Giáo trình Lập luận và phân tích dự án (Phần 1)

pdf 52 trang phuongnguyen 3700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lập luận và phân tích dự án (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_lap_luan_va_phan_tich_du_an_phan_1.pdf

Nội dung text: Giáo trình Lập luận và phân tích dự án (Phần 1)

  1. Lời mở đầu Lời mở đầu Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Sự đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực quản lý hoạt động đầu tư vừa là yêu cầu thực tế khách quan, vừa mang tính cấp bách. Trong sự đổi mới này, đầu tư theo dự án giữ một vai trò cực kỳ quan trọng. Đây là vấn đề cần và phải được quan tâm ở nước ta hiện nay. Đẻ đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, được sự đồng ý của hội đồng khoa học và đào tạo trường Cao đẳng nghề Nam Định, Bộ môn Kế toán doanh nghiệp đã biên soạn cuốn Giáo trình Lập và phân tích dự án. Giáo trình Lập và phân tích dự án cung cấp cho sinh viên những kiến thức về đầu tư, dự án đầu tư, lập, phân tích dự án đầu tư và quản lý dự án đầu tư.Giáo trình Lập và phân tích dự án được sử dụng làm tài liệu giảng dạy cho các giáo viên, sinh viên hệ Cao đẳng chuyên ngành kế toán và các chuyên ngành kinh tế khác. Giáo trình này cũng có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu tham khảo cho các giáo viên giảng dạy, cán bộ quản lý kinh tế và quản trị doanh nghiệp ở các cơ quan quản lý và kinh doanh. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc biên tập, nhưng chắc chắn cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của tất cả các bạn đồng nghiệp, của các anh chị em sinh viên và tất cả các bạn đọc để tiếp tục hoàn thiện nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng cuốn sách. Tác giả xin chân thành cám ơn tất cả các đồng nghiệp, đã giúp đỡ trong quá trình biên soạn cuốn sách này. Xin chân thành cảm ơn! Bộ môn Kế toán doanh nghiệp Trường Cao đẳng nghề Nam Định 3
  2. Chương 1. Một số nội dung cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư chương I Một số nội dung cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư I. ĐầU TƯ Và ĐầU TƯ PHáT TRIển 1. Khái niệm về đầu tư Lịch sử phát triển kinh tế thế giới trong những thập niên gần đây đã khẳng định vai trò của đầu tư đối với sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Đầu tư cho tương lai đóng vai trò then chốt quyết định vận hội kinh tế của các quốc gia, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Những nước tiêu dùng phần lớn thu nhập của mình, có mức đầu tư thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ không cao, ngược lại, tỷ lệ đầu tư tính theo GDP tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao; Những doanh nghiệp không chú trọng đầu tư sẽ khó thích nghi và phát triển trong kinh tế thị trường, sản phẩm tiêu thụ dễ bị suy yếu, doanh số bán ra bị giảm sút, sản xuất - kinh doanh sẽ trì trệ. Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều cách hiểu (quan niệm) khác nhau về đầu tư. Các nhà kinh tế vĩ mô cho rằng: “Đầu tư là đưa thêm một phần sản phẩm cuối cùng vào kho tài sản vật chất sản sinh ra thu nhập của quốc gia hay thay thế các tài sản vật chất đã hao mòn”. David Begg, nhà kinh tế học nổi tiếng cho rằng: “Đầu tư là việc các hãng mua sắm tư liệu sản xuất mới”. Xuất phát từ nguồn gốc của đầu tư, SamuelSon chỉ ra rằng: “Đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng cho tương lai. Thay vì ăn nhiều bánh pizza hôm nay, chúng ta hãy xây dựng các lò bánh nướng để có thể sản xuất ra nhiều bánh pizza hơn cho tiêu dùng ngày mai”. Dù được nhìn nhận dưới góc độ nào đi chăng nữa thì công cuộc đầu tư đều phải bỏ vốn ban đầu và mục tiêu của đầu tư là hiệu quả. Lợi ích dự kiến thu được của công cuộc đầu tư phải lớn hơn chi phí bỏ ra cho công cuộc đầu tư đó và đạt được mục tiêu không thể một sớm một chiều mà cần phải có một khoảng thời gian khá dài nhất định. Như vậy, có thể hiểu: “Đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội”. Thực chất của hoạt động đầu tư là tìm kiếm lợi ích đối với chủ đầu tư và lợi ích kinh tế - xã hội đối với đất nước. Hoạt động đầu tư có những đặc điểm chính sau: Tính sinh lời: Thực tiễn cho thấy, chẳng ai bỏ vốn, công sức để thực hiện đầu tư mà không tính toán đến lợi ích, lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư đó. Trường Cao đẳng nghề Nam Định 5
  3. Giáo trình lập và phân tích dự án Những người có ý định đầu tư đều hy vọng rằng, họ sẽ thu được lợi ích lớn hơn chi phí đã bỏ ra. Nói cụ thể hơn là họ sẽ nhận được một khoản lợi nhuận từ hoạt động đầu tư đó. Chính niềm hy vọng đó là động lực của đầu tư. Sẽ không có hoạt động đầu tư nếu không thấy có triển vọng sinh lời. Nói cách khác, khả năng sinh lời là điều kiện tiên quyết của đầu tư. Vì vậy, có thể khẳng định: Tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của đầu tư. Tính dài hạn: Đầu tư được xem là quá trình tìm kiếm lợi ích. Đây là quá trình cực kỳ gian nan, vất vả với biết bao công việc cụ thể phải tiến hành. Mục đích của đầu tư không thể ngày một, ngày hai là đạt được; Một khối lượng công việc rất lớn trong đầu tư không thể hoàn thành trong một thời gian ngắn. Nói một cách khác, hoạt động đầu tư phải diễn ra trong một thời gian khá dài, thậm chí rất dài. Vì vậy, tính dài hạn là một đăc trưng của đầu tư. Tính rủi ro: Mục đích chủ yếu của đầu tư là kiếm lời và điều này chỉ có thể đạt được trong tương lai, có khi là rất xa. Điều đó cũng có nghĩa là cái lời của hoạt động đầu tư chưa chắc chắn. Chỉ khi nào thu hồi được đủ vốn và có lợi nhuận mới có thể nói rằng chủ đầu tư đã hoàn thành “sứ mệnh” của mình. Việc hoàn thành “sứ mệnh” đó là một việc hết sức khó khăn, bởi trong “hành trình” đầu tư đã diễn ra biết bao điều bất ngờ, cho dù chủ đầu tư có tài giỏi và rất nhiều khả năng, kinh nghiệm cũng không thể lường hết được. Những bất ngờ đó sẽ dẫn đến rủi ro. Đầu tư rất dễ gặp rủi ro, bởi lẽ đây là một lĩnh vực phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội và cả tự nhiên. Về chính trị, nếu tình hình không ổn định hoặc chiến tranh xảy ra sẽ gây cản trở công cuộc đầu tư, làm cho hoạt động đầu tư cũng như nhiều hoạt động khác bị ngừng trệ, đổ vỡ. Tình hình kinh tế - xã hội diễn biến không bình thường, giá trị đồng tiền giảm sút, lạm phát ở mức cao, giá cả không ổn định sẽ làm đảo lộn tính toán ban đầu của chủ đầu tư, làm chuyển hoá kết quả đầu tư, từ lãi trở thành lỗ. Hoạt động đầu tư không thể tách rời điều kiện tự nhiên. Chính những yếu tố tự nhiên: Thời tiết, khí hậu, nắng mưa, gió bão có ảnh hưởng và ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đầu tư, đặc biệt là những giai đoạn sau và các công cuộc đầu tư vào ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp khai thác. Khi điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho công cuộc đầu tư thành công và ngược lại, sự khắc nghiệt và bất thường về điêù kiện tự nhiên là một khó khăn rất khó vượt qua để đi đến thành công đối với chủ đầu tư. Có thể nói, rủi ro là “ bạn đường” của đầu tư. Chấp nhận rủi ro được xem như một bản năng của nhà đầu tư. Vì vậy, rủi ro là một đặc trưng của đầu tư cần được chú ý. Đầu tư phát triển là loại đầu tư bỏ vốn nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới Trường Cao đẳng nghề Nam Định 6
  4. Chương 1. Một số nội dung cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư làm phương tiện sinh lời. Những năng lực mới hình thành qua quá trình đầu tư đó là: các công trình xây dựng, các dây chuyền sản xuất, máy móc trang thiết bị bao gồm : - Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Là hoạt động bỏ vốn nhằm phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật như điện, nước, cầu, cống, thông tin liên lạc và cơ sở hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, cơ sở văn hoá, thể thao - Đầu tư phát triển công nghiệp. Là hoạt động bỏ vốn để xây dựng, cải tạo, mở rộng các công trình công nghiệp. - Đầu tư phát triển nông nghiệp. Là hoạt động bỏ vốn để xây dựng, cải tạo, mở rộng các công trình nông nghiệp. - Đầu tư phát triển dịch vụ. Là hoạt động bỏ vốn để xây dựng các công trình dịch vụ (thương mại, khách sạn - du lịch ). 2. Vai trò của đầu tư 2.1. Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế 2.1.1 Đầu tư thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Ngày nay, tăng trưởng và phát triển kinh tế là những khái niệm thường được nhắc đến, rất gần gũi và thu hút sự quan tâm của mọi người. Nhà kinh tế James Tobin đã khẳng định: “ Vấn đề tăng trưởng không phải là cái gì mới mà là sự cải trang cái mới của một vấn đề cổ xưa, một vấn đề luôn luôn hấp dẫn các nhà kinh tế học và làm cho họ phải bận tâm suy nghĩ: cái hiện tại so với cái tương lai”. Tăng trưởng kinh tế là sự mở rộng GDP hay sản lượng tiềm năng của một đất nước, là sự tăng thu nhập quốc dân và sản phẩm bình quân đầu người. Phát triển kinh tế có ý nghĩa rộng hơn, bao hàm nhiều điều khác nữa. Đó là sự tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản của nền kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế chỉ là sự thay đổi về lượng, còn phát triển kinh tế là sự thay đổi về lượng và chất của nền kinh tế. Khi thu nhập tính theo đầu người của tất cả dân chúng trong đất nước đều tăng, chúng ta nói nền kinh tế có sự tăng trưởng. Chính sự tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để cải thiện phúc lợi vật chất cho số đông nhân dân. Nếu không có sự tăng trưởng thì một số người vẫn có thể giàu do chiếm đoạt thu nhập và tài sản của người khác. Sự tăng trưởng kinh tế mở ra khả năng làm cho một số người giàu lên mà không làm cho những người khác nghèo đi. Vì vậy, tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững là phương hướng và mục tiêu phấn đấu của các quốc gia. Để đạt được điều đó cần quan tâm giải quyết các nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, vốn và công nghệ. Thông qua hoạt động đầu tư, các yếu tố đó sẽ được khai thác và huy động, từ đó tạo ra cơ sở vật chất - kĩ thuật và nguồn lực mới cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Có Trường Cao đẳng nghề Nam Định 7
  5. Giáo trình lập và phân tích dự án thể nói rằng: Đầu tư là con đường đúng đắn, duy nhất để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển kinh tế của các nước trên thế giới và ở nước ta cho thấy, điều kiện cơ bản để nền kinh tế có thể “cất cánh” được là phải dành cho đầu tư một tỷ lệ khoảng 20% GDP. Đồng thời, cọi trọng hiệu quả của hoạt động đầu tư. 2.1.2. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế. ở mỗi quốc gia cơ cấu kinh tế thường được phân chia theo ngành, theo vùng (lãnh thổ) và theo thành phần kinh tế. Mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành phần kinh tế đều có tiềm năng và thế mạnh riêng. Đầu tư sẽ khai thác tiềm năng thế mạnh đó và tạo ra sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, bởi lẽ khi tập trung đầu tư cho một ngành nào đó sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi to lớn cho ngành đó phát triển, nâng cao tỷ trọng sản phẩm trong toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, để tạo ra sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, vấn đề đầu tiên có tính then chốt là phải thực hiện đầu tư và phân bổ vốn một cách hợp lý. Bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta xuất phát từ “ mức sàn ” rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vào những năm đầu của thập kỷ 90, tỷ trọng ngành nông nghiệp nước ta chiếm khoảng 35%, công nghiệp chiếm 22%, còn lại là dịch vụ. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Một trong những mục tiêu được đặt ra là tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng: Thời kỳ đầu xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ, thời kỳ tiếp theo xây dựng cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Trong những năm gần đây, thông qua nhiều chính sách và biện pháp đầu tư, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Với việc mỗi năm dành hơn 40% vốn đầu tư cho công nghiệp, 20% vốn đầu tư cho nông nghiệp, đã tạo ra tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành công nghiệp khoảng 10 - 12%, nông nghiệp khoảng 4 - 5%, dịch vụ khoảng 8 - 9%. Đây là yếu tố quan trọng góp phần đưa tỷ trọng ngành công nghiệp hiện nay lên trên 30%, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp xuống còn hơn 20%, còn lại là tỷ trọng của ngành dịch vụ. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta, thành phần kinh tế quốc doanh chiếm vị trí độc tôn và tạo ra đại bộ phận sản phẩm quốc nội. Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, thực hiện khuyến khích và tạo điều kiện đầu tư phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, đến nay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm đạt 7 - 8% và đã đóng góp hơn 60% GDP. Trường Cao đẳng nghề Nam Định 8
