Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế) - Phần 10

pdf 30 trang phuongnguyen 2320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế) - Phần 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_chinh_tri_mac_lenin_dung_cho_khoi_nganh_k.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế) - Phần 10

  1. - Thực hiện vai trò ngân hàng của các ngân hàng kinh doanh và các tổ chức tín dụng. Nhận gửi và cho vay đối với kho bạc nhà nước để sử dụng ngân sách nhà nước. - Bảo quản dự trữ nhà nước và quản lý nhà nước về ngoại tệ và vàng; đại diện cho Nhà nước tại các tổ chức tiền tệ, tín dụng quốc tế; trực tiếp ký kết hoặc được uỷ quyền ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối; lập cán cân thanh toán quốc tế; thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế. - Bám sát diễn biến các thị trường, công bố lãi suất tối thiểu về tiền gửi, lãi suất tối đa về tiền vay, tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam với các ngoại tệ mạnh. - Tổ chức đào tạo nghiệp vụ kinh tế và kỹ thuật cho cán bộ nhân viên của ngành. Các công cụ chủ yếu để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng nhà nước. - Phát hành giấy bạc ngân hàng. Đây là một công cụ rất quan trọng gắn với chức năng phát hành của Ngân hàng nhà nước trung ương. Thông qua việc phát hành giấy bạc đưa vào lưu thông trên phạm vi quốc gia, Ngân hàng nhà nước điều chỉnh tổng cung và tổng cầu tiền trong nền kinh tế, chi phối các ngân hàng thương mại, hướng tiền tín dụng đi vào lưu thông theo mục đích của ngân hàng phát hành. - Hoạt động thị trường mở là công cụ mà Ngân hàng Trung ương mua và bán các chứng khoán có giá trị trên thị trường tiền tệ và trong chừng mực nhất định trên thị trường chứng khoán. Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các ngân hàng thương mại với lãi suất hấp dẫn, Ngân hàng Trung ương có thể làm giảm hoặc tăng lượng dự trữ tiền tệ của ngân hàng. Khi cần thu hồi (thắt chặt) tiền từ lưu thông để giảm lượng cung ứng tiền tệ trên thị trường, Ngân hàng Trung ương có thể bán các chứng khoán có giá cho các ngân hàng thương mại. Ngược lại, khi cần tăng (nới lỏng) tiền từ dự trữ ra lưu thông, Ngân hàng Trung ương có thể mua các chứng khoán có giá của các ngân hàng thương mại. Bằng cách này, Ngân hàng Nhà nước tác động đến sự cân bằng các dao động về tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, tăng khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại, củng cố và tăng cường hiệu lực của chính sách tiền tệ. - Lãi suất chiết khấu. Đây là công cụ mà Ngân hàng Nhà nước trung ương điều tiết thị trường vốn bằng cách cho các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính tín dụng vay tiền thông qua mua thương phiếu (chính sách chiết khấu) hoặc bằng cách thế chấp chứng khoán có giá (chính sách thế chấp). Khi cần khuyến khích khách hàng vay (ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác), Ngân hàng Trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu. Bằng cách đó, Ngân hàng Trung ương điều tiết tăng hoặc giảm lượng tiền cho vay của các ngân hàng thương mại theo mục tiêu vĩ mô. - Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại tại Ngân hàng Trung ương. Mức tiền gửi này do pháp luật quy định. Nó còn là công cụ rất
  2. quan trọng mà Ngân hàng Trung ương dùng để điều chỉnh tín dụng của các ngân hàng thương mại trong quản lý vĩ mô của mình để thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước. ở nước ta, tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà các ngân hàng thương mại phải gửi vào Ngân hàng Trung ương là từ 10% đến 35% so với các khoản nợ của ngân hàng (tiền gửi của khách hàng). Thông qua việc tăng, giảm mức dự trữ bắt buộc nằm trong khoảng giữa cận trên và cận dưới được luật pháp quy định, Ngân hàng Trung ương tác động đến việc cung cấp tiền tệ cho nền kinh tế quốc dân, khi cần thiết phải "nới lỏng" hoặc "thắt chặt". Như vậy, mục tiêu của "dự trữ bắt buộc" theo luật pháp không phải chủ yếu để bảo đảm an toàn tiền gửi, bảo đảm thanh toán và chi trả theo yêu cầu, mà chủ yếu là nhằm làm cho Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được mức tăng, giảm của tiền tệ qua ngân hàng theo mục tiêu mong muốn của chính sách tiền tệ. Việc áp dụng công cụ "dự trữ bắt buộc" có ưu điểm nhưng đòi hỏi phải thực hiện nhanh chóng, kịp thời trong thời gian ngắn khi nền kinh tế quá "nóng" hoặc quá "lạnh". Ngoài các công cụ chủ yếu đã nêu trên, Ngân hàng nhà nước khi thực thi chính sách tiền tệ còn phải sử dụng các công cụ khác như: can thiệp trên thị trường hối đoái, kiểm soát lãi suất tối đa đối với các hệ số an toàn của vốn v.v Hầu hết các công cụ nói trên trong thời gian dài ít được coi trọng ở nước ta cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, vì chúng được coi là những công cụ đặc trưng của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đến nay chúng ta đã có nhận thức mới về bản chất kinh tế của những công cụ này: chủ nghĩa xã hội khác với chủ nghĩa tư bản không phải ở hình thức mà ở nội dung xã hội của các công cụ kinh tế. b) Đối với Ngân hàng Thương mại Ngân hàng Thương mại là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động của các ngân hàng thương mại lại gắn với chức năng quản lý vi mô - chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại phải là những doanh nghiệp: - Có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế và dưới quyền quản trị của hội đồng quản trị và quyền điều hành của giám đốc. - Chịu sự quản lý vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước. - Có quan hệ với khách hàng theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm về vật chất và hành chính đối với tài sản, tiền vốn và cam kết giữ bí mật về số liệu và hoạt động, cũng như tạo sự tín nhiệm và thuận lợi cho khách hàng. - Có quan hệ với các tổ chức tín dụng khác theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, cùng có lợi, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật cùng thúc đẩy nhau phát triển. Ngân hàng Thương mại dù được thành lập dưới hình thức nào cũng đều hoạt động
  3. theo ba nghiệp vụ chính như: huy động vốn, cho vay và thanh toán. + Nghiệp vụ huy động vốn, là nghiệp vụ đầu tiên của Ngân hàng Thương mại nhằm tạo vốn để cho vay. Vốn huy động của ngân hàng bao gồm: vốn tiền tệ, vốn huy động, vốn tiếp nhận, vốn đi vay. + Nghiệp vụ cho vay vốn, là nghiệp vụ mà thông qua đó các nguồn vốn huy động được đem đi cho vay nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tùy theo tiêu thức phân loại, có các hình thức cho vay khác nhau như cho vay ngắn hạn, dài hạn; cho vay sản xuất và cho vay kinh doanh dịch vụ; cho vay đầu tư phát triển sản xuất; cho vay thanh toán và cho vay dự trữ. + Nghiệp vụ thanh toán, được thực hiện trên cơ sở sự uỷ nhiệm của khách hàng trong các khâu thanh toán, giữ hộ, đòi nợ thông qua các hoạt động chuyển tiền, thanh toán chứng từ và phát hành chứng khoán. Thông qua các nghiệp vụ đó, các khoản tiền phân tán được tập trung để bổ sung cho nghiệp vụ cho vay và huy động vốn, thúc đẩy hoạt động tín dụng phát triển nhanh chóng. 3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng ở nước ta Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của lưu thông tiền tệ nói chung, của tín dụng và ngân hàng nói riêng, góp phần củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà nước và nhân dân, chống thất thoát và tăng tích luỹ để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hệ thống ngân hàng ở nước ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau đây: - Kiềm chế lạm phát, bảo đảm tính vững chắc, từng bước ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế để có nhiều hàng hoá dịch vụ đưa vào tiêu dùng và xuất khẩu, nghiêm chỉnh thực hiện nguyên tắc "vay để cho vay", không phát hành tiền để cho vay. - Việc xác định lãi suất tín dụng (lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) phải căn cứ vào quan hệ cung - cầu vốn, vào hiệu quả thực tế của đồng vốn trong nền kinh tế, vào mức độ trượt giá của đồng tiền thông qua chỉ số giá cả. Tiếp tục áp dụng chính sách lãi suất dương theo nguyên tắc lãi suất cho vay cao hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền gửi phải cao hơn mức lạm phát. - Tăng cường vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại nhà nước trên cơ sở hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, đặt trong môi trường vừa hợp tác vừa cạnh tranh giữa các hình thức ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài ở nước ta. - Toàn bộ hệ thống ngân hàng hướng vào phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
