Giáo trình Kinh tế học vi mô (Phần 5)

pdf 12 trang phuongnguyen 2830
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Kinh tế học vi mô (Phần 5)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_hoc_vi_mo_phan_5.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế học vi mô (Phần 5)

  1. Chương 3 SẢN XUẤT VÀ CUNG Trong chương 3 chúng ta sẽ xem các nhà kinh tế trình bày mối quan hệ giữa đầu vào ( inputs) và đầu ra (ouputs) được phản ánh trong hàm sản xuất như thế nào. Đó là bước đầu tiên trong việc trình bày chi phí đầu vào tác động đến việc cung ứng của hãng 3.1 Hàm sản xuất Bất kỳ một doanh nghiệp nào đều quan tâm đến mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra. Ví dụ hãng Honda Việt nam muốn sản xuất xe máy cần có thép, phụ liệu như lốp xe, hộp máy, máy móc thiết bị và lao động. Người nông dân muốn sản xuất lúa cần có giống, phân, đất, công cụ lao động và không thể thiếu được lao động để sản xuất trong mùa vụ của họ. Trong các trường Đại học để đào tạo sinh viên theo các chuyên ngành thì cần có giáo trình, các phương tiện phục vụ học tập khác và thời gian lên lớp của giáo viên v .v. Bởi vậy, các nhà kinh tế học rất quan tâm đến sự lựa chọn của các hãng đê hoàn thành được các mục tiêu của họ. Họ phát triển các mô hình lý thuyết của sản xuất. Trong mô hình này mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra được gọi là hàm sản xuất và được viết dưới dạng Q = f( K, L, M .) Q là lượng sản phẩm được sản xuất trong một thời kỳ K là vốn được sử dụng trong sản xuất ( máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, nhà xưởng v v ) trong một thời kỳ L giờ lao động sử dụng trong sản xuất M nguyên vật liệu Trong hàm sản xuất trước hết thể hiện một cách tóm tắt về sự phối hợp các đầu vào khác nhau với lượng đầu ra Chúng ta sẽ đơn giản hoá hàm sản xuất bằng cách giả định rằng sản xuất của hãng chỉ phụ thuộc vào hai đầu vào là vốn (K) và lao động ( L). Do vậy hàm sản xuất có thể được viết dưới dạng 1
  2. Q = f( K, L) Sản phẩm biên Câu hỏi đầu tiên, chúng ta cần trả lời về quan hệ giữa đầu vào và đầu ra là có bao nhiêu đầu ra tối đa có thể sản xuất bằng cách cộng thêm một đơn vị đầu vào trong quá trình sản xuất. Sản phẩm biên của đầu vào được xác định bằng lượng đầu ra tối đa được sản xuất ra bởi việc sử dụng một đơn vị đầu vào tăng thêm, trong khi các đầu vào khác không đổi. Sản phẩm biên của lao động (MPL) là lượng đầu ra tối đa đạt được bằng việc sử dụng thêm một đơn vị lao động khi vốn không đổi. Tương tự, Sản phẩm biên của vốn (MPK) là số lượng đầu ra tối đa được sản xuất ra bằng cách sử dụng thêm một đơn vị vốn khi lao động không đổi Định lượng sản phẩm biên Chúng ta có thể tính toán sản phẩm biên từ hàm sản xuất MPL = Thay đổi lượng đầu ra / thay đổi lao động = ∆Q/∆L MPK = Thay đổi lượng đầu ra / thay đổi vốn = ∆Q/∆K Sản phẩm biên giảm dần Chúng ta sẽ xem sản phẩm biên của đầu vào phụ thuộc vào việc có bao nhiêu đầu vào sử dụng, khi các đầu vào khác không đổi. Nhìn vào hình 3.1 đồ thị (a) chỉ ra mối quan hệ giữa lượng đầu ra được sản xuất trong một tuần với lượng lao động được sử dụng trong tuần khi vốn không đổi. Ban đầu lao động mới cộng thêm làm tăng đầu ra cùng mức, nhưng sau đó càng tăng lao động thì mức tăng thêm của đầu ra giảm dần. Dạng đường cong của đường sản phẩm toàn bộ trong đồ thị phản ánh nguyên lý kinh tế của sản phẩm biên giảm dần Đường sản phẩm biên 2