  6. Chương 1. Một số nội dung cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư Do điều kiện tự nhiên về địa hình, đất đai, thời tiết, khí hậu, và phong tục tập quán đất nước ta được chia thành 3 miền: Bắc - Trung - Nam. Mỗi miền có tiềm năng và thế mạnh riêng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần xây dựng những vùng kinh tế trọng điểm tại mỗi miền. Miền Bắc, vùng kinh tế trọng điểm bao gồm: Hà Nội - Hải phòng - Quảng ninh - Hà Đông; Miền Nam bao gồm: TP. Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bình Dương - Bình Phước - Bà Rịa - Vũng Tàu; Miền Trung bao gồm: Quảng trị - Huế - Đà Nẳng - Quảng Ngãi. Vùng kinh tế trọng điểm được xây dựng ở những địa bàn có nhiều tiềm năng, từ đó có tác dụng thúc đẩy và lôi kéo sự phát triển của các địa bàn khác trong mỗi miền và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, cần chú trọng đầu tư nhằm phát triển các vùng miền núi, biên giới, hải đảo để đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng và mọi miền của đất nước. Để đạt được điều đó, việc phân bổ vốn đầu tư cần thực hiện theo hướng: - Vốn Ngân sách và vốn ODA do Trung Ương quản lý được phân bổ đều cho các vùng nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. - Vốn Ngân sách do địa phương quản lý dành 30% cho vùng kinh tế trọng điểm, 70% dành cho các vùng khác. - Vốn của doanh nghiệp, của nhân dân và vốn FDI đầu tư vào các vùng kinh tế trọng điểm chiếm hơn 30%. 2.1.3. Đầu tư tăng cường khả năng khoa học của đất nước Bước sang thế kỉ XX, cách mạng khoa học - kĩ thuật diễn ra như vũ bão và trở thành động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của các quốc gia. Tuy nhiên, công nghệ mà nhân loại đã và đang sử dụng cho đến nay là công nghệ truyền thống dựa trên kĩ thuật cơ khí. Nền công nghệ này đã và đang vấp phải những giới hạn to lớn về nguyên liệu, môi trường và thị trường Điều này rất dễ dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu. Để khắc phục tình trạng này, đã xuất hiện xu hướng chuyển sang công nghệ mới sử dụng các loại máy tính và người máy công nghiệp, công nghệ tin học, công nghệ sinh học Như vậy là, ứng dụng khoa học và phát triển công nghệ là một yếu tố, một cơ sở quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây cũng là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các quốc gia. Việc nâng cao và đổi mới cơ cấu công nghệ một mặt phải xuất phát từ phục vụ cho những yêu cầu mà chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặt ra, mặt khác nó cũng tác động trở lại tốc độ và qui mô của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiện nay ở nước ta, trình độ công nghệ đang là vấn đề bức xúc cần được quan tâm. So sánh công nghệ chính đang được sử dụng ở nước ta với thế giới cho thấy: công nghệ lạc hậu ở nước ta chiếm 52%, công nghệ trung bình chiếm 38%, còn lại 10% là công nghệ hiện đại. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là cần huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển công nghệ. Vốn cho phát triển công Trường Cao đẳng nghề Nam Định 9
  7. Giáo trình lập và phân tích dự án nghệ đang là vấn đề cấp bách đối với nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước nghèo như Việt Nam. Theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển thì vốn dành cho khoa học - công nghệ chiếm khoảng 3% GDP, trong khi đó ở nước ta hiện nay mới đạt khoảng 1% GDP. Không có vốn hoặc thiếu vốn, chúng ta sẽ không có điều kiện để nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, và điều tất yếu sẽ đến, đó là tính độc lập, tự chủ và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế sẽ suy giảm. 2.2 Vai trò của đầu tư đối với doanh nghiệp. 2.2.1. Đầu tư đối với sự hình thành doanh nghiệp Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và phát triển. Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp được xem là những “tế bào” chủ yếu nhất. Chính sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Khi có nhiều doanh nghiệp ra đời, tồn tại và phát triển sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo; ngược lại, số lượng các doanh nghiệp giảm sút và hoạt động kém hiệu quả, nền kinh tế sẽ trì trệ, suy thoái. Để hình thành doanh nghiệp có nhiều điều kiện, trong đó điều kiện quan trọng phải kể đến là về vốn đầu tư. Nhờ có vốn đầu tư, những nhà xưởng, trang thiết bị được hình thành, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho doanh nghiệp hoạt động. Mặt khác, vốn đầu tư còn được sử dụng để mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động trong chu kỳ sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tiễn ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp nước ta trong thời gian qua đã khẳng định vai trò của vốn đầu tư. Không có vốn đầu tư đã trở thành lực cản cho sự ra đời của khá nhiều doanh nghiệp. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp ra đời, song do hạn chế về vốn nên không có khả năng sử dụng công nghệ - thiết bị hiện đại, dẫn đến hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh không cao, thiếu sức cạnh tranh và khó đứng vững trên thương trường. Một số doanh nghiệp khi ra đời tuy có trang thiết bị hiện đại, song lại thiếu vốn lưu động dẫn đến tình trạng sản xuất cầm chừng hoặc bị gián đoạn. Từ những vấn đề trên, có thể nói rằng, không có vốn để thực hiện đầu tư, không có sự ra đời của các doanh nghiệp và qui mô vốn đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến qui mô và chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp. Nói một cách ngắn gọn, đầu tư có ảnh hưỏng quyết định đến sự ra đời và tồn tại của các doanh nghiệp. 2.2.2. Đầu tư đối với quá trình phát triển của doanh nghiệp Hoạt động đầu tư có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Từ tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ, các doanh nghiệp đã nảy Trường Cao đẳng nghề Nam Định 10
  8. Chương 1. Một số nội dung cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư sinh những quyết định đầu tư để thích nghi và phát triển. Chẳng hạn, khi thị trường tiêu thụ bị suy yếu, doanh số bán ra bị giảm sút, các doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm và dịch vị của mình. Tức là, thực hiện đầu tư cho việc đa dạng hoá gắn liền với một định hướng về thị trường tiêu thụ mới. Cạnh tranh là điều bình thường trong nền kinh tế thị trường. Với sự mở cửa các nền kinh tế và sự quốc tế hoá ngày càng tăng nhanh, cạnh tranh đã phát triển với một qui mô chưa từng thấy. Chính sự cạnh tranh gay gắt này đã biến thương trường thành chiến trường. Kĩ thuật - công nghệ đã trở thành vũ khí sống còn trong việc cạnh tranh. Nó dẫn đến những thay đổi sâu xa về điều kiện sản xuất, khống chế và hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Lịch sử kinh tế thế giới, đặc biệt là những năm gần đây cho thấy làn sóng đầu tư vào kĩ thuật - công nghệ ngày càng dâng cao mạnh mẽ. Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ nhằm mở rộng qui mô sản xuất và tăng cường sức mạnh cạnh tranh luôn luôn là một nhu cầu bức xúc đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Như vậy là, nhờ có đầu tư, công nghệ - thiết bị của các doanh nghiệp được đổi mới, chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm ngày càng phong phú đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó tăng nhanh khả năng tiêu thụ và mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp. Điều đó khẳng định: Đầu tư đóng vai tró cực kì quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Khi chuyển sang nến kinh tế thị trường, hầu hết các doanh nghiệp nước ta gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Có nhiều nguyên nhân, song có một nguyên nhân quan trọng là máy móc thiết bị. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, phần lớn các máy móc thiết bị của các doanh nghiệp hiện nay được sản xuất từ thập kỉ 50, tỉ lệ hao mòn bình quân trên cả nước là 59,3%. ở nhiều nước, khi máy móc thiết bị hao mòn khoảng 70% là phải được thanh lý, trong khi ở nước ta nhiều thiết bị đã khấu hao hết vẫn còn sử dụng. Công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kĩ đã đưa đến hệ quả là hàng hoá sản xuất từ các doanh nghiệp trong nước có giá thành cao, chất lượng thấp, chủng loại kém phong phú, mẫu mã chậm thay đổi để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Do đó, hàng nội mất uy tín, không cạnh tranh được với hàng ngoại ngay tại thị trường ở trong nước, sức sản xuất trong nước giảm sút và trì trệ và đây cũng là một nguyên nhân gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nước ta. Thực trạng hoạt động sản xuất - kinh doanh đã đặt ra vấn đề cần đầu tư đổi mới công nghệ - thiết bị cho hàng ngàn doanh nghiệp nước ta. Trong bối cảnh hiện nay, khi nguồn vốn Ngân sách và nguồn vốn tự có còn rất hạn chế thì nguồn vốn chủ yếu để thực hiện đổi mới công nghệ và thiết bị cho các doanh nghiệp là nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, đầu tư đổi Trường Cao đẳng nghề Nam Định 11
  9. Giáo trình lập và phân tích dự án mới công nghệ - thiết bị vừa là mối quan tâm của các doanh nghiệp vừa là mối quan tâm của các ngân hàng thương mại. Thực hiện tốt hoạt động này có tác động rất lớn đến sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp và bản thân ngân hàng. 3. Các nguồn vốn cho đầu tư Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước như vốn Ngân sách, vốn tự có, vốn tín dụng Ngân hàng Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài như vốn đầu tư trực tiếp, vốn vay, viện trợ II. Dự áN ĐầU TƯ 1. Khái niệm dự án đầu tư Trong mục I, chúng ta đã nghiên cứu về đầu tư. Giữa đầu tư và dự án có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là mối quan hệ nhân quả. Đầu tư phát triển là nguồn gốc ra đời của các dự án. Ngược lại, việc xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư sẽ kiểm nghiệm tính đúng đắn và hiệu quả của quyết định đầu tư. Thực tiễn đã chứng minh rằng, muốn tối đa hoá hiệu quả của đầu tư thì trước khi ra quyết định đầu tư nhất thiết phải có dự án đầu tư. Nói khác đi, đầu tư phải được tiến hành trên cơ sở các dự án được soạn thảo và xem xét một cách kĩ lưỡng. Vì vậy, đầu tư theo dự án trở thành xu thế phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Trong nhiều năm qua, cách tiếp cận đầu tư bằng dự án đã đứng vững được như một phương pháp đã tôi luyện để quản lý việc sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về dự án đầu tư. Dự án đầu tư được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo thời gian, quan niệm về dự án ngày càng phát triển. Có người coi dự án là cách sử dụng các nguồn lực vào mục đích sản xuất nhất định; Ngân hàng Thế giới, một tổ chức tài chính quốc tế lớn nhất và có vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn, viện trợ kinh tế - kỹ thuật, thúc đẩy đầu tư vào các nước đang phát triển thông qua các chương trình và dự án đầu tư đã xem dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí có liên quan với nhau được hoạch định nhằm đạt những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định; Cũng có người cho rằng: dự án đầu tư là tập hợp các đối tượng được hình thành và hoạt động theo một kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu nhất định (các lợi ích) trong một khoảng thời gian nhất định; Với tư cách là người đầu tư, mối quan tâm hàng đầu và mục đích chủ yếu của chủ đầu tư là kiếm lời. Đây là một quá trình tìm kiếm rất khó khăn, vất vả. Để đạt được điều này, nhà đầu tư phải nghiên cứu chi tiết, tỷ mỉ tất cả những vấn đề có liên quan, ảnh hưởng đến tính sinh lời của công cuộc đầu tư đó. Tập hợp những Trường Cao đẳng nghề Nam Định 12
  10. Chương 1. Một số nội dung cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư kết quả nghiên cứu này bằng văn bản được gọi là dự án đầu tư Dù được xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì dự án đầu tư cũng bao gồm các thành phần chính như sau: - Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án. Cụ thể là khi thực hiện, dự án sẽ mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho bản thân chủ đầu tư nói riêng. Những mục tiêu này cần được biểu hiện bằng kết quả cụ thể như tạo nguồn thu cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động, mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư - Các hoạt động của dự án. Dự án phải nêu rõ những hành động cụ thể phải thực hiện, địa điểm diễn ra các hoạt động của dự án, thời gian cần thiết để hoàn thành, và các bộ phận có trách nhiệm thực hiện những hành động đó. Cần lưu ý rằng các hoạt động đó có mối quan hệ với nhau vì tất cả đều hướng tới sự thành công của dự án và các hoạt động đó diễn ra trong một môi trường không chắc chắn. Môi trường dự án không phải là môi trường hiện tại mà là môi trường tương lai. - Các nguồn lực. Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các nguồn lực về vật chất, tài chính, con người Vì vậy, phải nêu rõ các nguồn lực cần thiết cho dự án. Tổng hợp các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án. Mỗi dự án bao giờ cũng được xây dựng và thực hiện trong sự giới hạn về nguồn lực. Tóm lại, mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về dự án, song quan niệm về dự án đầu tư dưới giác độ của nhà đầu tư sẽ được sử dụng nhằm đáp ứng cho mục đích chủ yếu là tiến hành thẩm định các dự án đầu tư. Theo quan niệm này, dự án đầu tư được hiểu là tập hợp kết quả nghiên cứu các nội dung có liên quan, ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư. 2. Tại sao phải tiến hành hoạt động đầu tư theo dự án Dự án đầu tư là “sản phẩm” đem lại cho công cuộc đầu tư một hiệu quả như mong muốn. Chính nguồn gốc ra đời của dự án đã cho thấy một cách khái quát vai trò của dự án đối với sự phát triển. Dự án đầu tư tạo cơ sở vật chất kỹ - thuật nguồn lực mới cho sự phát triển, là phương tiện chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế, giải quyết quan hệ cung - cầu về vốn, về sản phẩm dịch vụ trên thị trường, góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cải tiến bộ mặt kinh tế xã hội cho đất nước. Vai trò cụ thể của dự án đối với chủ đầu tư, nhà nước và nhà tài trợ được thể hiện ở những điểm chính như sau: Trước hết đối với chủ đầu tư: Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ vốn đầu tư. Dự án đầu tư được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ các mặt về thị trường, kỹ thuật, tài chính, tổ chức quản lý do đó, chủ đầu tư sẽ yên tâm hơn trong việc bỏ vốn ra để thực hiện dự án vì có Trường Cao đẳng nghề Nam Định 13
  11. Giáo trình lập và phân tích dự án khả năng mang lại lợi nhuận và ít rủi ro. Mặt khác, vốn đầu tư của một dự án thường rất lớn và để san xẻ rủi ro (nếu có) nên ngoài phần vốn tự có, để thực hiện các dự án chủ đầu tư còn cần đến nguồn vốn vay. Dự án là một phương tiện để thuyết phục các tổ chức tài chính - tín dụng xem xét tài trợ cho vay vốn. Dự án cũng là cơ sở để chủ đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. Đó là những kế hoạch mua sắm máy móc thiết bị, kế hoạch thi công xây lắp, kế hoạch sản xuất kinh doanh Ngoài ra, dự án còn là căn cứ để đánh giá và có điều chỉnh kịp thời những tồn tại và vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư và khai thác công trình. Đối với Nhà nước, dự án đầu tư là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, phê duyệt cấp vốn và cấp giấy phép đầu tư. Vốn ngân sách nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch thông qua các dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư quan trọng của quốc gia trong từng thời kỳ (điện, xi măng, sắt, thép ). Dự án sẽ được phê duyệt, cấp giấy phép đầu tư khi mục tiêu của dự án phù hợp với đường lối, chính sách phát triển kinh tế của đất nước, hoạt động của dự án không gây ảnh hưởng đến môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Khi dự án đã được phê chuẩn thì các bên liên quan đến dự án phải tuân thủ theo nội dung yêu cầu của dự án. Nếu nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên liên quan thì dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, giải quyết. Đối với các nhà tài trợ. Khi tiếp nhận các dự án xin tài trợ vốn của chủ đầu tư, các tổ chức tài chính - tín dụng sẽ xem xét các nội dung cụ thể của dự án, đặc biệt là về mặt kinh tế - tài chính để đi đến quyết định có đầu tư hay không đầu tư cho các dự án đó. Dự án chỉ được đầu tư vốn nếu mang tính khả thi theo quan điểm của nhà tài trợ và ngược lại. Khi chấp nhận đầu tư, dự án là cơ sở để các tổ chức này lập kế hoạch cấp vốn hoặc cho vay theo mức độ hoàn thành kế hoạch đầu tư, đồng thời lập kế hoạch thu hồi vốn vay. 3. Phân loại dự án đầu tư 3.1. Theo thẩm quyền quyết định hoặc cấp giấy phép đầu tư * Đối với dự án đầu tư trong nước: Để tiến hành quản lý và phân cấp quản lý, tuỳ theo tính chất của dự án và quy mô đầu tư, các dự án đầu tư trong nước được phân theo 3 nhóm A, B và C. Có hai tiêu thức được dùng để phân nhóm là dự án thuộc ngành kinh tế nào?; Dự án có tổng mức đầu tư lớn hay nhỏ ? Trong các nhóm thì nhóm A là quan trọng nhất, phức tạp nhất, còn nhóm C là ít quan trọng, ít phức tạp hơn cả. Tổng mức vốn nêu trên bao gồm cả tiền chuyển quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển, thềm lục địa, vùng trời (nếu có). * Đối với các dự án đầu tư nước ngoài: gồm 3 loại dự án đầu tư nhóm A, B và loại được phân cấp cho địa phương. Trường Cao đẳng nghề Nam Định 14
  12. Chương 1. Một số nội dung cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư 3.2. Phân theo trình tự lập và trình duyệt dự án Theo trình tự (hoặc theo bước) lập và trình duyệt, các dự án đầu tư được phân ra hai loại: Nghiên cứu tiền khả thi: Hồ sơ trình duyệt của bước này gọi là báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Nghiên cứu khả thi: Hồ sơ trình duyệt của bước này gọi là báo cáo nghiên cứu khả thi. 3.3. Theo nguồn vốn Dự án đầu tư bằng vốn trong nước (vốn cấp phát, tín dụng, các hình thức huy động khác) và dự án đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài (nguồn viện trợ nước ngoài ODA và nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI). 4. Chu kỳ của một dự án đầu tư Một công cuộc đầu tư được xem như bắt đầu từ ý tưởng về dự án đầu tư. Bất kỳ một dự án đầu tư nào cũng được hình thành từ một ý tưởng ban đầu của nhà đầu tư. Tuy ý tưởng chỉ là một sự “hình dung” mong muốn của nhà đầu tư, nhưng cũng phải dựa trên những căn cứ cụ thể, vì nếu không ý tưởng đó sẽ trở thành viễn tưởng. Từ ý tưởng của dự án đến đến việc xây dựng, thực hiện và kết thúc dự án là cả một quá trình. Quá trình này thường được chia làm 3 giai đoạn và trong mỗi giai đoạn lại gồm rất nhiều công việc diễn ra vừa tuần tự vừa đan xen lẫn nhau. Sau đây là các giai đoạn với các bước và công việc chính của một chu kỳ dự án: Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư. Giai đoạn này gồm những bước chính như sau: - Nghiên cứu cơ hội đầu tư. - Nghiên cứu tiền khả thi. - Nghiên cứu khả thi. - Thẩm định để ra quyết định đầu tư. Nghiên cứu cơ hội đầu tư là nghiên cứu những khả năng, những điều kiện để chủ đầu tư có thể tiến hành đầu tư. Mục đích của nó là tìm ra được cơ hội đầu tư phù hợp nhất đối với chủ đầu tư. Việc nghiên cứu cơ hội đầu tư có tác dụng xác định một cách nhanh chóng và ít tốn kém nhưng lại dễ thấy về các khả năng đầu tư trên cơ sở những thông tin cơ bản đưa ra đủ để làm người có khả năng đầu tư cân nhắc, xem xét và đi đến quyết định có triển khai tiếp sang giai đoạn nghiên cứu sau hay không. Nghiên cứu tiền khả thi là sự lựa chọn sơ bộ cơ hội đầu tư. Mặc dù mới chỉ Trường Cao đẳng nghề Nam Định 15
  13. Giáo trình lập và phân tích dự án là sự lựa chọn sơ bộ cơ hội đầu tư, nhưng không vì thế mà chủ đầu tư coi nhẹ, giảm bớt nội dung nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu tiền khả thi là tất cả những vấn đề có liên quan ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư như thị trường, tài chính, kinh tế - kỹ thuật Tuy nhiên, vì là sự lựa chọn sơ bộ cho nên chủ đầu tư chưa nghiên cứu những vấn đề đó một cách chi tiết tỷ mỉ. Việc nghiên cứu những vấn đề đó ở mức độ trung bình và trong trạng thái tĩnh. Tức là, chưa đề cập đến sự tác động của các yêú tố bất định và các kết quả tính toán chỉ là những ước tính sơ bộ. Nghiên cứu khả thi là sự lựa chọn cuối cùng cơ hội đầu tư nên chủ đầu tư phải tiến hành nghiên cứu hết sức chi tiết, tỉ mỉ, toàn diện, triệt để những nội dung về thị trường, tài chính, kinh tế, kỹ thuật có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư. Điều đáng chú ý là nghiên cứu khả thi diễn ra trong trạng thái động, tức là, có tính đến những yếu tố bất định có thể xảy ra theo từng nội dung cụ thể. Như vậy, về mặt nội dung, có thể coi nghiên cứu tiền khả thi và khả thi là như nhau. Giữa nghiên cứu tiền khả thi và khả thi chỉ khác nhau về tính chất, mức độ nông, sâu của việc nghiên cứu. Thẩm định để ra quyết định đầu tư. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu khả thi sẽ tổ chức thẩm định để đi đến quyết định có thực hiện đầu tư hay không. Giai đoạn 2: Thực hiện đầu tư. Đây là giai đoạn tiến hành các hoạt động nhằm tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật, tiền đề cho dự án đi vào giai đoạn sau cùng. Giai đoạn này gồm những bước chính như: - Đàm phán ký kết các hợp đồng. - Thiết kế và lập dự toán thi công công trình. - Thi công xây lắp công trình. - Vận hành chạy thử nghiệm thu công trình. Trong giai đoạn này vốn đầu tư được chi ra rất lớn và chưa sinh lời. Thời gian càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn và có thể xảy ra các tổn thất đối với thiết bị chưa hoặc đang được thi công lắp đặt, các công trình đang được xây dựng dở dang. Thế nhưng, không thể tuỳ tiện rút ngắn thời gian thực hiện đầu tư vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thi công xây dựng - lắp đặt công trình, gây ảnh hưởng xấu đến giai đoạn vận hành, khai thác. Như vậy là, vấn đề đảm bảo chất lượng xây dựng - lắp đặt công trình và thời gian thi công là quan trọng hơn cả trong giai đoạn thực hiện đầu tư. Giai đoạn 3: Vận hành kết quả đầu tư. Đây là giai đoạn cuối cùng của dự án đầu tư. Thực chất của giai đoạn này là đưa công trình đã được xây dựng, lắp đặt xong vào vận hành, khai thác. Tức là, thực hiện tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu của dự án Trường Cao đẳng nghề Nam Định 16
  14. Chương 1. Một số nội dung cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư đề ra, trong đó mục tiêu chủ yếu là thu hồi vốn và có lợi nhuận. ở những năm đầu, khi dự án mới đi vào hoạt động, do tình hình chưa ổn định nên công suất thực tế đạt được không cao. Vì vậy, ở năm thứ nhất, công suất thực tế chỉ nên tính khoảng 50% công suất thiết kế, năm thứ hai ở mức cao hơn, khoảng 75%. Công suất thiết kế thực tế đạt được ở mức cao nhất thường là từ năm thứ 3 trở đi và khi đó cũng chỉ nên tính ở mức xấp xỉ 90% công suất thiết kế. Tóm lại, chu kỳ của một dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua bắt đầu từ khi dự án mớ chỉ là ý tưởng cho đến khi dự án được hoàn thành chấm dứt hoạt động. III. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của môn học 1. Đối tượng nghiên cứu Lập và phân tích dự án là một bộ môn khoa học kinh tế nghiên cứu những vấn đề phương pháp luận và phương pháp cụ thể về lập dự án và phân tích các dự án đầu tư. Nghiên cứu các vấn đề phương pháp luận và phân tích dự án đầu tư, môn học lập và phân tích dự án đầu tư bắt đầu từ việc xem xét những vấn đề lý luận chung về đầu tư, đầu tư phát triển và về dự án đầu tư. Trên cơ sở đó, đi sâu xem xét trình tự và các nội dung cần nghiên cứu trong quá trình soạn thảo dự án đầu tư; xem xét công tác tổ chức soạn thảo dự án; xem xét nội dung, phương pháp phân tích, đánh giá các khía cạnh của dự án ở giai đoạn nghiên cứu khả thi: nghiên cứu các điều kiện vĩ mô ảnh hưởng đến sự hình thành và thực hiện dự án đầu tư (khung cảnh đầu tư); nghiên cứu khía cạnh thị trường; khía cạnh kỹ thuật của dự án đầu tư; nghiên cứu khía cạnh tổ chức quản lý và nhân sự của dự án đầu tư; nghiên cứu khía cạnh tài chính; nghiên cứu khía cạnh kinh tế xã-hội của dự án đầu tư. Với việc phát triển của công nghệ thông tin, môn học lập dự án đầu tư còn nghiên cứu ứng dụng phần mềm tin học Excel trong việc tính toán các chỉ tiêu khi soạn thảo dự án đầu tư phát triển. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu của môn học - Làm rõ những vấn đề lý luận chung về đầu tư, đầu tư phát triển, về dự án đầu tư. - Làm cơ sở khoa học cho việc phải đầu tư theo dự án. - Làm rõ trình tự, nội dung nghiên cứu và công tác tổ chức soạn thảo dự án. - Làm rõ cơ sở khoa học và nội dung của phương pháp phân tích, tính toán các chỉ tiêu phản ánh khía cạnh thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án, khía cạnh kỹ thuật, hình thức tổ chức quản lý và nhân sự, tài chính, kinh tế xã hội của các dự án đầu tư. Trường Cao đẳng nghề Nam Định 17
  15. Giáo trình lập và phân tích dự án - Vận dụng các vấn đề lý luận và phương pháp luận về lập dự án đầu tư vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu đối tượng và thực hiện các nhiệm vụ trên đây, môn học Lập và phân tích dự án được sử dụng để giảng dạy cho sinh viên sau khi đã được trang bị kiến thức kinh tế đại cương. IV. Phương pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu 1. Phương pháp nghiên cứu Là môn khoa học kinh tế, cho nên cũng như các môn khoa học kinh tế khác, môn học Lập và phân tích dự án coi chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận và sử dụng các phương pháp của thống kê học, toán kinh tế, phân tích hệ thống Trong quá trình nghiên cứu đối tượng và thực hiện các nhiệm vụ của mình. 2. Nội dung nghiên cứu Để làm rõ các vấn đề về phương pháp luận, môn học lập và phân tích dự án tập trung xem xét các vấn đề sau đây: - Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư, dự án đầu tư, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của môn học. - Trình tự, nội dung nghiên cứu và công tác tổ chức soạn thảo một dự án đầu tư. - Nghiên cứu khía cạnh thị trường của dự án đầu tư. - Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật trong dự án đầu tư. - Nghiên cứu khía cạnh tài chính của dự án đầu tư. - Nghiên cứu khía cạnh kinh tế xã hội và tác động về môi trường của dự án đầu tư. - ứng dụng Excel trong lập dự án đầu tư. - Giáo trình còn đề cập đến một số vấn đề về quản lý thực hiện dự án đầu tư cho sinh viên nghiên cứu và học tập. Trường Cao đẳng nghề Nam Định 18
