trong đó quan hệ quan trọng nhất là quan hệ Tam cương (vua-tôi, cha-con, chồng- vợ). Vua ở vị trí cao nhất. Vua-cha-chồng là chủ. 21
  22. + Nho gia xuất hiện và phát triển trong giai đoạn xã hội đang chuyển dần sang chế độ phong kiến, chiến tranh liên miên nên lý tưởng về một xã hội có trật tự, xác định rõ ràng địa vị và thân phận của mọi thành viên trong xã hội đáp ứng được yêu cầu của tầng lớp quí tộc thị tộc cũ cũng như cả với giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn dần. + Lấy giáo dục đạo đức con người làm phương thức chủ yếu đạt tới xã hội lý tưởng. + Học thuyết Tính thiện cho rằng, bản tính con người vốn là thiện, nhưng Nho gia chia xã hội thành các đẳng cấp quân tử và tiểu nhân. Những tư tưởng triết học của Đức Khổng luôn thâm nhập vào mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội và luôn cố gắng giải đáp những vấn đề mà lịch sử đặt ra và đây có lẽ là thành quả rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh của ông. Ngày nay, những nguyên tắc đạo đức mà ông đã giảng dạy cho học trò vẫn còn nguyên giá trị, bởi vậy, nhân dân Trung Quốc suy tôn ông là Vạn thế sư biểu (người thầy của muôn đời). Ở Việt Nam, Khổng Tử và các tư tưởng của ông cũng được suy tôn. Ngũ Kinh của ông luôn là các đề thi của các triều đại phong kiến Việt Nam để chọn hiền tài, thậm chí chữ Hán còn được gọi là chữ Nho; Đức Khổng và 72 vị học trò thành đạt của ông được tôn thờ ở Văn Miếu, Hà Nội. c. Đạo gia. - Những người sáng lập. Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr.c.n), kế thừa và hoàn thiện là Dương Chu và Trang Chu. - Quan niệm về Đạo: Quy luật biến hoá của tự nhiên được gọi là Đạo. Đạo là nguồn gốc hình thành của vạn vật và vạn vật hình thành, tồn tại và phát triển theo Đạo. Đạo là thực thể vật chất của khối "hỗn độn", "mập mờ". "thấp thoáng", không có đặc tính, không có hình thể, không nghe thấy, không bắt được. Đạo có trước cả Trời Đất, Đạo là cái mà từ đó vạn vật có danh tính, có hình thể sinh ra. - Tư tưởng biện chứng. Lão Tử cho rằng, toàn thể thế giới bị chi phối bởi hai luật phổ biến là luật quân bình và luật phản phản phục, trong đó luật quân bình luôn giữ cho sự vận động của các sự vật, hiện tượng được cân bằng theo một trật tự điều hoà trong tự 22
  23. nhiên, không có gì thái quá, không có gì bất cập. Luật phản phục nói rằng, cái gì phát triển tột độ thì sẽ trở thành cái đối lập với nó. Ngoài ra, phản phục còn có nghĩa là trở về với đạo tự nhiên, Vô Vi, tức là trở về với cái gốc của mình. Trong Đạo Đức Kinh còn có những tư tưởng biện chứng trực quan của Lão Tử, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập vừa xung khắc nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau. - Quan điểm về đời sống xã hội (Thuyết Vô vi). Thuyết vô vi là sự mở rộng quan niệm về Đạo sang lĩnh vực xã hội. + Trong tư tưởng triết học của Lão Tử, Vô Vi nghĩa là sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên. Vô Vi còn có nghĩa là bảo vệ, giữ gìn bản tính tự nhiên của mình và của vạn vật. + Trong đời sống xã hội và phép trị nước, Lão Tử chủ trương bỏ hết những gì trái với tự nhiên, vượt quá khả năng, bản tính và nhu cầu tự nhiên, cần thiết của con người. Nghĩa là trị nước theo đạo "Vô Vi", đưa xã hội và cuộc sống của con người theo bản tính, khả năng, sở thích mà mọi người tự làm những việc mà mỗi người cần phải làm một cách tự nhiên. Tư tưởng về "Đạo" cũng như những tư tưởng biện chứng trong đó cùng với học thuyết "Vô Vi" trong xã hội của Lão Tử là những tư tưởng sâu sắc và độc đáo có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của tư tưởng triết học phương Đông nói chung và triết học Trung Quốc nói riêng. d. Mặc gia. - Những người sáng lập. Mặc Tử (khoảng 479-381 tr.c.n). Tác phẩm chính là cuốn Mặc Tử gồm 53 chương. - Các tư tưởng triết học chủ yếu. + Quan điểm về tự nhiên, Mặc gia có xu hướng duy vật tự phát khi bác bỏ thuyết “Thiên mệnh” của Nho gia. + Nhận thức luận Mặc gia theo quan điểm kinh nghiệm luận. + Chính trị xã hội, Mặc gia đưa ra thuyết “Kiêm ái”, một chủ thuyết chính trị-xã hội mang nặng tư tưởng tiểu nông. e. Pháp gia. 23
  24. - Những người sáng lập. Hàn Phi Tử (khoảng 280-233 tr.c.n). Các nhà tư tưởng sơ khai của phái này là Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng. - Các tư tưởng triết học chủ yếu. + Pháp gia chú trọng vào những tư tưởng chính trị - xã hội và đề cao phép trị nước bằng pháp luật với các tư tưởng Pháp, Thuật và Thế khi dựa vào các tư tưởng triết học chủ yếu sau: + Thừa nhận tính khách quan của quyền lực, gọi là “Lý” và cho rằng đó là cái chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. + Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội mà động lực thúc đẩy xã hội là do sự thay đổi của dân số. + Chủ thuyết về tính người là ác. Trên cơ sở đó, Pháp gia nêu lên thuyết “pháp trị”. Các tư tưởng của Pháp gia đại diện cho tầng lớp địa chủ mới nổi dậy chống lại nền chuyên chính quân chủ đương thời. 3. Một số nhận định về triết học Trung Quốc cổ, trung đại. - Triết học Trung Quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời, hình thành từ cuối thiên niên kỷ I tr.c.n. Đó là kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của những quan điểm về tự nhiên, xã hội và quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh. - Triết học Trung Quốc cổ đại nảy sinh, phát triển trong thời kỳ xã hội Trung Quốc có những biến động lịch sử sâu sắc, do vậy, triết học Trung Quốc cổ đại là một nền triết học phong phú với các tính chất và các khuynh hướng đa dạng, đề cập tới hầu hết các lĩnh vực khác nhau của triết học, trong đó vấn đề chính trị-xã hội, đạo đức luân lý được các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại chú ý quan tâm nghiên cứu nhiều nhất. - Các quan điểm, tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại thường dùng châm ngôn, ngụ ngôn, ẩn ngữ có tính hình tượng, ẩn dụ để diễn đạt tư tưởng của mình. Đó là cách diễn đạt "đạt ý quên lời", "ý ở ngoài lời", mở ra sự suy ngẫm thì sức gợi ý của chúng càng thấm sâu hơn. Châm ngôn, ngụ ngôn, ẩn ngữ thì không thể khúc chiết, mạch lạc, nhưng bù lại hạn chế đó, sức mạnh và tính chất sâu xa của tư tưởng triết học đó là sự gợi ý thâm trầm, sâu rộng dường như vô biên của chúng. 24
  25. PHẦN II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TÂY ÂU TRƯỚC MÁC I. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI. "Từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”[1] 1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại. a. Điều kiện hình thành. - Điều kiện tự nhiên. Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn bao gồm miền Nam bán đảo Ban căng thuộc châu Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êgie và cả miền ven biển của bán đảo Tiểu Á. Điều kiện địa lý thuận lợi giúp các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển rất sớm. - Điều kiện kinh tế-xã hội. + Xã hội Hy Lạp cổ đại tồn tại và phát triển trong sáu thế kỷ (từ thế kỷ VIII đến thế kỷ III tr.c.n), còn từ thế kỷ XV đến thế kỷ IX tr.c.n, chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã và hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Đây là thời kỳ xẩy ra nhiều biến động lớn về kinh tế và thể chế xã hội, những biến động này được ghi lại trong hai tập thơ nổi tiếng Iliát và Ôđixê của nhà thơ Hôme. + Các thành thị ra đời và tồn tại như những quốc gia độc lập (có đến 300 quốc gia). Đến thế kỷ VI-IV tr.c.n xuất hiện hai trung tâm kinh tế-chính trị điển hình là thành bang Aten (trung Hy Lạp) và thành bang Spác (vùng bình nguyên Iacôni). Cuộc chiến tranh giành bá chủ Hy Lạp giữa hai thành bang này trong nhiều năm làm Hy Lạp suy yếu. Đến thế kỷ II tr.c.n, Hy Lạp bị La Mã chinh phục. - Điều kiện về văn hoá. [1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hànội, 1994. t .20, tr. 491. 25
