Giáo trình Kinh tế hộ và trang trại (Phần 1)

pdf 20 trang phuongnguyen 2570
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Kinh tế hộ và trang trại (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_ho_va_trang_trai_phan_1.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế hộ và trang trại (Phần 1)

  1. KINH TẾ HỘ VÀ TRANG TRẠI CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ HỘ VÀ KINH TẾ TRANG TRẠI 1. Các khái niệm cơ bản về kinh tế nông hộ Trong một số từ điển ngôn ngữ học cũng như một số từ điển chuyên ngành kinh tế, người ta định nghĩa về “hộ” như sau: “Hộ” là tất cả những người sống chung trong một ngôi nhà và nhóm người đó có cùng chung huyết tộc và người làm công, người cùng ăn chung. Thống kê Liên Hợp Quốc cũng có khái niệm về “Hộ” gồm những người sống chung dưới một ngôi nhà, cùng ăn chung, làm chung và cùng có chung một ngân quỹ. Giáo sư Mc Gê (1989) - Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng: “Hộ” là một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một mâm cơm. Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống các nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”. Nhóm “hệ thống thế giới” (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood (1981, 1982), Smith (1985), Martin và BellHel (1987) cho rằng: “Hộ là một nhóm người có cùng chung sở hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh. Hộ là một đơn vị kinh tế giống như các công ty, xí nghiệp khác”. Giáo sư Frank Ellis Trường Đại học tổng hợp Cambridge (1988) đưa ra một số định nghĩa về nông dân, nông hộ. Theo ông cấc đặc điểm đặc trưng của đơn vị kinh tế mà chúng phân biệt gia đình nông dân với những người làm kinh tế khác trong một nền kinh tế thị trường là: Thứ nhất, đất đai: Người nông dân với ruộng đất chính là một yếu tố hơn hẳn các yếu tố sản xuất khác vì giá trị của nó; nó là nguồn đảm bảo lâu dài đời sống của gia đình nông dân trước những thiên tai. Thứ hai, lao động: Sự tín nhiệm đối với lao động của gia đình là một đặc tính kinh tế nổi bật của người nông dân. Người “lao động gia đình” là cơ sở của các nông trại, là yếu tố phân biệt chúng với các xí nghiệp tư bản. Thứ ba, tiền vốn và sự tiêu dùng: Người ta cho rằng: “người nông dân làm công việc của gia đình chứ không phải làm công việc kinh doanh thuần túy” (Woly, 1966) nó khác với đặc điểm chủ yếu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm chủ vốn đầu tư vào tích lũy cũng như khái niệm hoàn vốn đầu tư dưới dạng lợi nhuận. Từ những đặc trưng trên có thể xem kinh tế hộ gia đình nông dân là một c ơ sở kinh tế có đất đai, các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của hộ gia đình, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất và thường là nằm trong một hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu được đặc trưng bởi sự tham gia
  2. cục bộ vào các thị trường có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao. Tóm lại trong nền kinh tế hộ gia đình nông dân được quan niệm trên các khía cạnh: Hộ gia đình nông dân (nông hộ) là đơn vị xã hội làm cơ sở cho phân tích kinh tế; các nguồn lực (đất đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức lao động ) được góp thành vốn chung, cùng chung một ngân sách; cùng chung sống dưới một mái nhà, ăn chung, mọi người đều hưởng phần thu nhập và mọi quyết định đều dựa trên ý kiến chung của các thành viên là người lớn trong hộ gia đình. Gia đình (family) là một đơn vị xã hội xác định với các mối quan hệ họ hàng, có cùng chung huyết tộc. Trong nhiều xã hội khác nhau các mối quan hệ họ hàng xây dựng nên một gia đình rất khác nhau. Gia đình chỉ được xem là hộ gia đình (Household) khi các thành viên gia đình có cùng chung một cơ sở kinh tế. 1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ trong thời kỳ đổi mới Trong thời kỳ chiến tranh, hộ gia đình Việt Nam vừa cung cấp nguồn nhân lực, vừa là nguồn của cải vật chất (chưa nói tới tinh thần) cho cuộc chiến, đồng thời lại là nơi sản xuất vật chất để bảo đảm cuộc sống không những cho gia đình (chỉ với 5% quỹ đất canh tác được chia cho các hộ gia đình làm kinh tế vườn theo lối tự túc, tự cấp), mà còn đóng vai trò là hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam (trên cơ sở phát triển hợp tác xã theo kiểu cũ). Vai trò của kinh tế hộ có nhiều thay đổi cả về phương thức quản lý lẫn lao động sản xuất, nhất là kể từ khi phong trào hợp tác xã mất dần động lực phát triển. Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là sự ra đời của Chỉ thị 100, ngày 31-01-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Tiếp theo đó, Nghị quyết 10, ngày 05 – 04 - 1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp đã tạo cơ sở quan trọng để kinh tế hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp. Đối với khu vực nông, lâm trường, nhờ có Nghị định số 12/NĐ-CP, ngày 03-2-1993 về sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước, các nông, lâm trường đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước đối với với quản lý sảnxuất, kinh doanh, các gia đình nông, lâm trường viên cũng được nhận đất khoán và hoạt động dưới hình thức kinh tế hộ. Tuy những đặc điểm truyền thống của kinh tế hộ vẫn không thay đổi, nhưng việc được giao quyền sử dụng đất lâu dài đã làm cho hộ gia đình trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh tự chủ, tự quản. Động lực mới cho sự phát triển kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn đã xuất hiện. 2. Những điểm sáng, những nhân tố tích cực ban đầu Chủ trương, chính sách về giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho kinh tế hộ (đất nông nghiệp 20 năm, đất lâm nghiệp 50 năm) đã nhanh chóng đi vào cuộc sống của hàng triệu hộ nông dân. Và mặc dầu phong trào hợp tác xã không còn phát huy tính tích cực như xưa, nhưng diện mạo của kinh tế hộ nông dân Việt Nam đã thay đổi một cách cơ bản, nhất là ngày càng có nhiều đóng góp cho việc giải
  3. phóng sức sản xuất, nâng cao sản lượng nông nghiệp, mở mang ngành nghề mới, nâng cao thu nhập. Theo số liệu điều tra, trên 74,5% số hộ đã có từ 2 - 4 loại hình hoạt động sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập(1). Cơ cấu hộ nông dân theo ngành nghề đang chuyển dịch theo hướng tăng dần số lượng và tỷ trọng nhóm các hộ tham gia sản xuất phi nông nghiệp, như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; số hộ làm nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 80,9% năm 2001 xuống còn 70,9% năm 2006. Các nghiên cứu đều cho thấy, giai đoạn 2001 - 2006 tốc độ chuyển dịch ấy đã diễn ra nhanh hơn trước. Nếu thời gian này GDP nông nghiệp đóng góp 20,23% vào cơ cấu kinh tế, nhưng là nền tảng của sự ổn định chính trị - xã hội vì chúng ta có tới trên 70% dân số sống tại nông thôn, thì trong số đó, đã có tới 40% dân số nông thôn có nguồn thu từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Đây là một động thái tích cực. Trong bản thân lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, số hộ sản xuất thuần túy nông nghiệp giảm dần, trong lúc số hộ tham gia sản xuất lâm nghiệp, thủy sản tăng lên. Tuy vậy, tính đến năm 2006, số lượng và tỷ trọng các hộ trong lĩnh vực thủy sản (chiếm 6,2%), lâm nghiệp (chiếm 0,3%) vẫn bị đánh giá là còn quá thấp, chưa tương xứng với tiềm năng thực tế. Một động thái tích cực rất đáng được lưu ý của kinh tế hộ nông dân là sự xuất hiện ngày càng nhiều các hộ bứt phá khỏi tình trạng tự cung, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hóa, trong đó phương