  4. - Đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật của bản thân ngành ngân hàng theo hướng hiện đại hoá, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng về nghiệp vụ và đặc biệt là về phẩm chất đạo đức để đáp ứng yêu cầu phát triển ngành ngân hàng trong giai đoạn mới. IV- Lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam 1. Bản chất và đặc điểm của lưu thông tiền tệ Khi tiền tệ xuất hiện, sự trao đổi hàng hoá trực tiếp chuyển sang trao đổi hàng hoá gián tiếp - trao đổi hàng hoá lấy tiền tệ làm môi giới. Sự vận động của tiền tệ lấy sự trao đổi hàng hoá làm tiền đề gọi là lưu thông tiền tệ. Sự vận động của hàng hoá và tiền tệ là sự thống nhất của quá trình lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Lưu thông tiền tệ diễn ra dưới hai hình thức: Lưu thông tiền mặt và lưu thông không bằng tiền mặt (lưu thông qua tiền tín dụng, card điện tử, những chứng khoán có giá ). Trong hai hình thức nói trên, hình thức lưu thông thứ nhất có xu hướng giảm xuống, còn hình thức lưu thông thứ hai có xu hướng tăng lên và ngày càng mang tính phổ biến, nhất là khi kinh tế thị trường và hệ thống ngân hàng phát triển theo hướng văn minh, hiện đại. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế hàng hoá tồn tại, nên tiền tệ và lưu thông tiền tệ tồn tại là tất yếu khách quan. Sự vận động của tiền tệ chịu sự chi phối của quy luật lưu thông tiền tệ. Song, do tính chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chi phối, nên mục đích và bản chất của lưu thông tiền tệ không hoàn toàn giống như các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, nhất là trong xã hội tư bản chủ nghĩa. ở nước ta, tiền tệ và lưu thông tiền tệ có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ mang nặng tính cấp phát, không ổn định, siêu lạm phát chuyển sang tính chất kinh doanh tiền tệ, khống chế và giảm mức lạm phát, củng cố sức mua đồng tiền Việt Nam để từng bước trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi. Thứ hai, tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ hầu như chỉ hoạt động thông qua độc quyền của hệ thống ngân hàng của Nhà nước chuyển sang hoạt động thông qua nhiều tổ chức ngân hàng thuộc các thành phần kinh tế. Thứ ba, tiền tệ, lưu thông tiền tệ và kinh doanh tiền tệ có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước thông qua các cơ quan chuyên môn là ngân hàng nhà nước và uỷ ban chứng khoán quốc gia. Thứ tư, tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ mang tính chất "khép kín" trong nước chuyển sang hoạt động theo cơ chế "mở", hội nhập với khu vực và thế giới.
  5. 2. Vai trò của lưu thông tiền tệ ở nước ta, lưu thông tiền tệ có các vai trò sau đây: Thứ nhất: lưu thông tiền tệ là điều kiện quan trọng bảo đảm cho tái sản xuất xã hội được thực hiện thuận lợi. Tái sản xuất xã hội muốn tiến hành bình thường, tổng sản phẩm xã hội phải được bù đắp lại bằng giá trị, phải được thay thế bằng hiện vật, mà sự bù đắp này không tách rời sự bù đắp dưới hình thái tiền tệ và do đó không thể tách rời quá trình lưu thông tiền tệ. Thứ hai: lưu thông tiền tệ là lĩnh vực quan trọng đối với thực hiện mục đích của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi người. Muốn vậy, phải sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm xã hội, nhưng muốn cho sản phẩm xã hội đến được tay mọi người, tất yếu phải thông qua khâu lưu thông hàng hoá lấy lưu thông tiền tệ làm môi giới. Thứ ba: lưu thông tiền tệ thông suốt với tốc độ nhanh góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tốc độ lưu thông tiền tệ nhanh có nghĩa là việc sử dụng tiền tệ nhất định có thể tham gia vào nhiều quá trình sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm, thu được nhiều lợi nhuận, nền sản xuất xã hội phát triển với tốc độ cao, tình hình tài chính quốc gia ổn định, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Thứ tư: lưu thông tiền tệ là lĩnh vực quan trọng để xúc tiến giao lưu kinh tế, kỹ thuật với bên ngoài. Trong thời đại ngày nay, trước xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và thị trường, không có lưu thông tiền tệ không thể giao lưu kinh tế, kỹ thuật với bên ngoài. Xuất nhập khẩu, tín dụng quốc tế đều gắn với lưu thông tiền tệ. Câu hỏi ôn tập 1. Phân tích bản chất và chức năng của tài chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 2. Trình bày các bộ phận cấu thành hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 3. Trình bày phương hướng tiếp tục đổi mới chính sách tài chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong thập niên đầu thế kỷ XXI ở nước ta. 4. Phân tích bản chất, các hình thức, chức năng và vai trò của tín dụng ở nước ta hiện nay. 5. Trình bày sự ra đời của ngân hàng hai cấp. Trên cơ sở phân tích hệ thống ngân
  6. hàng hai cấp, hãy cho biết sự khác nhau và vai trò của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Thương mại. 6. Hãy cho biết phương hướng tiếp tục đổi mới chính sách tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập ở nước ta hiện nay. 7. Trình bày bản chất, đặc điểm và vai trò của lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
  7. Chương XV Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập là những vấn đề rộng lớn liên quan đến các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội của Nhà nước và nhân dân lao động, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. I- Một số lý luận cơ bản về lợi ích kinh tế 1. Bản chất, đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế a) Lợi ích kinh tế Ngay từ khi mới xuất hiện, con người đã tiến hành các hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và nó là cơ sở cho các hoạt động khác. Trong hoạt động kinh tế, con người luôn có động cơ nhất định. Động cơ thúc đẩy con người hành động. Mức độ hành động (mạnh hay yếu) tuỳ thuộc vào mức độ chín muồi của động cơ - tuỳ thuộc vào nhận thức và thực hiện lợi ích của họ. Lợi ích là gì ? Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích, ích lợi, có lợi được sử dụng như là cùng nghĩa và có thể thay thế nhau. Lợi ích không phải là một cái gì trừu tượng và có tính chất chủ quan, mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan của con người. Con người có nhiều loại nhu cầu (vật chất, chính trị, văn hoá), do đó có nhiều loại lợi ích (lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá, tinh thần). Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, nó xuất hiện trong những điều kiện tồn tại xã hội của con người. Hay nói khác, lợi ích kinh tế là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể kinh tế. Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã hội thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được quy định một cách khách quan bởi phương thức sản xuất, bởi hệ thống quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Ph.Ăngghen viết: "Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích"1. V.I. Lênin cũng cho rằng: Lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác được xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ thống quan hệ sản xuất, theo những hoàn cảnh và điều kiện sống của họ. Là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, lợi ích kinh tế thể hiện trong tất cả 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.18, tr. 376.