  26. + Một số ngành khoa học ở Hy Lạp cổ đại như toán học, vật lý học, thiên văn học, thuỷ văn học v.v. bắt đầu phát triển. Những khoa học này ra đời đòi hỏi sự khái quát của triết học. Tuy vậy, tư duy triết học thời kỳ này chưa đạt tới mức phát triển cao, tri thức triết học và tri thức khoa học cụ thể thường hoà trộn vào nhau, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật lý, thiên văn học v.v. như vậy, ngay từ khi ra đời, triết học HyLạp đã gắn với nhu cầu thực tiễn và gắn liền với khoa học và là "khoa học của mọi khoa học". + Sự giao lưu giữa Hy Lạp với các nước phương Đông như Ai Cập, Babilon, Ả rập v.v. làm cho các tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại chịu ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại. Có thể nói, triết học phương Đông, trước hết là triết học Ai Cập, Babilon là một trong những tiền đề của triết học Hy Lạp cổ đại. + Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện và phát triển vào thế kỷ thứ IV- V tr.c.n, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp giữa phái dân chủ thuộc tầng lớp tự do (bao gồm cả chủ nô dân chủ tiến bộ) của thành bang Aten với phái chủ nô quí tộc phản động của thành bang Spác. b. Đặc điểm triết học. - Tư tưởng về vũ trụ quan. + Triết học Hy lạp cổ đại phát triển rực rỡ vào thế kỷ thứ VI tr.c.n. Những nhà triết học duy vật đầu tiên là những người thuộc trường phái Milê (Talét 624-547 tr.c.n, Anaximăng 610-546 tr.c.n, Anaximen 588-525 tr.c.n). Các nhà duy vật thuộc trường phái này, tuy mỗi người lấy một thứ cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại, như nước, apâyrôn (nguyên thể vô định), không khí, nhưng họ đều có chung quan điểm duy vật, là những nhà triết học tiến bộ, dân chủ, đại diện cho quyền lợi cho tầng lớp thương nhân trong giai cấp chủ nô quí tộc. + Cơ sở kinh tế của triết học Hy Lạp cổ đại là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Xã hội phân chia thành giai cấp, đã có sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Xuất hiện tri thức triết học và khoa học, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và hàng hải quyết 26
  27. định sự phát sinh và phát triển của những tri thức khoa học tự nhiên được trình bày trong hệ thống triết học - tự nhiên của các nhà triết học cổ đại. Nội dung cơ bản của triết học Hy lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật Đêmôcrít, Êpiquya (cơ sở lý luận cho hoạt động của tầng lớp tiên tiến trong giai cấp chủ nô) và chủ nghĩa duy tâm của Xôcrát, Platôn đại diện cho phái chủ nô quí tộc. - Tư tưởng về nhân sinh quan. Triết học phản ánh các mâu thuẫn gay gắt giữa tầng lớp chủ nô quý tộc và tầng lớp chủ nô dân chủ. - Nhận thức luận. Triết học Hy Lạp theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy giác. - Tư tưởng về phép biện chứng. Sự ra đời rất sớm của chủ nghĩa duy vật thô sơ và phép biện chứng tự phát. - Tư tưởng về chính trị-xã hội. 2. Một số nhà triết học tiêu biểu. a. Hêraclít (520-460 tr.c.n, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng). - Cuộc đời. Là nhà biện chứng nổi tiếng, xuất thân từ tầng lớp chủ nô, quý tộc, nhưng bản thân nghèo khổ và đơn độc. Về cuối đời thường sống trong các túp lều trên núi cao. - Quan niệm về thế giới. + Không dừng lại ở sự thông thái, hiểu biết nhiều, Hêraclít coi sự quan trọng trong phương châm nghiên cứu của mình là phải nắm được bản chất, qui luật (lôgốt- logos) của sự vật, hiện tượng . + Hêraclít cho rằng, Lửa là bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên. Các dạng vật chất đều được sinh ra từ lửa: dưới tác động của dạng lửa, đất trở thành nước, nước trở thành không khí v.v. và ngược lại. Tuỳ theo độ lửa mà mọi vật chuyển từ dạng này sang dạng khác theo hai hướng: lửa - đất (thể rắn) - nước (thể lỏng) - không khí (thể hơi) là con dường đi lên, theo chiều ngược lại là đi xuống. Vũ trụ cũng là ngọn lửa vĩnh cửu không ngừng bừng cháy và tàn lụi. Lửa không những sản sinh ra các sự vật vật chất, mà còn sinh ra cả những hiện tượng tinh thần, kể cả linh hồn con người. 27
  28. - Nhận thức luận và nhân bản học. + Theo đánh giá của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hêraclít là người sáng lập ra, xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật. Phép biện chứng của ông được thể hiện trong các quan điểm sau: * Quan niệm về sự vận động vĩnh viễn của vật chất. Tính thống nhất của thế giới. Trong thế giới, không có sự vật, hiện tượng nào đứng im tuyệt đối, trái lại, tất cả đều nằm trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại, trong đó lửa là nguyên nhân chính của sự vận động không ngừng đó "chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông". Tính thống nhất của vũ trụ là Lửa. * Quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng được thể hiện trong những phỏng đoán của Hêraclít về vai trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về "sự trao đổi của những mặt đối lập", về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập. * Quan điểm về nguyên nhân của sự vận động. Nguyên nhân của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là do logos (bản chất, qui luật khách quan qui định). Có hai loại logos: Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi sự vật đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan. Người nào càng tiếp cận được nhiều logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. + Nhận thức luận của Hêraclít mang tính duy vật và biện chứng sơ khai. + Nhận thức bắt đầu từ cảm giác, không có cảm giác thì không có bất kỳ nhận thức nào, "mắt, tai là người thầy tốt nhất, nhưng mắt là yếu tố chính xác hơn tai". Tuy vậy, ông không tuyệt đối hoá giai đoạn nhận thức cảm tính vì "thị giác thường bị lừa dối vì "tự nhiên thích giấu mình" nên khó nhận thức. + Nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt tới sự nhận thức "logos" (bản chất, qui luật) của sự vật, hiện tượng . + Nhận thức có tính tơng đối: tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện mà thiện-ác, xấu-tốt, lợi-hại chuyển hoá cho nhau. 28
  29. b. Đêmôcrít (460-370 tr.c.n, Thuyết nguyên tử). - Cuộc đời. Ông là học trò giỏi của Lơxíp (500-440 tr.c.n, người đầu tiên nêu lên thuyết nguyên tử), hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực và đã viết khoảng 70 tác phẩm về các lĩnh vực đó. Theo đánh giá của các nhà kinh điển triết học Mác-Lênin thì ông là bộ óc bách khoa đầu tiên trong số những người Hy Lạp, là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại. - Quan niệm về thế giới. Thuyết nguyên tử là điểm nổi bật nhất trong triết học duy vật của Đêmôcrít. Thuyết này được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về "tồn tại" và "không tồn tại". + "Tồn tại" là cái được xác định, cái đa dạng, cái có ngoại hình. + Đối lập với cái "tồn tại" là cái "không tồn tại", hay là cái "trống rỗng". Cái "không tồn tại" là cái không xác định, cái vô hình, bất động vô hạn, "không tồn tại" không có ảnh hưởng gì đến những vật nằm trong nó, nhờ nó mà các vật thể có thể vận động được. + Tính chất của nguyên tử. Nguyên tử là hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không phân chia được, không mùi vị, không âm thanh, không màu sắc, không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình thức, trật tự sắp xếp và tư thế. Nguyên tử là cơ sở cấu tạo nên mọi sự vật, hiện tượng . Các sự vật là do các nguyên tử liên kết hợp lại với nhau tạo nên. Sự kết hợp đó không phải là tuỳ tiện, ngẫu nhiên mà là sự kết hợp theo trật tự, giống như bảng chữ cái, từ đó thực hiện sự kết hợp theo thứ tự nhất định thành các từ, nguyên tử cũng khác nhau về tư thế giống như tư thế chữ cái: Nếu N ở tư thế đứng thì đó là chữ cái N, nhưng nếu ở tư thế nằm ngang thì đọc là chữ Z. + Sở dĩ trong thế giới của chúng ta có các sự vật, hiện tượng khác nhau là do nguyên tử được cấu tạo theo những hình thức khác nhau, sắp xếp kế tiếp nhau theo những trật tự khác nhau, được xoay đặt ở những tư thế khác nhau.Tính đa dạng của nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các sự vật. Nguyên tử tự thân không vận động, nhưng khi chúng kết hợp với nhau tạo thành các sự vật thì làm cho sự vật vận động không ngừng. Mọi biến đổi của sự vật thực chất là sự thay 29