  3. Sản phẩm(Q) Q L* Lao động ( L) a, Tổng sản phẩm MP L L* Lao động ( L) b, Sản phẩm biên Hình 3.1 Đường tổng sản lượng và sản lượng biên Biểu diễn về mặt hình học của khái niệm sản phẩm biên là đường cong, nó là góc của đường đường tổng sản lượg biểu diễn trong hình 3.1a. Hệ số 3
  4. góc giảm phản ánh sự giảm dần của sản phảm biên. Lượng lao động được tăng lên thì đường tổng sản lượng gần như phẳng, bởi thêm lao động thì tổng sản lượng đầu ra tăng một mức không đáng kể. Hình 3.1b minh hoạ sản phẩm biên của lao động (MPL). Ở những đơn vị lao động ban đầu, khi tăng thêm một đơn vị lao động thì lượng đầu ra tăng đáng kể. Tăng lao động thì đường sản phẩm biên dốc xuống. Ở L* khi tăng thêm lao động thì không gây ra sự thay đổi trong lượng đầu ra. Ví dụ 50 lao động có thể sản xuất được 15.000 sản phẩm, thêm một lao động tổng là 51 thì lượng đầu ra gần như không thay đổi, sản phẩm biên của lao động mới là bằng 0 Sản phẩm trung bình( APL) Khi người ta nói về sản phẩm đối với lao động người ta thường không chú trọng đến sản phẩm biên mà thường nói đến lượng sản phẩm tính cho một lao động. Do sản phẩm biên ( MPL) của lao động tăng thêm giảm nên đầu ra tính trên lao động cũng giảm. Do việc phân tích kinh tế liên quan đến câu hỏi cần tăng thêm hay giảm lao động, trong trường hợp này khái niệm sản phẩm biên có nghĩa quan trọng Biểu đồ đường đồng lượng Chúng ta thể có nhiều cách phối hợp vốn và lao động để sản xuất cùng mức sản lượng. Nếu biểu diễn các phối hợp trên đồ thị gọi là đường đồng lượng Đường đồng lượng là biểu diễn các tổ hợp đầu vào khác nhau để sản xuất cùng một mức sản lượng Vố n ( K) A K A Q = 30 B Q = 20 Q = 10 0 L L Lao A B 4 Hình 3.2 Bản đồ đường đồng lượng
  5. Trên hình 3.2 ta thấy trên đường đồng lượng Q = 10, tại điểm A có KA vốn sử dụng kết hợp LA lao động, di chuyển đến điểm B có KB vốn sử dụng kết hợp với LB lao động để sản xuất ra lượng sản phẩm Q = 10. Đường đồng lượng cho thấy doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương án kết hợp đầu vào để sản xuất cùng lưọng sản phẩm Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên( MRTS) Hệ số góc của đường đồng lượng chỉ ra sự thay thế giữa đầu vào này với đầu vào khác khi lượng đầu ra không đổi. Kiểm tra hệ số góc của đường đồng lượng sẽ đưa ra các thông tin về khả năng kỹ thuật cho sự thay thế lao động và vốn, điều này rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Người ta gọi hệ số góc của đường đồng lượng là tỷ lệ thay thế biên về ký thuật ( MRTS) của lao động cho vốn. Nó cho biết có bao nhiêu đơn vị vốn phải từ bỏ khi tăng thêm một đơn vị lao động. MRTS luôn mang giá trị dương Về mặt toán học MRTSlao động cho vốn = - Thay đổi của vốn/ thay đổi của lao động = - ∆K/ ∆L Giá trị của tỷ lệ trao đổi nó phụ thuộc không chỉ vào mức đầu ra mà còn phụ thuộc vào số lượng vốn và lao động được sử dụng. Giá trị của nó phụ thuộc hệ số góc được đo lường. Ở điểm A trên hình 3.2, một số lượng vốn rất lớn thay thế cho một đơn vị lao động được sử dụng, ở điểm B một đơn vị lao động tăng thêm nó không cho phép giảm nhiều đơn vị vốn và MRTS rất nhỏ. Rõ ràng càng có nhiều lao động thay thế cho vốn thì lao động càng trở nên kém hiệu quả và vốn trở nên có hiệu quả hơn Tỷ lệ thay thế biên về kỹ thuật ( MRTS) và sản phẩm biên ( MPL) Chúng ta sử dụng khái niệm Tỷ lệ thay thế biên về kỹ thuật để thảo luận dạng đường đồng lượng của hãng. Hiển nhiên, MRT thể hiện giá trị dương, điều đó có nghiã là đường đồng lượng có hệ số góc âm. Nếu số lượng lao động của hãng tăng lên, hãng sẽ giảm số lượng vốn đầu vào để giữ 5