thức trang trại gia đình phát triể n mạnh và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Trong bản thân kinh tế hộ trang trại cũng có sự phát triển về chất, xuất hiện nhiều nhu cầu đầu tư vốn lớn, thuê đất canh tác và lao động thường xuyên hoặc theo thời vụ, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây, con theo hướng đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu thị trường. Chẳng hạn, trang trại chăn nuôi tăng rất nhanh, bên cạnh số trang trại sản xuất cây hàng năm và cây lâu năm cũng có sự phát triển về số lượng và chất lượng. Lượng hàng hóa nông sản của các trang trại đang ngày càng có vị trí trên thương trường. Một số các trang trại lớn đã bắt đầu phát triển thương hiệu, mở rộng các quan hệ làm ăn với các công ty lớn trong chế biến, thu mua và xuất khẩu. 3. Khó khăn và thách thức trong thời gian tới - Kinh tế hộ gia đình phần lớn sản xuất với qui mô nhỏ, tự cấp, tự túc, do ruộng đất giao cho các hộ manh mún, bình quân ruộng đất trên đầu người thấp. -Trình độ học vấn, trình độ tay nghề của người lao động thấp, việc tổ chức sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên chất lượng sản xuất, kinh doanh chưa cao và thiếu bền vững. - Chất lượng sản phẩm hàng hoá của các hộ gia đình chưa cao, chủ yếu dưới dạng thô, tiêu thụ khó khăn, chưa nắm bắt được thị trường, nên còn thụ động, hiệu quả thấp. - Khó khăn và thách thức lớn đối với nông dân nước ta nói chung và kinh tế hộ nói riêng trong tiến trình hội nhập ngày một sâu vào kinh tế thế giới là chênh lệch lớn về năng suất lao động giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Đây là một trong số các nguyên nhân chính đang khoét sâu thêm khoảng cách cả thu nhập
  4. lẫn mức chi tiêu giữa nông thôn và thành thị Thêm vào đó tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn tuy đã giảm mạnh, hơn một nửa trong khoảng thời gian 10 năm, năm 1993 - 2004, từ 66,4% xuống còn 25%. Hai năm gần đây, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007, vượt kế hoạch đề ra (16%). Nhưng trong nông thôn, cá biệt một số tỉinh m ền núi, tại những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ trọng cao: Tỷ lệ hộ nghèo của Lai Châu hiện nay là 55,32%; Điện Biên 40,77%; Hà Giang 39,44% và Bắc Cạn 37,8%. Dù khu vực nông thôn chiếm tới 90% số hộ thuộc diện nghèo của cả nước, nhưng tốc độ giảm nghèo ở nông thôn vẫn chậm hơn thành thị tới 20%. Tính bền vững trong các trường hợp thoát đói nghèo trong nông nghiệp, nông thôn không chắc chắn, do thiên tai, dịch bệnh, ốm đau Điểm xuất phát thấp, tốc độ phát triển chậm, rủi ro lớn, thì khoảng cách khó có thể rút ngắn nếu không có những giải pháp mang tính đột phá. Nếu chia toàn bộ dân số ra 5 nhóm bằng nhau về số người và theo các mức thu nhập từ thấp đến cao để so sánh chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% dân số giàu nhất với nhóm 20% dân số có mức thu nhập thấp nhất, thì nếu năm 1994, chênh lệch giữa nhóm giàu và nghèo là 6,50 lần, đến năm 2006 đã tăng lên 8,34 lần. Nhưng nếu nhóm dân số càng nhỏ lại, 10%, hay 5%, thì sự chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu và nhóm nghèo lại càng tăng lên đáng kinh ngạc. Theo một cách suy luận khác, chênh lệch giàu nghèo là rất lớn khi đang tồntại nghịch lý ở Việt Nam, rằng thu nhập GDP đầu người thì còn rất thấp, nhưng giá nhà, đất lại cao ngất ngưởng, ngang với cả những nước có thu nhập GDP cao gấp hàng chục lần. - Hộ nông dân thường rất dễ bị tổn thương trước sự chi phối khắc nghiệt của quy luật thị trường. Cơ hội kiếm tiền sẽ đến với người có vốn, có điều kiện về thông tin, và kể cả điểm xuất phát cao, sẽ nhiều hơn rất đáng kể so với các đối tượng khác, nhất là người nghèo. Về nguyên lý, thị trường dường như mang lại cơ hội cho tất cả mọi người, nhưngkhông phải mọi người đều có đủ khả năng như nhau để tận dụng cơ hội đó. Người nắm thông tin, người nhiều vốn, người lanh lợi và phải có chút “tinh quái” mới tận dụng cơ hội tốt hơn và do đó giàu lên nhanh hơn. Không ít người lợi dụng quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước những năm gần đây nắm giữ nhiều cổ phiếu; hay những người biết trước thông tin về quy hoạch nên đầu cơ được những khu đất đắc địa từ đó càng có điều kiện thu vén những nguồn lợi từ các cơ hội tốt, lại càng có điều kiện tích lũy làm giàu - giàusẽ dễ giàu thêm hơn, nghèo thì thua thiệt và dễ nghèo đi. Nhiều hộ nông dân đang rơi vào cảnh thua thiệt đó trước vòng xoáy của các quy luật thị trường, nhất là ở những nơi hợp tác xã không còn tồn tại, chính quyền cơ sở lại yếu kém, thì không biết dựa vào đâu? Bởi vậy, sự nghiệt ngã của tình cảnh “nghèo thì nghèo thêm, giàu thì giàu nhanh hơn” đang là tác nhân chính khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo giữa người giàu và người nghèo, giữa nông thôn và thành thị. Đây là nguyên nhân chính của hiện tượng số người tự do di cư ra thành thị kiếm việc làm đang tăng lên hàng ngày. Người nông dân bị thu
  5. hồi đất cho công nghiệp hóa, hay đô thị hóa cũng rơi vào tình trạng tương tự. Tư liệu sản xuất bị mất hoặc giảm đi, trong lúc chưa chuẩn bị kịp các điều kiện để chuyển đổi nghề nghiệp. Phần đông nông dân có tiền (ý nói tiền đền bù do bị thu hồi đất) cũng khó tìmphương án nào cho hiệu quả để sử dụng lượng tiền dành dụm được cho sản xuất, kinh doanh. Họ luôn trong tâm lý lo sợ rủi ro, bởi vậy, tư duy “ăn chắc, mặc bền” vẫn là phổ biến, có đồng nào đổ vào “xây nhà xây cửa” chắp vá, cơi nới một cách manh mún rất tốn kém. - Vốn tích lũy của các hộ gia đình cũng có sự phân biệt khá rõ giữa các loại hình sản xuất. Theo số liệu của tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 2006 của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2006 vốn tích lũy bình quân một hộ nông thôn là 6,7 triệu đồng, tănggấp 2,1 lần so với thời điểm tháng 10 năm 2001. Nhưng vốn tích lũy của các hộ sản xuất phi nông nghiệp vẫn vượt lên cao hơn các hộ thuần nông. Hộ vận tải tích lũy bình quân là 14,9 triệu đồng, hộ thương nghiệp: 12,1 triệu đồng, hộ thủy sản 11,3 triệu đồng, trong khi đó hộ nông nghiệp thuần chỉ tích lũy dưới 4,8 triệu đồng. Lý do chính của việc tiết kiệm tiền trong phần đông các hộ gia đình nông thôn(2) không phải là để tích lũy mở rộng sản xuất, mà 82%số người được hỏi trả lời là để chi trả khám và chữa bệnh khi cần thiết và 70% trả lời là để đề phòng các nhu cầu chi tiêu đột xuất khác, chỉ 6% mong đợi lợi nhuận hay lãi suất. - Trong kinh tế thị trường, việc tìm ra cây gì, con gì để cho sản xuất hàng hóa lớn đã khó, thì việc tiếp cận đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp mấy năm gần đây cũng đang khó khăn không kém. Đã thế, thị trường đầu vào của sản xuất nông nghiệp biến động rất bất lợi cho các hộ nông dân, giá lên cao liên tục, giao thông khó khăn, vốn ít nên khó khăn trong việc mua giá thấp với khối lượng lớn (mua buôn), mua lẻ thì giá lại rất cao, thiếu những nhà cung cấp tin cậy và ổn định, và còn thiếu cả thông tin để có cơ hội lựa chọn phương án tối ưu. - Khó khăn trong khâu sơ chế và chế biến sau thu hoạch cũng là một cản trở lớn đối với kinh tế hộ nông dân. Phần lớn các hộ nông dân đều thiếu kỹ thuật và khả năng sơ chế nông sản sau thu hoạch, thiếu thông tin thị trường, chi phí giao dịch cao Nên phần lớn nông sản chưa nâng được thêm giá trị kinh tế đáng kể trong các khâu tiếp theo của quy trình sản xuất đến tay người tiêu dùng, kể cả mẫu mã, tiếp thị và tiêu thụ, xuất khẩu. - Nhiều hộ nông dân đang rất cần đến những sự trợ giúp có tính chất cộng đồng, hiệp hội ngành hàng hay hợp tác trong các khâu, nhất là đầu vào và đầu ra của sản xuất, nhưng các hợp tác xã (HTX) hiện nay trong nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng đầy đủ, do chưa hoạt động thật hiệu quả và thiết thực. Theo số liệu điều tra của Trung tâm Phát triển nông thôn (RUDEC) năm 2007, thì HTX chỉ đáp ứng 6,9% nhu cầu phân bón và 13,8% nhu cầu giống, trong khi đó các đại lý tư nhân cung cấp tới 59,2% phân bón và 43,1% giống. Thực trạng chung của các HTX là, mức vốn hoạt động còn nhỏ, đặc biệt là các HTX trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương mại. Tỷ lệ vốn cố định ở các HTX rất cao, từ trên 70% đến 95%. Tình trạng này làm cho HTX thường không đủ vốn lưu động để hoạt động, do đó cũng không phát huy được vốn cố định, trong khi vay ngân hàng thì
