Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế) - Phần 9

pdf 27 trang phuongnguyen 2140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế) - Phần 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_chinh_tri_mac_lenin_dung_cho_khoi_nganh_k.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế) - Phần 9

  1. thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. 2. Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Dưới đây là những giải pháp chủ yếu nhất: a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần Trước đây khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường, chúng ta đã thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành những chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong những cơ sở của kinh tế hàng hoá. Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển. Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh. Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo Luật hợp tác xã. Khuyến khích kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân) phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển có hiệu quả. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại.
  2. b) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì vậy, để phát triển kinh tế hàng hoá, phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhưng sự phát triển của phân công lao động xã hội do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội, cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại. Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ; ứng dụng nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Cùng với việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến hành phân công lại lao động và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước, cũng như ở từng vùng, từng địa phương; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. d) Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường mà được phân bố vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Trong những năm tới chúng ta cần phải: - Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh; xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá. Phát triển mạnh thương mại trong nước, tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu. - Phát triển vững chắc thị trường tài chính, bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng thị trường vốn và thị trường chứng khoán. - Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất. - Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề. - Phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn các sản phẩm khoa học công nghệ trở thành hàng hóa.
  3. đ) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, mới thu hút được vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế. Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại. Hiện nay, cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để phục vụ sản xuất. Tranh thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm có công nghệ tiên tiến, có tỷ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay phải có hiệu quả để trả được nợ, cải thiện được cán cân thanh toán. Chủ động tham gia tổ chức thương mại quốc tế, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi thích hợp. e) Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững sự ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của Nhà nước. f) Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước Việc xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta. Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, cần nâng cao năng lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia. Nhà nước thực hiện định hướng sự phát triển kinh tế; có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho hoạt động kinh tế; hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh để các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh. Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách
  4. tiền tệ, chính sách tiền lương và giá cả. IV- Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1. Sự cần thiết chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam Do nhận thức còn đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã thiết lập thể chế kinh tế kế hoạch và cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp. Mô hình kinh tế và cơ chế đó có những đặc trưng chủ yếu sau đây: Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Do đó, hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu phải dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, từ phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, địa chỉ tiêu thụ sản phẩm, đến việc định giá, sắp xếp bộ máy. Thứ hai, các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh. Thứ ba, trong cơ chế cũ quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị coi thường, nhà nước quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: Bao cấp qua giá là hình thức phổ biến và nghiêm trọng nhất. Nhà nước định giá tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hoá thấp hơn giá trị của chúng. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho không. Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật). Chế độ cung cấp tem phiếu với giá quá thấp đã biến thành một loại tiền lương hiện vật đã phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động. Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc trách nhiệm về vật chất đối với người được cấp vốn đã tạo ra gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, nhưng phong cách thì cửa quyền, quan liêu. Mô hình kinh tế chỉ huy, mà điển hình là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
  5. bao cấp với những đặc trưng nêu trên có những ưu điểm là tập trung được nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Mô hình kinh tế đó không có tiêu chuẩn khách quan đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế, bởi lẽ giá cả gần như không có quan hệ gì với giá trị hàng hoá, cũng như là tương quan cung - cầu, nên mọi sự tính toán đều sai lệch, làm mất đi động lực của sự phát triển kinh tế, làm triệt tiêu tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi đó chủ yếu phát triển kinh tế theo bề rộng chứ không phải phát triển kinh tế theo chiều sâu. Vì vậy, với sự đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Cơ chế thị trường a) Khái niệm và nội dung cơ chế thị trường Như đã biết, trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh, v.v Các quy luật đó đều biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường. Nhờ sự vận động giá cả thị trường mà diễn ra một sự thích ứng một cách tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu), tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất xã hội. Vậy cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung - cầu, cạnh tranh trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là một bộ máy tinh vi để phối hợp một cách không tự giác hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất. Cơ chế thị trường tự phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có thị trường và do đó có cơ chế thị trường hoạt động. *Tín hiệu của cơ chế thị trường là giá cả thị trường Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường của hàng hoá. Giá cả thị trường có những chức năng chủ yếu sau đây: - Chức năng thông tin: Những thông tin về giá cả thị trường cho người sản xuất biết được tình hình sản xuất trong các ngành, biết được tương quan cung - cầu, biết được sự khan hiếm đối với các loại hàng hoá. Nhờ đó mà những đơn vị kinh tế có liên quan ra được những quyết định thích hợp. Như vậy những thông tin về giá cả điều chỉnh hướng sản xuất và quy mô sản xuất, từ đó điều chỉnh cơ cấu sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu của xã hội. - Chức năng phân bố các nguồn lực kinh tế. Sự biến động của giá cả sẽ dẫn đến sự biến động của cung - cầu, sản xuất và tiêu dùng và dẫn đến sự biến đổi trong phân bố