  16. Chương 1. Một số nội dung cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư Câu hỏi 1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển? 2. Vai trò của đầu tư và các nguồn vốn cho đầu tư? 3. Trình bày khái niệm dự án đầu tư? 4. Tại sao phải tiến hành các hoạt động đầu tư theo dự án? 5. Khái niệm chu kỳ dự án đầu tư, hãy trình bày các giai đoạn của chu kỳ dự án đầu tư. Phân tích mối quan hệ giữa các giai đoạn trong chu kỳ dự án đầu tư? 6. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của môn học Lập và phân tích dự án? 7. Phương pháp và nội dung nghiên cứu của môn học Lập và phân tích dự án? Trường Cao đẳng nghề Nam Định 19
  17. Giáo trình lập và phân tích dự án Chương II Trình tự nội dung nghiên cứu và công tác tổ chức soạn thảo một dự án đầu tư I. Trình tự và nội dung nghiên cứu để soạn thảo dự án đầu tư 1. Nghiên cứu cơ hội đầu tư 1.1. Mục đích Mục đích của bước nghiên cứu này là xác định một cách nhanh chóng, nhưng ít tốn kém về các cơ hội đầu tư. Nội dung của việc nghiên cứu là xem xét các nhu cầu và khả năng cho việc tiến hành các công cuộc đầu tư, các kết quả và hiệu quả sẽ đạt được nếu thực hiện đầu tư. Cần phân biệt 2 loại cơ hội đầu tư tuỳ thuộc vào phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư và phân cấp quản lý đầu tư. Đó là : + Cơ hội đầu tư chung cho đất nước, cho địa phương, cho ngành kinh tế - kỹ thuật hoặc cho một loại tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Đối với loại cơ hội đầu tư này, thường có nhiều dự án. + Cơ hội đầu tư cụ thể cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Trong trường hợp này, mỗi cơ hội đầu tư thường sẽ có một dự án đầu tư. 1.2. Căn cứ phát hiện và đánh giá các cơ hội đầu tư Khi nghiên cứu để phát hiện các cơ hội đầu tư phải xuất phát từ những căn cứ sau đây: - Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hoặc chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của ngành, của cơ sở. Đây là những định hướng lâu dài cho sự phát triển của đất nước và của cơ sở. Mọi công cuộc đầu tư không xuất phát từ những căn cứ này sẽ không có tương lai và tất nhiên sẽ không chấp nhận. - Nhu cầu trong nước và trên thế giới về những hoạt động dịch vụ cụ thể. Đây là nhân tố quyết định sự hình thành và hoạt động của các dự án đầu tư. Không có nhu cầu thì sự hoạt động của các dự án không để làm gì mà chỉ dẫn đến sự lãng phí tiền của và công sức của xã hội, ảnh hưởng không tốt đến sự hình thành và hoạt động của các dự án có nhu cầu. Nhu cầu ở đây trong điều kiện nền Trường Cao đẳng nghề Nam Định 20
  18. Chương 2. Trình tự nội dung nghiên cứu và công tác . kinh tế mở, bao gồm cả nhu cầu trong nước và nhu cầu trên thế giới, trong đó nhu cầu trên phạm vi thế giới lớn hơn rất nhiều so với nhu cầu trong nước. Trong hoạt động đầu tư luôn chú ý tận dụng cơ hội để tham gia vào phân công lao động quốc tế, để có thị trường ở nước ngoài. - Tình hình cung cấp những mặt hàng hoặc hoạt động dịch vụ trên đây ở trong nước và trên thế giới còn chỗ trống để dự án chiếm lĩnh trong một thời gian dài. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là điều tất nhiên. Tuy nhiên, ở những lĩnh vực hoạt động cung chưa đáp ứng cầu thì sự cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm và tiến hành các hoạt động dịch vụ không là vấn đề phải quan tâm nhiều. Do đó, tìm chỗ trống trên thị trường để tiến hành các hoạt động đầu tư sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ sản phẩm không gặp phải sự cạnh tranh gay gắt với các cơ sở khác. Điều này cho phép giảm chi phí tiêu thụ sản phẩm, tăng năng suất lao động, nhanh chóng thu hồi đủ vốn đã bỏ ra. Một điều cần lưu ý là do vốn chi cho một công cuộc đầu tư phát triển rất lớn, các thành quả của các công cuộc đầu tư phát triển thường rất lớn, các thành quả của các công cuộc đầu tư cần phải hoạt động trong một thời gian dài mới thu hồi đủ vốn đã bỏ ra. Vì vậy, "chỗ trống" trong thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án đầu tư cũng phải tồn tại trong một thời gian dài đủ để dự án hoạt động hết đời và chủ đầu tư tiêu thụ hết sản phẩm của dự án. - Tiềm năng sẵn có cần và có thể khai thác về vốn, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động để thực hiện dự án của đất nước, của địa phương, của ngành hoặc của các cơ sở. Những lợi thế so sánh nếu thực hiện đầu tư so với nước khác, địa phương khác hoặc cơ sở khác. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, có lợi thế so sánh sẽ đảm bảo khả năng thắng đối thủ cạnh tranh rất nhiều. Vì vậy, khi dự kiến tiến hành các công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, không thể không chú ý đến vấn đề lợi thế so sánh. Nếu tự nó không có lợi thế so sánh (tài nguyên thuộc loại khan hiếm, lao động vào loại có giá rẻ, vị trí rất thuận lợi cho tiêu thụ sản phẩm ) thì phải dự kiến phương án tạo ra lợi thế so sánh như đầu tư sang các nước khác có nhiều lợi thế so sánh hơn trong nước hoặc hơn ở nước dự kiến ban đầu sẽ đầu tư (không bị đánh thuế xuất khẩu hàng hoá của dự án, nhập khẩu thiết bị để thực hiện dự án - chứ không phải để bán lại kiếm lời - khai thác tài nguyên khan hiếm, ), hoặc đề ra các biện pháp để tạo lợi thế so sánh như sử dụng vật liệu mới, vật liệu khai thác tại chỗ để giảm chi phí đầu vào, tận dụng lao động dư thừa giá rẻ của địa phương (một phần hoặc bộ phận thời gian lao động của họ) để khai thác nguyên vật liệu tại chỗ vừa làm giảm giá chi phí công nhân vừa giảm giá chi phí vận chuyển cả các đầu vào thường xuyên. - Những kết quả và hiệu quả sẽ đạt được nếu thực hiện đầu tư. Đây là tiêu chuẩn tổng hợp để đánh giá tính khả thi của toàn bộ dự án đầu tư. Những kết quả và hiệu quả này phải lớn hơn hoặc chí ít cũng phải bằng nếu đầu tư vào dự án Trường Cao đẳng nghề Nam Định 21
  19. Giáo trình lập và phân tích dự án khác hoặc bằng định mức thì cơ hội đầu tư mới được chấp nhận để chuyển tiếp sang giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi hoặc khả thi. 2. Nghiên cứu tiền khả thi 2.1. Mục đích Đây là bước nghiên cứu tiếp theo của các cơ hội đầu tư có nhiều triển vọng đã được lựa chọn có quy mô đầu tư lớn, phức tạp về mặt kỹ thuật, thời gian thu hồi vốn lâu, có nhiều yếu tố bất định tác động. Bước này nghiên cứu sâu hơn các khía cạnh mà khi xem xét cơ hội đầu tư còn thấy phân vân chưa chắc chắn, nhằm tiếp tục lựa chọn, sàng lọc các cơ hội đầu tư (đã được xác định ở cấp độ ngành, vùng hoặc cả nước) hoặc để khẳng định lại cơ hội đầu tư đã được lựa chọn có đảm bảo tính khả thi hay không. Mục đích nghiên cứu tiền khả thi nhằm loại bỏ các dự án bấp bênh (về thị trường, về kỹ thuật), những dự án mà kinh phí đầu tư quá lớn, mức sinh lợi nhỏ, hoặc không thuộc loại ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hoặc chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh. Nhờ đó các chủ đầu tư có thể hoặc loại bỏ hẳn dự án để khỏi tốn thời gian và kinh phí, hoặc tạm xếp dự án lại chờ cơ hội thuận lợi hơn. Đối với các cơ hội đầu tư quy mô nhỏ, không phức tạp về mặt kỹ thuật và triển vọng đem lại hiệu quả rõ ràng thì có thể bỏ qua giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi. 2.2. Nội dung nghiên cứu tiền khả thi bao gồm các vấn đề sau đây: + Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư, các điều kiện thuận lợi và khó khăn. + Dự kiến quy mô đầu tư, hình thức đầu tư. + Chọn khu vực địa điểm xây dựng và dự kiến diện tích sử dụng trên cơ sở giảm tới mức tối đa việc sử dụng đất và những ảnh hưởng về môi trường, xã hội và tái định cư. + Phân tích, lựa chọn sơ bộ về công nghệ, kỹ thuật và các điều kiện cung cấp vật tư thiết bị, nguyên liệu, năng lượng, dịch vụ, hạ tầng . + Phân tích, lựa chọn sơ bộ các phương án xây dựng . + Xác định sơ bộ tổng mức đầu tư, phương án huy động các nguồn vốn, khả năng hoàn vốn và trả nợ, thu lãi. + Tính toán sơ bộ hiệu quả đầu tư về mặt kinh tế xã hội của dự án + Xác định tính độc lập khi vận hành, khai thác của các dự án thành phần hoặc tiểu dự án . Trường Cao đẳng nghề Nam Định 22
  20. Chương 2. Trình tự nội dung nghiên cứu và công tác . Đặc điểm nghiên cứu các vấn đề trên ở giai đoạn này là chưa chi tiết, xem xét ở trạng thái tĩnh, ở mức trung bình mọi đầu vào, đầu ra, mọi khía cạnh kỹ thuật, tài chính kinh tế của cơ hội đầu tư và toàn bộ quá trình thực hiện đầu tư vận hành kết quả đầu tư. Do đó độ chính xác chưa cao. Đối với các khoản chi phí đầu tư nhỏ có thể tính nhanh chóng. Chẳng hạn dự tính vốn lưu động cho một chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp bằng cách chia tổng doanh thu bình quân năm cho số chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp trong năm. Đối với chi phí bảo hiểm, thuế: ước tính theo tỷ lệ phần trăm so với doanh thu, chi phí lắp đặt thiết bị ước tính theo tỷ lệ phần trăm so với giá trị công trình hoặc thiết bị (các tỷ lệ này sẽ khác nhau đối với các dự án khác nhau). Đối với các chi phí đầu tư lớn như giá trị công trình xây dựng, giá trị thiết bị và công nghệ phải tính toán chi tiết hơn. Sản phẩm cuối cùng của nghiên cứu tiền khả thi là Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi . 3. Nghiên cứu khả thi Đây là bước sàng lọc lần cuối cùng để lựa chọn được dự án tối ưu. ở giai đoạn này phải khẳng định cơ hội đầu tư có khả thi hay không? Có vững chắc, hiệu quả hay không? ở bước nghiên cứu này, nội dung nghiên cứu cũng tương tự như giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi, nhưng khác nhau ở mức độ chi tiết hơn, chính xác hơn. Mọi khía cạnh nghiên cứu đều được xem xét ở trạng thái động, tức là có tính đến các yếu tố bất định có thể xảy ra theo từng nội dung nghiên cứu. Xem xét sự vững chắc hay không của dự án trong điều kiện có sự tác động của các yếu tố bất định, hoặc cần có các biện pháp tác động gì để đảm bảo cho dự án có hiệu quả. Tất cả ba giai đoạn nghiên cứu nói trên phải được tiến hành đối với các dự kiến đầu tư lớn nhằm đảm bảo từng bước phân tích sâu hơn, đầy đủ và chi tiết hơn, phát hiện và khắc phục dần những sai sót ở các giai đoạn nghiên cứu trước thông qua việc tính toán lại, đối chiếu các dữ kiện, các thông số, thông tin thu thập được qua mỗi giai đoạn. Điều này sẽ đảm bảo cho các kết quả nghiên cứu khả thi đạt được độ chính xác cao. Đối với các dự án đầu tư nhỏ, quá trình nghiên cứu có thể gom lại làm một bước. 3.1. Bản chất và mục đích của nghiên cứu khả thi. a. Bản chất của nghiên cứu khả thi: Xét về mặt hình thức, tài liệu nghiên cứu khả thi là một tập hợp hồ sơ trình bày một cách chi tiết và có hệ thống tính vững chắc, hiện thực của một hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội theo các khía cạnh thị trường, kỹ thuật, tài chính, tổ chức quản lý và kinh tế xã hội. ở nước ta, nghiên cứu khả thi thường được gọi là lập luận chứng kinh tế kỹ thuật. Nghiên cứu khả thi được tiến hành dựa vào kết quả của các nghiên cứu Trường Cao đẳng nghề Nam Định 23
  21. Giáo trình lập và phân tích dự án cơ hội đầu tư và nghiên cứu tiền khả thi đã được các cấp có thẩm quyền chấp nhận. ở giai đoạn nghiên cứu khả thi, dự án được soạn thảo kỹ lưỡng hơn, đảm bảo cho mọi dự đoán, mọi tính toán đạt được ở mức độ chính xác cao trước khi đưa ra để các cơ quan kế hoạch, tài chính, ngân hàng, các định chế tài chính quốc tế thẩm định. b. Mục đích của nghiên cứu khả thi: Như phần trên đã đề cập, quá trình nghiên cứu khả thi được tiến hành qua 3 giai đoạn. Giai đoạn nghiên cứu cơ hội đầu tư nhằm loại bỏ ngay những dự kiến rõ ràng không khả thi mặc dù không cần đi sâu vào chi tiết. Tính không khả thi này được chứng minh bằng các số liệu thống kê, các tài liệu thông tin kinh tế dễ tìm. Điều đó giúp cho tiết kiệm được thì giờ, chi phí của các nghiên cứu kế tiếp. Mục đích nghiên cứu khả thi là xem xét lần cuối cùng nhằm đi đến những kết luận xác đáng về mọi vấn đề cơ bản của dự án bằng các số liệu đã được tính toán cẩn thận, chi tiết, các đề án kinh tế - kỹ thuật, các lịch biểu và tiến độ thực hiện dự án trước khi quyết định đầu tư chính thức. Như vậy, nghiên cứu khả thi là một trong những công cụ thực hiện kế hoạch kinh tế của ngành, của địa phương và của cả nước, để biến kế hoạch thành hành động cụ thể và đem lại lợi ích kinh tế xã hội cho đất nước, lợi ích tài chính cho nhà đầu tư. 3.2. Nội dung chủ yếu của nghiên cứu khả thi Nghiên cứu khả thi còn được gọi là lập dự án đầu tư. Nội dung chủ yếu của dự án đầu tư bao gồm các khía cạnh kinh tế vi mô và vĩ mô, quản lý và kỹ thuật. Các khía cạnh này ở các dự án thuộc các ngành khác nhau đều có nét đặc thù riêng. Do đó việc chọn lĩnh vực để mô tả kỹ thuật soạn thảo và phân tích dự án sẽ ra một mô hình tương đối hoàn chỉnh. Mô hình này có thể được sử dụng tham khảo khi soạn thảo các dự án thuộc các ngành khác. Nội dung chủ yếu cụ thể của một dự án đầu tư bao gồm các vấn đề sau đây: -Xem xét tình hình kinh tế tổng quát liên quan đến dự án đầu tư Có thể coi tình hình kinh tế tổng quát là nền tảng của dự án đầu tư. Nó thể hiện khung cảnh đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển và hiệu quả kinh tế tài chính của dự án đầu tư. + Điều kiện về địa lý tự nhiên (địa hình, khí hậu, địa chất ) có liên quan đến việc lựa chọn, thực hiện và phát huy hiệu quả của dự án sau này. + Điều kiện về dân số và lao động có liên quan đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm, đến nguồn lao động cung cấp cho dự án. Trường Cao đẳng nghề Nam Định 24
  22. Chương 2. Trình tự nội dung nghiên cứu và công tác . + Tình hình chính trị, các chính sách và luật lệ có ảnh hưởng đến sự quan tâm của nhà đầu tư. + Tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của địa phương, tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của ngành, của cơ sở (tốc độ gia tăng GDP, tỷ lệ đầu tư so với GDP, quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, GDP/đầu người, tỷ suất lợi nhuận sản xuất kinh doanh ) có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện và sự phát huy hiệu quả của sự dự án. + Tình hình ngoại hối (cán cân thanh toán ngoại hối, dự trữ ngoại tệ, nợ nần và tình hình thanh toán nợ ) đặc biệt đối với các dự án phải nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị. + Hệ thống kinh tế và các chính sách bao gồm: - Cơ cấu tổ chức hệ thống kinh tế theo ngành, theo quan hệ sở hữu, theo vùng lãnh thổ để đánh giá trình độ và lợi thế so sánh của dự án đầu tư. - Các chính sách phát triển, cải cách kinh tế, chuyển dịch cơ cấu nhằm đánh giá trình độ nhận thức, đổi mới tư duy và môi trường thuận cho đầu tư đến đâu. + Thực trạng kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân theo thời hạn, theo mức độ chi tiết, theo các mục tiêu, các ưu tiên, các công cụ tác động để từ đó thấy được khó khăn, thuận lợi, mức độ ưu tiên mà dự án sẽ được hưởng ứng, những hạn chế mà dự án phải tuân theo. + Tình hình ngoại thương và các định chế có liên quan như tình hình xuất nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái, các luật lệ đầu tư cho người nước ngoài, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế Những vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc. Chẳng hạn chính sách tỷ giá hối đoái không thích hợp (tỷ giá đồng nội địa so với ngoại tệ thấp) sẽ gây ra tình trạng càng xuất khẩu càng lỗ, thuế xuất khẩu quá cao sẽ gây khó khăn trong cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác trên thị trường ngoài nước, các luật lệ đầu tư có tác dụng khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài Các dữ kiện và số liệu để nghiên cứu tình hình kinh tế tổng quát của dự án trên đây có thể thu thập dễ dàng trong các niên giám, báo cáo thống kê, tạp chí, sách báo và tài liệu kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, những dự án nhỏ không cần nhiều dữ kiện kinh tế vĩ mô như vậy. Còn các dự án lớn thì tuỳ thuộc vào mục tiêu, đặc điểm và phạm vi tác dụng của dự án mà lựa chọn trong các vấn đề kinh tế tổng quát trên đây những vấn đề nào có liên quan đến dự án để xem xét. Đối với các cấp thẩm định dự án, các vấn đề kinh tế vĩ mô được xem xét không chỉ ở góc độ tác động của nó đối với dự án, mà cả tác động của dự án đối Trường Cao đẳng nghề Nam Định 25
  23. Giáo trình lập và phân tích dự án với nền kinh tế ở giác độ vĩ mô như lợi ích kinh tế xã hội do dự án đem lại, tác động của dự án đối với sự phát triển của nền kinh tế, của ngành đối với cải cách cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế đối ngoại -Nghiên cứu về thị trường Thị trường là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của dự án. Ngay cả trong trường hợp dự án đã ký được các hợp đồng bao tiêu cũng phải nghiên cứu thị trường nơi người bao tiêu sẽ bán sản phẩm và uy tín của người bao tiêu trên thị trường. Mục đích nghiên cứu thị trường ở đây nhằm xác định: + Thị trường cung cầu sản phẩm hoặc dịch vụ của dự án hiện tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai, các yếu tố kinh tế và phi kinh tế tác động đến nhu cầu của sản phẩm hoặc dịch vụ. + Các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết để có thể giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm của dự án (bao gồm cả chính sách giá cả, tổ chức, hệ thống phân phối, bao bì, trang trí, quảng cáo ) + Khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với sản phẩm cùng loại có sẵn và các sản phẩm có thể ra đời sau này. Để nghiên cứu thị trường cần: Các thông tin cần thiết cho nghiên cứu nhu cầu ở tầm vĩ mô và vi mô. Trường hợp thiếu thông tin, hoặc thông tin không đủ tin cậy, tuỳ thuộc vào mức thiếu thông tin có thể sử dụng các phương pháp khác nhau để đoán như ngoại suy từ các trường hợp tương tự , từ tình hình của quá khứ, sử dụng các thông tin gián tiếp có liên quan, tổ chức điều tra bằng phỏng vấn, hoặc khảo sát lấy mẫu phân tích để bổ sung. Có các chuyên gia có kiến thức về sản phẩm của dự án, về những sản phẩm có thể thay thế, về quy luật và cơ chế hoạt động của thị trường, pháp luật, thương mại, chính trị, xã hội để có thể lựa chọn, phân tích và rút ra được những kết luận cụ thể và xác đáng. * Nội dung của nghiên cứu thị trường: + Đối với thị trường nội địa: - Nhu cầu hiện tại và tương lai về sản phẩm của dự án. Ai là khách hang chính? Ai là khách hàng mới? - Nhu cầu hiện tại được đáp ứng ra sao ? (bao nhiêu do địa phương sản xuất, bao nhiêu do các địa phương khác trong nước đáp ứng, bao nhiêu do nhập khẩu, nhập khẩu từ khu vực nào trên thế giới); - Ước lượng mức gia tăng nhu cầu ngoài nước hàng năm về sản phẩm của dự án; Trường Cao đẳng nghề Nam Định 26
  24. Chương 2. Trình tự nội dung nghiên cứu và công tác . - Ước lượng mức gia tăng nhu cầu ngoài nước hàng năm về sản phẩm của dự án. - Ước giá bán và chất lượng sản phẩm của dự án, dự kiến kiểu dáng, bao bì để có thể cạnh tranh với các cơ sở sản xuất khác trong và ngoài nước, hiện tại và tương lai. Trường hợp phải cạnh tranh với hàng nhập, cần sự hỗ trợ gì của Nhà nước. Chi phí cần thiết cho sự cạnh tranh này. + Đối với thị trường xuất khẩu: - Khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu về mặt giá cả, kiểu dáng, chất lượng và sự phụ thuộc về cung ứng vật tư, khả năng tài chính, quản lý và kỹ thuật. - Khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu (ở khu vực nào, khối lượng bao nhiêu hàng năm). Cần phải làm gì để mở rộng thị trường xuất khẩu ? - Quy định của thị trường xuất khẩu về bao bì, phẩm chất, vệ sinh. - Khế ước tiêu thụ sản phẩm: Thời hạn bao lâu? Số lượng tiêu thụ, giá cả; - Dự kiến thị trường thay thế khi cần thiết. - Để có thể xuất khẩu được, cần sự hỗ trợ gì của Nhà nước. - Vấn đề tiêu thụ sản phẩm: - Các cơ sở tiếp thị và phân phối sản phẩm. - Chi phí cho công tác tiếp thị và phân phối sản phẩm. - Sản phẩm dự kiến bán cho ai (qua hệ thống thương nghiệp, bán trực tiếp, qua các đại lý ). Phương thức thanh toán : chuyển khoản, tiền mặt; - Về vấn đề cạnh tranh: Xem xét các cơ sở cạnh tranh chính trong nước hiện có và trong tương lai, tình hình và triển vọng hoạt động của các cơ sở này, lợi ích so sánh của sản phẩm do dự án sản xuất (chi phí sản xuất, kiểu dáng, chất lượng ) Xem xét khả năng thắng trong cạnh tranh với hàng nhập, cần điều kiện gì; II. Tổ chức soạn thảo dự án đầu tư 1. Yêu cầu và căn cư để soạn thảo dự án Soạn thảo dự án là một công việc khó khăn, phức tạp. Không thể xem soạn thảo dự án là việc làm chiếu lệ để tìm đối tác hoặc vay vốn đầu tư. Để một dự án đầu tư có tính thuyết phục và thu hút các bên tham gia, khi soạn thảo dự án cần đảm bảo đầy đủ những yêu cầu cơ bản sau: Một là, dự án phải có tính khoa học. Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu Trường Cao đẳng nghề Nam Định 27
  25. Giáo trình lập và phân tích dự án của dự án đầu tư. Đảm bảo yêu cầu này sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai và thực hiện thành công dự án. Tính khoa học của dự án được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau: - Về số liệu thông tin. Những dữ liệu, thông tin để xây dựng dự án phải đảm bảo trung thực, chính xác, tức là phải chứng minh được nguồn gốc và xuất xứ của những thông tin và những số liệu đã thu thập được (do các cơ quan có trách nhiệm cung cấp, nghiên cứu tìm hiểu thực tế ). - Về phương pháp lý giải. Các nội dung của dự án không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà chúng luôn nằm trong một thể thống nhất, đồng bộ. Vì vậy, quá trình phân tích, lý giải các nội dung đã nêu trong dự án phải đảm bảo logic và chặt chẽ. - Về phương pháp tính toán. Khối lượng tính toán trong một dự án thường rất lớn. Do đó, khi thực hiện tính toán các chỉ tiêu cần đảm bảo đơn giản và chính xác. Đối với các đồ thị, các bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo chính xác về kích thước, tỷ lệ. -Về hình thức trình bày. Dự án chứa đựng rất nhiều nội dung, nên khi trình bày phải đảm bảo có hệ thống, rõ ràng và sạch đep. Hai là, tính pháp lý. Tính pháp lý của dự án phản ánh quyền lợi của quốc gia trong dự án. Vì vậy, việc triển khai, thực hiện dự án phải được phép của các cơ quan có thẩm quyền. Muốn vậy, dự án đầu tư không chứa đựng những điều trái với luật pháp và chính sách của Nhà nước về đầu tư. Nói khác đi là dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc, tức là phù hợp với chính sách và luật pháp của Nhà nước. Điều này đòi hỏi người soạn thảo dự án phải nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước và các văn bản luật pháp có liên quan đến các hoạt động đầu tư đó. Ba là, tính thực tiễn. Tính thực tiễn của dự án đầu tư thể hiện ở chỗ nó có khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Mỗi dự án bao giờ cũng thuộc một ngành, lĩnh vực cụ thể với những thông số, tính toán và chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cụ thể. Mặt khác, dự án diễn ra ở những địa điểm cụ thể và chịu tác động của những yếu tố môi trường xác định về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội Bởi các lý do chính yếu trên, cho nên, các nội dung, khía cạnh phân tích của dự án đầu tư không thể chung chung mà dựa trên những căn cứ thực tế, tức là dự án phải được xây dựng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về mặt bằng, thị trường, vốn Bốn là, tính thống nhất. Lập và thực hiện dự án đầu tư là cả một quá trình gian nan, phức tạp. Đó không phải là công việc độc lập của chủ đầu tư mà nó liên quan đến nhiều bên như cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, các nhà tài trợ Trường Cao đẳng nghề Nam Định 28
  26. Chương 2. Trình tự nội dung nghiên cứu và công tác . Vì vậy, dự án phải biểu hiện sự thống nhất về lợi ích giữa các bên có liên quan đến dự án. Muốn các bên đối tác hiểu và quyết định tham gia dự án đầu tư, các tổ chức tài chính quyết định tài trợ hay cho vay đối với các dự án và muốn được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy phép đầu tư thì việc xây dựng dự án từ các bước tiến hành đến nội dung, hình thức, cách trình bày dự án cần phải tuân thủ theo những quy định chung mang tính quốc tế. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho các bên chấp thuận dự án. Năm là, tính phỏng định. Xuất phát từ tính phức tạp của đầu tư nên người soạn thảo dự án dù có nhiều kinh nghiệm và chuẩn bị hết sức chu đáo, kỹ lưỡng cũng không thể lường hết được những yếu tố sẽ chi phối hoạt động đầu tư trong tương lai. Những nội dung, tính toán về quy mô sản xuất, chi phí, giá cả, doanh thu, lợi nhuận trong dự án chỉ có tính chất dự trù, dự báo. Thực tế thường xảy ra không hoàn toàn đúng như dự báo. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, thực tế xảy ra lại khác xa so với dự kiến ban đầu trong dự án. Vì vậy, dự án có tính phỏng định. Nhưng sự phỏng định phải dựa trên những căn cứ khoa học, trung thực và khách quan nhằm giảm thiểu rủi ro, độ bất định trong quá trình thực hiện dự án. 2. Lập nhóm soạn thảo dự án đầu tư Nhóm soạn thảo dự án thường gồm chủ nhiệm dự án và các thành viên. Số lượng các thành viên của nhóm phụ thuộc vào nội dung và quy mô của dự án. Chủ nhiệm dự án là người tổ chức và điều hành công tác lập dự án. Nhiệm vụ chính của chủ nhiệm dự án là: - Lập kế hoạch, lịch trình soạn thảo dự án (bao gồm cả xác định và phân bổ kinh phí soạn thảo) - Phân công công việc cho các thành viên trong nhóm. - Giám sát và điều phối hoạt động của các thành viên trong nhóm. - Tập hợp các chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau để giải quyết nội dung cụ thể của dự án. - Tổng hợp kết quả nghiên cứu của nhóm soạn thảo. Để hoàn thành những nhiệm vụ trên, chủ nhiệm dự án phải là người có trình độ chuyên môn và có năng lực tổ chức nhất định. Chủ nhiệm dự án cần được ổn định trong quá trình soạn thảo và có thể cả trong quá trình thực hiện dự án. Các thành viên của nhóm soạn thảo dự án cần phải là những người có trình độ chuyên môn cần thiết phù hợp với nội dung và yêu cầu cụ thể của công việc soạn thảo dự án mà họ được phân công. III. Hình thức của một dự án 1. Bố cục thông thường của một dự án Trường Cao đẳng nghề Nam Định 29
  27. Giáo trình lập và phân tích dự án - Mục lục của bản dự án - Tóm tắt dự án - Phần thuyết minh của dự án - Phần thiết kế cơ sở của dự án - Kết luận và kiến nghị - Phụ lục tính toán và những hồ sơ, tài liệu, thông tin cần thiết liên quan tới các nội dung nghiên cứu khả thi. 2. Nội dung cơ bản trong báo cáo nghiên cứu khả thi Lời mở đầu: Lời mở đầu cần đưa ra được một cách khái quát những lý do dẫn tới việc hình thành dự án. Lời mở đầu phải thu hút sự quan tâm của người đọc và hướng đầu tư của dự án, đồng thời cung cấp một số thông tin cơ bản về địa vị pháp lý của chủ đầu tư và ý đồ đầu tư cho người đọc. Lời mở đầu nên viết ngắn gọn, rõ ràng. Thông thường lời mở đầu của một bản dự án chỉ 1 - 2 trang. Sự cần thiết phải đầu tư: Trình bày những căn cứ cụ thể để khẳng định về sự cần thiết phải đầu tư. Cần chú ý đảm bảo tính xác thực của các luận cứ và tính thuyết phục trong luận chứng. Các nội dung ở phần này cần viết ngắn gọn, khẳng định và thường được trình bày trong 1 - 2 trang. Trong các trường hợp quy mô dự án nhỏ hoặc sự cần thiết của đầu tư là hiển nhiên thì phần luận giải sự cần thiết phải đầu tư thường được kết hợp trình bày trong lời mở đầu của bản dự án. Phần tóm tắt dự án đầu tư: Đây là phần quan trọng của dự án, là phần được lưu ý và đọc đến nhiều nhất. Mục đích của phần này là cung cấp cho người đọc toàn bộ nội dung của dự án nhưng không đi sâu vào chi tiết của bất cứ một khoản mục nội dung nào. ở đây mỗi khoản mục nội dung của dự án được trình bày bằng kết luận mang tính thông tin định lượng ngắn gọn, chính xác. Thông thường phần tóm tắt dự án đề cập các thông tin cơ bản như: - Tên của dự án - Chủ dự án - Tên chủ đầu tư hoặc đơn vị được uỷ quyền, địa chỉ, số điện thoại, số FAX - Đơn vị lập dự án - Đặc điểm đầu tư - Mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của đầu tư Trường Cao đẳng nghề Nam Định 30
  28. Chương 2. Trình tự nội dung nghiên cứu và công tác . Đối với các dự án quy mô trung bình thông thường phần tóm tắt dự án được trình bày không quá 2 trang. Những dự án quy mô lớn phần tóm tắt cũng không quá 3 trang. Phần thuyết minh chính của dự án đầu tư: Phần này trình bày chi tiết nội dung và kết quả nghiên cứu ở bước nghiên cứu khả thi dự án trên các mặt: - Những căn cú để xác định đầu tư; - Nghiên cứu thị trường sản phẩm (hay dịch vụ) của dự án; - Nghiên cứu công nghệ kỹ thuật của dự án; - phân tích tài chính của dự án; - phân tích kinh tế - xã hội của dự án; - tổ chức quản lý quá trình đầu tư. Trình bày phần này cần chú ý đảm bảo tính lôgíc, chặt chẽ và rõ ràng, nhất là khi tóm tắt, kết luận về thị trường. Người thẩm định dự án có công nhận kết quả nghiên cứu thị trường hay không là tùy thuộc vào sự đánh giá của họ đối với các chứng cứ được đưa ra và phương pháp lập luận, trình bày ở phần này. Trình bày kết luận và kiến nghị Phần này cần chú ý: Tình khả thi về từng khía cạnh nội dung nghiên cứu và kết luận chung về tính khả thi của dự án. Nêu rõ những thuận lợi và trở ngại cho việc thực hiện dự án cần phải có giải pháp khắc phục. Phần phụ lục của dự án: Trình bày các chứng minh chi tiết cần thiết về các phương diện nghiên cứu khả thi mà việc đưa chúng vào phần thuyết minh chính của dự án sẽ làm cho phần thuyết minh chính trở nên phức tạp, cồng kềnh, do đó cần tách ra thành phần phụ đính. Ví dụ: Các thống kê chi tiết công nghệ chế tạo sản phẩm, danh mục máy móc, thiết bị và nhà cung cấp; sơ đồ bố trí mặt bằng, thiết kế kỹ thuật; chi tiết về trình độ, năng lực của chủ dự án, của những người trong ban quản lý dự án v.v Trường Cao đẳng nghề Nam Định 31
  29. Giáo trình lập và phân tích dự án Thực hành  Căn cứ vào các điều kiện kinh tế xã hội của địa phương hãy tìm kiếm cơ hội đầu tư( đầu tư sản xuất sản phẩm dịch vụ nào đó dựa vào nhuồn nguyên liệu và loa động sẵn có của địa phương) để chuẩn bị hình thành một dự án. Câu hỏi 1. So sánh nội dung và đặc điểm nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi? 2. Quá trình soạn thảo dự án đầu tư có nhất thiết phải tiến hành theo 3. Trình bày yêu cầu và các căn cứ để soạn thảo dự án đầu tư? 4. Nêu bố cục thông thường của một dự án? 5. Khái quát nội dung cơ bản trong báo cáo nghiên cứu khả thi làm rõ những điểm cần chú ý trong từng phần của báo cáo? Trường Cao đẳng nghề Nam Định 32
  30. Chương 3. Nghiên cứu về thị trường trong dự án đầu tư Chương III Nghiên cứu về thị trường trong dự án đầu tư i. Vai trò và mục tiêu nghiên cứu thị trường của dự án 1. Vai trò Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta trước đây, sản phẩm hàng hoá khan hiếm do nguyên nhân chủ yếu là năng lực sản xuất hạn chế. Hầu hết các sản phẩm sản xuất ra đều được tiêu thụ. Vì vậy, vấn đề thị trường được ít người quan tâm. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đã tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của các đơn vị, đem lại một thực tế là có nhiều sản phẩm hàng hoá xuất hiện trên thị trường. Sự xuất hiện nhiều sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu của con người đã góp phần quan trọng làm thay đổi tư duy của các nhà đầu tư, sản xuất. Tư duy bắt đầu từ việc sản xuất rồi tìm cách bán hàng, tiêu thụ sản phẩm đã khép lại, nhường chỗ cho một tư duy mới, đó là cần bắt đầu từ nghiên cứu thị trường để nắm bắt nhu cầu và tâm lý của người tiêu dùng, từ đó lựa chọn sản phẩm để đầu tư, sản xuất và tổ chức tiêu thụ phù hợp với sở thích, nếp sống và sức mua của khách hàng. Như vậy là, dự án cần sản xuất sản phẩm gì với số lượng và giá cả bao nhiêu không thể xuất phát từ suy nghĩ chủ quan của nhà đầu tư mà phải xuất phát từ thị trường. Nghiên cứu về phương diện thị trường là nội dung quan trọng đầu tiên và có ý nghĩa sống còn của dự án. Thị trường là nơi phát ra những tín hiệu rất cần thiết đối với chủ đầu tư. Nghiên cứu thị trường là nội dung quan trọng là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và qui mô của dự án. Mặt khác, nghiên cứu về phương diện thị trường cũng là một vấn đề rất phức tạp, mang nặng tính lý thuyết, vận dụng vào thực tế gặp rất nhiều khó khăn do thiếu số liệu hoặc số liệu không đủ độ tin cậy cao. Thực tế cho thấy nhiều dự án không thành công đều có nguyên nhân do nghiên cứu thị trường không chính xác. Để nghiên cứu thị trường cần các thông tin ở tầm vĩ mô và vi mô như các kế hoạch lớn định hướng việc phát triển kinh tế quốc dân, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, chỉ số lạm phát, tình hình xuất - nhập khẩu và tuỳ theo sản phẩm của từng dự án cụ thể để xác định những thông tin cần thiết khác. Nghiên cứu thị trường có vai trò quan trọng và ý nghĩa hết sức to lớn. Nghiên cứu thị trường cho phép người soạn thảo phân tích đánh giá cung cầu thị trường ở hiện tại và dự báo cung cầu thị trường trong tương lai về sản phẩm của dự án. Kết quả nghiên cứu thị trường cho phép ngươi soạn thảo đi đến quyết định có nên đầu tư không và xác định quy mô đầu tư cho thích hợp. Bởi vì dự án chỉ Trường Cao đẳng nghề Nam Định 33
  31. Giáo trình lập và phân tích dự án được thực hiện hay chấp nhận khi đạt được hiệu quả về tài chính và kinh tế - xã hội. 2. Mục tiêu Mục tiêu nghiên cứu thị trường ở đây nhằm: - Phân tích đánh giá thị trường tổng thể; - Phân khúc thị trường và xác định thị trường mục tiêu của dự án; - Xác định cung cầu sản phẩm hoặc dịch vụ của dự án hiện tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai, các yếu tố kinh tế và phi kinh tế tác động đến nhu cầu của sản phẩm hoặc dịch vụ. - Lựa chọn các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết để có thể giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm của dự án được thuận lợi(bao gồm cả chính sách giá cả, tổ chức, hệ thống phân phối, bao bì, trang trí, quảng cáo ) - Đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với sản phẩm cùng loại có sẵn và các sản phẩm có thể ra đời sau này. Để nghiên cứu thị trường cho kết quả chính xác phục vụ cho việc xác định thị phần và quy mô của dự án, nghiên cứu thị trường phải đảm bảo đạt được những mục tiêu sau: Thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết cho nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án. Thông tin phải đảm bảo độ chính xác và tin cậy. Sử dụng các phương pháp phân tích phù hợp như: Trường hợp thiếu thông tin, hoặc thông tin không đủ độ tin cậy thì tùy vào mực độ thiếu thông tin có thể sử dụng các phương pháp khác nhau để dự đoán như ngoại suy từ các trường hợp tương tự, từ tình hình của quá khứ, sử dụng các thông tin gián tiếp có liên quan, tổ chức điều tra phỏng vấn, hoặc khảo sát lấy mẫu phân tích để bổ xung. Sử dụng các dữ liệu về kinh tế: Tổng sản lượng, sản phẩm quốc nội, tốc độ tăng trưởng, thu nhập gia đình, bình quân đầu người, cơ cấu sản xuất của nên kinh tế, cơ cấu lao động, các chỉ số tiền tệ Sử dụng các dữ kiện thông tin về thị trường sản phẩm: Khối lượng sản xuất, nhập khẩu sản phẩm trong khoảng 5 đến 10 năm, giá cả sản phẩm theo thời gian, sự biến động của các sản phẩm bổ sung và cạnh tranh. Sử dụng các dữ liệu khác của nền kinh tế đối với từng loại sản phẩm. II. Phân tích cung cầu về sản phẩm mà dự án định sản xuất Trường Cao đẳng nghề Nam Định 34
  32. Chương 3. Nghiên cứu về thị trường trong dự án đầu tư Mọi sản phẩm là ra đều nhằm mục đích đáp ứng những nhu cầu xã hội. Nhu cầu xã hội rất đa dạng, để phù hợp với từng lợi ích mà dự án đem lại, thì việc phân tích thị trường tổng thể giúp chủ đầu tư có cái nhìn tổng quan hơn đối thị trường sản phẩm của dự án. 1. Phân tích về cung sản phẩm Để phân tích được mức tiêu thụ của thị trường tổng thể cần những dữ liệu thống kê sau: Số lượng sản phẩm do các doanh nghiệp trong nước sản xuất và cung ứng cho thị trường. Khối lượng sản phẩm đó được nhập khẩu hàng năm Mức tồn kho cuối năm của sản phẩm Giá cả sản phẩm: Nếu sản phẩm khác nhau về nhẵn hiệu có thể dẫn đến sự khác biệt về giá cả. Vì vậy phải chia sản phẩm ra nhiều loại theo mức giá. Phân tích cung sản phẩm là phân tích khối lượng cung ứng hiện tại và số lượng sản phẩm cung ứng từ các nguồn. Vì việc phân tích này giúp cho chủ đầu tư biết hiện tại khoảng trống thị trường và làm căn cứ cho việc nghiên cứu, dự báo tổng khôi lượng và nguồn cung ứng các sản phẩm dự án trong tương lai. Quy mô thị trường hiện tại. Quy mô thị trường hiện tại là tổng mức tiêu thụ sản phẩm đồng loại (hoặc thay thế) với sản phẩm của dự án ở thời điểm hiện tại trên thị trường mục tiêu. Nếu sản phẩm của dự án là sản phẩm hiện đã được các doanh nghiệp khác sản xuất và tiêu thụ trên thị trường thì quy mô thị trường hiện tại trong nước được tính như sau: Y Y + Y - Y - Y ht = sx nk xk tk Trong đó: Y : Quy mô thị trường hiện tại trong nước. ht Y : Lượng sản phẩm đồng loại với sản phẩm của dự án sản xuất sx trong nước ở thời điểm hiện tại. Y : Lượng sản phẩm đồng loại với sản phẩm của dự án được nhập nk khẩu. Y : Lượng sản phẩm đồng loại với sản phẩm của dự án được xuất xk khẩu. Y : Lượng sản phẩm đồng loại với sản phẩm của dự án tồn kho. tk Trường Cao đẳng nghề Nam Định 35
  33. Giáo trình lập và phân tích dự án Về lượng tồn kho hàng năm, nếu không có đủ số liệu thì có thể ước lượng bằng tỷ lệ tồn kho theo kinh nghiệm. Không thể có được các số liệu chính xác nhưng các nhà soạn thảo dự án phải xác định được tương đối những số liệu của các chỉ tiêu trên nhằm phản ánh gần đúng quy mô của thị trường hiện tại. Để có các số liệu làm sơ sở cho việc dự báo nhu cầu tương lai cần phân tích thêm các số liệu trong quá khứ để nhận dạng xu hướng phát triển và xu thế tiêu thụ của thị trường với sản phẩm dự định sản xuất. 2. Phân tích về cầu sản phẩm. Xác định nhu cầu hiện tại của sản phẩm mà dự án dự định sản xuất là điều cần thiết đối với nhà đầu tư. - Nhu cầu hiện tại: Ai là khách hàng chính? - Nhu cầu hiện tại được đáp ứng ra sao ? (bao nhiêu do địa phương sản xuất, bao nhiêu do các địa phương khác trong nước đáp ứng, bao nhiêu do nhập khẩu, nhập khẩu từ khu vực nào trên thế giới); Phân tích cầu sản phẩm Tổng cầu thị trường về một loại sản phẩm là tổng khối lượng sản phẩm mà một nhóm khách hàng nhất định sẽ mua tại một địa bàn nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định với một môi trường marketing và một chương trình marketing nhất đinh.1 tổng nhu cầu thị trường được xác định theo công thức sau: Q = n x q x p trong đó: Q - Tổng nhu cầu thị trường trong một năm n - Số lượng người mua đối với một loại sản phẩm - thị trường nhất định với những giả thiết nhất định q - Số lượng sản phẩm trung bình một người mua trong năm p - Giá trung bình của một đơn vị sản phẩm Cầu của doanh nghiệp là phần cầu của thị trường thuộc về doanh nghiệp cầu của doanh nghiệp được xác định theo công thức: Qi = Si x Q Trong đó Qi - cầu của doanh nghiệp i Si - thị phần của doanh nghiệp i Trường Cao đẳng nghề Nam Định 36
  34. Chương 3. Nghiên cứu về thị trường trong dự án đầu tư Q - Tổng nhu cầu thị trường Khi phân tích cầu sản phẩm của dự án cần lưu ý những vấn đề sau: - Nếu sản phẩm của dự án dự định sản xuất là sản phẩm lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường thì, khi đó cần tìm hiểu diễn biến thị trường tại những nước có điều kiện kinh tế xã hội và trình độ phát triển tương đồng đã sản xuất và tiêu thụ sản phẩm này. Đồng thời kết hợp với các phương pháp khác như tổ chức điều tra phỏng vấn hoặc khảo sát lấy mẫu phân tích, lấy ý kiến chuyên gia, Cần đặc biệt chú ý đến diễn biến cạnh tranh của sản phẩm nội địa với sản phẩm nhập khẩu và thị hiếu tiêu dùng của dân cư. - Trong trường hợp sản phẩm dự định sản xuất là các sản phẩm trung gian dùng làm nguyên liệu đầu vào cho việc sản xuất các sản phẩm khác, cần phân tích diễn biến cầu thị trường sản phẩm của các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm của dự án làm nguyên liệu đầu vào. Ví dụ dự án sản xuất phân bón hay các loại thuốc bảo vệ thực vật. - Đối với những mặt hàng không còn sự khan hiếm về sản phẩm, hoặc mức độ khan hiếm thấp thì mức tiêu thụ hiện tại sẽ phản ánh đúng nhu cầu thị trường hiện taị. - Đối với những sản phẩm có sự khan hiếm, sản xuất ra đến đâu đều được tiêu thụ hết, có thêm nữa vẫn bán được thì mức tiêu thụ hiện tại chưa phản ánh đúng nhu cầu thị trường hiện tại, nhu cầu có thể còn lớn hơn lượng hàng đã tiêu thụ. Lẽ dĩ nhiên các dự án đầu tư cần phát hiện những mặt hàng còn có sự khan hiếm để đầu tư sản xuất. Lúc này, để xác định nhu cầu thị trường hiện tại có thể gia tăng một hệ số nào đó bằng cách tham khảo số liệu của các nước khác, nhất là các nước có kinh nghiệm có đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội giống với nước ta. Trong mọi trường hợp cần phân tích đánh giá thị trường các sản phẩm thay thế sản phẩm của dự án. III. Các ứng dụng marketinh trong phân tích thị trường dự án 1. Phân khúc thị trường Phân khúc thị trường là quá trình phân chia thị trường tổng thể thành những đoạn thị trường mà ở đó khách hàng sẽ có sự giống nhau về nhu cầu hoặc ước muốn hoặc có những phản ứng giống nhau trước cùng một kích thích marketing. Phân khúc thị trường nhằm giúp chủ đầu tư xác định những khúc thị trường mục tiêu hẹp và đồng nhất hơn so với thị trường tổng thể, qua đó lựa chọn Trường Cao đẳng nghề Nam Định 37
  35. Giáo trình lập và phân tích dự án được những khúc thị trường hấp dẫn đối với dự án. Để xác định được một khúc thị trường có hiệu quả, việc phân khúc thị trường phải đạt được những yêu cầu sau: - Tính đo lường được: tức là quy mô và hiệu quả của khúc thị trường đó phải đo lường được. - Tính tiếp cận được: tức là dự án hay chủ đầu tư phải nhận biết và phục vụ được khúc thị trường đã phân chia theo tiêu thức nhất định. - Tính quan trọng: là các khúc thị trường phải bao gồm các khách hàng có nhu cầu đồng nhất với quy mô đủ lớn để có khả năng sinh lời. - Tính khả thi: là có thể có đủ nguồn lực để hình thành và triển khai sản xuất, chương trình marketinh riêng biệt cho từng khúc thị trường đã phân chia. - Thị trường tổng thể có thể được phân khúc dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau như: Địa lý (vùng, miền), dân số - xã hội, tâm lý học (thái độ, động cơ, cá tính ), hành vi tiêu dùng (lý do mua, lợi ích tìm kiếm, tỷ lệ tiêu dùng ). 2. Lựa chọn thị trường mục tiêu Thị trường tiêu thụ là vấn đề quyết định dự thành công hay thất bại của dự án, thậm chí ngay cả trong trường hợp dự án đã ký kết được các hợp đồng bao tiêu sản phẩm cũng vẫn cần phải nghiên cứu thị trường nơi người bao tiêu tiêu thụ sản phẩm cũng như uy tín của người bao tiêu trên thị trường. Nhiệm vụ của nhà đầu tư trong nội dung này là tiến hành phân khúc thị trường, tức là phân chia thị trường thành những nhóm người tiêu thụ khác biệt nhau theo những tiêu chí phù hợp với sản phẩm cụ thể của dự án; sau khi đánh giá mức độ hấp dẫn của mỗi phân khúc nhà đầu tư phải đưa ra quyết định chọn một hay một số khúc tuyến để phục vụ. Một dự án có thể nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước hoặc thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường tiêu thụ nội địa cần xác định rõ khu vực thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án. Nghiên cứu khu vực thị trường yêu cầu phân tích chi tiết đặc điểm của từng khu vực như đặc điểm dân số học (quy mô dân số, độ tuổi, giới tính, nhân khẩu gia đình, thu nhập, nghề nghiệp, ), tâm lý học (tầng lớp xã hội, lối sống, tập quán tiêu dùng ), các điều kiện về tự nhiên, kết cấu hạ tầng Trên cơ sở đó dự kiến nhu cầu của từng khu vực, phương thức tổ chức phân phối, thông tin liên lạc và các loại chi phí liên quan. Đối với thị trường xuất khẩu cần làm rõ các vấn đề sau: + Trong trường hợp được bao tiêu sản phẩm thì số lượng, giá cả là bao nhiêu, thời hạn bao lâu và các yêu cầu, điều kiện của người bao tiêu. Trường Cao đẳng nghề Nam Định 38
  36. Chương 3. Nghiên cứu về thị trường trong dự án đầu tư + Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về mặt giá cả, kiểu dáng, chất lượng với các nhà sản xuất ở nước sở tại và các nhà xuất khẩu từ các nước khác. + Khả năng kỹ thuật, tài chính và quản lý. + Quy định của thị trường nước ngoài về bao bì, phẩm chất, vệ sinh, + Khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu, khả năng tiếp cận với các đối tác bạn hàng mới trong tương lai. Cần phải làm gì để mở rộng thị trường xuất khẩu? + Cần có những sự hỗ trợ nào từ phía nhà nước? + Những dự kiến thị trường thay thế khi có rủi ro. + Cần lưu ý một số vấn đề sau: phương thức vận chuyển và chi phí, phương thức thanh toán, bảo hiểm; những rủi ro có thể gặp phải do những thay đổi trong thể chế nhập khẩu của nước ngoài, thuế quan, hạn mức nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, Việc lựa chọn thị trường mục tiêu phải đảm bảo: Quy mô đủ cho dự án, có thể tạo ra ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh, tính hiệu quả khi đầu tư vào thị trường và khả năng đầu tư. Việc lựa chọn này phải được tiến hành như sau: Thứ nhất: phân tích các khúc thị trường dựa vào 3 tiêu chuẩn sau; - Qui mô và sự tăng trưởng: là việc xác định qui mô đủ lớn để bù đắp chi phí sản xuất và marketinh không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai. - Tính hấp dẫn của khúc thị trường từ các sức ép hay đe dọa khác nhau như; đe dọa từ sự ra nhập và rút lui, đe dọa của các sản phẩm thay thế, đe dọa từ phía người mua, đe dọa từ phía người cung ứng. - Các mục tiêu và khả năng của công ty. Thứ hai: lựa chọn khúc thị trường mục tiêu nhằm đáp ứng khách hàng có nhu cầu và mong muốn của chủ đầu tư, đồng thời có thể tạo ưu thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh và đạt được các mục tiêu đã định. IV. Xây dựng sản phẩm của dự án Sản phẩm là tất cả những cái, những yếu tố có thể thoả mãn nhu cầu hay ước muốn được đưa ra chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng. 1. Xây dựng sản phẩm đã có trên thị trường Việc xây dựng sản phẩm đã có trên thị trường thì dự án cần phải phân tích đánh giá, lập, tìm hiểu trên các vấn đề sau: - Phân loại sản phẩm/hàng hoá: có nhiều cách phân loại sản phẩm khác nhau người lập dự án cần phải lựa chọn ra cách phân loại phù hợp và xem sản Trường Cao đẳng nghề Nam Định 39
  37. Giáo trình lập và phân tích dự án phẩm hàng hoá trong dự án thuộc loại nào để đưa ra chiến lược marketing và tiếp thị hợp lý. - Nhãn hiệu sản phẩm: Quyết định về nhãn hiệu sản phẩm cụ thể là một trong những quyết định quan trọng khi soạn thảo chiến lược marketing cho chúng. - Bao gói và dịch vụ sản phẩm: Đa số sản phẩm, bao gói là yếu tố rất quan trọng về các phương diện khác nhau, bên cạnh đó yếu tố dịch vụ khách hàng làm cho sản phẩm hoàn chỉnh. 2. Xây dựng sản phẩm mới chưa có trên thị trường Do những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu, công nghệ, tình hình cạnh tranh, công ty không thể tồn tại và phát triền nếu chỉ dựa vào những sản phẩm hiện có và càng khó đối với một dự án. Vì vậy, mỗi công ty đều phải quan tâm đến phát triển sản phẩm mới nếu muốn tồn tại và phát triển. để có sản phẩm mới dự án có thể có hai cách: Mua toàn bộ một dự án nào đó, mua bằng sáng chế hay giấy phép sản xuất sản phẩm của người khác, hoặc tự thành lập bộ phận nghiên cứu và thiết kế sản phẩm mới. Với cách thứ nhất đòi hỏi chi phí, mối quan hệ và khả năng đàm phán của chủ dự án phải đầy đủ, nhưng sẽ rút ngắn được thời gian nghiên cứu và dự án sẽ hoạt động một cách nhanh chóng hơn. Ta sẽ tập trung nghiên cứu hướng thứ hai. Theo quan niệm marketing, sản phẩm mới có thể là những sản phẩm mới về nguyên tắc, sản phẩm mới cải tiến từ các sản phẩm mới hiện có hoặc từ những nhãn hiệu mới do kết quả nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm của công ty. Nhưng dấu hiệu quan trọng nhất đánh giá sản phẩm đó là mới hay không phải là sự thừa nhận của khách hàng. Trong việc thiết kế sản phẩm mới thường phải trải qua 3 giai đoạn hết sức quan trọng đó là: - Hình thành ý tưởng: tìm kiếm những ý tưởng về sản phẩm là bước đầu tiên quan trọng để hình thành phương án sản xuất sản phẩm mới. - Lựa chọn ý tưởng: Để cố gắng phát hiện sàng lọc và thải loại những ý tưởng không phù hợp, kém hấp dẫn, nhằm chọn được những ý tưởng tốt nhất. - Soạn thảo và thẩm định dự án sản phẩm mới: Sau khi đã có ý tưởng được lựa chọn, mỗi ý tưởng phải được xây dựng thành những dự án sản phẩm mới. Và cần phải thẩm định từng dự án này, qua thẩm định thì sẽ lựa chọn được một dự án sản phẩm chính thức. v. Dự báo về cung cầu sản phẩm dự án trong tương lai Việc dự báo cung cầu sản phẩm dự án trong tương lai là nhân tố quyết định đến việc lựa chọn mục tiêu và quy mô sản xuất tối ưu của dự án, do đó nó ý Trường Cao đẳng nghề Nam Định 40
  38. Chương 3. Nghiên cứu về thị trường trong dự án đầu tư nghĩa hết sức quan. Để đạt được mục tiêu trên phải thực hiện theo những bước cơ bản sau: - Phân tích cung cầu thị trường về sản phẩm của sự án ở hiện tại và trong quá khứ; nhằm cung cấp tình hình và số liệu cho phân tích, dự báo cung cầu sản phẩm của dự án trong tương lai bao gồm nội dung nghiên cứu về: xác định mức tiêu thụ, nguồn cung cấp, đánh giá mức thỏa mãn cung cầu thị trường về sản phẩm của dự án. - Dự báo cầu sản phẩm của dự án trong tương lai - Dự báo cung sản phẩm của dự án trong tương lai 1. Dự báo cầu sản phẩm dự án trong tương lai Để dự báo cầu thị trường về một loại sản phẩm hây dich vụ nào đó trong tương lai, các nhà kinh tế thường sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, tùy thuộc vào nguồn và lượng thông tin thu thập được. Khi dự báo về cầu sản phẩm của dự án trong tương lai thường sử dụng các phương pháp sau: Dự báo cầu thị trường bằng phương pháp ngoại suy thống kê Dự báo cầu thị trường bằng mô hình hồi quy tương quan Dự báo cầu thị trường bằng hệ số co giãn cầu Dự báo cầu thị trường bằng phương pháp định mức Dự báo cầu thị trường bằng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia Các phương pháp cụ thể: Dự báo cầu thị trường bằng mô hình hồi quy tương quan: Phương pháp này là phương pháp dự báo rất thông dụng, nó dựa trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa cầu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó và được phản ánh thông qua hàm quy hôi tương quan. Mô hình quy hồi tương quan có 2 dạng: Mô hình hồi quy đơn và mô hình hồi quy bội Để tiến hành dự báo cầu thị trường về sản phẩm dự án bằng mô hình hồi quy qương quan phải tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Xác định các nhân tố ảnh hưởng lớn đến cầu thị trường về sản phẩm của dự án Bước 2 : Lựa chọn mô hình hồi quy tương quan hay xác định các tham số của mô hình Bước 3: Kiểm tra mô hình, gồm; tính hệ số tương quan, đánh giá sai số dự báo, ước lượng khoảng giá trị mà dự báo có thể rơi vào. Bước 4: Tiến hành dự báo (nếu mô hình được chấp nhận) Trường Cao đẳng nghề Nam Định 41
  39. Giáo trình lập và phân tích dự án Nếu tiêu chuẩn kiểm định không chấp nhận được, phải lựa chọnlại mô hình và quay lại bước đầu để điều chỉnh bổ sung hoặc thay thế. Ngoài ra để dự báo cầu sản phẩm dự án trong tương lai còn có: Phương pháp ngoại suy thống kê, phương pháp hệ số co giãn cầu và phương pháp lấy ý kiến chuyên gia. 2. Dự báo cung sản phẩm dự án trong tương lai Sau khi dự báo được cầu thị trường sản phẩm của dự án trong trương lai, tiếp theo là xác định lượng cung về sản phẩm mà dự định cung cấp dựa trên thông tin về; Khả năng mở rộng sản xuất trong tương lai của các cơ sở hiện có về hàng hóa, dịch vụ đang nghiên cứu Dự kiến khả năng xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ đó trong tương lai Phương pháp dự báo về cung cũng tương tự như dự báo cầu. Tùy khối lượng thông tin thu thập được mà lựa chọn phương pháp dự báo thích hợp Trên cơ sở xác định được cung cầu thị trường sản phẩm trong tương lai, xác định chênh lệch giữa cung cầu. Chênh lệch này chi phối trực tiếp đến việc hình thành dự án và quy mô của dự án. VI. Xây dựng chiến lược tiếp thị cho sản phẩm dự án Nhiệm vụ của công tác tiếp thị của dự án Hoạt động tiếp thị chính là sự truyền tin về sản phẩm của dự án tới khách hàng để thuyết phục họ sử dụng sản phẩm dự án đó. Hoạt động này chủ yếu là hoạt động khuyến mại, là các biện pháp tác động mang tính chất tức thời ngắn hạn để khuyến khích khách hàng mua sản phẩm hay dịch vụ của dự án. Hoạt động khuyến mại có tác động trực tiếp và tích cực đến việc tăng doanh số bằng những lợi ích vật chất bổ sung cho người mua. Nhiệm vụ của công tác tiếp thị sản phẩm của dự án là: - Đối với người tiêu dùng: Khuyến khích khách hàng tiêu dùng nhiều hơn nhằm tanưg nhu cầu về sản phẩm của dự án Tạo thêm những khách hàng mới - Đối với các thành viên trung gian trong khâu phân phối Khuyến khích các thành viên này tăng cường hoạt động phân phối hơn, đẩy mạnh các hoạt động mua bán Mở rộng kênh phân phối Nội dung cần xem xét khi xây dựng chiến lược tiếp thị sản phẩm của dự án Trường Cao đẳng nghề Nam Định 42