  30. đổi trình tự sắp xếp của các nguyên tử tạo nên chúng, còn bản thân nguyên tử- vì là hạt vật chất nhỏ nhất- nên không thay đổi gì cả. - Nhận thức luận. Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức duy vật lên một bước mới. Khác với nhiều nhà triết học trước đó phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã chia nhận thức thành hai dạng: + Dạng nhận thức mờ tối là dạng nhận thức cảm tính, do các giác quan đưa lại, dạng nhận thức theo "dư luận chung", nghĩa là những cảm giác như mùi vị, màu sắc, âm thanh v.v. là những cảm giác phổ biến mà mọi người đều cảm nhận được một cách dễ dàng khi nhận thức. Nhận thức cảm tính là nhận thức chân thực nhưng còn mờ tối vì chưa nhận thức được cái bên trong, cái sâu kín của sự vật. + Dạng nhận thức chân lý là dạng nhận thức thông qua những phán đoán lôgíc, đó là dạng nhận thức được bản chất của sự vật, vì nó chỉ ra được cái khởi nguyên của thế giới là nguyên tử, chỉ ra được tính đa dạng của thế giới là do sự sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. + Khái niệm "hình tượng " trong lý luận nhận thức của Đêmôcrít. Khái niệm "hình tượng " hay còn gọi là "Iđôlơ" (C.Mác đã giải thích "Iđôlơ" là cái vỏ hình thức của vật thể đã bị tách ra khỏi vật thể). Hình thức đó bắt nguồn từ vật thể rồi thâm nhập vào cảm quan và được ước lệ thành hình tượng của khách thể. "Iđôlơ" đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong lý luận nhận thức của Đê- mô-crít. Những "Iđôlơ" hay "hình tượng " cảm tính là tiền đề, là tài liệu để lý tính nhận thức chân lý, tuy rằng nhận thức chân lý là là khó khăn vì "thực ra chúng ta không biết gì hết, vì rằng chân lý ở sâu kín". - Quan điểm về chính trị-xã hội. + Quan điểm của Đêmôcrít về xã hội dựa trên lập trường của giai cấp chủ nô dân chủ, đấu tranh chống lại bọn chủ nô quí tộc để bảo vệ chế độ mà quyền lợi gắn liền với sự phát triển của thương mại và nghề thủ công, ca ngợi tình thân ái, tính ôn hoà, ca ngợi quyền lợi chung của công dân tự do. Do xuất thân từ 30
  31. tầng lớp chủ nô, ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô, của công dân tự do, còn bản thân nô lệ thì ông khuyên cần biết tuân theo người chủ. + Nhà nước cộng hoà dân cử là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô. nhà nước có vai trò duy trì trật tự, điều hành mọi hoạt động trong xã hội, trừng phạt nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức. Hoạt động chính trị, quản lý nhà nước là nghệ thuật cao nhất đem lại vinh dự và vinh quang cho con người, làm cho con người sống hạnh phúc, được tự do. Nhưng tự do, hạnh phúc mà Đêmôcrít đề cập chỉ dành cho chủ nô chứ không phải dành cho tất cả các thành viên của xã hội. c. Platôn (427-347 tr.c.n, duy tâm khách quan). - Cuộc đời. Là nhà triết học duy tâm khách quan. Tên thật là Aristôcle, học trò của Xôcrát. Năm 387 tr.c.n mở Viện hàn lâm ở Aten- đây là trường Đại học Tổng hợp đầu tiên ở châu Âu. - Quan niệm về thế giới. Học thuyết về ý niệm. Trong học thuyết này Platôn đưa ra quan niệm về hai thế giới: thế giới của các sự vật cảm tính và thế giới của những ý niệm. + Thế giới của những ý niệm (khái niệm) là thế giới của cái phi cảm tính, phi vật thể, là thế giới tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối, là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Thế giới ý niệm có trước và sinh ra thế giới các sự vật cảm biết. + Các ý niệm là các khái niệm, tri thức đã được khách quan hoá. Chúng không được sinh ra hay mất đi từ một cái gì đó mà tồn tại như thế từ xưa đến nay. Vì vậy, tồn tại (thế giới của các ý niệm) là vĩnh viễn, bất biến và luôn đồng nhất với chính bản thân mình, không phân chia được, cách biệt khỏi thế giới các sự vật cảm tính và chỉ được nhận thức duy nhất bằng lý tính. Các ý niệm (tồn tại) là tổng thể của nhiều ý niệm khác nhau như ý niệm đạo đức, thẩm mỹ, khoa học v.v. + Thế giới của các ý niệm, chủ yếu mang tính đạo đức, nó không chỉ đối lập với thế giới hiện thực, mà còn thể hiện như sự đối lập giữa cái thiện với cái 31
  32. ác. Trong số tất cả các ý niệm thì ý niệm phúc lợi là tối cao nhất. Nó là ý niệm của các ý niệm. + Thế giới các sự vật cảm tính: Là thế giới tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm (vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, luôn thay đổi, vận động, trong chúng không có gì ổn định bền vững, hoàn thiện). Thế giới các sự vật cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm, do các ý niệm sản sinh ra. - Nhận thức luận. + Lý luận nhận thức của Platôn cũng mang tính duy tâm. Ông cho rằng, tri thức là cái có trước các sự vật cảm tính mà không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận thức các sự vật đó. Những ý kiến xác thực được khơi dậy, được hồi tưởng lại nhờ các câu đối thoại giữa loài người thì sẽ trở thành tri thức. Cách đối thoại như vậy được Platôn gọi là phương pháp biện chứng. + Nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính vì linh hồn trước khi nhập vào thể xác con người dưới trần thế thì ở thế giới bên kia đã có sẵn các tri thức. Do vậy, nhận thức của con người chỉ là quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã bị lãng quyên trong quá khứ chứ không phải là sự phản ánh các sự vật của thế giới khách quan. + Dựa vào cơ sở trên đây Platôn chia tri thức thành hai loại: * Tri thức hoàn toàn đúng đắn, tin cậy. Là tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn trước khi nhập vào thể xác và có được nhờ sự hồi tưởng. * Tri thức mờ nhạt. Là tri thức lẫn lộn đúng-sai, tri thức có được nhờ vào nhận thức cảm tính, ở đây không có chân lý. - Quan điểm về chính trị-xã hội. Những quan niệm về xã hội được thể hiện trong quan niệm về nhà nước lý tưởng. + Ông phê phán ba hình thức nhà nước đã tồn tại trong lịch sử và coi đó là những hình thức xấu. Đó là nhà nước của bọn Vua chúa được xây dựng trên khát vọng giàu có và danh vọng dẫn tới sự cướp đoạt. Nhà nước quân phiệt là nhà nước của số ít kẻ giàu có áp bức số đông, nhà nước đối lập giữa giàu và nghèo đưa tới cái ác. Nhà nước dân chủ, quyền lực thuộc về số đông, sự đối lập giàu nghèo trong nhà nước này hết sức gay gắt cho nên đó là nhà nước tồi tệ. 32