  6. các nguồn lực kinh tế. Những người sản xuất sẽ chuyển vốn từ nơi giá cả thấp, do đó lợi nhuận thấp đến nơi giá cả hàng hoá cao, do đó lợi nhuận cao, tức là các nguồn lực sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được sử dụng với hiệu quả cao nhất, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu. - Chức năng thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật. Để có thể cạnh tranh được về giá cả, buộc những người sản xuất phải giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Do đó thúc đẩy sự tiến bộ của kỹ thuật, công nghệ và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngoài ra giá cả còn thực hiện chức năng phân phối lại. Trước đổi mới, ở nước ta thực hiện cơ chế hai giá: giá cả theo kế hoạch (giá bao cấp) và giá cả trên thị trường tự do. Giá cả theo kế hoạch thấp hơn rất nhiều so với giá cả trên thị trường tự do. Nói chung giá cả đó gần như không có quan hệ gì với giá trị hàng hoá, cũng như không tương quan đến cung cầu, nên mọi sự tính toán hiệu quả đều sai lệch. Bao cấp qua giá là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt lớn của ngân sách, do đó dẫn đến lạm phát. Việc chuyển sang cơ chế một giá - giá cả thị trường đối với tất cả các loại hàng hoá, chỉ trừ một số rất ít hàng hoá do Nhà nước định giá là bước chuyển có ý nghĩa quyết định từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường ở nước ta. * Giá cả thị trường phụ thuộc vào các nhân tố dưới đây: Thứ nhất, Giá trị thị trường. Giá trị thị trường là kết quả của sự san bằng các giá trị cá biệt của hàng hoá trong cùng một ngành thông qua cạnh tranh. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn tới hình thành một giá trị xã hội trung bình. Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của sức sản xuất của mỗi ngành mà giá trị thị trường có thể ứng với một trong ba trường hợp sau đây: - Trường hợp 1, giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung bình quyết định. Đây là trường hợp phổ biến nhất. - Trường hợp 2, giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện xấu quyết định. - Trường hợp 3, giá trị thị trường hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện tốt quyết định. Thứ hai, Giá trị (hay sức mua) của tiền. Giá cả thị trường tỷ lệ thuận với giá trị thị trường của hàng hoá và tỷ lệ nghịch với giá trị (hay sức mua) của tiền. Bởi vậy, ngay cả khi giá trị thị trường của hàng hoá không đổi thì giá cả hàng hoá vẫn có thể biến đổi do giá trị của tiền tăng lên hay giảm xuống. Sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và giá trị thị trường là hiện tượng đương nhiên, là "vẻ đẹp" của cơ chế thị trường, còn sự phù hợp giữa chúng chỉ là ngẫu nhiên. Thứ ba, Cung và cầu Trong nền kinh tế thị trường, cung và cầu là những lực lượng hoạt động trên thị
  7. trường. Cung - cầu không chỉ có mối quan hệ với nhau mà còn ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Trong thực tế, khi cung = cầu, thì giá cả thị trường ngang bằng với giá trị của hàng hoá. Khi cung > cầu, thì giá cả thị trường xuống thấp hơn giá trị hàng hóa. Còn khi cung < cầu, thì giá cả thị trường sẽ cao hơn giá trị. Như vậy cung và cầu thay đổi, dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng hóa. Đồng thời, giá cả thị trường cũng có sự tác động ngược trở lại tới cung và cầu. Nhìn chung, trong cơ chế thị trường khi không có sự nhất trí giữa cung và cầu, thì giá cả có tác động điều tiết đưa cung và cầu trở về xu hướng cân bằng nhau. Thứ tư, Cạnh tranh. Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền kinh tế thị trường nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất với người sản xuất, người sản xuất với người tiêu dùng hoặc giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng. Các cuộc cạnh tranh trên cũng là nhân tố dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng hóa. b) Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường ưu điểm của cơ chế thị trường Cơ chế thị trường có những ưu điểm và tác dụng mà không có cơ chế nào hoàn toàn thay thế được. Thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó, làm cho nền kinh tế phát triển năng động, có hiệu quả. Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu). Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn, hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một số công việc rất lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra các quyết định. Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế được phân bố một cách tối ưu.
  8. Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội. Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên, "sự thành công" của cơ chế đó là có điều kiện: các yếu tố sản xuất được lưu động, di chuyển dễ dàng; giá cả thị trường có tính linh hoạt, thông tin thị trường phải nhanh nhạy, và các chủ thể thị trường phải nắm được đầy đủ thông tin liên quan. Những khuyết tật của cơ chế thị trường Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó. Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi có cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo, thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền, thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật. Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội không được bảo đảm. Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, vì vậy sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp. Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của Nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó nền kinh tế, như người ta gọi, là nền kinh tế hỗn hợp. 3. Sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế thị trường a) Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Như đã phân tích ở trên, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách hiệu quả, tuy nhiên cơ chế đó cũng có một loạt những khuyết tật. Vì
  9. thế ở tất cả các nước có nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, tuy với mức độ khác nhau, để sửa chữa những "thất bại của thị trường". Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất khác nhau, vì thế, bên cạnh những điểm giống nhau về phương pháp quản lý, có sự khác nhau về mục tiêu xã hội của quản lý. Nhà nước Việt Nam muốn quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có kết quả trước hết cũng phải dựa trên yêu cầu khách quan của các quy luật của kinh tế thị trường. Do đó phương pháp quản lý của Nhà nước ta về nhiều phương diện cũng có những nét giống như phương pháp quản lý của nhà nước ở các nước tư bản: thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế để họ có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, tự chịu trách nhiệm lỗ lãi; xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh, giá cả chủ yếu do thị trường quyết định; xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm hướng dẫn, giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật của thị trường; xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho hoạt động kinh tế; tôn trọng và thực hiện các thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, sự quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự quản lý kinh tế của nhà nước tư sản có sự khác nhau cơ bản. Sự quản lý của nhà nước tư sản đối với nền kinh tế thị trường nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho các tổ chức độc quyền. Nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản quản lý nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; bảo đảm cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những chức năng kinh tế sau đây: Một là, Nhà nước bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, vì ổn định chính trị, xã hội là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ. Hai là, Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát, Nhà nước phải sử dụng chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Ba là, Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Vì vậy, Nhà nước phải thực hiện những biện pháp
  10. nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội. Sự xuất hiện độc quyền cũng làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường, vì vậy Nhà nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường. Bốn là, Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có thể đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới, không tự động đưa đến sự phân phối thu nhập công bằng. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ rệt nhất tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta. b) Nội dung quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Những nội dung quản lý kinh tế chủ yếu của Nhà nước ta bao gồm: - Quyết định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế. Để xây dựng chiến lược đúng, có căn cứ khoa học, cần phân tích đúng thực trạng kinh tế - xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy, cần thực hiện dân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá quyết sách. - Kế hoạch. Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lược, nó là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược. Kế hoạch xác định mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và phương thức thực hiện các mục tiêu đó. - Tổ chức. Tổ chức là một nội dung của quản lý nhằm bảo đảm thực hiện kế hoạch đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí cán bộ thích hợp. - Chỉ huy và phối hợp. Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường, có hiệu quả, cần có sự chỉ huy thống nhất (điều chỉnh từ một trung tâm). Để có thể chỉ huy nền kinh tế, phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ thông tin về các mặt để điều hoà, phối hợp các mặt hoạt động của nền sản xuất xã hội, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh để bảo đảm cân bằng tổng thể của nền kinh tế. - Khuyến khích và trừng phạt. Bằng các đòn bảy kinh tế và động viên về tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng của kế hoạch, cố gắng thực hiện nhiệm vụ của kế hoạch. Muốn vậy, phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng, hoạt động theo định hướng kế hoạch, làm lợi cho nền kinh tế thì được khuyến khích; ngược lại, không làm theo định hướng của kế hoạch, làm hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt.