  6. gặp nhiều khó khăn về tài sản thế chấp. Ngược lại, trong lĩnh vực tín dụng thì tỷ trọng vốn cố định rấtthấp (chưa đạt 5%), dẫn đến tình trạng chung ở các quỹ tín dụng là cơ sở làm việc rất nghèo nàn, không đảm bảo an toàn cho việc mở rộng hoạt động huy động và cho vay. Tỷ lệ HTX có quan hệ tín dụng với ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác chỉ bằ ng 11,3% số HTX được thống kê, điều đó cho thấy các HTX chưa phát triển các quan hệ tín dụng với ngân hàng để có thêm vốn phát triển các dịch vụ phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh của xã viên. - Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với quá trình sản xuất nông nghiệp. Nhưng khókhăn lớn hiện nay là diện tích đất nông nghiệp đang mất vào các khu công nghiệp, khu đô thị và giao thông với tốc độ quá nhanh. Đất trồng lúa nước năm 2005 đã giảm trên 302 ngàn hécta so với năm 2000. Theo số liệu thống kê, trong 5 năm qua cả nước đã có khoảng 13% số hộ nông dân bị mất đất, mà lý do chính là bị thu hồi do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa.Trong khi đó, nhiều hộ khác tuy đã năng động chuyển đổi ngành nghề, nhưng vẫn không đủ “can đảm” (tính chắc chắn của nghề mới chưa bảo đảm cho các hộ chuyển nghề yên tâm) để nhượng ruộng cho người khác canh tác hay thuê người làm. Phần lớn là giữ đất hay có chăng cũng là cho con cháu làm để vừa đủ mức nộp thuế sử dụng đất. Bởi vậy, tốc độ tích tụ, hoặc dồn điền, đổi thửa diễn ra quá chậm so với nhu cầu phát triển sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí sử dụng đất diễn ra khá phổ biến. Tại Nam Định, có địa phương người nông dân muốn trả ruộng thì chính quyền xã không nhận, vì thời hạn giao đất vẫn còn hiệu lực, nếu nhận thì xã không thu được lệ phí. Trong khi đó người dân nơi khác đến canh tác thì khó khăn do chính sách cư trú Hay tại huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có đến 10.600 hộ nông dân mất đất, dẫn đến việc làm cho 21.000 lao động không có việc làm. Nhưng số diện tích bị thu hồi lại bỏ hoang, chờ dự án, hoặc chỉ sử dụng khoảng 30% - Lề lối làm ăn còn nặng về sản xuất nhỏ, manh mún, chưa thích ứng với kinh tế thị trường. Chữ tín trong làm ăn là rất quan trọng, thế nhưng một số địa phương nông dân sẵn sàng “phá hợp đồng” để được lợi trước mắt do giá thị trường đột ngột lên cao so với hợp đồ ng, như trong hợp đồng bán hoa hồi cho đối tác Bắc Âu tại Lạng Sơn. Hay giã tâm, bất chấp độc hại, phun thuốc kích thích sinh trưởng để nhanh chóng có rau phục vụ đồng bào mình ở đô thị ở các vùng lân cận đô thị. Còn chuyện giá cả lên xuống thất thường là quy luật cung - cầu của thị trường. Đối với sản xuất nông nghiệp, tính chất mùa vụ và sự lệ thuộc vào đất đai, tiểu khí hậu rất chặt chẽ, nên khó có thể thành công nếu cứ chạy theo cái “lên - xuống” của thị trường. Thế mà, một số nông dân ở huyện Đông Triều, Quảng Ninh, khi giá vải xuống, thì chặt vải trồng cây sưa (cây lấy gỗ phải mất 50 năm mới cho thu hoạch, mà giá lúc đó chưa ai có thể nói rõ là sẽ như thế nào); ở một số địa phương phía Namcũng vậy, thấy giá một số cây trồng khác đang sốt lên, thì vội chặt cây điều đang kỳ cho thu hoạch Trong khi đó, các ngành chức năng thiếu sự tuyên truyền, giải thích hữu hiệu để có định hướng sản xuất đúng và hơn nữa có quy hoạch cây con một cách khoa học, ổn định lâu dài. Chẳng hạn, nhiều địa phương đã khá thành công trong việc tìm kiếm thị trường “cần những cái mình có”, như chè Nghệ An vào thị trường Trung Đông, gạo, hạt tiêu, cà phê xuất khẩu ra thế giới.
  7. - Hội nhập càng sâu, nền kinh tế càng sớm hòa vào dòng chảy chung của thế giới, rõ rệt nhất là sự san bằng mặt giá các vật phẩm tiêu dùng do giá xuất nhập khẩu nguyên liệu đầu và và năng lượng rất nhanh chóng bị “quốc tế hóa về giá”, bởi vậy các hộ gia định nông dân phần lớn là nghèo và dưới trung bình của xã hội về mức sống sẽ dễ bị tốn thương khigiá cả leo thang. Thực tế vừa qua cho thấy tình trạng nhập khẩu lạm phát (do giá thế giới lên cao, nhất là xăng dầu ) đan xen với xuất khẩu lạm phát (xuất được gạo giá cao thì giá gạo trong nước cũng sốt lên, xuất được giấy giá cao thì giá giấy trong nước cũng tăng lên, thậm chí thiếu giấy ). - Công nghiệp của đất nước phát triển chưa đủ mạnh để thu hút một lượng lớn lao động nông thôn. Và dù có xuất hiện một nhu cầu lớn lao động thì trình độ đào tạo của một lượng lớn lao động nông thôn cũng chưa thế đáp ứng kịp (ước tính mới chỉ có 17% lao động qua đào tạo). Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động đang hiện hữu. Bởi vậy, thách thức rất lớn đối với lao động nông thôn là chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Theo ước tính của chúng tôi, nếu năng suất lao động tăng như vừa qua, thì để sự chênh lệch thu nhập không quá cách biệt giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, một hộ gia định nông nghiệp (trung bình có 2 lao động chính) phải được canh tác trên một diện tích là 1 - 2 héc-ta. Đến bao giờ mới tích tụ được như thế, câu hỏi thuộc về các nhà hoạch định chiến lược của đất nước. 4. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở Việt Nam Từ hộ nông dân tự cung tự cấp chuyển sang kinh tế hàng hóa kinh tế hộ nông dân nói riêng và kinh tế nông thôn nông nghiệp nói chung có thể phát triển theo các xu hướng cơ bản như sau: - Quá trình hình thành các nông trại hay trang trại gia đình. Sự hình thành các nông trại hany các trang trại gia đình chính là sự hình thành các cơ sở sản xuất hàng hóa nông nghiệp. Từ hộ gia đình nông dân tự cung tự cấp, sản xuất mang nặng tính chất hiện vật sang nền kinh tế trang trại sản xuất hàng hóa là một lịch sử tiến hóa lâu dài trong quá trình hình thành nền nông nghiệp thương phẩm. Và con đường này không phải của riêng các nước TBCN hay là các nước đang phát triển mà đó là sự phát triển hợp quy luật của nền nông nghiệp toàn cầu. - Sự hình thành các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật phục vụ cho nghề nông thương phẩm và đời sống của dân cư nông thôn diễn ra cùng với quá trình công nghiệp hóa nông thôn. Quá trình này làm nảy sinh các quan hệ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật ngoài ruộng đất - tức kinh doanh tách khỏi ruộng đất. - Quá trình làm tan rã hoàn toàn về mặt kinh tế các hộ nông dân nghèo, hiệu quả sản xuất thấp (có mức thu nhập dưới ngưỡng tích lũy) cùng với quá trình gia tăng phát triển công nghiệp và dịch vụ. Đây là quá trình phi nông nghiệp, giải phóng dần cư dân khỏi lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Đây là nội dung quan trọng của quá trình phân công lại lao động xã hội và chuyển xã hội nông thôn truyền thống sang xã hội nông thôn hiện đại.