  8. bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Cần khẳng định rằng, ở đâu có hoạt động sản xuất - kinh doanh thì ở đó có lợi ích kinh tế và chủ thể sản xuất - kinh doanh cũng là chủ thể của lợi ích kinh tế. b) Vai trò của lợi ích kinh tế Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống. Chính những lợi ích kinh tế đã gắn bó con người với cộng đồng của mình và tạo ra những kích thích, thôi thúc, khát vọng và sự say mê trong hoạt động sản xuất - kinh doanh cho người lao động. Lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiện đúng thì nó sẽ là động lực kinh tế thúc đẩy con người hành động. Do đó, lợi ích kinh tế thể hiện như là một trong những động lực cơ bản của sự tiến bộ xã hội nói chung, phát triển sản xuất - kinh doanh nói riêng. Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay chuyển những quần chúng đông đảo. Và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người "thì chúng lay động đời sống nhân dân". Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất- kinh doanh. Một khi con người (chủ thể) tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi ích kinh tế tương xứng với kết quả sản xuất, kinh doanh thì mới bảo đảm nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ thể lợi ích. Ngược lại, khi không mang lại lợi ích hoặc lợi ích không được đầy đủ thì sẽ làm cho các mối quan hệ đó (quan hệ giữa các chủ thể) xuống cấp. Nếu tình trạng đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tiêu cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. 2. Các cơ cấu lợi ích kinh tế trong các thành phần kinh tế ở nước ta Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh. Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định: ở nước ta hiện nay có 5 thành phần kinh tế. Đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, trên một góc độ nào đó (dựa vào các mối quan hệ kinh tế trực tiếp chẳng hạn) ta có thể thấy được 5 cơ cấu các lợi ích kinh tế, đó là: - Thành phần kinh tế nhà nước có lợi ích của Nhà nước (xã hội); lợi ích tập thể; lợi ích cá nhân người lao động. - Thành phần kinh tế tập thể có lợi ích tập thể; lợi ích xã hội; lợi ích cá nhân. - Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có lợi ích của doanh nghiệp; lợi ích của xã hội; lợi ích của cá nhân người lao động. - Thành phần kinh tế tư nhân có: lợi ích chủ doanh nghiệp; lợi ích cá nhân người lao động (đối với cơ sở có thuê mướn lao động); lợi ích xã hội. - Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài; lợi ích của nước chủ nhà; lợi ích của người lao động trong các doanh nghiệp liên
  9. doanh. Trong các cơ cấu lợi ích kinh tế ấy, thì lợi ích kinh tế nhà nước ( xã hội) giữ vai trò “hàng đầu” và là cơ sở để thực hiện các lợi ích khác, còn lợi ích kinh tế của người lao động là quan trọng, nó thể hiện như là động lực trực tiếp thúc đẩy người lao động. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cá nhân, doanh nghiệp chỉ hành động khi họ thấy được lợi ích kinh tế của mình mà không cần thuyết phục hoặc cưỡng bức. Song, vì có nhiều lợi ích kinh tế khác nhau và vì lợi ích riêng của mỗi cá nhân, vì lợi ích cục bộ, trước mắt có thể làm tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng (tập thể và xã hội), do đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là người tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế vĩ mô phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế và hướng chúng vào một quỹ đạo chung, tạo động lực lâu bền, mạnh mẽ và vững chắc cho sự phát triển. Giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là một vấn đề khá phức tạp và giữ vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu nguồn gốc, động lực phát triển xã hội nói chung, phát triển kinh tế thị trường nói riêng. Theo Ph. Ăngghen, "ở đâu không có lợi ích chung, ở đó không có sự thống nhất về mục đích". Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là tạo ra những điều kiện trong đó việc thực hiện các lợi ích sao cho cùng một hướng và bảo đảm tính hàng đầu của lợi ích xã hội, cái có lợi đối với xã hội thì cũng phải có lợi đối với tập thể, cá nhân và mỗi doanh nghiệp. Đó là nguyên tắc của sự kết hợp lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế phải tính đến sự đan chéo, chế ước, tác động qua lại giữa các lợi ích kinh tế, đồng thời phải tính toán một cách toàn diện, bảo đảm lợi ích trước mắt, lâu dài, lợi ích toàn bộ và bộ phận. II- Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Lý luận về phân phối có vị trí quan trọng trong kinh tế chính trị. Nó là vấn đề rộng lớn, liên quan đến các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội của Nhà nước và nhân dân lao động. Phần này không trình bày toàn bộ vấn đề phân phối mà chỉ bàn về phân phối thu nhập quốc dân hình thành thu nhập của các tầng lớp dân cư. Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề vô cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1. Bản chất và vị trí của phân phối a) Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội Quá trình tái sản xuất xã hội, theo nghĩa rộng, bao gồm bốn khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó sản
  10. xuất là khâu cơ bản đóng vai trò quyết định; các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất, nhưng chúng có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng lẫn nhau. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, phân phối và trao đổi là các khâu trung gian nối sản xuất và tiêu dùng, vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất, vừa phục vụ tiêu dùng. Phân phối bao gồm: phân phối cho tiêu dùng sản xuất (sự phân phối tư liệu sản xuất, sức lao động của xã hội vào các ngành sản xuất) là tiền đề, điều kiện và là một yếu tố sản xuất, nó quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản xuất. Phân phối thu nhập quốc dân hình thành thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy là sản vật của sản xuất, song sự phân phối có ảnh hưởng không nhỏ đối với sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Ph.Ăngghen viết: "phân phối không phải chỉ đơn thuần là kết quả thụ động của sản xuất và của trao đổi: nó cũng có tác động trở lại đến sản xuất và trao đổi"1. Nó cũng có liên quan mật thiết với việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Như vậy, phân phối là phân phối tổng sản phẩm xã hội và phân phối thu nhập quốc dân và nó được thực hiện dưới các hình thái; phân phối hiện vật và phân phối dưới hình thái giá trị (phân phối qua quan hệ tài chính, quan hệ tín dụng ). b) Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất C.Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất: "quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với các quan hệ sản xuất ấy, rằng chúng cấu thành mặt sau của các quan hệ sản xuất ấy"2. Xét về quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định. Vì vậy, mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế nào thì quan hệ phân phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau. Sự biến đổi lịch sử của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu và do đó đối với sản xuất: có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu, hoặc cũng có thể làm biến dạng tính chất của quan hệ sở hữu. Các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất, vừa có tính lịch sử. Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ, trong bất cứ xã hội nào, sản phẩm lao động cũng được phân chia thành: một bộ phận cho tiêu dùng sản xuất, một bộ phận để dự trữ và một bộ phận cho tiêu dùng chung của xã hội và cho tiêu dùng cá nhân. Tính lịch sử của quan hệ phân phối là mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng phù hợp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội đó, nghĩa là quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và cũng như quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối có tính chất lịch sử. C. Mác viết: "Quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của một quan hệ sản xuất lịch sử nhất định"1. Do đó, mỗi hình thái phân phối đều biến đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất 1. Sđd, t.20, tr. 210. 2. Sđd, t.25, phần II, tr. 634. 1. Sđd, tr. 640.
  11. định tương ứng với hình thái phân phối ấy. Chỉ thay đổi được quan hệ phân phối khi đã cách mạng hoá được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy. Phân phối có tác động rất lớn đối với sản xuất nên nhà nước cách mạng cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng chế độ mới, để phát triển kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội a) Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và từ đặc điểm kinh tế - xã hội nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập. Đó là vì: Thứ nhất, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thức kinh doanh khác nhau. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế này, có nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau. Ngay trong mỗi thời kỳ, kể cả thành phần kinh tế nhà nước cũng có các phương thức kinh doanh khác nhau, do đó, kết quả và thu nhập là khác nhau. Hơn nữa, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các chủ thể sản xuất, kinh doanh tham gia vào nền kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu của cải, tiền vốn, trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường, thậm chí khác nhau cả sự may mắn Do đó, khác nhau về thu nhập. Vì vậy, không thể có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái lại có nhiều hình thức khác nhau. b) Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Trong mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006 - 2010, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu rõ: "thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội"1. Một là, phân phối theo lao động: Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà nước) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 26.
  12. phần góp vốn của các thành viên bằng nhau (kinh tế hợp tác). Các thành phần kinh tế này đều dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ở các trình độ khác nhau. Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất, nên tất yếu cũng làm chủ phân phối thu nhập. Vì vậy, phân phối phải vì lợi ích của người lao động. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, tức là chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu và cũng không thể phân phối bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động. Tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất là vì: - Lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Vì phân phối do sản xuất quyết định, cho nên C. Mác đã viết: "Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định"2. - Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có sự cống hiến khác nhau, do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội của mỗi người để phân phối. - Lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm sống, là nghĩa vụ và quyền lợi. Hơn nữa, còn những tàn dư ý thức, tư tưởng của xã hội cũ để lại, như: coi khinh lao động, ngại lao động chân tay, chây lười, thích làm ít hưởng nhiều, so bì giữa cống hiến và hưởng thụ Trong những điều kiện đó, phải phân phối theo lao động để khuyến khích người chăm, người giỏi, giáo dục kẻ lười, người xấu, gắn sự hưởng thụ của mỗi người với sự cống hiến của họ. Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của từng người đã đóng góp cho xã hội. Theo quy luật này, người làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không hưởng; lao động có kỹ thuật cao, lao động ở những ngành nghề độc hại, trong những điều kiện khó khăn đều được hưởng phần thu nhập thích đáng. Căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là: - Số lượng lao động được đo bằng thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm làm ra; - Trình độ thành thạo lao động và chất lượng sản phẩm làm ra; - Điều kiện và môi trường lao động: lao động nặng nhọc, lao động trong hầm mỏ, lao động ở những vùng có nhiều khó khăn, xa xôi hẻo lánh như miền núi, hải đảo ; - Tính chất của lao động; 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr. 36.
  13. - Các ngành nghề cần được khuyến khích. Phân phối theo lao động được thực hiện qua những hình thức cụ thể, như: - Tiền công trong các đơn vị sản xuất - kinh doanh; - Tiền thưởng; - Tiền phụ cấp; - Tiền lương trong các cơ quan hành chính sự nghiệp. Phân phối theo lao động có tác dụng: - Thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, xây dựng tinh thần và thái độ lao động đúng đắn, khắc phục những tàn dư tư tưởng cũ, củng cố kỷ luật lao động - Thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp, trình độ văn hoá, ổn định lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao động xã hội. - Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hoá của người lao động, vừa bảo đảm tái sản xuất sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện. Phân phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với các hình thức phân phối đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội của sự phân phối đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Tuy vậy, theo C. Mác, phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong khuôn khổ "pháp quyền tư sản", tức là sự bình đẳng trong xã hội sản xuất hàng hoá, theo nguyên tắc sự trao đổi hoàn toàn ngang giá. Sự bình đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung cấp; sự bình đẳng đó còn thiếu sót là "với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia"1. Phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn chế không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hai là, phân phối theo vốn và các nguồn lực khác. ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Do đó, ngoài hình thức phân phối theo lao động, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại các hình thức phân phối thu nhập khác. Đó là: - Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo vốn và phân phối theo lao động. 1. Sđd, tr. 35.