  40. Chương 3. Nghiên cứu về thị trường trong dự án đầu tư Khi xem xét đến công tác xây dựng tiếp thị sản phẩm cần xem xét các nội dung chủ yếu sau: Xác định đối tượng tiêu thụ sản phẩm dự án Việc xác định đối tượng tiêu thụ sản phẩm của dự án cần phải xem xét đến đặc tính của đối tượng, khu vực phân phối, các yêu cầu thị hiếu của đối tượng tiêu thụ đối với sản phẩm. Thông thường phần quan trọng nhất là về giá cả và chất lượng có đạt yêu cầu không, và thông qua biện pháp chào hàng trực tiếp hoặc tiếp xúc để đi đến ký kết. Lựa chọn các phương pháp giới thiệu sản phẩm Các phương pháp: Tiếp xúc trực tiếp bằng thư từ, gửi mẫu Quảng cáo Quảng cáo trên các báo, tạp chí, tivi Ngoài các hình thức giới thiệu sản phẩm trên, các dự án còn có thể tổ chức hội nghị khách hàng, hội chợ hay triển lãm thương mại. Đây là các hình thức mà các dự án nhắm tới mục đính là tìm cách tiếp cận trực tiếp với khách hàng và công chúng, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng và để giới thiệu sản phẩm của dự án. Lựa chọn các phương pháp linh hoạt để đẩy mạnh sức mua. Tùy theo mục tiêu, nội dung của hoạt động tiếp thị của dự án, các phương thức đó bao gồm: Phiếu thưởng Gói hàng chung Quà tặng Các chương trình khuyến mại miễn phí Các phương thức này tạo nên lợi ích kinh tế trực tiếp thúc đẩy người tiêu dùng mua sản phẩm của dự án. Từ đó, khuyến khách hàng gia tăng nhu cầu sản phẩm của dự án thông qua nhưng lợi ích về vật chất mà họ có thêm. Tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm Lập kênh phân phối để tiêu thụ sản phẩm bao gồm: Nhà buôn Nhà bán lẻ Đại lý và môi giới Nhà phân phối Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của dự án có vai trò rất quan trọng, là con đường mà sản phẩm đước lưu thông từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng. Do Trường Cao đẳng nghề Nam Định 43
  41. Giáo trình lập và phân tích dự án vậy, tùy vào từng mục tiêu, điều kiện và khả năng cũng như đặc thù sản phẩm của dự án để lựa chọn cách thức quản lý mạng lưới tiêu thụ sản phẩm phù hợp, đạt hiệu quả. Thực hành  Cho các sinh viên đăng ký nhóm theo bài tập đã chọn, mỗi nhóm khoảng 9 - 10 người.  Cho các nhóm thảo luận để lập kế hoạch tìm hiểu thị trường.  Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả thu được sau khi nghiên cứu thị trường Câu hỏi 1. Mục tiêu và vai trò của nghiên cứu thị trường của dự án? 2. Các nội dung chủ yếu của phân tích thị trường? 3. Phân tích cung cầu về sản phẩm của dự án? 4. Thế nào là phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu và ý nghĩa của chúng trong nghiên cứu thị trương? 5. Nêu việc xây dựng sản phẩm của dự án? 6. Các phương pháp dự báo cầu thị trường thường được áp dụng, ưu nhược đỉểm của từng phương pháp? 7. Mục tiêu chủ yếu của công tác tiếp thị của dự án là gì? Các nội dung chủ yếu trong nghiên cứu công tác tiếp thị của dự án là gi? Trường Cao đẳng nghề Nam Định 44
  42. Chương 4. Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trong dự án đầu tư CHƯƠNG IV NGHIÊN CứU GIảI PHáP Kỹ THUậT TRONG Dự áN ĐầU TƯ Nghiên cứu kỹ thuật trong dự án đầu tư là phân tích chọn phương pháp sản xuất, thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu, địa điểm phù hợp với những ràng buộc về vốn, trình độ quản lý và kỹ thuật, quy mô thị trường, yêu cầu của xã hội vể việc làm và giới hạn cho phép về mức độ ô nhiễm mội trường do dự án tạo ra. Đây là nội dung hết sức quan trọng vì nó sẽ quyết định sản phẩm của dự án được sản xuất bằng cách nào? Chi phí bao nhiêu? Chất lượng? (chi phí và chất lượng là những yếu tố chủ yếu để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường). Nói cách khác, nghiên cứu kỹ thuật cho biết dự án nên được đầu tư như thế nào là có lợi nhât, có hiệu quả cao nhất, khôn ngoan nhất. i. Vai trò và yêu cầu của nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trong dự án đầu tư 1. Vai trò Nghiên cứu kỹ thuật là bước phân tích sau nghiên thị trường và là tiền đề cho việc tiến hành nghiên cứu mặt kinh tế tài chính các dự án đầu tư. Không có số liệu của nghiên cứu kỹ thuật thì không thể tiến hành nghiên cứu mặt kinh tế, tài chính, tuy rằng các thông số kinh tế có ảnh hưởng đến các quyết định về mặt kỹ thuật. Các dự án không khả thi về mặt kỹ thuật phải được bác bỏ để tránh những tổn thất trong quá trình thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư sau này (chẳng hạn địa điểm thực hiện dự án có địa chất không ổn định, hoặc gây ô nhiễm quá nặng nề cho khu vực dân cư đòi hỏi chi phí sử lý quá lớn ). Quyết định đúng đắn trong nghiên cứu kỹ thuật không chỉ là loại bỏ các dự án không khả thi về mặt kỹ thuật mà còn là chấp nhận dự án khả thi về mặt này. Điều đó cho phép một mặt tiết kiệm được các nguồn lực, mặt khác tranh thủ được cơ hội để tăng thêm nguồn lực. Ngược lại, nếu chấp nhận dự án không khả thi do nghiên cứu chưa thấu đáo hoặc do quan niệm yếu tố kỹ thuật, hoặc bác bỏ dự án khả thi về mặt kỹ thuật do bảo thủ, do quá thận trọng thì hoặc là gây tổn thất nguồn lực, hoặc đã bỏ lỡ cơ hội để tăng nguồn lực. Chúng ta có thể hình dung vai trò và vị trí của nghiên cứu kỹ thuật, mối quan hệ của nghiên cứu kỹ thuật trong dự án đầu tư và nghiên cứu kinh tế tìa chính trong dự án đầu tư theo sơ đồ ở trang sau: Trường Cao đẳng nghề Nam Định 45
  43. Giáo trình lập và phân tích dự án Nghiên cứu kỹ thuật Thông số kinh tế Không khả thi Khả thi Bác bỏ Chấp nhận Chấp nhận Bác bỏ Nghiên cứu kinh tế Bỏ lỡ mất tài chính cơ hội Lãng phí Tiết kiệm thu nguồn lực nguồn lực nguồn lợi Khả thi Không khả thi Bác Chấp Bác Chấp bỏ nhận bỏ nhận Thất Bỏ mất Thu Tiếc Tổn Thất Thành bại nguồn được kiệm thất bại công lợi lợi ích nguồn lực nguồn lực Thành công Vai trò và vị trí của nghiên cứu kỹ thuật dự án đầu tư 2. Yêu cầu Để đảm bảo tính khả thi của khía cạnh kỹ thuật thì người soạn thảo phải thực hiện được các yêu cầu sau đây đặt ra cho quá trình nghiên cứu kỹ thuật trong dự án đầu tư: - Đảm bảo tính khoa học và hệ thống, quá trình nghiên cứu phải xem xét tỉ mỉ, chính xác từng nội dung kỹ thuật của dự án công nghệ và trang thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào của sản xuất Trường Cao đẳng nghề Nam Định 46
  44. Chương 4. Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trong dự án đầu tư - Trong quá trình nghiên cứu để có thể lựa chọn được nội dung kỹ thuật tối ưu nhất, thì phải sử dụng nhiều phương pháp với những dữ liệu khác nhau. Mỗi phương pháp này đều phải nghiên cứu tỉ mỉ với các số liệu tính toán chi tiết. Ii. Nội dung nghiên cứu của giải pháp kỹ thuật dự án Tuỳ thuộc vào từng dự án cụ thể mà nội dung nghiên cứu kỹ thuật có mức độ phức tạp khác nhau, không có một mô hình tiếp cận nào về mặt nghiên cứu kỹ thuật có thể thích ứng được tất cả các loại dự án. Trong đó mô hình nghiên cứu kỹ thuật của các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp tương đối đầy đủ các vấn để về kỹ thuật cơ bản như sản phẩm của dự án, công nghệ và trang thiết bị, nguyên liệu, địa điểm Do đó, tuỳ theo từng dự án cụ thể mà các vấn đề kỹ thuật được chú trọng xem xét ở mức độ khác nhau trong nghiên cứu. Dự án càng lớn các vấn đề kỹ thuật càng phức tạp, càng cần phải sử lý nhiều thông tin. ở đây chúng ta xem xét nội dung nghiên cứu kỹ thuật của các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp. Đối với các dự án thuộc các ngành khác làm tham khảo nhưng nhất thiết phải chú ý đầy đủ đến các đặc thù của ngành mình. 1. Mô tả sản phẩm của dự án Sau khi nghiên cứu thị trường, thì người soạn thảo đã chọn sản phẩm sẽ đưa vào sản xuất. Nhưng việc mô tả đặc tính kỹ thuật và các tiêu chuẩn kỹ thuật khác, có liên quan mật thiết đến việc lựa chọn công nghệ và phương pháp sản xuất sản phẩm đó, đến việc lựa chọn nguyên vật liệu cho phù hợp. Mô tả sản phẩm phải nêu bật được các điểm chính sau: - Mô tả các tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng của sản phẩm: Kích thức, hình dáng - Mô tả các đặc tính: Lý, hoá, cơ của sản phẩm. - Mô tả tính năng, công dụng và cách sử dụng của sản phẩm. Ngoài ra, còn phải so sánh sản phẩm của dự án với các sản phẩm tương tự trong nước và ngoài nước, so sánh với tiêu chuẩn kinh tê, kỹ thuật quốc gia và quốc tế quy định với sản phẩm. Các sản phẩm của dự án bao gồm: sản phẩm chính, sản phẩm phụ và dịch vụ cung cấp cho bên ngoài. 2. Lựa chọn phương án kỹ thuật theo yêu cầu về sản phẩm của dự án 2.1. Khái quát các phương án đầu tư Để sản xuất sản phẩm, thực hiện mục tiêu đã đề ra, dự án có thể áp dụng một trong các hình thức đầu tư sau: - Đầu tư mới, tức là đầu tư để xây dựng mới, mua sắm thiết bị và máy móc mới toàn bộ. Trường Cao đẳng nghề Nam Định 47
  45. Giáo trình lập và phân tích dự án - Đầu tư cải tạo, mở rộng: Trên cơ sở nhà máy xí nghiệp đã có sẵn, chỉ đầu tư để cải tạo hoặc thay thế các loại tài sản cố định hiện có đã lạc hậu, hoặc mở rộng hoạt động sản xuất của nhà máy, xí nghiệp với quy mô lớn hơn. Hình thức đầu tư này có thể phân ra làm hai loại: đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư để mở rộng sản xuất bằng kỹ thuật và công nghệ lặp lại như cũ. Đầu tư theo chiều sâu là đầu tư để mở rộng sản xuất bằng kỹ thuật và công nghệ tiến bộ và hiệu quả hơn. 2.2. Các căn cứ để lựa chọn Đối với các loại sản phẩm hoàn toàn mới thì thông thường phải đầu tư mới, ít khi tận dụng được các cơ sở hiện có, ngoại trừ phần kết cấu hạ tầng. Đối với các loại sản phẩm không phải lần đầu tiên sản xuất ở Việt Nam thì có thể lựa chọn hình thức đầu tư mới hoặc đầu tư cải tạo mở rộng trên cơ sở tận dụng nhà xưởng, máy móc thiết bị đã có, mở rộng thêm, đầu tư theo chiều sâu. Nếu tận dụng được các cơ sở vật chất sẵn có nhiều khi sẽ tiết kiệm được vốn đầu tư cũng có lợi hơn phương án đầu tư mới. Do đó cần phải tính toán cụ thể, chỉ nên quyết định sau khi đã so sánh các phương án về các mặt kinh tế - kỹ thuật, có xét đến khả năng phát triển trong tương lai. Nếu tận dụng cơ sở hiện có, cải tạo, mở rộng thêm, thì người soản thảo dự án cần phải mô tả cơ sở hiện có với các nội dung sau: - Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hiện nay. - Số lượng cán bộ, công nhân viên hiện có. - Thống kế tài sản cố định hiện có, gồm các công trình kiến trúc, thiết bị máy móc, phương tiện vận tải iii. Xác định công suất của dự án Để có phương án công nghệ thích hợp, trước hết phải xác định công suất hoặc năng lực phục vụ của dự án. Công suất hoặc năng lực phục vụ của dự án được phản ánh thông qua số lượng đơn vị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được thực hiện trong một đơn vị thời gian với những điều kiện cho phép. Ví dụ: đối với các dự án sản xuất, đơn vị đo công suất dự án xẽ là lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian (tháng, quý, năm ); đối với thực hiện các hoạt động dịch vụ như dự án xây dựng một trường học, năng lực phục vụ của dự án có thể là số phòng học hoặc số học sinh; đối với dự án xây dựng một bệnh viện, năng lực phục vụ của dự án được đo bằng số giường bệnh Qua phân tích thực tế cho thấy những dự án có công suất lớn có những ưu điểm như: dễ áp dụng công nghệ hiện đại, chi phí tính cho một sản phẩm có thể hạ; nhưng mặt khác công suất lớn cũng có những nhược điểm như: đòi hỏi vốn lớn, thời gian hoàn vốn lâu, thiệt hại lớn khi nhu cầu thị trường đột nhiên giảm xuống Những dự án có công suất nhỏ có ưu điểm là đòi hỏi vốn it, xây dựng Trường Cao đẳng nghề Nam Định 48
  46. Chương 4. Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật trong dự án đầu tư nhanh, thu hồi vốn nhanh, dễ thay đổi thích ứng với thị trường. Nhưng công suất nhỏ có những nhược điểm như khó áp dụng công nghệ hiện đại, chi phí cho một sản phẩm có thể lớn 1. Công suất thiết bị máy móc 1.1. Công suất lý thuyết Công suất lý thuyết là công suất lớn nhất mà thiết bị có thể đạt đến trong các điều kiện sản xuất lý thuyết: máy móc, thiết bị chạy suốt 24h/ngày và 365 ngày/năm. Công suất lý thuyết chỉ tính để biết, chứ không thể đạt được. 1.2. Công suất thiết kế Công suất thiết kế là công suất mà thiết bị có thể thực hiện được trong điều kiện sản xuất bình thường. Những điều kiện snả xuất bình thường là: - Máy móc, thiết bị hoạt động theo đúng quy trình công nghệ, không bị gián đoạn vì những lý do không được dự tính trước, như bị hỏng đột xuất, bị cúp điện - Các đầu vào được đảm bảo đầy đủ Công suất của máy móc thiết bị là một đại lượng vật lý thuộc về tính năng của máy, được xác định khi thiết kế máy và được chỉ rõ trong cathalogue của máy. 2. Xác định công suất dự án 2.1. Công suất khả thi Công suất khả thi của dự án là công suất mà dự án có thể thực hiện được và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Căn cứ để lựa chọn công suất khả thi của dự án: Khi lựa chọn công suất khả thi cho dự án phải dựa trên các căn cứ và chỉ tiêu sau: - Căn cứ vào nhu cầu của thị trường hiện tại và tương lai đối với các loại sản phẩm của dự án. - Khả năng chiếm lĩnh thị trường của chủ đầu tư. - Các thông số kĩ thuật và kinh tế của các máy móc hiện có, thông thường trên thị trường chỉ có bán các máy móc và dây truyền công nghệ với những công suất xác định (trừ trường hợp đặt hàng cụ thể thì chủ đầu tư có thể mua máy móc đúng với công suất theo ý muốn). - Khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào và nhất là đối với các loại nguyên vật liệu phải nhập khẩu. - Năng lực về tổ chức, điều hành sản xuất, khả năng về vốn đầu tư của chủ Trường Cao đẳng nghề Nam Định 49