  6. cho lượng đầu ra không đổi. Bởi vì, lao động có sản phẩm biên dương, hãng sẽ đưa ít vốn đầu vào khi nhiều lao động hơn được sử dụng. Nếu việc tăng lao động mà đưa dến một sản phẩm biên của lao động âm thì không một hãng nào muốn trả cho đầu vào có tác động âm cho đầu ra Tỷ lệ thay thế biên( MRTS) giảm dần Đường đồng lượng không chỉ có hệ số góc âm mà nó còn có dạng lõm. Dọc theo đường đồng lượng, tỷ lệ thay thế biên ( MRTS) giảm dần. Ở một tỷ lệ cao của vốn cho lao động thì MRTS có một số dưong lớn, biểu thị rằng một lượng vốn rất lớn có thể trao đổi với một đơn vị lao động được sử dụng. Khi nhiều lao động được sử dụng thì MRTS rất thấp. Có nghĩa rằng một số lượng rất nhỏ vốn có thể trao đổi với một đơn vị lao động, nếu như đầu ra không đổi. Dạng của đường đồng lượng cho thấy khi nhiều lao động được sử dụng thì càng ít lao động được thay thế cho vốn trong sản xuất. Hãng sẽ lựa chọn phối hợp đầu vào được sử dụng mà có thể mang lại hiệu quả. Vấn đề này chúng ta sẽ được nghiên cứu sau Hiệu suất theo quy mô Hàm sản xuẩt mô tả kỹ thuật sản xuất thực tế, Các nhà kinh tế chú ý nhiều đến dạng của hàm sản xuất. Dạng của hàm sản xuất rất quan trọng trong lập luận. Sử dụng những thông tin này giúp cho hãng quyết định kỹ thuật sử dụng nhằm mang lại hiệu quả kinh tế Adam Smith với hiệu suất theo quy mô Câu hỏi quan trọng đầu tiên của chúng ta về hàm sản xuất là số lượng đầu ra có quan hệ tương ứng như thế nào với số lượng đầu vào. Nếu tăng đầu vào gấp đôi đầu ra cũng tăng gấp đôi hoặc là không có quan hệ. Chúng ta sẽ trả lời về quy luật hiệu suất theo quy mô được biểu thị trong hàm sản xuất. Adam Smith đã nghiên cứu vấn đề này Có ba trường hợp xẩy ra 6
  7. - Hiệu suất không đổi theo quy mô: Tăng đầu vào gấp đôi, đầu ra tăng gấp đôi hình 3.3a - Hiệu suất tăng theo quy mô: Tăng đầu vào gấp đôi đầu ra tăng trên gấp đôi hình 3.3b - Hiệu suất giảm theo quy mô: Khi tăng đầu vào gấp đôi đầu ra tăng dưới gấp đôi hình 3.3c K K 4 4 Q = 40 3 Q = 30 3 Q = 30 2 Q = 20 Q = 20 2 1 Q = 10 Q = 10 1 2 3 4 1 2 3 4 a)Hiệu suKất không đổi theo b)Hiệu suất tăng theo quy 4 3 Q = 40 Q = 30 2 Q = 20 Q = 10 1 2 3 4 c)Hiệu suất giảm theo quy Hình 3.3 Hiệu suất theo quy 7
  8. Đầu vào thay thế Một đặc tính quan trọng khác của hàm sản xuất là vốn có thể thay thế cho lao động, hoặc tổng quát là các yếu tố đầu có thể thay thế nhau. Đặc tính này phụ thuộc nhiều vào dạng của đường đồng lượng đơn lẻ hơn là biểu đồ đường đồng lượng. Chúng ta có thể giả định rằng với cùng mức đầu ra có thể có nhiều cách phối hợp yếu tố đầu vào. Điều đó, có nghĩa hãng có thể thay thế lao động cho vốn với đầu ra không đổi. Trong một số trường hợp việc thay thế dễ dàng và nhanh chóng tương ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế. Các nhà kinh tế đo lường mức thay thế kỹ thuật bằng tỷ lệ thay thế biên ( MRTS) Hàm sản xuất với tỷ lệ cố định Trong hình 3.4 chỉ ra trường hợp các đầu vào không có khả năng thay thế cho