  8. Ba quá trình trên là những bộ phận khác nhau của cùng một nội dung: chuyển kinh tế nông thôn truyền thống sang kinh tế hàng hóa. Có thể xem kinh tế Trang trại gia đình là một hình thức phát triển cao của kinh tế hộ nông dân, là hạt nhân, là nhân vật trung tâm trong mối quan hệ đan xen với kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã tạo thành kết cấu kinh tế nhiều thành phần, đặc trưng cho nền kinh tế nông thôn đang trong quá trình xác lập nền kinh tế hàng hóa hiện đại. Quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa phản ánh một xu thế có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại. Đặc trưng của quá trình này là sự thay thế khiêu tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất khép kín theo từng vùng, từng địa phương với kĩ thuật lạc hậu, sản xuất chậm phát triển sang kinh tế thị trường. Thị trường là trung tâm của quá trình sản xuất và các mối quan hệ kinh tế đều thực hiện thông qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Kinh tế thị trường có sức sống kỳ diệu của chính sự phát triển. Phát triển kinh tế hàng hóa sẽ khai thác mọi tiềm năng của nền kinh tế, phát huy được tính sáng tạo của người lao đông. Khác với kinh tế tự nhiên, sản xuất hàng hóa là nhằm mục đích trao đổi, đáp ứng nhu cầu của người khác do đó kinh tế hàng hóa có ưu thế là phát triển nhu cầu. Mà nhu cầu chính là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế, phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, cũng chính từ đó tạo ra động lực kinh tế cho con người, thúc đẩy làm giàu, phát triển đi lên. Chỉ có sản xuất hàng hóa mới tạo ra được mục tiêu và động lực rõ ràng cho người sản xuất, dịch vụ và họ tồn tại vì người khác - người tiêu dùng. Kinh tế hàng hóa ra đời và phát triển trên cơ sở phân công lao động xã hộ nhưng đến lượt nó, chính sự phát triển của kinh tế hang hóa lại tác động, thúc đẩy mạnh mẽ sự phân công lao động xã hội ở trình độ cao hơn. Kinh tế hàng hóa còn tạo ra được cơ chế đánh giá vai trò vị trí của từng cá nhân, bộ phận và thành phần kinh tếtrong xã hội. Đặt mọi người vào vị trí bình đẳng thực sự thông qua cơ chế cạnh tranh để chọn lọc, đào thải làm cho con người trở nên năng động và sáng tạo hơn. Chính kinh tế hàng hóa là yếu tố đảm bảo cho sự hòa nhập giữa kinh tế trong nước và kinh tế thế giới, có tác dụng nâng cao trình độ quản lý sản xuất, chất lượng sản phẩm nhằm tạo ra cơ chế động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội hóa nền sản xuất. Chuyển sang kinh tế hàng hóa với xuất phát điểm là hộ nông dân với tính cách là đơn vị kinh tế độc lập đồng thời cũng là một sự xác lập một trình độ mới của sự hợp tác. Hợp tác đó là phương thức tồn tại và phát triển của lao động của con người xuất phát từ bản chất xã hộ của lao động. Nghiên cứu tư tưởng của những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học và những học giả khác trong lịch sử về chế độ hợp tác có thể tóm tắt tư tưởng của họ về vai trò vị trí của kinh tế hộ nông dân và xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân như sau:
  9. a) Do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp kiểu tổ chức kinh tế Trang trại gia đình là hình thức kinh tế có hiệu quả cao. b) HTX là con đương đơn giản nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân trong quá trình xây dựng chế độ kinh tế mới. c) Các quan hệ hợp tác này sinh trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhu cầu của các hộ gia đình và hoàn toàn mang tính chất tự nguyện. d) “HTX nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế nông dân, phục vụ cho nó và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông dân thì HTX sẽ không còn ý nghĩa gì cả” [70]. HTH là một quá trình xã hội hóa từng bước kinh tế nông dân. Kinh tế HTX ra đời, phát triển không phá vỡ kinh tế hộ gia đình nông dân, nó tách dần một số lĩnh vực, một số công việc mà nếu làm ở gia đình không có lợi bằng hợp tác lại. Cho đến nay ở các nước có nền kinh tế phát triển cao cho đến các nước mới NIC gần đây, chúng ta đều thấy xuất hiện một cách đa dạng các loại hình HTX trong nông thôn, nông nghiêph trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình (kinh tế trang trại). Các hộ nông dân xuất phát từ chỗ bảo vệ lợi ích của mình đã tự nguyện hợp sức thành các HTX để tạo nên sức mạnh kinh tế lớn hơn, có hiệu quả hơn nhằm chống lại quá trình cạ nh tranh, chèn ép của các công ty Tư bản II. Kinh tế trang trại 2.1 Khái niệm và tiêu chí xác định trang trại FAO (1997), đã đưa ra khái niệm trang trại trên cơ sở khái niệm nông trại. Theo FAO, nông trại (Farm) là một mảnh đất mà trên đó nông hộ thực hiện các hoạt động sản xuất nông nghiệp phục vụ cho sinh kế của họ. Nông trại ở khu vực châu Á được chia thành 6 loại hình cơ bản theo mục đích sản xuất, diện tích đất đai và mức độ phụ thuộc khác nhau. 1 Nông trại gia đình qui mô nhỏ sản xuất theo hướng tự cấp tự túc Đối với nông trại thuộc loại này, "tự cấp tự túc" (sản xuất để tiêu thụ gia đình) là mục tiêu chủ yếu của nông trại. Có thể có sản phẩm để bán nhưng không đáng kể. Nông trại thuộc loại này thường độc lập với bên ngoài (không chịu tác động của thị trường). 2. Nông trại gia đình qui mô nhỏ, một phần sản xuất hàng hóa. Mục tiêu của nông trại thuộc loại này là (l) tiêu thụ gia đình thông qua việc sản xuất các nông sản phục vụ cho tiêu dùng hàng ngày của gia đình và (2) thu nhập tiền mặt thông qua việc bán sản phẩm dư thừa so với yêu cầu tiêu dùng gia đình. 3. Nông trại gia đình qui mô nhỏ, sản xuất chuyên môn hóa và độc lập. Đặc trưng của nông trại thuộc loại này là chuyên môn hóa trong một số hoạt động sản xuất trồng trọt, chăn nuôi cụ thể. Mục tiêu của nông trại loại này cũng bao gồm sản xuất hàng hóa và tiêu thụ gia đình nhưng ở mức độ chuyên môn hóa. 4. Nông trại gia đình qui mô nhỏ, chuyên môn hóa sản xuất nhưng phụ thuộc .
  10. Tương tự như loại hình trang trại 3 nhưng có một khác biệt cơ bản là hộ gia đình ít có quyền lực trong việc ra quyết định sản xuất của nông trại. Điều này do một số lý do sau: - Đất sản xuất của nông trại không thuộc quyền sở hữu của gia đình mà được thuê mướn từ các chủ đất khác. - Hộ gia đình phải vay mượn các đầu vào cho sản xuất từ các doanh nghiệp và sản xuất hàng hóa theo yêu cầu của các doanh nghiệp. - Chịu sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động sản xuất của gia đình (ví dụ như qui hoạch vùng sản xuất ). 5. Nông trại gia đình sản xuất hàng hóa với qui mô lớn. Nông trại loại này có qui mô như một trang trại và người hưởng lợi của nông trại là các thành viên trong gia đình, cũng là chủ nông trại mà không phải là người ngoài gia đình làm chủ và hưởng lợi. Mục tiêu hoạt động của nông trại loại này là lợi nhuận thông qua sản xuất hàng hóa bán ra thị trường. 6. Trang trại sản xuất hàng hóa. Đặc trưng của nông trại thuộc loại này là sản xuất độc canh, diện tích nông trại lớn từ 20 - 2000 ha. Người hưởng lợi chủ yếu của nông trại là người chủ nông trại, họ chỉ làm công tác quản lý, không tham gia lao động trực tiếp trên nông trại. Lao động cho nông trại hoàn toàn được thuê mướn. Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các nông trại loại này. Loại hình nông trại thứ 5 và 6 được xem như là trang trại. Như vậy, trang trại là nông trại có qui mô lớn và tập trung vào sản xuất hàng hóa để bán ra thị trường nhằm mục tiêu chủ yếu là tạo ra lợi nhuận. Ở nước ta hiện nay, có nhiều nhận thức và quan điểm khác nhau về trang trại và kinh tế trang trại: Ban kinh tế Trung ương cho rằng "Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế trong nông- lâm-ngư nghiệp phổ biến được hình thành trên có sở phát triển kinh tế hộ nhưng mang tính sản xuất hàng hóa rõ rệt". Tác giã Nguyễn Thế Nhã cho rằng "Trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, thủy sản có mục đích chính là sản xuất hàng hóa, có tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất với các yếu tố sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường. Theo thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT IBNN-TCTK ngày 20/06/2000 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Tổng cục thống kê hướng dẫn các tiêu chí xác định trang trại như sau: 1. Giá trị sản lượng hàng hóa và giá trị bình quân một năm đạt từ 40 triệu đồng trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và ven biền miền Trung, từ 50 triệu đồng trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên.