  33. + Khi phê phán các hình thức trên của nhà nước, Platôn đưa ra "nhà nước lý tưởng" của mình. Trong nhà nước này có ba lớp người làm các công việc khác nhau. Tầng lớp các nhà thông thái, các nhà triết học làm chính trị, điều hành xã hội. Tầng lớp vệ quân thực hiện các công việc của chiến tranh. Tầng lớp thấp nhất trong xã hội là nông dân, thợ thủ công và thương nhân làm các việc đồng ruộng, thủ công và buôn bán. Sự tồn tại và phát triển của "nhà nước lý tưởng" dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, của sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết mâu thuẫn giữa các nhu cầu xã hội. + Để khắc phục sự phân chia giàu, nghèo thì cần xoá bỏ gia đình và sở hữu. Trẻ em sinh ra được đưa về nuôi dưỡng trong các cơ quan giáo dục, lựa chọn những đứa trẻ khoẻ mạnh rèn luyện và đưa vào vệ quân. Các nhà thông thái và triết học được lựa chọn trong số vệ quân đó. Sự vinh quang của nhà nước phụ thuộc vào các phẩm chất như sự thông thái, dũng cảm, chính nghĩa và phong độ duy trì các chuẩn mực xã hội, trong đó sự thông thái là tri thức cao nhất và là niềm vinh quang riêng của các nhà triết học. d. Arítxtốt (384-322 tr.c.n, dao động giữa duy tâm và duy vật). - Cuộc đời. + Là nhà triết học lớn nhất, bộ óc bách khoa của triết học Hy Lạp cổ đại, học trò của Platôn, thầy giáo (từ năm 343/342 đến 340 tr.c.n) của Hoàng tử Alecxanđrơ con Vua Philíp xứ Maxêđoan. Đến năm 340 tr.c.n Arítxtốt trở về Aten xây dựng trường phái triết học của mình. + Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin coi Arítxtốt là bộ óc bách khoa nhất trong số các nhà tư tưởng HyLạp cổ đại. Triết học của ông cùng với triết học của Đêmôcrít và Platôn làm nên giai đoạn phát triển cực thịnh của triết học Hy Lạp. - Các tác phẩm kinh điển: + Ông đã để lại cho nhân loại nhiều công trình khoa học thuộc nhiều lĩnh vực: Lôgíc học, được trình bày trong tác phẩm "Oóc ga nôn". Triết học, trong tác phẩm "Siêu hình học". Những công trình về khoa học tự nhiên được trình bày 33
  34. trong tác phẩm 'Vật lý học". Những công trình về khoa học xã hội được trình bày trong các tác phẩm "Đạo đức học", "Chính trị học", "Thi ca học" v.v. - Quan niệm về thế giới. + Quan điểm về thế giới của Arítxtốt được thể hiện trong "Học thuyết về tồn tại". Tồn tại nói chung xuất phát từ bốn nguyên nhân cơ bản: Nguyên nhân vật chất. Nguyên nhân hình dạng. Nguyên nhân vận động. Nguyên nhân mục đích. Theo Arítxtốt, vật chất và hình dạng là cái mà từ đó tạo thành sự vật. Vật chất là "vật liệu" gia nhập vào thành phần của sự vật để từ đó sự vật phát sinh, giống như đồng đối với những bức tượng đồng, bạc đối với những cốc chén bạc. Hình dạng là là thực chất của tồn tại, là bản chất của sự vật, bởi vì, chính nhờ hình dạng mà vật chất hiện thực hoá, biến thành các sự vật thực tế. Nếu thiếu hình dạng thì vật chất chỉ tồn tại dới dạng khả năng- ở trạng thái mà ông gọi là "không tồn tại", vô định hình. + Quan niệm trên đây đã đưa Arítxtốt tới sai lầm khi cho rằng, trong những hiện tượng tự nhiên, hình dạng (nguyên nhân tích cực) là cái có trước, vật chất (nguyên nhân bị động) là cái có sau. Mặt hạn chế nữa của ông là khi quan sát giới tự nhiên phỏng theo hoạt động của con người, ông không nhìn thấy sự khác nhau về chất giữa tự nhiên và sinh hoạt xã hội, quan niệm đó đã dẫn ông tới chủ nghĩa duy tâm là thừa nhận "hình dạng của tất cả các hình dạng" xuất phát từ Thần thánh- là Thần thánh, đó là nguyên nhân tận cùng, là mục đích của tất cả các hiện tượng tự nhiên. Cuối cùng, với lập luận duy tâm đó, ông đưa toàn thế giới vào một cuộc vận động có mục đích. + Tuy có những hạn chế như trên về giới tự nhiên, nhưng giá trị triết học (xu hướng duy vật) của Arítxtốt lại được thể hiện ở chính quan điểm về giới tự nhiên: Tự nhiên là toàn bộ những sự vật có một bản thể vật chất luôn vận động và biến đổi không ngừng. Vận động không tách rời vật thể tự nhiên, thông qua vận động mà giới tự nhiên được thể hiện ra. Có sáu hình thức vận động của vật chất là: Phát sinh. Tiêu diệt. Thay đổi trạng thái. Tăng. Giảm và di chuyển vị trí. Lý thuyết vận động của Arítxtốt là một thành quả có giá trị của khoa học Hy Lạp cổ đại. 34
  35. + Tính vật chất của giới tự nhiên biểu hiện ở các yếu tố khởi nguyên của nó. Đó là đất, nước, lửa, không khí và ête (có đặc trưng là vận động tròn). Các yếu tố này làm nền tảng cho toàn bộ thiên hà sinh thành và vận động. + Giới tự nhiên, vừa là vật chất đầu tiên, là cơ sở của mọi sinh tồn, vừa là hình dáng (cái đưa từ bên ngoài vào), nhận thức của con người là thu nhận hình dáng chứ không phải thu nhận chính sự vật. Đó cũng là sự dao động giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật của Arítxtốt. - Nhận thức luận. + Lý luận nhận thức của Arítxtốt có vai trò quan trọng trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Lý luận nhận thức của ông được xây dựng một phần dựa trên cơ sở phê phán học thuyết của Platôn về ý niệm và sự hồi tưởng. + Trong lý luận nhận thức của mình, Arítxtốt thừa nhận thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc kinh nghiệm và cảm giác. Tự nhiên là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai. Cảm giác đóng vai trò quan trọng trong nhận thức, nhờ cảm giác về đối tượng mà có tri thức đúng, có kinh nghiệm và lý trí hiểu biết về đối tượng, cảm giác là điểm khởi đầu trên con đường hình thành tư duy khoa học theo quá trình: cảm giác - biểu tượng - kinh nghiệm - nghệ thuật - khoa học. Mối quan hệ giữa đối tượng với tri thức tuân theo trật tự thời gian: đối tượng nhận thức là cái tồn tại trước, tri thức là cái có sau. Như vậy, Arítxtốt thừa nhận tính khách quan của thế giới. + Về các giai đoạn của quá trình nhận thức. * Nhận thức cảm tính là giai đoạn thứ nhất, đó là giai đoạn thức mang tính trực quan (sự quan sát nhật thực, nguyệt thực bằng mắt thường v.v.). * Nhận thức lý tính là giai đoạn thứ hai, giai đoạn này đòi hỏi sự khái quát hoá, trừu tượng hoá để rút ra tính tất yếu của hiện tượng . * Quá trình nhận thức diễn ra như sau: Cơ thể - tác động bên ngoài - cảm giác - tưởng tượng - tư duy (nhận thức). Mỗi khâu trong quá trình này đều quan hệ mật thiết với nhau, khâu sau không thể thiếu khâu trước. + Sai lầm có tính chất duy tâm của Arítxtốt là ông đã thần thánh hoá nhận thức lý tính, coi đó là chức năng của linh hồn, của Thượng đế, cho rằng lý tính là "hình thức của hình thức", rằng đối tượng của khoa học không phải là thế 35
  36. giới khách quan mà là cái chung, cái phổ biến mà ông gọi là "những hình thức phi cơ thể". Tuy nhiên, lý luận nhận thức của Arítxtốt chứa đựng các yếu tố của cảm giác luận và kinh nghiệm luận có khuynh hướng duy vật. + Lôgíc học và phép biện chứng. * Arítxtốt có những nghiên cứu sâu sắc về những vấn đề lôgíc học và phép biện chứng. Ông là người đầu tiên đặt nền móng và hình thành về cơ bản khoa học lôgíc, lần đầu tiên tư duy trở thành đối tượng nghiên cứu của một bộ môn khoa học- lôgíc học. Lôgíc học của Arítxtốt dựa trên cơ sở phân biệt dứt khoát chân lý và sai lầm. Ông cho rằng chân lý là sự phù hợp của tư tưởng với thực tế, còn sai lầm phát sinh khi mà trong tư tưởng nối liền cái mà trong thực tế là phân chia hoặc ngược lại, phân chia cái mà trong thực tế lại nối liền. * Arítxtốt đã nêu ra những phương pháp cơ bản của việc xây dựng các khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy lý tam đoạn thức và chứng minh. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra ba qui luật cơ bản của lôgíc hình thức với tư cách là các qui luật của tư duy mà ngày nay chúng ta vẫn sử dụng, đó là qui luật đồng nhất (A=A), qui luật cấm mâu thuẫn trong tư duy (A và không A là không đúng) và qui luật loại trừ cái thứ ba (A hay là không A). * Phép biện chứng của Arítxtốt, ngoài sự thể hiện ở các quan niệm về các vật thể tự nhiên và sự vận động của chúng, còn được thể hiện rõ trong việc giải thích về cái riêng và cái chung. Khi phê phán Platôn tách rời "ý niệm" như là cái chung ra khỏi các "sự vật cảm tính" như là những cái riêng, Arítxtốt khảo sát cái chung trong sự thống nhất không tách rời với cái riêng. Theo ông, nhận thức cái chung trong cái đơn lẻ là thực chất của nhận thức cảm tính. - Quan điểm về chính trị-xã hội. Trong các quan điểm về xã hội của Arítxtốt cũng có những nét đặc sắc, ông cho rằng bản chất của nhà nước là một hình thức giao tiếp cao nhất giữa con người với nhau. + Hình thức giao tiếp có nhiều loại, như giao tiếp trong gia đình, giao tiếp trong hoạt động kinh tế, trao đổi của cải v.v. Tuy những hình thức giao 36
  37. tiếp đó rất cần cho sự xuất hiện của nhà nước, nhưng chưa đủ. nhà nước chỉ xuất hiện khi có sự giao tiếp về lợi ích cuộc sống giữa nhiều gia đình và họ hàng về một cuộc sống đầy đủ và hoàn thiện. + Gia đình và cá nhân là là "thiên chất tự nhiên" của nhà nước, vì vậy, con người về bản chất phải thuộc về nhà nước. Nếu vượt qua khuôn khổ nhà nước, con người không phải là con người phát triển về đạo đức, hoặc đó là động vật hoặc Thượng đế. Những người không thuộc về nhà nước là nô lệ, nô lệ chỉ là công cụ biết nói. + Nhiệm vụ của nhà nước là phải bảo đảm cho mọi người (trừ nô lệ) sống hạnh phúc không chỉ về mặt của cải vật chất, mà còn về mặt bảo đảm công lý. Mức độ phúc lợi mà nhà nước đem lại cho công dân trong xã hội là tiêu chí để đánh giá nhà nước. Nhà nước được xem xét trong ba phương diện là lập pháp, hành chính và phân xử. + Cơ sở bình đẳng và công bằng trong xã hội là sự công bằng trong trao đổi sản phẩm, tức là cơ sở kinh tế của sự công bằng xã hội. Sự công bằng không có được nếu không có sự bằng nhau, sự bằng nhau không có được nếu không thể đo chung được, tức là biểu hiện giá trị của một hàng hoá này đối với giá trị của một hàng hoá khác. Chính vì vậy, C.Mác cho rằng, thiên tài của Arítxtốt là ở chỗ, trong biểu hiện giá trị của hàng hoá, ông đã tìm ra được một quan hệ bình đẳng và Arítxtốt là người đầu tiên sơ khai nghiên cứu và phân tích hình thái giá trị. II. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ 1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Tây Âu thời Trung cổ. a. Điều kiện hình thành. - Điều kiện kinh tế-xã hội. + Xã hội Tây Âu từ thế kỷ II đến thế kỷ V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và sự ra đời của chế độ phong kiến. + Vào thế kỷ thứ V, những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu tranh giai cấp bên trong cùng với sự tiến công của những bộ tộc bên ngoài đã dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc La Mã. Sự kiện này dẫn đến sự chấm dứt hình thái xã hội chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến Tây Âu ra đời. 37
  38. + Trong xã hội Tây Âu phong kiến, nền kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp thống trị, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của các công xã, thái ấp của bọn địa chủ. Điều hành nền sản xuất xã hội chủ yếu là những người tiểu nông lệ thuộc vào địa chủ phong kiến. Vì vậy, trong thời kỳ đầu của thời đại phong kiến đã diễn ra sự suy đồi không chỉ về kinh tế mà còn về toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. - Điều kiện về văn hoá. + Về mặt tinh thần, thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu lúc đầu Cơ đốc giáo, về sau là Thiên chúa giáo là hệ tư tưởng thống trị. Những giáo lý tôn giáo trở thành những nguyên lý về chính trị. Kinh Thánh có vai trò như luật lệ trong mọi cuộc xét xử. Giáo hội độc quyền trong lĩnh vực văn hoá, nhà trường hoàn toàn nằm trong tay các thầy tu, triết học được đem ra phục vụ cho tôn giáo và giáo hội. Có thể nói tín điều nhà thờ là điểm xuất phát của mọi tư duy, thế giới quan thần học bao trùm lên triết học, luật học và chính trị. Điều đó giải thích tại sao giai cấp nông dân hết sức đông đảo nhưng "tối tăm về trí tuệ" (V.I.Lênin) và bị tước hết quyền hành. + Đặc điểm của khuynh hướng triết học thời kỳ này là sự phát triển của chủ nghĩa kinh viện. Vấn đề quan hệ giữa niềm tin tôn giáo với trí tuệ lý trí, giữa cái chung với cái riêng (giữa khái niệm và các sự vật đơn lẻ) là những vấn đề trung tâm của triết học kinh viện. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh xung quanh việc giải quyết những vấn đề trung tâm của triết học là biểu hiện đặc thù của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ này. + Sau thời kỳ sụp đổ, xã hội Tây Âu bước đầu đã có sự phát triển cả về văn hoá vật chất và tinh thần. Những cuộc Thập tự chinh về phía Đông đã giúp cho phương Tây tiếp thu được nhiều điều của nền văn hoá phương Đông. Thiên văn học, toán học, cơ học, hoá học, vật lý học hình thành và phát triển khá mạnh vào thế kỷ XIII với các đại biểu tiêu biểu là L.Phi bô mát chi, A.Bôn stét, R.Bêcơn v.v. b. Đặc điểm triết học. - Tư tưởng về vũ trụ quan. 38
  39. - Tư tưởng về nhân sinh quan. - Nhận thức luận. - Tư tưởng về phép biện chứng. - Thuyết Phiếm thần. 2. Một số đại biểu của phái Duy Danh và Duy thực. a. Tômát Đacanh (1225-1274). - Cuộc đời. Là nhà duy thực người Italia, nhà thần học đạo Thiên chúa, nhà triết học kinh viện nổi tiếng, nhà nghiên cứu những vấn đề pháp quyền, đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Tuyển tập tác phẩm của ông gồm mười tám cuốn giống như một bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời Trung cổ. Học thuyết của Tômát Đacanh được thừa nhận là triết học duy nhất chân chính của giáo hội Thiên chúa. - Quan niệm về thế giới. Trong lĩnh vực triết học, Tômát Đacanh mong làm cho triết học của Arítxtốt thích hợp với giáo lý Thiên chúa giáo, để triết học của mình thành cơ sở giáo lý của Nhà thờ. + Trong việc nghiên cứu giới tự nhiên, Tômát Đacanh cho rằng, giới tự nhiên là do Trời tạo ra từ "hư vô", mọi trật tự, sự phong phú và hoàn thiện của giới tự nhiên đều do Trời quyết định. Mọi cái trên thế giới đều được sắp xếp theo các bậc thang tôn tri, trật tự: bắt đầu từ các sự vật không có linh hồn, tiến tới con người, đến các Thần thánh và sau cùng là bản thân Chúa trời. Do vậy, Chúa Trời, Thượng Đế là mục đích tối cao, là qui luật vĩnh cửu đứng trên mọi cái, thống trị mọi cái, là hình thức thuần tuý tước bỏ vật chất, là nguyên nhân tác động cuối cùng của thế giới. + Để chứng minh Chúa trời là động lực, nguyên nhân, cái tất nhiên ban đầu, sự hoàn thiện tuyệt đối và là nguyên nhân tạo ra sự hợp lý của giới tự nhiên. Tômát Đacanh nêu ra những lý lẽ sau: Thế giới không vận động vĩnh cửu, cần phải có động lực ban đầu. Nguyên nhân tác động không phải là vô tận, cần có nguyên nhân đầu tiên. Mọi sự vật của thế giới là ngẫu nhiên, cần có cái tất nhiên tuyệt đối. Sự hoàn thiện của các sự vật có các giai đoạn khác nhau, cần phải có một 39
  40. thực thể hoàn thiện tuyệt đối. Tính hợp lý của giới tự nhiên không thể giải thích bằng nguyên nhân tự nhiên, cần phải tồn tại một thực thể lý trí siêu tự nhiên để điều chỉnh thế giới. - Nhận thức luận. + Đối tượng của triết học là nghiên cứu "chân lý của lý trí", còn đối tượng của thần học là nghiên cứu "chân lý của lòng tin tôn giáo". Thượng Đế là khách thể cuối cùng để triết học và thần học nghiên cứu, là nguồn gốc của của mọi chân lý, do vậy, giữa triết học và thần học không có sự đối lập về căn bản, chỉ có điều triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí con người thấp hơn "lý trí của thần". Triết học là tôi tớ của thần học, phụ thuộc vào thần học. + Tômát Đacanh áp dụng học thuyết về "hình dạng" của Arítxtốt. Ông cho rằng, mọi nhận thức diễn ra trong chủ thể nhờ tiếp thu ở khách thể những gì giống với chủ thể chứ không phải mọi tồn tại của khách thể đều được tiếp thu, đó là hình ảnh của sự vật chứ không phải bản thân sự vật. + Ông chia "hình dạng" thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính. Hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính, nhờ hình dạng lý tính mà ta mới biết được cái chung chứa đựng nhiều thực thể riêng biệt. Hình dạng cảm tính có vai trò trong nhận thức là nhờ nó mà cảm giác trở nên cảm thụ tích cực. + Nhờ tiếp thu học thuyết của Arítxtốt, lý luận nhận thức của Tômát Đacanh là một bước tiến trong triết học kinh viện Trung cổ. Tuy vậy, lý luận nhận thức của Tômát Đacanh chỉ khôi phục chứ không tiếp thu và kế thừa được cái sinh khí, cái sống động và sự tìm tòi chân lý trong học thuyết đó. - Quan điểm về chính trị-xã hội. + Tômát Đacanh ra sức tuyên truyền tư tưởng về vai trò thống trị của Nhà thờ đối với xã hội, chống lại sự bình đẳng xã hội. Ông cho rằng, con người là do Thượng Đế tạo nên theo "hình dáng của mình", sống trên Trái Đất- trung tâm của vũ trụ. Mọi cái trong tự nhiên thích ứng như thế nào với con người đều do Chúa Trời qui định. Mặt Trời chiếu sáng và sởi ấm, mưa rơi để đất đai có nước, động đất và bão lụt là do Chúa Trời trừng phạt tội lỗi của con người. 40
  41. + Đẳng cấp của con người trong xã hội là do Chúa Trời sắp đặt. Chính quyền của nhà Vua là do "ý Trời", thân xác con người phải phục tùng nhà Vua, còn quyền lực tối cao thuộc về Giáo hội. b. Đơn Xcốt (1265-1308, Anh). - Cuộc đời. Theo đạo Phơrăngxít, nhà duy danh lớn nhất của thế kỷ XIII. - Quan niệm về thế giới. + Trong triết học của mình, mối quan hệ giữa triết học và thần học theo lập trường phái duy danh là vấn đề chủ yếu mà ông quan tâm. Đối tượng nghiên cứu của thần học là Thượng Đế, đối tượng nghiên cứu của triết học là tồn tại. Với quan niệm như vậy, Đơn Xcốt trong chừng mực nào đó muốn giải phóng triết học ra khỏi ách áp bức của Giáo hội. + Tuy vậy, ông vẫn đề cao vai trò của lòng tin nhưng không hạ thấp vai trò của lý tính. Theo Đơn Xcốt, Thượng Đế là một tồn tại bất tận, có thể chứng minh được, nhưng dựa vào lý trí để nhận thức Thượng Đế thì bị hạn chế, do vậy phải chủ yếu dựa vào lòng tin. Lý trí của con người thấp hơn niềm tin tôn giáo, bởi không nhận thức được bản chất của Thượng Đế, vì Thượng Đế là hình thức thuần tuý phi vật chất, trong khi đó lý trí chỉ nhận thức được ở tồn tại những gì thuộc về các tài liệu cảm tính. Chính vì vậy, con người không thể có được một khái niệm nào về bản chất phi vật chất như Chúa Trời, Thượng Đế. - Nhận thức luận. + Đơn Xcốt cho rằng, tinh thần, ý chí chỉ là hình thức của thân thể con người, gắn liền với thân thể con người đang sống và do Thượng Đế ban cho từ khi con người mới sinh ra. Về vai trò của lý trí và ý chí, ông cho rằng, cái thống trị mọi dạng hoạt động của con người là ý chí chứ không phải là lý trí, hơn nữa, ở Thượng Đế thì ý chí hoàn toàn tự do. + Tri thức được hình thành từ tinh thần và từ đối tượng nhận thức. Tinh thần tuy có vai trò to lớn trong nhận thức nhưng cũng vẫn phải phụ thuộc vào đối tượng nhận thức. Cũng có cái ý chí "không ai biết được" tựa hồ như quyết định tính chất hoạt động tinh thần của con người. nhưng, theo Đơn Xcốt, chỉ có những sự vật đơn nhất, cá biệt mới là thực tại cao nhất. 41
  42. - Quan điểm về chính trị-xã hội. c. RôgiêBêcơn (1214-1294). - Cuộc đời. Sinh ở Anh. Là một trong những người đề xướng ra khoa học thực nghiệm thời kỳ mới. Triết học của ông đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống triết học kinh viện. - Đối tượng của triết học (siêu hình học) là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa các khoa học bộ phận và đem lại cho khoa học đó những quan điểm cơ bản và bản thân siêu hình học được xây dựng trên thành quả của các khoa học đó. Sức mạnh và bản chất của học thuyết R.Bêcơn nằm ở sự phê phán phương pháp kinh viện, khẳng định vai trò của kinh nghiệm và sự tìm kiếm khoa học có tính độc lập. - Nhận thức luận. + Phê phán gay gắt phương pháp kinh viện tách rời cuộc sống, cho rằng phương pháp đó có những trở ngại đối với nhận thức chân lý sùng bái, thói quen, tính vô căn cứ). + Ba nguồn gốc của nhận thức (uy tín, lý trí, kinh nghiệm). R.Bêcơn đánh giá cao kinh nghiệm, coi đó là thước đo của lý luận, tiêu chuẩn của chân lý. - Quan điểm về chính trị-xã hội. + Lên án sự áp bức của xã hội phong kiến, của giáo sỹ, bênh vực quyền lợi của nhân dân. + Chống Giáo hoàng gay gắt, nhưng không chống lại tôn giáo nói chung. Triết học phụ thuộc vào lòng tin III. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI 1. Triết học Phục hưng thể kỷ XV-XVI. Thế kỷ XV-XVI được gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là thời kỳ khôi phục lại nền văn hoá cổ đại, chuẩn bị cho nền văn hoá mới- văn hoá tư sản sơ khai ra đời. 42
  43. a. Điều kiện hình thành. - Sự phát triển của khoa học tự nhiên. Trong thời kỳ này khoa học đã phát triển và tách mạnh ra khỏi thần học và tôn giáo, bước lên con đường phát triển độc lập. Xuất hiện những nhà khoa học và triết học tiêu biểu như Côpécníc, Brunô, Galilê, Kuda, Morơ, Campanela v.v. Nhiều sáng chế kỹ thuật như động cơ chạy bằng sức gió, sức nước, máy kéo sợi, máy dệt, chế tạo tàu thuỷ, lò luyện kim, in ấn v.v. đã đẩy mạnh sự phát triển kinh tế ở các nước Tây Âu và Trung Âu. Nền sản xuất công trường thủ công đem lại năng suất lao động hơn hẳn và đã thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển. - Điều kiện kinh tế-xã hội. + Đây là thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản, các quan hệ tư bản chủ nghĩa đã nảy sinh trong lòng xã hội phong kiến. Việc tìm ra châu Mỹ và các đường biển nhờ áp dụng địa bàn, nhờ những cải tiến trong ngành chế tạo tàu thuỷ, nhờ địa lý và thiên văn học v.v. đã tạo điều kiện cho nền sản xuất phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Hoạt động thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng làm cho phương thức sản xuất phường hội phong kiến không thoả mãn được nhu cầu ngày càng tăng của quan hệ sản xuất mới. + Giai cấp tư sản mới hình thành và là giai cấp tiến bộ, cần phát triển khoa học tự nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển kỹ thuật và sản xuất, đồng thời tìm kiếm vũ khí tư tưởng chống lại hệ tư tưởng duy tâm, tôn giáo. - Điều kiện văn hoá. + Trên cơ sở thực tiễn (sản xuất vật chất và những biến động xã hội), những tư tưởng triết học và các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển và ngày càng được cải tiến. Thiên văn học, toán học, cơ học và về sau, vật lý học, sinh vật học dần phân ngành khỏi triết học, phạm vi những vấn đề mà triết học nghiên cứu cũng dần biến đổi. + Chủ nghĩa duy vật được khôi phục và biến đổi theo những biến đổi của khoa học tự nhiên và dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên để trở thành vũ khí chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, thực hiện và củng cố mối liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên, đề ra phương pháp nhận thức tự 43
  44. nhiên bằng thực nghiệm, kinh nghiệm, phê phán thần học và chủ nghĩa kinh nghiệm. Có thể nói rằng, chính sự phát triển của khoa học tự nhiên đã đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra những kết luận có tính duy vật từ các tri thức khoa học cụ thể. + Đặc điểm của triết học thời kỳ này là những yếu tố duy vật và duy tâm xen kẽ nhau, xu hướng vô thần xuất hiện, ảnh hưởng của khoa học tự nhiên tới triết học lớn tới mức khó xác định cụ thể ranh giới giữa các thế giới quan đó, nhiều nhà bác học của thời đại này uyên bác cả về phương diện triết học lẫn khoa học tự nhiên. + Nhiều học thuyết triết học thời Phục hưng đã phục hồi phép biện chứng tự phát thời cổ đại và khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên. Đồng thời, trái ngược với phép biện chứng tự phát, trong khoa học tự nhiên và triết học bắt đầu xuất hiện xu hướng siêu hình và xu hướng đó tăng lên về cuối thời kỳ Phục hưng. + Sự ra đời của phương pháp siêu hình trong khoa học tự nhiên và đến thế kỷ XVII, phương pháp này được áp dụng và triết học là kết quả của sự phát triển khoa học tự nhiên, nhất là cơ học. Có thể coi là khoa học bắt đầu phát triển từ thời đại này có tính chất cách mạng triệt để, đã chung vai sát cánh với triết học mới đang ra đời. b. Đặc điểm triết học. - Tư tưởng về vũ trụ quan. - Tư tưởng về nhân sinh quan. - Nhận thức luận. - Tư tưởng về phép biện chứng. 2. Triết học Tây Âu cận đại thể kỷ XV-XVI. a. Điều kiện hình thành. - Sự phát triển của khoa học tự nhiên. + Những kiến thức khoa học tự nhiên đã tích luỹ được không còn đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng, thí dụ, trong ngành hàng hải. Người ta không thể dùng kinh nghiệm đi biển và những thuyền gỗ nhỏ hiện có để vận 44
  45. chuyển những chuyến hàng lớn vượt đại dương bao la, đầy bão tố. Phương pháp thực nghiệm hiện đại của khoa học xuất hiện. Cơ học, toán học, thiên văn học và về sau, cả vật lý học, hoá học và sinh vật học tách ra khỏi triết học và trở thành những ngành khoa học độc lập nghiên cứu những tính năng, độ bền, tác dụng v.v. của vật liệu. + Vào thời gian này, phương pháp thực nghiệm hiện đại đã ảnh hưởng đến lĩnh vực triết học làm xuất hiện phương pháp tư duy siêu hình. Đây là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, không vận động, không biến đổi và không phát triển. Đó là hệ quả của sự phát triển khoa học. Hầu hết các nhà duy vật Anh, Hà Lan, Pháp đều chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi phương pháp tư duy siêu hình. - Điều kiện kinh tế-xã hội. + Vào thế kỷ XVII, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành trong hầu hết các nước Tây Âu phong kiến, trước hết ở Hà Lan, sau lan ra Anh, Pháp, Italia, Áo. Thị trường Trung Quốc và Ấn Độ rộng lớn đã làm cho sức sản xuất hàng hoá, thương nghiệp và công nghiệp hàng hải một sự phát triển cha từng có. Điều đó đã mang lại những yếu tố cách mạng về mặt xã hội và về sự phát triển khoa học cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang hình thành mau chóng trong lòng xã hội phong kiến: + Sự xuất hiện và ngày càng phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho giai cấp tư sản thấy đã cần phải giành chính quyền từ tay giai cấp phong kiến, phá bỏ các cát cứ phong kiến, tạo ra và mở rộng thị trường thống nhất để tăng lợi nhuận. + Giai cấp tư sản Tây Âu đã lớn mạnh. nước Pháp trở thành trung tâm của cách mạng tư sản. Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794) mang tính triệt để, không thoả hiệp với giai cấp phong kiến mà lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ cộng hoà tư sản. + Thời kỳ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của phương pháp tư duy siêu hình đối với phương pháp tư duy trừu tượng duy lý thời Trung cổ và thắng lợi của vô thần đối với hữu thần. - Điều kiện về văn hoá. 45
  46. b. Đặc điểm triết học. - Tư tưởng về vũ trụ quan. - Tư tưởng về nhân sinh quan. - Nhận thức luận. - Tư tưởng về phép biện chứng. 3. Một số nhà triết học tiêu biểu. a. Phranxi Bêcơn (1561-1621). - Cuộc đời. Là nhà ngoại giao, tư pháp, Thượng thư (bộ trưởng) báo chí, đại biểu nghị viện, Thủ tướng nước Anh, được phong Bá tước. Ph.Bêcơn là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện đại. Bắt đầu từ Ph.Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai đoạn mới. - Quan niệm về thế giới, về vai trò, nhiệm vụ của khoa học và triết học. + Sự phát triển của khoa học và triết học là nền tảng của công cuộc cải cách đất nước, là cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh, phát triển kinh tế, xoá bỏ bất công và tệ nạn xã hội. + Chịu ảnh hưởng của quan niệm "triết học là khoa học của mọi khoa học", Ph.Bêcơn cho rằng, triết học là tổng thể các tri thức lý luận của con người về Thượng Đế, về thế giới tự nhiên và về con người. Do vậy, triết học gồm ba học thuyết: Học thuyết về Thượng Đế, nghiên cứu thần học và tự nhiên, vạch ra những khía cạnh hợp lý của nó. Học thuyết về tự nhiên (được đồng nhất với khoa học tự nhiên) và học thuyết về con người (nhân bản học). + Nhiệm vụ của triết học là cải tạo lại toàn bộ các tri thức mà con người đã đạt được tới thời đại đó, "nắm bắt trật tự của giới tự nhiên" để xây dựng "trong trí tuệ con người" một kiểu mẫu của thế giới giống như nó tồn tại thực tế, chứ không phải giống như cái mà tư duy gợi cho mỗi người. "Hiệu quả của sự sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và ghi nhận tính chân lý của các triết học". Về bản thể luận triết học. + Khảng định sự tồn tại của thế giới vật chất khách quan. Khoa học không thể biết gì khác ngoài thế giới vật chất khách quan. "Hình dạng" là bản chất 46
  47. của sự vật "tự nhiên", tức là các sự vật được con người nhận biết được bằng các giác quan (cảm tính) là sự biểu hiện ra bên ngoài của hình dạng: Đó chính là hiểu biết của con người về vật chất. + Khảng định vật chất không tách rời vận động. Nhận thức bản chất của các sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Có 19 hình thức vận động của vật chất. Các hình thức vận động này hầu như bị qui vào hình thức vận động cơ học, tuy vậy đóng góp của Ph. Bêcơn là coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất. Ông là một trong những triết gia đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới. + Trong lĩnh vực nghiên cứu bản chất của linh hồn, Ph.Bêcơn cũng có những quan niệm duy vật: "linh hồn biết cảm giác" tồn tại trong óc người, vận động theo các dây thần kinh và mạch máu. Linh hồn chính là một "vật thể, thể xác, là vật chất chân chính", giống như lửa và không khí. Quan niệm về ý thức của Ph.Bêcơn là quan niệm duy vật tầm thường, không vượt xa hơn các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại. - Nhận thức luận. Đóng góp to lớn của Ph.Bêcơn về mặt triết học chính là nhận thức luận. + Ông là người đầu tiên xây dựng phương pháp qui nạp thành một hệ thống có giá trị trong nghiên cứ khoa học. phương pháp này được trình bày trong tác phẩm "Oóc ga nôn mới". + Lý luận nhận thức của Ph.Bêcơn nêu lên và giải quyết ba vấn đề sau đây: Một là: Không có tri thức bẩm sinh, mọi tri thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm và thực hiện sự "chế biến" các kinh nghiệm đó thành một hệ thống để cho ta khả năng nhận thức được bản chất, qui luật của sự vật. Hạn chế của Ph.Bêcơn trong vấn đề này là cha lý giải được quan hệ biện chứng của việc phát triển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính, cũng như cha lý giải được biện chứng của tư duy lý tính. Vấn đề thực chất trong lý luận nhận thức của Ph.Bêcơn là hướng tư duy và trí tuệ vào sự khái quát và diễn giải những tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại, chế biến lại tựa như con ong biến nhuỵ hoa thành mật. Phương pháp nhận thức bằng kinh nghiệm, thực nghiệm do Ph.Bêcơn xây dựng là khoa học chân chính xuất phát 47