nhau. Trường hợp này khác với trường hợp chúng ta đã nghiên cứu. Ở đây đường đồng lượng có dạng L. Máy móc và lao động được sử dung với một tỷ lệ cố định. Máy móc và lao động hoàn toàn không thể thay thế cho nhau. Ví dụ, chúng ta sử dụng K1 kết hợp với L1 sản xuất Q1 sản phẩm, nếu tăng lao động vẫn giữ nguyên vốn lượng sản phẩm không thay đổi, đường đồng lượng sẽ nằm ngang, sản phẩm biên của lao động là zero. Hàm sản xuất được phản ánh trong hình 3.4 gọi là hàm sản xuất với tỷ lệ cố định Vốn (K) Q2 K2 Q1 K1 Q0 K0 L0 L1 L2 Lao động(L) 8
  9. Sự thay đổi kỹ thuật Hàm sản xuất phản ánh sự hiểu biết về kỹ thuật của hãng về sử dụng đầu vào để sản xuất ra sản phẩm. Khi hãng cải tiến kỹ thuật sản xuất của họ thì hàm sản xuất sẽ thay đổi Hàm sản xuất và sự liên quan của nó với biểu đồ đường đồng lượng có ý nghĩa quan trọng để hiểu hiệu quả của sự thay đổi kỹ thuật. Tiến bộ kỹ thuật được mô tả trong sự thay đổi hàm sản xuất, điều đó được phản ánh trong hình 3.5. Mức đầu ra có thể sản xuất khi sử dụng phối hợp K0 và L0 là Q0 với sự hiểu biết kỹ thuật hiện tại. Với sự khám phá kỹ thuật mới đường đồng lượng Q0 chuyển vào bên trong, cùng với mức sản xuất như củ nhưng chỉ cần sử dụng ít đầu vào hơn điều này sẽ làm giảm chi phí sản xuất. Trên đồ thị bây giờ chỉ cần sử dụng K0 với L1 để sản xuất lượng Q0 K1 K0 Q0 / Q0 L1 L0 L Hình 3.5 Sự thay đổi về kỹ thuật 9
  10. 3. 2 Chi phí Chương này chúng ta sẽ bàn về chi phí sản xuất. Phần này sẽ trả lời hai câu hỏi cơ bản về chi phí, trước hết các hãng sẽ lựa chọn đầu vào như thế nào để sản xuất mức đầu ra với chi phí thấp nhất? thứ hai quá trình này của chi phí thấp nhất khác nhau giữa ngắn hạn và dài hạn như thế nào 3.2.1 Các khái niệm cơ bản về chi phí Phân biệt chi phí cơ hội, chi phí kế toán, chi phí kinh tế Đối với các nhà kinh tế phổ biến hơn cả là chi phí cơ hội, bởi vì nguồn lực khan hiếm, việc quyết định sản xuất nhiều hơn bất kỳ hàng hoá nào thì phải họ phải từ bỏ việc sản xuất hàng hoá khác. Chi phí cơ hội của một hàng hoá hoặc dịch vụ được đo lường bởi lượng hàng hoá hoặc dịch khác mà họ phải từ bỏ khi sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ này Mặc dù khái niệm chi phí có hội là vấn đề chủ yếu trong toàn bộ sự phân tích. Nó có thể rất trừu tượng hoá trong thực tế sử dụng đối với hãng. Hai khái niệm khác cũng trực tiếp liên quan đến sự lựa chọn của hãng Chi phí kế toán là chi phí chi ra để trả cho các nguồn lực được sử dụng trong sản xuất Chi phí kinh tế là giá trị của tàì nguyên liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Bây giờ chúng ta hãy xem xét chi phí kinh tế được xác định trong thực tế và sự khác nhau của nó với chi phí kế toán như thế nào ? Chúng ta sẽ xem xét chi phí kinh tế ở ba đầu vào cụ thể là lao động, vốn, sự phục vụ của chủ doanh nghiệp + Cách nhìn của nhà kinh tế và nhà kế toán đối với chi phí lao động là như nhau.Theo nhà kế toán phí tổn về tiền lương là phí tổn hiện hành bởi vậy nó là phí tổn của sản xuất. Các nhà kinh tế xem như là khoản trả là chi phí rõ ràng ( explicit). dịch vụ lao động người ta mua để phục vụ cho sản 10