  11. c) Các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, nó tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật bao trùm mọi hoạt động kinh tế - xã hội, bao gồm những điều luật cơ bản về hoạt động của các doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp), về hợp đồng kinh tế, về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo vệ môi trường, v.v Các luật đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điều tiết của Nhà nước. - Kế hoạch hoá. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kế hoạch kết hợp với thị trường. Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản lý của Nhà nước, chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực, còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch. Kế hoạch nói ở đây được hoạch định trên cơ sở thị trường, bao quát tất cả các thành phần kinh tế, tất cả các quan hệ kinh tế, kể cả quan hệ thị trường. - Lực lượng kinh tế của Nhà nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch hoá, mà còn bằng lực lượng kinh tế của Nhà nước và tập thể để chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nhờ đó Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế - xã hội do kế hoạch đặt ra. - Chính sách tài chính và tiền tệ. Đối với nền kinh tế thị trường, Nhà nước quản lý bằng các biện pháp kinh tế là chủ yếu. Những biện pháp kinh tế điều tiết vĩ mô của Nhà nước chủ yếu là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và xã hội. Thông qua việc hình thành và sử dụng ngân sách nhà nước, Nhà nước điều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo đảm công bằng trong phân phối và thực hiện các chức năng của mình. Nội dung của ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và các khoản chi. Bộ phận chủ yếu của các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách, mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu dùng. Chính sách tiền tệ. Là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của nó trong điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là công cụ quan trọng, là phương tiện điều tiết cung, cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kìm
  12. chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế. - Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại. Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất - nhập khẩu, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu. Thông qua các công cụ đó, Nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta; giữ vững được độc lập, chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trên đây là các công cụ mà Nhà nước Việt Nam sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chúng ta sẽ đi sâu nghiên cứu một số công cụ chủ yếu ở các chương tiếp sau. Câu hỏi ôn tập 1. Phân tích các đặc điểm kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 2. Để kinh tế thị trường ở nước ta hình thành và phát triển, hiện nay cần thực hiện các giải pháp nào ? 3. Phân tích vai trò của lưu thông hàng hoá và vai trò của thương nghiệp nước ta hiện nay. 4. Vì sao nói chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn tất yếu của Việt Nam? 5. Cơ chế thị trường là gì ? 6. Phân tích những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. 7. Phân tích chức năng kinh tế, nội dung và các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
  13. Chương XIV Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam I- Tài chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam 1. Bản chất, chức năng và vai trò của tài chính a) Bản chất của tài chính Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời của nhà nước và nền sản xuất hàng hoá. Tài chính nước ta là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm xây dựng, bảo vệ và phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tổ chức các hoạt động kinh tế, cần phải tạo lập ra các quỹ tiền tệ mà thực chất là các quỹ giá trị khác nhau và chia thành các phần để phân phối và sử dụng các quỹ đó. Ngoài các quan hệ hàng hoá - tiền tệ (trao đổi, mua, bán ), thì hàng loạt các quan hệ tiền tệ khác nảy sinh trong nền kinh tế đó là các quan hệ tài chính, bởi vậy cần phân biệt quan hệ hàng hoá tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong quan hệ hàng hoá - tiền tệ, tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian và giá trị chỉ thay đổi hình thức tồn tại của mình mà thôi. Thí dụ, trong quan hệ mua - bán giữa A là người mua, B là người bán, đối với A, giá trị chỉ chuyển đổi từ hình thái tiền sang hình thái hàng hoá. Ngược lại, đối với B, giá trị chuyển đổi từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền. Trong quan hệ tài chính thì khác, giá trị thực sự dịch chuyển từ chủ thể hay bộ phận này sang chủ thể hay bộ phận khác. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước, giá trị dịch chuyển từ quỹ tài chính doanh nghiệp sang ngân sách nhà nước, do đó quan hệ về thuế là quan hệ tài chính. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bản chất của tài chính biểu hiện qua các nhóm quan hệ tài chính dưới đây: - Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội với Nhà nước: Đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc tập trung vào ngân sách nhà nước và sự phân phối giá trị đó phải bảo đảm cho các hoạt động của Nhà nước diễn ra bình thường. Trong mối quan hệ này giá trị dịch chuyển theo hai chiều từ dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức vào ngân sách nhà nước và ngược lại. Trong chủ nghĩa tư bản, mối quan hệ này nhìn bề ngoài cũng được thực hiện thông qua hai chiều, nhưng mục đích và bản chất lợi ích có khác nhau. Sự khác nhau này do tính chất quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối khác nhau quy định.
  14. - Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư với hệ thống ngân hàng : Trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần kinh tế, hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tín dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc tài trợ vốn cho các hoạt động xã hội nói chung, sản xuất, kinh doanh nói riêng, tạo thuận lợi phát triển mạnh mối quan hệ tài chính - quan hệ tín dụng - giữa các doanh nghiệp, các tổ chức dân cư với ngân hàng. - Nhóm các quan hệ tài chính giữa các chủ thể với thị trường : Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các "quỹ tiền tệ" tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Tham gia mua bán trên thị trường tài chính là hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhà nước cũng tham gia vào nhóm quan hệ tài chính này với tư cách như người mua và bán các quỹ tiền tệ. Nhà nước bán quỹ tiền tệ của mình bằng việc phát hành công trái. Trong mối quan hệ tài chính nói trên, quan hệ mua bán "vốn" giữa các doanh nghiệp và nhân dân đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hữu hiệu để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính, vừa chống lại tính tự phát và sự lũng đoạn trên thị trường tài chính nhằm đưa nền kinh tế phát triển theo phương hướng đã định. - Nhóm các quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể (doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư.): Quan hệ này biểu hiện ở sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt động của mỗi tổ chức thông qua việc chi trả lương, thưởng cho viên chức, công nhân, người lao động; thông qua các khoản thu về tiền phạt do vi phạm hợp đồng, vi phạm vật chất; thông qua việc cấp phát vốn, phân phối, điều hoà vốn; thông qua phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ mỗi chủ thể. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các quan hệ tài chính này tuỳ thuộc loại hình sở hữu. Trong các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế nhà nước hay các tổ chức xã hội phi nhà nước, các tổ chức nhân dân , ngoài sự quy định của pháp luật, Nhà nước cũng có trách nhiệm hướng dẫn và điều tiết ở mức độ nhất định. Thông qua hướng dẫn, điều tiết, Nhà nước vừa bảo đảm cho các quan hệ tài chính không phát triển tự phát và bóc lột tối đa người lao động như trong chủ nghĩa tư bản; vừa hướng dẫn mối quan hệ này phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. b) Chức năng của tài chính Tài chính có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và giám đốc: - Chức năng phân phối: Để tồn tại và phát triển, xã hội phải thường xuyên tiến hành sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất xã hội. Trong quá trình ấy, của cải thường xuyên được tập trung lại, rồi lại được phân chia thành các bộ phận khác nhau, nhờ đó mà quá trình sản xuất và tái sản xuất mới có thể được thực hiện.
