Giáo trình Môi trường bảo quản tài liệu

pdf 122 trang phuongnguyen 4980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Môi trường bảo quản tài liệu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_moi_truong_bao_quan_tai_lieu.pdf

Nội dung text: Giáo trình Môi trường bảo quản tài liệu

  1. GIÁO TRÌNH MÔI TRƯỜNG BẢO QUẢN TÀI LIỆU
  2. Mục lục Nhiệt độ, độ ẩm tương đối, ánh sáng và chất lượng không khí: chỉ dẫn cơ bản cho công tác bảo quản Theo dõi nhiệt độ và độ ẩm tương đối Thực hiện theo thiết kế: đưa hệ thống vào hoạt động Bảo vệ tài liệu giấy tránh những hư hại do ánh sáng gây ra Bảo quản sách và tài liệu viết trên chất liệu giấy trong quá trình trưng bày
  3. Sherelin Ocđen - Trưởng ban bảo quản, Hiệp hội lịch sử Minesota Điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm tương đối rất quan trọng trong công tác bảo quản thư viện và các nơi lưu trữ vì khi nhiệt độ và độ ẩm không đảm bảo sẽ góp phần đáng kể làm hỏng các tư liệu lưu trữ. Nhiệt độ cao cũng làm gia tăng mức độ hư hỏng: hầu hết các phản ứng hoá học gây hỏng tư liệu có tỷ lệ tăng gần gấp đôi mỗi khi nhiệt độ tăng 18 độ F (khoảng 10 độ C). Độ ẩm tương đối cao tạo ra độ ẩm cần thiết, xúc tiến các phản ứng hóa học có hại đối với tư liệu, và khi kết hợp với nhiệt độ cao gây ra sự phát triển của nấm cũng như các loại côn trùng. Độ ẩm tương đối đặc biệt thấp, thường xuất hiện vào mùa đông ở những nơi sử dụng hệ thống điều hoà trung tâm, có thể làm cho một số loại tư liệu lưu trữ trở nên khô và giòn. Sự dao động về nhiệt độ và độ ẩm tương đối cũng gây tác hại. Các tư liệu lưu trữ thường có tính hút ẩm, rất dễ hút và nhả hơi nước. Sự thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm tương đối hàng ngày và theo mùa có thể làm các tư liệu lưu trữ nở ra hoặc co lại. Những thay đổi nghiêm trọng gia tăng mức độ hư hỏng, dẫn tới những thiệt hại thấy được như
  4. quăn giấy, bong mực, cong vênh bìa sách, và rạn bong ảnh. Tuy nhiên, ở một số cơ sở thư viện, các tư liệu lưu trữ có thể được bảo vệ trước các dao động ở mức độ vừa phải. Một số loại chất liệu đóng gói kèm theo hoặc sách báo đóng gói sát nhau có thể gây ra các thay đổi nhỏ về nhiệt độ và độ ẩm. Lắp đặt đầy đủ và vận hành các thiết bị điều chỉnh khí hậu để duy trì tiêu chuẩn bảo quản sẽ làm chậm tiến trình hư hỏng các tư liệu lưu trữ một cách đáng kể. Thiết bị điều chỉnh khí hậu được xếp theo độ phức tạp: từ máy điều hoà, máy tạo độ ẩm và / hoặc máy hút ẩm từng phòng đơn giản đến hệ thống điều hoà trung tâm cho cả toà nhà để có thể lọc, làm mát, sưởi, tạo ẩm và hút ẩm không khí. Cần tìm kiếm sự trợ giúp của các kỹ sư có kinh nghiệm về lĩnh vực điều chỉnh khí hậu để có thể chọn và lắp đặt thiết bị. Cần có thêm các biện pháp để điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm tương đối. Toàn bộ toà nhà cũng cần được bảo dưỡng tốt, cần phải hàn gắn các vết rạn nứt ngay khi mới xuất hiện. Cửa đi và cửa sổ bên ngoài phải bịt các khe gió và phải đóng kín để tránh lưu thông với không khí ngoài trời. Tại những vùng có mùa đông lạnh, phía trong cửa sổ phải được bít kín bằng các tấm dính hoặc bằng băng dính. Tại các khu vực lưu trữ có thể bịt các cửa sổ bằng các tấm
  5. ván lát tường hoặc bằng băng dính. Các nhà chuyên môn thường bất đồng về nhiệt độ và độ ẩm tương đối tối ưu cho các tư liệu lưu trữ. Thông thường họ cho rằng nhiệt độ ổn định không cao hơn 70 độ F, còn độ ẩm tương đối ổn định dao động trong khoảng tối thiểu là 30% và tối đa là 50%. Qua nghiên cứu cho thấy độ ẩm tương đối dao động ở mức thấp thì tốt hơn vì khi đó tiến trình xuống cấp của tư liệu diễn ra ở tốc độ chậm hơn. Nói chung, nhiệt độ càng thấp càng tốt. Nhiệt độ trong các khu vực chỉ dành riêng cho lưu trữ nên thấp hơn nhiều so với nhiệt độ ở các khu vực vừa dùng để lưu trữ vừa dùng để tra cứu. Đôi khi nên lưu trữ các tư liệu ít sử dụng ở nhiệt độ lạnh có sử dụng thiết bị điều chỉnh độ ẩm. Tuy nhiên khi lấy các tư liệu ra khỏi khu vực lưu trữ ở nhiệt độ lạnh thì sự thay đổi nhiệt độ nhanh có thể làm cho các tư liệu đó bị ngưng tụ hơi nước . Trong trường hợp như vậy cần phải có sự thay đổi nhiệt độ dần dần để dễ thích nghi.Duy trì các điều kiện ổn định rất quan trọng. Thư viện hay các cơ sở lưu trữ cần chọn lựa nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong khoảng tối ưu, duy trì trong suốt 24 tiếng một ngày trong suốt 365 ngày trong năm. Không bao giờ được tắt hệ thống điều chỉnh khí hậu cũng như không đặt chế độ thấp
  6. hơn về đêm, vào cuối tuần hoặc vào bất cứ thời gian nào mà thư viện và các nơi lưu trữ đóng cửa. Chi phí phát sinh do vận hành liên tục hệ thống này sẽ ít hơn nhiều so với chi phí khắc phục bảo quản trong tương lai để phục chế các hư hỏng do điều kiện khí hậu không đảm bảo. Mặc dù nhiều thư viện và các nơi lưu trữ thấy thực hiện việc này rất tốn kém và ngoài khả năng, nhưng qua thực tiễn và qua kiểm nghiệm cho thấy thời hạn sử dụng của các tư liệu tăng đáng kể nhờ duy trì ổn định nhiệt độ và độ ẩm tương đối. Tại những nơi không đủ điều kiện kinh tế hoặc thiếu hệ thống máy móc để có thể duy trì các điều kiện tối ưu quanh năm thì có thể chọn tiêu chuẩn ít nghiêm ngặt hơn trong mùa hè và mùa đông sao cho nhiệt độ và độ ẩm tương đối sẽ thay đổi dần dần trong khoảng cho phép giữa hai mùa. Tiêu chuẩn về nhiệt độ và độ ẩm tương đối theo mùa càng gần mức tối ưu càng tốt. Đáng chú ý là các tư liệu không bằng chất liệu giấy có thể đòi hỏi nhiệt độ và độ ẩm tương đối khác với các tư liệu bằng chất liệu giấy. Ngoài ra, việc duy trì nhiệt độ và độ ẩm tương đối ở mức tối ưu có thể gây hư hại đến kết cấu của toà nhà dùng để lưu trữ tư liệu, vì vậy không tránh khỏi những lựa chọn mang tính thoả hiệp giữa các quyết định trên.
  7. Cần đo và ghi lại nhiệt độ và độ ẩm tương đối một cách có hệ thống. Điều này rất quan trọng vì các số liệu đó 1) nêu lên điều kiện môi trường mà các tư liệu lưu trữ tư liệu; 2) làm cơ sở để yêu cầu lắp đặt hệ thống điều chỉnh môi trường; và 3) chỉ ra liệu thiết bị điều chỉnh khí hậu đang sử dụng có hoạt động hiệu quả và tạo ra một môi trường đủ tiêu chuẩn hay không. Nên nhớ rằng một yếu tố thay đổi có thể làm các yếu tố khác thay đổi theo. Nếu đưa ra các biện pháp không coi trọng đến tổng thể môi trường thì có thể sẽ làm tình hình xấu đi chứ không cải thiện gì thêm. Cần phải biết ( thông qua các số liệu đo được) thực trạng điều kiện môi trường như thế nào và phải xin ý kiến của các kỹ sư có kinh nghiệm trong lĩnh vực điều chỉnh khí hậu trước khi đưa ra các thay đổi lớn. Không nên quá nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tiếp tục giám sát sau khi có các thay đổi. Ánh sáng. Ánh sáng cũng góp phần làm hỏng các tư liệu lưu trữ. Anh sáng có thể làm suy yếu và làm giòn các sợi giấy và có thể làm giấy ngả màu vàng hoặc sẫm lại. Ánh sáng cũng gây ra lớp trung gian, làm bạc màu hoặc đổi màu giấy, làm cho giấy không đọc được và / hoặc thay đổi lớp ngoài của tài liệu, giấy ảnh, các tác phẩm nghệ thuật. Bất cứ sự
  8. tiếp xúc nào với ánh sáng, cho dù chỉ trong thời gian ngắn, đều gây hại, và tác hại đó bị tích lại và không thể thay đổi được. Ánh sáng bình thường được đo bằng độ lux (độ lumen trên một đơn vị mét vuông) hoặc bằng độ phút nến. Một phút nến tương đương với 11 lux. Trước đây, người ta định ra độ sáng cho các loại vật liệu nhậy sáng, trong đó có giấy, là 55 lux (5 phút nến), và cho các vật liệu kém nhậy sáng với mức tối đa là 165 lux (15 phút nến). Gần đây, các tiêu chuẩn trên đang gây ra tranh cãi với lí do mỹ học và mức độ bạc màu khác nhau đối với các lớp trung gian khác nhau. Mặc dù tất cả các bước sóng ánh sáng đều có hại, nhưng tia cực tím (UV) là có hại nhất đối với các tư liệu lưu trữ vì cường độ năng lượng cao của nó. Tiêu chuẩn cho phép của tia cực tím là 75cmW/l. Ánh sáng mặt trời và ánh sáng vonpham - halogien hoặc đèn thạch anh, đèn sạc sử dụng kim loại halide hoặc thuỷ ngân với cường độ cao, và đèn huỳnh quang là một số nguồn sáng gây hại nhất vì chúng sản ra một lượng lớn tia cực tím. Vì toàn bộ tổn hại là sự kết hợp giữa thời lượng và cường độ của việc tiếp xúc với ánh sáng, nên cần điều chỉnh ánh sáng ở mức thấp nhất ( phù hợp với người sử dụng) và
  9. trong thời gian ngắn nhất cho phép. Tốt nhất là chỉ nên để tư liệu tiếp xúc với ánh sáng khi có người sử dụng. Khi không có người sử dụng, nên cất giữ tư liệu ở những thùng kín hoặc trong các phòng không có cửa sổ và chỉ thắp sáng khi có người cần truy cập. Chỉ nên thắp sáng bằng các bóng đèn ánh sáng nóng. Khi sử dụng tư liệu, nên thắp sáng bằng bóng đèn có ánh sáng nóng. Cần chú ý rằng bóng đèn ánh sáng nóng sản sinh ra nhiệt lượng và phải để xa khỏi tư liệu. Nên sử dụng đèn ở mức ánh sáng yếu, và sử dụng càng ít càng tốt. Nên che cửa sổ bằng rèm, các tấm bạt phủ hoặc các tấm ván sập để hoàn toàn chặn ánh sáng mặt trời. Thực hiện việc này cũng giúp điều chỉnh nhiệt độ bằng cách giảm thiểu năng lượng thất thoát và ngăn chặn sự sản nhiệt do ánh sáng mặt trời vào ban ngày. Các toà nhà mái kính để ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào tư liệu cần phải có biện pháp che phủ tránh ánh sáng mặt trời hoặc sơn mái bằng titan đioxít hoặc bằng cách tráng kẽm trắng, nhờ đó có thể phản xạ ánh sáng mặt trời và hấp thụ tia cực tím. Các tấm lọc làm bằng chất dẻo đặc biệt cũng giúp hạn chế tia cực tím. Có thể sử dụng các tấm phim chất dẻo hoặc các tấm kính chất dẻo lọc tia cực tím che cửa sổ để giảm lượng tia cực tím chiếu qua. Tuy nhiên, các tấm lọc này không đảm bảo ngăn chặn hoàn toàn tác hại do ánh sáng gây ra. Nên
  10. dùng các loại rèm, mành, vải che và cửa sập có thể chặn hoàn toàn ánh sáng. Nên bọc các bóng đèn huỳnh quang bằng các túi lọc tia cực tím ở những nơi phải chiếu sáng tư liệu. Để thay thế có thể sử dụng loại bóng đèn huỳnh quang đặc biệt có lượng tia cực tím thấp. Nên sử dụng các công tắc đèn hẹn giờ ở các khu lưu trữ để hạn chế thời lượng tư liệu phải tiếp xúc với ánh sáng. Nên tránh trưng bày tư liệu thường xuyên vì tư liệu chỉ cần tiếp xúc ít với ánh sáng cũng có hại, nên trưng bày thường xuyên là hỏng hoàn toàn. Nếu bắt buộc phải trưng bày tư liệu, thì nên trưng bày trong thời gian ngắn nhất và dưới ánh sáng yếu nhất, nên sử dụng ánh sáng nóng. Không bao giờ được trưng bày tư liệu ở những nơi có ánh sáng mặt trời chiếu thẳng, ngay cả khi chỉ trong thời gian ngắn và khi đã che cửa sổ bằng các tấm lọc tia cực tím. Chất lượng không khí Các chất ô nhiễm cũng góp phần đáng kể làm hỏng các tư liệu lưu trữ. Hai dạng ô nhiễm chính là dạng khí và dạng bụi. Các loại khí gây ô nhiễm chủ yếu là khí đi-ô-xít sul- phua, khí ô-xít ni-tơ, khí pê-rô-xít, và khí ô-zôn, các chất khí này xúc tiến các phản ứng hoá học có hại dẫn đến việc hình thành a-xít trong các tư liệu lưu trữ. Đây là một vấn đề nghiêm trọng đối với các chất liệu giấy và da, những
  11. chất liệu này đặc biệt dễ bị hỏng khi nhiễm a-xít. Giấy sẽ bị mất màu và giòn, còn da sẽ nhũn và bị tơi ra thành bột. Các chất ô nhiễm dạng bụi chủ yếu bao gồm bồ hóng, muội than, các chất bụi mài mòn, bụi đất và các loạI vật liệu bị biến dạng. Kiểm soát chất lượng không khí rất khó khăn và phức tạp và còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố liên quan. Người ta đưa ra nhiều tiêu chuẩn khác nhau về chất lượng không khí. Tuy nhiên, cho đến giờ thì biện pháp hữu hiệu nhất vẫn là hạn chế các chất ô nhiễm ở mức thấp nhất. Có thể khử các chất khí ô nhiễm bằng các thiết bị hoá lọc, các tháp đốt khí hoặc dùng cả hai biện pháp trên. Các chất ô nhiễm dạng bụi có thể qua lọc máy. Không nên sử dụng các thiết bị kết tủa tĩnh điện vì chúng sản sinh ra khí ô-zôn. Các thiết bị rất khác nhau về kích cỡ và độ phức tạp: từ máy lọc riêng lẻ gắn vào lỗ thông hơi, ống khói đến hệ thống các máy lọc không khí cho cả toà nhà. Các thiết bị cũng rất khác nhau về tính hiệu quả. Cần lưu ý rằng chọn các thiết bị phải phù hợp với nhu cầu của các cơ sở thư viện và phù hợp với mức độ ô nhiễm trong khu vực. Cần tuân theo lịch trình bảo dưỡng đều đặn, và nên tham khảo ý kiến của các kỹ sư môi trường có kinh
  12. nghiệm. Ngoài ra còn có nhiều biện pháp kiểm soát chất lượng không khí. Một biện pháp là tạo ra không khí sạch đối lưu ở những khu vực lưu trữ, không khí đối lưu càng sạch càng tốt. Cần chú ý đảm bảo không đặt các quạt thông gió ở gần các nguồn gây ô nhiễm như gần các bãi đỗ xe tải. Một biện pháp khác là đóng các cửa sổ thông ra bên ngoài. Biện pháp nữa là lưu trữ các tư liệu trong bao bì đảm bảo chất lượng lưu trữ, nhờ đó ngăn chặn ảnh hưởng ô nhiễm đến các tư liệu. Các loại bao bì mới hiện nay sử dụng các lớp gom phân tử như than hoạt tính hoặc zê-ô-lít để chặn các chất ô nhiễm đã chứng tỏ là biện pháp đặc biệt hữu hiệu. Biện pháp cuối cùng là phải loại bỏ càng nhiều càng tốt các nguồn gây ô nhiễm. Có lẽ sẽ khó kiểm soát những nguồn gây ô nhiễm chính như động cơ ôtô và máy móc công nghiệp. Tuy nhiên, có thể hạn chế các nguồn ô nhiễm khác như khói thuốc lá, máy phôtô, một số loại vật liệu xây dựng, sơn, vật liệu trám, đồ lưu trữ hoặc đồ trưng bàybằng gỗ, các thiết bị làm sạch, đồ gỗ và thảm. Nhiệt độ, độ ẩm tương đối, ánh sáng và chất lượng không khí, tất cả đều ảnh hưởng đến tuổi thọ của các tư liệu lưu trữ. Nếu tuân thủ các hướng dẫn nêu trên, chúng ta có thể kéo dài tuổi thọ của các tư liệu đó.