  11. xuất ở một mức tiền lương( Chi phí để thuê lao động trong một khoảng thời gian chẳng hạn như một giờ lao động) + Trong trường hợp dịch vụ vốn ( giờ hoạt động của máy) nhà kế toán và nhà kinh tế xác định chi phí rất khác nhau. Nhà kế toán trong việc tính toán chi phí vốn sử dụng giá quá khứ của máy móc riêng biệt và áp dụng mức sụt giảm giá trị của máy do hao mòn trong quá trình sản xuất thông qua khấu hao. Ví dụ một máy mua với giá trị 1.000$ sử dụng trong 10 năm. Mỗi năm phải chi phí cho máy là 100$. Trái lại nhà kinh tế lại có cách tính khác, họ xem tổng số tiền phải trả cho máy là chi phí chìm. Chỉ một lần chi phí cho dòng chảy, nó không quay trở lại. Như vậy, nó không phản ánh các cơ hội bị bỏ qua. Các nhà kinh tế tập trung vào chi phí ẩn của máy móc thiét bị mà họ có thể trả cho việc sử dụng nó. Chi phí của một giờ máy được gọi là tiền thuê đối với máy móc và là sử dụng sự lựa chọn tốt nhất. Bằng việc tiếp tục sử dụng máy móc, hãng ngầm bỏ qua việc thuê máy móc mà ông chủ sẽ sử dụng máy móc của mình, Trong trường hợp này chi phí máy móc lại không thể hiện chi phí ẩn( implicit cost) + Chi phí của chủ thầu Chủ doanh nghiệp có quyền đổi toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ chi phí phải trả. Đối với nhà kế toán phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí được gọi là lợi nhuận. Nhà kinh tế, tiền lương của chủ sở hữu doanh nghiệp cũng không thể hiện trong chi phí kế toán nhưng phải tính đến khi lựa chọn các cơ hội Hai giả định đơn giản hoá - Thứ nhất Chúng ta giả định rằng chỉ có hai đầu vào được sử dụng đó là lao động (L) và vốn (K). Dịch vụ của chủ sở hữu giả định bao gồm trong vốn - Thứ hai Đầu vào của hãng được thuê trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hãng có thể mua và bán toàn bộ lao động hoặc vốn mà họ muốn ở các 11
  12. mức tiền thuê. Đường cung đối với nguồn lực nằm ngang ở mức giá hiện hành 3.2.2 Lợi nhuận kinh tế và tối thiểu hoá chi phí Chúng ta giả định rằng tổng chi phí của hàng trong một thời kỳ là Tổng chi phí (TC) = WL + rK K, L là đầu vào sử dụng trong một thời kỳ. Giả định hãng sản xuất chỉ một đầu ra. Tổng thu nhập là bằng giá của sản phẩm (P) nhân với lượng đầu ra Q = f( K,L) Trong đó f( K,L) là hàm sản xuất. Lợi nhuận kinh tế là sự khác nhau giữa tổng thu nhập và tổng chi phí ∏ = Tổng thu nhập - Tổng chi phí = P.Q – wL – rK = Pf( K,L) – wL – rK Tổng quát phương trình trên cho thấy lợi nhuận kinh tế nhận đựoc của hãng phụ thuộc trực tiếp vào số lượng vốn và lao động được thuê. Nếu chúng ta giả định rằng hãng sẽ tìm cách tối đa hoá lợi nhuận. Chúng ta sẽ nghiên cứu hành vi này bởi việc kiểm tra sự lựa chọn K và L như thế nào. Các vấn đề này chúng ta sẽ đựơc nghiên cứu ở các chương sau Lựa chọn đầu vào để tối thiểu hoá chi phí Để tối thiểu hoá chi phí cho lượng sản phẩm Q, hãng phải lựa chọn tổ hợp trên đường đồng lượng Q mà ở đó có chi phí thấp nhất. Điều đó có nghĩa là chọn tổ hợp đầu vào rẻ nhất. Bây giờ, chúng ta sẽ chọn kết hợp mà tại đó tỷ lệ thay thế biên của các đầu vào ( MRTS) bằng với tỷ lệ về gíá của các yếu tố (w/r). Điều gì sẽ xẩy ra khi hãng lựa chọn tổ hợp đầu vào không chính xác. Giả định rằng, để sản xuất sản lượng Q, hãng sử dụng K = 10 và L = 10 và ở diểm này tỷ lệ thay thế biên MRTS = 2. Giả định W = 1$, L = 1$ do vậy W/r = 1, như vậy tỷ lệ thaythế biên MRTS không cân bằng với tỷ lệ về giá của yếu tố đầu vào w/r. Ở điểm này chi phí sản xuất là 20$ không phải là chi phí thấp nhất. Với sản lượng Q có thể sử dụng K = 8 và L = 11; 12