Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình - Tập 2
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình - Tập 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_luat_hon_nhan_va_gia_dinh_tap_2.pdf
Nội dung text: Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình - Tập 2
- Giáo trình luật hôn nhân và gia đình
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 GIỚI THIỆU PHÁP LUẬT VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG Ảnh hưởng của hôn nhân đối với tình trạng tài sản của cá nhân. Trước khi kết hôn và sau khi hôn nhân chấm dứt, vợ, chồng là những người độc thân. Người độc thân có tài sản riêng, còn gọi là tài sản cá nhân. Dù có thể đối với những tài sản nhất định, người độc thân chỉ có quyền sở hữu chung theo phần cùng với người khác, thì phần quyền sở hữu của người độc thân trong tài sản chung ấy vẫn là của riêng người này và người này có riêng quyền sử dụng phần quyền ấy, quyền hưởng hoa lợi phát sinh từ đó, cũng như quyền định đoạt phần quyền đó trong khuôn khổ chế độ pháp lý về sở hữu chung theo phần. Trong chừng mực đó, ta nói rằng tất cả các tài sản mà quyền sở hữu được xác lập cho người độc thân thông qua các giao dịch chuyển nhượng hữu hiệu hoặc bằng các phương thức trực tiếp, nghĩa là theo luật chung về tài sản, đều thuộc về người này một cách độc quyền. Có tài sản riêng, người độc thân tự mình chịu trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ tài sản do mình xác lập theo quy định của pháp luật bằng toàn bộ tài sản riêng của mình và không thể trông cậy vào ai khác1. Người thứ ba khi giao dịch với người độc thân, cũng chỉ biết có người này như là người duy nhất có quyền hoặc có nghĩa vụ trong quan hệ với mình. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng ràng buộc lẫn nhau bởi nhiều bổn phận, trong đó có những bổn phận có ảnh hưởng nhất định đối với quyền hạn của vợ, chồng trong việc xác lập các giao dịch liên quan đến tài sản, thậm chí có những bổn phận có tác dụng đặt cơ sở cho việc xác định tính chất chung hay riêng của một tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra. Suy cho cùng, tất cả các tài sản của vợ, chồng, dù là của riêng mỗi người hay của chung hai người, đều phải được khai thác, sử dụng trước hết nhằm bảo đảm sự duy trì và phát triển của gia đình, sau đó mới phục vụ cho cá nhân chủ sở hữu. Nhân danh lợi ích của gia đình, vợ hoặc chồng có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch trên tài sản chung và, trong một số trường hợp, nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch ấy có thể ràng buộc cả vợ và chồng một cách liên đới, nghĩa là khiến cho chồng hoặc vợ, dù không trực tiếp đứng ra giao dịch, phải có trách nhiệm cùng với vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản chung, thậm chí bằng tài sản riêng của mình. 1 Ngay nếu như được bảo lãnh để thực hiện một nghĩa vụ nào đó của mình, cá nhân người được bảo lãnh cũng không chia sẻ được nghĩa vụ của mình với người khác, bởi, người bảo lãnh, sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện đúng nghĩa vụ đó đối với mình. Có thể xem Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, nxb Trẻ, 1999. 1 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 I. Khái niệm quan hệ tài sản giữa vợ và chồng Khái niệm chung. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là một loại quan hệ đặc biệt ràng buộc hai người, vốn đã gắn bó với nhau do hiệu lực của hôn nhân, nghĩa là có đăng ký kết hôn, liên quan đến tài sản, nói chung là đến các lợi ích vật chất có giá trị tiền tệ. Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, sự tồn tại của quan hệ tài sản giữa vợ và chồng lệ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân. Quan hệ tài sản của vợ chồng không tồn tại giữa hai người chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn2. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng bị thủ tiêu, trong trường hợp hai người chung sống với nhau có đăng ký kết hôn, nhưng sau đó hôn nhân bị hủy theo một bản án hoặc quyết định của Toà án. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng chấm dứt, trong trường hợp hai người chung sống với nhau có đăng ký kết hôn, nhưng sau đó hôn nhân chấm dứt do ly hôn hoặc do có một người chết. II. Luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng Luật gia đình và luật dân sự. Trong điều kiện các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được thừa nhận về mặt pháp lý, ta nói rằng luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng là tập hợp các quy tắc về thành phần cấu tạo của các khối tài sản mà vợ, chồng hoặc cả hai có quyền sở hữu; về các quyền của vợ, chồng đối với các khối tài sản đó và về những nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai có trách nhiệm thực hiện. Trong chừng mực nào đó, có thể nói rằng luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng là sự pha trộn (đúng hơn, là sự kết hợp) giữa luật gia đình và luật dân sự. Dựa vào luật dân sự, luật về quan hệ tài sản của vợ chồng xây dựng các quy tắc liên quan đến thành phần cấu tạo các khối tài sản, đến quyền của vợ chồng đối với các khối tài sản đó, cũng như đến các nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba hoặc đối với nhau. Dựa vào luật gia đình, luật về quan hệ tài sản xây dựng các quy tắc mang tính đặc thù liên quan đến nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản, cũng như đến việc xác lập quyền sở hữu đối với một số tài sản nhất định, áp dụng trong điều kiện người có tài sản, người có nghĩa vụ, là người có vợ (chồng). Quyền của vợ chồng đối tài sản được quan tâm trong thời kỳ hôn nhân, trong khi vấn đề thành phần cấu tạo của các khối tài sản hầu như chỉ được đặt ra một khi hôn nhân chấm dứt và cần phải thanh toán các mối quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Việc thực hiện nghĩa vụ tài sản, về phần mình, là việc tồn tại chừng nào quan hệ nghĩa vụ và chủ thể quan hệ nghĩa vụ còn tồn tại, bất kể hôn nhân đang được duy trì hay đã chấm dứt; nhưng thể thức thực hiện nghĩa vụ có thể không như nhau trong một số trường hợp đặc thù, tuỳ theo nghĩa vụ được thực hiện trước hay sau khi hôn nhân chấm dứt. Hai mô hình. Chế độ tài sản của vợ chồng thường được xây dựng trong các hệ thống luật theo một trong hai mô hình tiêu biểu: - Mô hình quan hệ tài sản chung: Với mô hình này, vợ và chồng cùng tham gia vào việc tạo lập, duy trì và phát triển một khối tài sản mà họ có quyền sở hữu chung. Trong thời kỳ hôn nhân, sở hữu chung mang tính hợp nhất: phần quyền của vợ chồng đối với tài sản chung không được xác định; sau khi hôn nhân chấm dứt, sở hữu chung mang tính chất theo phần và việc thanh toán tài sản chung được thực hiện dựa vào công sức đóng góp của mỗi người vào việc duy trì và phát triển khối tài sản đó. Mô 2 Trừ trường hợp tình trạng chung sống như vợ chồng thoả mãn các điều kiện do pháp luật quy định để được đồng hoá với tình trạng hôn nhân hợp pháp: xem Gia đình, nxb Trẻ, 2002, số 99 và kế tiếp. 2 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 hình quan hệ tài sản chung được xây dựng dựa trên tư tưởng chủ đạo theo đó hôn nhân có tác dụng ràng buộc vợ và chồng vào nhiều bổn phận đối với nhau cũng như đối với gia đình - Mô hình quan hệ tài sản riêng: Với mô hình này, vợ, chồng bảo tồn sự độc lập của mỗi người trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản. Không có khối tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có hai khối tài sản riêng, của vợ và của chồng. Mô hình quan hệ tài sản riêng được xây dựng bằng những ý tưởng phát triển từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự do cá nhân của vợ và của chồng trong khung cảnh của gia đình. Trong quá trình phát triển của luật, các mô hình có xu hướng thâm nhập lẫn nhau: trong mô hình quan hệ tài sản chung, các quy tắc liên quan đến việc xác định khối tài sản riêng dần dần được hoàn thiện; ngược lại, trong mô hình quan hệ tài sản riêng, các quy tắc liên quan đến việc xác định một khối tài sản chung hình thành từng bước và có hệ thống. Thậm chí, một thế hệ mới về mô hình đang hình thành trong luật của một số nước tiền tiến. Mô hình mới đặc trưng bởi sự dung hoà giữa các quyền tự do cá nhân (chế độ tài sản riêng) và các bổn phận giữa vợ và chồng (chế độ tài sản chung): trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng sống dưới chế độ tài sản riêng; nhưng khi hôn nhân chấm dứt, việc thanh toán được thực hiện như thể giữa vợ và chồng đã từng có một khối tài sản chung3. Một trong những đại biểu của mô hình mới này là luật của Đức4. III. Sự phát triển của luật Việt Nam về quan hệ tài sản giữa vợ chồng 1.Luật cổ và tục lệ Quan niệm cổ về chủ thể quan hệ pháp luật. Trong suy nghĩ cổ xưa, vợ và chồng không có quan hệ tài sản. Khi hôn nhân còn tồn tại, thì vợ chồng là một người; khi hôn nhân chấm dứt do có người chết, thì vợ, chồng cũng chỉ còn một người; nếu hôn nhân chấm dứt do rẫy vợ hoặc do ly hôn, thì đúng là có hai người, nhưng không phải là vợ chồng. Trong thời kỳ thuộc địa, một số nhà nghiên cứu thử nhìn luật cổ và tục lệ Việt Nam qua lăng kính Pháp để tìm kiếm và mô tả các mối quan hệ tài sản giữa vợ chồng thời xưa, rồi đặt cho các mối quan hệ được phát hiện những cái tên Pháp5. Mọi nhận định đều trở nên khá tuỳ tiện, lệch lạc và hầu hết đều mang tính áp đặt. Nói rõ hơn, chế độ sở hữu gia đình, được thừa nhận trong luật cổ và tục lệ Việt Nam như là hình thức duy nhất của sở hữu tư nhân, khiến cho cách đặt vấn đề về quan hệ giữa vợ chồng mà có đối tượng là tài sản không giống như trong một hệ thống luật được xây dựng dựa trên quyền sở hữu cá nhân. Ngày xưa, toàn bộ tài sản trong gia đinh là của gia đình và chính gia đình, chứ không phải cá nhân, là chủ thể của quan hệ 3 Nói rõ hơn, trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có trọn quyền sử dụng, định đoạt đối với các tài sản có trước khi kết hôn và các tài sản do mình tạo ra trong thời ký hôn nhân; nhưng khi hôn nhân chấm dứt, vợ, chồng có quyền yêu cầu chia một nửa khối tài sản do người còn lại tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. 4 Xem Fromont và Rieg, Introduction au droit allemand, Cujas, t. III, 1991, tr. 217 và kế tiếp; Dolle, L’évolution récente du régime matrimonial légal en Allemagne, Revue internationale de droit comparé, 1965, tr. 607 và kế tiếp. Thực ra, mô hình dung hoà này có nguồn gốc từ luật của các nước thuộc bán đảo Scandinavie; nhưng luật của các nước này chủ trương chia tài sản bằng hiện vật. Luật của Đức, áp dụng mô hình này từ năm 1957, quyết định rằng việc chia tài sản được thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng về giá trị và do đó, thông thoáng hơn. 5 Có thể xem, ví dụ, Nguyễn Huy Lai, Les régimes matrimoniaux en droit annamites, luận án Paris, 1934; R. Lingat, Les régimes matrimoniaux du Sud-Est de l’Asie, Trường Viễn đông bác cổ, T.1, 1953; T.2, 1955. 3 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 pháp luật6. Trước người thứ ba, gia đình hoá thân vào người chủ gia đình và người này nhân danh gia đình để xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của gia đình. Trong tục lệ nông dân và trong luật nhà Lê, vai trò chủ gia đình được cả cha và mẹ đảm nhận; nếu cha chết thì mẹ đảm nhận trọn (kể cả trong trường hợp kết hôn lại). Trong luật nhà Nguyễn, vai trò ấy được giao cho người cha, gọi là gia trưởng; người mẹ đóng vai người cộng sự, người chủ dự bị, và sẽ thay thế người cha để đảm nhận vai trò gia trưởng khi người cha chết, với điều kiện không kết hôn lại. 2. Luật cận đại Sự pha trộn giữa quan niệm truyền thống và quan niệm phương Tây. Nhào nặn tư duy pháp lý cổ xưa với các tư tưởng của luật học phương Tây, người làm luật thời kỳ thuộc địa xây dựng khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng bằng cách lồng nội dung của chế độ gia trưởng về tài sản trong các quy tắc được diễn đạt bằng các thuật ngữ vay mượn từ luật của Pháp (cộng đồng tài sản, tài sản chung, tài sản riêng, quản lý tài sản, ). Người làm luật thời thuộc địa cũng thừa nhận cho vợ chồng quyền xây dựng các quan hệ tài sản theo thoả thuận, miễn là các thoả thuận ấy không có tác dụng tước đi quyền đứng đầu gia đình của người chồng và không trái với thuần phong mỹ tục; song các quan hệ tài sản theo thoả thuận hầu như không được các cặp vợ chồng Việt Nam quan tâm. Nhiều lắm, khi hôn nhân được xác lập giữa một người Việt và một người Pháp, thì người nước ngoài có thể nghĩ đến chuyện xây dựng các thoả thuận cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của mình về tài sản. Cần lưu ý rằng các quan hệ tài sản giữa vợ chồng được chi phối bằng những quy tắc pháp lý được xây dựng theo kiểu Pháp trong các hệ thống pháp lý của Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Còn ở Nam Kỳ, cho đến khi chấm dứt chế độ thuộc địa vẫn chưa có một hệ thống các quy tắc chi phối các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng7; trong trường hợp có tranh chấp, các toà án giải quyết các yêu cầu của đương sự dựa vào Bộ luật Gia Long, tục lệ và án lệ. 3. Luật hiện đại Luật Việt Nam hiện đại chấp nhận tư duy pháp lý của các nước latinh trong lĩnh vực quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Bởi vậy, do hiệu lực của hôn nhân, vợ và chồng có những mối quan hệ tài sản đặc thù mà giữa hai người độc thân hoặc chung sống như vợ chồng không thể có. Vợ chồng dưới mắt người thứ ba cũng không thể giống như hai người độc thân, hai chủ thể riêng biệt của quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, khác với luật của nhiều nước, luật Việt Nam hiện đại không dành cho vợ chồng nhiều sự lựa chọn về loại hình quan hệ tài sản. Trong Luật năm 19598. Vợ chồng có quan hệ tài sản theo chế độ tài sản chung tuyệt đối: tất cả tài sản có trước và sau khi kết hôn đều là của chung (Điều 15) . Tất nhiên, nguyên tắc này được áp dụng trong chừng mực nó còn tỏ ra hợp lý; bởi vậy, dù luật không nói rõ, thực tiễn vẫn có xu hướng coi các đồ dùng cá nhân mà công dụng 6 Nguyễn Ngọc Điện và Claude-Emmanuel Leroy, La pluralité des approches juridiques de la pluriculturalité au regard de la conception du patrimoine dans le droit vietnamien, trong tập công trình L’Etat pluriculturel et les droits aux différences, Bruylant, Bruxelles, 2003, tr. 75. 7 Trong khoảng thời gian cuối của chế độ thuộc địa, một dự thảo Bộ luật dân sự đã được xây dựng và dự kiến được thông qua để áp dụng trên lãnh thổ Nam Kỳ; tuy nhiên, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã khiến cho việc triển khai dự án bị chậm trễ. Sau đó, chế độ thuộc địa bị xoá sổ cùng với các dự án xây dựng pháp luật còn dang dở. 8 Trước khi có Luật năm 1959, người làm luật nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có ban hành một vài văn bản có chứa đựng một số quy tắc điều chỉnh quan hệ vợ chồng, như Sắc lệnh ngày 22/5/1950, Sắc lệnh ngày 14/12/1959 ; tuy nhiên, các văn bản ấy không quy định một cách có hệ thống các quan hệ tài sản. 4 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 gắn liền với giới tính (đặc biệt là quần áo) là tài sản riêng của mỗi người. Dẫu sao, do chiến tranh, việc tích lũy của cải trong dân cư không đáng kể, phạm vi áp dụng nguyên tắc cộng đồng tài sản được mở rộng đến mức có thể được (ví dụ, cả đối với tư trang, đồ dùng cá nhân mà công dụng không gắn liền với giới tính) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của vợ, chồng trong những điều kiện sống tối thiểu. Trong thời kỳ đất nước chia đôi, người làm luật của chế độ Sài Gòn ban hành Luật ngày 02/01/1959 chọn chế độ tài sản chung tổng quát làm chế độ pháp định (Điều 47). Sau đó ít lâu, Sắc Luật ngày 23/7/1964, thay thế Luật ngày 02/01/1959, lại chọn chế độ tài sản chung đối với động sản và đối với tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (Điều 53). Chế độ này được tiếp tục thừa nhận và được hoàn thiện một bước trong Bộ dân luật 1972 (Điều 150 đến 162). Nói chung, chế độ pháp định về tài sản của vợ chồng trong Bộ dân luật năm 1972 có nhiều điểm tương tự như chế độ pháp định được áp dụng tại Pháp trước năm 1966: vợ chồng có thể có quyền sở hữu riêng đối với bất động sản; còn động sản chỉ có thể là tài sản chung, trừ những động sản mà tính chất riêng là không thể tranh cãi, như tư trang, đồ dùng cá nhân và một số động sản khác. Sau khi đất nước thống nhất. Luật năm 1986 được xây dựng và ban hành trong khung cảnh hồi phục của sở hữu tư nhân. Tính chất “tư” của một số tài sản, ở góc nhìn của quan hệ nội bộ giữa vợ và chồng, bắt đầu được lưu ý. Trong các nỗ lực nhằm thiết lập sự dung hoà giữa nguyên tắc tôn trọng tự do cá nhân và nguyên tắc bảo vệ lợi ích gia đình, người làm luật năm 1986 thừa nhận rằng việc kết hôn không làm mất khả năng có quyền có tài sản riêng của một người. Vậy là bắt đầu hình thành ba khối tài sản trong thời kỳ hôn nhân; khối tài sản chung của vợ chồng, khối tài sản riêng của chồng và khối tài sản riêng của vợ. Thế nhưng, khác với luật của những nước xây dựng chế độ tài sản pháp định tương tự, luật Việt Nam thừa nhận cho vợ, chồng quyền nhập một hoặc nhiều tài sản riêng vào khối tài sản chung, cũng như quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nếu có lý do chính đáng. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 kế thừa các tư tưởng của người làm luật năm 1986 và tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của ba khối tài sản của vợ, chồng, quyền nhập tài sản riêng vào tài sản chung và quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các quy tắc liên quan được xây dựng chi tiết hơn trước. Trong chừng mực nào đó, có thể nói rằng luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng trong luật hiện đại là sự kế thừa có phát triển chế độ tài sản gia đình của luật cổ và tục lệ trong điều kiện sở hữu tư nhân mang tính chất cá nhân, chứ không phải tính chất gia đình như ngày xưa, và trong điều kiện vợ, chồng bình đẳng về mọi phương diện. 5 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 CHƯƠNG THỨ NHẤT THÀNH PHẦN CỦA CÁC KHỐI TÀI SẢN CÓ Thành phần của các khối tài sản có được xác định dựa vào một hệ thống các quy tắc tạm gọi là chế độ phân phối tài sản của vợ chồng. Khi xây dựng chế độ này, người làm luật dựa vào một số tư tưởng chủ đạo cũng như vào đối trọng của các tư tưởng ấy. Mục I. Tổng quan về chế độ phân phối tài sản I. Các tư tưởng chủ đạo 1. Tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân: cốt lõi của chế độ tài sản Nguồn sống của gia đình và nguồn của các khối tài sản. Trong trường hợp phổ biến nhất ở Việt Nam, vợ và chồng, khi bắt đầu cuộc sống chung, chỉ có một ít của cải riêng. Chính nỗ lực lao động của vợ và chồng, đôi khi cộng thêm một ít may mắn, thúc đẩy quá trình tích lũy của cải của gia đình. Do đó, khối tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân thường là khối tài sản có giá trị quan trọng nhất và cũng là nguồn bảo đảm chính đối với cuộc sống vật chất của gia đình. Trong chừng mực nào đó, người ta nói rằng khối tài sản này là xi măng kinh tế của gia đình. Khối tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là nguồn chủ yếu của khối tài sản chung. Khối tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân cũng là một trong những nguồn của khối tài sản riêng: ví dụ điển hình là trường hợp dùng tiền lương tạo ra trong thời kỳ hôn nhân để mua sắm tư trang hoặc quần áo, đồ dùng cá nhân. Người làm luật, về phần mình, luôn dành cho khối tài sản này nhiều sự quan tâm nhất. Các quy tắc của luật hiện hành luôn được xây dựng như thế nào để khối tài sản này có cơ sở pháp lý vững chắc nhất mà hình thành và phát triển. 2. Không có khái niệm tài sản thay thế Khái niệm tài sản thay thế. Gọi là tài sản thay thế, một tài sản đi vào một sản nghiệp với tư cách là vật thay thế cho tài sản đi ra khỏi sản nghiệp đó: bán một căn nhà để mua một căn nhà khác; căn nhà được bán là vật đi ra, căn nhà được mua là vật thay thế. Chủ sở hữu trước đây có quyền sở hữu đối với căn nhà được bán, nay là chủ sở hữu căn nhà được mua. Trong trường hợp số tiền bán nhà không được dùng để mua một tài sản khác, thì, trong điều kiện nguyên tắc thay thế được thừa nhận, chính số tiền bán nhà là tài sản thay thế. Tài sản thay thế đảm nhận vị trí pháp lý của tài sản bị thay thế. Ở góc độ pháp luật về sản nghiệp, một tài sản thay thế vị trí của một tài sản khác trong khối tài sản có 6 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 sẽ là vật bảo đảm cho các nghĩa vụ tài sản của người có sản nghiệp, thay cho tài sản đã đi ra khỏi sản nghiệp đó. Chính nhờ có khái niệm tài sản thay thế mà, trên nguyên tắc, một người có nghĩa vụ tài sản không bị cấm định đoạt bằng các giao dịch có đền bù đối với các tài sản của mình, dù chưa hoặc không thực hiện nghĩa vụ đó9: người có quyền yêu cầu (gọi nôm na là chủ nợ) luôn có các tài sản thay thế làm vật bảo đảm cho quyền yêu cầu của mình. Tài sản thay thế và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Nếu khái niệm tài sản thay thế được ghi nhận trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng thì: khi dùng tiền riêng để mua một tài sản, tài sản mua được là của riêng người mua; khi dùng tiền chung để mua một tài sản, tài sản mua được là chung của vợ và chồng; khi một tài sản riêng bị hủy hoại, tiền bồi thường thiệt hại do tài sản bị hủy hoại là tài sản thay thế và cũng là tài sản riêng; khi một tài sản chung bị hủy hoại, tiền bồi thường thiệt hại do tài sản bị hủy hoại là tài sản thay thế và cũng là tài sản chung Khái niệm tài sản thay thế có tác dụng giúp cho các khối tài sản riêng của vợ, chồng được bảo tồn bằng hiện vật trong điều kiện các yếu tố thực tế, nghĩa là các tài sản cụ thể, có thể lưu thông như bất kỳ một vật nào có giá trị tiền tệ và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Khái niệm này chỉ cần thiết trong việc bảo tồn các khối tài sản riêng, bởi khi một tài sản chung đi ra, thì một tài sản khác đi vào và, với tư cách là tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, tài sản đi vào trở thành tài sản chung do hiệu lực của chế độ tài sản, mà không cần sự trợ giúp của một công cụ pháp lý đặc biệt nào khác. Hệ quả của sự thiếu vắng khái niệm tài sản thay thế trong luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Luật Việt Nam không xây dựng khái niệm tài sản thay thế như là một khái niệm của luật cơ bản. Chỉ trong một vài trường hợp đặc thù, khái niệm này xuất hiện như một công cụ bảo vệ một lợi ích chính đáng nhất định về tài sản10. Bởi vậy, trong điều kiện vợ và chồng có nhiều khối tài sản, việc một tài sản được chuyển hoá thành một tài sản khác do hiệu lực của một giao dịch chuyển nhượng có đền bù có thể khiến cho tài sản mới đi vào một khối tài sản khác. Với quy định theo đó, tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ và chồng, thì “khối tài sản khác” đó chỉ có thể là khối tài sản chung. Nói cách khác, việc không xây dựng khái niệm tài sản thay thế trong quan hệ tài sản giữa vợ chồng có tác dụng tạo ra một lực hút của khối tài sản chung đối với các khối tài sản riêng: một khi tài sản riêng đi ra theo một giao dịch chuyển nhượng có đền bù, thì vật đền bù lại đi vào khối tài sản chung chứ không phải khối tài sản riêng. II. Đối trọng của các tư tưởng chủ đạo 1. Lý thuyết về công sức đóng góp Sự cần thiết của việc xây dựng lý thuyết về công sức đóng góp. Do đặc điểm của cuộc sống chung, các quan hệ tài sản của vợ và chồng thường đan xen. Để có thể mua một tài sản quan trọng trong điều kiện tích lũy từ thu nhập cũng như tiền thu được từ việc bán tài sản chung không đủ, vợ hoặc chồng có thể phải dùng tiền riêng hoặc 9 Trái lại, các giao dịch không có đền bù có thể bị coi là gian lận và được thực hiện nhằm mục đích trốn nợ, bởi một giao dịch như thế làm cho một tài sản đi ra khỏi sản nghiệp, nhưng lại không làm cho một tài sản nào khác đi vào để thay thế. 10 Có thể xem, ví dụ, Tài sản, nxb Trẻ, 1999, số 37. 7 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 tiền thu được từ việc bán tài sản riêng; để sửa chữa nâng cấp một căn nhà riêng, vợ hoặûc chồng có thể phải huy động ngân quỹ dành dụm từ thu nhập do lao động, tức là từ tài sản chung; để thanh toán tiền chênh lệch cho người đồng thừa kế sau khi chia tài sản được thừa kế chung, người nhận tài sản bằng hiện vật có thể phải dùng tiền do vợ chồng mình dành dụm trong thời kỳ hôn nhân Bởi vậy, trong sự phát triển khối tài sản chung thường có phần đóng góp của khối tài sản riêng và ngược lại. Khi hôn nhân chấm dứt và các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng cần được thanh toán, thì các phần đóng góp này sẽ được ghi nhận như là một trong những căn cứ xác định phần quyền của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Lý thuyết về công sức đóng góp trong luật hôn nhân và gia đình có thể được hình dung như là một tập hợp các quy tắc chi phối sự di chuyển giá trị từ khối tài sản chung sang một khối tài sản riêng của vợ hoặc chồng hoặc ngược lại, từ một khối tài sản riêng sang khối tài sản chung. Trong chừng mực đó, lý thuyết về công sức đóng góp được coi như một cách vận dụng các quy tắc của chế định được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật thuộc luật chung trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Nếu không có lý thuyết về công sức đóng góp, thì một mặt, sẽ có vợ hoặc chồng ở trong tình trạng được lợi do khối tài sản chung gia tăng giá trị11, trong khi người còn lại bị thiệt hại do khối tài sản riêng của mình bị giảm sút. Mặt khác, vợ hoặc chồng có thể do không muốn khối tài sản riêng của mình bị hao mòn mà sẽ để các tài sản ấy bất động và lưu thông dân sự sẽ không phát triển. Lý thuyết về công sức đóng góp trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Lý thuyết về công sức đóng góp trong việc tạo lập duy trì và phát triển khối tài sản chung được đưa vào luật Việt Nam lần đầu tiên ngay từ khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 (Điều 29) và được hình dung như một biện pháp bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của người phụ nữ sau khi ly hôn, trong điều kiện đa số phụ nữ có chồng đều dành phần lớn thời gian chăm sóc con cái và nhà cửa, nói chung là công việc nội trợ, do đó, không trực tiếp làm ra của cải. Quy tắc đáng chú ý nhất trong khuôn khổ thể chế hoá lý thuyết về công sức đóng góp được ghi nhận tại Điều 29 đã dẫn, theo đó, “Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất”. Với quy tắc đó, người vợ nội trợ có thể yêu cầu chia một nửa (hoặc ít nhất là một phần) tài sản chung khi chấm dứt hôn nhân, cho dù việc tích lũy của cải chung là kết quả trực tiếp từ công sức lao động ngoài xã hội của người chồng. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 xây dựng một hệ thống các quan hệ tài sản mới, đặc trưng bằng sự tồn tại của ba khối tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Lý thuyết về công sức đóng góp được tiếp tục duy trì và được hiểu như công cụ bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ lao động trong khuôn khổ gia đình-hộ trong việc phân chia tài sản chung khi hôn nhân chấm dứt do ly hôn, cũng như quyền lợi của vợ hoặc chồng đã đóng góp vào sự phát triển của khối tài sản chung bằng các tài sản riêng của mình. Các giải pháp của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 được lấy lại trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. 2. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Lợi ích của việc cho phép chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Lý thuyết về công sức đóng góp, trên nguyên tắc, chỉ được áp dụng trong trường hợp hôn nhân chấm dứt. Có khi, ngay trong thời kỳ hôn nhân, vợ hoặc chồng hoặc cả hai có 11 Và điều đó dẫn đến việc tăng giá trị phần quyền của vợ (chồng) trong khối tài sản chung khi khối này được thanh toán và phân chia. 8 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 nhu cầu củng cố khối tài sản riêng để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống hoặc cho các giao dịch của mỗi người. Luật Việt Nam hiện hành, một mặt, xây dựng các quy tắc về thành phần các khối tài sản, áp dụng chung cho tất cả các cặp vợ chồng; mặt khác, thừa nhận rằng vợ và chồng có thể tiến hành chia tài sản chung ngay trong thời kỳ hôn nhân để mỗi người có đủ tài sản riêng đặt cơ sở vật chất cho hoạt động nghề nghiệp và, nói chung, cho các giao dịch mà mình xác lập và thực hiện một cách độc lập với người còn lại. Thông thường, khi chia tài sản chung, vợ và chồng dựa vào công sức đóng góp của mỗi người để xác định phần quyền của mỗi người trong khối tài sản đem chia; trong trường hợp giữa vợ và chồng không có sự thống nhất ý chí về việc xác định phần quyền của mỗi người, thì Toà án, khi được yêu cầu can thiệp, cũng sẽ dựa vào lý thuyết đó. Song, luật cũng không cấm vợ và chồng tự do thoả thuận về việc xác định phần quyền của mỗi người mà không dựa vào công sức đóng góp, nhất là một khi sự thoả thuận đó có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho một người trong việc thực hiện các dự án đầu tư kinh doanh của riêng mình. Nói cách khác, lý thuyết về công sức đóng góp không bắt buộc được áp dụng cho việc phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, nếu giữa vợ và chồng không có tranh cãi về cách xác định phần quyền của mỗi người. Có thể coi việc thừa nhận khả năng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như một giải pháp cho vấn đề lập lại sự cân bằng giữa các khối tài sản có trong điều kiện các khối tài sản nợ của vợ chồng không có xu hướng thu hút lẫn nhau, trong khi khối tài sản có chung lại có xu hướng thu hút các khối tài sản có riêng. Cũng có thể coi đó như một giải pháp cho bài toán về quan hệ tài sản giữa vợ chồng trong trường hợp vợ chồng không muốn ly hôn nhưng cũng không còn muốn chung sống với nhau. Nhiều người còn cho rằng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân về thực chất là việc thay đổi từ chế độ tài sản chung pháp định sang chế độ tài sản riêng. 9 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 Mục II. Khối tài sản chung Sự đơn giản của luật viết. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ có Điều 27 là điều luật duy nhất nói về thành phần cấu tạo của khối tài sản chung. Từ điều luật này, có thể nhận thấy rằng khối tài sản chung gồm có các tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, bằng sức lao động hoặc thông qua các hoạt động chuyển nhượng tài sản có đền bù; các thu nhập do lao động hoặc thu nhập không do lao động; các tài sản có được do được chuyển dịch không có đền bù trong những trường hợp đặc thù và các tài sản do vợ và chồng thoả thuận là tài sản chung. Thực ra, còn một loại tài sản chung hình thành từ các phương thức xác lập quyền sở hữu trực tiếp theo luật chung về tài sản: sáp nhập, trộn lẫn, chế biến, xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, Mặt khác, trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, quyền sử dụng đất có căn cứ xác lập ban đầu theo quy định của pháp luật đất đai; tính chất chung hay riêng của quyền sử dụng đất được xác định theo các tiêu chí đặc thù, chứ không dựa vào hệ thống tiêu chí áp dụng chung cho các tài sản thông thường. I. Tài sản chung do hoạt động tạo thu nhập 1. Thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khái niệm. Tiền lương, theo nghĩa của luật lao động, nhận được trong thờìi kỳ hôn nhân là loại tài sản chung đầu tiên, là nguồn sống của hầu hết các căp vợ chồng và của gia đình-hộ do vợ chồng đứng đầu. Luơng bao gồm luơng căn bản và các loại phụ cấp (độc hại, chức vụ, trách nhiệm, làm việc tại vùng xa, vùng sâu, ). Cũng là thu nhập do lao động, tiền thù lao khoán việc, tiền nhuận bút, công tác phí, trợ cấp thường xuyên, định kỳ hoặc bất thường, trợ cấp lễ, tết, trợ cấp sinh hoạt theo chức vụ, Thu nhập do hoạt động sản xuất, kinh doanh thực ra cũng là một loại thu nhập do lao động theo nghĩa rộng nhất, bao gồm cả lợi nhuận ròng (trừ thuế và chi phí) từ việc bán sản phẩm, hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ12, cũng như cả các sản vật thu được từ hoạt động nghề nghiệp (săn bắt, đánh bắt, ). Lao động hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể mang tính chất vụ việc, thời vụ hoặc thường xuyên, có thể mang tính chất hoạt động chân tay giản đơn hoặc hoạt động của trí tuệ. Những thu nhập nào còn có thể coi là thu nhập hợp pháp khác do lao động ? Hẳn không thể lập một danh sách hoàn chỉnh mà chỉ có thể liệt kê ra đây những thu nhập tiêu biểu. - Trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ cấp một lần khi thôi việc, trợ cấp chính sách, trợ cấp thương tật, mất sức; - Tiền thưởng gắn liền với huân chương, huy chương, danh hiệu cao quý, với bằng khen, giấy khen; tiền thưởng gắn với các công trình tim óc (tác phẩm, phát minh, sáng chế, ) được thực hiện trong khuôn khổ lao động sáng tạo theo đơn hàng của người khác; - Học bổng, trợ cấp đào tạo; 12 Hoạt động sản xuất kinh doanh có thể có đối tượng khai thác là tài sản chung hoặc tài sản riêng. 10 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 - Tiền thưởng hoặc hiện vật thưởng do thực hiện xong một công việc theo sự phân công với kết quả tốt (thi đấu thể thao, văn nghệ, ) hoặc do thực hiện tốt một công việc có hứa thưởng (tìm được vật thất lạc, vượt qua một thử thách đối với lòng can đảm, lòng kiên nhẫn hoặc sức bền, lập một kỷ lục guiness, trả lời đúng các câu hỏi đố vui, dự đoán đúng các kết quả thi đấu thể thao, ); - Tiền thưởng đột xuất và bất ngờ do thực hiện tốt một công việc làm hài lòng người thưởng, dù người sau này không hứa thưởng trước đó (chặn bắt trộm, cướp; chữa cháy; cứu người bị nạn, cứu tài sản trong một thiên tai; ); 2. Trường hợp thu nhập không do lao động Thu nhập hợp pháp khác. Đứng đầu trong danh sách thu nhập hợp pháp khác không do lao động là các hoa lợi, lợi tức từ tài sản, do việc khai thác tự nhiên hoặc khai thác pháp lý: cây con sinh ra từ cây mẹ, gia súc con sinh ra từ gia súc mẹ, cá con, trứng, tiền cho thuê nhà, tiền lãi tiết kiệm, lợi tức cổ phiếu, trái phiếu, tiền thu được từ việc cho phép sử dụng tác phẩm, Bất kể tài sản gốc là của riêng hay của chung, hoa lợi, lợi tức phát sinh tư ìtài sản đều là của chung. Thu nhập do trúng thưởng. Cụm từ “thu nhập hợp pháp khác” có ý nghĩa rất rộng và có vẻ như bao hàm cả thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Bởi vậy, trong khung cảnh của luật thực định, thu nhập do trúng thưởng trong thời kỳ hôn nhân cũng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Thực tiễn có xu hướng chấp nhận giải pháp này trong mọi trường hợp mà không phân biệt mối lợi gọi là trúng thưởng đó gắn liền với tài sản chung hay tài sản riêng13. Người chồng dùng một phần tiền lương đang bỏ túi để mua một lon bia; tình cờ, lon bia mua được có mang dấïu hiệu trúng thưởng một chiếc xe máy; xe trúng thưởng phải là tài sản chung. Cha mẹ chồng cho riêng chồng một sổ tiết kiệm ngoại tệ; tất nhiên, số ngoại tệ gốc được ghi nhận trong sổ tiết kiệm đó là tài sản riêng của chồng; nhưng nếu do kết quả của một cuộc xổ số mà số của sổ tiết kiệm trùng khớp với số trúng thưởng một căn nhà, thì căn nhà ấy là tài sản chung của vợ chồng14. II. Tài sản chung do được chuyển dịch không có đền bù Ta phân biệt các trường hợp chuyển dịch tài sản không có đền bù tuỳ theo sự chuyển dịch mang hoặc không mang tính chất gia đình. Gọi là chuyển dịch không đền 13 Xem Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 3 a. Khi nói về trúng thưởng, Nghị quyết chỉ quan tâm đến trúng thưởng xổ số. Tuy nhiên, có thể mở rộng giải pháp cho tất cả các trường hợp trúng thưởng, nhờ nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật. 14 Trong chừng mực nào đó, có thể coi trúng thưởng như một trường hợp phát sinh hoa lợi đột biến, bất thường của tài sản gốc. Thế nhưng, nếu vậy thì tài sản gốc phải không bị giảm sút chất liệu hoặc biến mất sau khi khối tài sản trúng thưởng xuất hiện. Trong một giả thiết khác, một người mua một tờ vé số và trúng thưởng.Ở một thời điểm nào đó sau khi xổ số và trước khi lĩnh thưởng, không thể thiết lập được sự khác biệt giữa giá trị của tờ vé số và giá trị của giải thưởng. Tờ vé số trúng thưởng tự nó là một tài sản có giá trị thực ngang với giá trị của giải thưởng; tài sản đó thậm chí chuyển nhượng được theo giá trị thực. Ta nói rằng trong trường hợp này giá trị của giải thưởng là hình thức biểu hiện giá trị của tờ vé số sau khi xổ số. Bởi vậy: 1. nếu tờ vé số nguyên là tài sản riêng (ví dụ, do được tặng cho riêng), thì giải thưởng là tài sản riêng; 2. ngược lại, nếu tờ vé số là tài sản chung (chẳng hạn, do được mua bằng tiền lương), thì giải thưởng là tài sản chung. Phân tích trên đây dựa vào logique của học thuyết. Từ câu chữ của khoản a, điểm 3 Nghị quyết số 02, dẫn trên, có thể nghĩ rằng theo Toà án, tiền trúng thưởng xổ số có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng bất kể tờ vé số là tài sản chung hay tài sản riêng. Vấn đề có thể sẽ rất rắc rối đối với thẩm phán trong trong trường tờ vé số trúng thưởng nguyên là tài sản được tặng cho riêng. 11 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 bù mang tính chất gia đình, sự di chuyển tài sản không có đền bù giữa những người có thể được gọi để nhận di sản của nhau với tư cách người thừa kế theo pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành. 1. Các chuyển dịch mang tính chất gia đình Tài sản được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung. Không có vấn đề gì đặc biệt trong trường hợp tài sản được tặng cho chung cả vợ và chồng. Chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản theo ý mình và trong khuôn khổ pháp luật. Việc tặng cho một tài sản chung cho cả vợ và chồng rất thường được ghi nhận trong thực tiễn Việt Nam. Người tặng cho thường là cha mẹ của vợ hoặc chồng và việc tặng cho được thực hiện như một biện pháp khích lệ đối với cả vợ và chồng trong việc duy trì và củng cố cuộc sống chung. Nếu tặng cho được xác lập vào thời điểm kết hôn, thì được coi như một biện pháp hỗ trợ vật chất cho cặp vợ chồng trẻ trong thời kỳ đầu xây dựng cuộc sống chung. Nhưng, thế nào là thừa kế chung ? Vợ và chồng có thể là người thừa kế của cùng một người ? Ví dụ điển hình nhất là trường hợp cha và mẹ cùng được gọi để nhận di sản do con chết để lại, với tư cách là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ nhất. Mặt khác, trong điều kiện luật không cấm con nuôi kết hôn với con ruột của người nuôi, hoàn toàn có khả năng vợ và chồng cùng được gọi để nhận di sản khi người nuôi của vợ hoặc chồng (đồng thời là cha hoặc mẹ ruột của chồng hoặc vợ) chết. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp cùng được gọi theo pháp luật để nhận di sản của một người, vợ và chồng có phần quyền thừa kế của riêng mình, như mỗi người thừa kế theo pháp luật khác. Tài sản mà họ có được do cùng được gọi để nhận thừa kế theo pháp luật là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần chứ không phải là sở hữu chung của vợ chồng15. Khái niệm thừa kế chung chỉ sử dụng được như là căn cứ tạo lập một tài sản chung, một khi vợ và chồng cùng được hưởng di sản theo di chúc và di chúc quy định rằng tài sản được chuyển giao chung cho cả vợ và chồng; nếu không có quy định rõ ràng trong di chúc, vợ, chồng vẫn hưởng di sản theo di chúc với tư cách cá nhân và phần di sản mỗi người nhận được là của riêng mỗi người. 2. Các chuyển dịch không mang tính chất gia đình Trường hợp tặng cho mang tính chất quà biếu của đối tác trong giao dịch. Giao dịch ở đây được hiểu theo nghĩa rộng nhất: đó là sự bày tỏ ý chí nhằm tạo ra các hệ quả pháp lý. Theo cách hiểu đó, hoạt động của một công chức, viên chức Nhà nước trong khuôn khổ công tác cũng được coi là giao dịch. Bên cạnh đó, ta có những giao dịch theo nghĩa của luật dân sự: hợp đồng và hành vi dân sự đơn phương. Trong mọi trường hợp mà quà biếu được thừa nhận không trái pháp luật, khó có thể coi đó là tài sản riêng do được tặng cho riêng. Tại sao ? Bởi: - Hoặc, việc tặng cho có mối liên hệ mật thiết với một công việc nào đó đã, đang hoặc sẽ được thực hiện và công việc đó là một phần công tác của người được tặng cho. Trong chừng mực đó, tặng cho có thể được đồng hoá với một loại thu nhập bất thường do lao động và là tài sản chung. 15 Có vẻ như trong suy nghĩ của người soạn thảo Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, tài sản vợ chồng có được do được thừa kế chung theo pháp luật lại đi vào khối tài sản chung của vợ chồng chứ không phải là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần. Thế nhưng, nếu vậy, thì quyền lợi của chủ nợ của người chết có nguy cơ bị hy sinh, bởi khi nghiên cứu thành phần của tài sản nợ, ta sẽ thấy rằng chủ nợ của người chết không có quyền kê biên tài sản chung của người thừa kế. 12 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 - Hoặc, việc tặng cho được thực hiện nhằm mục đích thưởng cho đối tác vì đã chấp nhận giao dịch với mình. Đối với người được tặng cho, giao dịch đó có thể không được thực hiện một cách thuờng xuyên; nhưng nó là một phần trong hoạt động nghề nghiệp hoặc trong sinh hoạt của người này16. Do vậy, cũng có thể coi tặng cho loại này là một loại thu nhập bất thường do lao động. Trường hợp tặng cho mang tính chất xã giao. Tặng cho mang tính chất xã giao thường được thực hiện không phải nhân dịp xác lập một quan hệ đối tác trong giao dịch mà nhân một dịp lễ, tết hoặc nhân một sự kiện nào đó đáng chú ý trong cuộc sống của người được tặng cho (sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới, ngày giỗ người thân, tân gia, đỗ đạt, thăng chức, ), thậm chí, nhân một sự kiện đáng chú ý trong cuộc sống của người tặng cho17. Giả sử tặng cho xã giao được thừa nhận là có giá trị, thì trên nguyên tắc, luật chung về quan hệ tài sản giữa vợ chồng được áp dụng để xác định tính chất chung hay riêng: nếu là tặng cho chung thì đó là tài sản chung; nếu là tặng cho riêng, thì là tài sản riêng. Tính chất của tặng cho có thể được xác định, trong nhiều trường hợp, dựa vào tính chất của sự kiện mà nhân sự kiện đó, việc tặng cho được thực hiện: tặng cho nhân ngày cưới, tân gia, tết là tặng cho chung; tặng cho nhân dịp sinh nhật, thăng chức là tặng cho riêng. Có trường hợp việc dựa vào tính chất của sự kiện tỏ ra không hiệu quả đối với việc xác định tính chất của tặng cho18, khi đó, có lẽ nên suy đoán rằng tài sản được tặng cho là tài sản chung cho đến khi có bằng chứng ngược lại. III. Tài sản chung do áp dụng luật chung về xác lập quyền sở hữu theo các phương thức trực tiếp Xác lập quyền sở hữu theo các phương thức trực tiếp là việc xác lập quyền sở hữu không cần đến vai trò của một người chuyển nhượng. Các trường hợp xác lập quyền sở hữu theo phương thức trực tiếp được ghi nhận trong BLDS 2005 các Điều từ 236 đến 244 và Điều 24719. Ở góc độ pháp luật về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, vấn đề đặt ra là: một tài sản do vợ hoặc chồng xác lập quyền sở hữu trong thời kỳ hôn nhân theo một phương thức trực tiếp, là tài sản riêng hay tài sản chung ? 1. Nhặt của rơi, của vô chủ. Đào được tài sản. Bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc Thu nhập bất thường bằng hiện vật ? Một trong các giả thiết được hình dung như sau: chồng bắt được một con bò đi lạc mà không rõ ai là chủ sở hữu và báo với UBND xã; UBND tiến hành thông báo công khai; sau một năm kể từ ngày thông báo công khai vẫn không có ai đến nhận; theo BLDS 2005 Điều 242, tài sản đó thuộc về người bắt được và theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 27 khoản 1, tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ và chồng, do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Thực ra, câu chữ của Luật hôn nhân và gia đình Điều 27 khoản 1 không hẳn cho phép 16 Có những tặng cho được thực hiện một khi có đủ những yếu tố cần thiết: 1. có giao dịch được xác lập; 2. giao dịch trùng hợp với một sự kiện nào đó đáng chú ý đối với người tặng cho. Ví dụ điển hình là tặng cho của một công ty thương mại nhân dịp đón người khách thứ một triệu, hai triệu, 17 Ví dụ, nhân dịp về nước sau một chuyến công tác, học tập, lao động hoặc sau một thời gian định cư sinh sống ở nước ngoài. 18 Ví dụ, tặng cho một số tiền, nhưng lại nhân dịp lễ giỗ người thân của người được tặng cho. 19 Xem Tài sản, nxb Trẻ-TPHCM, 1999, số 124 và kế tiếp. Nghị quyết số 02 của Toà án nhân dân tối cao, đã dẫn, khi giải quyết vấn đề này, chỉ nhắc đến các Điều từ 247 đến 252. 13 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 rút ra được kết luận này một cách dễ dàng trong trường hợp vừa nêu; song, tập quán không ghi nhận giải pháp nào khác. Có thể dùng cùng một phương pháp phân tích kết hợp các điều luật liên quan, để có được các kết luận khác: tài sản vô chủ nhặt được trong thời kỳ hôn nhân, tài sản đào được trong thời kỳ hôn nhân, là tài sản chung của vợ và chồng. Cũng như vậy, các tài sản đánh bắt, săn bắt được do hoạt động không chuyên nghiệp trong thời kỳ hôn nhân. Trong chừng mực nào đó, ta nói rằng những tài sản loại này là các thu nhập bất thường bằng hiện vật do lao động của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân. 2. Sáp nhập. Trộn lẫn. Chế biến Luật chung về xác lập quyền sở hữu. Mặt khác, nếu tài sản chung được đem chế biến, thì tài sản mới được chế biến cũng là của chung. Nếu tài sản chung của vợ chồng được đem trộn lẫn vào tài sản của môt người khác, thì phần quyền sở hữu đối với tài sản mới thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Cũng như vậy trong trường hợp tài sản chung được đem sáp nhập vào một tài sản của một người khác mà không biết được tài sản được sáp nhập nào là vật chính. Nếu tài sản chung được sáp nhập vào một tài sản khác mà trong cơ cấu của tài sản mới tài sản chung đóng vai trò của vật chính, thì tài sản mới cũng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng; giải pháp này phải được chấp nhận, ngay nếu như việc sáp nhập được thực hiện giữa một tài sản chung và một tài sản riêng của vợ hoặc chồng. 3. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu Thời hiệu “tạo ra” tài sản. Giả thiết được hình dung như sau: người chồng chiếm hữu ngay tình đối với một động sản (ví dụ, do mua lại của một người không phải là chủ sở hữu, mà không biết). Mười năm sau, quyền sở hữu đối với tài sản mua được xác lập theo thời hiệu. Tài sản liên quan rơi vào khối tài sản chung với tư cách tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Thực ra, giải pháp không có gì đặc sắc trong trường hợp tài sản rơi vào tay đương sự do hiệu lực của một giao dịch có đền bù: nếu không có chế định xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, thì tài sản vẫn là của chung do được mua sắm trong thời kỳ hôn nhân. Trái lại, câu chuyện sẽ rất thú vị một khi giải pháp được chấp nhận cả trong trường hợp đương sự trở thành người chiếm hữu ngay tình do được chuyển giao tài sản bằng con đường thừa kế. Trong một giả thiết đặc thù, người chồng được gọi để nhận di sản với tư cách là em ruột của người chết; 11 năm sau, chú ruột của người chết đột nhiên lên tiếng, cho rằng người được gọi để nhận di sản thực ra chỉ là con nuôi của cha mẹ ruột của người chết và do đó không phải là em ruột của người chết. Toà án thừa nhận điều người chú ruột nói là đúng sự thật, nhưng không đồng ý thụ lý một vụ kiện về quyền thừa kế, do thời hiệu khởi kiện đã hết. Thế thì, trong trường hợp này, người chồng mà được gọi để nhận di sản vẫn là chủ sở hữu đối với các tài sản liên quan, nhưng không phải do được thừa kế mà do xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Tài sản liên quan không còn là tài sản được thừa kế riêng mà là tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, do đó, phải rơi vào khối tài sản chung của vợ và chồng. 14 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 IV. Tài sản do vợ, chồng tạo ra theo nghĩa đích thực 1. Chuyển nhượng tài sản có đền bù Dùng tiền riêng để mua tài sản. Do không có lý thuyết tài sản thay thế, tài sản mua bằng tiền riêng cũng trở thành tài sản chung của vợ và chồng, do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Đặc biệt, trong trường hợp vợ (chồng) giao kết hợp đồng mua tài sản và đã trả tiền mua tài sản trước khi kết hôn, nhưng quyền sở hữu đối với tài sản chỉ được chuyển cho người mua sau khi kết hôn, thì tài sản mua được cũng là tài sản chung. Tất nhiên, một khi tài sản có nguồn gốc riêng trở thành tài sản chung, thì người có tài sản riêng được coi như có công sức đóng góp tích cực vào sự phát triển của khối tài sản chung, nhưng đó là chuyện khác. Bán, trao đổi tài sản riêng. Do hiệu lực của hợp đồng mua bán, chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vốn là của mình và nhận lại một số tiền; do hiệu lực của hợp đồng trao đổi, chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vốn là của mình và nhận quyền sở hữu đối với một tài sản vốn thuộc về người khác. Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, khái niệm tài sản thay thế không được xây dựng; bởi vậy, tiền bán một tài sản riêng, tài sản được trao đổi với một tài sản riêng, một khi được tiếp nhận trong thời kỳ hôn nhân, là tài sản chung của vợ chồng20. Cùng giải pháp cho trường hợp góp vốn vào công ty: đưa tiền riêng hoặc một tài sản riêng bằng hiện vật vào một công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc một công ty cổ phần, người có tài sản riêng có một phần hùn hoặc một số cổ phần trong công ty đó và, nếu người này đã có gia đình, thì phần hùn hoặc số cổ phần đó là tài sản chung của vợ và chồng. 2. Quyền sử dụng đất tạo ra trong thời kỳ hôn nhân Áp dụng luật chung về quan hệ tài sản. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 27 khoản 1, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Suy cho cùng, rất khó tìm cách lý giải sự tồn tại của một quy định đặc biệt chi phối quyền sử dụng đất trong luật viết về quan hệ tài sản của vợ chồng. Nếu quyền sử dụng đất có được do hiệu lực của một giao dịch chuyển nhượng có đền bù, thì theo luật chung, quyền sử dụng đất ấy là tài sản chung do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Nếu quyền sử dụng đất được giao có hoặc không có thu tiền sử dụng đất hoặc được cho thuê, thì đó cũng là một loại tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân và cũng là tài sản chung. Có lẽ, người làm luật cho rằng trong một số trường hợp, cơ quan giao đất hoặc cho thuê đất chỉ tính đến khả năng, điều kiện sử dụng đất của cá nhân người xin giao đất, xin thuê đất và chỉ quyết định giao đất cho cá nhân người đó hoặc chỉ giao kết hợp đồng thuê đất với cá nhân người đó: trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ có tên người đó mà không có tên vợ hoặc chồng của người đó. Dẫu sao, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là bằng chứng tuyệt đối về quyền sử dụng đất của người có tên trên giấy đó. Nói chung, giao quyền sử dụng đất, dù là không có thu tiền sử dụng đất, không phải là một giao dịch mang tính chất tặng cho trong khung cảnh của luật thực định: quyền sử dụng đất được giao trong thời kỳ hôn nhân phải là tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp việc giao đất có tính đến năng lực, phẩm chất chuyên môn 20 Thậm chí, ngay trong thời gian tiền bán tài sản chưa được trả, thì quyền yêu cầu trả tiền, tương ứng với nghĩa vụ trả tiền của người mua tài sản, cũng đã rơi vào khối tài sản chung. Kết luận có thể gây sốc; tuy nhiên, về mặt pháp lý, có thể nói gì khác khi quyền yêu cầu trả tiền không phải là tài sản cụ thể đã từng được coi là của riêng ? 15 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 của người được giao, thì nên phân biệt giữa giá trị tài sản của quyền sử dụng đất và tư cách người có quyền sử dụng đất: giá trị tài sản của quyền sử dụng đất rơi vào khối tài sản chung, còn tư cách người có quyền sử dụng đất là của riêng người được giao đất. Việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có đền bù và việc thuê đất, về phần mình, có tác dụng tạo ra một tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, do áp dụng luật chung về quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Ta còn lại trường hợp quyền sử dụng đất do vợ chồng có được do được tặng cho hoặc thừa kế: nếu vợ chồng được tặng cho hoặc thừa kế chung, thì đó là tài sản chung, cũng do áp dụng luật chung về thành phần cấu tạo các khối tài sản; còn nếu vợ, chồng được tặng cho hoặc thừa kế riêng, thì chắc chắn đó là tài sản riêng. Trong các chừng mực đó, Điều 27 khoản 1, đã dẫn, chỉ nhắc lại các quy tắc sẵn có, như một cách khẳng định các giải pháp của luật chung đối với vấn đề chung hay riêng của quyền sử dụng đất. V. Tài sản chung do ý chí của vợ và chồng Thoả thuận của vợ chồng về việc coi một tài sản nào đó là của chung. Sự việc thực ra không đơn giản. Thoả thuận giữa vợ và chồng về tính chất chung hay riêng của một tài sản không chỉ là chuyện của vợ và chồng: lợi ích của người thứ ba, đặc biệt là của chủ nợ của một trong hai người cũng được đưa vào cuộc. Cha vợ chết; phân chia di sản, vợ nhận được một căn nhà; vợ và chồng thoả thuận rằng căn nhà ấy là của chung; ít lâu sau, chủ nợ của cha xuất hiện và yêu cầu vợ trả một món nợ lớn, với tư cách là người thừa kế của người chết. Theo luật, nợ ấy thuộc trách nhiệm riêng của người vợ; giả sử vợ không có tài sản riêng, thì chủ nợ có thể làm gì trong điều kiện căn nhà trước đây của cha nay đã thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ và chồng ? Trong luật Việt Nam hiện hành, chủ nợ của một chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán; tuy nhiên, giả sử tài sản chung của vợ chồng chỉ có căn nhà ấy là đáng kể, việc phân chia chỉ có tác dụng thu hồi một phần tài sản cho khối tài sản riêng của người vợ. Điều không hợp lý là: nếu người vợ không kết hôn, thì chủ nợ có quyền kê biên đối với trọn căn nhà. Việc kết hôn của người vợ cộng với việc người vợ thoả thuận với chồng về việc đưa một tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng đã gây thiệt hại cho chủ nợ của người cha vợ. Việc phân tích câu chữ của Điều 27 khoản 1 dẫn đến kết luận kỳ lạ này. Nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 32 khoản 2, vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Thoạt trông, có vẻ như người làm luật muốn dự kiến một cách tạo ra tài sản chung theo ý chí khác với việc tạo ra tài sản chung bằng cách xây dựng một thoả thuận của vợ chồng về việc coi một tài sản riêng nào đó là của chung, đã được phân tích ở trên. Nói rõ hơn, nếu sự thoả thuận của vợ chồng có tác dụng tạo ra tài sản chung theo ý chí của hai người, thì việc nhập một tài sản riêng vào khối tài sản chung có tác dụng tạo ra một tài sản chung theo ý chí của một người. Thế nhưng, theo Nghị định số 70-CP ngày 03/10/2001 Điều 13 khoản 1, thì việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng vào tài sản chung phải được ghi nhận bằng văn bản có chữ ký của cả vợ và chồng. Việc đòi hỏi chữ ký của cả vợ và chồng cho phép nghĩ rằng việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung phải được sự đồng thuận giữa vợ và chồng. Quy định đó, cùng với việc không có điều luật nào nói rõ hơn về sự thoả thuận coi một tài sản nào đó là của chung, cho phép nghĩ rằng nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung 16 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 chỉ là một cách diễn đạt khác của sự thoả thuận của vợ chồng coi một tài sản nào đó là của chung. Mục III. Khối tài sản riêng Đặt vấn đề. Đáng lý ra, một khi đã có định nghĩa tài sản chung, chỉ cần nói rằng những tài sản nào không được luật coi là tài sản chung, thì là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Thế nhưng, ngoài việc thừa nhận những tài sản riêng do tính chất, luật viết lại xây dựng định nghĩa tài sản riêng bên cạnh định nghĩa tài sản chung. Cuối cùng, có những tài sản không được ghi nhận tại bất kỳ định nghĩa nào và cũng không hẳn có tính chất riêng, do đó, không thể được biết thuộc về cả vợ và chồng hay chỉ thuộc về riêng một người. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 32 khoản 1, tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. I. Tài sản riêng theo định nghĩa của luật 1. Tài sản có trước khi kết hôn Có quyền sở hữu trước khi kết hôn. “Có”, trong luật hiện hành, hàm nghĩa rằng đương sự có quyền sở hữu. - Các tài sản mà việc chuyển quyền sở hữu được giao kết trước khi kết hôn, nhưng chỉ được thực hiện sau khi kết hôn, là tài sản chung chứ không thể là của riêng. Ví dụ, hợp đồng mua bán nhà được giao kết và chứng nhận ngày 01/8, kết hôn ngày 07/8, đăng ký chuyển quyền sở hữu tại Sở địa chính ngày 16/821; vậy, nhà mua được là tài sản chung của vợ và chồng. - Các tài sản được chiếm hữu trước khi kết hôn, nhưng thời hiệu xác lập quyền sở hữu chỉ hoàn tất sau khi kết hôn, sẽ rơi vào khối tài sản chung, do quyền sở hữu theo thời hiệu chỉ được xác lập vào ngày kết thúc thời hiệu, áp dụng BLDS 2005 Điều 157 khoản 122. Người chồng bắt được một con bò đi lạc trước khi kết hôn; tiến hành thông báo công khai xong, vợ và chồng đăng ký kết hôn; một năm sau ngày thông báo, không có người đến nhận lại tài sản, con bò trở thành tài sản chung của vợ và chồng, 21 Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu, thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. (BLDS 2005 Điều 439 khoản 2). 22 Trong luật La Mã và luật thực định của các nước Châu Âu, quyền sở hữu theo thời hiệu, một khi được xác lập, sẽ coi như được xác lập vào ngày bắt đầu việc chiếm hữu. Thực ra, người nghiên cứu luật có cảm giác rằng khi xây dựng Điều 157 khoản 1 BLDS 2005 ( hay Điều 166 khoản 1 BLDS 1995), người soạn thảo BLDS không liên tưởng đến việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu và không có ý định áp dụng điều này để xác định thời điểm xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Rõ ràng, nếu cho rằng ngày xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu là ngày kết thúc thời hiệu, thì trong suốt thời gian mà thời hiệu đang tiến triến, người chiếm hữu quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản của người khác. Nếu thừa nhận rằng ngày xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu là ngày bắt đầu việc chiếm hữu, thì tình trạng bất hợp lý đó sẽ không xuất hiện. 17 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 do thời hiệu kết thúc trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, nếu việc chiếm hữu là không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai, thì sau một thời hạn được pháp luật quy định, quyền sở hữu được thừa nhận cho người chiếm hữu kể từ ngày bắt đầu việc chiếm hữu, áp dụng BLDS 2005 Điều 247 khoản 1. 2. Tài sản được thừa kế riêng hoặc cho riêng Thế nào là thừa kế riêng, tặng cho riêng ? Không có gì khó khăn trong trường hợp nhận tài sản do thừa kế theo pháp luật, như đã nói: vợ hoặc chồng, dù có cùng được gọi để nhận di sản để lại theo pháp luật, xuất hiện với tư cách cá nhân người thừa kế theo pháp luật. Cũng không có khó khăn trong trường hợp di tặng hoặc tặng cho trong gia đình mà trên chứng thư chỉ có tên một người: tài sản được di tặng hoặc được tặng cho trong trường hợp này thuộc về người đó. Khó khăn cũng không tồn tại trong trường hợp vợ hoặc chồng được lập làm người thừa kế theo di chúc của một người khác: phần di sản mà người thừa kế theo di chúc được hưởng, ngay nếu như không được xác định bằng các tài sản cụ thể, vẫn là của riêng người thừa kế theo di chúc. Trái lại, trong trường hợp di tặng hoặc tặng cho mà trên chứng thư có tên cả hai người, thì đó là tặng cho chung cả vợ và chồng hay tặng cho riêng mỗi người ? Thông thường, một khi tặng cho hoặc di tặng cả vợ và chồng, việc tặng cho hoặc di tặng thường được ghi nhận bằng những câu chữ không rõ nghĩa: “Tôi cho hai đứa ”, “Tôi để lại cho vợ chồng nó ”. Tục lệ, về phần mình, thừa nhận rằng một khi di tặng hoặc tặng cho mang tính chất gia đình mà có người thụ hưởng là cả vợ và chồng, thì tài sản được tặng cho hoặc di tặng rơi vào khối tài sản chung chứ không thể trở thành tài sản thuộc sở hữu chung theo phần của vợ và chồng. II. Tài sản riêng do tính chất Gọi là riêng do tính chất, những tài sản mà do đặc điểm cấu tạo và công dụng, chỉ có thể là của riêng vợ hoặc chồng. Luật hiện hành chỉ ghi nhận hai loại tài sản riêng do tính chất: tư trang và đồ dùng cá nhân. Trên thực tế còn những thứ khác. 1. Tư trang và đồ dùng cá nhân Thế nào là tư trang? Một món trang sức (nhẫn, dây chuyền, vòng đeo tay, hoa tai, ) bằng kim loại quý hoặc đá quý được chế tác theo kiểu dáng dành riêng cho phụ nữ là của riêng người vợ; đồng hồ đeo tay kiểu dáng dành riêng cho nam giới là của riêng người chồng. Tuy nhiên, khó có thể được coi là của riêng người này hay người nọ, một món trang sức đắt tiền mà việc mua sắm đòi hỏi huy động một khối lượng tiền lớn so với thu nhập thường xuyên của gia đình: món trang sức mua sắm trong trường hợp đó nên được ghi nhận như một hình thức tích lũy của cải trong thời kỳ hôn nhân và do đó, là tài sản chung của vợ và chồng, nhất là một khi vợ (chồng) không thường xuyên sử dụng món trang sức đó. Cũng coi như hình thức tích lũy của cải (và là tài sản chung, nếu được tích lũy trong thời kỳ hôn nhân), các kim loại quý, đá quý được chế tác theo đơn vị đo lường, chủ yếu để tiện cho việc bảo quản, vận chuyển hoặc giao dịch (vàng lá, vàng thỏi, ). Thế nào là đồ dùng cá nhân? Vấn đề quần áo có lẽ không phức tạp lắm. Là vật tiêu dùng, quần áo không thể được coi là hình thức tích lũy của cải. Thông thường, quần áo được mua sắm bằng một phần thu nhập do lao động, nghĩa là bằng một phần tài sản chung. Tuy nhiên, trong tâm lý, dân cư, quần áo không bao giờ được xem là tài 18 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 sản chung của vợ và chồng. Ngay nếu như việc mua một bộ quần áo nào đó đòi hỏi việc huy động một số tiền lớn (bộ veste của người chồng; bộ áo dạ hội của người vợ; ), thực tiễn vẫn thừa nhận rằng quần áo đó là của riêng người sử dụng; nếu tiền được trả cho việc mua sắm quần áo là tiền chung, thì việc mua sắm không được coi là hình thức đóng góp của khối tài sản chung vào sự phát triển của khối tài sản riêng. Trong một số trường hợp hôn nhân chấm dứt do ly hôn và cần phải chia tài sản chung, vợ, chồng có thể trách móc nhau về việc phung phí tiền bạc chung cho việc ăn mặc; nhưng hầu như không ai nhắc lại những khoản đầu tư đó, như là những món nợ của khối tài sản riêng đối với khối tài sản chung. Các đồ dùng cá nhân khác cũng được giải quyết tương tự. 2. Công cụ lao động và phương tiện di chuyển Công cụ lao động có được coi là một loại đồ dùng cá nhân ? Vấn đề thường chỉ được đặt ra một khi công cụ lao động có giá trị lớn và chỉ được một người sử dụng. Thông thường, khi hôn nhân chấm dứt, người trực tiếp sử dụng công cụ lao động, nếu còn sống, sẽ tiếp tục sử dụng các công cụ ấy. Nếu coi đó là tài sản chung, thì người sử dụng coi như có độc quyền đối với các tài sản ấy và sẽ được chia ưu tiên trong khuôn khổ phân chia tài sản chung sau khi hôn nhân chấm dứt; trong trường hợp giá trị của các công cụ lao động lớn hơn giá trị phần quyền của người sử dụng trong khối tài sản chung được chia, thì người sử dụng phải thanh toán tiền chênh lệch cho người còn lại. Phương tiện di chuyển. Tương tự, phương tiện di chuyển của cá nhân có thể được coi là đồ dùng cá nhân hoặc là tài sản chung được sử dụng riêng. Tất nhiên, nếu phương tiện di chuyển được tạo ra trước khi kết hôn, thì đó là của riêng, nhưng không phải vì tính chất đồ dùng cá nhân của tài sản, mà trước hết, vì đó là tài sản có được trước khi kết hôn. Nếu phương tiện được mua trong thời kỳ hôn nhân và được sử dụng chung23, thì chắc chắn là tài sản chung. Khó khăn chỉ xuất hiện một khi tài sản được mua trong thời kỳ hôn nhân, nhưng lại chỉ được một người sử dụng. Có thể nghĩ rằng, cũng như đối với công cụ lao động, tính chất riêng hay chung của phương tiện di chuyển trong trường hợp sau này tuỳ thuộc vào tương quan giữa giá trị của phương tiện so với giá trị của toàn bộ khối tài sản chung cũng như với thu nhập thường xuyên của gia đình. III. Tài sản riêng do áp dụng luật chung về xác lập quyền sở hữu theo các phương thức trực tiếp Sáp nhập. Trộn lẫn. Chế biến. Nếu một tài sản được sáp nhập vào tài sản riêng mà tài sản riêng là vật chính, thì vật mới được tạo thành cũng là của riêng. Vật nuôi dưới nước đi vào ruộng, ao, hồ riêng cũng là của riêng. Nếu một tài sản riêng được chế biến thành một tài sản khác, thì tài sản mới cũng là của riêng Tất cả các giải pháp này đều chỉ là kết quả áp dụng luật chung về căn cứ xác lập quyền sở hữu. Tất nhiên, nếu tài sản chung được sáp nhập, như một vật phụ, vào một tài sản riêng, nếu tiền thù lao cho việc chế biến một tài sản riêng được thanh toán bằng tiền chung, thì khối tài sản chung coi như có đóng góp vào việc phát triển khối tài sản riêng: khi hôn nhân 23 “Sử dụng” phải được hiểu như là việc khai thác khả năng vận chuyển của phương tiện chứ không phải là việc trực tiếp điều khiển phương tiện. Nhà chỉ có mỗi một chiếc xe máy và chỉ có người chồng biết điều khiển xe; nhưng việc chồng và vợ cùng ngồi trên xe để di chuyển từ nơi này sang nơi khác phải được ghi nhận như là việc vợ và chồng cùng sử dụng phương tiện. 19 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 chấm dứt, người vợ (chồng) còn lại trong trường hợp này có quyền yêu cầu ghi nhận sự đóng góp đó khi tính toán phần của mỗi người trong khối tài sản chung. IV. Tài sản riêng do chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Tài sản chia và một số tài sản khác. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, được thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật, có tác dụng làm cho tài sản chia đi vào khối tài sản riêng của người được chia. Không chỉ vậy, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân còn đặt cơ sở cho việc áp dụng một số quy tắc đặc biệt liên quan đến thành phần cấu tạo của khối tài sản riêng mà không được ghi nhận trong luật chung. Các vấn đề liên quan sẽ được xem xét sau. V. Tài sản có tính chất mập mờ 1. Tài sản hình thành trong những trường hợp phát triển một tài sản riêng Chia một tài sản mà vợ (chồng) có quyền sở hữu chung theo phần với người khác. Vợ hoặc chồng cùng với một người thứ ba có quyền sở hữu chung theo phần đối với một tài sản đặc định24. Tiến hành phân chia tài sản chung, vợ (chồng) được nhận trọn tài sản với điều kiện trả tiền chênh lệch cho người thứ ba ấy25. Tài sản được chia trong trường hợp này là của riêng hay của chung ? Có ba giải pháp để lựa chọn. - Hoặc ta nói rằng trước khi chia, vợ (chồng) chỉ có một phần quyền trừu tượng đối với tài sản chứ không có trọn quyền sở hữu đối với tài sản cụ thể. Bởi vậy, tài sản được chia coi như tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân và là tài sản chung. Trong tài sản chung đó có phần đóng góp của vợ (chồng), tương ứng với phần quyền sở hữu trước đây đối với tài sản chung, và phần đóng góp này được ghi nhận để tính giá trị phần quyền của vợ (chồng) trong khối tài sản chung được chia sau khi hôn nhân chấm dứt; - Hoặc ta thừa nhận rằng vợ (chồng) có quyền sở hữu đối với một nửa tài sản; một nửa còn lại được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, một nửa tài sản thuộc khối tài sản riêng; một nửa còn lại thuộc khối tài sản chung; - Hoặc ta cho rằng việc phân chia chỉ nhằm chấm dứt tình trạng sở hữu chung theo phần, còn quyền sở hữu đối với tài sản được xác lập cho vợ (chồng) kể từ ngày bắt đầu tình trạng sở hữu chung theo phần. Thế thì, tài sản được chia phải là của riêng. Tất nhiên, nếu tiền chênh lệch được thanh toán bằng cách trích từ ngân quỹ chung của vợ chồng, thì khối tài sản riêng “nợ” khối tài sản chung số tiền đó và phải thanh toán nợ khi thanh toán và phân chia tài sản chung. Luật viết hiện hành chưa lựa chọn giải pháp nào. Giải pháp thứ ba có vẻ hợp lý nhất; tuy nhiên, trong khung cảnh của luật thực định, có lẽ giải pháp thứ nhất dễ được chấp nhận hơn đối với người áp dụng pháp luật. 24 Ví dụ. Cha chồng có hai con trai. Cha chết để lại một căn nhà. Chồng cùng với em trai có quyền sở hữu theo phần đối với căn nhà đó, mỗi người một nửa. 25 Có một cách khác, tương tự, để chấm dứt tình trạng sở hữu chung theo phần giữa hai người: đồng chủ sở hữu chuyển nhượng phần quyền của mình cho người còn lại theo giá do hai bên thoả thuận. 20 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 Xây dựng hoặc trồng cây lâu năm trên đất thuộc quyền sử dụng riêng. Vợ và chồng dùng tiền chung để mua một số vật liệu xây dựng hoặc cây giống để xây nhà hoặc trồng trọt trên đất thuộc quyền sử dụng riêng của người vợ. Nhà được xây dựng và cây được trồng có bị sáp nhập vào quyền sử dụng đất riêng để trở thành tài sản riêng của người vợ? Vấn đề được đặt ra do, trong khung cảnh của luật thực định, có lúc quyền sử dụng đất được coi là vật chính và các tài sản gắn liền với đất là vật phụ, có trường hợp giữa quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất lại không hề có quan hệ vật chính-vật phụ. Có vẻ như thực tiễn có xu hướng không thừa nhận sự sáp nhập vật kiến trúc, cây lâu năm vào quyền sử dụng đất kiểu như vật phụ sáp nhập vào vật chính. Nói rõ hơn, nếu việc xây dựng, trồng cây lâu năm được thực hiện trên đất riêng, thì khối tài sản chung thực hiện quyền sở hữu bề mặt26, quyền sử dụng đất tiếp tục thuộc khối tài sản riêng. 2. Các quyền tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhân thân Tiền bồi thường thiệt hại. Chồng bị một người khác đánh trọng thương và được bồi thường một số tiền để bù đắp thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm; số tiền bồi thường thiệt hại đó là của chung hay của riêng ? Tài sản riêng của vợ bị hủy hoại; vợ kiện và được bồi thường một số tiền; tiền đó là của riêng hay của chung ? Nhà của cha mẹ chồng cho riêng chồng bị thiêu cháy và được công ty bảo hiểm bồi thường; số tiền đó thuộc khối tài sản nào ? Có thể nghĩ rằng trong trường hợp sức khoẻ bị xâm hại, khối tài sản chung của gia đình thường ứng trước chi phí thuốc men và điều trị bệnh; bởi vậy, phần tiền bồi thường thiệt hại dùng để hoàn trả chi phí thuốc men và điều trị bệnh đã được ứng trước không trở thành tài sản chung hay tài sản riêng, mà tự nó vốn là tài sản chung. Phần bù đắp thu nhập bị mất trong thời gian điều trị và dưỡng bệnh thay thế cho thu nhập, do đó, cũng phải là tài sản chung. Thế nhưng, phần bồi thường đối với tổn thất về thân thể mà chính người bị thiệt hại phải gánh chịu cũng như phần bồi thường thiệt hại về tinh thần của người này, là tài sản riêng hay tài sản chung ? Cả luật và thực tiễn áp dụng pháp luật đều chưa trả lời câu hỏi này. Trong suy nghĩ phù hợp với đạo lý, loại bồi thường thiệt hại này phải được coi như tương ứng với một quyền gắn liền với nhân thân của người bị thiệt hại và không thể là tài sản chung27. Nói tóm lại, khoản tiền bồi thường thiệt hại, trong trường hợp có tranh cãi về tính chất chung hay riêng, cần phải được phân tích thành những tiểu khoản, mỗi tiểu khoản tương ứng với một mục đích bồi thường đặc thù, và dựa vào mục đích bồi thường đó, tiểu khoản liên quan được coi là tài sản chung hoặc tài sản riêng. Riêng trong các trường hợp tài sản riêng bị hủy hoại và được bồi thường, có lẽ rất khó tìm được lý lẽ cho việc thừa nhận rằng khoản tiền bồi thường rơi vào khối tài sản chung. Điều chắc chắn, đó không phải là tài sản được tạo ra; mà cũng không phải là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ một tài sản; càng không phải là một loại thu nhập. Áp dụng phương pháp suy lý ngược vào việc phân tích Luật hôn nhân và gia đình năm 26 Về quyền sở hữu bề mặt: xem Tài sản, đd, số 321 và kế tiếp. Xu hướng không thừa nhận sự sáp nhập đương nhiên của các vật kiến trúc, cây trồng vào quyền sử dụng đất được thể hiện rất rõ trong luật về đăng ký bất động sản. Trong luật Việt Nam hiện hành, quyền sở hữu nhà ở được đăng ký theo thủ tục riêng so với việc đăng ký quyền sử dụng đất. Tương ứng với mỗi thủ tục riêng, một loại giấy chứng nhận đăng ký riêng được cấp. 27 Ở Pháp, một số tác giả nói rằng coi tiền bồi thường thiệt hại do thân thể bị xâm phạm là tài sản chung, là một điều lố bịch và kỳ cục: xem Colomer, Droit civil - régimes matrimoniaux, đd, số 727 . Suy cho cùng khối tài sản chung không thể làm giàu trên thân thể con người. 21 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 2000 Điều 27, ta có thể kết luận: tiền bồi thường thiệt hại do tài sản riêng bị hủy hoại là tài sản riêng. Tiền bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Khác với những loại tiền bồi thường thiệt hại khác, tiền bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động có liên quan trực tiếp với hoạt động nghề nghiệp của người được bồi thường. Nếu coi đó là một loại tài sản thay thế cho thu nhập bị mất, thì tiền bồi thường là tài sản chung; thế nhưng, nếu coi đó là một hình thức bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, thì, như đã nói ở trên, tính chất chung hay riêng của khoản tiền bồi thường vẫn chưa được xác định trong khung cảnh của luật thực định, dù trong logique và đạo lý của sự việc, ta nên coi loại tài sản này là tài sản riêng. 3. Tài sản hỗn hợp Quyền sở hữu trí tuệ. Ví dụ điển hình là các quyền tài sản của tác giả. Trong thực tiễn, người muốn sử dụng một tác phẩm thường chỉ làm việc với tác giả, chứ không phải với cả vợ hoặc chồng của tác giả. Tuy nhiên, một khi tác giả nhận được một khoản tiền nhuận bút hoặc thù lao về việc cho phép sử dụng tác phẩm, thì khoản tiền ấy được đồng hoá với thu nhập do lao động hoặc với hoa lợi từ tài sản và, do đó, rơi vào khối tài sản chung của vợ và chồng. Cũng được coi là hoa lợi gắn với tài sản phần hiện vật kèm theo các giải thưởng khoa học, nghệ thuật đối với tác phẩm. Thế còn bản thân tác phẩm, như một tài sản vô hình, là tài sản chung hay riêng, nếu được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân ? Suy cho cùng, các tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân phải là của chung, do áp dụng luật chung về quan hệ tài sản của vợ chồng, dù việc tạo ra được ghi nhận dưới hình thức một giao dịch hoặc một hoạt động sáng tạo. Thế nhưng, tác phẩm là một loại tài sản đặc biệt, có xuất xứ từ con tim, khối óc của tác giả. Bởi vậy, thực tiễn thừa nhận rằng chỉ có tác giả (đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm) mới là người duy nhất có các quyền tài sản đối với tác phẩm, dù giá trị tài sản của tác phẩm thuộc khối tài sản chung. Phần hùn, cổ phần trong công ty. Cũng tương tự như vậy, các giải pháp của thực tiễn liên quan đến các phần hùn, cổ phần có ghi tên trong các công ty. Đối với công ty, chỉ người nắm giữ phần hùn hoặc cổ phần mới là thành viên công ty và là người có quyền tham gia thảo luận và biểu quyết tại các cuộc họp của các thành viên công ty; các hoa lợi, lợi tức gắn liền với phần hùn hoặc cổ phần là tài sản chung của vợ và chồng. Tuy nhiên, nếu các phần hùn hoặc cổ phần được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, thì bản thân giá trị tài sản của phần hùn hoặc cổ phần cũng là của chung và sẽ được tính trong khối tài sản chung được phân chia sau khi hôn nhân chấm dứt. Trong điều kiện luật viết không có quy định rành mạch, ta thừa nhận, trong logique của sự việc, rằng người đứng tên trên cổ phần (nếu cổ phần thuộc loại có ghi tên) hoặc phần hùn thường được ưu tiên trong việc nhận các cổ phần hoặc phần hùn ấy khi phân chia; và nếu giá trị phần tài sản nhận được lớn hơn giá trị phần quyền của người này trong khối tài sản chung, thì người này phải trả cho người kia một số tiền chênh lệch. 22 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 Mục IV. Suy đoán tài sản chung Đặt vấn đề. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 27 khoản 3, trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên, thì tài sản đó là tài sản chung. Có thể nhận thấy ngay một thiếu sót của luật viết ở điểm này: khi xây dựng nguyên tắc suy đoán tài sản chung, người soạn thảo điều luật chỉ quan tâm đến giả thiết trong đó, giữa vợ và chồng có sự tranh cãi về tính chất chung hay riêng của một tài sản, mà không quan tâm đến trường hợp sự tranh cãi xảy ra giữa vợ chồng và người thứ ba (chủ nợ chẳng hạn). Giả sử người chồng được gọi để hưởng di sản do cha ruột chết để lại và nhận một số tài sản thuộc di sản sau một vụ phân chia giữa những người đồng thừa kế; người chồng mang các tài sản ấy về nhà; ít lâu sau, một người xuất hiện tự xưng là chủ nợ của người cha đã chết và yêu cầu người chồng thanh toán món nợ đã đến hạn; người chồng thừa nhận có mắc nợ nhưng lại dây dưa không chịu trả; thế là chủ nợ yêu cầu kê biên và bán tài sản của người chồng để thanh toán nợ. Đến chỗ này ta nhận thấy ngay lợi ích của quy tắc suy đoán tài sản chung: luật nói rằng các nghĩa vụ riêng của vợ chồng được bảo đảm thanh toán bằng các tài sản riêng, như ta sẽ thấy trong chương kế tiếp; chủ nợ trong giả thiết vừa nêu không có quyền yêu cầu kê biên những tài sản mà người chồng có quyền sở hữu chung với người vợ, mà chỉ có quyền yêu cầu kê biên các tài sản riêng của người chồng; nhưng, tài sản riêng của người chồng nằm ở đâu ? 1. Vai trò của sự suy đoán Thử thách đối với người tranh cãi. Sự suy đoán tài sản chung có thể được hình dung như một chướng ngại mà một người phải vượt qua trong quá trình tìm kiếm những tài sản gọi là riêng của người vợ hoặc người chồng. Chỉ cần vợ hoặc chồng không chấp nhận việc chủ nợ riêng của vợ hoặc của chồng kê biên một tài sản nào đó, với lý do đó là tài sản chung, thì chủ nợ phải làm thế nào chứng minh được điều ngược lại, nếu không muốn yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng bằng cách thực hiện một quyền khởi kiện chéo28. Trong điều kiện không có quy định rõ ràng của luật viết ở điểm này, ta nói rằng tính chất riêng của một tài sản có thể được chứng minh bằng mọi phương tiện được thừa nhận trong luật chung về chứng cứ: giấy tờ giao dịch hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu, lời thừa nhận của vợ hoặc chồng, lời khai của người làm chứng, Trong các nỗ lực giúp người thứ ba làm sáng tỏ tính chất chung hay riêng của quyền sở hữu tài sản, người làm luật quy định thêm rằng trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 27 khoản 2). Tuy nhiên, quy tắc này giúp được gì cho người thứ ba ? Trong khung cảnh của luật thực định, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, nếu không phải thuộc loại văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, thì không phải là bằng chứng tuyệt đối về quyền sở hữu tài sản29. Từ điều luật vừa dẫn, ta nói 28 Theo Nghị định số 70-CP ngày 03/10/2001 Điều 5 khoản 3 đoạn chót, “nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh”. Về quyền khởi kiện chéo: xem Thừa kế, đd, tr. 568 và kế tiếp. 29 Xem Tài sản, đd, số 172 và kế tiếp. 23 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 rằng nếu giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản ghi tên cả vợ và chồng, thì tài sản liên quan là tài sản chung; nhưng nếu giấy chứng nhận chỉ ghi tên chồng hoặc vợ, thì lại không chắc chắn rằng đó là tài sản riêng. Suy cho cùng, quy định vừa nêu có tác dụng củng cố sự suy đoán tài sản chung hơn là tạo điều kiện cho người thứ ba đánh đổ sự suy đoán đó. Các trường hợp không áp dụng quy tắc suy đoán. Quy tắc suy đoán tài sản chung không được áp dụng đối với tất cả các loại tài sản có trong gia đình. Có những tài sản mà tính chất riêng bộc lộ hẳn ra bên ngoài và việc chứng minh tính chất riêng đó trở nên không cần thiết. Tư trang và đồ dùng cá nhân đứng đầu danh sách các tài sản này. Tính chất riêng của tư trang và đồ dùng cá nhân được xác định trong luật viết bằng một trong các quy tắc chi phối thành phần cấu tạo của các khối tài sản (Điều 32 khoản 1). Các tài sản là vật phụ của một tài sản riêng cũng là của riêng, áp dụng luật chung về tài sản. Các kỷ vật của gia đình mà có mang các ký hiệu hoặc dấu hiệu riêng của gia đình cũng là của riêng, dù không có điều luật nào khẳng định điều này. Nói chung, quy tắc suy đoán tài sản chung chỉ được áp dụng một khi tính chất chung hay riêng của tài sản chưa được giải quyết dứt khoát; đối với những tài sản có xuất xứ rõ ràng và xuất xứ ấy được ghi nhận ngay từ hình thức biểu hiện bề ngoài của tài sản, việc suy đoán phải bị loại trừ. 2. Hệ quả của sự suy đoán Quyền của vợ và chồng. Ta sẽ thấy, trong phần sau, rằng vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Do đó, việc sử dụng, định đoạt một tài sản mà không biết là của chung hay của riêng phải được sự đồng ý của cả vợ và chồng. Thực tiễn giao dịch thừa nhận rằng đối với việc định đoạt các tài sản không quan trọng, sự đồng ý của vợ hoặc chồng có thể là sự đồng ý mặc nhiên, thể hiện qua sự im lặng (không phản đối) trước việc chồng hoặc vợ định đoạt tài sản; còn đối với việc định đoạt các tài sản có giá trị lớn, nhất là bất động sản, cả vợ và chồng phải cùng đứng ra xác lập giao dịch, thì sự đồng ý mới coi là được ghi nhận30. Quyền lợi của người thứ ba. Các chủ nợ mà có quyền kê biên tài sản chung của vợ và chồng, trên nguyên tắc, được hưởng lợi nhiều nhất từ việc áp dụng quy tắc suy đoán này: chủ nợ muốn kê biên một tài sản; vợ hoặc chồng chỉ có thể cứu lấy tài sản khỏi sự kê biên, nếu chứng minh được rằng tài sản ấy là của riêng của người không có nghĩa vụ. Trái lại các chủ nợ mà chỉ có quyền kê biên tài sản riêng của vợ hoặc chồng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc cưỡng chế việc thanh toán nợ. Tài sản riêng của vợ, chồng, như đã nói, luôn có xu hướng bị sáp nhập vào khối tài sản chung. Cuộc sống vợ chồng càng kéo dài, khối tài sản riêng càng nhỏ lại so với khối tài sản chung và chủ nợ riêng của vợ hoặc chồng càng có ít cơ may tìm được những tài sản là vật bảo đảm cho quyền đòi nợ của mình. Trong luật của một số nước, sau khi áp đặt sự suy đoán tài sản chung, người làm luật thừa nhận rằng, dẫu sao, chủ nợ riêng của vợ hoặc chồng cũng có thể yêu cầu kê biên các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng (dù hoa lợi, lợi tức đó là tài 30 Nhắc lại rằng việc tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà trên giấy chứng nhận chỉ có tên một người không tự nó thể hiện đầy đủ tính chất riêng của tài sản liên quan. Bởi vậy, thực tiễn công chứng vẫn yêu cầu sự tham gia của người không có tên trên giấy chứng nhận vào các giao dịch quan trọng liên quan đến tài sản. Nếu người không có tên xác nhận rằng mình không có quyền hạn gì đối với tài sản, thì cơ quan công chứng để cho người có tên tự mình xác lập giao dịch; nếu người không có tên cùng với người có tên đứng ra xác lập giao dịch, thì cơ quan công chứng có thể coi đó như là sự thừa nhận của vợ và chồng về tính chất chung của tài sản. 24 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 sản chung) và cả các động sản trong gia đình mà không biết là của chung hay của riêng31. Luật Việt Nam không có quy định tương tự và việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ riêng của chồng hoặc vợ trở nên không đơn giản. Mặt khác, ta nói rằng các chủ nợ chung được hưởng lợi “trên nguyên tắc”: cũng như người thứ ba, vợ hoặc chồng chứng minh tính chất riêng của một tài sản bằng mọi phương tiện được thừa nhận trong luật chung về chứng cứ. Giả sử vợ hoặc chồng khai, với tư cách người làm chứng, rằng tài sản nào đó là tài sản riêng của chồng hoặc vợ, thì chủ nợ chung cũng có thể gặp khó khăn. Nói chung, khi xây dựng quy tắc về suy đoán tài sản chung, người làm luật chỉ quan tâm đến quan hệ nội bộ giữa vợ chồng mà quên mất mối quan hệ giữa vợ chồng và người thứ ba, đặc biệt là chủ nợ. Luật Việt Nam sẽ còn tiếp tục được hoàn thiện ở điểm này. 31 Ví dụ, luật của Pháp: BLDS Pháp Điều 1411. 25 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 CHƯƠNG THỨ HAI THÀNH PHẦN CỦA CÁC KHỐI TÀI SẢN NỢ Nợ của ai, người đó trả. Vợ hoặc chồng trước hết là những cá nhân và, trong những hoàn cảnh bình thường, là người có đủ năng lực hành vi, nghĩa là có thể chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình trong việc thực hiện các nghĩa vụ tài sản do chính mình xác lập theo luật chung về nghĩa vụ. Giả sử vợ hoặc chồng đứng trước một chủ nợ và nợ đã đến hạn trả. Ta nói rằng chủ nợ, theo luật chung, có quyền yêu cầu người mắc nợ trả nợ và, nếu người mắc nợ không tự giác thực hiện các nghĩa vụ của mình, thì chủ nợ có quyền yêu cầu kê biên và bán (đấu giá) các tài sản của người mắc nợ để nhận tiền thanh toán. Vấn đề đặt ra, ở góc độ pháp luật về hôn nhân và gia đình, là: trong điều kiện người mắc nợ có vợ (chồng), tài sản nào được coi là tài sản của người mắc nợ mà chủ nợ có thể kê biên? tài sản riêng của người mắc nợ ? tài sản riêng của vợ (chồng) người mắc nợ? tài sản chung của vợ chồng? Đối với các câu hỏi này, luật hiện hành có câu trả lời mang tính nguyên tắc: các nghĩa vụ chung của vợ chồng được thanh toán bằng các tài sản chung (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 28 khoản 2); các nghĩa vụ riêng được bảo đảm thực hiện bằng các tài sản riêng (Điều 33 khoản 3). Mục I. Các nguyên tắc xác định thành phần các khối tài sản nợ Các nguyên tắc sau đây không được chính thức thiết lập bằng những quy định rành mạch của luật viết, nhưng có cơ sở khoa học và cơ sở đạo lý, cũng như tỏ ra phù hợp với tinh thần chung của luật hiện hành về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. 1. Nguyên tắc thứ nhất: có quyền lợi thì phải có trách nhiệm Tài sản nợ gắn liền với tài sản có. Có những nghĩa vụ tài sản có thể do vợ chồng trực tiếp xác lập hoặc không, nhưng lại gắn liền với những tài sản có mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai có quyền sở hữu. Bởi vậy, nếu tài sản liên quan đi vào khối tài sản có riêng, thì nghĩa vụ gắn liền phải đi vào khối tài sản nợ riêng; nếu tài sản liên quan đi vào khối tài sản có chung, thì nghĩa vụ gắn liền phải đi vào khối tài sản nợ chung của vợ và chồng. Đây chỉ là sự vận dụng một trong những nguyên tắc chung của luật cơ bản: ubi emolumentum ibi onus - người nào thu được lợi ích, thì phải có trách 26 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 nhiệm thực hiện nghĩa vụ gắn liền với lợi ích đó, nói nôm na là “người nào có ăn, thì có chịu”. Ví dụ điển hình của việc áp dụng nguyên tắc này trong việc xác định hành phần tài sản nợ riêng là những nghĩa vụ gắn liền với các tài sản được chuyển giao bằng con đường thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc và những nghĩa vụ được xác lập trước khi kết hôn. Tài sản được thừa kế riêng và tài sản có trước khi kết hôn là các tài sản riêng, do đó, các nghĩa vụ xác lập trước khi kết hôn và những nghĩa vụ được chuyển giao bằng con đường thừa kế do áp dụng BLDS 2005 Điều 636 là những tài sản nợ riêng; nghĩa là nếu người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền có thể yêu cầu kê biên tài sản có riêng của người có nghĩa vụ để cưỡng chế việc thực hiện nghĩa vụ đó. Ví dụ điển hình của việc áp dụng nguyên tắc này trong việc xác định thành phần khối tài sản nợ chung là các nghĩa vụ phát sinh từ những giao dịch dẫn đến việc tạo ra tài sản trong thời kỳ hôn nhân: vợ hoặc chồng giao kết việc mua một xe máy; xe máy mua được là tài sản chung, do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; vậy nghĩa vụ trả tiền mua xe máy phải đi vào khối tài sản nợ chung của vợ và chồng32, nghĩa là nếu người mua không chịu trả tiền mua tài sản, thì người bán có quyền yêu cầu kê biên các tài sản chung của vợ chồng để nhận tiền thanh toán. 2. Nguyên tắc thứ hai: nghĩa vụ là giá của quyền Quyền đến đâu, nghĩa vụ đến đó. Đối với khối tài sản chung, vợ (chồng) là người có quyền sở hữu chung. Ta sẽ thấy rằng trong nhiều trường hợp, vợ hoặc chồng, với tư cách là người có quyền sở hữu chung, có quyền tự mình định đoạt đối với tài sản chung. Một cách hợp lý, người có quyền định đoạt một tài sản cũng có thể dùng tài sản đó để thực hiện các nghĩa vụ do mình xác lập và nếu người này không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền yêu cầu được phép kê biên và bán (đấu giá) tài sản đó trong khuôn khổ cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ. Điều đó cho phép nghĩ rằng những tài sản chung mà vợ hoặc chồng có quyền tự mình định đoạt có thể là vật bảo đảm cho việc thực hiện những nghĩa vụ tài sản chỉ do một người xác lập, dù không nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình. Một trong những trường hợp điển hình, trong đó, giải pháp này được thừa nhận là trường hợp nghĩa vụ do một người xác lập, nhưng có tác dụng mang lại lợi ích vật chất cho khối tài sản chung: giao kết việc sửa chữa một tài sản chung bị hư hỏng; mua một tài sản trong thời kỳ hôn nhân; Nguyên tắc này, ta sẽ thấy, có tác dụng bổ khuyết cho nguyên tắc thứ nhất trên đây, trong điều kiện có những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân và trở thành tài sản chung do quy định của pháp luật (như thu nhập do lao động), cũng như có những tài sản gắn liền với tài sản riêng, nhưng lại được coi là tài sản chung cũng do quy định của pháp luật (như hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng). 32 Nguyên tắc này có lẽ được áp dụng cả trong trường hợp việc một tài sản đi vào khối tài sản chung là do hiệu lực của một hành vi trái pháp luật: một tài sản có được do tham ô đi vào khối tài sản chung do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; bởi vậy, khối tài sản chung phải trở thành vật bảo đảm cho nghĩa vụ bồi thường hoặc nghĩa vụ hoàn trả được ghi nhận trong một bản án xử phạt người có hành vi tham ô đó. 27 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 3. Nguyên tắc thứ ba: phân biệt tài sản nợ ở góc độ quan hệ đối ngoại và góc độ quan hệ đối nội Nghĩa vụ tương đối và nghĩa vụ tuyệt đối. Giả sử ta đã xác định được các nghĩa vụ do một người xác lập, nhưng lại mang tính chất chung và, cũng như các nghĩa vụ do vợ chồng cùng xác lập, có thể được bảo đảm thanh toán bằng tài sản chung cùng với tài sản riêng của người mắc nợ. Cũng có trường hợp nghĩa vụ do vợ và chồng cùng xác lập, nhưng lợi ích mang lại chỉ là lợi ích riêng của một người. Và có trường hợp nghĩa vụ do một người xác lập nhằm đem lại lợi ích riêng về tài sản cho người kia. Điều chắc chắn: người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình; người không có nghĩa vụ, một khi tự nguyện thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của người khác, cũng phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình. Nhưng khối tài sản được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó mới chính là người phải nhận lấy trách nhiệm tối hậu đối với việc thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu việc thực hiện nghĩa vụ mang lại lợi ích cho khối tài sản chung của vợ chồng, mà khối tài sản riêng lại thanh toán cho người có quyền, thì khối tài sản chung phải bù đắp tổn thất cho khối tài sản riêng. Quy tắc trên đây chỉ là sự vận dụng quy tắc chủ yếu của chế định “được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật” vào quan hệ tài sản giữa vợ và chồng: nếu không có sự thanh toán qua lại giữa các khối tài sản, thì sẽ có những khối tài sản được hưởng lợi và những khối tài sản chịu thiệt hại, một cách vô lý. Tất nhiên, không ai cấm các đương sự thoả thuận khác đi về việc chỉ định khối tài sản phải gánh chịu trách nhiệm sau cùng đối với việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản nào đó. Tuy nhiên, nếu không có một thoả thuận như thế, thì các quy tắc thuộc chế định “được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật” sẽ được áp dụng. Chủ nợ không biết và không cần biết khối tài sản nào được lợi do việc thực hiện nghĩa vụ; trong khi vợ và chồng lại biết. Bởi vậy, cần phân biệt nghĩa vụ trong quan hệ giữa người có nghĩa vụ và người có quyền (gọi là quan hệ đối ngoại hoặc nghĩa vụ tương đối) với nghĩa vụ trong quan hệ nội bộ của vợ và chồng (gọi là quan hệ đối nội hoặc nghĩa vụ tuyệt đối). Nghĩa vụ tương đối là nghĩa vụ được xem xét ở góc độ “thực hiện”: người có quyền yêu cầu (chủ nợ) phải nói chuyện với vợ hay chồng hay với cả hai và có quyền yêu cầu kê biên những tài sản nào ? Nghĩa vụ tuyệt đối là nghĩa vụ được xem xét về phương diện “đóng góp”: khối tài sản nào trong ba khối tài sản của gia đình phải gánh chịu nghĩa vụ một cách dứt khoát ? 28 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 Mục II. Các giải pháp cụ thể I. Nhu cầu của gia đình A. Khái niệm Luật viết không có quy định trực tiếp nhằm làm rõ khái niệm nhu cầu của gia đình. Tuy nhiên, từ các điều luật nằm rải rác trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, có thể ghi nhận rằng cái gọi là “nhu cầu của gia đình” có thể được phân chia thành hai nhóm - nhu cầu thông thường và nhu cầu về duy trì quan hệ tình cảm với người ngoài gia đình hộ - có nội dung được xác định như dưới đây. 1. Nhu cầu thông thường a. Khái niệm Nhu cầu về cuộc sống vật chất và tinh thần. Nhu cầu thông thường có thể được hiểu như cái cần thiết để thoả mãn sự đòi hỏi thông thường về vật chất hoặc tinh thần của con người bình thường. Trong chừng mực đó, có thể hiểu nhu cầu của gia đình như là các nhu cầu gắn với cuộc sống vật chất và tinh thần hàng ngày của các thành viên trong gia đình: ăn, mặc, điện, nước, điện thoại, đi lại thường xuyên, tiếp xúc thông tin cần thiết cho cuộc sống và cho công việc, vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi thư giãn nhằm phục hồi sức lao động, Trong khung cảnh của luật Việt Nam hiện hành, cũng là một phần trong nhu cầu của gia đình, các chi phí cần thiết cho việc giáo dục con cái - chi phí học chính khoá, chi phí học thêm, chi phí sách vở, quần áo học sinh, - và cho việc nâng cao tri thức, năng lực nghề nghiệp của vợ, chồng - chi phí học tập chuyên sâu, nâng cao, tu nghiệp, rèn luyện kỹ năng tin học, trau giồi ngoại ngữ, b. Một số trường hợp chi tiêu đặc biệt Thuê nhà ở. Trong không ít trường hợp, vợ chồng, dù sống độc lập với cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ, không có quyền sở hữu đối với căn hộ dùng làm nơi ở của họ, mà chỉ là những người thuê nhà. Việc thuê nhà làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền thuê nhà. Ta nói rằng nếu nhà ở dùng làm nơi ở chính của gia đình là nhà thuê, thì tiền thuê nhà ở là một phần trong nhu cầu thiết yếu của gia đình. Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm con người. Nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm có được coi là nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình ? Câu trả lời không dễ dàng trong khung cảnh của luật hiện hành, bởi các loại hình bảo hiểm đang phát triển rất đa dạng. - Bảo hiểm con người. Điều chắc chắn, gia đình không thể từ chối những thực hiện nghĩa vụ nộp lệ phí bảo hiểm trong các trường hợp bảo hiểm bắt buộc (ví dụ, bảo hiểm xã hội). Các trường hợp bảo hiểm học đường có thể được coi như một phần của chi phí giáo dục con cái. Cũng có những bảo hiểm không mang tính chất bắt buộc về mặt pháp lý, nhưng lại được ghi nhận trong hợp đồng lao động như một điều kiện để giao kết hợp đồng. Các bảo hiểm bắt buộc hoặc các bảo hiểm được ghi nhận như một 29 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 phần nội dung của hợp đồng lao động là những giao dịch cần thiết nhằm bảo vệ sức khoẻ và khả năng lao động của con người và phải được coi như giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Còn lại các quan hệ bảo hiểm mang tính chất thuần tuý kết ước và không phải là một phần của một giao dịch khác. Hẳn không thể coi các bảo hiểm này là các giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong nhiều trường hợp, bảo hiểm còn được xem như một cách tích lũy của cải (như trong trường hợp bảo hiểm an sinh). Thông thường, phí bảo hiểm trong các trường hợp này được đóng bằng cách trích từ thu nhập thường xuyên của người “mua” bảo hiểm, nghĩa là bằng tài sản chung của vợ (chồng), nhưng người “bán” bảo hiểm không bao giờ coi nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm ấy là nghĩa vụ chung của vợ và chồng. - Bảo hiểm tài sản chung. Việc bảo hiểm tài sản cũng có thể mang tính chất bắt buộc, như trường hợp bảo hiểm phương vận tải cơ giới lưu hành. Song, trong đa số trường hợp, việc bảo hiểm tài sản thường xuất phát từ ý chí của chủ sở hữu. Có thể thừa nhận rằng đối với tài sản là phương tiện tạo thu nhập chủ yếu cho gia đình, việc mua bảo hiểm để đối phó với những rủi ro về tài sản nên được coi là giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Một chút do dự có thể xuất hiện trong trường hợp bảo hiểm tài sản tạo thu nhập không đáng kể hoặc không chủ yếu. Riêng việc bảo hiểm (không bắt buôc) đối với các tài sản không sinh lợi không nên được coi là giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, ngay cả trong trường hợp tài sản thuộc loại quý, hiếm33. - Bảo hiểm tài sản riêng. Trên nguyên tắc, có lẽ nên chấp nhận cùng các giải pháp cho vấn đề bảo hiểm tài sản chung trong trường hợp tài sản được bảo hiểm là tài sản riêng. Song, cần lưu ý rằng một khi tài sản riêng không sinh lợi, việc bảo hiểm (không bắt buộc) đối với tài sản nên được coi là nghĩa vụ riêng đích thực của chủ sở hữu, nghĩa là chỉ được bảo đảm thực hiện bằng tài sản riêng của người xác lập giao dịch. c. Các điều kiện chung của nhu cầu thông thường Nhu cầu và sự cần thiết. Nhu cầu của gia đình không phải chỉ gắn với các họat động mang tính chất tiêu dùng hoặc chi tiêu nhỏ34. Mua một chiếc xe máy dùng làm phương tiện đi lại chủ yếu của gia đình cũng là một giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình; thế mà loại giao dịch này cho đến nay vẫn được coi là liên quan đến tài sản có giá trị lớn trong nhiều trường hợp. Thực ra, để xác định một hoạt động nào đó là gắn hay không gắn với nhu cầu của gia đình, người ta không thể dựa vào các con số thể hiện giá trị của giao dịch, mà phải dựa vào lợi ích do giao dịch mang lại và sự cần thiết của lợi ích đó đối với gia đình. Một giao dịch không tốn kém nhiều nhưng lại không cần thiết, thì không được coi là nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình; ngược lại, một giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn nhưng cần thiết cho gia đình, thì vẫn được coi là đáp ứng nhu cầu của gia đình. 33 Ví dụ, bảo hiểm đồ vật cổ, tranh vẽ của các danh hoạ, Mọi chuyện có thể khác đi, nếu tài sản được bảo hiểm sinh lợi, thậm chí có hoa lợi là nguồn thu nhập quan trọng của gia đình. Có thể hình dung: đồ vật cổ, tranh ảnh, thường được mang đi trưng bày tại các cuộc triển lãm có thu tiền vào cửa. 34 Các chi phí nhắm đáp ứng các nhu cầu thông thường, được kể trên, được bảo đảm chủ yếu bằng tiền lương, thu nhập khác, hoa lợi, lợi tức từ tài sản gốc . 30 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 Nhu cầu phù hợp với cách sống. Có những nhu cầu xuất hiện ở người này, nhưng lại không xuất hiện ở người khác, do mỗi người có cách sống của riêng mình. Một nhà khoa học có nhu cầu đọc các tạp chí chuyên ngành một cách thường xuyên, do đó có nhu cầu đặt mua dài hạn đối với các tạp chí đó, nhưng lại không có nhu cầu ăn uống theo một chế độ áp dụng đối với một vận động viên cử tạ. Một nhà nông có nhu cầu thường xuyên trao đổi thư từ với cơ quan khuyến nông để cập nhật thông tin, kiến thức về nông nghiệp nhưng lại không có nhu cầu chăm sóc chất lượng của thanh quản bằng các loại dược phẩm, hoa quả đặc biệt như một ca sĩ. Tất cả các nhu cầu gọi là thiết yếu trước hết phải là nhu cầu phù hợp với cách sống35. Mặt khác, ngay đối với một nhu cầu cùng loại, sự đáp ứng cũng có thể ở các mức độ tốn kém khác nhau, do sự khác biệt trong cách sống và nhất là sự khác biệt về điều kiện thu nhập, nhưng đều có thể được coi là hợp lý: một đứa trẻ nhà giàu dùng loại tã lót cao cấp; trong khi một đứa trẻ nhà nghèo chỉ dùng loại tã lót rẻ tiền. 2. Nhu cầu về duy trì quan hệ tình cảm với người ngoài gia đình-hộ Nghĩa vụ cấp dưỡng. Có trường hợp các thành viên trong cùng một gia đình không sống dưới cùng một mái nhà và, trong điều kiện một thành viên lâm vào hoàn cảnh sống khó khăn, thành viên khác có khả năng phải thực hiện nghĩa vụ cấp duỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng cũng có thể được xác lập sau khi vợ và chồng chấm dứt quan hệ hôn nhân và một người sống túng thiếu trong khi người còn lại có cuộc sống đầy đủ hơn và có điều kiện để trợ giúp dưới hình thức cấp dưỡng. Đối với gia đình của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, gia đình hiểu theo nghĩa hẹp, tức là gồm những người chung sống trong một nhà, cấp dưỡng cho một người sống ngoài gia đình không phải là giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất, trực tiếp của gia đình; nhưng việc đó có tác dụng tạo một khung cảnh tốt về mặt tình cảm mà trong đó gia đình theo nghĩa hẹp tồn tại và phát triển36. B. Thực hiện nghĩa vụ 1. Nhu cầu thông thường Trường hợp nghĩa vụ do cả vợ và chồng cùng xác lập. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 28 khoản 2, tài sản chung của gia đình được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình; theo Điều 33 khoản 4, tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng. Kết hợp các điều luật ấy, ta nhận xét rằng trong trường hợp nghĩa vụ tài sản được xác lập nhằm bảo đảm nhu cầu của gia đình, thì tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ có thể thuộc khối tài sản chung hoặc thuộc khối tài sản riêng; nhưng vợ, chồng có quyền yêu cầu chủ nợ kê biên tài sản chung trước và chỉ kê biên tài sản riêng nếu tài sản chung không đủ để bảo đảm. 35 Nhưng không phải nhu cầu nào phù hợp với cách sống cũng được coi là thiết yếu. Ví dụ, đi xem ca nhạc vào mỗi cuối tuần có thể là một nhu cầu lành mạnh phù hợp với nếp sống thị dân, nhưng không phải là nhu cầu thiết yếu của tất cả những người dân thành thị. 36 Ngay nếu như nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện đối với vợ (chồng) trong cuộc hôn nhân trước hoặc con riêng, thì việc thực hiện nghĩa vụ cũng tỏ ra có tác dụng tốt đối với sự bình yên của gia đình mới của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Vấn đề chỉ trở nên tế nhị trong trường hợp người được cấp dưỡng là con ngoại tình của người có nghĩa vụ cấp dưỡng: sự tồn tại của mối quan hệ đó đã là điều không vui vẻ đối với vợ (chồng) và các thành viên gia đình của người ngoại tình; việc cấp dưỡng đều đặn lại có tác dụng nhắc đi nhắc lại với mọi người về “thành quả” của mối quan hệ được coi là không lành mạnh đó 31 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật hôn nhân & gia đình- Tập 2 Cần lưu ý rằng trong trường hợp nghĩa vụ do cả vợ và chồng xác lập, thì một khi tài sản chung không đủ để bảo đảm, chủ nợ có quyền kê biên tài sản riêng của vợ hoặc của chồng mà không cần biết ai là người có nhiều tài sản hơn. Trường hợp nghĩa vụ do vợ hoặc chồng tự mình xác lập. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 25, vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Bởi vậy, cả ba khối tài sản đều là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với chủ nợ, dù nghĩa vụ có thể chỉ do một bên xác lập. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng để thiết lập được tình trạng liên đới về nghĩa vụ trong trường hợp này, hai điều kiện sau đây phải hội đủ. - Giao dịch phải hợp pháp; - Giao dịch phải nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình, tức là các giao dịch thoả mãn các tiêu chí của nhu cầu thông thường, như đã nói ở trên. Nếu thiếu một trong hai điều kiện đó, thì, một cách hợp lý, người không tham gia vào việc xác lập nghĩa vụ có quyền không cho phép chủ nợ kê biên các tài sản riêng của mình37. Đặc biệt, một giao dịch hợp pháp do một người xác lập nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình cũng không ràng buộc được tài sản riêng của người còn lại trong trường hợp nhu cầu tỏ ra không thiết yếu. Nhà đã có một chiếc tivi để tại phòng ăn; chồng tự mình mua thêm một chiếc tivi nữa để tại phòng khách; nếu chồng không trả đủ tiền mua tài sản, thì người bán không có quyền yêu cầu kê biên tài sản riêng của người vợ. Nếu cả hai điều kiện có đủ, thì trong trường hợp tài sản chung không đủ để bảo đảm, chủ nợ có quyền yêu cầu kê biên tài sản riêng của chồng hoặc của vợ mà không cần biết ai là người trực tiếp xác lập nghĩa vụ, do áp dụng Luật hôn nhân và gia đình, các Điều 25 và 33 khoản 4. Thậm chí, trong điều kiện luật quy định khá chung, có thể thừa nhận rằng chủ nợ có quyền kê biên bất kỳ tài sản nào của gia đình, bất kể đó là của chung hay của riêng, mà không cần quan tâm đến khả năng thanh toán của khối tài sản chung. 2. Nghĩa vụ cấp dưỡng Tài sản bảo đảm. Trên thực tế, khoản tiền hoặc khoản hiện vật mà người có nghĩa vụ dùng để cấp dưỡng cho một người khác thường được trích từ thu nhập do lao động hoặc hoa lợi, lợi tức từ tài sản của người có nghĩa vụ hoặc từ khối tài sản tích lũy từ thu nhập, hoa lợi, lợi tức ấy. Thậm chí, có thể nói rằng thu nhập hoặc hoa lợi, lợi tức ấy phải là các khoản thu thường xuyên, bởi khó có thể coi một người là có điều kiện cấp dưỡng một khi người này không có nguồn thu ổn định. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì, theo yêu cầu của người có quyền, cơ quan có thẩm quyền sẽ cho kê biên các tài sản này để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ38. Tất cả những điều đó cho phép nghĩ rằng trong trường hợp người có nghĩa 37 Tất nhiên, nếu nghĩa vụ do cả vợ và chồng cùng xác lập, thì cả ba khối tài sản phải là vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, bất kể giao dịch có nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình hay không. Cần nhấn mạnh rằng tính không hợp pháp của một giao dịch phải được xác định trước Toà án chứ không phải theo đánh giá chủ quan của bên này hay bên kia. 38 Theo Nghị định số 70/2001-CP, ngày 3/10/2001, Điều 20 khoản 3, “theo quyết định của Tòa án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động, các thu nhập thường xuyên khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo đúng mức và phương thức cấp dưỡng do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và người có nghĩa vụ cấp dưỡng thoả thuận hoặc theo mức và phương thức cấp dưỡng do Tòa án quyết 32 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