  11. 2. Có qui mô sản xuất tương đối lớn so với mức trung bình của kinh tế hộ tại địa phương, tương ứng với từng ngành sản xuất cụ thể như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản. - Đối với các trang trại trồng cây hàng năm là chủ yếu thì ở miền Bắc và miền Trung phải có diện tích từ 2 ha canh tác trở lên, còn ở các tỉnh Nam Bộ phải có diện tích từ 3 ha trở lên. - Đối với trang trại trồng các loại cây lâu năm và cây ăn quả, thì ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung phải có diện tích từ 3 ha trở lên, ở các tỉnh Nam Bộ phải có diện tích từ 5 ha trở lên. - Đối với trang trại chăn nuôi như trâu bò phải có từ 50 con trở lên, lợn 100 con trở lên (không kể lợn sữa dưới 2 tháng, gia cầm có từ 2.000 con trở lên (không tính số con dưới 7 ngày tuổi) - Đối với trang trại lâm nghiệp phải có 10 ha đất rừng trở lên. - Đối với trang trại nuôi trồng thủy sản phải có từ 2 ha diện tích mặt nước trở lên. 3. Có sử dụng lao động làm thuê thường từ 2 lao động/năm. Nếu lao động thời vụ thì quy mô qui đổi thành lao động thường xuyên 4. Chủ trang trại phải là người có kiến thức, kinh nghiệm về nông, lâm, ngư nghiệp và trực tiếp điều hành sản xuất tại trang trại. 5. Lấy sản xuất hàng hóa làm hướng chính và có thu nhập vượt trội so với trung bình của kinh tế hộ tại địa phương. Như vậy, nông hộ được xem là cơ sở để hình thành trang trại, một nông hộ bình thường không được xem là trang trại, khi nông hộ phát triển đến một mức độ nhất định hội đủ các tiêu chỉ trên sẽ được xem là một trang trại. Tuy nhiên, hiện nay vẫhn c ưa có sự thống nhất trong việc xác định trang trại và phân biệt giữa trang trại và nông hộ sản xuất hàng hóa giữa các vùng khác nhau, cho nên cũng là một hình thức tổ chức kinh tế giống nhau nhưng có nơi gọi là trang trại (như Yên Bái, Bình Dương, Bình Phước), có nơi gọi là hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp (như Sóc Trăng). Vì thế mà số lượng trang trại được thống kê trên cả nước thường không chính xác. Kinh tế trang trại là một khái niệm khác, phân biệt với khái niệm "trang trại". "Kinh tế trang trại" là tổng thể các yếu tố sản xuất kinh doanh và các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động của trang trại. Còn “trang trại” là nói kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của của các mối quan hệ kinh tế đó, trang trại là nơi diễn ra các mối quan hệ. 2. Những thành tựu đạt được và tồn tại của kinh tế trang trại ở nước ta Những thành quả đạt được - Kinh tế trang trại nước ta mở dù còn nhỏ bé những đã góp phần phát huy nội lực, khơi dậy được tiềm năng đất đai, lao động, vốn trong dân cư, cho đầu tư phát triển sản xuất nông lâm, ngư nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ cấu vốn của trang trại chủ yếu là vốn tự có của chủ trang trại chiếm 85%. Phần còn lại là vay
  12. ngân hàng 8%, vay thân nhân 6% và 1% là do liên kết với doanh nghiệp Nhà nước. - Kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tạo ra các vùng tập trung, chuyên canh, sản xuất hàng hóa làm tiền đề cho phát triển công nghiệp chế biên nông sản, thực phẩm ; tạo thuận lợi cho việc đưa công nghiệp, dịch vụ vào nông thôn ,tăng tốc độ phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, cải thiện môi trường sinh thái. Đến nay nhiều vùng sản xuất tập trung về cây công nghiệp và cây ăn quả như : Cà phê, điều, hồ tiêu, mía, vải thiều, về chăn nuôi bò sữa, bò thịt, dê, cừu, nuôi tôm, được hình thành phát triển dựa vào phát triển kinh tế trang trại. - Kinh tế trang trại tạo thêm việc làm, góp một phần giải quyết số lao động dư thừa trong nông thôn, tăng thu nhập cho một phận dân cư, góp phần thúc đẩy việc nâng cao dân trí và đời sống văn hóa ở nông thôn, đặc biệt là ở vùng trung du, miền núi, vùng đồng bào dân tộc. Năm 1997, bình quân giá trị thu hoạch sản phẩm trên 1 ha của nhiều trang trại khá cao. Một số trang trại trồng hồ tiêu, thu nhập đạt từ 200 đến 500 triệu đồng/ha; trang trại nuôi tôm đạt từ 80 đến 150 triệu đồng/ha, Nhờ đó mà nhiều chủ trang trại đã giàu lên nhanh chóng ; thu nhập của người lao động làm thuê thường xuyên đạt khoảng 300 dấn 600 ngàn đồng/tháng ; người làm thuê thời vụ nhận được đến 25000 đồng/ngày - Kinh tế trang trại gắn với thị trường, phải tham gia cạnh tranh quyết liệt trên thị trường, chính vì vậy, các trang trại có yêu cầu hợp tác, liên kế lại với nhau với kinh tế nhà nước về nhiều mặt để có sức cạnh tranh trên thị trường và cùng nhau chung sức giải quyết các nhu cầu xã hội của người lao động. Mối quan hệ hợp tác sẽ giúp cho các trang trại vượt qua nhiều khó khăn, đặc biệt là vốn đầu tư cho sản xuất là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế trang trại trong điều kiện hiện hiện nay. Những tồn tại: - Đối với hầu hết các trang trại gia đình, trình độ quản lý của chủ trang trại còn nhiều hạn chế, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chư a chú trọng vào việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Hầu hết lao đông làm thuê cho các trang trại thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật chưa được đào tạo qua các trường lớp. - Nhiều trang trại còn lúng túng về phương hướng sản xuất, thu nhập thấp. Ở Yên Bái, năm 1997, thu nhập bình quân một trang trại chỉ có 14,5 triệu đồng. - Các trang trại đều chưa được thừa nhận về mặt pháp lý nên chưa có tư cách pháp nhân trong quan hệ giao dịch với cơ quan Nhà nước và các tổ chức kinh tế nhất là đối với ngân hàng. Thực tế, chủ trang trại chỉ được xem như là một chủ hộ nông dân bình thường, trong khi đó qui mô sản xuất của chủ trang trang trại lớn gấp trăm thậm chi gấp ngàn lần, nhất là vốn. Thiếu tư cách pháp nhân chủ trang trại chịu thiệt
  13. thòi về nhiều mặt, do đó họ chưa yên tâm và không có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh. - Các trang trại đều có qui mô ruộng đất vượt quá hạn điền theo quy định của Luật đất đai hiện hành. Hầu hết quỹ đất của trang trại là do khai hoang, phục hóa và nhận chuyển nhượng từ người khác. Nguồn vốn và lao động của gia đình, nhưng lại chưaợ đư c pháp luật công nhận. Đến nay, Nhà nước vẫn chưa có chính sách về đất đai vượt quá hạn điền của các trạng trại nên họ còn rất băn khoăn. Hiện tượng phân tán ruộng đất của các trạng trại thành nhiều chủ hoặc chuyển nhượng ngầm còn diễn ra phổ biến. - Quan hệ giữa trang trại với chính quyền địa phương, các chủ thể kinh tế (nông trường, lâm trường, hợp tác xã nông nghiệp) và các hội nông dân trên địa bàn còn chưa rõ ràng, cả về quyền lợi và nghĩa vụ. Ranh giới giữa trang trại và hộ nông sản xuất giỏi chưa được phân định đúng với thực tế và nói chung là chưa rõ ràng. - Thiếu vốn nghiêm trọng nhưng nhà nước chưa có chính sách tín dụng để hỗ trợ các trang trại nhất là trong nhưng năm đầu thành lập. - Thiếu kỹ thuật, hoạt động sản xuất của trang trại còn dựa chủ yếu vào kinh nghiệm hơn là áp dụng khoa học kỹ thuật, thiếu máy móc, nông cụ và thiêu lao động lành nghề, nhưng bản thân các trang trại không có điều kiện đào tạo, bồi dưỡng trong khi Nhà nước chưa quan tâm. - Cơ sở hạ tầng yếu kém, gây khó khăn cho phát triển và mở rộng sản xuất. Hầu hết các trạng trại hiện nay được hình thành ở vùng trung du, miền núi đất xấu, địa hình phức tạp, giao thông thủy lợi, điện đều khó khăn. Do đó sản phẩm làm ra nhiều đang mâu thuẫn với khả năng vận chuyển chế biến và tiêu thụ. - Thị trường và giá cả nông sản chưa ổn định nên nhiều chủ trang trại không muốn mở rộng qui mô sản xuất mặc dù khả năng đất đai. lao động vẫn còn. 3. Những giới hạn của kinh tế nông hộ và tính tất yếu của sự phát triển kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường. Từ sau nghị quyết 10 của bộ chính trị (tháng 4 năm 1 988) và Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng khóa 6 (tháng 3/1989) "Gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ". Hộ nông dân (nông hộ) trong cả nước đã huy động được mọi khả năng sẵn có về lao động, vật tư - tiền vốn để đầu tư sản xuất trên 90% diện tích đất canh tác. Kết quả đã sản xuất ra được 98% tổng sản lượng thóc, 99% sản lượng rau, 95% sản lượng cây công nghiệp ngắn ngày và 97% sản lượng chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhờ đó sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn nhìn chung đã đạt kết quả cao hơn hẳn những thời kỳ trước đây. Tuy nhiên tỉ suất nông sản hàng hóa của nông dân (đến năm 1991) còn rất thấp, mới có 20%. Tình trạng này là do qui mô về những điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa của kinh tế nông hộ (kinh tế tiểu nông) như ruộng đất, vốn, kỹ thuật, thị trường, bị hạn hẹp, dẫn đến năng suất lao động thấp. Sản phẩm làm ra căn bản mới đủ để tự cấp tự túc, phần còn lại là sản phẩm hàng hóa ít. Đó cũng là tất yếu của nền