  15. Trong nền kinh tế thị trường, việc phân chia của cải vật chất của xã hội chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động tài chính được quy thành tiền, thành giá trị và chúng được phân phối thông qua sự vận động tài chính. Vì vậy, toàn bộ các mối quan hệ giá trị nói trên được thực hiện thông qua chức năng phân phối của tài chính. - Chức năng giám đốc: Cũng như phân phối, chức năng giám đốc xuất phát từ thuộc tính vốn có của tài chính. Chức năng giám đốc của tài chính biểu hiện ở chỗ, tài chính có vai trò như người "giám sát", "đôn đốc", "kiểm tra", "điều chỉnh" tình hình hoạt động kinh tế. Cơ sở của chức năng giám đốc là sự thống nhất giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá trình hoạt động của Nhà nước và của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua sự vận động của các quỹ tiền tệ, người ta có thể biết được tình trạng của nền kinh tế để có giải pháp điều chỉnh. Phân phối và giám đốc là các chức năng cơ bản của tài chính, là biểu hiện hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau, thông qua đó các chủ thể vận dụng để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính như công cụ cực kỳ quan trọng phục vụ tốt mục đích đề ra trong từng thời kỳ. c) Vai trò của tài chính Vai trò của tài chính được phát huy nhiều hay ít phụ thuộc vào trình độ khai thác, quản lý và sử dụng các chức năng của tài chính; phụ thuộc vào thể chế kinh tế của nền kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tài chính có những vai trò (tác dụng) chủ yếu sau đây: - Điều tiết kinh tế: Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp hai chức năng: phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, Nhà nước nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách phân phối, Nhà nước điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định. Nhà nước có thể dùng biện pháp đầu tư thêm vốn, bổ sung vốn để đẩy mạnh những ngành phát triển kém và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cũng có thể dùng biện pháp giảm vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế phát triển những ngành và những khâu chưa cần thiết Đồng thời, Nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các ngành. Với tác dụng điều tiết kinh tế, tài chính là công cụ trọng yếu thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển cân đối theo định hướng các mục tiêu kinh tế vĩ mô. - Xác lập và tăng cường các quan hệ kinh tế - xã hội : Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tự chủ về vốn kinh doanh thông qua vốn tự có, các loại vốn tín dụng và một phần do chiếm dụng vốn lẫn nhau, dẫn đến tình trạng nợ nần dây dưa làm rối loạn tài chính. Để làm lành mạnh hoá quan hệ tài chính, một mặt, Nhà nước cần có
  16. những biện pháp điều chỉnh các quan hệ tài chính kể cả biện pháp cấp bách buộc các doanh nghiệp thanh toán nợ nần trong thời gian ngắn. Mặt khác, Nhà nước còn phải chủ động tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời các thị trường vốn trung hạn, dài hạn, nhất là thị trường chứng khoán và hướng dẫn chúng phát triển đúng hướng. - Tích tụ và tập trung vốn, cung ứng vốn cho các nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Trong nền kinh tế luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai chiều từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực phi sản xuất, từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại. Nếu Nhà nước có chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ tài chính nảy sinh trong các quá trình di chuyển nói trên thì có thể thúc đẩy quá trình tập trung vốn cho đầu tư phát triển, giảm bớt các chi phí không cần thiết và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, nhất là trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. - Tăng cường tính hiệu quả của sản xuất, kinh doanh: Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu - chi tài chính và phân phối thu nhập, theo nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lý chính xác mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, tài chính có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; thông qua giám đốc tài chính mà duy trì kỷ luật tài chính, góp phần đẩy lùi lãng phí, tham ô - Hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dùng hợp lý: Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, việc phân phối thu nhập được thực hiện theo nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có nguyên tắc phân phối theo vốn hay theo tài sản, có khả năng dẫn đến sự phân phối không công bằng, thiếu hợp lý. Chính vì vậy, Nhà nước cần thường xuyên thực hiện việc phân phối lại và điều chỉnh sự phân phối từng bước cho phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước có thể điều tiết bằng cách đánh thuế thu nhập người có thu nhập cao, hỗ trợ người có thu nhập thấp; hoặc cũng có thể thành lập các quỹ xoá đói, giảm nghèo, quỹ hỗ trợ tạo việc làm cho người nghèo, nâng lương cho người lao động ở các ngành có thu nhập thấp - Củng cố liên minh công - nông, tăng cường vai trò của Nhà nước và an ninh quốc phòng: Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, một nền tài chính lành mạnh theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, sẽ tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc cho việc củng cố liên minh công - nông - trí thức, nền tảng cho việc tăng cường vai trò của Nhà nước và an ninh quốc phòng. 2. Hệ thống tài chính của nước ta hiện nay Hệ thống tài chính là tổng thể các mối quan hệ tài chính và các tổ chức bộ máy thực hiện các chức năng tài chính của các chủ thể trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ thống
  17. tài chính bao gồm các bộ phận hợp thành với tư cách là các tụ điểm tài chính. Các tụ điểm tài chính này gắn với một chủ thể nhất định và thực hiện quá trình "bơm", "hút" các nguồn lực tài chính dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính theo sơ đồ sau: Ngân sách nhà nước Tài chính của các tổ Tài chính các Thị trường chức tài chính (tín doanh nghiệp tài chính dụng, công ty tài chính, bảo hiểm) Tài chính dân cư (hộ gia đình và các tổ chức xã hội) Dưới đây là các yếu tố hợp thành hệ thống tài chính: a) Ngân sách nhà nước và chính sách tài khoá - Ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu được của Nhà nước để bảo đảm các khoản chi cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Trong hệ thống tài chính, ngân sách nhà nước là bộ phận chủ đạo, là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước do Hiến pháp quy định. Ngân sách nhà nước còn là công cụ quan trọng của Nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô đời sống kinh tế, xã hội và bảo đảm an ninh- quốc phòng. Cơ cấu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và chi. Các khoản thu gồm có : + Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí. + Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước. + Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân. + Các khoản viện trợ. + Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối ngân sách nhà nước. + Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Các khoản chi ngân sách nhà nước gồm có: + Các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội.
  18. + Các khoản chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước. + Các khoản chi trả nợ của Nhà nước. + Các khoản chi dự trữ nhà nước (từ 3% đến 5% tổng số dư). + Các khoản chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. - Chính sách tài khoá: Chính sách tài khoá là chính sách của Nhà nước trong việc huy động các nguồn thu vào ngân sách nhà nước và sử dụng nó trong thời hạn nhất định (thường là 1 năm). Chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế, đến giải quyết lạm phát và thất nghiệp. Nó cũng có tác động đến việc điều chỉnh nhịp độ phát triển nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng thời kỳ. Mục tiêu của chính sách tài khoá là bảo đảm các nguồn lực tài chính, tạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt mục tiêu trên đây, chính sách tài khoá phải xử lý nhiều mối quan hệ, trong đó có những quan hệ (nội dung) cốt lõi. Thông thường giải quyết đúng đắn những quan hệ mâu thuẫn sau đây chính là giải quyết nội dung cốt lõi của chính sách tài khoá: + Mâu thuẫn giữa thu và chi ngân sách nhà nước. + Mâu thuẫn giữa tập trung vào ngân sách nhà nước với tích luỹ, tích tụ trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh. + Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công bằng xã hội. b) Tài chính doanh nghiệp Đây là bộ phận tài chính gắn với các quỹ giá trị phục vụ mục đích phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hoá hay dịch vụ Sự tạo lập các quỹ này ban đầu có thể dựa vào thị trường tài chính, thu hút vốn qua việc huy động vốn cổ phần hay vay (phát hành trái phiếu, vay ngân hàng). Sau đó, các quỹ giá trị này được bổ sung, tái tạo nhờ sự xuất hiện các nguồn tài chính trong doanh nghiệp thông qua việc phân phối để tạo lập các quỹ bù đắp, các quỹ từ lợi nhuận. Mỗi quỹ giá trị trong doanh nghiệp đều có vai trò nhất định, phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của những người tham gia sản xuất, kinh doanh. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ với các bộ phận khác của hệ thống tài chính trong nước. Thí dụ, nó có quan hệ với tài chính hộ gia đình thông qua trả lương, thưởng, lợi tức cổ phần, trái phiếu; với ngân sách nhà nước thông qua nộp thuế; với ngân hàng thông qua các hình thức tín dụng c) Tài chính của các tổ chức tín dụng, công ty tài chính Hoạt động của các tổ chức này gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ thông qua thu hút các nguồn tài chính nhàn rỗi theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức. Các quỹ này được các tổ chức tín dụng và công ty tài chính sử dụng
  19. cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống. d) Bảo hiểm Đây là hình thức tài chính nảy sinh trong việc giải quyết những rủi ro có thể xảy ra trong sản xuất và đời sống xã hội. Hoạt động bảo hiểm được thực hiện thông qua ngành bảo hiểm. Thông qua huy động, nó có tác dụng huy động nguồn vốn lớn qua nhiều đối tượng và nhiều hình thức để cung ứng cho thị trường tài chính. e) Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội Quỹ tài chính của các hộ gia đình được hình thành từ các thu nhập, tiền lương của các thành viên trong gia đình do lao động sản xuất, kinh doanh, do thừa kế tài sản, quà tặng. Quỹ này trước hết dành cho tiêu dùng và khi có tiền nhàn rỗi sẽ tham gia các quỹ tín dụng, góp cổ phần, mua cổ phiếu, trái phiếu. Một phần trong quỹ này tham gia đóng góp vào ngân sách nhà nước dưới các hình thức thuế và một phần tham gia các quỹ bảo hiểm. Quỹ tài chính của các tổ chức xã hội hiện nay chủ yếu được hình thành bằng tài trợ từ ngân sách nhà nước. Nhưng trong thời gian tới phải dần dần hình thành từ các nguồn như: hội phí, quyên góp ủng hộ của dân cư và các tổ chức, của người nước ngoài. Mục đích của các quỹ này là phục vụ cho các mục tiêu hoạt động của các tổ chức xã hội. Khi một bộ phận quỹ tiền tệ nhàn rỗi, nó có thể tham gia tích cực vào thị trường tài chính theo các hình thức thích hợp. Việc nghiên cứu các bộ phận khác nhau của hệ thống tài chính trong chương này chỉ dừng lại ở khái niệm, nội dung, sự cần thiết và vai trò, mà không nghiên cứu các hoạt động cụ thể của nó. 3. Chính sách tài chính ở nước ta hiện nay Chính sách tài chính đóng vai trò cực kỳ quan trọng góp phần thực hiện nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh đi đôi với thực hiện công bằng xã hội. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: "Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ, bảo đảm tính ổn định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia"1. Muốn vậy, chính sách tài chính quốc gia trong thời gian tới cần hướng vào những vấn đề sau đây: a) Xây dựng và phát triển nền tài chính nhiều thành phần Trước hết, cần cải tiến hệ thống thu - chi ngân sách nhà nước trên nguyên tắc thu đúng, thu đủ, chi tiết kiệm, hợp lý, ưu tiên cho đầu tư phát triển phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phân cấp hợp lý giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương, giữa các ngành, các cấp Việc xây dựng và củng cố ngân sách nhà nước phải đảm bảo cho Nhà nước đủ sức mạnh để điều tiết kinh tế và hướng nền kinh tế phát triển 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X; Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 79.
  20. theo kế hoạch và định hướng đã định. Bên cạnh ngân sách nhà nước, phải đặc biệt coi trọng tài chính doanh nghiệp với tư cách là nền tảng của nền tài chính quốc gia, là động lực của sự tăng trưởng kinh tế. Phát triển tài chính doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt chú ý xây dựng và làm lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chế độ tự chủ tài chính, thống nhất chế độ thu - chi và phân phối tài chính trong các doanh nghiệp quốc doanh và hợp tác xã. Từng bước hướng các doanh nghiệp tư nhân thực hiện chế độ tài chính phù hợp với các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa. Chính sách tài chính cũng phải hướng tới bộ phận tài chính dân cư, coi đây là một trong những nguồn cung cấp tài chính không nhỏ cho nền kinh tế. Từ đó, hướng dẫn họ thực hiện nguyên tắc chi tiêu tiết kiệm, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ. b) Tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường tài chính Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tài chính là khâu trung gian gắn các khâu tài chính với nhau, có tác dụng thúc đẩy quá trình giao lưu các nguồn lực tài chính, tăng cường sự vận động của giá trị trong nền kinh tế. Nhà nước cần hết sức tạo điều kiện để thị trường tài chính hình thành và phát triển. Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, từng bước hình thành thị trường chứng khoán, nhân tố quan trọng thu hút vốn của xã hội và năng động hoá hoạt động đầu tư của nền kinh tế. c) Xây dựng hệ thống thông tin, phân tích, kiểm tra, kiểm soát tài chính Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các hoạt động tài chính trong xã hội ngày càng trở nên phức tạp. Tài chính là một lĩnh vực rất nhạy cảm, nếu không có đối sách hợp lý và giải quyết kịp thời các vấn đề về tài chính nảy sinh thì hậu quả sẽ rất nặng nề, thậm chí có thể gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế. Thực tế cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ cuối năm 1997 vừa qua ở châu á đã chứng tỏ điều đó. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin tài chính nhanh nhạy, tăng cường khả năng phân tích, kiểm tra, kiểm soát tài chính là nhu cầu khách quan và có tầm quan trọng đặc biệt của chính sách tài chính quốc gia. d) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp về tài chính Với đà phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các quan hệ tài chính nước ta ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, vì vậy xây dựng, cải tiến và hoàn thiện luật pháp về tài chính là một nội dung lớn của chính sách tài chính. Trong thời kỳ quá độ, luật pháp về tài chính phải tập trung vào các mục tiêu: + Xử lý tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, khai thác tối đa các nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Phát triển dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn tài chính bên ngoài. + Nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế, tạo điều kiện cho chủ
  21. động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. đ) Kiện toàn bộ máy quản lý tài chính Vai trò của tài chính cao hay thấp là nhờ yếu tố chủ thể mà trước hết là bộ máy quản lý tài chính. Trong thời kỳ quá độ, bộ máy quản lý tài chính cần được cải tiến và tổ chức cho thích ứng với từng thời kỳ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ máy quản lý phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính theo hướng: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; cải tiến, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy quản lý tài chính từ trung ương đến địa phương, từ quản lý tài chính doanh nghiệp đến các bộ phận quản lý tài chính dân cư và các tổ chức xã hội. Các mặt trên đây của chính sách tài chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và cần được thực hiện trong suốt thời kỳ quá độ, thích ứng với từng giai đoạn. II- Tín dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1. Bản chất, đặc điểm và các hình thức tín dụng a) Bản chất của tín dụng Tín dụng là hình thức vận động của vốn cho vay, nó phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc lẫn lợi tức. Quan hệ tín dụng ra đời bắt nguồn từ sự xuất hiện mối quan hệ cung cầu về vốn giữa người đi vay và người cho vay. Trong các doanh nghiệp, do đặc điểm chu chuyển vốn, nên trong từng thời điểm thường xuyên có một bộ phận vốn nhàn rỗi, chẳng hạn, vốn dùng để trả lương nhưng chưa đến kỳ trả, vốn mua nguyên liệu nhưng chưa đến kỳ mua cần được sử dụng để sinh lợi. Trong khi đó, một số doanh nghiệp khác muốn có vốn để thanh toán, để mở rộng và hiện đại hoá doanh nghiệp nhưng chưa tích luỹ vốn kịp. Tương tự như vậy, trong dân cư và trong các tổ chức xã hội cũng có số tiền nhàn rỗi cần được sinh lợi nên có khả năng cho vay. Rõ ràng cùng trong một thời điểm, nơi thì có vốn nhưng chưa cần sử dụng, nơi thì cần vốn nhưng chưa tích lũy kịp. Mâu thuẫn đó được giải quyết thông qua quan hệ tín dụng. Quan hệ tín dụng tồn tại trong nhiều nền kinh tế hàng hoá, nhưng do tính chất của các phương thức sản xuất xã hội khác nhau nên tín dụng cũng mang những bản chất khác nhau. Trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các quan hệ tín dụng nhìn về hình thức khi cho vay tiền đều phải thu lợi tức, có vay có trả, nhưng không chỉ vì mục đích thu lợi tức mà còn chủ yếu vì để phát triển mạnh mẽ nền sản xuất xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, nhất là đối với quan hệ tín dụng thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Tình trạng cho vay nặng lãi, bóc lột, bất bình đẳng xa lạ với bản chất của tín dụng dưới chủ nghĩa xã hội. b) Đặc điểm của tín dụng Quan hệ tín dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ngoài đặc điểm chung
  22. là quyền sở hữu vốn tách rời quyền sử dụng vốn, còn có đặc điểm lớn là: có nhiều quan hệ tín dụng khác nhau với những nguồn lợi tức khác nhau phản ánh nền kinh tế nhiều thành phần. Các quan hệ tín dụng này vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là lĩnh vực đấu tranh gay gắt, đòi hỏi quan hệ tín dụng thuộc kinh tế nhà nước phải không ngừng lớn mạnh để đảm nhiệm vai trò chủ đạo trong quan hệ tín dụng của toàn xã hội. c) Các hình thức của tín dụng - Theo tính chất của quan hệ tín dụng thì có các hình thức: + Tín dụng thương mại: Đây là việc mua bán chịu hàng hoá hoặc dịch vụ với kỳ hạn nhất định. Nó là hình thức vay nợ lẫn nhau giữa người mua và người bán, nhưng đối tượng vay nợ không phải bằng tiền mà bằng hàng hoá dịch vụ. Để khắc phục tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, giữ giá trị của vốn trong trường hợp lạm phát và có lãi nhất định, giá bán chịu thường cao hơn giá bán thanh toán tiền ngay. Khi bán chịu, người mua phải viết cho người bán một phiếu nhận nợ gọi là kỳ phiếu thương mại. Khi đến hạn người bán căn cứ vào kỳ phiếu để thu nợ người mua. Trong trường hợp người bán cần tiền trước thời hạn có thể đem kỳ phiếu đến các ngân hàng thương mại thực hiện chiết khấu kỳ phiếu để được nhận tiền theo quy định chung. Mặc dù, hình thức tín dụng này là cần thiết trong nền kinh tế thị trường, nhưng không phải là hình thức cần được khuyến khích, nhất là khi tín dụng ngân hàng của các ngân hàng thương mại xuất hiện và phát triển. Vì tình trạng mua bán chịu, nếu diễn ra thành hệ thống, dễ dẫn đến một khâu (người mua chịu) không trả được nợ, cả hệ thống đổ vỡ làm rối loạn nền kinh tế. + Tín dụng ngân hàng: Trong các hình thức tín dụng, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng có tầm quan trọng to lớn của kinh tế thị trường và là quan hệ tín dụng chủ yếu giữa ngân hàng và các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng là hình thức mà các quan hệ tín dụng được thực hiện thông qua vai trò trung tâm là ngân hàng. Nó đáp ứng phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp và dân cư. Theo đà phát triển của nền kinh tế, hình thức tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành hình thức chủ yếu mang tính phổ biến không chỉ ở trong nước mà còn trên trường quốc tế. - Nếu phân chia theo thời gian thì có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn (trên 1 năm và dưới 2 năm) và tín dụng dài hạn (trên 5 năm). Nếu phân chia theo đối tượng đầu tư của tín dụng thì có tín dụng vốn lưu động, tín dụng vốn cố định. - Theo chủ thể của quan hệ tín dụng thì có các hình thức: + Tín dụng nhà nước: Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế
  23. trong nước, giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, giữa Nhà nước với chính phủ các nước khác. Hình thức này được thực hiện thông qua việc Nhà nước phát hành công trái bằng thóc, bằng vàng, bằng tiền để vay dân khi ngân sách nhà nước thiếu hụt hoặc thông qua vay Chính phủ nước ngoài dưới hình thức tiền tệ. Tính hiệu quả của hình thức tín dụng nhà nước phụ thuộc vào việc thực hiện đúng đắn nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi giữa Nhà nước và người cho vay. Muốn vậy, phải bảo đảm lãi suất tín dụng nhà nước phù hợp với lãi suất tín dụng ngân hàng; thời gian trả phải bảo đảm đúng thời hạn ghi trên công trái hoặc giấy nhận nợ; phương thức thanh toán đơn giản, thuận tiện cho người cho vay. + Tín dụng tập thể: Tín dụng tập thể là hình thức tín dụng dựa trên nguyên tắc tự nguyện góp vốn của các thành viên cho nhau vay hoặc để cùng nhau kinh doanh tín dụng. Nó tồn tại dưới hình thức tổ chức như các hiệp hội tín dụng, hợp tác xã tín dụng. Tín dụng tập thể là hình thức có vai trò bổ sung cho tín dụng ngân hàng về huy động và cho vay chủ yếu ở nông thôn. Tín dụng tập thể là hình thức tồn tại tất yếu trong nền kinh tế thị trường, có vai trò rất quan trọng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn khi hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ và khi ngân hàng chưa vươn tới từng hộ nông dân. Tuy nhiên, điều đó chỉ trở thành hiện thực khi các tổ chức tín dụng tập thể có cơ chế kinh doanh phù hợp, tồn tại và phát triển trên cơ sở tôn trọng pháp luật, nhất là pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và có sự giúp đỡ của Nhà nước. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ngoài các hình thức tín dụng chủ yếu trên còn có một số hình thức tín dụng khác như tín dụng tiêu dùng, tín dụng học đường - Phân loại tín dụng theo phạm vi phát sinh tác dụng ta có: tín dụng trong nước, tín dụng quốc tế, tín dụng khu vực. 2. Chức năng và vai trò của tín dụng a) Chức năng của tín dụng Là một bộ phận của hệ thống tài chính, quan hệ tín dụng cũng có chức năng phân phối và giám đốc. Chức năng phân phối của tín dụng được thực hiện thông qua phân phối lại vốn. Phân phối của tín dụng dựa trên cơ sở tự nguyện theo nguyên tắc cho vay có thế chấp hoặc tín chấp; sử dụng đúng mục đích có hiệu quả và hoàn trả cả vốn gốc lẫn lợi tức. Nội dung của chức năng này biểu hiện ở cơ chế "hút" và "đẩy" được thực hiện thông qua nghiệp vụ huy động để thu hút các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi, phân tán trong xã hội và nghiệp vụ cho vay để đẩy vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Chức năng giám đốc được thể hiện ở việc kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng có liên quan đến đặc điểm quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn, đến mối
  24. quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Người có vốn cho vay luôn quan tâm đến sự an toàn của vốn; không những thế họ còn mong muốn vốn của họ khi sử dụng có khả năng sinh lời để họ có thể thu về thêm khoản lợi tức. Muốn vậy một mặt, người cho vay phải am hiểu và kiểm soát hoạt động của người đi vay, từ khâu xem xét tư cách pháp nhân người vay, tình hình vốn liếng, mặt hàng sản xuất, kinh doanh cả về số lượng và chất lượng, khả năng trả nợ nói riêng và tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác v.v Sau khi xem xét tư cách pháp nhân để cho vay, người cho vay phải kiểm soát việc sử dụng vốn cho vay xem có đúng mục đích và có hiệu quả không để điều chỉnh liều lượng vốn vay và thu hồi vốn đúng hạn, có kèm theo lợi tức. Mặt khác, để người có vốn cho vay yên tâm, gần đây Nhà nước đã có quyết định hình thành tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Hai chức năng trên có quan hệ mật thiết với nhau và đều có liên quan đến vai trò của tín dụng, bởi vậy, trong quá trình thực hiện không được xem nhẹ chức năng nào. b) Vai trò của tín dụng - Góp phần giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng vòng quay của vốn; tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát tiền tệ. - Thông qua cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, tín dụng góp phần tăng quy mô sản xuất, kinh doanh, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, tạo khả năng và khuyến khích đầu tư vào các công trình lớn, các ngành, lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng đối với quốc kế dân sinh, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh tạo điều kiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. - Thông qua cho vay vốn tiêu dùng, tín dụng góp phần hỗ trợ vốn cho cư dân cải thiện đời sống. - Góp phần thúc đẩy giao lưu tiền tệ giữa nước ta và các nước khác trên thế giới và trong khu vực. 3. Lợi tức, chính sách lợi tức tín dụng Lợi tức là một phần của lợi nhuận mà người đi vay trả người cho vay về quyền sở hữu vốn vay để được quyền sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định. Lợi tức là giá cả của vốn cho vay. Suất lợi tức (lãi suất) tiền vay là tỷ số tính theo phần trăm giữa lợi tức tiền vay và số vốn cho vay trong một thời gian nhất định. Lợi tức tín dụng bao gồm lợi tức tiền gửi và lợi tức tiền vay. Lãi suất tín dụng có nhiều loại như: lãi suất ngắn hạn, trung hạn, dài hạn với mức độ khác nhau; lãi suất ưu đãi, lãi suất thông thường, lãi suất quá hạn, nhằm kích thích các chủ thể đi vay thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần mang bản chất khác nhau cho nên lợi tức cũng có nguồn gốc khác nhau phản ánh những quan hệ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy, chính sách lợi tức của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng nhằm vừa khuyến
  25. khích các hình thức tín dụng huy động được nhiều vốn trong nước để phát triển sản xuất, vừa hạn chế, tiến tới thu hẹp và từng bước thủ tiêu quan hệ tín dụng trái với định hướng xã hội chủ nghĩa. Do lợi tức là một phần của lợi nhuận, nên suất lợi tức thường phải thấp hơn suất lợi nhuận. Nhưng suất lợi tức cũng không thể quá thấp vì như thế sẽ làm suy giảm hiệu quả sử dụng vốn vay. Khi quy định suất lợi tức của tiền gửi và tiền cho vay, phải căn cứ vào tình hình phát triển của nền kinh tế quốc dân, không những phải tính đến tình hình cung - cầu về vốn của toàn quốc mà còn phải tính đến tỷ trọng của lợi tức trong tổng lợi nhuận có ảnh hưởng tới việc sản xuất, kinh doanh của các cơ sở. Đối với tiền gửi của nhân dân, khi quy định lãi suất phải phân tích mối quan hệ giữa sức mua của đồng tiền với số lượng cung ứng hàng hoá và lợi ích của nhân dân. III- Ngân hàng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1. Hệ thống tổ chức ngân hàng ở nước ta Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập từ tháng 5 năm 1951 ở vùng tự do trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30 tháng 4 năm 1975) cả nước tồn tại một hệ thống Ngân hàng Nhà nước từ trung ương đến chi nhánh ở các tỉnh và chi điếm ngân hàng các huyện. Trước tháng 9 năm 1990, hệ thống tổ chức ngân hàng nói trên là hệ thống ngân hàng một cấp độc quyền; trực tiếp kinh doanh tiền tệ, hoạt động thông qua các trung tâm tiền mặt, trung tâm tín dụng, trung tâm thanh toán và kinh doanh vàng bạc, đá quý. Việc thực hiện các nhiệm vụ của trung tâm nói trên thường theo địa chỉ do cấp trên phân phối. Có thể nói, hoạt động của hệ thống tổ chức ngân hàng này chỉ thích ứng với điều kiện chiến tranh và mô hình kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu, bao cấp. Khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, hệ thống tổ chức ngân hàng này bộc lộ nhiều nhược điểm. Bởi lẽ, hệ thống đó không phân biệt chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ với chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Tháng 9 năm1990, trên cơ sở phân biệt chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành hai Pháp lệnh: Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính - hiện nay là Luật Ngân hàng. Từ đó đến nay, hệ thống ngân hàng về mặt tổ chức từ một cấp đã chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại (kinh doanh). - Ngân hàng Nhà nước có hệ thống tổ chức gồm Ngân hàng trung ương và các chi nhánh của nó tại các tỉnh, thành phố trong cả nước. - Ngân hàng thương mại, mà hình thức tổ chức của nó khá đa dạng dựa theo các tiêu thức khác nhau làm căn cứ để phân loại:
  26. Theo cơ cấu ngành kinh tế với tư cách là đối tượng phục vụ, các ngân hàng thương mại được chia thành hai loại: ngân hàng chuyên doanh (là ngân hàng phục vụ một ngành kinh tế - kỹ thuật) và ngân hàng kinh doanh tổng hợp (là ngân hàng phục vụ nhiều ngành kinh tế - kỹ thuật). Theo tiêu thức phân loại này, ở nước ta hiện nay có các ngân hàng chuyên doanh như ngân hàng ngoại thương, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng đầu tư phát triển , ngân hàng chính sách xã hội , còn ngân hàng kinh doanh tổng hợp là ngân hàng công thương. Mặc dù có sự phân chia nói trên, song trong thực tế các ngân hàng đều kinh doanh theo hướng tổng hợp. Điều đó, do trình độ xã hội hoá sản xuất và phân công lao động xã hội ở nước ta quyết định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần và mở cửa, căn cứ vào chủ thể sở hữu về vốn khi thành lập ngân hàng, các ngân hàng thương mại được phân ra theo các hình thức tổ chức: - Ngân hàng thương mại nhà nước, là ngân hàng thương mại được thành lập bằng 100% vốn của Nhà nước. Nó hoạt động theo những nguyên tắc của doanh nghiệp nhà nước. - Ngân hàng thương mại cổ phần, là ngân hàng được thành lập theo hình thức công ty cổ phần, mà vốn do các cổ đông đóng góp với số cổ phần thuộc sở hữu của mỗi cổ đông không quá tỷ lệ do Ngân hàng nhà nước quy định. Sự tồn tại và hoạt động của ngân hàng này phải theo khuôn khổ luật pháp của Nhà nước và những quy định của Ngân hàng nhà nước. - Ngân hàng thương mại tư nhân, là ngân hàng kinh doanh mà vốn thuộc sở hữu của tư nhân một chủ. Tổ chức và hoạt động của nó theo luật pháp của nhà nước và quy định của Ngân hàng nhà nước với các điều khoản riêng. - Ngân hàng thương mại nước ngoài, là những cơ sở (chi nhánh) của nước ngoài tại Việt Nam. Sự tồn tại và hoạt động của chúng phải tuân theo luật pháp của nhà nước Việt Nam và chịu sự quản lý khống chế của Ngân hàng Nhà nước. Sự tồn tại đa dạng các hình thức tổ chức ngân hàng thương mại như vậy là một tất yếu khách quan. Nó cho phép khai thác tối đa tiềm năng về vốn và sử dụng vốn; vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Sơ đồ khái quát hệ thống tổ chức ngân hàng ở nước ta Hệ thống tổ chức ngân hàng Ngân hàng nhà nước Ngân hàng thương mại
  27. Các chi nhánh tại các Phân theo đối tượng Phân theo tỉnh, thành phố ngành phục vụ cơ cấu sở hữu Ngân Ngân Ngân Ngân Ngân Ngân Ngân Ngân Ngân Ngân hàng hàng hàng hàng hàng hàng hàng hàng hàng hàng chính công ngoại Nông đầu tư kỹ thương thương thương thương sách thương thương nghiệp và phát thương mại mại cổ mại tư mại xã hội và phát triển quốc tế phần nhân nước triển ngoài nông thôn 2. Chức năng và nhiệm vụ của ngân hàng a) Đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng nhà nước là cơ quan của Chính phủ có các chức năng: - Phát hành tiền tệ, điều tiết lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán. - Là người đại diện về tài chính, tiền tệ của Nhà nước, quản lý tiền vốn của Nhà nước, cung cấp tín dụng cho Nhà nước, nhận mua quốc trái. - Thông qua cho vay huy động tiền gửi, tiến hành quản lý các ngân hàng và các cơ cấu tiền tệ khác, định ra chính sách tiền tệ, điều tiết giá cả và nhu cầu tiền tệ, hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Ngân hàng Nhà nước có hai nhiệm vụ cơ bản là: - Thực hiện vai trò là chủ ngân hàng đối với các ngân hàng thương mại, bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động bình thường. - Thực hiện vai trò là chủ ngân hàng đối với Nhà nước, chịu trách nhiệm kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách của Nhà nước. Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ cơ bản trên, Ngân hàng Nhà nước trung ương và các chi nhánh ngân hàng ở các tỉnh, thành phố có các nhiệm vụ cụ thể sau: - Tham gia xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách có liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng. - Xây dựng các dự án pháp luật, soạn thảo các văn bản pháp luật về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối để trình cấp có thẩm quyền phê chuẩn. Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện hệ thống pháp luật đã ban hành. - Quản lý nhà nước các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong tất cả các thành phần kinh tế, kể cả ngân hàng nước ngoài thông qua chính sách tiền tệ. - Tổ chức in, đúc và bảo quản tiền dự trữ phát hành (Ngân hàng Trung ương). Quản lý lưu thông tiền tệ, khống chế lạm phát và thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền tệ.