  14. - Trong thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất, vốn đầu tư sản xuất và tài năng sản xuất, kinh doanh của chính những người lao động. - Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước, việc phân phối ở đây dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần, sở hữu sức lao động, sở hữu tư bản Ba là, phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội. Để nâng cao mức sống về vật chất và văn hoá của nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp nhân dân lao động, sự phân phối thu nhập của mọi thành viên xã hội còn được thực hiện thông qua quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Sự phân phối này có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó góp phần: - Phát huy tính tích cực lao động cộng đồng của mọi thành viên trong xã hội; - Nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn, làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng; - Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới. - Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng. Tính hợp lý của quỹ phúc lợi tập thể và xã hội được biểu hiện như sau: - Quỹ phúc lợi tập thể, xã hội không thể mở rộng quá khả năng của nền kinh tế cho phép. - Tốc độ tăng trưởng thu nhập trực tiếp của cá nhân trong cộng đồng phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể và xã hội. - Quỹ phúc lợi xã hội là bộ phận của chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia đóng góp. 3. Từng bước thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vẫn còn sự tồn tại bất bình đẳng về phân phối thu nhập. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tạo ra những tiền đề, những biện pháp để từng bước thu hẹp và xoá bỏ sự bất bình đẳng đó, tiến tới một xã hội: "không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng"1. 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.9, tr.23.
  15. Để đạt mục tiêu này, từ thực tiễn nước ta, cần phải thực hiện: Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, bởi như Ph. Ăngghen, phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được phân phối. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân và thu nhập bất hợp lý, bất chính. Để từng bước thực hiện phân phối công bằng hợp lý, cần có chính sách phân phối bảo đảm thu nhập của những người lao động có thể tái sản xuất sức lao động. Gắn chặt tiền công, tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu quả sẽ bảo đảm quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề. Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính, cần phải tiền tệ hoá tiền lương và thu nhập, xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối. Thứ ba, điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về mức thu nhập. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, cá nhân là khách quan; mặt khác, Nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá đáng để không dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập, bằng cách điều tiết thu nhập và các giải pháp quản lý. Thứ tư, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo. Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dân có giàu thì nước mới có thể mạnh, nước mạnh mới có khả năng thực hiện sự công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh. Vì vậy, phải phát huy nỗ lực làm giàu cho mọi công dân. Nhà nước không những khuyến khích mọi người làm giàu một cách hợp pháp mà còn tạo điều kiện, giúp đỡ bằng nhiều biện pháp. "Khuyến khích mọi người làm giàu theo pháp luật pháp, đồng thời thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo"1. Thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Để từng bước đạt tới sự tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập, xuất phát từ điều kiện cụ thể, nhiệm vụ trước mắt là phải thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Câu hỏi ôn tập 1. Lợi ích kinh tế là gì? Phân tích bản chất, đặc trưng, cơ cấu và vai trò của lợi ích kinh tế. 2. Vì sao trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tồn tại nhiều hình thức phân phối? 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 101.
  16. 3. Phân tích nội dung các hình thức phân phối cơ bản ở nước ta hiện nay. 4. Trình bày các hình thức thu nhập cơ bản ở nước ta hiện nay. 5. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tiêu dùng và tích luỹ. 6. Hiện nay ở nước ta cần làm gì và làm như thế nào để từng bước tiến tới công bằng xã hội?
  17. Chương XVI Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam I- Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng kinh tế đối ngoại 1. Khái niệm và vai trò của kinh tế đối ngoại a) Khái niệm Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Mặc dù kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế là hai khái niệm có mối quan hệ với nhau, song không nên đồng nhất chúng với nhau. Kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế mà chủ thể của nó là một quốc gia với bên ngoài - với nước khác hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác. Còn kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế với nhau giữa hai hoặc nhiều nước, là tổng thể quan hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế. b) Vai trò Có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua các các mặt sau đây: - Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực. - Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA); thu hút khoa học, kỹ thuật, công nghệ; khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta. - Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiện đại. - Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tất nhiên, những vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại chỉ đạt được khi hoạt động kinh tế đối ngoại vượt qua được những thách thức (mặt trái) của toàn cầu hoá và giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
  18. 2. Những cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại Quan hệ kinh tế quốc tế đã xuất hiện rất sớm. Lịch sử đã ghi nhận "con đường tơ lụa", đó chính là thương mại quốc tế, một hình thức chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế tồn tại cho đến ngày nay. Thương mại quốc tế mang lại lợi ích cho các nước tham gia. Cơ sở của những lợi ích đó bắt nguồn từ chỗ mỗi nước có lợi thế riêng. Những lợi thế này do điều kiện tự nhiên khác nhau, do trình độ phát triển kinh tế, xã hội, trình độ chuyên môn hóa lao động khác nhau. Sau này, các nhà kinh tế học đã khái quát lại thành lý thuyết lợi thế (lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh). Đó là cơ sở lý thuyết cho sự lựa chọn thương mại quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trước đây quan hệ kinh tế quốc tế không thể phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng như ngày nay, bởi vì những điều kiện cần thiết cho mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế như các phương tiện giao thông, vận tải, thông tin liên lạc chưa phát triển cao. Trái lại, thời đại ngày nay, quan hệ kinh tế quốc tế (khi xem xét dưới góc độ khác gọi là quan hệ kinh tế đối ngoại) phát triển rất mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu, trở thành một xu thế tất yếu mà không một quốc gia nào có thể phát triển nếu đứng ngoài xu thế đó. Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế lôi cuốn mọi quốc gia vào dòng xoáy của nó, dù là quốc gia tiên tiến hay lạc hậu, phát triển hay chậm phát triển. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những thời cơ và những thách thức mới; quốc gia nào nắm bắt được thời cơ, vượt qua được thách thức sẽ phát triển nhanh hơn, ngược lại sẽ bị tụt hậu xa hơn. Trong bối cảnh đó, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đối với mọi quốc gia. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp nhất của toàn cầu hóa kinh tế là sự phát triển hết sức nhanh chóng và có những đột phá của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là nguyên nhân trực tiếp của toàn cầu hóa kinh tế, vì: Một là, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất làm cho nó vượt khỏi khuôn khổ các quốc gia, đòi hỏi phải mở rộng không gian kinh tế mới có khả năng sử dụng có hiệu quả. Hai là, nó tạo ra các phương tiện giao thông, vận tải, phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, làm cho việc đi lại, giao lưu trở nên nhanh chóng, dễ dàng, làm cho khoảng cách giữa nhiều quốc gia cách nhau hàng ngàn cây số trở nên "ngắn lại" vì tốc độ rất nhanh. Ba là, nó làm xuất hiện những lợi thế mới cho nhiều quốc gia, bởi vì mỗi quốc gia có ưu thế khác nhau về các lĩnh vực khoa học, công nghệ, tạo ra được những sản phẩm có thế mạnh riêng. Vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại càng trở nên cần thiết, bởi vì mỗi quốc gia có thể mua được những sản phẩm chưa có khả năng sản xuất hoặc sản xuất được nhưng chưa tốt và còn đắt, đồng thời bán được sản phẩm có thế mạnh của mình.