  14. kinh tế tiểu nông. Hay có thể nói là những giới hạn của kinh tế nông hộ. Bên cạnh đó, nền kinh tế luôn luôn vận động, và có nhiều sự đổi mới, nhu cầu về nông sản phẩm ngày càng tăng. Do đó kinh tế hộ tuy có nhiều ưu việt, nhưng với hiện trạng kinh tế hộ như thế sẽ khó có thể đáp ứng được những điều kiện cho thực hiện công nghi ệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Vì lẽ đó cũng không thể thỏa mãn nhu cầu cho nền kinh tế cất cánh. Để thoát ra khỏi nhũng hạn chế về sản xuất nông sản hàng hóa của kinh tế hộ và phù hợp với phù hợp với những quy luật vận động của nên kinh tế thị trường, kinh tế nông hộ đã và đang diễn ra hai xu hướng: Vừa phát triển nền kinh tế hàng hóa, vừa phân cực thành nông hộ giàu và nông hộ nghèo. Nông hộ giàu từng bước phát triển thành những trang trại sản xuất hàng hóa, có qui mô kinh doanh hợp lý. Ngoài ra, sự phát triển hình thức kinh tế trang trại là tất yếu khách quan của quá trình phát triển, vì những lý do sau: - Thứ nhất, tích tụ và tập trung sản xuất là quy luật của quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, từ hàng hóa giản đơn lên sản xuất hàng hóa trình độ cao. - Thứ hai, xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất công nghiệp là nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa. - Thứ tư, xuất phát từ nội dung vận hành của cơ chế thị trường. Qui mô dung lượng của thị trường được quyết định bởi số lượng, chủng loại hàng hóa. Doanh nghiệp và trang trại nông dân, nông thôn Việt Nam với hội nhập kinh tế quốc tế Trong hai mươi năm đổi mới kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta đã giành được thành tựu to lớn. Từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp đã chuyển sang sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế; Tăng trưởng kinh tế, sản lượng hàng hóa, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế ngày một cao. Sản xuất nông nghiệp không những đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà tỷ trọng xuất khẩu ngày một tăng. Cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động trong nông nghiệp nông thôn đã chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Doanh nghiệp và trang trại nông dân nông thôn Việt Nam đã góp phần quan trọng vào nền kinh tế của đất nước nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Hiện nay nước ta có khoảng gần 10 vạn trang trại với quy mô, cấp độ khác nhau, tập trung ở các tỉnh phía Nam chiếm 51%, miền Trung Tây Nguyên 21%, miền núi phía Bắc 10% so với tổng số trang trại. Nước ta có khoảng 70.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm 58,76%, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 38,68%, công ty cổ phần hơn 1.700 doanh nghiệp đã thu hút hơn 4,6 triệu lao động có việc làm thường xuyên và ổn định. Sự phát triển kinh tế doanh nghiệp và trang trại nông dân, nông thôn Việt Nam ngày càng có vị trí quan trọng; cùng với kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định kinh tế doanh
  15. nghiệp và trang trại là một trong những động lực của nền kinh tế quốc dân; nơi huy động được nguồn lực trí tuệ, kinh nghiệm, nguồn vốn, sức lao động, khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế của địa phương để phát triển hàng hóa, gải quyết lao động việc làm, tạo ra sự phân công lao động mới trong nông nghiệp nông thôn; góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên do xuất phát điểm thấp nên cơ sở vật chất còn nghèo nàn. Quy mô nhỏ bé, manh mún. Nguồn tài chính để đầu tư phát triển hạn hẹp và còn khó khăn. Phương hướng sản xuất, chuyển đổi kinh tế chưa ổn định. Thiếu thông tin phục vụ sản xuất kinh tế và thị trường. Khoa học công nghệ bất cập, thậm chí còn lạc hậu chưa theo kịp với yêu cầu hiện nay. Thực trạng nêu trên của doanh nghiệp và trang trại Việt Nam đang đứng trước những khó khăn thách thức lớn và rất dễ bị tổn thương khi phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Muốn vậy doanh nghiệp và trang trại nông dân nông thôn Việt Nam cần tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau: - Đổi mới nhận thức, nêu cao vai trò vị trí của doanh nghiệp và trang trại trong nền kinh tế. Sản xuất kinh doanh phải xuất phat từ thị trường trong và thế giới để sản xuất các sản phẩm với số lượng ngày càng lớn, sản phẩm sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm đáp ứng với các tiêu chuẩn quốc tế. Đảm bảo hiệu quả kinh tế cao đề vừa nâng cao đời sống cho người lao động và tích lũy mở rộng sản xuất. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay phải thực hiện liên doanh, liên kết sản xuất kinh doanh để có sức mạnh cạnh tranh sản phẩm tỏng nền kinh tế thị trường, nhất là những sản phẩm cùng loại của khu vực và thế giới. Sự liên kết đó thông qua tổ chức hội, hiệp hội của mình; đồng thời phối hợp với Hội Nông dân các cấp để giúp đỡ nông dân trong vùng có doanh nghiệp và trang trại phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu qủa. - Phải xây dựng, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh dịch vụ: về đất đai, nguồn vốn, tay nghề lao động, chuyển đổi kinh tế nhanh chóng; gắn chặt giữa sản xuất với chế biến và thị trường, trong đó chú trọng sản phẩm chế biến phải tinh, sạch, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm theo nhu cầu và tiêu chuẩn của thị trường thế giới là một trong những yếu tố để đứng vững trên thị trường và dẫn đến sự thành công. - Tiếp thu khoa học công nghệ, ứng dụng vào sản xuất, chế biến. Công nghệ phải phù hợp với quy mô của khối lượng hàng hóa, công nghệ hiện đại, tiên tiến nhằm sản xuất ra các sản phẩm đ áp ứng yêu cầu của thị trường thế giới và nâng cao sức cạnh tranh, giảm giá thành, hiệu quả kinh tế cao. - Một vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay là phải nâng cao trình độ năng lực lãnh đạo cả giám đốc và các chủ trang trại cũng như các cán bộ chuyên môn phải giỏi, thành thạo trong công việc. Vì vậy đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, khả năng lãnh đạo sản xuất kinh doanh phải thường xuyên trang bị cho doanh nghiệp và trang trại các kiến thức về quản lý, khoa học kỹ thuật, sản xuất kinh doanh, về thị trường công nghệ thông tin, về pháp luật trong nước, thông lệ quốc tế, luật pháp của các nước trên thế giới có như vậy mới đủ khả năng đưa
  16. doanh nghiệp và trang trại phát triển. Đào tạo nâng cao tay nghề trên từng lĩnh vực sản xuất là rất quan trọng để họ có đủ khả năng làm ra sản phẩm với chất lượng cao. - Xây dựng cơ chế chính sách và tài chính để hỗ trợ doanh nghiệp và trang trại. Đầu tư và giúp đỡ về công nghệ thông tin, khuyến nông, lâm, ngư, khuyến công, xúc tiến thương mại các chính sách đào tạo, bồi dưỡng, bảo hiểm xã hội, chính sách thuế Tất cả để tạo cho doanh nghiệp và trang trại nông dân, nông thôn Việt Nam phát triển, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, chế biến và thị trường để họ đóng góp xứng đáng vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng đất nước. Để góp phần thực hiện nghị quyết Đại hội X của Đảng, công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, hội nhập vớ i nền kinh tế thế giới, Chính phủ đã quyết định cho thành lập Hiệp hội Doanh nghiệp và trang trại nông dân, nông thôn Việt Nam. Hiệp hội có phương hướng nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là: - Tập hợp rộng rãi các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp, các chủ trang trại khu vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong cả nước tham gia Hiệp hội; nhằm hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau phát triển sản xuất, kinh doanh – dịch vụ. - Mở rộng mạng lưới tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp và trang trại dưới các hình thức như trung tâm tư vấn, công ty cổ phần, các câu lạc bộ để phối hợp hoạt động . Hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước để khai thác tiềm năng thế mạnh về khoa học kỹ thuật, công nghệ, tài chính và thị trường. - Tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, hội chợ, xây dựng thương hiệu - Tổ chức tốt việc bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho doanh nghiệp và trang trại. Nâng cao kỹ năng lao động, trình độ tay nghề cho người lao động. Hiệp hội doanh nghiệp và trang trại Việt nam ra đời sẽ tiến kịp với sự phát triển kinh tế trên thế giới, làm tròn sứ mệnh của mình góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. III. Quản trị trang trại 1. Khái niệm và tầm quan trọng của quản trị trang trại Các hoạt động tập thể, sự hiệp tác (trong lao động, sản xuất kinh doanh, ) đều đòi hỏi một sự phối hợp nhịp nhàng, sự điều khiển, sự hướng dẫn cụ thể đối với từng cá nhân để hoàn thành công việc chung. Khoa học quản trị giúp giải quyết các yêu cầu đó. Quản trị là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong một tổ chức, nhằm đạt được những mục tiêu chung. Những hoạt động cần thiết phải thực hiện được hiểu như là: + Ra quyết định và thực hiện quyết định. + Thực hiện các chức năng quản trị: Hoạch định, tổ chức, phối hợp điều khiển và kiểm tra. + Những hoạt động tác động qua lại giữa hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý.
  17. + Nghệ thuật vận dụng các học thuyết quản trị vào từng tình huống Trang trại là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức hiệp tác khác nhau. Vì thế , hoạt động quản trị phải gắn liên với trang trại. Quản trị trang trại là quá trình thực hiện các chức năng. hoạt động quản trị trên trang trại nhằm đạt được các mục tiêu sản xuất kinh doanh của trang trại" Quản trị đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Một trang trại quản trị tốt, sản xuất kinh doanh sẽ phát triển và đạt hiệu quả cao. Rất nhiều trang trại làm ăn thua lỗ một phần là do năng lực quản trị của chủ trang trại kém. Trong xu thế phát triển kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay. Cầ n chú ý nhiều đến hoạt động quản trị cũng như năng lực quản trị của các chủ trang trại. Trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến nhất ở nước ta hiện nay.Mặc dù qui mô sản xuất của trang trại đã vượt trội so với qui mô sản xuất gia đình trước đây, nhưng công tác quản lý (quản trị) vẫn còn ở cấp độ gia đình chưa theo kịp với sự phát triển về qui mô sản xuất. Do đó. hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, nhiều trang trại làm ăn thua lỗ. 2. Chức năng của quản trị trang trại. Trang trại là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh và các chức năng quản trị thực chất là những tác động của nhà quản trị (thường là chủ trang trại) tới đối tượng và khách thể sản xuất kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Các chức năng cụ thể bao gồm: - Chức năng hoạch định - Chức năng tổ chức. phối hợp và điều khiển. - Chức năng kiểm tra và giám sát - Chức năng điều chỉnh và thúc đầy. Các hoạt động quản trị thường xuyên diễn ra trên mọi mặt hoạt động của trang trại và tác động tới tất cả các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy nó rất phong phú và phức tạp. 2.1 .Chức năng hoạch định Đây là chức năng đầu tiên trong quá trình quản trị trang trại. Hoạch định là quá trình xác định những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đó Dự đoán và kế hoạch hoá là những nghiệp vụ phản ánh chức năng hoạch định của các nhà quản trị khi xác định chiến lược sản xuất kinh doanh. Xây dựng các kế hoạch, các chiến lược kinh doanh phải dựa trên cơ sở phân tích hoạt động kinh doanh của trang trại, đồng thời sử dụng các kiến thức của khoa học dự báo để tính toán, lựa chọn. 2.2 Chức năng tổ chức phối hợp và điều khiển Sau hoạch định là một quá trình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được mục tiêu của trang trại. Quá trình này cần có sự kết hợp các nguồn lực và các yếu tố kinh doanh. Để thực hiện kết hợp này, cần phải tổ chức, phối hợp và điền khiển chúng thông qua một loạt các hoạt động như: xác định khối lượng các
  18. công việc cần hoàn thành theo một mục tiêu kinh doanh nào đó; xác định trách nhiệm, sự liên quan và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các yếu tố và người lao động trong trang trại; phân công và điều khiển các công việc. Trong số hàng loạt những công việc đó điều khiển là công việc diễn ra hàng ngày của các nhà quản trị. Điều khiển là các hoạt động hướng dẫn, đôn đốc, động viên, thúc đầy những người dưới quyền làm việc nhằm đạt được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao. Muốn thực hiện công việc điều khiên, các nhà quản trị phải thường xuyên ra các quyết định. Vì vậy việc lựa chọn quyết định đúng có ý nghĩa rất quan trọng. 2.3 Chức năng kiểm tra giám sát Kiểm tra là một chức năng cơ bản của quản trị trang trại nhằm mục đích xác định thực chất các công việc đã được thực hiện theo mục tiêu đã định. Trên cơ sở kiểm tra để biết mức độ các công việc đã được thực hiện, phát hiện những lệch lạc về mục tiêu hay những trục trặc trong việc thực hiện các công việc để có sự chấn chỉnh kịp thời. Để làm tốt chức năng kiểm tra, phương pháp kiểm tra phải phù hợp với từng loại công việc là các đối tượng thực hiện công việc. Kiểm tra qua giấy tờ sổ sách là một biện pháp quan trọng, nhưng kiểm tra một cách sâu sát tại hiện trường cơ sở là biện pháp cần thiết và quan trọng hơn. 2.4 Chức năng điều chỉnh và thúc đẩy: Hoạt động kinh doanh và công tác quản trị chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố. Việc định hướng và xác lập sự cân đối trong kết hợp các yếu tố chỉ là tương đối. Vì vậy, điều chỉnh những bất hợp lý do sự tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan là công việc thường xuyên và cần thiết. Nó hoàn toàn khác với nhận thức trước đây trong nền kinh tế "kế hoạch tập trung cho rằng kế hoạch đã được phê duyệt cần phải nghiêm chỉnh thực hiện, không được thay đổi". Để điều chỉnh kịp thời, đúng các nội dung cần điều chỉnh và mức độ cần điều chỉnh cần phải thường xuyên kiểm tra phát hiện các bất hợp lý, tìm ra các nguyên nhân của nó, xác định đúng mức độ và đề ra các biện pháp thực hiện theo các nội dung đã điều chỉnh. Ngoài điều chỉnh quản trị còn có chức năng thúc đẩy các hoạt động kinh doanh và cả quản trị hoạt động kinh doanh. Thúc đẩy có nghĩa là đôn đốc, là tạo điều kiện để hoạt động kinh doanh diễn ra đúng nội dung, đúng tiến độ và bảo đảm chất lượng. Các nhà quản trị có thể dùng các phương pháp hành chính tổ chức, phương pháp giáo dục và các phương pháp kinh tế để thực hiện chức năng thúc đẩy . 3. Các phương pháp quản trị Phương pháp quản trị sản xuất kinh doanh là các cách thức tác động có hướng đích của chủ thể quản trị tới khách thể kinh doanh để đạt mục tiêu đề ra trong những điều kiện kinh doanh nhất định. Một số phương pháp quản trị có thể áp dụng cho trang trại bao gồm: 3.1 Phương pháp hành chính tổ chức: Đây là các phương pháp tác động trực tiếp đến cơ chế tổ chức của hệ thống (bộ máy) quản trị và kỷ luật của các trang trại.
  19. Về thực chất, đó là các tác động trực tiếp của bộ máy quản trị trang trại đến tập thể người lao động dưới quyền bằng các quyết định dứt khoát (bằng lời hay bằng văn bản) có tính bắt buộc. Nó bắt buộc người lao động phải thực hiện, không có sự lựa chọn, nếu vi phạm sẽ bị xử lý. Phương pháp hành chính - tổ chức có vai trò hết sức to lớn. Nó xác lập trật tự, kỹ cương lao động, khâu nối hoạt động giữa các bộ phận có liên quan, giữ được bí mật, ý đồ kinh doanh, giải quyết các vấn đề kịp thời và nhanh chóng. Tuy nhiên, các phương pháp hành chính - tổ chức chỉ phát huy tác dụng khi các quyết định quản trị dựa trên cơ sở các yêu cầu khách quan của các hoạt động kinh doanh, tuyệt đối không dựa vào ý muốn chủ quan không căn cứ của chủ thể quản trị. Mặt khác, nó còn đòi hỏi chủ trang trại quyết định dứt khoát, rõ ràng, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện và không để người tiếp nhận hiểu sai lệch ý đồ của quyết định quản trị. 3.2. Các phương pháp kinh tế Các phương pháp kinh tế là những cách thức tác động chủ thể quản trị đến đối tượng quản trị và các khách thể kinh doanh một cách gián tiếp thông qua có lợi ích kinh tế. Thực chất của phương pháp kinh tế là các chủ thể quản trị gián tiếp tác động đến đối tượng quản trị bằng các biện pháp kinh tế, để các đối tượng quản trị tự lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ. Cơ sở của nguyên tắc này là: sự thống nhất về lợi ích sẽ dẫn đến thống nhất về mục đích và hành động. Lợi ích là một trong các động lực cơ bản trong mọi hoạt động của con người, trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Vì thế, các phương pháp kinh tế đã tạo ra sự quan tâm vật chất thiết thân của đối tượng quản trị. Nó là phương pháp quản trị tốt nhất để thực hành tiết kiệm, làm cho người lao động hăng hái sản xuất, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Các phương pháp kinh tế có vai trò rất quan trọng trong quản trị sản xuất kinh doanh. Nhưng nhà quản trị phải xác định được lúc nào cần sử dụng các phương pháp kinh tế, mức độ khuyến khích bao nhiêu mới tạo được hiệu quá tối ưu. Các biện pháp kinh tế có thể ví như con dao hai lưỡi nếu sử dụng tốt rất có hiệu quả, nếu sử dụng không tốt sẽ có hại. Đây là những điều cần lưu ý tránh lạm dụng phương pháp kinh tế trong quản trị sản xuất kinh doanh. 3 Phương pháp giáo dục Các phương pháp giáo dục là cách thức tác động của chủ thể quản trị đến nhận thức và tình cảm của người lao động nhằm nâng cao tính tự giác và nhiệt tình lao động của họ. Các phương pháp giáo dục có ý nghĩa lớn trong quản trị sản xuất kinh doanh. Bởi vì, dựa trên cơ sở vận dụng cụ quy luật tâm lí, chủ thể quản trị làm cho người lao động phân biệt rõ lợi - hại, đúng - sai để nâng cao tính tự giác làm việc, gắn bó với trang trại, hơn nữa các phương pháp giáo dục góp phần đắc lực trong trang bị các tri thức về xã hội, về lựa học kỹu th ật và nghiệp vụ chuyên môn
  20. cho người lao động. Đây là vấn đề hết sức cần thiết đối với các trang trại, vì do đặc điểm lịch sử, chất lượng nguồn lao động nông nghiệp thường thấp kém so với các ngành khác Hoạt động sản xuất nông nghiệp đòi hỏi sự chăm sóc nghiêm ngặt, tự giác của người lao động đối với cây trồng, gia súc. Trong nhiều trường hợp, mệnh lệnh hành chính có khi không mang lại kế t quả mong muốn, các phương pháp kinh tế không phát huy tác dụng phương pháp giáo dục lại trở nên hữu hiệu. Mỗi phương pháp quản trị có một cách thức tác động khác nhau và tác động đến những mặt khác nhau. Vì vậy, vận dụng tổng hợp các phương pháp trong quản trị sản xuất kinh doanh nói chung. trong các trang trại nói riêng là cần thiết. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định. phương pháp này được nhấn mạnh hơn phương pháp khác, nhưng sự nhấn mạnh đó cũng chỉ là nhất thời. Cần năng động và hết sức mềm dẻo khi sử dụng các phương pháp tác động đến con người trong quản trị sản xuất kinh doanh. CHƯƠNG III. LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI SẢN XUẤT I. NHỮNG MỐI QUAN HỆ CÓ TÍNH VẬT CHẤT. Trong chương này chúng tôi trình bày những nội dung chính về lý thuyết của kinh tế học trong khu vực sản xuất, đã tỏ ra cần thiết trong nghiên cứu về thị trường nông nghiệp. Cũng như mọi ngành kinh tế khác, kinh tế học trong sản xuất nông nghiệp cũng quan tâm đến việc phân phối nguồn lực khan hiếm cho nhiều phương hướng sản xuất. Trong lý thuyết về sản xuất, người ta tìm mọi cách chọn lựa: Sản xuất cái gì? Sản xuất bao nhiêu và sản xuất như thế nào? Quyết định việc này bởi chính người sản xuất - được xác định là “một tác nhân cụ thể chuyên trách việc chuyển đổi các yếu tố đầu vào thành các loại hàng hoá mong muốn, đó là các yếu tố đầu ra” (Hirshlefer – 1976). Sản xuất là quá trình phối hợp và điều hoà các yếu tố đầu vào (tài nguyên hoặc các yếu tố sản xuất như: đất đai, lao động ) để tạo ra các đầu ra (hàng hóa hoặc dịch vụ như: thóc, ngô, thịt, trứng, sữa ). Chẳng hạn để sản xuất ra một tấn mũ cao su, ta cần có: các điều kiện khí hậu thích hợp, diện tích đất canh tác, phân bón, các dịch vụ khác như lao động chăm sóc, thu hoạch Nếu giả thiết sản xuất sẽ diễn biến một cách có hệ thống với trình độ sử dụng đầu vào hợp lý, các nhà kinh tế học thường biểu thị mối quan hệ giữa lượng đầu vào cần thiết và lượng đầu ra có thể có được bằng các ký hiệu toán học được gọi là “hàm sản xuất”. Hàm sản xuất là mối quan hệ kỷ thuật biểu thị lượng hàng hóa tối đa có thể thu được từ các kết hợp khác nhau của các yếu tố đầu vào với một trình độ công nghệ nhất định. Hàm sản xuất tổng quát có dạng: Q = f (X1, X2, X3, Xn) Trong đó: Q: Sản lượng đầu ra. X1, X2, X3, Xn: Các yếu tố đầu vào được sử dụng trong quá trình sản xuất.