  13. Beth Limdblom Patlcus - Chuyên gia tư vấn về Bảo tồn, Walpole, MA Phần giới thiệu Sách báo, tranh ảnh hoặc các đồ vật làm bằng giấy đều dễ bị hư hỏng bởi môi trường. Hơi nóng, hơi ẩm, ánh sáng và bụi bẩn tạo ra những phản ứng hoá học mang tính huỷ hoại. Tình trạng ấm và ẩm làm thúc đẩy các quá trình sinh học như nấm mốc và côn trùng sinh sôi nảy nở. Mặc dù một số chất liệu được sử dụng để làm sách báo, tài liệu và vật phẩm trên giấy có độ bền tương đối, song những chất liệu khác (như bột giấy nghiền và các loại mực làm từ a-xít) sẽ hư hỏng nhanh chóng dưới những điều kiện môi trường không thuận. Các viện bảo tàng, thư viện và khu bảo tồn lịch sử đều phải hứng chịu những hiện tượng tương tự như bất kỳ một toà nhà nào khác, song những nơi này lại có trọng trách duy trì, bảo tồn những đồ vật lưu giữ cho các thế hệ trong tương lai. Dù chúng ta không thể triệt tiêu mọi quá trình phân huỷ các tư liệu văn hoá thông qua tiếp cận với các bộ sưu tập, song chúng ta có thể làm chậm lại đáng kể quá trình gây hư hỏng thông qua việc tạo ra môi trường ôn hoà. Việc
  14. kiểm soát một số nhân tố, như ánh sáng, khá dễ dàng và không tốn kém. Trái lại, kiểm soát không khí (nhiệt độ và độ ẩm tương đối) lại là một nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều. Theo dõi nhiệt độ và độ ẩm tương đối có ý nghĩa then chốt để kiểm soát môi trường hiệu quả. Việc theo dõi này có thể nhằm một vài mục đích: cung cấp các thông số cho thấy việc kiểm soát môi trường hiện tại là chưa đủ; lập hồ sơ về các điều kiện môi trường hiện nay để chuẩn bị cho những đổi mới về trang thiết bị; đánh giá hiệu quả của những đổi mới về trang thiết bị đã được tiến hành; và/hoặc bảo vệ chống lại những thái cực môi trường có thể xảy ra. Tại sao việc kiểm soát môi trường lại quan trọng? Việc kiểm soát môi trường rất quan trọng vì nhiệt độ và độ ẩm tương đối không thích hợp có thể hạn chế nghiêm trọng tuổi thọ của các đồ vật lưu trữ làm từ giấy. Nhiều người cho rằng nhiệt độ có ảnh hướng lớn nhất lên các đồ lưu trữ (như sức ảnh hưởng của nó đến con người), trong trên thực tế, độ ẩm tương đối ít nhất cũng góp phần quan trọng không kém vào quá trình gây hư hỏng giấy. Hầu hết mọi người đều nhận thức được rằng nhiệt độ và độ ẩm tương đối cao sẽ khích thích sự phát triển của nấm mốc và sự sinh sôi của côn trùng, song trong thực tế, ảnh hưởng của môi trường lưu trữ lên các đồ lưu
  15. giữ còn phức tạp hơn nhiều. Cũng cần nhận thấy rằng nhiệt độ và độ ẩm tương đối có mối quan hệ tương tác – một thay đổi trong yếu tố này có thể đưa tới một thay đổi trong yếu tố kia. Không khí ấm giữ nhiều độ ẩm hơn không khí mát, nên nếu lượng hơi ẩm trong không gian không đổi, thì độ ẩm tương đối (thể hiện “dưới dạng phần trăm lượng nước trong không khí tương ứng với một lượng không khí nhất định” ) sẽ giảm khi nhiệt độ tăng, và sẽ tăng khi nhiệt độ giảm (mối quan hệ giữa nhiệt độ và độ ẩm tương đối này có thể tính được bằng biểu đồ đo độ ẩm). Ví dụ, nếu một không gian đang ở 60 độ F và độ ẩm tương đối 70%, thì độ ẩm tương đối sẽ giảm xuống còn khoảng 40% nếu nhiệt độ tăng lên 75 độ F. Mặt khác, nếu nhiệt độ giảm, độ ẩm tương đối sẽ tăng, và khi nó đạt đến 100%, lúc đó không khí sẽ sũng nước và hơi ẩm sẽ đọng thành nước (đây gọi là điểm ngưng tụ). Ví dụ, nếu một không gian ở nhiệt độ 70 độ F và độ ẩm tương đối là 50% và nhiệt độ đột ngột hạ xuống dưới 50 độ F, quá trình ngưng tụ sẽ xảy ra trên các đồ vật lưu trữ. Quá trình hư hỏng của giấy (cùng với nhiều hình thức phân huỷ khác của các chất liệu hữu cơ như da, vải và băng từ) là một minh chứng về sự phá huỷ hoá học, và phản ứng hoá học chi phối quá trình này chủ yếu bị ảnh
  16. hưởng bởi môi trường. Nhiệt độ làm gia tăng tốc độ của các phản ứng hoá học gây ra sự phá huỷ của a-xít. Một phương pháp đơn giản quen thuộc ước tính rằng các phản ứng hoá học sẽ tăng gấp đôi nếu nhiệt độ tăng lên 15 độ F (tương đương 10 độ C). Trong trường hợp đặc biệt có chất xenluloza, các thử nghiệm nhân tạo kéo dài cho thấy nhiệt độ tăng lên 9 độ F sẽ làm cho tốc độ phá huỷ tăng gần gấp đôi, thậm chí trong điều kiện không có ánh sáng, bụi bẩn, hay các nhân tố khác. Độ ẩm tương đối mang hơi ẩm cũng góp phần làm tăng những phản ứng này - độ ẩm càng cao, thì quá trình phá huỷ càng diễn ra nhanh. Những mẫu nghiên cứu nhằm lượng hoá tác động của nhiệt độ và độ ẩm tương đối lên quá trình phá huỷ hoá học, đã được đưa ra ứng dụng trong mấy năm qua. Viện Lưu ảnh (IPI) tại Viện Công nghệ Rochester đã ứng dụng “Chỉ số bảo tồn”, xây dựng trên công trình của Donald Sebera, trước từng làm việc cho Thư viện Quốc hội. Công cụ này đưa ra một ý tưởng chung về khoảng thời gian các đồ lưu trữ bằng giấy bị hư hại rõ nét tại một nhiệt độ và độ ẩm tương đối cụ thể. Mẫu nghiên cứu này cho thấy các chất liệu hữu cơ có tuổi thọ ngắn được cất giữ ở nhiệt độ 72 độ F và độ ẩm tương đối 50% sẽ có tuổi thọ xấp xỉ khoảng 33 năm, nhưng nếu nhiệt độ được
  17. hạ thấp xuống 62 độ F và độ ẩm tương đối còn 40%, những chất liệu này sẽ có tuổi đời là 88 năm. Mẫu này cũng chỉ rõ nếu các chất liệu chịu những nhiệt độ và độ ẩm cao (như nhiệt độ 82 độ F và độ ẩm tương đối 75%), thì quá trình hư hỏng sẽ rõ nét chỉ trong vòng 9 năm hoặc thậm chí ngắn hơn . Một khía cạnh thú vị khác của nghiên cứu này là nó chứng minh rằng thông qua nhiều sự kết hợp khác nhau giữa nhiệt độ và độ ẩm tương đối, ta có thể đạt được cùng một tuổi thọ như đã dự kiến. Ví dụ, các điều kiện nhiệt độ 57 độ F và độ ẩm tương đối 50% hay 82 độ F và 35% sẽ cùng thu về một kết quả là tuổi thọ dự tính gần 100 năm . Điều này sẽ cho phép các cơ quan bảo tồn, bảo tàng có thể linh ậnt lựa chọn cách thức kiểm soát môi trường, mặc dù độ ẩm và nhiệt độ quá cao vẫn luôn là những điều kiện phải tránh do có nguy cơ phát triển nấm mốc và côn trùng. Ánh hưởng của những dao động về nhiệt độ và độ ẩm tương đối lên đồ vật lưu trữ là một mối quan ngại lớn khác đối với việc kiểm soát môi trường. Những dao động về nhiệt độ rất nghiệm trọng – nghiên cứu được tiến hành tại Thư viện Quốc hội cho thấy nếu giấy đã từng trải qua những dao động về nhiệt độ, thì quá trình phá huỷ hoá học của giấy đó diễn ra nhanh hơn so với giấy
  18. được cất tại nơi có nhiệt độ không đổi. Hơn nữa, giấy – giống như nhiều chất liệu khác – chứa chất hogroscope, có nghĩa là nó có khả năng hấp thụ và toả hơi ẩm. Điều này có nghĩa là khi nhiệt độ tăng lên và độ ẩm tương đối giảm xuống, hơi ẩm sẽ được thải từ một đồ vật có chứa hogroscope ra ngoài không khí, vì đồ vật này cố gắng duy trì trạng thái cân bằng. Khi nhiệt độ hạ xuống và độ ẩm tương đối lại tăng lên, hơi ẩm lại quay trở lại đồ vật. Quá trình này có thể gây ra một sức ép tự nhiên vì sự thay đổi tỷ lệ độ ẩm khiến cho chất liệu nở ra và co lại. Điều này gây tổn hại nghiêm trọng đến những chất liệu tổng hợp như nội thất và các tác phẩm nghệ thuật, và khiến cho sách báo và giấy tờ bị quăn và biến dạng (mặc dù trong một số trường hợp, sách báo và giấy tờ được bảo vệ tránh những dao động vừa phải của độ ẩm tương đối, vì những thay đổi về độ ẩm có thể gia tăng do điều kiện lưu trữ khép kín hay do sách báo bị đóng chặt với nhau . Cuối cùng, các nhà quản lý lưu trữ phải nhận thức được rằng mặc dù không có nguy cơ cụ thể nào gắn với môi trường lưu trữ ở nhiệt độ thấp (trên thực tế, việc lưu trữ trong điều kiện như vậy làm giảm đáng kể quá trình hư hỏng), song độ ẩm tương đổi thấp lại gây tổn hại đến một số chất liệu. Lâu nay, người ta luôn lo ngại rằng giấy sẽ
  19. rất dễ hư hỏng nếu lưu giữ tại các độ ẩm tương đối thấp. Nghiên cứu cho thấy rằng giấy có thể được lưu giữa an toàn ở độ ẩm tương đối khoảng 20%, hoặc 30% nếu phải tăng độ ẩm lên; nên không nhất thiết phải lưu trữ ở những độ ẩm từ 40-50% mới bảo đảm mục tiêu an toàn. Đối với các chất liệu giấy da và phim ảnh, nên duy trì độ ẩm tương đối thấp để tạo môi trường hoá học ổn định; song những chất liệu này không được lưu giữ ở độ ẩm dưới 30%. Đặc biệt, trong trường hợp giấy da, cần hết sức lưu ý tránh thay đổi môi trường nhanh chóng vì điều này có thể gây hư hỏng đối với đồ vật . Việc kiểm soát môi trường rất tốn kém- vậy kết quả thu được ở đây là gì? Mặc dù giới lưu trữ, bảo tồn không thể thống nhất về những tiêu chuẩn cụ thể đối với việc kiểm soát môi trường khi lưu giữ những đồ vật làm từ giấy, song các nhà quản lý vẫn đạt được sự nhất trí về một số kết luận chung rút ra từ nghiên cứu, đó là: - Nhiệt độ trên 70 độ F và độ ẩm tương đối trên 55-60% sẽ kích thích nấm mốc và côn trùng phát triển. - Quá trình hư hỏng sẽ gia tăng tại những thái cực môi trường: độ ẩm cao làm gia tăng quá trình hình thành a- xít; độ ẩm tương đối dưới 30% có thể gây hại cho giấy,
  20. giấy da, chất kết dính, nhũ tương phim ảnh và các chất liệu khác. - Trong khoảng giới hạn này thì nhiệt độ và độ ẩm tương đối càng thấp càng tốt, với điều kiện chúng không giao động . Bước đầu tiên nhằm hạn chế sự hư hỏng thông qua việc quản lý môi trường tốt mà cơ quan lưu trữ cần chú trọng là duy trì điều kiện môi trường ổn định trong suốt cả năm, nhiệt độ không cao quá 70 độ F và độ ẩm tương đối từ 30-50%. Đây là những giá trị được đưa ra trong cuốn Nguyên tắc chỉ đạo về môi trường đối với việc lưu giữ giấy tờ, một báo cáo kỹ thuật của Tổ chức Tiêu chuẩn Thông tin Quốc gia. Báo cáo chỉ rõ rằng cần lựa chọn một tiêu chí giá trị trong khoảng 30-50% đối với độ ẩm tương đối, điều này phụ thuộc vào yếu tố nào hệ thống kiểm soát môi trường của cơ quan đó có thể duy trì ổn định lâu dài. Báo cáo lưu ý rằng nhiệt độ không nên thay đổi vượt quá mức ±2 độ F và độ ẩm tương đối không nên lên xuống quá mức ±3% trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nếu kiểm soát được những dao động, sự tổn hại đối với đồ lưu trữ sẽ chậm hơn đáng kể so với hàng loạt những điều kiện lưu trữ hiện nay tại nhiều khu vực khác nhau của Mỹ và Ca-na-đa.
  21. Các cơ quan chịu trách nhiệm lưu trữ, bảo tồn lâu dài phải được cấp kinh phí khi cần để có thể đạt được điều kiện môi trường tối ưu. ít nhất, ở những nơi cần phải có hệ thống sởi cho mùa đông dài, nhiệt độ cũng nên giữ thấp ở mức nhân viên có thể chịu đựng được (giả thiết đã đạt được độ ẩm tương đối như mong muốn). ở những nơi nhiệt độ và độ ẩm mùa hè cao, cần để các đồ vật lưu trữ có tầm quan trọng lâu dài trong phòng điều hoà. Không có trường hợp nào cần phải tắt thiết bị kiểm soát môi trường hay thay thế bằng máy điều chỉnh nhiệt dùng vào ban đêm, cuối tuần hoặc trong những thời gian khác khi phòng lưu trữ không hoạt động. Những thay đổi nhanh chóng, lặp đi lặp lại khi thiết bị cố gắng chuyển khu vực lưu trữ từ điều kiện "đóng cửa" sang điều kiện "làm việc" gây ra áp lực lớn đối với các đồ vật lưu giữ ở đây. ở một số khu vực, thời tiết khắc nghiệt và kinh tế khó khăn buộc các cơ quan phải đóng cửa vào mùa đông. Trong tình hình như vậy, không phải thời tiết lạnh gây tổn hại tới đồ lưu trữ, mà chính độ ẩm dễ thay đổi trong một toà nhà chưa thực sự được cách ly hay đóng kín để ngăn không khí ùa vào. Các biện pháp nhằm đông hoá các đồ lưu trữ đã được ứng dụng. Thêm vào đó, việc kiểm soát độ ẩm mùa đông bằng cách hạ thấp hơi nóng đồng thời sử dụng các thiết bị cảm biến về độ ẩm có thể
  22. sẽ có tác dụng. Nếu mùa đông quá khắc nghiệt, hệ thống sưởi trung tâm có thể làm giảm đáng kể độ ẩm tương đối trong một toà nhà. ở nơi có thể lắp đặt hệ thống tạo độ ẩm, thì nên lắp hệ thống chạy bằng hơi nước, và luồng hơi phải sạch và độc lập với các hệ thống khác. Hầu hết hệ thống sưởi bằng hơi và nước nóng sử dụng các hoá chất chống ăn mòn để các ống dẫn không bị hư hỏng. Những hoá chất này có thể có hại cho nhân viên làm việc và đồ lưu trữ nếu chúng bị phân tán trong không khí. Dưới điều kiện độ ẩm cao kéo dài, thì mỗi điều hoà không khí thông thường sẽ không đủ để làm giảm độ ẩm. Vì vậy, cần theo dõi cẩn thận môi trường sử dụng điều hoà. Các hoá chất hút ẩm cũng có thể đưa những hoạt chất ráp gây hại vào không khí và chỉ nên sử dụng chúng trong trường hợp khẩn cấp. Sẽ lý tưởng hơn nếu ta bổ sung thêm một máy thổi mát. Duy trì những điều kiện hoàn hảo là điều khó thực hiện và tốn kém, đặc biệt ở khí hậu phía bắc chịu ảnh hưởng của mùa hè nóng nực, ẩm ướt và mùa đông lạnh giá, khô hanh. Hướng dẫn NISO đã chi tiết hoá các bước cho phép nhiệt độ và độ ẩm tương đối từ từ tăng lên (tức là thay đổi dần dần theo cùng một hướng) 3 độ F hay độ ẩm
  23. tương đối 3% mỗi tháng, theo sự chuyển mùa. Sự dao động tối đa cho phép hàng ngày là ±2 độ F và độ ẩm tương đối ±3%. Việc theo dõi chặt chẽ là điều cần thiết để phát hiện chính xác những thay đổi này. Bằng cách nào để xác định liệu môi trường có đạt yêu cầu không? Cách duy nhất để biết môi trường nào đang tồn tại trong toà nhà của bạn là đo và ghi lại nhiệt độ và độ ẩm tương đối bằng các thiết bị được thiết kế để phục vụ cho mục đích này. Điều này cần được tiến hành một cách có hệ thống ở những nơi lưu trữ những đồ vật có giá trị lâu dài. Một bản tường trình cụ thể, chính xác có thể giúp việc kiểm soát môi trường không phải dự trù những giả thuyết mà đi thẳng vào các bước đi hay mục tiêu mang tính thực tế nhằm cải thiện điều kiện của kho lưu trữ hay phòng trưng bày. Việc thuyết phục các nhà hoạch định chủ chốt quan tâm tới môi trường hiện tại của toà nhà cũng là việc làm cần thiết. Cùng với việc lập hồ sơ về điều kiện môi trường hiện tại, một chương trình theo dõi có thể hướng dẫn và ghi nhận tác động của những thay đổi khi vận hành các thiết bị kiểm soát môi trường sẵn có. Hệ thống sưởi, thông gió và điều hoà không khí (HVAC) hiếm khi được sử dụng một
  24. cách tối ưu, thậm chí cả khi tất cả các thiết bị này đã được lắp đặt. Một kỹ sư chuyên bảo dưỡng toà nhà hay nhà thầu phụ trách hệ thống HVAC có thể thường xuyên cải thiện hoạt động của hệ thống, nếu luôn có những thông tin cụ thể cho thấy tác động của việc thay mới các bộ ổn nhiệt, bộ lọc khí, hay thậm chí sắp xếp lại đồ nội thất để làm thông các lỗ thông hơi. Nếu thiết bị kiểm soát môi trường được thiết kế nhằm tạo ra những điều kiện lý tưởng, song các vấn đề vẫn không giải quyết được bằng những sửa chữa đơn giản và bảo trì thường xuyên, thì cần lấy lại sự cân bằng cho hệ thống một cách có chuyên môn. Đây là một quá trình bao gồm việc đo lại luồng khí và các đặc tính khác của hệ thống HVAC; đòi hỏi phải có một kỹ sư kiểm soát môi trường chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn cao. Nếu điều kiện không thể cải thiện được với thiết bị hiện có, một chương trình theo dõi cần lập hồ sơ về tính chất nghiêm trọng của vấn đề và đề xuất nhu cầu trang bị thêm máy móc thiết bị. Trường hợp khả quan nhất thì chương trình này sẽ chỉ rõ rằng thiết bộ kiểm soát môi trường hiện có đang hoạt động tốt và đảm trách được khối lượng công việc theo yêu cầu. Chương trình cũng xác định ra những vấn đề nhất thời đôi lúc phát sinh.
  25. Làm thế nào kiểm soát được môi trường? Có rất nhiều thiết bị khác nhau sẵn có để đo nhiệt độ và độ ẩm tương đối. Song có thể chia chúng thành hai loại: loại có thể đo nhanh (như thông số về điều kiện môi trường tại một thời điểm cụ thể) và loại đưa ra một dãy thông số nối tiếp nhau về điều kiện môi trường. Mỗi cơ quan cần phân tích nhu cầu và khả năng của từng đơn vị để quyết định thiết bị theo dõi nào là phù hợp nhất. Dưới đây là những thiết bị phổ biến nhất . Thiết bị theo dõi nhanh gồm: 1- Nhiệt kế có thể cung cấp những thông tin chính xác về nhiệt độ với giá khoảng 10 đô/chiếc. Nhiệt kế kiểm tra dùng trong khoa học luôn có bán, song về mức độ chính xác, một nhiệt kế tiêu chuẩn đo được cả điều kiện môi trường sắp tới trong toà nhà sẽ thoả mãn thị hiếu của người tiêu dùng. Hầu hết các thiết bị đo độ ẩm tương đối đều có lắp đặt thêm một bộ cảm ứng nhiệt, vì độ ẩm tương đối chỉ là một phần của nhiệt độ không khí chỉ lượng hơi ẩm có trong không khí. 2- Dụng cụ đo độ ẩm kiểu đĩa số đơn giản luôn có bán tại hầu hết các cửa hàng đồ điện với giá 15 đô hoặc thấp hơn, là một cách tiết kiệm để đo độ ẩm tương đối, song không nên sử dụng thiết bị này vì có thể không chính xác
  26. và hầu hết đều không kiểm tra lại được. Chỉ ngoại trừ dụng cụ đo độ ẩm đĩa số sử dụng “màng liên kết của động vật” có độ chính xác cao hơn. 3- Dải băng hay thẻ màu chỉ độ ẩm là một thiết bị theo dõi độ ẩm khác cũng có chi phí thấp (giá từ 1-5 đô/một dải). Một số dải có thể lộn lại nên tái sử dụng được, trong khi những loại khác chỉ dùng một lần. Dải băng chỉ độ ẩm chỉ cung cấp những thông số áng chừng; để chắc chắn, các thông số hiện thị chỉ ra các điều kiện môi trường cực cao hoặc cực thấp. 4- Thiết bị đo độ ẩm treo dây (giá khoảng 100 đô) là thiết bị ít tốn kém nhất có khả năng đo độ ẩm tương đối chính xác. Gồm hai nhiệt kế đặt song song. Bầu nhiệt kết thứ nhất được bọc bởi một chiếc bấc được người sử dụng dùng nước cất làm ướt. Thiết bị này lúc lắc, mỗi giây quay một vòng trong khoảng vài phút để lấy thông số chính xác. Kết quả luồng không khí đi qua chiếc bấc ướt sẽ làm mát nhiệt kế thứ hai, và sự khác biệt giữa nhiệt độ của bầu khô và bầu ướt được sử dụng để đo độ ẩm tương đối. - Mặc dù điều kiện môi trường có thể được xác định nhờ sử dụng thiết bị này (vài lần trong một ngày), song tính chính xác ở đây còn phục thuộc vào cách thiết kế công cụ
  27. và kỹ năng của người sử dụng. Những người phụ trách việc theo dõi cần thực hành cách sử dụng mới có thể biết cách tạo ra các thông số. - Lợi thế chính của thiết bị này là chi phí thấp và gọn nhẹ. Một thiết bị có thể được sử dụng ở nhiều khoảng không gian trong một ngày. Tuy nhiêu, bất lợi là tính thiếu chính xác nếu người sử dụng không có kỹ năng, các vấn đề xảy ra khi đo lại và thực tế cho thấy một chương trình theo dõi dựa trên các thông số tức thời sẽ không thể cung cấp các thông tin quan trọng như tốc độ và tần suất của những chuyển biến trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Những thiết bị này chỉ là hình ảnh phác hoạ về môi trường, dựa trên sự điều kiển của con người, mà đôi khi người đó không thể có ở đó để cập nhật thông tin vào lúc đêm hôm. 5- Thiết bị đo độ ẩm chạy pin (quạt mô-tơ) hoạt động giống như nguyên tắc của thiết độ đo độ ẩm treo dây, nhưng dùng một quạt chạy mô-tơ để tạo luồng không khí. Thiết bị này có giá vừa phải (khoảng 150 đô trở lên), ít bị lỗi và có thể dịch chuyển thuận tiện để theo dõi nhiều khoảng không gian khác nhau. Song thiết bị cũng khó có thể đo được những điều kiện môi trường ở các thái cực và sự thay đổi nhanh chóng trong môi trường, vì còn tuỳ thuộc vào người sử dụng. Luôn phải có sẵn pin
  28. thay thế. 6- Máy đo nhiệt độ/độ ẩm điện tử là một thiết bị cầm tay khác, có một bộ phận cảm ứng kiểm tra để đo độ ẩm tương đối tại một nhiệt độ nhất định. Nhiều thiết bị có màn hiện thị bằng tinh thể lỏng cho biết độ ẩm tương đối và nhiệt độ trong phòng. Thiết bị này có giá từ 300 đô trở lên và cũng phụ thuộc vào thời gian và tần suất đo. Mặc dù thiết bị có độ chính xác cao và dễ sử dụng, nhưng một vài loại có giá thành rẻ hơn chỉ có thể đạt độ chính xác ±3-5% và phải mất nhiều phút để phản ứng trước những thay đổi về độ ẩm tương đối. Những thiết bị này cần được kiểm tra định kỳ theo gợi ý của nhà sản xuất. 7- Nhiệt độ kế kỹ thuật số đo mức tối đa/tối thiểu là thiết bị chạy pin bao gồm bộ cảm ứng nhiệt và độ ẩm tương đối với một con chíp vi tính luôn lưu giữ bộ nhớ về các giá trị tối thiểu và tối đa cho đến khi được người dùng đặt lại. Giống như các công cụ đo lường tức thời khác, thiết bị này cung cấp thông tin về điều kiện môi trường vào một thời điểm nhất định, nhưng chúng cho phép ghi lại các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm thấp nhất và cao nhất qua những khoảng thời gian nhất định. Người theo dõi phải ghi lại những thông số này và đặt lại thiết bị đo một lần mỗi ngày. Chỉ số về độ ẩm chỉ chính xác ở mức khoảng ±5% (ở mức nhiệt độ trung bình - độ chính xác
  29. có thể giảm tại các thái cực của nhiệt độ), song thiết bị này có thể cung cấp thông tin phác thảo ban đầu về điều kiện môi trường. Thiết bị có bán với mức giá dưới 70 đô qua một số nhà cung cấp. Các thiết bị theo dõi liên tục gồm: 1-. Nhiệt độ biểu kế là sự lựa chọn tiêu chuẩn để theo dõi nhiệt độ và độ ẩm tương đối. Đặc tính gồm có: + Nhiệt độ kế sử dụng một nhúm tóc người để đo độ ẩm tương đối và một thiết bị lưỡng kim để đo nhiệt độ. + Các bộ cảm ứng được gắn với những chiếc bút ghi lại những thay đổi liên tục trên một biểu đồ đơn giản - những chiếc bút này được lắp theo kiểu băng đạn dễ dàng thay thế được. + Biến số tối thiểu có thể chấp nhận được đối với tính chính xác về nhiệt độ là ±2 độ F; về độ ẩm tương đối là ±5% (±3% thì lý tưởng hơn). Bảo đảm rằng thiết bị sẽ hoạt động trong hầu hết mọi điều kiện môi trường của toà nhà. + Nhiệt độ biểu kế luôn sử dụng các bảng biểu đồ tròn, song biểu đồ tuyến tính (còn được gọi là biểu đồ trống) được ưu chuộng hơn vì dễ đọc.
  30. + Nhiệt độ biểu kế cần có nhiều tốc độ, như sử dụng các biểu đồ 24 giờ, 7 giờ, hoặc 1 hay 2 tháng. Mặc dù các biểu đồ theo ngày hoặc tuần cung cấp các thông số chi tiết nhất, song biểu đồ theo tháng cũng rất có ích trong trường hợp nhân viên không thể thay biểu đồ thường xuyên được. Đối với một nhiệt độ biểu kế với những tính năng nêu trên, chi phí mua có thể vào khoảng từ 700 đô/một chiếc. Nếu không gian theo dõi nhiều hơn một, nhiệt độ biểu kế có thể được di chuyển khi cần, song nên đặt thiết bị tại mỗi khu vực trong vòng ít nhất vài tuần lễ của một mùa. Việc bảo dưỡng thường xuyên thực sự cần thiết đối với nhiệt độ biểu kế. Cần sử dụng tấm phủ để bảo vệ máy khỏi bụi và thiết bị cần được lau chùi định kỳ theo chỉ dẫn sử dụng. Cần làm ẩm định kỳ nhúm tóc người, có lẽ khoảng một năm một lần. Nhiệt độ biểu kế cũng cần được kiểm tra thường xuyên (thông thường ít nhất một tháng một lần và mỗi khi di chuyển) sử dụng thiết bị đo ẩm chạy pin hay dụng cụ đo ẩm chạy điện có chất lượng tốt. Nếu một thiết bị không được kiểm tra thường xuyên, thì tỷ lệ ngừng hoạt động của nó lên đến 10-20%. Cả hai việc làm ẩm và kiểm tra lại cần theo chỉ dẫn của nhầ sản xuất là tốt nhất. Nhúm tóc người cũng cần thay thế trong vòng 3 đến 5 năm - hoặc theo gợi ý của nhà sản xuất.
  31. 2-. Máy nghi số liệu là thiết bị chạy pin có kích cỡ bằng chiếc đài cát-xét. Thiết bị này có các bộ cảm ứng điện tử và một con chíp vi tính để ghi lại nhiệt độ và độ ẩm tương đối tại từng thời điểm cách quãng do người sử dụng quyết định. Số liệu được truyền từ máy ghi số liệu sang máy tính cá nhân qua một đường cáp dẫn. Một khi số liệu đã được cập nhật, bộ phần mềm đi liền với máy ghi số liệu sẽ cho phép người sử dụng lập các bảng biểu và biểu đồ theo ý muốn mô phỏng các điều kiện môi trường theo thời gian. Đây là ưu điểm vượt trội của thiết bị này so với nhiệt độ biểu kế khi biểu đồ số liệu thu được phải lập bằng tay để phân tích. Một số vấn đề cần cân nhắc khi mua một máy ghi gồm: + Tần suất đo lường và cập nhật số liệu. Một máy ghi số liệu không thể theo dõi liên tục như nhiệt độ biểu kế – hầu kết các máy ghi chỉ có thể đo lường tại từng thời điểm cách quãng từ một vài giây đến một vài tiếng. Đo lường với mật độ cao hơn sẽ chiếm nhiều bộ nhớ của máy hơn, đòi hỏi phải cập nhật số liệu thường xuyên hơn và phải có thêm thời gian để bảo quản máy. + Hiện thị liên tục thông tin về điều kiện môi trường. Tăng số lượng máy ghi, song không chỉ có vậy, để thực hiện được mục tiêu này.
  32. + Tính chính xác của các bộ cảm ứng điện tử. Một số máy ghi sử dụng các bộ cảm ứng có độ chính xác thiên về nhiệt độ – nghĩa là máy ghi có độ chính xác 3% đối với độ ẩm tương đối trong hầu hết các điều kiện về nhiệt độ và độ ẩm, nhưng cũng có một số bộ cảm ứng không có khả năng này. Một số bộ cảm ứng có thể có “độ trễ” từ 4- 5 phút nếu độ ẩm giảm xuống - đây cũng là một bất lợi nếu cần thường xuyên lấy các mẫu phân tích. Giá cả cũng rất khác nhau, có thể mua với giá từ 500 đô trở lên. Các bộ cảm ứng điện tử cần được kiểm tra định kỳ theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Giống như nhiệt độ biểu kế, một máy ghi số liệu có thể được di chuyển tới nhiều nơi, song phải lập hồ sơ cẩn thận về thời điểm di chuyển cho phù hợp với số liệu tương ứng. phương pháp xác định thiết bị cần mua? Đối với các cơ quan, tổ chức nhỏ, chi phí là vấn đề chính cần xem xét. Nhìn vào các tờ quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của một số nhà cung cấp và so sánh tính năng cũng như giá cả của thiết bị. Nếu nhiều các tờ giới thiệu sản phẩm không đưa ra đầy đủ các thông tin cần thiết, thì hãy đặt các câu hỏi. Thảo luận với các đồng nghiệp cùng triển khai chương trình kiểm soát môi trường. Để có đầy đủ thông tin trước khi ra một quyết định, cần
  33. đặt ra những câu hỏi quan trọng dưới đây: 1- Tại sao bạn cần những thông tin này? Nếu bạn đang lập hồ sơ về ảnh hưởng của việc thay đổi thiết bị kiểm soát môi trường, bạn cần một nhiệt độ biểu kế liên tục ghi lại những thay đổi nhỏ trong nhiệt độ và độ ẩm tương đối. Nếu việc kiểm soát môi trường trong toà nhà bị hạn chế do hệ thống sưởi hơi nước trong mùa đông, và bạn muốn chứng minh rằng điều kiện môi trường lưu trữ đang ra khỏi những giới hạn cho phép, máy đo độ ẩm treo dây có thể là một bước đi đầu tiên đủ đáp ứng yêu cầu. 2- Loại điều kiện môi trường nào thiết bị này cần đo? Nếu bạn đang theo dõi một toà nhà không có hệ thống sưởi trong suốt một năm ở vùng bờ biển bang Maine, nhiệt độ có thể xuống dưới 0 độ F và tăng lên trên 90 độ F. Độ ẩm tương đối trong một toà nhà có hệ thống sưởi, nhưng không có điều hoà không khí, có thể từ chưa đầy 10% tới gần 100%. Liệu thiết bị của bạn có ghi lại được toàn bộ những thay đổi với biên độ rộng như vậy không? Và có cần phải làm thế không? 3- Số liệu đo lường của bạn cần độ chính xác ở mức nào? Nếu bạn không có thiết bị kiểm soát môi trường tinh vi, hoặc nếu bạn lưu trữ những đồ vật không có giá trị, thì
  34. chỉ cần những thiết bị có độ nhạy cảm thấp hơn. Ngược lại, nếu bạn đang theo dõi một trường hợp để thay đổi thiết bị hay quy trình hoạt động, và tăng kinh phí bảo quản, bạn cần đề trình một bản báo cáo thông số hết sức chính xác. 4- Bạn có cần ghi lại các thông tin khi toà nhà không hoạt động không? Nếu bạn đang đo lường những thay đổi trong môi trường do việc thay thế các chế độ kiểm soát môi trường vào ban đêm và cuối tuần, cần có một thiết bị theo dõi liên tục. 5- Nhu cầu kiểm tra, vận hành và bảo dưỡng thuận tiện tới mức nào? Ai sẽ là người đảm nhận những nhiệm vụ này và trình độ của họ ra sao? Liệu bạn có đủ kinh phí để mua cả thiết bị ghi nhận thông tin lẫn thiết bị kiểm tra không? 6- Thiết bị của bạn phải hoạt động trong bao lâu? Liệu có tồn tại tình trạng sử dụng bất cẩn và người sử dụng không được đào tạo không? 7- Nguồn cung cấp năng lượng cho thiết bị là gì? Liệu toà nhà của bạn có thể cấp điện ổn định hay bạn phải cần tới thiết bị chạy pin? 8- Liệu thiết bị này có cung cấp cho bạn những thông tin
  35. bạn cần cho chương trình theo dõi của bạn không? Những thứ cần thiết ngoài thiết bị ra? Việc theo dõi phải phải được phân công cho một người cụ thể trong cơ quan,. Bên cạnh đó, cần đào tạo một thành viên hỗ trợ để đảm đương công việc trong trường hợp người kia vắng mặt hoặc đi nghỉ? Một chương trình theo dõi hiệu quả gồm có một bản kế hoạch được soạn thảo trên giấy về việc thu thập thông tin và bảo dưỡng thiết bị. Kễ hoạch này cần xác định rõ các khoảng không gian cần theo dõi, quy trình thực hiện và các hình thức ghi nhận thông tin cần thiết. Nếu việc theo dõi phụ thuộc vào một cá nhân thay vì vào một thiết bị ghi nhận tự động, cố gắng thu nhặt được nhiều nhất các biến số về điều kiện môi trường: tiến hành đo lường điều kiện môi trường tại các điểm cao nhất và thấp nhất có thể. Với những mục tiêu mang tính thiết thực, thì chỉ cần chọn các thời điểm thích hợp vào buổi sáng và buổi trưa hoặc vào lúc 5 giờ chiều tại hầu hết các thư viện hay viện bảo tàng. Với những mục tiêu đặc biệt ngoại lệ thì việc lắp đặt những thiết bị ghi nhận tự động là hết sức cần thiết để đo lường các điều kiện môi trường hiện có. Các thiết bị này
  36. cần được đặt cao trên mặt sàn, xa các lỗ thông khí, thiết bị sưởi/làm mát/tạo độ ẩm cũng như cửa ra vào và cửa sổ. Các số liệu ghi nhận về điều kiện thời tiết và các sự kiện đặc biệt (như việc mở cửa phòng trưng bày thu hút số lượng khách thăm quan tăng vọt làm thay đổi nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong một không gian; hoặc nồi hơi hay hệ thống điều hoà không khí bị hỏng) cần được cập nhật liên tục để những thay đổi ghi nhận được có thể diễn giải một cách chính xác. Những thông số ghi nhận về thời tiết từng vùng luôn lưu tại Cơ quan quản lý Đại dương và Khí hậu quốc gia (NOAA), ở Washington DC. Những loại thông tin này cũng có thể lấy tại trạm khí tượng địa phương hay của trường đại học hoặc tại sân bay địa phương. Nếu chỉ có một số lượng hạn chế các nhiệt độ biểu kế hay máy ghi dữ liệu, thì để lập được hồ sơ tương đối chính xác về các điều kiện môi trường tại một số không gian có thể được tiến hành bằng cách đặt mỗi thiết bị ở một khu vực trong vòng vài tuần mỗi mùa. Cuối mỗi năm, các số liệu ghi nhận sẽ có biết điều kiện môi trường điển hình ở mỗi nơi. Cần có chuyên gia tư vấn có chuyên môn chịu trách nhiệm đọc các số liệu đo được. Các thông tin quan trọng nhất là số liệu về sự biến thiên tối đa của nhiệt độ
  37. và độ ẩm tương đối cũng như tốc độ và mức độ thay đổi của môi trường. Mỗi biểu đồ (hoặc mô hình của một chương trình theo dõi viết tay) cần gắn kèm với số liệu đo đạc của từng nơi và ngày tháng tiến hành, đề xuất của người theo dõi cũng như thông tin kiểm tra (như ngày tháng, thời gian và thiết bị thay thế) nếu có thay đổi. Việc đọc các thông số từ các biểu đồ của nhiệt độ biểu kế sẽ dễ dàng hơn nếu thường được ghi lại bằng một biểu đồ chạy cho biết mức độ cao thấp, những dao động và tần suất dao động. Việc này cần thực hiện mỗi tuần (hoặc tháng) khi thay biểu đồ. Bạn cần làm gì khi đã xác định rõ thiết bị cần dùng? Các biện pháp xử lý nhằm cải tạo điều kiện môi trường cho bảo tàng, thư viện và các nơi lưu trữ tư liệu bao gồm: (1) thiết lập hệ thống kiểm soát môi trường trung tâm; (2) sử dụng các máy điều hoà không khí, máy tạo ẩm và/hoặc máy hút ẩm gọn nhẹ; (3) chuyển đồ lưu trữ ra khỏi các phòng áp mái, nơi mà không khí thường nóng nực, hoặc tầng hầm nơi môi trường ẩm ướt; (4) tạo ra các không gian lưu trữ được cách biệt; và/hoặc (5) cải tạo môi trường cách ly và các cửa đóng kín của toà nhà. Một ghi nhớ hết sức quan trọng nữa là giữa nhiệt độ và
  38. độ ẩm tương đối có mối liên hệ mật thiết với nhau và việc điều chỉnh một nhân tố sẽ làm thay đổi trạng thái cân bằng của các nhân tố quan trọng khác (ví dụ, một máy hút ẩm có thể sản sinh ra một lượng hơi nóng đủ để buộc phải có nhu cầu làm mát thêm không khí). Nếu biện pháp xử lý nhằm cải thiện tình hình được tiến hành mà không cân nhắc tới mọi mọi ảnh hưởng tới môi trường, thì kết quả có thể trái ngược lại, không cải thiện lên được. Điều quan trọng ở đây là biết được (từ các số liệu đo đạc ghi nhận) điều kiện môi trường nào đang tồn tại hiện nay và có được tư vấn của một kỹ sư kiểm soát môi trường có kinh nghiệm làm việc tại các cơ quan lưu trữ, trước khi thực hiện những thay đổi lớn. Cũng không quá khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc theo dõi liên tục sau khi đã có thay đổi. Trong việc lựa chọn chuyên gia tư vấn về kiểm soát môi trường, cần tìm những người mà trong số khách hàng của họ có các thư viện, cục lưu trữ, viện bảo tàng, hoặc các cơ quan lưu trữ đồ vật có giá trị lâu dài. Nếu trong địa phương không có người có kinh nghiệm cụ thể như vậy, cần tìm một kỹ sư có kinh nghiệm kiểm soát môi trường tại các phòng vi tính, cũng là những nơi có yêu cầu cao. Đối với các mục tiêu bảo tồn, thì chính đồ vật lưu trữ
  39. mới là quan tạong, chứ không phải sự tiện nghi của con người vốn ít nhạy cảm hơn nhiều với môi trường. Một thiết kế lý tưởng cho một khách sạn hay khu mua bán sẽ không thích hợp cho các cuốn sách từ thế kỷ 19, một toà nhà lâu năm, hay một viện bảo tàng. Lấy ý kiến tham khảo từ khách hàng, những người cho nhu cầu tương tự nhu cầu của bạn, và trò chuyện với những khách hàng về thành công hay thất bại của hệ thống được thiết kế cho họ. Bảo đảm rằng chuyên gia tư vấn của bạn hiểu rõ điều kiện môi trường nào là lý tưởng cho bạn và đâu là những yêu cầu tối thiểu phải đạt được. Việc xác định được giới hạn cho phép về các điều kiện môi trường của toà nhà cũng rất quan trọng trước khi đưa ra các quyết định về kiểm soát môi trường. Trong khía cạnh này, một lần nữa, không thể thiếu sự tư vấn của kỹ sư kiểm soát môi trường hay kiến trúc sư bảo tồn, những người có kinh nghiệm về các yêu cầu của lưu trữ. Những toà nhà không được bảo vệ, lâu năm và phần nề cũ có thể bị hư hỏng với những thay đổi lớn như việc lắp đặt các hệ thống sưởi trung tâm hay tạo ẩm. Những toà nhà như vậy có thể cần nâng cấp để phù hợp với yêu cầu của các đồ vật lưu trữ trong đó; hoặc, cần sắp xếp lại các đồ lưu trữ để tạo điều kiện phù hợp cho việc bảo tồn. Một chương trình theo dõi có hệ thống được thực hiện
  40. một cách có hiệu quả là một trong những biện pháp tốt nhất giúp một cơ quan thành công trong việc tạo ra môi trường thuận lợi để các đồ lưu trữ tồn tại lâu dài. Chương trình này, bản thân nó không thể giải quyết vấn đề khó khăn của việc quản lý môi trường, song nó là công cụ tin cậy duy nhất giúp cho việc hoạch định. Rebecca Thatcher Ellis - Công ty Sebasta Blomber và Hiệp hội, Bang Minneapolis, MN Phần giới thiệu Các thông tin dưới đây dựa trên giả thuyết rằng việc thiết kế hệ thống máy móc cho một toà nhà là phù hợp với những đặc tính cụ thể của nó và một khi được lắp đặt, vận hành theo như thiết kế và bảo trì tốt, hệ thống này sẽ mang lại môi trường lý tưởng. Những ai quan tâm nhiều nhất đến thành quả cuối cùng của bất kỳ dự án nào, dù là lớn hay nhỏ, đều đặt mục tiêu xây dựng những
  41. hệ thống mới hoặc nâng cấp những hệ thống cũ theo những tiêu chí như vậy. Vì thế, ngoài việc tham gia vào quá trình thiết kế, cơ quan chủ quản cần hiểu biết các quy trình thi công, khởi động/vận hành và hoạt động của mọi dự án trong toà nhà. Điều này càng đúng khi việc kiểm soát môi trường chặt chẽ là mục tiêu được ưu tiên cao. Tác giả bài viết đã tập hợp các gợi ý và thông tin dưới đây sau khi rút ra kinh nghiệm từ việc thi công, khởi động, vận hành và các vấn đề phát sinh sau đó tại nhiều dự án với mục tiêu chủ yếu nhằm kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm. Các kết quả nghiên cứu của tác giả mang tính chất là kinh nghiệm của một kỹ sư theo sát vấn đề, nhưng trên thực tế, cơ quan chủ quản phải luôn xác định rằng các nhà thầu thường thực hiện các bản thiết kế chuyên nghiệp với quy trình được rút ngắn, chứ không nên luôn giả định các nhà thầu sẽ thực hiện chính xác công việc theo chu trình đầy đủ. Tác giả đề xuất cơ quan chủ quản nên thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình. Cơ quan chủ quản tất nhiên không có trách nhiệm phải thực hiện nhiệm vụ này, mặc dù một vài đơn vị nhận ra rằng có một số việc bản thân cơ quan chủ quản đứng ra đảm nhận sẽ dễ dàng hơn là
  42. thuyết phục người khác làm những việc này cho mình. Tốt hơn cả là những công việc này thuộc trách nhiệm trực tiếp của nhà thiết kế, song hiếm khi một nhóm thiết kế có khả năng đảm nhận công việc ở mức độ chi tiết như mô tả ở đây. Các công việc trong "Giai đoạn Thi công" hầu như đều thuộc phạm vi trách nhiệm của nhà thiết kế, và ta cần chú ý theo dõi xem các nhà thiết kế thực hiện nhiệm vụ này như thế nào. Giai đoạn "Khởi động/Vận hành" thường không được quan tâm đúng mức, dù rằng nhóm thiết kế không phải là hoàn toàn bỏ qua khâu này. Nhóm thiết kế không có thế mạnh trong việc tìm ra những thiết sót trong hoạt động của hệ thống. Để tránh phát sinh xung đột lợi ích, nếu có đủ khả năng tài chính, ta có thể thuê một chuyên gia tư vấn đặc biệt đảm nhận việc kiểm tra hệ thống lắp đặt. Cuối cùng, các việc thuộc giai đoạn "Hoạt động Bình thường" hầu như nằm ngoài phạm vi của nhóm thiết kế. Các chương trình bảo dưỡng dự phòng và theo dõi hoàn toàn là trách nhiệm của cơ quan chủ quản, và đáng tiếc là các chương trình này thường không được cơ quan chủ quản lưu tâm đến kịp thời, ví dụ người ta chỉ chú ý đến sau một vài tháng vận hành khi hệ thống bắt đầu xuống cấp do không được quan
  43. tâm. Giai đoạn Thi công Hoạt động then chốt trong giai đoạn thi công một dự án là đảm bảo việc cung cấp và lắp đặt chính xác thiết bị theo quy định trong thiết kế. Nếu không có thiết bị đó, thì cũng phải đảm bảo rằng các hạng mục thiết bị thay thế trên thực tế cũng phải tương đương về chất lượng và quy trình hoạt động so với các thiết bị quy định trong bản thiết kế. Thông thường, các thiết bị "đặc biệt" không có trong các toà nhà thương mại thông thường, sẽ chỉ có thể do nhà thầu đặc biệt cung cấp theo yêu cầu. Máy tạo ẩm, hút ẩm, bộ lọc than họat tính , thuộc danh mục các thiết bị này. Các nhà thầu thường muốn sử dụng các thiết bị hệ thống thông thường, như bộ xử lý khí, ống bảo ôn, ống bảo nhiệt, quạt, máy bơm, máy khuếch tán, các hệ thống điều khiển , không hoàn toàn giống như thiết kế. Động cơ của nhà thầu đơn thuần mang tính kinh tế (như các hạng mục thay thế có giá thấp hơn so với các hạng mục quy định chi tiết), song đôi khi họ thay thế các thiết bị theo thiết kế bằng những thiết bị mà họ có nhiều kinh nghiệm
  44. hơn trong thi công vì những thiết bị này giúp họ tiến hành công việc dễ dàng hơn. Thông thường, trách nhiệm của nhà thiết kế là duyệt qua đề xuất những hạng mục thay thế và quyết định xem liệu chúng có thực sự tương đương với thiết bị đã quy định chi tiết hay không. Mỗi nhà thiết kế đầu tư thời gian vào công việc này theo cách riêng của họ, song nhìn chung họ đều rất chú trọng công việc này. Cơ quan chủ quản cần thận trọng khi làm việc với các công ty thiết kế có các bộ phận phụ trách thiết kế và hỗ trợ xây dựng riêng rẽ. Nếu một cá nhân hay nhóm đảm nhận việc duyệt đề xuất thiết bị thay thế không phải là người quy định chi tiết thiết bị lắp đặt, thì dễ dẫn đến tình trạng họ không biết rõ đặc tính chi tiết nào là quan trọng nhất của thiết bị. Các đặc tính của thiết bị Cần đảm bảo những đặc tính quan trọng nhất của thiết bị phải đúng theo thiết kế, cụ thể là: - Công suất: Liệu hạng mục thay thế có công suất bơm, phân bổ không khí, làm nóng, làm mát, tạo ẩm, hút ẩm hoặc lọc theo như yêu cầu không? Rất khó đánh giá các ống bảo ôn vì có sự khác nhau giữa công suất làm mát toàn phần, làm mát nhanh (tức là làm mát không có hút
  45. ẩm) với làm mát chậm (tức làm mát có hút ẩm). Để đảm bảo hút ẩm tốt, đây là quan niệm thường bị hiểu sai, ta phải chắc chắn rằng công suất làm mát chậm phải bằng hoặc lớn hơn so với yêu cầu quy định. Kích cỡ: Liệu hạng mục thay thế về hình thức có vừa với không gian lắt đặt hay không, hay việc thay thế này sẽ đòi hỏi phải sắp xếp lại các bộ phận khác của hệ thống? Độ ồn: Đối với các thiết bị quay (như quạt) có thể dùng nhiều chủng loại khác nhau vẫn có thể đáp ứng được chức năng theo thiết kế. Tuy nhiên, chủng loại khác nhau (như kích cỡ) sẽ tạo ra các độ ồn khác nhau. Về nguyên tắc, cánh quạt càng nhỏ thì quạt phải quay nhanh hơn để thổi cùng một lượng không khí; và vòng quay càng nhanh thì tiếng ồn càng lớn. Như vậy, ta phải cần nhắc giữa một bên là kích cỡ (tức là chi phí ban đầu) với một bên là độ ồn. Độ tin cậy, dịch vụ sửa chữa và hỗ trợ khách hàng: Ta cần cân nhắc đầy đủ ba đặc tính vô hình xuyên suốt thời gian họat động của hệ thống, đó là độ tin cậy, dịch vụ sửa chữa và hỗ trợ khách hàng. Ta cần thận trọng với thiết bị "không có tên tuổi" được sản xuất bởi các hãng có thể sẽ không còn họat động kinh doanh trong vòng 20 đến 40 năm tới. Ta cũng cần chắc chắn rằng các công ty sửa
  46. chữa cách không quá xa cơ quan, có thể xử lý thành thạo thiết bị được lắp đặt ở đây. Nếu không thì hệ thống sẽ ngừng họat động ngay khi có sự cố đầu tiên. Lắp đặt thiết bị: Các nhà thiết kế cần kiểm tra xem việc lắp đặt thiết bị có đúng cách không. Tùy theo hợp đồng của các nhà thiết kế, mà số lần tới giám sát việc lắp đặt có thể xê dịch từ 2 đến 3 lần trong suốt thời gian thi công cho tới một lần một tuần hoặc thường xuyên hơn. Giữa các lần tới kiểm tra, công việc thi công vẫn tiếp diễn và thường bị khuất khỏi tầm mặt vì có tường hoặc trần che chắn cho đến khi nhà thiết kế trở lại. Khách hàng cẩn thận có thể hàng ngày quanh quẩn gần nơi thi công, thường xuyên đi quanh khu vực, giám sát quy trình lắp đặt và thông báo ngay cho nhà thiết kế khi phát hiện ra những vấn đề bất thường. Khách hàng hiển nhiên sẽ quấy rầy nhà thiết kế - người vốn không quen với việc “hỗ trợ”, song chính khách hàng là người sẽ sử dụng lâu dài hệ thống đó sau khi nhà thiết kế đã kết thúc dự án. Những chi tiết lắp đặt đòi hỏi phải có sự kiểm tra gồm Lớp cách nhiệt và lớp ngăn hơi nước trong các bức tường: Lớp cách nhiệt và lớp ngăn hơi nước có vai trò hết sức quan trọng. Do đó, những bộ phận này phải được lắp đặt theo đúng quy chuẩn mới có thể hoạt động được.
  47. Các nhà thầu thường tự rút ngắn quy trình thi công, vì một khi bức tường đã xây lên, thì rất khó kiểm tra lớp cách nhiệt và gần như không thể kiểm tra được liệu có lắp đặt lớp ngăn hơi nước không, trừ khi phải phá bức tường đi. ống dẫn: Những thay đổi đáng kể về kích cỡ và đường đi của ống dẫn so với thiết kế có thể ảnh hưởng tới năng lực hoạt động theo yêu cầu của hệ thống. Nếu ống dẫn dài hơn, hoặc nhỏ hơn, hoặc có nhiều khúc ngoặt đều làm tăng áp lực tĩnh của hệ thống quạt. Khi áp lực tĩnh tăng lên, lượng gió do quạt phân bổ qua hệ thống sẽ giảm đi. Khi lưu lượng gió giảm đi, khả năng làm nóng, làm mát, tạo ẩm và hút ẩm của hệ thống cũng giảm đi. Các lần tới giám sát thi công, ta cần so sánh việc lắp đặt thực tế với lắp đặt theo thiết kế. Ta không nên tự điều chỉnh kích cỡ ống dẫn, song cũng cần ghi lại những điều chỉnh về đường đi của ống dẫn nối quạt với hệ thống ống dẫn khí ra vào của phòng. Các cánh quạt: Nếu không lắp hệ thống cánh quạt tại các khúc ngoặt cũng sẽ làm tăng áp lực trong hệ thống. Từ bên ngoài, ta dễ dàng kiểm tra được việc lắp các cánh quạt tại các khúc ngoặt 90o trước khi những khúc này được đặt khuất lên phía trên trần nhà. Các cánh quạt
  48. được hàn chặt hay bắt vít như trong hình 1 có thể nhìn thấy ở cả hai phía của khúc ngoặt. Ngoài việc làm tăng áp suất trong hệ thống, việc thiếu hệ thống cánh quạt quanh này còn làm tăng “tiếng ồn của không khí” trong ống dẫn. Các lá chắn. Ta cần lắp đặt các lá chắn điều khiển bằng tay vào mọi vị trí chi tiết trong bản thiết kế. Người điều chỉnh không khí sử dụng những lá chắn này để bảo đảm lượng khí thích hợp được dẫn tới mỗi không gian, và vì thế duy trì việc kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm lý tưởng. Ta cũng rất dễ xác định từ bên ngoài ống vị trí các lá chắn, vì chúng có phần điều chỉnh bằng tay nhô ra từ miếng kim loại như minh hoạ ở hình 1. Lót ống dẫn: Một số hệ thống sử dụng việc lót ống dẫn phục vụ cho hai mục đích là cách nhiệt (là ngăn sự mất nhiệt và ngưng tụ nước trên ống dẫn lạnh) và giảm tiếng ồn. Để kiểm tra xem đường ống đã được bọc lót chưa, người ta phải mở ống dẫn ra. Việc mở ống có thể thực hiện được trong thời gian thi công tại các đoạn cuối ống và tại các lỗ cắt để lắp van ra vào. Cách nhiệt cho ống dẫn: Nếu ống dẫn không có các lớp lót bên trong, thì từ bên ngoài, ta có thể thực hiện việc cách nhiệt và bọc ống bằng một lớp khí chặn hơi nước.
  49. Việc kiểm tra lớp chặn hơi nước là hết sức quan trọng, vì nếu không khí ẩm tiếp xúc với ống dẫn lạnh, hơi nước ngưng tụ sẽ làm ướt lớp cách nhiệt; làm giảm công suất hoạt động của lớp này và gây ra hỏng hóc. Đồng hồ đo áp suất: Cuối cùng, nếu có trong thiết kế, thì các đồng hồ đo áp suất qua bộ lọc khí là thành phần quan trọng của hệ thống, mà đôi khi vẫn bị xem nhẹ. Những đồng hồ này là cách nhanh nhất để xác định khi nào cần thay bộ phận lọc. Cửa ra vào: Cửa hộp kỹ thuật cần được lắp đặt nhằm tạo điều kiện thuận tiện cho người vào bảo dưỡng hoặc sửa chữa thiết bị sau này. Các cửa dạng tấm kim loại cần được lắp trong ống dẫn để có thể giúp tiếp cận các ống bảo ôn-bảo nhiệt, lá chắn , quạt, bộ phận làm ẩm Các cửa hộp kỹ thuật mang tính kiến trúc thường được lắp đặt trong tường, trần, hoặc sàn để che khuất đi các van, mô-tơ và bất cứ thiết bị chuyển động nào khác. Các thiết bị này cũng cần được lắp tại các cửa ra vào của ống dẫn. Lắp đặt ống: Việc lắp đặt ống sai quy cách thường được phát hiện nhanh chóng vì ống sẽ rò rỉ ngay. Tuy nhiên, việc cách nhiệt cho ống đôi khi bị sao nhãng, đặc biệt trong khi lắp đặt ống tại các khúc ngoặt và van. Tình trạng thiếu lớp cách nhiệt trên ống lạnh sẽ làm nước
  50. ngưng tụ, nhỏ xuống từ đường ống như hiện tượng bị rò. ống nhiệt: Nếu có ghi trong thiết kế, thì việc kiểm tra xem có các máy đo nhiệt độ và đồng hồ đo áp suất tại nơi lắp đặt các ống bảo ôn và bảo nhiệt, cũng có tầm quan trọng. Những bộ phận này sẽ thực sự có giá trị khi giải quyết các vấn đề nảy sinh sau này. Hệ thống điều khiển: Hầu hết các bộ phận của hệ thống điều khiển đều “không nhìn thấy được” khi ta chỉ giám sát qua nơi thi công, song các bộ cảm ứng nhiệt độ và độ ẩm tại các khoảng không gian thì đều có thể nhìn thấy rõ. Ta cần kiểm tra vị trí đặt bộ cảm ứng cũng như bảo vệ sạch sẽ các bộ phận này. Cần nghiêm cấm không để dây đất cát và vôi sơn xung quanh các bộ cảm ứng không có thiết bị bảo vệ, song nếu điều này không thể thực hiện được, thì tạm thời có thể dùng ni-lông hoặc băng dính bọc ra ngoài các bộ cảm ứng. Yêu cầu sửa đổi:. Điểm lưu ý cuối cùng đối với giai đoạn thi công một dự án là những yêu cần về việc thay đổi. Khi bản thiết kế “cuối cùng” đã được in ra và lưu hành rộng rãi, vẫn có thể thay đổi đối với bất cứ công đoạn nào của dự án. Rất tiếc là việc thông báo những yêu cầu thường rất hạn chế và thông thường, các nhà thầu phụ luôn chịu ảnh hưởng tiêu cực do không nhận được hoặc
  51. không phản ánh chính xác các yêu cầu này vào kế hoạch thi công của họ. Các yêu cầu thay đổi có tầm quan trọng để bảo đảm việc thi công chính xác một dự án (nhà thiết kế chẳng dại gì đưa ra những yêu cầu thay đổi, nếu những yêu cầu này không thực sự cần thiết), và cũng cần kiểm tra việc thực hiện những yêu cầu thay đổi. Khởi động/Vận hành Vào cuối giai đoạn lắp đặt của một dự án, ai nấy đều thấy mệt mỏi và nóng lòng muốn hoàn thành xong công việc. Thông thường lúc đó, tiền nong đã cạn kiệt, việc hoàn thành chậm hơn so với kế hoạch, mọi người đều muốn tiếp quản công trình, còn các nhà thiết kế cũng như chủ thầu đều muốn chuyển sang làm các dự án tiếp theo. Đây chính là thời điểm cần tăng cường sự nhiệt tình công việc của mọi người, đặc biệt đối với nhà thiết kế hay chuyên gia tư vấn khác hiểu rõ hoạt động của hệ thống để bảo đảm rằng hệ thống họat động tốt. Công việc chưa hoàn tất cho đến khi hệ thống đi vào vận hành liên tục, và đây thuộc trách nhiệm của nhà thầu. Không có bất cứ chủ thầu nào cố tình lắp đặt ra một hệ thống không họat động được, song lại có nhiều chủ thầu không dành thời gian cuối dự án để kiểm tranh công trình do họ làm ra. Theo quan điểm của chủ thầu, không
  52. có lý do gì để cho rằng một hệ thống sẽ không họat động theo như thiết kế, vì ngày nào chủ thầu cũng theo dõi sát quá trình thi công. Nhiều khi ngày trong ngày sử dụng đầu tiên, người sử dụng đã phàn nàn rằng hệ thống lắp đặt đã có vấn đề, chỉ vì không chạy thử kiểm tra hệ thống trước khi đưa vào sử dụng. Nếu không tiến hành việc chạy thử kiểm tra do một chuyên gia không có mối liên hệ với chủ xây dựng, thực hiện, thì cơ quan chủ quản có thể sẽ phải thời xuyên gọi các chủ xây dựng cử người tới sửa chữa hệ thống mới này. Cơ quan chủ quản không ý thức được tính phức tạp của hệ thống, sẽ phó mặc mọi thứ cho các chủ xây dựng, những người không có ý định tìm ra những thiếu sót trong việc lắp đặt của họ. Nhà thiết kế, có thể không còn ở đó, sẽ bị đổ lỗi vì những hỏng hóc của hệ thống, trong khi chủ xây dựng "đang cố hết sức để phục hồi" nó. Việc đổ lỗi này chỉ chấm dứt khi cơ quan chủ quản không thể gắng sức nữa hoặc cho gọi nhà thiết kế hoặc một chuyên gia tư vấn có chuyên môn khác, người đáng lẽ phải bắt tay vào việc ngay sau khi hoàn thành việc lắp đặt. Từ xưa tới nay, các cấu phần có nhiều rủi ro nhất trong hệ thống máy móc lắp đặt mới là hệ thống cân đối lưu lượng không khí và nước và hệ thống điều khiển tự động.
  53. Chính vì thế, cần lưu tâm nhất tới những cấu phần này trong giai đoạn khởi động/vận hành của bất kỳ dự án nào. Hệ thống cân đối Thông thường, người tiến hành việc cân đối là các nhà thầu phụ hoặc nhân viên của nhà thầu về máy móc, và trách nhiệm của họ là bảo đảm lưu lượng không khí do quạt thổi vào được đưa tới những không gian cụ thể với số lượng và tỷ lệ đúng như trong thiết kế. Họ cũng phải đảm bảo rằng lưu lượng nước do máy bơm cung cấp được phân tới mỗi thiết bị theo đúng như yêu cầu, cho phép thiết bị họat động tốt. Người tiến hành cân đối sử dụng những công cụ đặc biệt để kiểm tra và đo lưu lượng khí và nước, ngoài ra, họ còn phải đệ trình một báo cáo lên nhà thiết kế sau khi đã hoàn tất các quy trình cân đối nói trên. Đôi khi, nhà thiết kế chỉ xem qua báo cáo và nhất trí rằng các chỉ số ghi nhận đã đáp ứng những yêu cầu quy định trong thiết kế. Nhà thiết kế thường không cho rằng họ có trách nhiệm phải kiểm tra các kết quả ghi trong báo cáo. Vì lý do này, những người tiến hành cân đối thường chỉ việc ghi lại những thông số theo như yêu cầu mà không cần kiểm tra tình hình thực tế. Nói thế thì cũng oan cho các nhà cân
  54. đối có lương tâm, nhưng ta cũng nên cẩn trọng và luôn giả sử rằng các bản báo cáo cân đối không chính xác 100%. Việc kiểm tra chạy thử cũng cần có những thiết bị tương tự như việc tiến hành cân đối và vì vậy, cần đầu tư thuê chuyên gia tiến hành các cuộc chạy thử này. Cơ quan chủ quản có thể thuê một nhà thầu độc lập không bị ảnh hưởng gì đến kết quả thu được để tiến hành chạy thử kiểm tra. Kết quả thu được ở đây sẽ đáng tin cậy hơn nhiều so với kết quả của chủ thầu. Việc kiểm tra ngẫu nhiên một vài máy khuếch tán hay van điều tiết khí để so sánh với bản báo cáo cân đối sẽ giúp cơ quan chủ quản cảm thấy tin tưởng vào độ chính xác của toàn bộ bản báo cáo. Nếu kết quả kiểm tra ngẫu nhiên phù hợp với bản báo cáo thì có thể không cần phải kiểm tra từng đường dẫn khí ra vào. Ngược lại, nếu việc kiểm tra ngẫu nhiên cho kết quả khác biệt lớn với báo cáo, thì có thể cần kiểm tra lại từng thiết bị và tổng hợp các kết quả mới này thành một báo cáo đưa cho người đã tiến hành cân đối trước. Người tiến hành cân đối này sẽ phải quay trở lại nơi thi công (mà không được hưởng bất cứ khoản thanh toán bổ sung nào) để cân đối lại toàn bộ hệ thống và đề trình lại một bản báo cáo sửa đổi. Qua đó,
  55. người tiến hành cân đối sẽ ý thức được rằng cơ quan chủ quản rất "nghiêm túc" với bản báo cáo cân đối (nhiều cơ quan đã không có thái độ này) và làm việc chính xác ở lần thứ hai. Người tiến hành cân đối độc lập sẽ còn được gọi đến để tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên số liệu báo cáo sửa đổi cho đến khi cơ quan chủ quản yên tâm rằng hệ thống đã được cân đối theo như thiết kế. Điều này cũng được áp dụng đối với việc cân đối lượng nước, mặc dù người cân đối lúc đầu thường thận trọng khi cân đối lượng nước, bằng cách quy định một lượng nước lớn hơn so với lượng nước theo như thiết kế vào mỗi bộ phận thiết bị. Cách làm này dù sao vẫn tốt hơn so với việc quy định lượng nước thấp hơn, vì chính các van kiểm soát thông thường sẽ tự động điều chỉnh lưu lượng nước vào thiết bị theo đúng quy định để đạt được điều kiện môi trường lý tưởng. Tuy việc cân đối lượng nước càng chính xác càng tốt, song nếu cân đối theo cách trên cũng không gây hại cho hoạt động của hệ thống như việc cân đối thừa lượng khí. hệ thống điều khiển tự động Bộ não của bất cứ hệ thống máy móc nào là hệ thống điều khiển tự động. Vì thế, việc kiểm tra các bộ điều khiển này hết sức quan trọng để bảo đảm rằng hệ thống
  56. phù hợp với quy định chi tiết trong thiết kế. Đáng tiếc, đây cũng là một công việc thường bị sao nhãng, một phần do nhiều người không hiểu đầy đủ về các hệ thống điều khiển. Nếu nhà thiết kế dự án cảm thấy không thoải mái khi tiến hành kiểm tra các hệ thống điều khiển, thì ta cần thuê một chuyên gia độc lập để thực hiện việc này. Mỗi hệ thống điều khiển đều có sự khác biệt, đặc biệt với các hệ thống điều khiển kỹ thuật số trực tiếp bằng máy tính ngày nay (DDC), song nhà thiết kế hoặc chuyên gia độc lập không cần phải thông thạo việc lập trình chi tiết và các giao diện phần mềm của hệ thống được kiểm tra. Nhà thầu cung cấp hệ thống điều khiển phải có mặt vào lúc chạy thử kiểm tra để thao tác các chức năng cụ thể của hệ thống theo yêu cầu của người kiểm tra, và quy định này cần được ghi rõ trong bản thiết kế. Việc khởi động/vận hành hệ thống điều khiển bao gồm 3 bước sau đây + Cài đặt thông số Mọi bộ cảm ứng, đặc biệt là bộ cảm ứng nhiệt độ và độ ẩm tương đối, phải được cải đặt thông số phù hợp để bảo đảm cung cấp đúng các thông số về điều kiện môi trường thực tế. Quá trình này có thể mất nhiều thời gian, nhưng
  57. đơn giản và chỉ cần dùng một máy đo độ ẩm treo dây do một người sử dụng có kinh nghiệm vận hành. Để đảm báo điều khiển lưu lượng không khí phù hợp theo các mục tiêu về áp suất hay chất lượng khí trong phòng, nhất thiết ta phải cài đặt thông số cho bộ cảm ứng đo lưu lượng khí phù hợp với vị trí lắp đặt. Điều này đòi hỏi sự hợp tác của người cân đối khí để so sánh thông số về lưu lượng khí trên thực tế với kết quả hiển thị trên bộ cảm ứng. Lá chắn tự động cũng cần cài đặt thông số để bảo đảm họat động phù hợp với yêu cầu của hệ thống điều khiển. Nếu những lá chắn khí bên ngoài được đặt thông số ở mức quy định tối thiểu trong giờ cao điểm nhằm bảo đảm sự lưu thông gió tốt, thì một lần nữa ta cần nhắc nhở người cân đối khí xác định chính xác lại chương trình họat động của lá chắn sao cho phù hợp với lưu lượng khí bên ngoài. Các van tự động đối với các quá trình làm nóng, làm mát và tạo ẩm cũng cần đặt thông số để bảo đảm họat động của các thiết bị này đáp ứng yêu cầu của hệ thống điều khiển. Một vấn đề quan trọng nữa là việc phối hợp họat động của nhiều van khác nhau nhằm đảm bảo quá trình làm nóng và làm mát không xảy ra đồng thời, trừ những
  58. trường hợp do hệ thống điều khiển quy định rõ. + Chạy thử Quy trình chạy thử bao gồm việc "khởi động" các bộ phận của hệ thống điều khiển. Việc này còn bao gồm cả việc thay đổi các thông số điều khiển tự động và quan sát bằng mắt thường sự điều chỉnh của các van và lá chắn. Việc chạy thử cũng nên vượt quá các thông số giới hạn, như vào ban ngày và lúc cao điểm, để người chạy thử có thể quan sát các động cơ quạt khởi động, ngừng họat động hoặc thay đổi tốc độ. Một quy trình chạy thử có thể được triển khai với từng chiến lược của hệ thống điều khiển được ghi rõ trong thiết kế nhằm bảo đảm hệ thống họat động tốt trong hầu hết mọi điều kiện môi trường. Thông qua việc vận hành hệ thống với các mức độ khác nhau trong quy trình chạy thử, cơ quan chủ quản sẽ lường trước được mọi vấn đề có thể xảy ra đối với hệ thống điều khiển sau khi đã chính thức tiếp quản công trình. Điều này thấy rõ nhất với hệ thống điều khiển vận hành được vào mùa hè nhưng không họat động được vào mùa đông. Họat động vào mùa hè có thể tốt, nhưng nếu ta không chạy thử kiểm tra kỹ càng thì cũng không thể nói trước điều gì sẽ xảy ra khi chuyển mùa. Đến lúc đó, nhà thầu cung cấp hệ thống điều khiển có thể đã kết thúc
  59. công trình từ lâu và không còn động cơ tài chính nào buộc họ phải giúp cải thiện hệ thống nữa. Và hiển nhiên là những vấn đề tương tự cũng sẽ xảy ra với hệ thống vận hành vào mùa đông nhưng không được chạy thử kiểm tra họat động trong mùa hè. Những sai sót không lường trước trong họat động của hệ thống điều khiển sẽ gây hại cho các đồ vật lưu trữ. Chính vì thế, bắt buộc ta phải đưa hệ thống vào thử nghiệm trong mọi điều kiện môi trường, dù đó là điều kiện thực tế hay nhân tạo, trước khi đưa vào sử dụng chính thức. + Vi chỉnh Công việc vận hành cuối cùng là vi chỉnh hệ thống điều khiển. Việc này gồm điều chỉnh các thông số của hệ thống theo đúng yêu cầu để đạt được độ chính xác và tốc độ phản ứng lý tưởng. Một lần nữa, do mỗi hệ thống có sự khác biệt, nên việc này phải do nhà thầu về hệ thống điều khiển thực hiện, song nhà thiết kế phải kiểm tra kết quả. Nói một cách đơn giản, việc điều khiển một thiết bị đơn lẻ, như van nước nóng, rút lại thành một công thức toán học với một vài tham số có thể thay đổi để đạt được những đặc tính khác nhau trong vận hành. Ví dụ như hệ
  60. thống điều khiển nhận tín hiệu đầu vào từ một bộ cảm ứng nhiệt độ và so sánh tín hiệu đó với thông số quy định được đặt sẵn cho bộ cảm ứng đó. Nếu tín hiệu đó chỉ ra rằng nhiệt độ thực tế thấp hơn so với mức quy định, thì hệ thống điều khiển truyền một tín hiệu đầu ra cho van nước nóng, buộc van đó phải mở ra ở một mức nhất định để cung cấp thêm hơi nóng. Biểu độ ở hình 2 mô tả tín hiệu đầu vào (nhiệt độ) trên trục tung ứng với từng thời điểm trên trục hoành cùng các giá trị tham số khác nhau theo công thức của hệ thống điều khiển. Đường Cong điều khiển #1 cho thấy một phản ứng nhanh, với những dao động lớn không tốt xung quanh mức nhiệt độ quy định. Đường Cong điều khiển #2 cho thấy một công thức triệt tiêu sự dao động xung quanh mức quy định, song phản ứng lại quá chậm. Đường Cong điều khiển #3 cho thấy một công thức điều khiển "lý tưởng" cho phép phản ứng nhanh không cần phải điều chỉnh (tức là không để xảy ra sự vượt mức). Sự vượt mức là hiện tượng trong đó tạo ra một điều kiện môi trường vô cùng đặc biệt, khiến hệ thống phản ứng một cách thái quá khi đưa ra sự điều chỉnh. Trong trường hợp này, các điều kiện môi trường dao động lên xuống giữa hai thái cực trước khi dần dần đạt tới thông
  61. số lý tưởng, như minh họa ở Đường Cong điều khiển #1. Các bản thiết kế cần cụ thể những giới hạn trên và giới hạn dưới, như nhiệt độ ±1 độ F, độ ẩm tương đối ±3% Chính nhà thầu cung cấp hệ thống điều khiển có trách nhiệm xác định các thông số cần thiết để đạt được sự phản ứng nhanh nhất trong phạm vi những giới hạn đó. Đây thường là một quá trình gian khó, mất nhiều thời gian, mầy mò và phải vận dụng phương pháp thử-sai. Nhiều nhà thầu thường lướt qua, sử dụng những thông số định sẵn theo kinh nghiệm. Những thông số này có thể sử dụng được tại các toà nhà thương mại thông thường, những nơi mà việc kiểm soát môi trường chặt chẽ có không tầm quan trọng lớn, song các nhà thầu phải hiểu rằng họ cần phải vi chỉnh hệ thống điều khiển đạt mức tối ưu để ứng dụng phù hợp vào các viện bảo tàng hay kho tư liệu. Họat động bình thường Khi hệ thống máy móc đã được lắp đặt, chạy thử và vi chỉnh, họat động theo như thiết kế, thì lúc này cơ quan chủ quản có toàn quyền quyết định và tự chịu trách nhiệm với hệ thống này. Vào thời điểm này, cơ quan chủ quản có thể thấy túng thiếu về tài chính, sau khi ngân sách đã chi gần hết cho những cải tạo lớn, song đây
  62. không phải là lúc để tiết kiệm. Để bảo đảm hệ thống mới vận hành tốt liên tục và các bộ phận trong đó đạt tuổi thọ tối đa, cơ quan phải quan tâm tới quá trình họat động sau này của hệ thống. Mức độ quan tâm cần thiết phụ thuộc vào tính phức tạp của hệ thống, song thậm chí với những thiết bị và hệ thống điều khiển đơn giản nhất, ta cũng cần bảo dưỡng, lau chùi và cài đặt thông số định kỳ. Nếu cứ bỏ mặc các thiết bị tự hoạt động, thì mới đầu hệ thống có vẻ hoạt động tốt cho đến khi xảy ra trục trặc lớn hoặc môi trường ở một hoặc một vài không gian đã xuống cấp, cách quá xa so với các thông số quy định, buộc cơ quan chủ quản phải lưu tâm tới. Đến lúc đó, việc cứu vãn tình hình sẽ đòi hỏi nỗ lực và chi phí lớn, vì hệ thống có thể nảy sinh vô số trục trặc. Bên cạnh đó, tổng chi phí thực tế nằm ngoài dự tính và tài chính không thể sẵn có để đưa hệ thống quay trở lại trạng thái họat động ban đầu "theo như thiết kế", và khi đó cơ quan chủ quản sẽ đối mặt với khả năng mất đi lợi ích của dự án xây dựng hay nâng cấp vừa hoàn thành. Để tránh hậu quả này, ta cần dành ra một khoản ngân sách để bảo dưỡng tốt thiết bị mới. Một trong những biện pháp hữu hiệu lại tốn ít chi phí nhất để có được một hệ thống luôn vận hành ở mức tối
  63. đa là ít nhất có một nhân viên thông thạo và đáng tin cậy, chịu trách nhiệm về thiết bị. Người này, như chúng ta thường gọi là Điều hành viên Hệ thống Máy móc, có thể là nhân viên kiêm nhiệm, hay chuyên gia tư vấn, hoặc nhà thầu dịch vụ sửa chữa, hay kết hợp sử dụng cả ba người trên. Công việc bao gồm: thường xuyên theo dõi, bảo dưỡng và sửa chữa hệ thống máy móc. Chỉ trừ đối với những hệ thống lắp đặt lớn nhất, công việc này không nhất thiết cần một biên chế riêng. Một chương trình bảo dưỡng tốt phải lường trước được những trục trặc trước chúng trở nên nghiêm trọng. Điều này có thể thực hiện được nếu theo dõi, ở mức độ tối thiểu, những đặc tính sau đây của hệ thống: Theo dõi nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong không gian Công việc này phải thực hiện ở bất cứ nơi nào đòi hỏi có các điều kiện môi trường được kiểm soát chặt chẽ. Điều hành viên hệ thống máy móc cần thường xuyên kiểm tra các thông số ghi nhận, phát hiện các dấu hiệu cho thấy hệ thống có chiều hướng xuống cấp. Nắm được những thông tin này, điều hành viên có thể thay đổi các bộ lọc, lau chùi các ống bảo ôn và bảo nhiệt, cài đặt lại thông số đối với hệ thống điều khiển , trước khi các điều kiện môi trường tiến triển theo hướng xấu hơn và có thể gây tổn
  64. hại cho đồ lưu giữ trong không gian đó. Theo dõi các hóa đơn thanh toán về năng lượng Điều hành viên phải có trong tay tất cả các hóa đơn thanh toán tiên điện, ga và dầu của cơ quan. Bằng cách theo dõi việc tiêu thụ năng lượng hàng tháng và năm, điều hành viên sẽ biết được đâu là mức tiêu thụ "bình thường" và nhanh chóng xác định ra các mức bất thường ở đây có thể là biểu hiện của một trục trặc ở bên trong thiết bị. Những bất thường này sẽ được kiểm tra và xử lý trước khi chúng gây ảnh hưởng đến môi trường. Theo dõi tình trạng các bộ lọc Thông qua việc thường xuyên theo dõi tình trạng của các bộ lọc rác thể rắn và bộ lọc khí bẩn, điều hành viên sẽ biết chính xác loại bộ lọc nào cần thay thế. Việc theo dõi bộ lọc rác thể rắn rất đơn giản và chỉ cần lắp đặt và theo dõi thường xuyên đồng hồ đo áp suất chênh lệch qua mỗi thành bộ lọc. Nếu bộ lọc bị bẩn, không khí sẽ khó lưu thông qua bộ lọc, làm áp suất tại thành bên kia bộ lọc giảm đi. Các bộ lọc rác thể rắn: Nếu không có các thông tin chính xác hơn, thì ta có thể dựa vào các gợi ý về giới hạn áp suất chênh lệch cho bộ lọc ở mức tối đa của nhà sản xuất,
  65. nhưng cách tốt nhất là ta biết được cụ thể mức giảm áp suất mà nhà thiết kế áp dụng đối với từng bên của bộ lọc. Vì mức tối đa theo gợi ý của nhà sản xuất thường khá cao, còn theo nhà thiết kế không phải tất cả các bộ lọc đều bẩn với từng kích cỡ quạt cụ thể. Khi áp suất qua bộ lọc giảm vượt quá mức tối đa theo quy định trong thiết kế, lượng không khí đưa vào hệ thống sẽ giảm, và vì vậy, hạn chế khả năng làm nóng, làm mát, tạo ẩm và hút ẩm của hệ thống. Một lý do khác là ta không nên đợi cho đến khi các bộ lọc thật bẩn mới thay chúng. Vì khi đó, bụi bẩn có thể đã chui qua bộ lọc vào ống dẫn trong lúc thay thế và thổi vào môi trường không gian. Điều này rõ ràng có thể tránh được. Dựa vào chủng loại bộ lọc, vị trí lắp đặt và chất lượng không khí xung quanh, bộ lọc rác thể rắn có thể họat động tốt trong khoảng thời gian từ 3 đến 6 tháng. Bộ lọc khí bẩn: Việc theo dõi và bảo dưỡng bộ lọc khí bẩn phức tạp hơn và phụ thuộc vào chủng loại bộ lọc. Các khay lọc than hoạt tính thông thường đòi hỏi phải kiểm tra mẫu than họat tính định kỳ, thường do nhà sản xuất thực hiện, mới quyết định được tuổi thọ của bộ lọc. Khi than họat tính đã "qua sử dụng", nghĩa là đã hết
  66. khả năng hút chất bẩn, thì phải thay mới than họat tính trong khay. Các chủng loại bộ lọc khác cũng đòi hỏi quy trình xử lý khác nhau mới quyết định được khi nào chúng cần phải thay thế hay thay mới chất liệu lọc. Và không có chủng loại nào có quy trình theo dõi đơn giản như bộ lọc rác thể rắn. Các bộ lọc khí bẩn thường dùng được tối thiểu là một năm, thậm chí còn lâu hơn, tùy theo chất lượng không khí xung quanh và loại chất bẩn mà chúng hấp thu. Theo dõi họat động của hệ thống điều khiển Hệ thống điều khiển tự động cũng đòi hỏi có sự quan tâm thường xuyên nhằm bảo đảm rằng hệ thống vẫn họat động theo như thiết kế. Ta cần bảo đảm rằng điều hành viên có hiểu biết cơ bản về hệ thống điều khiển, song người này không nhất thiết phải là một chuyên gia về lập trình và điều chỉnh các hệ thống điều khiển. Người này chỉ cần có kiến thức đủ để phát hiện và thông báo chính xác về các sự cố cho nhà thầu cung cấp thiết bị điều khiển hay nhà thầu dịch vụ sửa chữa khác. Việc theo dõi hệ thống điều khiển đang vận hành cũng tương tự như những việc cần làm trong giai đoạn khởi động/vận hành, đó là kiểm tra các bộ cảm ứng đã được cài đặt thông số chưa và tất cả các thiết bị có họat động tốt không. Các
  67. vấn đề trục trặc thường được phát hiện khi điều kiện môi trường đã xuống cấp, song khi đó một số đồ vật lưu trữ đã bị hư hỏng. Do vậy, nhất thiết ta phải chú trọng đến công tác bảo dưỡng dự phòng hơn là bảo dưỡng sửa chữa. Cải tạo Điểm cuối cùng cần lưu ý đối với giai đoạn "Họat động bình thường" của một hệ thống được áp dụng đối với những thay đổi phát sinh về không gian và/hoặc hệ thống. Ta có thể lường trước rằng việc sử dụng và bố cục không gian sẽ thay đổi nhiều lần trước khi một hệ thống xây dựng hay máy móc được thay thế hoặc nâng cấp toàn diện. Vì thế, những thay đổi này phải thận trọng nhằm đảm bảo không khiến cho toàn bộ họat động theo như thiết kế của hệ thống trở nên vô ích. Hệ thống máy móc cần điều chỉnh cho phù hợp với hầu hết những thay đổi về mặt kiến trúc, song những người lên kế hoạch cho một cải tạo "nhỏ" thường không chú ý tới thực tế này. Thiết bị máy móc thường ở ngoài tầm mắt họ, nên cũng không khiến họ phải để tâm tới. Vấn đề này có thể dễ dàng tránh được, khi có một Điều hành viên Hệ thống Máy móc chịu trách nhiệm trông coi thiết bị. Điều hành viên này cần được tham khảo ý kiến khi
  68. xác định tác động của việc cải tạo lên hệ thống trong tương lai, khả năng phục vụ của hệ thống trong những không gian mới, và liệu có cần thêm chuyên gia, như kỹ sư thiết kế, tư vấn cho việc cải tạo này không. Kết luận Tóm lại, những ai hết sức quan tâm tới thành quả cuối của của bất kỳ dự án nào cũng đều sử dụng và đặt hy vọng vào những hệ thống máy móc được xây dựng mới hoặc cải tiến này. Hợ sẽ có lợi thế nếu tham gia vào quá trình thiết kế và theo sát các quá trình thi công, khởi động/vận hành và họat động bình thường vốn có trong tất cả các dự án xây dựng. Đây có thể không phải là trách nhiệm của cơ quan chủ quản, song đây là cách tốt để biết rõ thực trạng tiến trình dự án và đưa ra những câu chất vấn đúng lúc khi ta cần nhắc nhở những người có trách nhiệm. Những công việc được đề cập đến ở đây có thể vận dụng cho mọi dự án xây dựng, không chỉ với việc xây mới cơ bản. Những công việc này cũng cần được áp dụng lại với việc cải tạo sau này, dù là nhỏ đến đâu. Trên thực tế, việc cơ quan chủ quản tham gia tích cực vào công trình cải tạo "nhỏ" thậm chí còn có tầm quan trọng hơn, vì công trình càng nhỏ thì càng dễ bị các nhà thiết kế và nhà
  69. thầu xây dựng xem nhẹ. Mặc dù mỗi dự án xây dựng có những khác biệt riêng, song chúng đều vốn có hàng lọat các vấn đề và sức ép tương tự, những đề xuất của tài liệu này có thể áp dụng chung cho mọi công trình. Điều quan trọng là với tư cách là người sẽ làm việc trong không gian đang được thi công, ta phải hiểu rõ quá trình thi công tại đó và quyền được đòi hỏi đối với chất lượng nghiệm thu. Nắm được điều này, bất kỳ một cơ quan chủ quản nào cũng sẽ tỉnh táo yêu cầu dứt điểm rằng hệ thống phải được lắp đặt và vận hành theo đúng thiết kế. Nguồn cung cấp thiết bị và dịch vụ sửa chữa Nguồn cung cấp thiết bị sẽ tùy thuộc vào quy định cụ thể và kinh nghiệm của nhà thiết kế. Ta cần khẳng định chắc chắn rằng dịch vụ sửa chữa và cung cấp linh kiện thiết bị luôn sẵn có tại địa phương. Thâm niên tham gia họat động kinh doanh của công ty, xếp hạng của họ tại Cục Chất lượng Doanh nghiệp và kinh nghiệm của nhà thiết kế cũng như chủ thầu xây dựng với thiết bị sản phẩm là những thông tin hữu ích hướng dẫn cho việc lựa chọn. Ngoài ta, ta cũng có thể tham khảo thêm ý kiến các cơ quan khác đã từng lắp đặt những thiết bị hay hệ thống tương tự, và việc này chỉ cần thực hiện bằng một cuộc gọi
  70. đến những cơ quan đó. Ta cũng nên tham khảo đề xuất về việc thuê một bên độc lập phụ trách việc kiểm tra và chạy thử từ một cơ quan khác có kinh nghiệm trong một dự án tương tự. Một hiệp hội bảo tàng trong vùng hay một chi cục bảo tồn lâu năm cũng sẽ cho ta những gợi ý tốt Tác giả: Beth Lindblom Patkus, Chuyên gia tư vấn bảo tồn, Walpole, MA. Giới thiệu Ánh sáng là nguyên nhân phổ biến gây hư hại cho các bộ sưu tập ở thư viện và cơ quan lưu trữ. Giấy, bìa sách và các vật phẩm (mực, chất bắt sáng trên mặt tấm ảnh, thuốc nhuộm, chất sắc tố và nhiều vật liệu khác được sử dụng để tạo nên chữ viết và hình ảnh) đặc biệt nhạy cảm với ánh sáng. ánh sáng gây hư hại bằng nhiều cách. Nó có thể làm giấy phai màu, ố vàng hay xỉn đen; làm yếu và giòn các sợi cellulose cấu tạo nên giấy. Nó khiến cho các vật phẩm và chất nhuộm trong tài liệu, ảnh và các tác phẩm nghệ thuật bị nhạt màu hoặc đổi màu. Hầu hết
  71. chúng ta đều nhận thấy sự phai màu là do ánh sáng gây ra, nhưng đó chỉ là dấu hiệu bề ngoài của những gì mà ánh sáng gây ra đối với cấu trúc vật lý và cấu trúc hoá học của những vật thể sưu tập. Ánh sáng cung cấp năng lượng cho những phản ứng hoá học có hại. Mọi người đều biết rằng tia cực tím (UV) có tính huỷ hoại đáng kể, nhưng cũng cần phải nhớ thêm rằng mọi ánh sáng đều có tác hại. ảnh hưởng của ánh sáng mang tính tích luỹ và không thể đảo ngược. Bản chất của ánh sáng Ánh sáng là một dạng năng lượng điện từ gọi là bức xạ. Những bức xạ chúng ta biết đến trong khoa học nguyên tử ở những bước sóng ngắn hơn nhiều so với quang phổ ánh sáng; sóng radio là những bước sóng dài hơn nhiều. Ánh sáng hữu hình (là dạng bức xạ mà chúng ta có thể nhìn thấy) nằm ở phần giữa của bảng quang phổ điện từ. Quang phổ hữu hình nằm trong khoảng 400-700nm (nanomét: là đơn vị đo bức xạ). Tia cực tím nằm ở phần sóng ngắn ở cuối quang phổ hữu hình (dưới 400nm). Tia hồng ngoại nằm ở phía cận trên của bước sóng dài nhưng mắt thường không thấy được. Loại ánh sáng này cũng gây nguy hiểm cho các bộ sưu tập.
  72. Ánh sáng gây huỷ hoại như thế nào? Năng lượng ánh sáng được các phân tử bên trong một vật thể hấp thụ mà sự hấp thụ này có thể gây ra nhiều phản ứng hoá học, và tất cả các phản ứng hoá học này đều gây ảnh hưởng xấu đến giấy. Thuật ngữ chỉ quá trình này là suy thoái quang hoá. Mỗi phân tử trong vật thể cần một lượng năng lượng tối thiểu để bắt đầu phản ứng hoá học với các phân tử khác. Nó được gọi là năng lượng kích hoạt. Các loại phân tử khác nhau có nguồn năng lượng kích hoạt khác nhau. Hình 1: Các bảng quang phổ điện từ (trích từ các tài
  73. liệu: “Chiếu sáng hợp lý trong trưng bày: Bảo vệ các bộ sưu tập tránh hư hại” (Proper Exhibition Lighting: Protections Collections from Damage) của Susan E. Weiss, Technology & Conservation xuất bản (Xuân 1977) Nếu như năng lượng ánh sáng tự nhiên hay ánh sáng nhân tạo bằng hoặc vượt quá năng lượng kích hoạt cần thiết của một loại phân tử nhất định thì phân tử đó được kích hoạt và có thể tạo ra các phản ứng hoá học. Khi đó, phân tử sẽ hoạt động theo nhiều cách khác nhau. Năng lượng vượt trội này được thể hiện dưới dạng nhiệt hoặc ánh sáng; năng lượng này cũng có thể phá vỡ nhiều mối liên kết bên trong phân tử (điều này sẽ tạo ra các phân tử nhỏ hơn và gây hậu quả xấu cho giấy); nó cũng có thể gây ra sự sắp xếp lại các nguyên tử cấu tạo nên phân tử; hoặc là năng lượng này sẽ được chuyển giao sang một phân tử khác. Một trong những phản ứng quang hoá chính là ôxi hoá, trong đó phân tử được kích hoạt sẽ chuyển giao năng lượng của nó cho một phân tử ôxi, phân tử ôxi này sẽ phản ứng với các phân tử khác để bắt đầu các phản ứng gây hại. Mặc dù các khả năng xảy ra vô cùng đa dạng nhưng chúng đều có cùng hậu quả là gây hư hại cho tài liệu. Những bước sóng ngắn hơn (như tia cực tím) có tần suất
  74. dày hơn (xuất hiện gần nhau hơn) cũng như mang nhiều năng lượng hơn so với các bước sóng dài. Điều này có nghĩa là chúng tấn công vật thể với nhiều năng lượng hơn, trong một thời gian ngắn hơn và năng lượng của chúng đạt hoặc vượt quá năng lượng kích hoạt cần thiết đối với nhiều loại phân tử khác nhau. Do vậy, chúng khiến tác động quang hoá xảy ra nhanh hơn và gây hậu quả lớn hơn. Nếu như các bước sóng dài hơn về phía phần màu đỏ của bảng quang phổ thì chúng sẽ có ít năng lượng hơn, tần suất giảm đi và khả năng “kích hoạt” phân tử cũng suy yếu. Cần ghi nhớ rằng ngay cả những ánh sáng có bước sóng dài cũng gây hại cho giấy và các vật liệu khác. Tia hồng ngoại tạo ra năng lượng làm tăng nhiệt độ của vật thể và điều này sẽ làm gia tăng tốc độ các phản ứng hoá học gây hại sẵn có trong giấy. So sánh Tia cực tím và ánh sáng hữu hình> Vì bức xạ cực tím là dạng ánh sáng có nhiều năng lượng nhất và có sức tàn phá lớn nhất nên chúng ta có thể cho rằng nếu loại trừ được tia cực tím thì ánh sáng hữu hình sẽ chỉ còn là vấn đề nhỏ. Điều này không đúng vì ánh sáng ở mọi bước sóng đều tạo ra những huỷ hoại đáng
  75. kể. Trên thực tế, tia cực tím dễ dàng bị loại trừ khỏi các khu vực lưu trữ hoặc trưng bày do mắt chúng ta không thấy được ánh sáng này. Còn ánh sáng hữu hình thì rắc rối hơn nhiều và chúng cần phải được loại trừ ra khỏi khu vực lưu trữ càng triệt để càng tốt, cũng như chúng cần được kiểm soát cẩn thận ở những khu vực khác. Các nguồn ánh sáng Có 2 nguồn ánh sáng là tự nhiên và nhân tạo. Các thư viện và cơ quan lưu trữ cần phải tránh các ánh sáng tự nhiên. Ánh sáng mặt trời có tỷ lệ tia cực tím cao. Ánh sáng ban ngày sáng hơn và có cường độ mạnh hơn nên gây hư hại nhiều hơn so với hầu hết các dạng ánh sáng nhân tạo. Hai nguồn ánh sáng nhân tạo hiện đang được sử dụng trong các thư viện, bảo tàng và lưu trữ là đèn nóng sáng và đèn huỳnh quang. (Thuật ngữ “đèn” được các kỹ sư và kiến trúc sư sử dụng để chỉ nhiều dạng bóng đèn khác nhau chứ không bao gồm cả phần khung và chụp đèn. Do yêu cầu tiết kiệm năng lượng và giảm chi phí, các nhà sản xuất đã và đang tiếp tục hoàn thiện công nghệ sản xuất đèn để tạo ra các sản phẩm bền, tốn ít năng lượng
  76. và tạo ánh sáng tốt hơn. Các loại đèn huỳnh quang compact, đèn vonfram-halogen, đèn chiếu rọi (HID), đèn không điện cực đã ra đời từ những yêu cầu đó. Đèn nóng sáng kiểu truyền thống phát sáng khi có một nguồn điện truyền qua dây tóc bằng vonfram của bóng đèn, đốt nóng dây tóc đó đến nhiệt độ 2700°C. Đèn nóng sáng chỉ chuyển đổi một lượng nhỏ điện năng thành ánh sáng, phần còn lại bị biến thành nhiệt năng. Loại đèn nóng sáng truyền thống tạo ra rất ít tia cực tím và do vậy không cần bộ phận lọc UV. Chúng gồm có các dạng bóng đèn tròn thông thường được sử dụng trong gia đình và nhiều loại đa dạng được dùng để chiếu sáng trong trưng bày như đèn phản quang R, đèn phản quang elip ER và đèn phản quang mạ nhôm parabol PAR. Đèn vonfram-halogen (còn được gọi là đèn thạch anh) là biến thể của loại đèn nóng sáng truyền thống. Bên trong 1 bóng đèn thạch anh có chứa khí halogen để đèn được cháy sáng hơn và lâu hơn. Loại đèn này tạo ra lượng tia cực tím đáng kể và cần phải có bộ phận lọc. Các bộ phận lọc khá đắt và nơi lắp đặt chúng cần được thiết kế đặc biệt để có thể hài hoà với bộ phận lọc. Đèn vonfram- halogen cũng được sử dụng để chiếu sáng nơi trưng bày, như các loại đèn Halogen PAR và đèn gương phản quang
  77. MR. Đèn huỳnh quang là loại đèn có hơi thuỷ ngân bên trong một bóng đèn thuỷ tinh. Mặt trong của bóng đèn này phủ một lớp bột huỳnh quang. Khi dòng điện đi qua đèn (qua dây tóc), hơi thuỷ ngân sẽ tạo ra bức xạ UV. Lớp bột huỳnh quang sẽ hấp thu bức xạ này và tạo thành ánh sáng hữu hình. Tuy nhiên, 1 lượng tia cực tím sẽ thoát ra khỏi đèn huỳnh quang nên loại đèn này gây tác động tiêu cực hơn so với đèn nóng sáng. Loại đèn huỳnh quang mới nhất là đèn huỳnh quang compact. Nó có kích thước nhỏ hơn, bền hơn và có màu sắc dễ chịu hơn loại đèn truyền thống, có thể dùng chung chốt cắm điện với đèn nóng sáng. Tuy vậy, chúng bắt buộc phải được lọc. Giống như đèn huỳnh quang, đèn chiếu rọi (HID) cũng có khí hơi bên trong bóng đèn thuỷ tinh, có phủ một lớp huỳnh quang, nhưng chúng có công suất cao hơn các loại đèn huỳnh quang thông thường. Có 2 loại đèn. Trong đó, không nên sử dụng các loại đèn HID halide kim loại hoặc thuỷ ngân do chúng tạo ra lượng tia cực tím rất nguy hiểm và khó sử dụng bộ phận lọc. Đèn HID natri cường độ cao thì quá mạnh đối với chiếu sáng trực tiếp và màu ánh sáng không đẹp, nhưng vẫn có thể dùng trong chiếu sáng gián tiếp (ví dụ như chiếu hắt ánh sáng khỏi trần
  78. nhà) ở những không gian lưu trữ lớn, có trần nhà cao. Các loại đèn HID natri này tạo ra lượng UV rất thấp và có thể tiếp tục hạn chế lượng khí này bằng cách sơn trần nhà bằng loại sơn điôxít titan có tính năng hấp thu tia cực tím. Loại đèn này tạo ít nhiệt, hiệu quả và chi phí thấp. Đèn vải sợi là phương tiện rất hiệu quả về mặt năng lượng cho chiếu sáng trưng bày, đặc biệt là trong các hộp trưng bày. Trong hệ thống này, ánh sáng được truyền từ nguồn sáng qua thuỷ tinh hoặc vải sợi acrylic. Các sợi này không tạo ra tia hồng ngoại hay tia cực tím. Ngoài ra, nó không làm cho nhiệt độ trong hộp tăng lên miễn là nguồn sáng được đặt bên ngoài hộp trưng bày như các loại đèn huỳnh quang. Đèn không điện cực là loại nguồn sáng mới nhất. Điện cực là một miếng kim loại, thường làm bằng vonfram, được đốt nóng cho đến khi nó tạo ra ánh sáng. Đối với 1 đèn nóng cháy thông thường thì bộ phận này có nguy cơ bị mòn cao. Đèn không điện cực tạo ánh sáng theo những cách khác, bằng cách sử dụng tần suất radio để kích thích cuộn dây hay năng lượng vi sóng hướng thẳng vào chất sulfur tạo thành ánh sáng hữu hình. Loại đèn này rất sáng cho nên đến nay chúng chỉ được sử dụng làm
  79. đèn chiếu sáng (ánh sáng do đèn sulfur không điện cực tạo ra lớn gấp 250 lần loại đèn nóng sáng 100 watt tiêu chuẩn). Chúng tiết kiệm năng lượng hơn, cho màu sắc đẹp rực rỡ, tạo ít tia cực tím và tia hồng ngoại và đặc biệt có tuổi thọ cao. Hy vọng rằng công nghệ này sẽ được nghiên cứu phát triển để tạo ra loại đèn phù hợp với các không gian trưng bày nhỏ và bên trong các phòng trưng bày. Lượng ánh sáng như thế nào là quá nhiều? Chúng ta có phải loại trừ tất cả các tia cực tím hay không? Các loại ánh sáng hữu hình không thể bị loại trừ, đặc biệt ở các khu vực trưng bày, vậy nên điều chỉnh chúng xuống mức độ nào là thích hợp? Việc kiểm soát tia cực tím rất rõ ràng. Giới hạn chuẩn đối với tia cực tím cho mục tiêu bảo tồn là 75 microwatt/lumen (àW/l). Bất kỳ nguồn sáng nào tạo ra lượng UV lớn hơn thì bắt buộc đều phải lọc. Việc kiểm soát ánh sáng hữu hình gặp nhiều khó khăn hơn. Nhất thiết phải hiểu rõ là vì tác động tiêu cực của ánh sáng mang tính tích luỹ nên giảm bớt cường độ ánh sáng đồng nghĩa với việc giảm những hư hại về lâu dài do ánh sáng gây ra. Một khái niệm quan trọng khác trong kiểm soát ánh sáng hữu hình là luật về đặc quyền. Luật này quy
  80. định rằng việc tiếp xúc với ánh sáng cường độ cao trong 1 thời gian nhất định cũng tạo ra hư hại ngang với việc tiếp xúc với ánh sáng cường độ thấp trong thời gian dài. Ví dụ như hư hại do tiếp xúc vơí ánh sáng cường độ 100 lux trong 5h tương đương với ánh sáng 50 lux trong 10h. Trong nhiều năm, những lời khuyên được chấp nhận rộng rãi trong lĩnh vực bảo tồn đã giới hạn những mức độ của ánh sáng hữu hình đối với những vật liệu nhạy sáng (bao gồm cả giấy) ở khoảng 55 lux (tương đương 5 footcandle) đến 165 lux (hay 15 footcandle) và thấp hơn đối với những vật liệu ít nhạy sáng hơn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều tranh cãi xung quanh những gợi ý này. Một số người đã nêu lên tầm quan trọng của vấn đề thẩm mỹ: những khách thăm quan lớn tuổi cần nhiều ánh sáng hơn để nhìn rõ hơn các vật thể trưng bày, và bất cứ người khách thăm quan nào cũng thấy rằng các vật thể rõ ràng hơn, màu sắc tươi sáng hơn khi tăng độ chiếu sáng. Ngoài ra, người ta còn đưa ra các yếu tố thách thức giả định rằng mọi vật thể bằng giấy đều nhạy sáng như nhau. Các nhà khoa học thuộc Viện bảo tồn Canada (CCI) và các đồng nghiệp khác đã bắt đầu thu thập những số liệu về tỷ lệ ánh sáng làm nhạt màu các vật phẩm và màu sắc nhất định với nỗ lực phát triển những hướng dẫn cụ thể hơn dựa trên
  81. những bảng chuẩn Blue Wood về độ nhạt màu do ánh sáng gây ra của Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) (xem phần “Những gợi ý thực tiễn đánh giá mức độ gây hư hại của ánh sáng” ở phần dưới) Do chưa có những hướng dẫn mang tính quốc tế nên mỗi tổ chức phải tự thiết lập những giới hạn trưng bày cho các bộ sưu tập của mình. Các yếu tố cần xem xét bao gồm: thời gian ánh sáng được bật lên trong khu trưng bày (lượng thời gian này có thể nhiều hơn con số được đưa ra ban đầu vì sau khi hết giờ tham quan đèn có thể được bật cho mục đích bảo vệ hoặc nhiều mục đích khác nữa); độ nhạy cảm của các vật thể/nhóm đang được trưng bày; tuổi thọ mong muốn đối với các vật thể/nhóm này; và tầm quan trọng của các vấn đề thẩm mỹ trong trưng bày. Cuối cùng, mỗi tổ chức nên quyết định giới hạn về mức độ tiếp xúc với ánh sáng có thể chấp nhận được (ví dụ như x/lux giờ/năm). Giới hạn này đối với các vật thể khác nhau trong bộ sưu tập có thể khác nhau. Các ấn phẩm của CCI và các chính sách về bảo tồn do Viện bảo tàng nghệ thuật Montreal phát triển đối với các tác phẩm bằng giấy sẽ rất có ích trong việc lượng đoán độ nhạy cảm của các loại vật thể sưu tập này. Áp dụng luật đặc quyền, giới hạn trưng bày có thể đạt
  82. được bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ như có thể đặt giới hạn 50.000 lux giờ/năm bằng cách bật đèn 10h/ngày hoặc chiếu đèn có cường độ 100 lux trong 50 ngày hay 50 lux trong vòng 100 ngày. Mục đích là nhằm đạt được sự hài hoà giữa việc trưng bày và bảo tồn. Đo mức độ ánh sáng bằng cách nào? Ánh sáng hữu hình được đo bằng lux (bằng lượng lumen/m2) hoặc bằng footcandle. 1footcandle= khoảng 11 lux. Thước đo ánh sáng được dùng để đo mức độ của ánh sáng hữu hình. Thước đo này phải được đặt ở nơi mà bạn có thể đọc được chỉ số của nó (ví dụ như gần bề mặt của vật thể được trưng bày). Tương tự như vật thể, thước này phải được đặt ngược với góc chiếu của ánh sáng để bảo đảm rằng nó sẽ cho số đo đúng. Nếu như bạn không có được loại thước đo này thì bạn có thể đo mức độ lux tương đối bằng cách sử dụng một máy ảnh phản chiếu có ống kính đơn đường kính 35 mm và tiến hành theo trình tự sau: + Đặt 1 tấm bảng 30cm x 40 cm ở vị trí đo mức ánh sáng ở cùng góc độ với vật thể. + Cài đặt chỉ số ASA/ISO ở mức 800. Đặt tốc độ chip
  83. 1/60 giây. + Ngắm máy ảnh vào tấm bảng trắng và điều chỉnh ống ngắm khít với tấm bảng. Cẩn thận không để hắt bóng lên tấm bảng. + Điều chỉnh ống kính đến khi thước đo ánh sáng cho số đo chính xác, ghi lại cách cài đặt đó. Mức độ ánh sáng tương đối bằng đơn vị lux trên tấm bảng trắng theo cài đặt ống kính như sau: F4 biểu thị 50lux F5,6 biểu thị 100lux F8 biểu thị 200lux F11 biểu thị 400lux F16 biểu thị 80lux Một thước đo ánh sáng chỉ đo lường mức độ chiếu sáng mà thôi; muốn đo lượng tia cực tím trong ánh sáng thì phải sử dụng một thước đo UV. Tia UV được đo bằng microwatt/lumen (viết tắt là àW/l). Loại thước đo tia UV phổ biến nhất là thước đo Crawford, nhưng tất cả các thước đo UV đều đo lường tỷ lệ tia cực tím trong ánh sáng hữu hình. Cần phải nhắc lại
  84. rằng nó không được vựơt quá 75 àW/l. Cần có một số chú ý đối với loại thước đo UV: một số loại thước đo cũ (giá từ $500-$1000) không chỉ nhạy với tia cực tím, do đó chúng có thể báo rằng mức độ đó là an toàn, nhưng trên thực tế không phải như vậy. Các loại thước mới đắt hơn ($3000-$5000) nhưng chúng được thiết kế để đo mức độ UV chính xác hơn. Những lời khuyên thực tế trong việc đo lường mức huỷ hoại của ánh sáng. Có thể ước lượng mức độ huỷ hoại mà ánh sáng gây ra đối với một vật thể với các cường độ và thời gian xác định bằng cách sử dụng các tấm thử Blue Wool chuẩn của tổ chức ISO (hiện có tại Talas) và Bảng tham chiếu về ảnh hưởng của ánh sáng (hiện có tại Viện Bảo tồn Canada CCI). Những tấm Blue Wool chuẩn có thể cho thấy rõ tính huỷ hoại của ánh sáng. Những tấm này đưa ra những tiêu chuẩn để đánh giá tác động làm phai màu. Do vậy, chúng có thể được dùng để thuyết phục những người còn hoài nghi rằng ánh sáng thực sự là mối nguy hại. Mỗi tấm Blue Wool gồm có 8 mẫu sợi len được nhuộm màu xanh. Mẫu 1 cực kỳ nhạy sáng; mẫu 8 là mẫu bền vững nhất (mặc dù không lâu dài); mẫu 2 bền gấp 2 lần mẫu 1; mẫu
  85. 3 gấp 2 lần mẫu 2, v.v Để biểu thị được mức độ phai mầu do cường độ ánh sáng gây ra ở một vị trí nhất định, bạn hãy dùng một vật liệu chắn sáng che 1/2 tấm Blue Wool này. Hãy ghi ngày tháng lên trên tấm thẻ và đặt nó nào vị trí xác định. Hãy kiểm tra định kỳ tấm thẻ (2 lần/tuần) để xác định xem mỗi mẫu đầu tiên trên tấm thẻ tương ứng với những loại vật liệu nhạy sáng như giấy và vải, vậy nên kết quả thử nghiệm sẽ cho bạn một ý tưởng tổng quan về sự hư hại mà bạn sẽ gặp khi những loại vật liệu tương ứng được trưng bày trong cùng một khoảng thời gian, cùng một mức độ ánh sáng và ở cùng một vị trí. Bảng tham chiếu của CCI về sức phá hoại của ánh sáng là một bảng nhựa trong đó sắp xếp và liệt kê các loại ánh sáng, cường độ ánh sáng và thời gian tiếp xúc, từ đó đưa ra độ phai màu tương ứng của tấm thẻ len xanh dưới tác động của những điều kiện đó. Ví dụ như, nó cho biết nếu một vật thể được trưng bày ở cường độ ánh sáng 150 lux trong 100 năm sẽ có cùng độ phai màu như một vật tiếp xúc với ánh sáng 5000 lux trong 3 năm. Cường độ ánh sáng tiếp xúc 150 lux trong 100 năm như trong ví dụ trên sẽ gây phai màu đáng kể với mẫu len xanh tiêu chuẩn số 4 cũng như các mẫu phía dưới. Bảng quy tắc này cũng so
  86. sánh những hư hại mà tia cực tím và tia hồng ngoại có thể gây ra. Trong trường hợp trên, mẫu len số 4 và các mẫu 1-3 sẽ bị phai màu đáng kể khi tiếp xúc với tia hồng ngoại. Các công cụ được miêu tả trên đây có thể hữu ích, giúp cho bạn thấy được tác động của chế độ chiếu sáng bạn chọn đối với những vật liệu được trưng bày. Trong hầu hết các trường hợp, độ nhạy sáng của các vật thể trưng bày tương ứng với các mức tiêu chuẩn của tấm Blue Wool. Sự tương ứng này đủ để nhà quản lý ra quyết định đúng đắn. Nếu như bạn cần thêm những thông tin chi tiết hơn thì có thể tham khảo những ấn phẩm của CCI và Bảo tàng Nghệ thuật Montreal.
  87. Hình 2: Bảng mẫu Blue Wool chuẩn Kiểm soát tia cực tím Có thể lọc tia UV bằng cách cho ánh sáng đi qua 1 vật liệu trong suốt đối với ánh sáng hữu hình nhưng lại mờ đục đối với tia cực tím. Một thiết bị lọc lý tưởng có thể ngăn mọi bước sóng cực tím <400nm, nhưng điều này là rất khó. Hiện có rất nhiều sản phẩm cho hiệu quả khá tốt. Trong trình tự ưu tiên, ta thường ưu tiên xử lý ánh sáng tự nhiên trước, sau đó mới là ánh sáng huỳnh quang. Hiện có các tấm nhựa lọc tia cực tím có thể dùng để che các cửa sổ và cửa mái. Chúng phải che phủ hoàn toàn phía trong để mọi ánh sáng phải đi qua. Tấm nhựa này được sản xuất dưới dạng các tấm acrylic hoặc tấm mỏng (thường bằng acetate), có thể dùng dao hoặc kéo để cắt thành hình mong muốn rồi gắn lên kính. Các tấm acrylic có thể được dùng thay cho cửa kính (nếu các quy định về an toàn hoả hoạn cho phép), phủ hoặc treo bằng móc bên trong cửa sổ (lưu ý là tấm ngăn phải được cắt với kích thước lớn hơn cửa kính để bảo đảm rằng mọi ánh sáng phải đi qua tấm ngăn mới vào được bên trong). Hiện có