  19. Bốn là, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm xuất hiện nhiều vấn đề có tính chất toàn cầu (như vấn đề môi trường, bệnh tật, tội phạm quốc tế, rửa tiền, khoảng cách chênh lệch giữa nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn ). Những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế mới có khả năng giải quyết có hiệu quả. Toàn cầu hóa kinh tế được biểu hiện rõ nét ở chỗ: Một là, sự phân công lao động quốc tế và hợp tác quốc tế giữa các quốc gia, các khu vực ngày càng phát triển cả bề rộng và bề sâu, bao quát nhiều lĩnh vực với tốc độ nhanh. Ngày nay, rất nhiều sản phẩm quan trọng dù được đăng ký ở một nước nhưng có hàng trăm công ty của hàng chục nước cùng tham gia chế tạo ra chúng. Thí dụ, sản xuất máy bay Boing có tới 650 công ty trên thế giới đặt ở 30 nước tham gia. Hai là, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước ngày càng tăng. Chính sự chuyên môn hóa, hiệp tác hóa sản xuất làm cho các nước phụ thuộc nhau về nhiều mặt như: nguyên liệu, kỹ thuật, công nghệ, vốn đầu tư, lao động, thị trường Mỗi nước đều cố gắng khai thác tối đa những lợi thế tuyệt đối và tương đối của mình. Thị trường thế giới ngày càng có vai trò quan trọng đối với "đầu vào" và "đầu ra" của nền kinh tế mỗi quốc gia. Ba là, hình thành kết cấu hạ tầng sản xuất quốc tế và giá cả quốc tế. Ngày nay, khi xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất như đường giao thông, sân bay, bến cảng, kho bãi, hệ thống thông tin liên lạc và cả các lĩnh vực khác như dịch vụ, khách sạn các quốc gia đều dựa theo tiêu chuẩn quốc tế. Hệ quả của nó là tạo ra điều kiện thuận lợi hơn cho mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế còn biểu hiện ở sự hình thành giá cả quốc tế. Ngày nay, các sản phẩm phổ biến (như xăng dầu, gạo, sắt thép, cà phê ) đều có giá cả quốc tế. Sự xuất hiện giá cả quốc tế lại giúp cho các quốc gia tìm ra lợi thế của mình, tập trung sản xuất những sản phẩm có thế mạnh để xuất khẩu và mua những sản phẩm mà chưa sản xuất được hoặc chất lượng chưa cao, giá cả lại đắt. Chính vì vậy, trong những thập niên gần đây, thương mại quốc tế phát triển rất mạnh mẽ và có những xu hướng mới. Tóm lại, thời đại ngày nay toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, là xu thế khách quan và không một quốc gia nào có thể đứng ngoài dòng xoáy của nó. Toàn cầu hóa kinh tế vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức cho mỗi quốc gia. Vì vậy, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trở thành tất yếu khách quan và là một trong các nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta và được nhấn mạnh nhiều lần trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước "Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.
  20. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu á - Thái Bình Dương Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương, tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)1. II- Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại Kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức như: hợp tác sản xuất (nhận gia công, xây dựng xí nghiệp chung, khu chế xuất, khu công nghệ, khu kỹ thuật cao); hợp tác khoa học - công nghệ (trong đó có hình thức đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài); ngoại thương; hợp tác tín dụng quốc tế; các hoạt động dịch vụ như du lịch quốc tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ thu, đổi và chuyển giao ngoại tệ ; đầu tư quốc tế, v.v Trong các hình thức kinh tế đối ngoại, ngoại thương, đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ là những hình thức chủ yếu và có hiệu quả nhất cần được coi trọng. 1. Ngoại thương Ngoại thương, hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ (hàng hoá hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu. Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn: góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; "điều tiết thừa thiếu" trong mỗi nước; nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước. Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nhất là trong các ngành xuất khẩu. Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu, trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại ở các nước nói chung và ở nước ta nói riêng. 2. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế a) Nhận gia công Hiện nay nước ta có trên 30 triệu người có khả năng lao động trong độ tuổi lao động, trong đó mấy triệu người chưa có việc làm (không kể những người chưa đủ việc làm). Dự kiến đến năm 2010 sẽ có 56,8 triệu người ở độ tuổi lao động, tăng gần 11,0 triệu người so với năm 2000. Do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do thiếu thị trường, thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất nên chúng ta chưa khai thác được vốn quý báu đó. Nhận gia công cho nước ngoài là một hình thức rất tốt, giúp tận dụng nguồn dự trữ lao động, tạo nhiều việc làm và tận dụng công suất máy móc hiện có. Rất nhiều nước trên thế giới 1. Sđd, tr. 113 - 114.
  21. chăm lo đẩy mạnh hình thức này, kể cả các nền kinh tế "công nghiệp mới" (NIEs) như Hàn Quốc, Đài Loan Đối với nước ta, trong những năm trước mắt, tăng cường việc nhận gia công là một phương hướng đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược để mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, ổn định tình hình kinh tế - xã hội trong nước. b) Một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức xí nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính - tín dụng Hiện nay, những xí nghiệp loại này đang tồn tại một cách phổ biến ở nhiều nước. Về mặt pháp lý, xí nghiệp chung thường được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần với trách nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn đóng góp của các thành viên. Các xí nghiệp này thường được ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho nhà nước tiết kiệm ngoại tệ. ở nước ta hiện nay, hình thức này đóng vai trò rất quan trọng. c) Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá Hợp tác sản xuất quốc tế có thể diễn ra một cách tự giác theo những hiệp định hay hợp đồng giữa các bên tham gia, cũng có thể hình thành một cách tự phát do kết quả cạnh tranh, do đầu tư và lập các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia tại các nước. Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành (chuyên môn hoá theo sản phẩm, theo bộ phận sản phẩm hay chi tiết và theo công nghệ). Hình thức hợp tác này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. 3. Hợp tác khoa học - kỹ thuật Hợp tác khoa học - kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức, như trao đổi tài liệu - kỹ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân Đối với những nước lạc hậu về kỹ thuật, vốn chi cho nghiên cứu khoa học - kỹ thuật còn ít, đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật chưa nhiều, phương tiện vật chất còn thiếu thốn như nước ta thì việc tham gia hợp tác khoa học - kỹ thuật với nước ngoài là vô cùng quan trọng. Đó là một điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến. Việc đưa lao động và chuyên gia đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài cũng là một hình thức hợp tác đào tạo cán bộ và công nhân. Vì vậy, cùng với việc nhận gia công từ nước ngoài, cần tổ chức tốt việc đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp. Để hoạt động này đạt hiệu quả không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội, cần cải tổ căn bản các hoạt động hiện hành, từ việc tuyển chọn, tổ chức quản lý người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đến