  48. từ bản thân sự vật của thế giới khách quan. Ông cho rằng, nhà khoa học, sau khi bắt đầu từ sự thật cần phải cải tiến suy nghĩ về sự thật rồi đi tơí định lý, rồi từ định lý lại phải đi tới sự thật mới. Hai là: Muốn nhận thức được giới tự nhiên một cách khoa học, đúng đắn, người ta phải từ bỏ các ảo tưởng (hay còn gọi là những ngẫu tượng ) đã và đang thống trị lâu nay, đồng thời áp dụng phương pháp nhận thức tối u là phương pháp qui nạp. Ph.Bêcơn chia ảo tưởng (ngẫu tưởng) ra làm bốn loại. Công lao của ông trong học thuyết về ảo tưởng là đã đặt ra vấn đề cơ sở xã hội của quá trình nhận thức, tuy cha nhận thấy tính hạn chế lịch sử của thời đại và cơ sở kinh tế-xã hội cũng như cơ chế quan hệ xã hội ảnh hưởng lên quá trình nhận thức. Khi từ bỏ ảo tưởng, chúng ta phải áp dụng phương pháp nhận thức mới. Đó là phương pháp qui nạp gồm ba bước: bước thứ nhất: Thông qua các giác quan, con người nhận thức được giới tự nhiên đa dạng và sinh động. bước thứ hai: Trên cơ sở những tài liệu do các giác quan mang lại, cần phải lập bảng so sánh, hệ thống lại và phân tích chúng. bước thứ ba: "Qui nạp thật sự", "với những bậc phủ định" để giữ lại hay bài trừ những tài liệu kinh nghiệm trên thu được trong những điều kiện khác nhau để xác định mối quan hệ nhân-quả của các hiện tượng mà ta nghiên cứu. Đây là bước quan trọng trong quá trình nhận thức, giúp chúng ta khám phá ra "hình dạng", tức bản chất của sự vật. Ba là: Trong lý luận nhận thức, Ph.Bêcơn không đứng vững trên lập trường vô thần, ông thừa nhận chân lý có tính hai mặt, đó là mặt khoa học và thần học. Khoa học và thần học không nên can thiệp vào công việc của nhau: Khoa học nghiên cứu những vấn đề mà thần học không thể có được, thần học nghiên cứu những vấn đề mà khoa học không vơn tới được. - Quan điểm về chính trị-xã hội. Ph.Bêcơn chủ trơng xây dựng nhà nước tập quyền, mạnh để bảo vệ lợi ích và sự phát triển của tư bản chủ nghĩa, chống lại đặc quyền của bọn quý tộc. Sự phát triển công nghiệp và thương nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhất trong đời sống xã hội. Xã hội cần phát triển theo con đường giáo dục và các phát minh kỹ thuật mà 48
  49. không cần những cuộc đấu tranh của nhân dân. Nước Anh cần làm bá chủ thế giới, nô dịch các dân tộc khác. b. Tômát Hốpxơ (1588-1679). - Cuộc đời. Là nhà triết học duy vật nổi tiếng người Anh thế kỷ XVII, người kế tục và hệ thống hoá triết học của Ph.Bêcơn. Ông là người sáng tạo ra hệ thống đầu tiên của chủ nghĩa duy vật siêu hình trong lịch sử triết học có hình thức phù hợp với đặc trưng và yêu cầu của khoa học tự nhiên thời kỳ đó. Hốpxơ cho rằng, hình học và cơ học là những mẫu mực lý tưởng của tư duy khoa học. - Quan niệm về thế giới. Những quan niệm về giới tự nhiên trong triết học Hốpxơ mang tính siêu hình và những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. + Giới tự nhiên là tổng các vật thể có quảng tính (độ dài, khoảng cách), được phân biệt với nhau bằng đại lượng, hình khối, vị trí và vận động cơ giới. Hốpxơ không thừa nhận tính phong phú về chất là một thuộc tính khách quan của giới tự nhiên: Chất lượng cảm tính không phải là thuộc tính của bản thân sự vật, mà là hình thức tri giác chung. + Quan niệm về con người như là một cơ thể sống cũng mang tính siêu hình: trái tim là cái lòxo, dây thần kinh là những sợi chỉ, các khớp xương là các bánh xe làm cho cơ thể con người chuyển động. - Nhận thức luận. Hốpxơ hiểu phương pháp nhận thức như là nghệ thuật kết hợp giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy danh (chỉ có sự vật đơn nhất, cá biệt là có thực, còn những cái chung (cái phổ biến) chỉ là những tên gọi mà con người gắn cho các hiện tượng riêng lẻ). Ông giải thích bước chuyển từ cái riêng đến cái chung, từ tri giác cảm tính đến khái niệm theo quan điểm của chủ nghiã duy danh: Khái niệm chỉ là tên của những cái tên. - Quan điểm về chính trị-xã hội. Bên cạnh những mặt tiến bộ nhất định như bác bỏ nguồn gốc thần thánh của nhà nước, chống tôn giáo và thần học còn có những yếu tố duy tâm chủ nghĩa. Hốpxơ cho rằng nhà nước ra đời là do sự qui ước, thoả thuận giữa con người với 49
  50. nhau nhằm tránh những cuộc chiến tranh tàn khốc và hình thức lý tưởng nhất của nhà nước là chế độ quân chủ. Ông bài bác quyền tự do, dân chủ của xã hội và cho rằng quyền lực của giai cấp đại tư sản phải là vô hạn. Tôn giáo và giáo hội là "dây trói buộc xã hội" nên vẫn có ích cho nhà nước. c. Rơnê Đềcáctơ (1596-1654). - Cuộc đời. + Là nhà khoa học, triết học nổi tiếng người Pháp, là người sáng lập nền khoa học và triết học của một thời đại mới, chống lại tôn giáo, chống lại chủ nghĩa kinh viện, xây dựng nên một nếp tư duy mới có thể giúp cho việc nghiên cứu khoa học. + Học thuyết triết học của Đêcáctơ gồm hai bộ phận: "Vật lý học" và "Siêu hình học". Trong "vật lý học", ông là nhà duy vật, trong "siêu hình học" ông là nhà nhị nguyên luận. Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, ông cho rằng có hai thực thể là thực thể vật chất và thực thể tinh thần tồn tại độc lập với nhau, nhưng chúng đều phụ thuộc vào thực thể thứ ba, do thực thể thứ ba là Thượng Đế qui định. - Quan niệm về thế giới. + Đềcáctơ đã đưa ra quan điểm duy vật về thế giới. Theo ông, tự nhiên là một khối thống nhất bao gồm những hạt nhỏ vật chất có quảng tính và vận động vĩnh viễn theo những qui luật cơ học. Vũ trụ là thế giới vật chất vô tận, vật chất cho dù gồm có cả những hạt nhỏ, nhưng về nguyên tắc là có thể phân chia vô cùng, không có giới hạn. Không có không gian và thời gian trống rỗng, không có vật chất, trái lại, không gian và thời gian là thuộc tính gắn liền với vật thể, vận động là không thể bị tiêu diệt, mà nó luôn gắn liền với các vật thể, vật thể luôn vận động, chuyển đổi vị trí, tức là vận động trong không gian (vận động cơ giới). + Từ lý luận về những hạt nhỏ của vật chất, Đêcáctơ đã xây dựng lý thuyết giả định về sự hình thành của vũ trụ: Ông cho rằng, vật chất lúc đầu ở trạng thái hoàn toàn đồng loại và chuyển động không ngừng theo chiều xoáy như những cơn lốc. Quá trình "xoáy lốc" đó phân chia vật chất ra thành ba loại: Loại thứ nhất là những hạt lớn hợp thành yếu tố vật chất như "đất, đá". Loại thứ hai là những hạt 50
  51. nhỏ hợp thành yếu tố "không khí". Loại thứ ba là những hạt cực nhỏ hợp thành yếu tố "lửa". + Trong "Siêu hình học", Đêcáctơ đứng trên quan điểm nhị nguyên luận. Ông cho rằng có hai thực thể là thực thể vật chất và thực thể tinh thần tồn tại độc lập với nhau, không phụ thuộc vào nhau. Đặc trưng của thực thể vật chất là quảng tính, đặc trưng của thực thể tinh thần là biết tư duy, cả hai thực thể này phụ thuộc vào một nguyên thể tối cao là Thượng Đế. Con người được kết hợp bởi hai yếu tố là vật chất (thể xác) và yếu tố tinh thần (tư duy). - Nhận thức luận. + Điểm xuất phát của triết học Đềcáctơ là quan điểm "Tôi tư duy vậy là tôi tồn tại". Từ quan điểm này ông xây dựng lên hệ thống triết học của mình. Để nhận thức đúng, trước hết phải nghi ngờ. Nghi ngờ là một biện pháp cần thiết để không mắc phải sai lầm trong nhận thức, nghi ngờ để có lòng tin chắc chắn, nghi ngờ để tin. + Từ nguyên tắc "nghi ngờ", Đêcáctơ rút ra kết luận rằng, dù tôi nghi ngờ mọi cái, nhưng không thể nghi ngờ rằng tôi đang nghi ngờ, mà nghi ngờ cũng là tư duy, là suy nghĩ, từ đó ông đi đến kết luận nổi tiếng rằng "tôi suy nghĩ vậy là tôi tồn tại". Đó là nguyên lý cơ bản, bất di bất dịch, không thể gây ra sự nghi ngờ nào cả và có thể lấy nguyên lý ấy làm điểm xuất phát cho kết luận lôgíc của toàn bộ nhận thức, là điểm xuất phát của phương pháp khoa học, giúp con người tránh được những ý kiến thiên lệch, xác định được chân lý. + Từ việc đề cao phương pháp suy lý (nhận thức lý tính) Đêcáctơ đi đến quan điểm sai lệch về tiêu chuẩn của chân lý, khi cho rằng, tiêu chuẩn của chân lý là có tư duy rành mạch, khúc chiết và lôgíc chứ không phải là thực tiễn, thực nghiệm khoa học như lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm. + Phương pháp nhận thức của Đêcáctơ gồm bốn nguyên tắc. Một là: trước tiên là phải nghi ngờ khi chưa thấy chắc chắn nó là chân lý. Hai là: Cần chia nhỏ đối tượng để nhận thức. Ba là: Trong quá trình nhận thức cần xuất phát từ những điều đơn giản nhất dần dần đi đến những điều phức tạp hơn, theo trình độ lôgíc của nó. 51