Giáo trình Luật an sinh xã hội

pdf 57 trang phuongnguyen 2470
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật an sinh xã hội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_luat_an_sinh_xa_hoi.pdf

Nội dung text: Giáo trình Luật an sinh xã hội

  1. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. o0o Giáo trình Luật an sinh xã hội
  2. MỤC LỤC Trang Chương I. Lý luận chung về pháp luật an sinh xã hội I. Nguồn gốc và ý nghĩa của an sinh xã hội 1. Quá trình hình thành an sinh xã hội 2. Ý nghĩa của an sinh xã hội II. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của an sinh xã hội 1. Khái niệm an sinh xã hội 2. Các nguyên tắc cơ bản của an sinh xã hội III. Pháp luật an sinh xã hội 1. Đối tượng điều chỉnh 2. Phương pháp điều chỉnh Chương II. Pháp luật bảo hiểm xã hội I. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội 1. Khái niệm bảo hiểm xã hội 2. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội II. Nội dung của bảo hiểm xã hội 1. Quỹ bảo hiểm xã hội 2. Các loại hình bảo hiểm xã hội 3. Quyền và trách nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm xã hội 4. Giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội III. Các chế độ bảo hiểm xã hội 1. Chế độ ốm đau 2. Chế độ thai sản 3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 4. Chế độ hưu trí 5. Chế độ tử tuất Chương III Pháp luật ưu đãi xã hội I. Một số vấn đề lý luận về pháp luật ưu đãi xã hội 1. Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội 2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật ưu đãi II. Các chế độ ưu đãi xã hội A. Chế độ ưu đãi trợ cấp 1.Chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng trước tháng 8 năm 1945 2. Chế độ ưu đãi đối với liệt sĩ và gia đình liệt sĩ 3. Chế độ ưu đãi đối với bà mẹ Việt Nam anh hùng 4. Chế độ ưu đãi đối với anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động 5. Chế độ ưu đãi đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh 6. Chế độ ưu đãi đối với bệnh binh 7. Chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tù đày 8. Chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế 9. Chế độ ưu đãi đối với người có công giúp đỡ cách mạng 10. Chế độ ưu đãi đối với người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam 11. Chế độ ưu đãi đối với quân nhân, cán bộ, thanh niên xung phong trong kháng chiến. 1
  3. B. Chế độ ưu đãi khác 1. Chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khoẻ 2. Chế độ ưu đãi về giáo dục và đào tạo 3. Chế độ ưu đãi về nhà ở, giải quyết việc làm, hỗ trợ người có công với cách mạng ổn định đời sống và phát triển kinh tế gia đình Chương IV. Pháp luật cứu trợ xã hội I. Một số vấn đề lý luận về pháp luật cứu trợ xã hội 1.Khái niệm pháp luật cứu trợ xã hội 2. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật cứu trợ xã hội II. Các quy định của pháp luật về cứu trợ xã hội 1. Chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên 2. Chế độ cứu trợ xã hội đột xuất 2
  4. CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI I. NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA AN SINH XÃ HỘI 1. Quá trình hình thành an sinh xã hội Lao động tạo ra con người và thông qua quá trình này con người tồn tại. Con người ngoài việc chịu sự tác động với nhau con người còn phải chịu sự tác động của tự nhiên nhưng không phải lúc nào con người cũng gặp những may mắn, thuận lợi, gặp những điều kiện sinh sống bình thường mà trong một số trường hợp con người đã phải đối mặt với những thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn, ốm đau hay các biến cố rủi ro khác nhau. Để tồn tại và đối mặt với những vấn đề đó con người đã liên kết hợp tác với nhau lựa chọn ra những phương thức phù hợp nhằm trợ giúp nhau trong cuộc sống. Hình thức “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” là hình thức sơ khai và giản đơn nhất được cộng đồng, gia đình , các thành viên trong xã hội lựa chọn sử dụng. Bên cạnh đó, còn có một số các biện pháp trợ giúp khác nhau có tính chất tự nguyện của cộng đồng, tương thân tương ái đối với các đối tượng khác nhau trong xã hội. Trong quá trình phát triển xã hội, nền công nghiệp và kinh tế thị trường phát triển đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển xã hội làm xuất hiện việc thuê mướn nhân công. Song song với sự tồn tại đó, cuộc sống của thành viên gia đình những nhân công này phụ thuộc mật thiết vào mức thu nhập chính của họ. Nhưng bản thân họ lại phải chịu những rủi ro, bất trắc do đó để tạo cơ sở ổn định cuộc sống, những nhân công này đã thông qua một số các hoạt động của quỹ tương tế của các hội đoàn, hội bằng hữu do những người làm thuê liên kết lập ra. Bên cạnh đó, những nhân công này phải hợp tác với nhau để được làm việc trong những điều kiện lao động bảo đảm nhằm giảm thiểu các yếu tố rủi ro xảy ra. Đây là một trong những việc làm cần thiết buộc giới chủ phải quan tâm xem xét tạo điều kiện cho người lao động ổn định cuộc sống. Một trong các hình thức hạn chế những rủi ro do ốm đau, do tuổi già, do mất việc làm, do bị tai nạn phải kể đến việc thành lập quỹ bảo hiểm ốm đau và hệ thống bảo hiểm xã hội tại Đức từ năm 1883 đến 1889 dưới thời thủ tướng Bismark. Mô hình bảo hiểm xã hội của Đức đã phát triển và lan sang các nước khác như Mỹ, Canada, một số nước ở Châu Phi, Châu á và vùng vịnh Caribe. Ngoài ra một số quốc gia khác trên cơ sở hệ thống bảo hiểm xã hội này đã ban hành một số đạo luật riêng điều chỉnh về các lĩnh vực khác như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tự nguyện, bảo đảm xã hội Bên cạnh hình thức bảo hiểm xã hội, các hình thức tương tế, cứu tế xã hội, các hình thức cứu giúp những người có hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh, các dịch vụ công cộng như dịch vụ y tế, dịch vụ chăm sóc người già, dịch vụ bảo vệ trẻ mồ côi, người tàn tật, người goá bụa từng bước được phát triển và hoàn thiện. Hệ thống an sinh xã hội được hình thành và được ghi nhận trong các đạo luật của các nước như Đạo luật an sinh xã hội của Mỹ năm 1935. Thuật ngữ an sinh xã hội được sử dụng trong Hiến chương Đại Tây Dương năm 1931 và được ghi nhận cụ thể trong Công ước số 102 Công ước các mức tối thiểu về an toàn xã hội ngày 27.4.1952 bao gồm các chế độ về chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ giúp thất nghiệp, trợ giúp tuổi già, trợ giúp trong trường hợp bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ giúp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ giúp tàn tật, trợ giúp mất người trụ cột gia đình. 2. Ý nghĩa của an sinh xã hội An sinh xã hội là một biện pháp cuẩ chính sách xã hội và là một trong những chỉ báo quan trọng về định hướng XHCN ở nước ta trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường mà đối tượng của nó là những người gặp rủi ro, bất trắc trong cuộc sống. 3
  5. An sinh xã hội vừa mang ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có giá trị về mặt xã hội, đặc biệt nó thể hiện giá trị đạo đức cao đẹp và tinh thần nhân đạo sâu sắc. An sinh xã hội có các ý nghĩa cụ thể sau: An sinh xã hội lấy con người làm trung tâm, coi quyền con người, bảo vệ con người trước các biến cố rủi ro xảy ra. Con người vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của việc xây dựng xã hội. Trong Tuyên ngôn về nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10.12.1948 đã khẳng định:”Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên xã hội có quyền hưởng bảo đảm xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho sự tự do phát triển con người.” An sinh xã hội vừa tạo điều kiện cơ bản và thuận lợi giúp cho các đối tượng đặc biệt có cơ hội để phát huy hết thế mạnh của cá nhân đồng thời thể hiện thái độ, trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo ra cơ hội giúp họ hoà nhập vào cộng đồng. An sinh xã hội góp phần ổn định phát triển và tiến bộ xã hội. Mục tiêu cơ bản của an sinh xã hội là tạo một môi trường công bằng cho các tầng lớp dân cư, cho người nghèo, cho người lao động, cho các đối tượng gặp biến cố rủi ro tham gia. An sinh xã hội phải thực sự là công cụ phát triển tiến bộ xã hội. Ngoài việc giảm bớt, hạn chế những khó khăn cho đối tượng nghèo đói, an sinh xã hội còn phải đa dạng hoá các hình thức hoạt động khác nhau đối với các đối tượng khác nhau để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. An sinh xã hội thể hiện truyền thống tương thân tương ái, đoàn kết giúp đỡ nhau của cộng đồng. Trên cơ sở sự liên kết, hợp tác của cộng đồng những rủi ro hoạn nạn được chia sẻ, đây là yếu tố phát huy sức mạnh của cộng đồng, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc ta. An sinh xã hội góp phần phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa những người lao động làm công ăn lương, giữa những người có công với nước, giữa những người gặp khó khăn, biến cố rủi ro, giữa những người nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa II. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA AN SINH XÃ HỘI 1. Khái niệm an sinh xã hội Khái niệm an sinh xã hội là một thuật ngữ được dịch ra từ cụm từ social security (Tiếng Anh) hoặc từ sécurites sociale (Tiếng Pháp). Đây là thuật ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935. Trong đạo luật này an sinh xã hội được hiểu là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá nhân, đồng thời tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ. Thuật ngữ an sinh xã hội cũng được Tổ chức lao động quốc tế ILO ghi nhận: “an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.” Theo quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế thì hệ thống an sinh xã hội bao gồm các nhánh sau: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp thai sản Trợ cấp tàn tật Trợ cấp tử tuất. 4
  6. An sinh xã hội là một vấn đề phong phú, phức tạp, là một “khái niệm mở” nên có thể hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con người. Đó là các quan hệ hình thành trong lĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng cao chất lượng sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. Theo nghĩa này, an sinh xã hội có thể bao gồm các nhóm quan hệ sau: - Nhóm quan hệ trong lĩnh vực giải quyết việc làm, chống thất nghiệp. - Nhóm quan hệ trong lĩnh vực chăm sóc y tế, bảo vệ sức khỏe nhân dân - Nhóm quan hệ trong lĩnh vực dân số, kế hoạch hóa gia đình, - Nhóm quan hệ trong lĩnh vực bảo hiểm bảo hiểm xã hội, - Nhóm quan hệ trong lịch vực cứu trợ xã hội, - Nhóm quan hệ trong lĩnh vực ưu đãi xã hội, - Nhóm quan hệ trong lĩnh vực môi trường Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình, trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già cũng như các trường hợp bị thiên tai, địch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu đãi những thành viên của mình đã có những hành động xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Theo nghĩa này, an sinh xã hội bao gồm ba nhóm quan hệ chủ yếu sau: - Nhóm các quan hệ bảo hiểm xã hội - Nhóm các quan hệ cứu trợ xã hội - Nhóm các quan hệ ưu đãi xã hội.1 Ở Việt Nam, thuật ngữ an sinh xã hội được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác nhau như: bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn xã hội. Có quan điểm cho rằng an sinh xã hội trước hết là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình nhờ một loạt các biện pháp công cộng nhằm giúp đỡ chống lại sự thiếu hụt về kinh tế mà họ có thể gặp phải do mất đi hoặc bị giảm quá nhiều nguồn thu nhập bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. An sinh xã hội còn thể hiện sự giúp đỡ, chăm sóc về văn hoá, y tế và trợ giúp cho các gia đình góp phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Có thể nói, khái niệm an sinh xã hội hiểu một cách chung nhất đó là sự bù đắp một phần thu nhập cho người lao động và gia đình khi họ bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất hoặc có những sự kiện pháp lý khác, cho người có công với cách mạng; cho những người già cô đơn không nơi nương tựa, cho trẻ em mồ côi, cho người tàn tật, cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn, gặp thiên tai, dịch bệnh và cho những người nghèo đói trong xã hội. An sinh xã hội có các đặc trưng sau: * Đối tượng của an sinh xã hội bao gồm những nhóm đối tượng sau: + Người lao động và gia đình họ. + Người có công với cách mạng, người đóng góp công sức cho tổ quốc. + Người già cô đơn, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật, người nghèo khó, túng thiếu. + Người gặp thiên tai hoả hoạn, địch hoậ hoặc các rủi ro khác. * An sinh xã hội nhằm bù đắp một phần thu nhập cho cho những người bị mất hoặc bị giảm khả năng lao động. 1 Giáo trình Luật an sinh xã hội, NXBTP, trang 13. 5
  7. * An sinh xã hội là sự trợ giúp vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Sự thụ hưởng của các bên được đảm bảo thực hiện trên cơ sở sự đóng góp nhưng cũng tính đến yếu tố cộng đồng, yếu tố nhân đạo. * Nguồn quỹ của an sinh xã hội rất đa dạng có thể do sự hỗ trợ từ ngân sách của nhà nước, của người lao động, người sử dụng lao động, có thể do sự hỗ trợ quyên góp của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. * Về bản chất, an sinh xã hội là sự san sẻ trách nhiệm của mọi người đối với những người gặp rủi ro, khó khăn hoặc những yếu tố khác mà bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động. 2. Các nguyên tắc cơ bản của an sinh xã hội * Nhà nước quản lý hoạt động an sinh xã hội + Nhà nước có trách nhiệm việc tổ chức các biện pháp bảo đảm xã hội đối với các đối tượng bị giảm hoặc mất thu nhập. + Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý điều chỉnh các hoạt động của an sinh xã hội + Nhà nước thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của an sinh xã hội. + Nhà nước tăng cương công tác thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về an sinh xã hội. + Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để thực hiện hoạt động an sinh xã hội trong phạm vi cả nước. * Phải bảo đảm xã hội cho mọi người bị giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập do bị mất việc làm, do gặp thiên tai, hoả hoạn hoặc các rủi ro khác. * Thực hiện an sinh xã hội trên cơ sở sự đóng góp của các bên và sự trợ giúp của xã hội, sự chia sẻ của cộng đồng. * An sinh xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu thực hiện mục đích xã hội vì cộng đồng. * Mức an sinh xã hội nhằm trợ giúp bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho những người thụ hưởng. * Hoạt động an sinh xã hội được thực hiện trên cơ sở mức đóng góp của các bên, sự trợ giúp của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước cũng như là sự bảo trợ của nhà nước. III. LUẬT AN SINH XÃ HỘI 1. Đối tượng điều chỉnh Pháp luật an sinh xã hội là bộ phận rất quan trọng nằm trong hệ thống pháp luật của nước ta. Pháp luật bảo đảm xã hội có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có quan điểm cho rằng pháp luật an sinh xã hội là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội, xác định quyền và nghĩa vụ của nhà nước, cá nhân trong việc hỗ trợ về vật chất, tinh thần cho các thành viên xã hội gặp khó khăn trong cuộc sống, hoà nhập với cộng đồng, đền đáp công lao đối với người có công với đất nước. Pháp luật an sinh xã hội cũng được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Pháp luật an sinh xã hội điều chỉnh các nhóm quan hệ cơ bản sau: * Nhóm quan hệ bảo hiểm xã hội: Đây được coi là bộ phận trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội nhằm trợ giúp cho những người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khả năng lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập. Nhóm quan hệ này có một số đặc trưng cơ bản sau: 6
  8. Thứ nhất, hệ thống bảo hiểm xã hội hoạt động thông qua quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ này có sự phối hợp và đóng góp rất chặt chẽ giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Thứ hai, đối tượng tham gia hoạt động của bảo hiểm xã hội áp dụng cho người lao động làm công ăn lương, cho công chức, cán bộ nhà nước Thứ ba, đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội bao gồm người lao động và thành viên gia đình họ khi họ có các sự kiện pháp lý kèm theo thoả mãn điều kiện của từng chế độ bảo hiểm xã hội. Thứ tư, việc hưởng bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào mức đóng góp cho xã hội, mức suy giảm khả năng lao động Tuy nhiên, phải kết hợp với nguyên tắc tương trợ cộng đồng. Thứ năm, quyền thụ hưởng bảo hiểm xã hội không gắn với bất cứ chỉ tiêu nào về nhu cầu và tài sản của người thụ hưởng. * Nhóm quan hệ ưu đãi xã hội. Nhóm quan hệ này thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với những người đã đóng góp công sức, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhóm quan hệ này có các đặc trưng sau: + Chủ thể tham gia quan hệ: một bên là nhà nước và một bên là những người có công với cách mạng hoặc thân nhân gia đình họ. + Nguồn quỹ: Chủ yếu là sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, bên cạnh đó có sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. + Mức trợ cấp phụ thuộc vào mức độ cống hiến, hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. + Quyền thụ hưởng ưu đãi xã hội không gắn với nhu cầu và tài sản của người thụ hưởng, không có sự tham gia đóng góp của người thụ hưởng. + Quyền thụ hưởng thể hiện trách nhiệm của nhà nước và cộng đồng trong việc ghi nhận công lao đóng góp, hy sinh của những người có công với đất nước. * Nhóm quan hệ cứu trợ xã hội Nhóm quan hệ này thể hiện trách nhiệm của cộng đồng, của xã hội đối với các thành viên khi họ gặp rủi ro, bất hạnh hoặc bị hụt hẫng trong cuộc sống nhằm giúp họ khắc phục các hậu quả để ổn định cuộc sống tạo điều kiện giúp họ hoà nhập vào cộng đồng. Nhóm quan hệ này có các đặc trưng sau: + Đối tượng được cứu trợ xã hội là những người gặp rủi ro, bất hạnh mà bản thân họ không có điều kiện để lo liệu cuộc sống bao gồm: người nghèo, người già cô đơn, người tàn tật, người gặp thiên tai, hoả hoạn, trẻ mồ côi + Nguồn trợ cấp chủ yếu là sự hỗ trợ của nhà nước. Ngoài ra, còn có sự đóng góp của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. + Mức hưởng phụ thuộc vào mức khó khăn của người được trợ cấp và rủi ro thực tế xảy ra. + Quyền thụ hưởng thể hiện trách nhiệm của cộng đồng đối với nhóm người được cứu trợ. 2. Phương pháp điều chỉnh Phương pháp điều chỉnh là những biện pháp cách thức mà nhà nước sử dụng để tác động lên các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Mỗi một ngành luật đều có phương pháp điều chỉnh riêng biệt và đặc thù được xác định thông qua đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Pháp luật an sinh xã hội điều chỉnh nhóm quan hệ bảo hiểm xã hội, nhóm quan hệ ưu đãi xã hội và nhóm quan hệ cứu trợ xã hội do đó phương pháp điều chỉnh sử dụng kết hợp các phương pháp sau: a. Phương pháp mệnh lệnh Phương pháp mệnh lệnh thể hiện ở chỗ các bên tham gia quan hệ có địa vị không bình đẳng với nhau về ý chí. Một bên có quyền ra mệnh lệnh và một bên phải phục tùng. Trong đó nhà 7
  9. nước là chủ thể tối cao sử dụng quyền uy để điều chỉnh các quan hệ về an sinh xã hội, các cơ quan, các tổ chức, các cá nhân được nhà nước trao quyền cũng là chủ thể của phương pháp này. Đối với quan hệ bảo hiểm xã hội nhà nước quy định các trường hợp phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, tỷ lệ hưởng bảo hiểm xã hội, các điều kiện hưởng bảo hiểm, các chế độ hưởng bảo hiểm buộc các bên phải tuân thủ mà không được phép thoả thuận. Kể cả việc thiết lập quỹ bảo hiểm xã hội nhà nước cũng quy định cụ thể tỷ lệ đóng góp của các bên. Đối với quan hệ ưu đãi xã hội, nhà nước quy định các điều kiện được hưởng ưu đãi, mức hưởng cụ thể cho từng đối tượng nhất định khi họ thoả mãn điều kiện mà pháp luật đã quy định. Đối với quan hệ cứu trợ xã hội, nhà nước quy định các trường hợp được hưởng chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên, các trường hợp được hưởng chế độ cứu trợ xã hội đột xuất, điều kiện và chế độ cụ thể cho từng đối tượng b. Phương pháp tuỳ nghi Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh đa dạng, phức tạp do đó pháp luật an sinh xã hội sử dụng phương pháp tuỳ nghi trong đó nhà nước cho phép các bên tham gia quan hệ được tự do lựa chọn cách xử sự của mình không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Phương pháp tuỳ nghi được sử dụng một cách rất linh hoạt khi tác động lên từng quan hệ cụ thể về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, và ưu đãi xã hội. Đối với quan hệ bảo hiểm xã hội, bên cạnh việc nhà nước quy định các bên tham gia bảo hiểm xã hội phải đóng góp một tỷ lệ nhất định cho bảo hiểm xã hội bắt buộc thì nhà nước cũng ghi nhận bảo hiểm xã hội tự nguyện để cho các đối tượng có nhu cầu tự nguyện tham gia. Ngoài ra, các bên cũng có thể lựa chọn việc hưởng chế độ trợ cấp hưu trí hàng tháng hay chế độ trợ cấp hưu trí một lần. Đối với quan hệ ưu đãi xã hội và cứu trợ xã hội nhà nước thiết lập quỹ ưu đãi xã hội và cứu trợ xã hội chi trả cho những người cống hiến cho xã hội, những người gặp rủi ro, bất hạnh nhưng bên cạnh đó nhà nước cũng kêu gọi trách nhiệm chia sẻ khó khăn của cộng đồng, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nhà nước thông qua các quy phạm tuỳ nghi huy động, khuyến khích sự đóng góp tự nguyện của những tấm lòng vàng, khuyến khích việc xây dựng nhà tình nghĩa, nhà dưỡng lão, lập quỹ đền ơn đáp nghĩa Có thể nói, việc phân chia phương pháp điều chỉnh của pháp luật an sinh xã hội chỉ có tính chất tương đối. Trên thực tế, tuỳ thuộc vào từng quan hệ cụ thể mà sử dụng phương pháp nào cho phù hợp. Thông qua đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh Luật an sinh xã hội được định nghĩa như sau: Luật an sinh xã hội là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Luật an sinh xã hội cũng được định nghĩa như sau Luật an sinh xã hội Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hnàh điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực tổ chức và thực hiện việc trợ giúp đối với các cá nhân (thành viên xã hội) trong trường hợp rủi ro, hiểm nghèo nhằm giảm bớt những khó khăn, bất hạnh mà bản thân họ không thể tự mình khắc phục được, góp phần bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển an toàn, bền vững, công bằng và tiến bộ.1 1 Giáo trình Luật an sinh xã hội, trang 23. 8
  10. CHƯƠNG II QUAN HỆ PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI1 I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI 1.Khái niệm Trong cuộc sống, các cá nhân, gia đình và nhiều khi cả cộng đồng có thể gặp phải những rủi ro do thiên tai hay những biến động trong đời sống kinh tế, xã hội gây ra những bão lụt, bệnh tật, chiến tranh Những rủi ro này khó lường trước và cũng khó có thể phòng ngừa được ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của chính bản thân họ và cộng đồng. Bởi vậy, từ xa xưa, cá nhân mỗi người và mỗi gia đình đều tìm những biện pháp đề phòng cần thết để tự bảo vệ mình trước các rủi ro. Họ có thể áp dụng các cơ chế truyền thống để chia sẻ rủi ro dựa trên sự tự nguyện tích luỹ, trao đổi tài sản trong phạm vi gia đình, họ hàng và cộng đồng làng xã Cơ chế này hình thành nên những quan hệ xã hội đầu tiên có mục đích tương trợ cộng đồng, chủ yếu trên cơ sở những quan hệ tình cảm, trách nhiệm, bổn phận con người nên được điều chỉnh bằng tập quán làng xã, họ tộc và những quan niệm đạo đức trong xã hội. Ở khía cạnh nào đó, những quan hệ này không chắc chắn, song cho đến nay, nó vẫn được duy trì như những nét đẹp truyền thống của mỗi gia đình, cộng đồng, bất cứ sự ảnh hưởng của đời sống hiện đại, có thể nhận được sự hỗ trợ nhưng hầu như không chịu sự điều chỉnh của công quyền. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa và thành thị hóa nông thôn đã thay đổi cơ cấu xã hội, nhiều cá nhân lập nghiệp xa gia đình và cộng đồng làng xã họ tộc để gia nhập công cuộc sống công nghiệp nơi thành thị. Điều đó cũng làm mất dần tác dụng cơ chế an sinh xã hội truyền thống và không chính thức này, trong xã hội hiện đại đã bắt đầy xuất hiện các loại rủi ro mới như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, mất việc làm, phá sản do đầu tư cổ phiếu, thiên tai và nhân tai ngày càng khắc nghiệt Vì vậy, cơ chế bảo đảm có tính truyền thống nói trên đã không thể giúp cho các cá nhân khắc phục hậu quả rủi ro trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, trong cơ chế thị trường những rủi ro không chỉ xảy ra đối với một hoặc vài cá nhân mà có thể xảy ra đổi với một số lượng lớn các thành viên trong xã hội như trường hợp các doanh nghiệp, công ty bị phá sản, giải thể dẫn đến người lao động bị mất việc làm. Cũng vì quan niệm lợi dụng tối ưu cơ chế thị trường mà nhiều hoàn cảnh khó khăn như tàn tật nặng, tâm thần, người già cô đơn không được giúp đỡ đúng mức. Thực tế cũng xuất hiện những cơ chế chia sẻ rủi ro mới mang tính thị trường như ký kết các hợp đồng bảo hiểm nhưng đây là hình thức kinh doanh theo nguyên tắc người kinh doanh phải có lợi nên không phải cá nhân nào cũng có khả năng tham gia. Đối với những người có thể tham gia cơ chế này thì quan hệ của các bên hình thành trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện do luật dân sự, luật thương mại điều chỉnh. Tuy nhiên, việc khắc phục rủi ro cho những người tham gia loại bảo hiểm này chủ yếu mang tính cá thể, tác dụng xã hội của hình thức này rất hạn chế. Vì vậy, ngày nay, bên cạnh những hình thức trên, đời sống xã hội cần một cơ chế an toàn hơn, đó là sự quản lý và chia sẻ rủi ro có bảo đảm chắc chắn từ phía Nhà nước, mang tính xã hội và thực hiện trong cả cộng đồng để tất cả các thành viên đều được bảo vệ và những rủi ro của họ (nếu có) được chia sẻ trong phạm vi rộng rãi. Nếu không những giúp người gặp rủi ro vượt qua khó khăn mà còn có thể ngăn ngừa hậu quả ở mức độ nhất định, giúp họ tái hòa nhập cộng đồng trong những trường hợp rủi ro xảy ra. Cơ chế quản lý và chia sẻ rủi ro thông qua vai trò của Nhà nước và hoàn toàn mang tính xã hội, không nhằm mục đích kinh doanh như bảo hiểm xã hội và các hình thức trợ giúp xã hội khác sẽ góp phần cải thiện đáng kể điều kiện sống của người dân càng tạo môi trường tốt cho việc phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Việc thực hiện mục đích này làm hình thành nên những quan hệ xã hội mới thuần túy với mục đích đảm bảo an toàn 1 Giáo trình Luật an sinh xã hội, trang 59-96 10
  11. trong đời sống của cộng đồng xã hội. Đó là quan hệ giữa nhà nước, thông qua các thiết chế được nhà nước thành lập hoặc thừa nhận từ cộng đồng xã hội, do nhà nước tổ chức và điều hành, với tất cả các thành biên trong xã hội gặp khó khăn cần được trợ giúp, không bị phân biệt và giới hạn theo bất cứ một tiêu chí nào. Từ nhu cầu hình thành, mục đích tồn tại, phạm vi lan tỏa và tác dụng đặc biệt đối với xã hội của những quan hệ này mà có thể gọi đó là các quan hệ san sinh xã hội. Do tầm quan trọng của vấn đề an sinh trong điều kiện xã hội phát triển, những quan hệ này phải được pháp luật điều chỉnh. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với nó phải theo một hướng khác với sự điều chỉnh quan hệ mang tính chia sẻ rủi ro truyền thống hoặc theo hình thức kinh doanh nói trên. Yêu cầu đó làm hình thành nên một lĩnh vực pháp luật mới, luật an sinh xã hội. Nó được xây dựng trên cơ sở các chính sách xã hội của mỗi quốc gia, có thể rộng hay hẹp tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, , chính trị xã hội của mỗi quốc gia đó. Trong đó, các nhà nước, nhân danh người quản lý và đại diện chính thức cho toàn xã hội, đều xác định trách nhiệm của mình trong việc thực hiện an sinh xã hội. Nhưng để có hiệu quả tốt hơn, nhà nước phải có chính sách thu hút cả cộng đồng cũng như các tổ chức, cá nhân nếu có khả năng và lòng hảo tâm để họ tham gia thực hiện vấn đề này. Đặc biệt, nhà nước phải có những quy định hợp lý để xác định các trường hợp, đối tượng cần trợ giúp, hình thức trợ giúp hoặc đối tượng phải tham gia quan hệ đóng quỹ như một điều kiện thụ hưởng tùy theo từng loại tổ chức. Những quy định của nhà nước phải thực hiện được mục đích vấn đề an sinh xã hội nhưng không làm ảnh hưởng đến các chính sách khác như chính sách lao động, việc làm, khuyến khích phát triển kinh tế Như vậy, các chủ thể này khi tham gia quan hệ sẽ phải tuân theo những khuôn khổ pháp lý nhất định. Những quan hệ an sinh xã hội trong khuôn khổ các quy định của pháp luật, được gọi là các quan hệ pháp luật an sinh xã hội. Như vậy, quan hệ pháp luật về an sinh xã hội là nhưng quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực nhà nước tổ chức thực hiện các hìnhh thức bảo vệ, trợ giúp các thành viên xã hội trong những trường hợp cần thiết nhằm đảo bảo an toàn trong đời sống xã hội, được các quy phạm pháp luật an sinh xã hội điều chỉnh. Từ đó, có thể thấy rằng các quan hệ xã hội hình thành với mục đích an sinh xã hội trên thực tế tồn tại dưới nhiều hình thức: do Nhà nước tổ chức và đảm bảo thực hiện hoặc do các bên tự do thiết lập cơ chế nhu cầu và lợi ích của mỗi bên hoặc hình thành trong đời sống các cộng đồng dân cư làng xã, họ tộc, tôn giáo, nghề nghiệp Pháp luật chỉ điều chỉnh nhữnh quan hệ an sinh xã hội mang tính xã hội sâu sắc, được Nhà nước tổ chức và đảm bảo thực hiện trên phạm vi rộng lớn hoặc những quan hệ cần thiết phải quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Những quan hệ mang tính an sinh xã hội không do pháp lụât điều chỉnh và tồn tại và vận hành theo tập quán hoặc trên cơ sở tình cảm, quan niệm đạo đức của cộng đồng. An sinh xã hội được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở Việt Nam, dưới góc độ pháp lý, phạm vi an sinh xã hội thường được hiểu theo nghĩa hẹp, tức là chỉ bao gồm các vấn đề bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Khi được pháp luật đièu chỉnh, các quan hệ đó trở thành các quan hệ pháp luật an sinh xã hội tương ứng: quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội, quan hệ pháp luật về cứu trợ xã hội, quan hệ pháp luật về ưu đãi xã hội. 2. Đặc điểm Những quan hệ pháp luật an sinh xã hội cụ thể có đối tượng chủ thể khác nhau, mang những tính chất khác nhau để thực hiện những mục đích đa dạng của vấn đề an sinh xã hội nhưng vẫn có những nét chung nhất định có thể phân biệt loại quan hệ này với các quan hệ khác trong hệ thống các quan hệ bảo đảm xã hội (quan hệ an sinh xã hội hiểu theo nghĩa rộng) và các quan hệ chia sẻ rủi ro khác như: Thứ nhất, trong quan hệ pháp lụât an sinh xã hội, thông thường có một bên tham gia là Nhà nước. 11
  12. Nhà nước tham gia quan hệ này thông qua các cơ quan do Nhà nước thành lập hoặc các tổ chức được Nhà nước thừa nhận và trao trách nhiệm. Các chủ thể đại diện cho Nhà nước thường tham gia quan hệ pháp luật an sinh xã hội với tư cách là người thực hiện các chế độ an sinh xã hội bằng nguồn lực của mình, ngân sách Nhà nước hoặc với tư cách là người tổ chức và huy động các nguồn lực xã hội để nhà nước bổ sung cho các chế độ an sinh cố định trong những trường hợp cần thiết. Như vậy, có thể hiểu Nhà nước vừa là người đảm bảo tối thiểu các nhu cầu an sinh xã hội trong phạm vi quốc gia vừa là người tạo phong trào thực hiện các họat động tương trợ cộng đồng để các thành viên trong xã hội, thông qua Nhà nước, bù đắp những khoảng trống mà pháp luật an sinh xã hội không thể đáp ứng được do tính nghiêm trọng của rủi ro cần chia sẻ trong những trường hợp cá biệt hoặc để mục đích an sinh xã hội đạt được ở mức độ cao hơn. Thứ hai, tham gia quan hệ pháp luật an sinh xã hội có thể là tất cả các thành viên trong xã hội không phân biệt theo bất cứ tiêu chí nào. Khác với quan hệ tương trợ cộng đồng khác có giới hạn trong những phạm vi nhất định dựa trên cơ sở địa bàn sinh sống, tôn giáo, họ tộc hoặc các điều kiện tham gia khác, quan hệ pháp luật an sinh xã hội được hình thành trong phạm vi rộng lớn của quốc gia. Do Nhà nước, chủ thể đại diện cho toàn xã hội, tham gia với tư cách là một bên của quan hệ này nên tất cả các thành viên của xã hội trong phạm vi quốc gia đều có thể được hưởng trợ giúp. Để hưởng được một chế độ cụ thể nào đó chỉ phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế đã được pháp luật xác định, không có bất kỳ một giới hạn hoặc một sự phân biệt nào khác. Thậm chí, nhiều trường hợp không có sự phân biệt về quốc tịch như phần lớn các quan hệ xã hội được pháp luật quốc gia điều chỉnh. Ví dụ, khi có thiên tai, hoạn nạn xảy ra, mọi cá nhân trong phạm vi ảnh hưởng đều được nhận sự trợ giúp, không có sự phân biệt đó là người Việt Nam hay người nước ngoài để xác định quyền hoặc mức độ đảm bảo quyền trợ giúp của xã hội đối với mỗi cá nhân. Tuy nhiên, các quan hệ pháp luật an sinh xã hội được thiết lập theo nhiều tầng nấc để tạo thành một hệ thống các quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho nhau, đảm bảo an toàn ở những mức cần thiết trợ giúp cho tất cả các thành viên xã hội theo từng nhóm. Vì vậy, những nhóm quan hệ nhỏ trong hệ thống các quan hệ pháp luật an sinh xã hội như bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội đã quy định những điều kiện nhất định đối với những người được thụ hưởng. Đó không phải là giới hạn phạm vi tham gia loại quan hệ pháp luật này mà chỉ để đảm bảo công bằng, trên cơ sở nhu cầu của đối tượng đó, phù hợp với trình độ quản lý rủi ro của nhà nước. Mỗi thanh viên bất kỳ trong toàn xã hội đều có thể tham gia một hoặc một số quan hệ cụ thể thuộc hệ thống quan hệ pháp luật an sinh xã hội, phụ thuộc vào điều kiện thực tế của họ được pháp luật xác định. Tất cả các thành viên trong xã hội, nếu có công với nước sẽ được hưởng chế độ ưu đãi xã hội, nếu tham gia bảo hiểm xã hội sẽ được đảm bảo thu nhập khi ốm đau, tai nạn Ngay cả những người chưa được hưởng bất cứ một chế độ nào thì cũng không có nghĩa là họ không được chính sách an sinh xã hội bảo vệ. Thứ ba, chủ thể hưởng an sinh xã hội có quyền tham gia quan hệ pháp luật này ngay từ khi sinh ra. Đặc điểm này do an sinh xã hội là quyền của con người trong xã hội. Trước hết, nó là vấn đề đạo đức và nhân văn của xã hội loài người, không phụ thuộc vào sự phụ thuộc của pháp luật hay việc thực hiện nghĩa vụ của các cá nhân thành viên. Khi các nhà nước muốn khẳng định vị trí đại diện chính thức và quản lí toàn xã hội thì phải có trách nhiệm giải quyết, quản lý các vấn đề mà bản thân đời sống con người trong xã hội đề ra, trong đó những rủi ro cho cuộc sống của cá nhân thành viên hoặc của cả cộng đồng. Để đảm bảo quyền hưởng an toàn về đời sống cho các công dân và các thành viên khác trong cộng đồng xã hội. Nhà nước cho phép các cá nhân sinh sống trong phạm vi lãnh thổ mà mình quản lý được tham gia quan hệ pháp luật an sinh xã hội từ rất sớm, không phụ thuộc vào khả năng nhận thức hay sự đóng góp cho xã hội của họ. Nói cách khác, năng lực pháp luật hưởng an sinh xã hội của các công dân thường xuất hiện từ khi mới sinh 12
  13. ra, không phụ thuộc vào năng lực hành vi của họ. Đó cũng là đặc điểm của quan hệ pháp luật an sinh xã hội so với những quan hệ pháp luật khác. Thứ tư, quan hệ pháp luật an sinh xã hội được thiết lập chủ yếu trên cơ sở nhu cầu quản lý rủi ro, tương trợ cộng đồng trong xã hội. Như trên đã phân tích, có nhiều quan hệ được thiết lập để chia sẻ rủi ro trong đời sống con người. Trong đó, có những quan hệ hình thành trên cơ sở tình cảm, đạo đức hoặc sự tự nguyện vào lòng hảo tâm của cộng đồng xã hội; có những quan hệ kinh doanh, dịch vụ trên cơ sở đáp ứng nhu cầu chia sẻ rủi ro của các cá nhân trong xã hội. Riêng các quan hệ pháp luật an sinh xã hội hình thành trên cơ sở nhu cầu chung của xã hội, để quản lý và chia sẻ rủi ro cho cả cộng đồng, không phụ thuộc vào những quan hệ xã hội khác, không nhằm thực hiện mục đích khác. Trên cơ sở này, Nhà nước xác định những lọai quan hệ xã hội do pháp luật an sin xã hội điều chỉnh. Điều đó giải thích vì sao nhiều quan hệ mang tính chia sẻ rủi ro khác pháp luật an sinh xã hội không điều chỉnh song quan hệ bảo hiểm xã hội chủ yếu do người tham gia bảo hiểm đóng góp tài chính, có thực hiện cân đối thu chi lại vẫn thuộc hệ thống quan hệ pháp luật an sinh xã hội. Thứ năm, quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các chủ thể là trợ giúp và được trợ giúp vật chất, do Nhà nước đảm bảo thực hiện. Do mục đích của quan hệ pháp luật an sinh xã hội là đảm bảo an toàn về đời sống dân sinh (theo nghĩa hẹp) cho con người nên nội dung chính của quan hệ này là vấn đề trợ giúp vật chất cho các thành viên xã hội trong những trường hợp cần thiết. Điều đó không có nghĩa là việc trợ giúp vật chất quan trọng hơn những lĩnh vực trợ giúp khác mà nó chỉ ra lĩnh vực đặc thù làm nên thuộc tính của quan hệ an sinh xã hội. Các lĩnh vực khác trong xã hội như giáo dục đào tạo, việc làm và thu nhập, đảm bảo điều kiện sống hòa bình cho người dân cũng là những vấn đề rất quan trọng nhưng nó thuộc lĩnh vực bảo đảm xã hội nói chung. Đời sống của con người gắn liền với vấn đề "cơm, áo, gạo, tiền" nên khi gặp khó khăn về kiếm sống như tuổi già, tàn tật, mất nguồn nuôi dưỡng, mất phương tiện sinh sống do thiên tai thì xã hội phải trợ giúp cho thành viên của mình nguồn vật chất để đáp ứng nhu cầu thiết thực nhất đó." Có thực mới vực được đạo" cũng là thực tế chung trong đời sống con người. Vì vậy quyền và nghĩa vụ chủ yếu nhất của các bên trong quan hệ pháp luật an sinh xã hội được Nhà nước đảm bảo thực hiện là trợ giúp vật chất cho người cần trợ giúp. Chế độ trợ cấp vật chất cho người có đủ điều kiện luật định là nội dung chính xuyên suốt các chế độ an sinh xã hội không chỉ ở pháp luật Việt Nam mà còn là nội dung pháp luật của tất cả các nước có điều chỉnh loại quan hệ này. II. CÁC QUAN HỆ PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI CỤ THỂ 1. Quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội 1.1. Khái niệm và đặc điểm. a. Khái niệm Người lao động tham gia vào quan hệ lao động thường với mục đích để có thu nhập đảm bảo cuộc sống cho mình và gia đình. Khi họ gặp phải những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống như tai nạn lao động, bệnh tật hoặc đến lúc về già thì nguồn thu nhập thường xuyên đó thường bị mất hoặc bị giảm. Đặc biệt, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường còn làm xuất hiện một số rủi ro mới như mất việc làm, thất nghiệp Chính vì vậy, để ổn định cuộc sống, người lao động phải tìm các biện pháp đảm bảo thu nhập cho mình trong những trường hợp rủi ro nói trên. Một trong các biện pháp đó là tham gia bảo hiểm xã hội. Trong xã hội hiện đại, các nhà nước cũng nhận thức rằng người lao động là nguồn lực chính, là thành phần quan trọng nhất của xã hội. Nếu cuộc sống của người lao động gặp khó khăn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, đến vấn đề an sinh xã hội. Vì vậy, pháp luật an sinh xã hội của hầu hết các nước đều bắt đầu từ chế độ bảo hiểm xã hội. Cho đến nay, quan hệ bảo hiểm xã 13
  14. hội vẫn luôn được coi là nòng cốt của hệ thống quan hệ pháp luật an sinh xã hội. Theo yêu cầu chung của các hình thức bảo hiểm, bên có nhu cầu bảo hiểm, người lao động phải tham gia đóng quỹ theo quy định. Nhà nước tham gia với tư cách là người tổ chức, quản lý, bảo trợ cho hình thức bảo hiểm này để đảm bảo tính xã hội và mục đích tương trợ cộng đồng cho tất cả các thành viên. Việc xác định các đối tượng đóng quỹ, quản lý đúng quỹ, chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội phải thực hiện đúng mục đích, công bằng nên phải đặt trong khuôn khổ các quy định của pháp luật, được gọi là quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội. Như vậy, quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội là những quan hệ xã hội hình thành trong quá trình đóng góp và chỉ trả các chế độ bảo hiểm xã hội, được quy phạm pháp luật điều chỉnh. b. Đặc điểm Quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội cũng mang các đặc điểm chung của hệ thống các quan hệ pháp luật an sinh xã hội như: - Có một bên tham gia do Nhà nước thành lập và quản lý (cơ quan thực hiện bảo hiểm xã hội) và bên kia là bất kỳ người lao động nào trong xã hội, nếu có nhu cầu (bên tham gia và được hưởng bảo hiểm xã hội). - Tính chất của bảo hiểm xã hội cũng là tương trợ cộng đồng giữa những người lao động trong phạm vi quốc gia. - Mục đích của bảo hiểm xã hội cũng là bảo đảm thu nhập cho người lao động thông qua các chế độ trợ cấp bảo hiểm. Bên cạnh đó, quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội còn có một số đặc điểm riêng biệt so với các quan hệ pháp luật an sinh xã hội khác: - Thứ nhất, quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội chủ yếu mang tính bắt buộc và thường phát sinh trên cơ sở của quan hệ lao động. Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước, được áp dụng cho mọi người lao động. Tuy nhiên, bảo hiểm xã hội lại có tính bắt buộc đối với một số đối tượng lao động nhất định và đây là một trong những đặc trưng của quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội so với các quan hệ pháp luật an sinh khác. Nhìn chung, các thành viên xã hội tham gia quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội, quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội trên cơ sở tự nguyện vì những quan hệ pháp luật đó chỉ để đảm bảo quyền cho họ. Riêng quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội lại chủ yếu mang tính bắt buộc. Bởi vì, khác với các đối tượng khác trong hệ thống các quan hệ pháp luật an sinh xã hội, chế độ bảo hiểm xã hội để đảm bảo ổn định đời sống cho những người lao động có thu nhập. Khi có thu nhập thường xuyên, chính mỗi người đều phải có trách nhiệm tích lũy để phòng những rủi ro trong cụôc sống. Mặt khác, quy định bắt buộc của Nhà nước còn nhằm mục đích ràng buộc trách nhiệm của người sử dunhg lao động.Họ không chỉ phải trả tiền lương cho người lao động khi làm việc mà còn phải đóng quỹ bảo hiểm để đảm bảo đời sống cho người lao động khi ốm đau, tai nạn, già yếu Vì vậy, đối với những người lao động có việc làm thu nhập tương đối ổn định, dù muốn hay không, khi đã tham gia quan hệ lao động thì đồng thời họ và người sử dụng sức lao động của họ cũng phải tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Do đó, quan hệ pháp luật lao động được coi là cơ sở làm phát sinh các quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội chủ yếu. Theo pháp luật hiện hành, bảo hiểm xã hội bắt buộc áp dụng đối với các bên hợp đồng lao động có thời hạn từ 3 tháng trở lên. Khi tham gia quan hệ lao động, họ phải đóng góp bảo hiểm theo những mức nhất định đồng thời phải tham gia tất cả các chế độ bảo hiểm xã hội do Nhà nước quy định. Những quan hệ bảo hiểm bắt buộc này là nòng cốt hình thành quỹ bảo hiểm và tạo cơ sở để mở rộng và hoạch định chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện. - Thứ hai, trong quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội,người hưởng bảo hiểm có nghĩa vụ đóng góp để hình thành quỹ bảo hiểm. Trong các quan hệ pháp luật an sinh xã hội khác như quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội, quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội, những đối tượng được hưởng không phải đóng góp quỹ. Nguồn 14
  15. quỹ để thực hiện các chế độ đó được lấy chủ yếu từ ngân sách của Nhà nước và sự hỗ trợ của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Riêng trong quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm lại được hình thành trên sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm. Với tư cách là người tổ chức, thực hiện các chính sách xã hội, Nhà nước có trách nhiệm bảo trợ cho quỹ để đảm bảo thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đã được Nhà nước quy định. Đây cũng là điều dễ lý giải bởi người có nhu cầu bảo hiểm xã hội hoàn toàn khác so với những đối tượng được hưởng trong quan hệ ưu đãi xã hội và quan hệ cứu trợ xã hội là những người có công với nước cần được ưu tiên, ưu đãi hoặc những người yếu thế cần được trợ giúp. Còn trong quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội, người có nhu cầu bảo đảm cuộc sống, tham gia quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội là những người lao động có thu nhập. Khi còn sức lao động, còn khả năng lao động, người lao động tham gia quan hệ lao động, được hưởng lương và mang lại lợi nhuận cho người sử dụng lao động. Vì vậy, khi họ không còn khả năng lao động nữa hoặc họ bị suy giảm khả năng lao động thì sử dụng lao động phải có một phần trách nhiệm đối với họ. Về phía người lao động, họ cũng có trách nhiệm đối với chính bản thân mình: tích lũy đề phòng những bất trắc, rủi ro có tính tất yếu trong cuộc sống như ốm đau, tuổi già Nhà nước thì chỉ hỗ trợ cho quá trình tích lũy cá nhân trở thành sự tích lũy của cộng đồng để giảm thiểu mức để dành (đóng góp) nhưng lại tăng hiệu quả sử dụng quỹ do có sự tương trợ cộng đồng giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. Bởi vậy, họ phải đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội để bảo đảm cho mình và tương trợ lẫn nhau khi rủi ro xảy ra hoặc khi không còn tham gia quan hệ lao động nữa. c. Phân loại - Nếu căn cứ vào các khâu nghiệp vụ trong quá trình thực hiện bảo hiểm xã hội, có thể thấy bảo hiểm xã hội giống như các hình thức bảo hiểm khác, cũng bao gồm hai loại công việc khác nhau (hình thành quỹ và chi trả bảo hiểm) nên có thể chi sẽ quan hệ bảo hiểm xã hội thành hai quan hệ nhỏ: quan hệ pháp luật trong việc tạo quỹ bảo hiểm và quan hệ pháp luật trong việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội. Quan hệ pháp luật trong việc tạo quỹ bảo hiểm xã hội là quan hệ giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với người được hưởng bảo hiểm xã hội trong lĩnh vực chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Cách phân loại này giúp chúng ta hiểu chi tiết hơn về thực chất của các quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội, từ đó hình thành nên hệ thống các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tương ứng với từng quan hệ nhỏ. - Nếu căn cứ vào hình thức bảo hiểm xã hội, có thể chia các quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội thành quan hệ bảo hiểm xã hội bắt buộc và quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện. Quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc là quan hệ bảo hiểm phát sinh trên cơ sở các quy định bắt buộc của Nhà nước, để bảo hiểm thu nhập cho những lao động trong các quan hệ tương đối ổn định (còn gọi lao động trong khu vực chính quy, có kết cấu như: công chức, cán bộ nhà nước những chức danh chuyên trách trong lực lượng vũ trang và những người lao động có hợp đồng lao động với thời hạn ba tháng trở lên trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức. Đây là quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội chủ yếu, người lao động thuộc đối tượng này bắt buộc phải tham gia và được hưởng, chiếm số lượng lớn trong số những tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội. Quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện là những quan hệ bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa việc tổ chức, bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có nhu cầu bảo hiểm. Bảo hiểm xã hội tự nguyện chủ yếu được áp dụng đối với những người lao động không thuộc diện bảo hiểm xã hội bắt buộc (còn gọi là trong khu vực phi tập trung, phi kết cấu) nhưng có nhu cầu tham gia bảo hiểm, ví dụ như các lao động cá thể riêng lẻ, xã viên hợp tác xã không có hợp đồng lao động, những người lao động có hợp đồng lao động dưới ba tháng Hiện nay người có nhu cầu tham gia bảo hiểm tự nguyện chưa có nhiều nên hình thức này chưa được tổ chức rộng rãi. Thực tế ở Việt Nam mới chi có lĩnh vực bảo hiểm y tế được 15
  16. tổ chức theo loại hình tự nguyện. Vấn đề bảo hiểm tuổi già (hưu trí) đó được tổ chức thí điểm nhưng còn trong phạm vi hẹp ở một số tỉnh. Dự kiến trong tương lai, bảo hiểm tự nguyện sẽ được mở rộng đối với lĩnh vực bảo hiểm hưu trí. Cùng với sự phát triển của khu vực tư nhân, các quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ phát sinh ngày càng nhiều. Đến một mức nào đó, từ sự phát triển của các quan hệ pháp luật bảo hiểm nên những quỹ (tổ chức) bảo hiểm xã hội mới, làm thay đổi nhận thức và diện mạo của bảo hiểm xã hội Việt Nam. 1.2. Chủ thể của quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội Qua phân loại trên cũng có thể thấy quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội gồm 3 chủ thể chính: người tham gia bảo hiểm xã hội, người được hưởng bảo hiểm xã hội và cơ quan thực hiện bảo hiểm xã hội. Có thể hiểu vị trí, điều kiện tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội của các chủ thể này được pháp luật quy định như sau: a. Bên tham gia bảo hiểm xã hội Bên tham gia bảo hiểm xã hội là người có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Hiện nay, pháp luật quy định một trong những đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chủ yếu là người lao động. Như vậy, năng lực pháp luật và năng lực hành vi tham gia bảo hiểm xã hội của họ do khả năng lao động quyết định. Họ có thể là người tham gia do khả năng lao động có thu nhập. Khi có thu nhập bằng sức lao động của chính mình, người lao động có đủ điều kiện để tham gia quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội với tư cách là người tham gia bảo hiểm. Điều đó làm cho tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội khác với các quan hệ bảo hiểm khác. Nếu thuộc đối tượng bảo hiểm xã hội bắt buộc (như đã đề cập đến ở phần phân loại), người lao động tham gia bảo hiểm xã hội thông qua việc thực hiệc quy định đóng 5% tiền lương của mình vào quỹ bảo hiểm xã hội để bảo hiểm khi về hưu và chi phí tử tuất. Nếu không thuộc diện bảo hiểm bắt buộc, người lao động có thể tham gia hoặc không tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm, tùy thuộc cách lựa chọn của họ. Chính việc cho phép của pháp luật và sự lựa chọn của người tham gia bảo hiểm xã hội cũng là biểu hiện của năng lực pháp luật và năng lực hành vi tham gia bảo hiểm xã hội của họ. Nếu tham gia, họ cũng có thể chọn tham gia một hoặc một số hoặc tất cả các chế độ bảo hiểm xã hội mà Nhà nước (thông qua cơ qua bảo hiểm xã hội) tổ chức. Từ đó có thể thấy rằng những người tham gia bảo hiểm bắt buộc vẫn là đối tượng chính của bên tham gia bảo hiểm xã hội. Người sử dụng các lao động thuộc đối tượng bảo hiểm bắt buộc nói trên cũng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm xã hội. Có thể nói đây là chủ thể tham gia bảo hiểm đặc biệt của hình thức bảo hiểm xã hội, bởi vì, họ không chỉ đóng quỹ cho mình hưởng bảo hiểm mà chủ yếu đóng quỹ cho người lao động mà họ sử dụng được hưởng. Nhà nước bắt buộc họ đóng quỹ bảo hiểm xã hội cho người lao động do việc sử dụng sức lao động của người lao động chỉ có thể thực hiện được trong một thời hạn nhất định, phụ thuộc vào tuổi tác, sức khỏe con người. b. Bên hưởng bảo hiểm xã hội. Bên hưởng bảo hiểm xã hội là những cá nhân được nhận tiền bảo hiểm (còn gọi là trợ cấp bảo hiểm xã hội) từ quỹ bảo hiểm xã hội khi có đủ điều kiện bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội mang đặc điểm chung của hệ thống quan hệ pháp luật an sinh xã hội nên người hưởng bảo hiểm xã hội cũng có năng lực pháp luật hưởng bảo hiểm xã hội từ khi mới sinh ra, không phụ thuộc năng lực hành vi của họ. Hiện nay, theo quy định, người được hưởng bảo hiểm xã hội là người lao động đã hoặc đang tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội. Cũng có trường hợp người được hưởng bảo hiểm xã hội là một số thành viên trong gia đình người lao động. Đây cũng là chủ thể được hưởng bảo hiểm xã hội đặc thù của hình thức bảo hiểm xã hội bởi đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm xã hội là thu 16
  17. nhập của người lao động. Nguồn thu nhập này không chỉ là phương tiện để đảm bảo cuộc sống cho bản thân người lao động mà còn cho cả gia đình họ. Do đó, những ai được hưởng thu nhập của người lao động đều thuộc đối tượng được hưởng bảo hiểm xã hội khi thu nhập của người lao động bị mất hoặc bị giảm, không phân biệt họ có trực tiếp tham gia đóng bảo hiểm hay không. Tuy nhiên, để được hưởng một chế độ bảo hiểm bào đó, người lao động hoặc thành viên gia đình người lao động có những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Tùy theo mục đích, tính chất của từng chế độ mà pháp luật có những quy định khác nhau về điều kiện hưởng bảo hiểm. Trong đó, thời gian đóng bảo hiểm, tuổi đời, mức độ suy giảm khả năng lao động là d diều kiện chùn nhất để xác định người được hưởng bảo hiểm xã hội. Khi có đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật, họ được nhận bảo hiểm từ cơ quan thực hiện bảo hiểm. Hiện nay, pháp luật nước ta quy định người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội sau: - Chế độ ốm đau, dưỡng sức, phục hồi sức khỏe. - Chế độ thai sản - Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp - Chế độ hưu trí - Chế độ tử tuất - Chế độ thấp nghiệp c. Bên thực hiện bảo hiểm xã hội Bên thực hiện bảo hiểm xã hội là cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức nhận chức năng thu quản lý và chi trả bảo hiểm cho người được bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Nếu xét trong phạm vi chủ thể của một quan hệ bảo hiểm nói chung, còn có thể gọi bên thực hiện bảo hiểm xã hội là bên nhận bảo hiểm xã hội. Ở những nước có nhiều tổ chức bảo hiểm xã hội độc lập với nhau, người ta thường gọi các tổ chức bảo hiểm xã hội đó là các quỹ bảo hiểm xã hội. Ở Việt Nam, cơ quan bảo hiểm xã hội được tổ chức thống nhất theo hệ thống từ trung ương đến địa phương. Hệ thống cơ quan bảo hiểm xã hội gồm có Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội gồm có Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt Nam, bảo hiểm xã hội Việt Nam, bảo hiểm xã hội tỉnh, bảo hiểm xã hội cấp quận, huyện. Đây là hệ thống cơ quan sự nghiệp về bảo hiểm xã hội, do Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo trực tiếp và do Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ, các cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp đều có tư cách pháp nhân, có trụ sở, tài khoản và con dấu riêng. 1.3. Nội dung quan hệ bảo hiểm xã hội Nội dung của quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội bao gồm quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ. Quyền của chủ thể này thường tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại. Tuy nhiên, khác với các quan hệ bảo hiểm khác, quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội có sự tham gia của ba chủ thể (như đã phân tích ở trên). Các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này được pháp luật quy định như sau: a. Quyền và nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm Bên tham gia bảo hiểm xã hội có nghĩa vụ: - Thực hiện trích nộp, đóng bảo hiểm xã hội theo quy định. - Thức hiện đúng các quy định về lập hồ sơ, quản lý sổ bảo hiểm để làm căn cứ đóng và trả bảo hiểm xã hội. - Cung cấp thông tin trung thực liên quan đến bảo hiểm xã hội với các cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó họ có các quyền: - Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng với quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. 17
  18. - Khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc cá nhân, tổ chức khác có hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm. b. Quyền và nghĩa vụ của bên hưởng bảo hiểm xã hội Các quyền của người được hưởng bảo hiểm xã hội - Được nhận sổ bảo hiểm xã hội - Được nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời thuận tiện khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; - Có quyền khiếu nại hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp khi quyền bảo hiểm của họ bị xâm phạm. Các nghĩa vụ của người hưởng bảo hiểm xã hội: - Cung cấp thông tin trung thực về bảo hiểm xã hội với cơ quan có thẩm quyền. - Có nghĩa vụ thực hiện đúng các quy định về lập hồ sơ để hưởng bảo hiểm xã hội. - Bảo quản, sử dụng sổ bảo hiểm xã hội và hồ sơ bảo hiểm xã hội đúng mục đúch, đúng quy định. c. Nhiệm vụ và quyền hạn của bên thực hiện bảo hiểm xã hội Với tư cách là cơ quan nhà nước có chức năng tổ chức và thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bên thực hiện bảo hiểm xã hội có quyền và trách nhiệm sau: - Tổ chức, chỉ đạo thức hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, thu các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện, chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội kịp thời đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn. - Lưu giữ hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội, cấp sổ và các loại thẻ bảo hiểm xã hội theo quy định. - Quản lý, sử dụng và hạch toán quỹ bảo hiểm xã hội, cấp sổ và các loại thẻ bảo hiểm xã hội theo quy định. - Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và thực hiện đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. - Tổ chức các phương thức quản lý, hợp tác với các đơn vị sử dụng lao động, cơ sở khám chữa bệnh. để thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội có hiệu quả. - Từ chối việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội khi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội không đủ điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định hoặc khi có căn cứ pháp lý về hành vi man trá, làm giả hồ sơ để hưởng bảo hiểm xã hội. - Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật; - Giải quyết kịp thời và đúng đắn các khiếu nại, tố cáo của tổ chức và cá nhân về thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, với tư cách là cơ quan sự nghiệp đầu nghành của Nhà nước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam còn có quyền và trách nhiệm trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, kiến nghị Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước hữu quan về vịêc sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo hiểm xã hội; thực hiện báo cáo về thu, chi và các họat động của bảo hiểm xã hội với các cơ quan quản lý của Nhà nước có thẩm quyền, tuyên truyền vận động để mọi người tham gia bảo hiểm xã hội 2. Quan hệ pháp luật về ưu đãi xã hội. 2.1. Khái niệm đặc điểm a. Khái niệm Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử của nước ta, đất nước đã trải qua một thời gian dài có chiến tranh, một bộ phận dân cư, nhiều thế hệ đã có những đóng góp, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Họ có thể đã hy sinh cả tính mạng, một phần thân thể và cả những người thân yêu của mình cho đất nước. Ngày nay, khi đất nước đã bình yên và phát triển, 18
  19. họ trở thành những người có công với nước, được Nhà nước và dân tộc ghi nhận. Những người có công hoặc người thân của họ xứng đang được hưởng những chế độ ưu tiên, ưu đãi đó không chỉ dựa vào lòng biết ơn của các thành viên trong xã hội mà phải được pháp luật ghi nhận, trở thành trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà nước và quyền của người có công. Việc thực hiện trách nhiệm đó đã hình thành nên quan hệ giữa Nhà nước, người ưu đãi và những người có công được ưu đãi. Đó là một trong những quan hệ xã hội quan trọng được pháp luật điều chỉnh, trở thành quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội. Như vậy, quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội là quan hệ xã hội hình thành trong việc Nhà nước ưu đãi người có công và một số thành viên gia đình họ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. b. Đặc điểm Ngoài các đặc điểm chung của hệ thống quan hệ pháp luật an sinh xã hội, quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội còn có những đặc điểm riêng sau: Thứ nhất, căn cứ chủ yếu để xác định chủ thể ưu đãi là sự đóng góp đặc bịêt của họ hoặc thân nhân của gia đình họ cho xã hội. Đó là điểm khác biệt của quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội nếu so sánh nó với các quan hệ pháp luật khác trong hệ thống quan hệ pháp luật an sinh xã hội. Những đóng góp của họ không nhằm mục đích và không thể tính toán giá trị hoàn trả, bù đắp. Ngoài căn cứ đặc biệt này, việc xác định chủ thể được thụ hưởng trong quan hệ ưu đãi cũng căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của đối tượng, như các quan hệ an sinh khác. Tuy nhiên, đó không phải là căn cứ chính xác định chủ thể trong quan hệ ưu đãi xã hội. Thứ hai, quan hệ pháp luật ưu đãi xã họi được thiết lập không chỉ nhằm mục đích tương trợ cộng đồng mà chủ yếu để thực hiện sự ưu đãi của Nhà nước đối với người có công. Nhìn chung, các quan hệ pháp luật an sinh xã hội đều thể hiện mục đích chính là để tương trợ cộng đồng trong xã hội. Quan hệ ưu đãi xã hội cũng thể hiện mục đích này trong việc xác định đối tượng được hưởng chủ yếu là những người gặp khó khăn như người bị thương tật, người già, trẻ mồ côi Tuy nhiên, cũng như đặc điểm trên, đó không phải là mục đích chính của việc thiết lạp quan hệ pháp luật này. Nếu chỉ để trợ giúp những đối tượng đó thì không cần phải hình thành chế độ ưu đãi xã hội riêng mà họ có thể được giúp đỡ thông qua các loại chế độ an sinh xã hội như bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội. Khác với hệ thống an sinh xã hội của nhiều nước khác, hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam xác định chế độ ưu đãi xã hội là một trong những nội dung quan trọng, để thực hiện mục đích chủ yếi là ưu tiên, ưu đãi đối với những người có công. Vì vậy, chủ thể hưởng ưu đãi là người có công, thường được trợ cấp ưu đãi cao hơn các mức trợ cấp khác trong hệ thống an sinh xã hội. Thậm chí Nhà nước chủ trương đảm bảo mức ưu đãi xã hội cao hơn mức sống trung bình của người dân. Nội dung ưu đãi xã hội cũng rộng rãi hơn các chế độ an sinh khác. Người được ưu đãi không chỉ được trợ cấp đảm bảo cuộc sống mà còn được hưởng các chế độ ưu đãi toàn diện về y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở và các ưu đãi về đời sống tinh thần, bao hàm hầu hết các nhu cầu thiết yếu của con người trong xã hội. Tuy nhiên, điều đó không làm mất đi tính chất an sinh xã hội của quan hệ này bởi vì chỉ có những đối tượng có cống hiến của mình cho Tổ quốc mới được xác định là chủ thể được ưu đãi. Những người có công trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa nghệ thuật, thể thao cống hiến và mang lại vinh quang cho dân tộc, được tôn vinh các danh hiệu, ví dụ: Thầy thuốc ưu tú, nhà giáo nhân dân nhưng họ không gặp khó khăn trong cuộc sống vì những gì đã cống hiến cho đất nước nên không phải là chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội. 2.2. Chủ thể của quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội. a. Người ưu đãi Người ưu đãi trong quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội là người đảm bảo thực hiện các chế độ ưu đãi đối với người có công theo quy định của pháp luật. Nhà nước là chủ thể có trách nhiệm 19
  20. thực hiện chế độ này bởi người được ưu đãi xã hội là những người có công với nước. Vì vậy, có thể gọi bên người ưu đãi trong quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội là cơ quan ưu đãi xã hội. Hệ thống các cơ quan nhà nước thực hiện chế độ ưu đãi đối với người có công bao gồm: ở cấp trung ương có Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội, cụ thể là Cục thương binh, liệt sỹ và người có công thuộc Bộ, ở cấp tỉnh có Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, cụ thể là Phòng Thương binh, liệt sỹ và người có công thuộc trực thuộc Sở, cấp huyện là Phòng Lao động - Thương binh và xã hội trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện. Phòng này thường ký hợp đồng trách nhiệm với các Ủy ban nhân dân cấp Xã chi trả trực tiếp các chế độ ưu đãi người có công và tạm ứng, thanh quyết toán theo quy định về tài chính. Trực thuộc các cơ quan hành chính nói trên còn có các đơn vụ sự nghiệp thực hiện các chế độ ưu đãi xã hội như các cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng, điều trị, phục hồi chức năng được Nhà nước phân cấp quản lý. Bên cạnh các cơ quan chức năng thực hiện các chế độ ưu đãi ổn định, Nhà nước còn tổ chức Quỹ "đền ơn đáp nghĩa" ở tất cả các cấp hành chính để vận động ủng hộ tự nguyện của các cá nhân, tổ chức và tiếp nhận sự ủng hộ trong nước và quốc tế để cùng Nhà nước chăm sóc người có công. Các cơ quan, tổ chức nói trên có thẩm quyền và phải thực hiện chức năng ưu đãi xã hội từ thời điểm được Nhà nước thành lập. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân khác nếu có khả năng và lòng hảo tâm cũng có thể thực hiện ưu đãi đối với những người có công như xây nhà tình nghĩa, nuôi dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng trên cơ sở tình cảm và nhận thức về trách nhiệm xã hội của mình. Tuy nhiên, quan hệ này chỉ thuần túy là quan hệ xã hội, không phải là quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội do pháp luật của Nhà nước không điều chỉnh. b. Người được ưu đãi Người được ưu đãi là những người được trực tiếp hưởng các chế độ ưu đãi xã hội theo quy định của pháp luật do có những đóng góp hy sinh hoặc có người thân đóng góp hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đó có thể là bà mẹ Vịêt Nam anh hùng, các anh hùng thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, thanh niên xung phong Những chủ thể này được quyền hưởng các chế độ ưu đãi xã hội nếu có đủ điều kiện và hoàn tất các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào năng lực hành vi của họ Nhìn chung, mức ưu đãi cũng như chế độ ưu tiên, ưu đãi phụ thuộc vào mức độ đóng góp, cống hiến, hy sinh của người có công đối với đất nước và hoàn cảnh của người được ưu đãi. 2.3. Nội dung của quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội a. Quyền và nghĩa vụ của người ưu đãi - Thực hiện các thủ tục xác nhận, công nhận, lưu trữ hồ sơ và quản lý đối tượng thuộc diện ưu đãi xã hội theo chức năng hoặc theo sự phân cấp của Nhà nước. - Thực hiện chi trả các chế độ trợ cấp ưu đãi, chế độ nuôi dưỡng, điều dưỡng, phục hồi chức năng cho người được ưu đãi theo quy định của pháp luật. - Từ chối chi trả chế độ ưu đãi cho những đối tượng có hành vi gian dối, giả mạo giấy tờ để hưởng chế độ ưu đãi. - Quản lý phần mộ liệt sỹ, các công trình ghi công, tổ chức thăm viếng nghĩa trang liệt sỹ theo sự phân cấp của Nhà nước. - Trả lời đơn thư khiếu nại của các tập thể, cá nhân về việc thực hiện các chính sách, chế độ ưu đãi xã hội theo thẩm quyền. Ngoài ra, với tư cách là một cơ quan chức năng của Nhà nước, các cơ quan thực hiện ưu đãi xã hội còn có quyền và trách nhiệm trong việc tham gia xây dựng và hướng dẫn thực hiện pháp luật về ưu đãi xã hội; tuyên truyền pháp luật và vận động phong trào toàn dân chăm sóc người có công, đền ơn đáp nghĩa 20
  21. b. Quyền và nghĩa vụ của người được ưu đãi - Được hưởng ưu đãi trợ cấp, các ưu đãi khác và chế độ nuôi dưỡng, điều dưỡng, phục hồi chức năng tùy từng đối tượng luật định. - Thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về điều kiện, thủ tục để hưởng chế độ ưu đãi. - Không được có những hành vi gian dối, giả mạo giấy tờ để hưởng chế độ ưu đãi xã hội. 3. Quan hệ pháp luật về cứu trợ xã hội 3.1. Khái niệm và đặc điểm a. Khái niệm Trong cuộc sống, một số người không may gặp phải những rủi ro do thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác mà bản thân họ cũng như những người thân của họ không thể tự khắc phục được. Bên cạnh đó, còn có một số người bị thiệt thòi, yếu thế bởi nhiều lý do khác nhau như người gìa cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật. Những đối tượng này cần đến sự trợ giúp của nhà nước, của xã hội, của cộng đồng để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, có điều kiện để tồn tại và có cơ hội tái hòa nhập vào cộng đồng. Với tư cách là chủ thể quản lý và đại diện chính thức cho toàn xã hội, các nhà nước cũng đảm bảo và tổ chức cả cộng đồng thực hiện việc trợ giúp cho các gia đình, cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn nói trên. Tuy là vấn đề trợ giúp nhưng nó cũng thuộc lĩnh vực phân phối trong xã hội, đặc biệt khi ngân sách Nhà nước vẫn là nguồn tài chính chủ yếu để thực hiện nên cần có sự công bằng và hợp lý theo những nguyên tắc chung. Để đảm bảo yêu cầu đó, pháp luật cũng điều chỉnh vấn đề này ở mức độ phù hợp. Quan hệ cứu tế, trợ giúp của nhà nước, xã hội và cộng đồng đối với những đối tượng nói trên trong khuôn khổ những quy định của pháp luật được gọi là quan hệ pháp luật về cứu trợ xã hội. Như vậy, quan hệ hợp pháp về cứu trợ xã hội là những quan hệ xã hội hình thành trong việc người cứu trợ hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất và nhu cầu thiết yếu để giải quyết khó khăn cho người cần cứu trợ, được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. b. Đặc điểm Quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội cũng có đầy đủ các đặc điểm của QHPL an sinh xã hội như: không hạn chế đối tượng tham gia mục đích chủ yếu là tương trợ cồng đồng được thể hiện rất rõ nét trong quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội. Bên cạnh đó, là một nhánh của quan hệ pháp lụât an sinh, quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội còn có một số đặc điểm riêng như sau: Thứ nhất, trong quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội, chủ thể tham gia với tư cách là người cứu trợ đa dạng. Nếu trong quan hệ bảo hiểm xã hội, người thực hiện bảo hiểm là một tổ chức thống nhất do nhà nước thành lập (Bảo hiểm xã hội Việt Nam), trong quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội, người thực hiện ưu đãi là cơ quan nhà nước (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục Thương binh liệt sỹ và người có công) thì trong quan hệ cứu trợ xã hội, bên cạnh chủ thể có trách nhiệm chính là Nhà nước, còn có nhiều chủ thể khác có thể tham gia với tư cách là người cứu trợ. Bất cứ cá nhân, tổ chức nào, không phân biệt trong nước hay ngoài nước, quốc tế nếu có khả năng và lòng hảo tâm đều có thể tham gia với tư cách là người cứu trợ, giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó khăn, thiên tai, túng thiếu Những quan hệ cứu trợ này tùy trường hợp, căn cứ vào quy mô tổ chức, phạm vi cứu giúp mà có thể thông qua Nhà nước được pháp luật điều chỉnh hoặc không. Như vậy, Nhà nước là chủ thể chính tham gia quan hệ pháp luật cứu trợ với tư cách là người cứu trợ. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể tham gia với tư cách là người tổ chức và huy động các nguồn lực cứu trợ trong xã hội, người tạo điều kiện thuận lợi cho các họat động đó được thực hiện và kiểm soát các quan hệ cứu trợ ở mức độ cần thiết Nhà nước không phải lúc nào cũng tham gia với tư cách là người cứu trợ, không phải là người cứu trợ duy nhất. Thứ hai, trong quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội, không có nghĩa vụ đóng góp của người được cứu trợ. 21
  22. Trong hệ thống các quan hệ pháp luật an sinh xã hội, người được đảm bảo an toàn trong đời sống thường có nghĩa vụ đóng góp cho xã hội với những hình thức, mức độ nhất định. Sự đóng góp này có thể là số tiền nộp quỹ của người tham gia bảo hiểm như trong quan hệ pháp luật bảo hiểm xã hội; hoặc là sức lực, tuổi trẻ, máu xương của những người có công như trong quan hệ pháp luật ưu đãi. Điều đặc biệt trong quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội là người được cứu trợ không phải đóng góp bất kỳ khoản nào vào quỹ cứu trợ, cũng không nhất thiết phải có điều kiện đóng góp cho xã hội. Bất kỳ thành viên nào trong xã hội gặp hoàn cảnh khó khăn mà pháp luật đã quy định cũng đều có thể được trợ giúp theo mức luật định. Nguồn tài chính thực hiện họat động này chủ yếu được lấy từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn ủng hộ của các tổ chức, cá nhân của cộng đồng trong nước, quốc tế. Điều đó được thực hiện trên cơ sở đối tượng cứu trợ thường là những người có hoàn cảnh hết sức khó khăn, cần có sự giúp ngay, không thể căn cứ vào cuộc sống trước đó, cũng không thể phụ thuộc vào việc thực hiện các nghĩa vụ của họ. Thứ ba, đối với các quan hệ cứu trợ xã hội, pháp luật chỉ chi phối, điều chỉnh ở mức độ nhất định. So với các quan hệ pháp luật an sinh khác, sự tác động của pháp luật tới các quan hệ cứu trợ xã hội thường ở mức độ thấp hơn. Pháp luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cứu trợ do Nhà nước thực hiện từ ngân sách. Đối với các quan hệ do cá nhân, tổ chức, cộng đồng, dân cư trong và ngoài nước thực hiện bằng nguồn tài chính của họ thì Nhà nước cần tác động ở mức độ nhất định để đảm bảo thực hiện đúng mục đích, đặc biệt đối với những trường hợp quy mô tổ chức và phạm vi thực hiện cứu trợ tương đối lớn, có tính ổn định. Ví dụ, người cứu trợ muốn mở trại an dưỡng, cơ sở dạy nghề hoặc cơ sở giáo dục cho một số đối tượng cần trợ giúp thì phải được Nhà nước cho phép và giám sát hoạt động chặt chẽ để đảm bảo cơ sở thực hiện đúng mục đích hoạt động cũng như đảm bảo quyền lợi cho những người được trợ giúp. Đó chỉ là quan hệ cứu trợ xã hội không phải là quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội, trước hết phải là vấn đề đạo lý, vấn đề xã hội, không thể chỉ là vấn đề pháp lý đơn thuần. Cũng vì vậy, quan hệ cứu trợ xã hội bao gồm cả quan hệ công và quan hệ tư; có thể là quan hệ pháp luật nhưng cũng có thể chỉ là quan hệ xã hội thuần túy. 3.2. Chủ thể của quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội Chủ thể của quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội là các bên tham gia quan hệ đó theo quy định của pháp luật, gồm bên thực hiện cứu trợ và người được cứu trợ. a. Bên thực hiện cứu trợ Bên thực hiện cứu trợ trong quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội là những cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện việc cứu tế, trợ giúp đối với người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn theo quy định của pháp luật. Họ có thể là những người có khả năng và có lòng hảo tâm giúp đỡ người khác. Đối với các cơ quan, tổ chức, năng lực pháp luật và năng lực hành vi cứu trợ xã hội xuất hiện khi cơ quan, tổ chức đó được thành lập. Đối với các cá nhân tham gia quan hệ với tư cách là người cứu trợ, năng lực pháp luật cứu trợ xã hội phụ thuộc vào quy định của pháp luật dân sự khi cá nhân có khả năng thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản riêng của mình một cách độc lập. Năng lực hành vi cứu trợ xã hội phát sinh khi cá nhân đó có năng lực pháp luật dân sự và có tài sản để thực hiện việc cứu trợ xã hội. Theo pháp luật hiện hành, Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ cho các công dân của mình khi họ lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Nhà nước thực hiện việc cứu trợ thông qua Ủy ban nhân dân các cấp, nơi người thuộc diện cứu trợ xã hội cư trú hoặc thông qua các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước. Các cơ sở bảo trợ xã hội này do cơ quan lao động cấp tỉnh quản lý và kinh phí họat động chủ yếu được lấy từ ngân sách của nhà nước. Bên cạnh hệ thống cơ quan nhà nước, các quỹ từ thiện, các cơ sở bảo trợ tư nhân họat động theo quy định của pháp luật cũng trở thành những người cứu trợ trong quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội. Điều 4 Nghị định số 07/2000/NĐ-CP của Chính phủ có quy định: "Tổ chức và cá nhân có đủ điều kiện về cơ sở vật chất và nguồn tài chính 22
  23. để nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người tàn tật, người già cô đơn lâu dài với mức tối thiểu trở lên theo quy định của pháp luật, phù hợp với quy hoạch của nhà nước, không yêu cầu Nhà nước hỗ trợ kinh phí được phép thành lập cơ sở bảo trợ xã hội". Ngoài ra, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước có lòng hảo tâm và có khả năng cũng có thể thực hiện việc cứu trợ xã hội. Họ có thể tham gia cứu trợ bằng cách đóng góp vào quỹ cứu trợ hoặc cũng có thể thành lập các cơ sở bảo trợ xã hội nếu có điều kiện. Nếu họ ủng hộ trực tiếp cho đối tượng được cứu trợ như ủng hộ đồng bào lũ lụt thì họ cũng có thể trở thành người cứu trợ nhưng như đã phân tích ở trên, quan hệ cứu trợ đó luật pháp thường không điều chỉnh. Họ có thể thực hiện điều đó theo ý nguyện riêng của mình hoặc theo sự phát động của các cơ quan tổ chức hữu quan nhưng không phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bên thực hiện cứu trợ do pháp luật quy định. b. Người được cứu trợ Người được cứu trợ là những cá nhân, hộ gia đình, những thành viên trong xã hội thực sự đang gặp hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh. Cũng như các quan hệ hợp pháp luật an sinh khác, pháp luật cho phép các cá nhân có quyền hưởng cứu trợ xã hội từ khi mới sinh ra. Họ có thể thực hiện quyền đó độc lập hoặc thông qua người đại diện, người giám hộ hợp pháp hoặc thông qua các cơ sở bảo trợ xã hội mà họ đang sinh sống, tùy thuộc vào năng lực hành vi của họ. Tuy nhiên, không có nghĩa là tất cả các cá nhân trong xã hội cho rằng mình đang rủi ro bất hạnh, xin được trợ cấp thì đều có thể được hưởng trợ cấp. Để được hưởng chế độ cứu trợ trên thực tế, họ phải thuộc những trường hợp pháp luật quy định và phải được địa phương (nơi họ cư trú) xác nhận. Theo quy định của pháp luật, đối tượng được cứu trợ bao gồm trẻ em mồ côi, người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật nặng, người tâm thần mãn tính. Những người này do không thể tự lo được cuộc sống của chính bản thân mình và cũng không có người thân nuôi dưỡng nên thường là những đối tượng được hưởng chế độ cứu trợ thường xuyên, có thể tại nơi cư trú hoặc tại các cơ sở bảo trợ xã hội. Ngoài ra, một số cá nhân hoặc hộ gia đình gặp khó khăn do hậu quả của thiên tai hoặc những khó khăn khác cũng được cứu trợ từ phía Nhà nước hoặc cộng đồng. Tuy nhiên, những đối tượng này thường chỉ được hưởng cứu trợ đột xuất (cứu trợ một lần) bởi hoàn cảnh khó khăn đối với họ chỉ có tính thời điểm, sau đó tự bản thân họ có thể khắc phục được hoàn cảnh đó. Nếu không khắc phục được, đủ điều kiện để cứu trợ thường xuyên thì họ cũng được hưởng chế độ này. 3.3. Nội dung của quan hệ pháp luật cứu trợ xã hội Đối với các quan hệ cứu trợ xã hội do pháp luật điều chỉnh, các bên quan hệ cũng có những quyền và nghĩa vụ pháp lý như những quan hệ pháp luật khác. Cụ thể: a. Các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng cứu trợ xã hội của Nhà nước, các cơ sở bảo trợ xã hội có quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây: - Quản lý đối tượng thuộc diện cứu trợ xã hội theo sự phân cấp của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo chức năng đã được xác định. - Có trách nhiệm thực hiện các chế độ cứu trợ xã hội kịp thời, đúng pháp luật; - Tiếp nhận, sử dụng và quản lý các nguồn kinh phí và hiện vật do các tổ chức cá nhân đóng góp và giúp đỡ từ thiện, bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng. b. Người được cứu trợ có quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây: - Được hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng tùy thuộc đối tượng cứu trợ do pháp luật quy định; - Nếu thuộc diện nuôi dưỡng tại các cơ sở tập trung, được trợ cấp bằng hiện vật đối với các nhu cầu sinh họat thiết thực. - Được tạo điều kiện trong học nghề và việc làm (đặc biệt đối với trẻ mồ côi). - Được trợ giúp về y tế, giáo dục tùy thuộc từng đối tượng. - Người được cứu trợ cũng phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật về thủ tục cứu trợ, trung thực về điều kiện cứu trợ. 23
  24. CHƯƠNG III PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội a. Sơ lược lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội Việt Nam. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, con người thông qua lao động để nuôi sống bản thân mình. Song không phải lúc nào lao động cũng tạo ra của cải vật chất tạo ra thu nhập để phục vụ cho con người. Con người có lúc phải đối mặt với những khó khăn do tự nhiên đem lại hoặc gặp những biến cố rủi ro bất ngờ xảy ra như bị ốm đau, bị tai nạn, bị mất khả năng lao động hay suy giảm khả năng lao động Điều này dẫn đến việc con người phải nương tựa vào nhau và cùng giúp đỡ nhau để giải quyết vấn đề bằng nhiều cách khác nhau. Trong xã hội khi con người gặp những biến cố trên họ liên kết với nhau trên tinh thần đoàn kết tương trợ giữa các thành viên trong cộng đồng để gánh vác sẻ chia bớt khó khăn. Và một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để dàn trải những rủi ro bất lợi cho người lao động là tiến hành lập một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia và tiến hành bảo hiểm cho các đối tượng người lao động trong phạm vi của quỹ này. Việc người lao động tham gia vào bảo hiểm thông qua quá trình tạo lập quỹ và phân phối quỹ có rất nhiều ý nghĩa khác nhau: Thứ nhất, trợ giúp một phần vật chất cần thiết cho người lao động trong các trường hợp người lao động bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hay các khó khăn, rủi ro khác xảy ra. Thứ hai, hoạt động bảo hiểm xã hội có thể bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người lao động góp phần làm cho đời sống kinh tế của người lao động được giữ vững ổn định. Khi cuộc sống của người lao động đảm bảo, ổn định sẽ hạn chế sự phân biệt đối xử, giảm bớt sự phân cách giau nghèovà sự cùng khổ của người lao động cũng như những người cao tuổi, những người tàn tật mất sức lao động giúp cho người lao động an tâm làm việc khi còn sức lao động, góp phần ổn định xã hội, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước. Thứ ba, hoạt động của bảo hiểm sẽ giúp cho người sử dụng lao động duy trì được sức lao động xã hội ổn định sự phát triển của doanh nghiệp và quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ tư, trên cơ sở hoạt động của bảo hiểm xã hội, nhà nước là chủ thể trung gian điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp người lao động và các tầng lớp dân cư trong các độ tuổi khác nhau, đảm bảo sự công bằng xã hội đối với mọi người lao động trong các khu vực kinh tế khác nhau. Thứ năm, hoạt động của bảo hiểm xã hội sẽ ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động với người lao động, của người sử dụng lao động, người lao động đối với nhà nước. Bảo hiểm xã hội lần đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ XIX dưới thời thủ tướng Bismark(1883-1889) để trợ giúp cho người lao động do gặp rủi ro biến cố mà bị suy giảm hay mất khả năng lao động dẫn đến bị suy giảm hay mất thu nhập. Trong hệ thống bảo hiểm xã hội này đã tồn tại các chế độ như: chế độ bảo hiểm ốm đau do những người lao động buộc phải đóng góp; chế độ tai nạn lao động do giới chủ doanh nghiệp đóng góp để bảo vệ tính mạng sức khoẻ của giới thợ trong doanh nghiệp; chế độ bảo hiểm tuổi già và tàn tật do ngân sách tài trợ theo trách nhiệm quản lý xã hội. Có thể nói, bảo hiểm xã hội của Đức ra đời, tồn tại và phát triển đã đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội trên thế giới. Đặc biệt là việc ghi nhận cơ chế ba bên trong việc đóng góp quỹ bảo hiểm xã hội bao gồm: giới chủ, giới thợ và nhà nước. Ở Việt Nam quá trình phát triển của bảo hiểm xã hội trải qua các giai đoạn sau: 24
  25. * Giai đoạn trước năm 1945: Trước năm 1945 ở Việt Nam chưa có pháp luật bảo hiểm xã hội vì thực dân Pháp đang đô hộ nước ta. Trong giai đoạn này, Pháp đã áp dụng một số chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội như đau ốm, tai nạn, hưu trí nhưng chỉ hạn chế trong phạm vi công chức và quân nhân Việt Nam hưởng lương phục vụ cho bộ máy hành chính và lực lượng vũ trang của Pháp. * Giai đoạn từ 1945-1959: Sau cách mạng tháng 8 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân trong đó Điều 14 Hiến pháp 1946 có xác định quyền được trợ cấp của người già và người tàn tật. Tiếp đó ngày 12.3.1947 Chủ tịch nước Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 29/SL quy định chế độ trợ cấp cho công nhân. Ngày 20.5.1950 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh76/SL; sắc lệnh 77/SL ghi nhận chế độ đau ốm, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ, công nhân viên chức. * Giai đoạn từ 1960-1994: Giai đoạn này đã xây dựng được một hệ thống trợ cấp bảo hiểm xã hội gồm các chế độ như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động, hưu trí, tử tuất, khám chữa bệnh miễn phí, trợ cấp thôi việc (NĐ 218/CP ngày 27.12.1961) * Giai đoạn 1995 đến nay: Giai đoạn này ban hành rất nhiều các văn bản khác nhau quy định về bảo hiểm xã hội. Hiến pháp 1992 ghi nhận: “ Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động. Đặc biệt, nhà nước ta đã ban hành Bộ luật lao động ngày 2.4.2002 NĐ 12/CP và NĐ12/CP ngày 26.1.1995 kèm theo điều lệ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức và người lao động; NĐ 01/CP ngày 9.1.2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo NĐ12/CP và Luật bảo hiểm xã hội Quốc hội thông qua ngày 29/06/2006 quy định cụ thể các vấn đề của bảo hiểm xã hội như đối tượng tham gia, điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội, mức hưởng bảo hiểm xã hội, các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm xã hội, trách nhiệm của nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội và Nghị định 152/CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn Luật BHXH về BHXH bắt buộc. Tóm lại, hệ thống các văn bản pháp luật quy định về bảo hiểm xã hội đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia vào bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta chiếm vị trí quan trọng nhất và là thành phần chính của hệ thống bảo đảm xã hội ở các nước trên thế giới. b. Khái niệm bảo hiểm xã hội. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về bảo hiểm xã hội. - Dưới góc độ xã hội thì bảo hiểm xã hội được coi là sự liên kết của những người lao động xuất phát từ lợi ích chung của xã hội, của người lao động và người sử dụng lao động. Khi tham gia quan hệ này người lao động sẽ được hưởng một khoản trợ cấp nhất định nếu có những biến cố rủi ro trên cơ sở sự đóng góp của các bên. - Dưới góc độ kinh tế, bảo hiểm xã hội được coi là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích từ sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động theo quy định của pháp luật, nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ khi họ gặp những rủi ro dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng thanh toán từ thu nhập theo lao động. - Dưới góc độ pháp lý, bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, 25
  26. bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Bảo hiểm xã hội có những đặc trưng cơ bản sau: - Bảo hiểm xã hội chủ yếu mang tính bắt buộc đối với người lao động - Đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội gồm có người lao động và thành viên của họ khi thoả mãn các điều kiện pháp luật quy định. - Mức hưởng bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào mức đóng góp bảo hiểm xã hội, thời gian đóng góp bảo hiểm xã hội và sự kiện pháp lý kèm theo. - Mức đóng góp và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội dựa theo chính sách xã hội trong từng thời kỳ của Nhà nước theo nguyên tắc hoạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ - Mục tiêu hoạt động của bảo hiểm xã hội nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước, bảo đảm cho người lao động các khoản trợ cấp tối thiểu khi gặp những rủi ro bị mất hoặc giảm thu nhập - Bảo hiểm xã hội có sự tham gia đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước c.Chức năng của bảo hiểm xã hội. Chức năng của bảo hiểm xã hội là một loại phương diện hoạt động của bảo hiểm xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ mà bảo hiểm xã hội đặt ra. Bảo hiểm xã hội có các chức năng sau: * Chức năng hạn chế khó khăn về kinh tế cho người lao động được bảo hộ và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bi giảm hoặc mất khả năng lao động. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành trên cơ sở sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và một phần hỗ trợ của Nhà nước. Theo đó, người lao động khi đã tham gia đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với mức lương của mình họ sẽ được nhận trợ cấp bảo hiểm nếu có những sự kiện pháp lý kèm theo như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tử tuất Có thể nói, đây là một chức năng rất quan trọng nhằm bảo đảm thay thế hoặc bù đắp thu nhập cho người lao động, giúp cho người lao động và các thành viên gia đình họ đã tham gia bảo hiểm là được bảo hiểm, được duy trì một cuộc sống tương đối ổn định khi có những rủi ro xảy ra. * Chức năng phân phối lại thu nhập. Tài chính của bảo hiểm xã hội do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ một phần của Nhà nước để tạo lập một quỹ tài chính hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, công khai, hoạch toán độc lập và được nhà nước bảo hộ. Thông qua quỹ bảo hiểm xã hội này người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội họ sẽ được hưởng bảo hiểm xã hội khi có đủ các điều kiện theo pháp luật quy định. Như vậy, không phải tất cả mọi người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội là được hưởng trợ cấp. Chức năng phân phối lại thu nhập có nghĩa là những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội nhưng có sức khoẻ, có thu nhập ổn định cũng không được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. Chỉ có những người lao động gặp những biến cố rủi ro nhất định nếu họ đóng bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm sẽ hỗ trợ một phần thu nhập cho họ và thành viên gia đình họ. Người lao động khỏe mạnh đóng góp hỗ trợ cho người lao động đau yếu, phải nghỉ việc, người lao động trẻ đóng góp hỗ trợ cho những người đã hết tuổi lao động, những người đóng góp 26
  27. vào quỹ bảo hiểm xã hội thường thì hỗ trợ cho những người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội khi thoả mãn các điều kiện pháp luật quy định. * Chức năng hình thành một hệ thống an toàn cho xã hội. Có thể nói, quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành thông qua sự đóng góp của 3 bên đã tạo cơ sở quan trọng trong việc bảo đảm cuộc sống cho người lao động và thành viên gia đình của họ khi họ gặp những rui ro làm giảm hoặc mất thu nhập. Với phương thức lấy số đông những người tham gia bảo hiểm xã hội bù cho số ít những người thuộc diện được hưởng bảo hiểm xã hội làm cho không những người lao động mà người sử dụng lao động cũng được bảo vệ. Người lao động có cảm giác yên tâm, tích cực nhiệt tình trong công việc, người sử dụng lao động yên tâm đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Chức năng này có ý nghĩa đối với người lao động và người sử dụng lao động góp phần đảm bảo ổn định xã hội cho đất nước. Một khi đảm bảo quyền lợi vật chất cho người lao động thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nó sẽ tạo cơ sở vững chắc cho sự ổn định xã hội, đảm bảo sự an toàn cho quốc gia. 2. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội. - Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội. Hiệu quả của hoạt động bảo hiểm xã hội luôn tỉ lệ thuận với việc thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội của nhà nước. Nhà nước ban hành các chính sách, chế độ pháp luật về bảo hiểm xã hội chỉ đạo việc thực hiện và kiểm tra áp dụng bảo hiểm xã hội vào thực tế. Nhà nước quy định chính sách bảo hiểm xã hội nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, chăm sóc phục hồi sức khoẻ, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình trong trường hợp người lao động bị đau ốm, thai sản, hết tuổi lao động, chết, bị tai nạn lao động, bệnh nghề ngiệp, thất nghiệp gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Bên cạnh đó, nhà nước cũng là chủ thể tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội cùng với người sử dụng lao động và người lao động để bảo đảm cho quỹ bảo hiểm xã hội hoạt động. Trong đó nhà nước có trách nhiệm thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng cường của quỹ bảo hiểm xã hội. - Bảo hiểm xã hội hoạt động theo nguyên tắc phân phối trên cơ sở mức độ đóng góp và tương trợ cộng đồng. Người lao động khi tham gia vào quan hệ bảo hiểm xã hội phải đóng góp bảo hiểm xã hội trên cơ sở tiền lương và họ sẽ được hưởng bảo hiểm xã hội khi có đủ điều kiện quy định. Mức trợ cấp được hưởng phụ thuộc vào mức đóng góp cho xã hội, thời gian đóng góp và sự kiện pháp lý kèm theo(tỷ lệ suy giảm hay mất khả năng lao động, thai sản, ốm đau, chết ) Tỷ lệ đóng góp bảo hiểm xã hội và mức hưởng trợ cấp của người lao động luôn có mối liên hệ mật thiết với thu nhập của người được bảo hiểm. Nguyên tắc bảo hiểm xã hội trên cơ sở phân phối theo lao động luôn đảm bảo yếu tố công bằng hợp lý. Người lao động phải tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội mới được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, nguyên tắc này còn chịu ảnh hưởng bởi yếu tố cộng đồng. Điều này có nghĩa là không phải bất kỳ người lao động nào khi tham gia đóng bảo hiểm xã hội đều được hưởng bảo hiểm xã hội. Người lao động cùng với người sử dụng lao động và nhà nước cùng tạo lập hình thành một quỹ bảo hiểm xã hộiđộc lập và tập trung trong đó đa số những người đóng góp bảo hiểm xã hội sẽ hỗ trợ cho số những người có đủ điều kiện hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc “ lấy số đông bù số ít.” Có thể nói, hình thức tham gia bảo hiểm xã hội là một hình thức chia sẽ rủi ro trên cơ sở sự hỗ trợ của cộng đồng. Sự phối hợp chặt chẽ của hai nguyên tắc này vừa thể hiện sự bình đẳng giữa những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội vừa thể hiện yếu tố xã hội, nhân văn của nhà nước ta trên cơ sở có sự hỗ trợ của cả cộng đồng. - Thực hiện bảo hiểm xã hội cho người lao động trong mọi trường hợp hay bị suy giảm hay mất khả năng lao động. 27
  28. Người lao động không phân biệt nam nữ, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, không phân biệt khu vực làm việc khi tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội nếu có đủ điều kiện luật định sẽ hưởng quyền được bảo hiểm xã hội trên cơ sở mức đóng góp cho xã hội của họ. Nguyên tắc này tạo cơ sở pháp lý đảm bảo quyền lợi cho mọi người lao động đồng thời khuyến khích mọi người lao động tham gia hoạt động bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không được cao hơn mức tiền lương khi làm việc nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người được bảo hiểm. Nguyên tắc này tạo cơ sở bình đẳng cho người lao động đang làm việc và người lao động được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. Mức bảo hiểm xã hội mà người lao động nhận được là một khoản trợ cấp nhằm bù đắp cho người lao động và gia đình họ trên cơ sở sự phân tán rủi ro của quỹ bảo hiểm xã hội do đó mức bảo hiểm xã hội không được cao hơn mức tiền lương người lao động đang làm việc. Tuy nhiên, khi trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người lao động nhà nước phải tính đến những nhu cầu tối thiểu đảm bảo quyền lợi cho người được bảo hiểm. - Bảo hiểm xã hội phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội. Mỗi một giai đoạn lịch sử khác nhau thì bảo hiểm xã hội hoạt động với phương thức khác nhau. Quá trinh phát triển của bảo hiểm xã hội phụ thuộc điều kiện kinh tế-xã hội nhất định. Việc ban hành các chế độ bảo hiểm xã hội, đối tượng tham gia bảo hiểm, mức trợ cấp, chế độ chi trả bảo hiểm, mức đóng góp bảo hiểm xã hội phải có sự tương quan với mức thu nhập trong cộng đồng xã hội. - Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. - Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung. - Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội. - Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. - Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội. II. NỘI DUNG CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI 1. Quỹ bảo hiểm xã hội - Quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự dóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. - Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn sau: + Người sử dụng lao động đóng theo quy định sau: Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động * 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ quy định tại Mục 1 và Mục 2 Chương III của Luật BHXH và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội; * 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 28
  29. * 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%. + Người lao động đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%. + Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ. + Hỗ trợ của Nhà nước. + Các nguồn thu hợp pháp khác. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý theo các nguyên tắc cơ bản sau: * Nguyên tắc tập trung thống nhất, dân chủ và công khai. * Nguyên tắc hoạch toán độc lập. * Nguyên tắc được nhà nước bảo hộ. * Nguyên tắc được thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của Chính Phủ. Nguyên tắc tập trung thống nhất, dân chủ và công khai được coi là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất. Thông qua nguyên tắc này tạo ra dược một khối lượng tiền thống nhất tránh sự thất thoát quỹ và sử dụng quỹ không đúng mục đích. Bên cạnh đó, nguyên tắc này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà nước trong việc chỉ đạo, tổ chức, kiêm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội. Ngoài ra các nguyên tắc khác phối hợp và liên kết với nhau cũng đóng vai trò nòng cốt tạo cơ sở đảm bảo cho việc cân đối thu chi của quỹ. 2. Các loại hình bảo hiểm xã hội a. Loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc * Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia. - Loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng: + Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm: a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; b) Cán bộ, công chức, viên chức; c) Công nhân quốc phòng, công nhân công an; d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; e) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. + Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. - Ở những doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức này người sử dụng lao động, người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội sau: + Chế độ trợ cấp ốm đau. + Chế độ trợ cấp thai sản 29
  30. + Chế độ tai nạn lao động, bênh nghề nghiệp. + Chế độ hưu trí. + Chế độ tử tuất. + Chế độ nghỉ dưỡng, hồi phục sức khhoẻ cho người lao động. b. Loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội. 3. Giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội Khi xảy ra tranh chấp về bảo hiểm xã hội thì giải quyết như sau: * Đối với tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động được giải quyết theo các quy định về giải quyết tranh chấp lao động (theo chương XIV BLLĐ). * Đối với tranh chấp giữa người lao động đã nghỉ việc theo chế độ với người sử dụng lao động hoặc với cơ quan bảo hiểm xã hội, giữa người sử dụng lao động với cơ quan bảo hiểm xã hội do hai bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì do Toà án nhân dân giải quyết. III. CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1. Chế độ ốm đau. a. Khái niệm và ý nghĩa của chế độ ốm đau Ốm đau là sự kiện pháp lý làm cho người lao động tạm thời mất khả năng lao động dẫn đến gián đoạn về thu nhập. Theo Luật bảo hiểm xã hội thì bảo hiểm ốm đau là trường hợp được trợ cấp khi mất khả năng lao động do ốm đau, tai nạn lao động, chăm sóc con ốm đau mà người lao động bị gián đoạn về thu nhập. Bảo hiểm ốm đau là một chế độ rất quan rọng không chỉ đối với người lao động và gia đình họ mà còn đối với người sử dụng lao động, nhà nước và xã hội. Đối với người lao động, bảo hiểm ốm đau là sự trợ giúp ngắn hạn hỗ trợ người lao động và thành viên gia đình người lao động khi họ bị gián đoạn về thu nhập. Đây là sự bù đắp giúp người lao động có khả năng phục hồi sức khỏe, duy trì cuộc sống của bản thân và gia đình người lao động. Bảo hiểm ốm đau còn là cơ sở pháp lý động viên người lao động điều trị hiệu quả và khuyến khích người lao động trong quá trình thực hiện công việc của mình. Đối với người sử dụng lao động và nhà nước, chế độ ốm đau phản ánh trách nhiệm của nhà nước và người sử dụng lao động quan tâm đến nhân thân, đời sống người lao động . Điều này hỗ trợ người lao động yên tâm trong hoạt động sản xuất giúp người lao động ổn định thu nhập, ổn định cuộc sống. Đây cũng là yếu tố góp phần ổn định quan hệ lao động hài hòa, ổn định hạn chế các tranh chấp, bất đồng xảy ra, tạo sự ổn định cho nền kinh tế xã hội của đất nước. b. Đối tượng hưởng chế độ ốm đau + Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. + Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động kể cả cán bộ quản lý, người lao động làm việc trong hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên. + Người lao động là công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang. + Người lao động đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà chưa nhận bảo hiểm xã hội một lần trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu, công trình ở nước ngoài; c. Điều kiện hưởng chế độ ốm đau 30
  31. Không phải đối tượng nào bị ốm đau đều hưởng chế độ ốm đau. Chỉ có những đối tượng thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật về chế độ ốm đau mới được hưởng. Người lao động được hưởng chế độ ốm đau khi có các điều kiện sau: + Bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở y tế. Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự huỷ hoại sức khoẻ, do say rượu hoặc sử dụng ma tuý, chất gây nghiện khác thì không được hưởng chế độ ốm đau. + Có con dưới 7 tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc để chăm sóc con và có xác nhận của cơ sở y tế. + Người lao động có đóng bảo hiểm xã hội. Hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể mức thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu là bao nhiêu thì được hưởng chế độ ốm đau. Theo quy định của pháp luật, bảo hiểm xã hội bắt buộc áp dụng đối với những hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên. Như vậy có nên hiểu là những người lao động đang làm việc tại cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ 3 tháng trở lên thì được hưởng chế độ ốm đau?Pháp luật cần quy định cụ thể thời gian tối thiểu đóng bảo hiểm xã hội để được hưởng chế độ này. d. Thời gian hưởng chế độ ốm đau - Thời gian hưởng trợ cấp ốm đau phụ thuộc vào số năm tham gia đóng BHXH, điều kiện, môi trường làm việc và tình trạng bệnh tật. - Thời gian hưởng trợ cấp ốm đau trong một năm tính theo thời gian làm việc như sau: * Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong một năm quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật Bảo hiểm xã hội được tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, nghỉ hằng tuần theo quy định. Thời gian này được tính kể từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 12 của năm dương lịch, không phụ thuộc vào thời điểm bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động. * Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong năm của người lao động làm việc trong điều kiện bình thường, làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên được quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật Bảo hiểm xã hội. Danh mục nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành. Danh mục nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên do Bộ Nội vụ, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và Uỷ ban Dân tộc ban hành. * Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau theo Điều 24 Luật Bảo hiểm xã hội được quy định như sau: + Thời gian tối đa hưởng chế độ khi con ốm đau trong 1 năm cho mỗi con tối đa là 20 ngày làm việc nếu con dưới 3 tuổi; tối đa là 15 ngày làm việc nếu con từ đủ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi. + Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội, nếu một người đã hết thời hạn hưởng chế độ mà con vẫn ốm đau thì người kia được hưởng chế độ theo quy định tại khoản 1 Điều này. + Người lao động có thời gian tham gia BHXH dưới 15 năm số ngày nghỉ hưởng trợ cấp là 30 ngày nếu làm việc trong điều kiện bình thường; 40 ngày nếu làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại hoặc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên. + Người lao động có thời gian tham gia BHXH từ đủ 15 năm đến dưói 30 năm số ngày nghỉ hưởng trợ cấp là 40 ngày nếu làm việc trong điều kiện bình thường; 50 ngày nếu làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại hoặc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên. + Người lao động có thời gian tham gia BHXH trên 30 năm số ngày nghỉ hưởng trợ cấp là 60 ngày nếu làm việc trong điều kiện bình thường; 70 ngày nếu làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại hoặc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên. 31