  22. việc sử dụng số người này sau khi họ trở về nước. 4. Đầu tư quốc tế Đầu tư quốc tế (mà trước đây Lênin gọi là xuất khẩu tư bản) là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi. Có hai loại hình đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp (trước đây Lênin gọi là xuất khẩu tư bản hoạt động) là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợin nhuận. Ngày nay, trong nền kinh tế thế giới, hình thức đầu tư trực tiếp vốn là hình thức chủ yếu của các nước phát triển có nền kinh tế phát triển và có xu hướng ngày càng tăng, diễn ra ở cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển. Có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp như: người đầu tư tự lập xí nghiệp mới; mua hoặc liên kết với xí nghiệp ở nước đầu tư; mua cổ phiếu Đầu tư quốc tế trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức: - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. Hình thức này không cần thành lập một pháp nhân mới. - Xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cùng góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung. - Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. - Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT). Hình thức này đòi hỏi cần có nguồn vốn của bên ngoài và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng. Thông qua các hình thức trên mà các khu chế xuất, khu công nghiệp mới, khu công nghệ cao được hình thành và phát triển. Đầu tư gián tiếp (Lênin gọi là xuất khẩu tư bản cho vay) là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức cổ phần (nếu là vốn cổ phần), hoặc có thể không thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu đãi). Sự khác nhau rõ nhất giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp là người đầu tư trực tiếp có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư, còn người đầu tư gián tiếp không có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư mà chỉ có thể thu lợi tức trái phiếu, cổ phiếu và tiền lãi. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng về chủ thể và hình thức. Chủ thể đầu tư gián tiếp có thể là chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, v.v với các hình thức như: viện trợ có hoàn lại (cho vay), viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi
  23. hoặc không ưu đãi; mua cổ phiếu và các chứng khoán theo mức quy định của từng nước. So với nguồn vốn đầu tư trực tiếp thì nguồn vốn đầu tư gián tiếp không lớn. Trong các nguồn vốn đầu tư gián tiếp, một bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ một số nước có nền kinh tế phát triển. Bộ phận này có tỷ trọng lớn và thường đi kèm với điều kiện ưu đãi. ODA bao gồm các khoản hỗ trợ không hoàn lại, các khoản tín dụng ưu đãi khác do các tổ chức trong hệ thống Liên hợp quốc, các chính phủ, các tổ chức kinh tế quốc dân dành cho các nước chậm phát triển. 5. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt động dịch vụ tăng lên so với hàng hoá khác trên thị trường thế giới. Với Việt Nam, việc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ là giải pháp cần thiết, thiết thực để phát huy lợi thế của đất nước. Sau đây là các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ chủ yếu: a) Du lịch quốc tế Du lịch là nhu cầu khách quan, vốn có của con người. Kinh tế càng phát triển, năng suất lao động càng cao thì nhu cầu du lịch - nhất là du lịch quốc tế càng tăng vì thu nhập của con người tăng lên, thời gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi cũng nhiều hơn. Phát triển ngành du lịch quốc tế sẽ phát huy lợi thế của Việt Nam về cảnh quan thiên nhiên, về nhiều loại lao động đặc thù mang tính dân tộc, truyền thống của Việt Nam. Tuy nhiên, muốn thu hút khách du lịch cần chú ý những điểm sau đây: - Phải tiếp tục nâng cấp các khách sạn hiện có để bảo đảm phục vụ du khách tốt hơn. - Phải mở thêm các tours du lịch hấp dẫn. - Phải có chính sách cho đầu tư du lịch mang tính tổng thể với trách nhiệm không chỉ của ngành du lịch. - Phải cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi và sự hứng khởi cho khách du lịch. b) Vận tải quốc tế Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá và hành khách giữa hai nước hoặc nhiều nước. Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như: đường biển, đường sắt, đường bộ (ôtô), đường hàng không trong các phương thức đó, vận tải đường biển có vai trò quan trọng nhất. Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng, lại có nhiều hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh vận tải
  24. quốc tế. c) Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ Việt Nam với dân số gần 80 triệu người, kinh tế chưa phát triển, là một nước có thương mại lao động lớn. Việc xuất khẩu lao động mang lại nhiều lợi ích trước mắt và lâu dài. - Thu được lượng ngoại tệ đáng kể cho người trực tiếp lao động và cho ngân sách nhà nước. - Người lao động được rèn luyện tay nghề và thói quen hoạt động công nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển. Khi hết hạn hợp đồng về nước, sẽ trở thành lực lượng lao động có chất lượng. - Giải quyết việc làm, giảm được tỷ lệ thất nghiệp. Vì vậy việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động thu ngoại tệ là một nhiệm vụ quan trọng của kinh tế đối ngoại. d) Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác Ngoài những hoạt động nêu trên, lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn có nhiều hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là hoạt động hết sức cần thiết nhưng cũng hết sức mới mẻ và khó khăn đối với nước ta. Do đó, để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, cần thiết phải thực hiện tốt một số loại giải pháp dưới đây: Thứ nhất, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, củng cố an ninh quốc phòng và đấu tranh có hiệu quả chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Thứ hai, tăng cường việc quản lý thống nhất của Nhà nước về kinh tế đối ngoại. Cần khẳng định rằng, việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô không có nghĩa là từ bỏ sự quản lý thống nhất của Nhà nước mà phải thực hiện sự quản lý đó một cách mềm dẻo và linh hoạt, có hiệu quả cao hơn. - Nhà nước thống nhất quản lý trên tầm vĩ mô mọi hoạt động kinh tế đối ngoại bằng những biện pháp kinh tế và hành chính trên cơ sở bảo đảm tính tự chủ của các tổ chức kinh doanh đối ngoại. Trong trường hợp có nhiều cơ quan nhà nước thực hiện việc quản lý nói trên thì phải xác định rõ chức năng, quyền hạn của từng cơ quan để vừa tránh chồng chéo, vừa tránh sơ hở, buông lỏng quản lý. Để thực hiện sự quản lý thống nhất của Nhà nước, cần phải: - Xây dựng một số Tổng công ty hoặc tập đoàn lớn, có uy tín và khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với nước ngoài. - Nhà nước ban hành những định chế thích hợp để bảo đảm thống nhất đầu mối,
  25. khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán giữa các tổ chức được quyền kinh doanh đối ngoại của ta trên thị trường trong và ngoài nước. Để thống nhất chỉ đạo quá trình Việt Nam gia nhập và hoạt động trong các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực, hội nhập với thế giới, năm 1998 Chính phủ đã thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. III- Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 1. Về mục tiêu Đối với nước ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian trước mắt, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Mục tiêu đó phải được quán triệt đối với mọi ngành, mọi cấp trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực của kinh tế đối ngoại. 2. Phương hướng cơ bản nhằm mở rộng, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Xuất phát từ quan điểm: "Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực", Đảng ta phương hướng cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ là: "Thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới"1. - Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống; tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới dưới mọi hình thức. - Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Chủ động tạo những điều kiện để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới; phát huy ý chí tự lực, tự cường; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Theo những định hướng trên, những năm qua, hoạt động kinh tế đối ngoại ở nước ta đã từng bước mở rộng thị trường, đã lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức tài 1. Sđd, tr. 204.
  26. chính, tiền tệ quốc tế, bước đầu đã thu được những thành tựu quan trọng. Bên cạnh những thành tựu to lớn đó, hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn còn những bất cập đã và đang là những thách thức đối với nước ta, đòi hỏi chính sách kinh tế đối ngoại phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện. 3. Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại a) Bình đẳng Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Nguyên tắc bình đẳng này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. Với tư cách là thành viên, mỗi quốc gia phải được bảo đảm có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ như mọi quốc gia khác. Nói cách khác, bảo đảm tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia trước luật pháp quốc tế và cộng đồng quốc tế. b) Cùng có lợi Nếu nguyên tắc thứ nhất giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan hệ đối ngoại, thì nguyên tắc này lại giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau. Cơ sở khách quan của nguyên tắc cùng có lợi bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có lợi ích kinh tế dân tộc khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường thế giới, nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ là hình thức, nếu các quốc gia có tham dự không cùng có lợi ích kinh tế. Vì trong trường hợp đó, quan hệ kinh tế giữa các nước sẽ đi ra ngoài yêu cầu của quy luật giá trị - quy luật dựa trên nguyên tắc ngang giá của kinh tế thị trường trong cộng đồng quốc tế. Nguyên tắc cùng có lợi còn là động lực kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau. c) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập có chủ quyền về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý. Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc bình đẳng, trong quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Nó cũng bắt nguồn từ nguyên tắc cùng có lợi, mà xét cho đến cùng chỉ khi cùng có lợi về mặt kinh tế, mới tạo cơ sở để cùng có các lợi ích khác nhau về chính trị, quân sự và xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên trong hai bên hoặc nhiều bên phải thực hiện đúng
  27. các yêu cầu: - Tôn trọng các điều khoản đã được ký kết trong các nghị định giữa các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau. - Không được đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích của nhau. - Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật và kích động để can thiệp vào đường lối, thể chế chính trị của các quốc gia đó. d) Giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực hiện quan hệ đối ngoại, vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không đơn thuần phải xử lý tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế, mà còn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện từng bước những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. IV- Các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại, cần thực hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp trong đó có các giải pháp chủ yếu sau đây: 1. Bảo đảm sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế xã hội Môi trường chính trị, kinh tế - xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài - hình thức chủ yếu, quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng, nếu sự ổn định chính trị không được bảo đảm, môi trường kinh tế không thuận lợi, thiếu các chính sách khuyến khích, môi trường xã hội thiếu tính an toàn sẽ tác động xấu tới quan hệ hợp tác kinh tế, trên hết là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài và khách du lịch. 2. Có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại Đây là giải pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng, có hiệu quả kinh tế đối ngoại. Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại đòi hỏi: Một mặt, phải mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, mặt khác, phải sử dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt là phải sử dụng chính sách thích hợp đối với mỗi hình thức kinh tế đối ngoại. Chẳng hạn đối với hình thức ngoại thương cần phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, phát triển mạnh mẽ những sản
  28. phẩm hàng hoá dịch vụ có khả năng cạnh tranh, có cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu, đặc biệt là nông sản, đầu tư cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng sức hấp dẫn nhất là đối với các công ty xuyên quốc gia. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và các chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. Có chính sách thích hợp tranh thủ nguồn vốn ODA Tăng cường mở rộng và có biện pháp hữu hiệu đối với các hình thức kinh tế đối ngoại khác như gia công, hợp tác khoa học - công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ, có chính sách tỷ giá thích hợp 3. Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức đang hình thành và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội càng đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải. Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực bưu chính viễn thông thì trong lĩnh vực giao thông vận tải, mặc dù đang có nhiều cố gắng, song vẫn còn quá lạc hậu so với các nước trong khu vực, trong khi vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Do vậy, phải có chiến lược đầu tư đúng nhất là đầu tư tập trung có trọng điểm, dứt điểm và có hiệu quả cao, đặc biệt phải kiên quyết chống các hiện tượng tiêu cực gây thất thoát vốn đầu tư. 4. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại Vai trò quan trọng về quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã được khẳng định. Đối với lĩnh vực kinh tế đối ngoại do tính chất đặc biệt của nó vai trò đó lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chỉ có tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước mới có thể bảo đảm mục tiêu, phương hướng và giữ vững được những nguyên tắc cơ bản trong kinh tế đối ngoại và có như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại mới mang lại hiệu quả. Cũng chỉ có tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước mới có thể hạn chế được những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội nhờ đó mang lại lợi ích cho các đơn vị hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và quốc gia nói chung. Thông qua sự tăng cường vai trò quản lý nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, phát huy hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế, tránh được sự thua thiệt về lợi ích Để tăng cường vai trò quản lý kinh tế đối ngoại của Nhà nước cần thiết phải đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý để vừa đảm bảo sự thống nhất quản lý của nhà nước về kinh tế đối ngoại, song vẫn phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị, đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng lớn. 5. Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, đối tác trở thành vấn đề rất cơ bản, có tính
  29. quyết định đối với hiệu quả kinh tế đối ngoại. Do hình thức kinh tế đối ngoại rất đa dạng nên đối tác cũng hết sức đa dạng. Cũng vì thế vừa xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác quan hệ trở thành vấn đề phức tạp cần được xử lý linh hoạt. Đối với việc xây dựng đối tác trong nước, điều quan trọng là phải từng bước xây dựng các đối tác mạnh (về vốn, công nghệ, năng lực quản lý, phong cách giao tiếp quốc tế ) có tầm cỡ quốc tế đóng vai trò đầu tàu trong quan hệ. Đối với đối tác nước ngoài: việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là vấn đề quan trọng đối với bên Việt Nam. Song trong tương lai và về lâu dài cần quan tâm hơn đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần khai thác. Trên đây là 5 giải pháp chủ yếu trong hệ thống các giải pháp. Mỗi giải pháp có vị trí khác nhau và sự phân định cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên. Câu hỏi ôn tập 1. Kinh tế đối ngoại? Vai trò của nó? Phân tích cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại. 2. Phân tích các hình thức kinh tế đối ngoại chủ yếu ở nước ta hiện nay. 3. Phân tích mục tiêu, phương hướng và nguyên tắc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. 4. Trình bày các giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay.
  30. Mục lục Phần mở đầu Chương I: Đối tượng, phương pháp và chức năng của kinh tế chính trị Mác- Lênin Chương II: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế Chương III: Hàng hoá và tiền tệ Phần thứ nhất Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa Chương IV: Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản Chương V: Tuần hoàn và chu chuyển tư bản Chương VI: Tái sản xuất tư bản xã hội Chương VII: Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư Chương VIII: Chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước Phần thứ hai Những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Chương IX: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Chương X: Sở hữu tư liệu sản xuất và nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Chương XI: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Chương XII: Kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Chương XIII: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Chương XIV: Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Chương XV: Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Chương XVI: Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam