Giáo trình Hóa bảo vệ thực vật - PGS. TS. Trần Văn Hai

pdf 114 trang phuongnguyen 2770
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Hóa bảo vệ thực vật - PGS. TS. Trần Văn Hai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_hoa_bao_ve_thuc_vat_pgs_ts_tran_van_hai.pdf

Nội dung text: Giáo trình Hóa bảo vệ thực vật - PGS. TS. Trần Văn Hai

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG BỘ MÔN BẢO VỆ THỰC VẬT Ðường 3/2, khu 2, Tp. Cần Thơ. E-mail: tvhai@ctu.edu.vn, Cell phone: 0913 675 024 GIÁO TRÌNH HÓA BẢO VỆ THỰC VẬT PGs. Ts. TRẦN VĂN HAI Năm 2009
  2. THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG SỬ DỤNG CỦA GIÁO TRÌNH HÓA BẢO VỆ THỰC VẬT I.THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ Họ và tên: TRẦN VĂN HAI Sinh năm: 02-03-1955 Cơ quan công tác: Bộ Môn Bảo Vệ Thực Vật, Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, Trường Đại Học Cần Thơ E-mail: tvhai@ctu.edu.vn II.PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG SỬ DỤNG -Giáo trình có thể sử dụng cho các ngành: Nông học, Trồng trọt, Bảo vệ thực vật, Kinh tế nông nghiệp, Kỷ thuật nông nghiệp và Sư phạm hóa. -Có thể dùng cho các trường: Trung học kỹ thuật, Đại học nông nghiệp, Sư phạm -Các từ khóa: côn trùng, bệnh cây, cỏ dại, thuốc trừ dịch hại, bảo vệ thực vật, độc chất, thử nghiệm, độ hữu hiệu, dư lượng. hoạt chất -Yêu cầu kiến thức trước khi học môn này: côn trùng, bệnh cây, cỏ dại và hóa học hữu cơ. -Đã in thành giáo trình tại thư viện đại học Cần Thơ
  3. MỤC LỤC CHƯƠNG MỞ ĐẦU 1 I. VỊ TRÍ và VAI TRÒ CỦA MÔN HỌC 1 1. Dịch hại và mức độ tác hại 1 2. Các biện pháp bảo vệ thực vật 1 3. Ưu điểm, nhược điểm và vị trí của ngành Hóa BVTV hiện nay 2 II. Lịch sử pháp triển ngành Hóa BVTV 3 III. Cơ sở mục đích và đối tượng môn học 4 Câu hỏi ôn tập 4 CHƯƠNG 1: ĐỘC CHẤT HỌC NÔNG NGHIỆP 5 1.1 CÁC KHÁI NIỆM VỀ CHẤT ĐỘC và SỰ NHIỄM ĐỘC 5 1.1.1 Các khái niệm cơ bản 5 1.1.2 Những yêu cầu đối với một hóa chất dùng trong bảo vệ thực vật 6 1.1.3 Phân loại thuốc trừ dịch hại 7 1.2 SỰ XÂM NHẬP CỦA CHẤT ĐỘC VÀO CƠ THỂ SINH VẬT 9 1.2.1 Sự xâm nhập của chất độc vào tế bào 10 1.2.2 Sự xâm nhập của chất độc vào cơ thể côn trùng 10 1.2.3 Sự xâm nhập của chất độc và cơ thể loài gặm nhấm 11 1.3.2 Sự biến đổi của chất độc trong tế bào sinh vật 12 1.3.3 Các hình thức tác động của chất độc 13 1.3.4 Tác động của chất độc đến dịch hại 14 1.4 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH ĐỘC CỦA CHẤT ĐỘC 15 1.4.1 Sự liên quan giữa tính chất của chất độc và tính độc của chất độc 15 1.4.2 Sự liên quan giữa đặc điểm của sinh vật với tính độc của chất độc 16 1.4.3 Ảnh hưởng của một số ngoại cảnh đến tính độc của chất độc 19 1.5 THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC QUẦN THỂ SINH VẬT 20 1.5.1 Thuốc BVTV với quần thể dịch hại 21 1.5.2 Thuốc bảo vệ thực vật với những sinh vật có ích 21 1.5.3 Thuốc bảo vệ thực vật đối với cây trồng 21 Câu hỏi ôn tập 22
  4. CHƯƠNG 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG và THỬ NGHIỆM THUỐC TRỪ DỊCH HẠI 23 2.1 CÁC DẠNG CHẾ PHẨM DÙNG TRONG BẢO VỆ THỰC VẬT 23 2.1.1 Những chế phẩm cần hòa loãng trước khi sử dụng 24 2.2.2 Những chế phẩm không hòa loãng trước khi áp dụng 24 2.2.3 Chất phụ gia 25 2.2 CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG THUỐC TRỪ DỊCH HẠI 26 2.2.1 Phun thuốc 26 2.2.2 Rắc hạt 30 2.2.3 Nội liệu pháp thực vật 30 2.2.4 Xông hơi 31 2.2.5 Xử lý giống 32 2.2.6 Làm bả độc 33 2.3 CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH TÍNH ĐỘC VÀ HIỆU LỰC CỦA THUỐC TRỪ DỊCH HẠI 33 A. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH TÍNH ĐỘC CỦA THUỐC TRỪ DỊCH HẠI TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM 34 2.3.1 Nguyên tắc thí nghiệm 34 2.3.2 Phương pháp xác định tính độc của thuốc trừ sâu 34 2.3.3 Phương pháp xác định tính độc của thuốc trừ nấm 35 2.3.4 Phương pháp xác định tính độc của thuốc trừ cỏ 36 B. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH HIỆU LỰC CỦA THUỐC TRỪ DỊCH HẠI TRÊN ĐỒNG RUỘNG 37 2.3.5 Bố trí thí nghiệm 37 2.3.6 Xác định hiệu quả của việc dùng thuốc trừ dịch hại 38 C. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH TOÁN HIỆU QUẢ DÙNG THUỐC 39 2.3.7 Độ hiệu của thuốc trừ sâu 39 2.3.8 Chỉ tiêu đánh giá thuốc trừ nấm 42 2.3.9 Chỉ tiêu đánh giá thuốc trừ cỏ 42 D. SO SÁNH TÍNH ĐỘC CỦA CÁC LOẠI THUỐC TRỪ DỊCH HẠI 43 Câu hỏi ôn tập 44
  5. CHƯƠNG 3: THUỐC TRỪ DỊCH HẠI 44 A. THUỐC TRỪ SÂU 44 3.1 THUỐC TRỪ SÂU CLO HỮU CƠ 44 3.1.1 ƯU ĐIỂM 44 3.1.2 NHƯỢC ĐIỂM 44 3.1.3 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KHÁC 44 3.1.4 DDT (Dichlodiphenyl trichloetan) 45 3.1.5 BHC 46 3.1.6 THUỐC TRỪ SÂU TECPEN CLO HÓA 47 3.1.7 THUỐC TRỪ SÂU CYCLODIEN 47 3.2 THUỐC TRỪ SÂU GỐC LÂN HỮU CƠ 49 3.2.1 METHYL PARATHION (MP) (Metaphos, Wofatox, Folidon M, Metacid, Bladan - M) 50 3.2.2 SUMITHION (Fenitrothion, Metathion, Methylnitrophos, Folithion) 51 3.2.3 LEBAYCID (Fenthion, Mertophos, Baycid, Baytex) 51 3.2.4 BASUDIN (Diazinon) 52 3.2.5 DDVP (Dichlorovos, Nuvan, Vapona, Nogos, Desvap ) 52 3.2.6 NALED 53 3.2.7 DIPTEREX (Clorophos, Trichlorfon, Diloc, Tugon, Nevugon ) 53 3.2.8 MOCAP (Enthorophos, Ethoprop, Prophos) 54 3.2.9 METHIDATHION 54 3.2.10 BIAN, BI58 (Dimethoate, Phosphamid, Rogor, Phostion, Rostion, Thimetion) 55 3.2.11 PHOSPHAMIDON (Dimecron, Cibac-570, Dixion, OR-1191, Apamidon) 56 3.2.12 AZODRIN (Monocrotophos, Nuvacron, Monocron, Bilobran) 57 3.2.13 ZOLONE (Benzophos, Rubitox) 57 3.3 THUỐC TRỪ SÂU CARBAMATE 58 3.3.1 SEVIN 59 3.3.2 MIPCIN 59 3.3.3 BASSA 60 3.3.4 FURADAN 61 3.3.5 Các loẠi thuỐc Carbamate khác 61 3.4 THUỐC TRỪ SÂU GỐC PYRETHROIT (GỐC CÚC TỔNG HỢP) 63 3.4.1 CYPERMETHRIN 63 3.4.2 ALPHA CYPERMETHRIN 64 3.4.3 DELTAMETHRIN 65 3.4.4 CYHALOTHRIN 65 3.4.5 FENPROPATHRIN 66 3.4.6 FENVALERAT 66 3.4.7 PERMETHRIN 67 3.4.8 CÁC LOẠI THUỐC PYRETHROIT KHÁC 68 3.5 THUỐC TRỪ SÂU SINH HỌC 68 3.5.1 HORMON (Hóc môn) 68 3.5.2 PHEROMON (Chất dẫn dụ giới tính) 69 3.5.3 MỘT SỐ CHẾ PHẨM SINH HỌC TRỪ SÂU PHỔ BIẾN 69 3.5.4 THUỐC TRỪ SÂU VI SINH BACTERIN 74 3.6 THUỐC TRỪ NHỆN 75 3.6.1 ACRINATHRIN 75 3.6.2 AMITRAZ 76 3.6.3 BINAPACRYL 76 3.6.4 PROPARGITE 77 3.6.5 CÁC LOẠI THUỐC TRỪ NHỆN KHÁC 78 3.7 THUỐC TRỪ CHUỘT 79 3.7.1 BRODIFACOUM (Klerat, Talon) 79
  6. 3.7.2 PHOSPHUA KẼM (Zinc phosphide) 79 3.7.3 WARFARIN (Coumafène) 80 3.7.4 WARFARIN SODIUM + SALMONELLA var. I7F - 4 80 B. THUỐC TRỪ BỆNH CÂY 81 3.8 PHÂN LOẠI THEO KIỂU TÁC ĐỘNG 81 3.9 PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC HÓA HỌC 81 3.9.1 THUỐC TRỪ NẤM CHỨA ĐỒNG 81 3.9.2 THUỐC TRỪ NẤM GỐC LƯU HUỲNH 84 3.9.3 THUỐC TRỪ NẤM GỐC THỦY NGÂN 89 3.9.4 THUỐC TRỪ NẤM DICACBOXIN 89 3.9.5 THUỐC TRỪ NẤM HỮU CƠ NỘI HẤP 90 3.9.6 Thuốc trừ nấm tổng hợp hữu cơ khác 97 3.10. THUỐC KHÁNG SINH 99 C. THUỐC TRỪ CỎ 102 3.11.1 Định nghĩa 102 3.11.2 Đặc điểm cỏ dại 102 3.11.3 Khả năng cạnh tranh với lúa 102 3.11.4 Phân loại cỏ dại 102 3.11.5 Thuốc trừ cỏ 104 Câu hỏi ôn tập 107 TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
  7. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương mở đầu CHƯƠNG MỞ ĐẦU I. VỊ TRÍ và VAI TRÒ CỦA MÔN HỌC 1. Dịch hại và mức độ tác hại Dịch hại trong nông nghiệp (pests): là những loài sinh vật và vi sinh vật gây hại cho cây trồng và nông sản, làm thất thu năng suất hoặc làm giảm phẩm chất nông sản, thực phẩm. Các loài dịch hại thường thấy là sâu hại, bệnh cây, cỏ dại, chuột, nhện đỏ, tuyến trùng Thất thu hàng năm do các loài dịch hại gây ra chiếm khoảng 35% khả năng sản lượng mùa màng (khoảng 75 tỷ đôla); trong đó thiệt hại do sâu là 13,8% (29,7 tỷ đôla); do bệnh cây là 11,6% (24,8 tỷ đôla); do cỏ dại là 9,5% (20,4 tỷ đôla) (theo Cramer H. H., 1967). Nếu tính cho diện tích nông nghiệp của thế giới là 1,5 tỷ hécta, không kể đồng cỏ và bãi hoang thì thiệt hại bình quân là 47- 60 đôla trên một hécta. Để tránh thất thu, hiện nay có nhiều biện pháp đã được áp dụng để phòng trừ các loài dịch hại. 2. Các biện pháp bảo vệ thực vật Nói chung, trong tự nhiên có rất nhiều yếu tố làm hạn chế sự phát triển của dịch hại. Tuy nhiên trong trồng trọt, để phòng trừ dịch hại, tác động của con người nhằm tiêu diệt hoặc ngăn ngừa sự phát triển của các loài dịch hại là rất quan trọng và cần thiết. Để đạt được mục đích trên, con người có thể dùng nhiều biện pháp, tác nhân có khả năng gây nguy hiểm cho đời sống của dịch hại. Các biện pháp tác nhân này thường tiêu diệt dịch hại, hoặc ngăn ngừa sự lây lan của chúng từ vùng này sang vùng khác, hoặc làm giảm mật số của chúng trong một vùng nhất định. Hiện nay các biện pháp sau đây thường được sử dụng riêng rẽ hoặc đồng thời để phòng trừ dịch hại: a. Biện pháp kiểm dịch thực vật: Nhà nước ban hành các qui định, luật lệ, nhằm kiểm soát và hạn chế sự lây lan của dịch hại từ vùng này sang vùng khác, từ nước này sang nước khác. b. Biện pháp canh tác: Bằng cách làm đất, bón phân, tưới tiêu cân đối và đầy đủ, chăm sóc cây trồng đúng mức, áp dụng luân canh hợp lý, chọn thời điểm gieo trồng thích hợp có thể làm tăng sức chống chịu của cây trồng và tạo điều kiện bất lợi cho sự phát triển của các loài gây hại, từ đó sẽ hạn chế được sự phát triển của các loài này. c. Biện pháp cơ học: Như bắt sâu bằng tay, nhổ cỏ d. Biện pháp lý học: Bằng cách cày ải, phơi đất, đốt đồng có thể tiêu diệt được nhiều loài dịch hại trú ẩn trong đất, trứng sâu, mầm bệnh, mầm cỏ, chuột Ngoài ra người ta còn dùng bẩy đèn, ánh sáng, âm thanh kết hợp với các chất độc để thu hút và tiêu diệt các loài côn trùng gây hại. e. Biện pháp hóa: Là biện pháp dùng các hóa chất độc để phòng trừ dịch hại. f. Biện pháp sinh học: Là biện pháp sử dụng các loài thiên địch có ích trong thiên nhiên. Phòng trừ tổng hợp: Ngày nay trên thế giới đang phát triển xu hướng phòng trừ dịch hại bằng cách sử dụng kết hợp một cách hài hòa, hợp lý nhiều biện pháp, kể cả việc phát huy những nhân tố có sẳn trong tự nhiên có khả năng gây bất lợi cho sự phát triển của dịch hại. Trong số các 1 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  8. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương mở đầu biện pháp phòng trừ dịch hại kể trên, hiện nay biện pháp hóa BVTV vẫn còn chiếm ưu thế, mặc dù người ta đã chỉ ra nhiều nhược điểm của việc dùng hóa chất độc trong phòng trừ dịch hại. 3. Ưu điểm, nhược điểm và vị trí của ngành Hóa BVTV hiện nay ~ Ưu điểm - Diệt dịch hại nhanh, có khả năng chặn đứng được sự lan tràn phá hoại của sâu, bệnh và các sinh vật gây hại khác. Đặc biệt là khi xãy ra các trận dịch, sử dụng hóa chất để phòng trừ tỏ ra hữu hiệu. - Cho hiệu quả trực tiếp, rõ rệt, tương đối triệt để, nhất là khi dùng để trừ dịch hại (sâu, chuột ) trong nhà kính, kho chứa nông sản, hàng hóa. - Thường nâng cao năng suất, phẩm chất nông sản một cách rõ rệt. - Dễ ứng dụng rộng rãi ở nhiều nơi, nhiều vùng khác nhau. ~ Nhược điểm - Dễ gây độc cho người trực tiếp áp dụng thuốc (pha chế, phun thuốc ), cho gia súc, sinh vật có ích ở chung quanh khu vực áp dụng thuốc. Nếu sử dụng không đúng cách, đôi khi thuốc còn gây độc cho thực vật, hoặc còn lưu bả trong nông sản và gây độc cho người hoặc gia súc ăn phải. - Nhiều trường hợp thuốc ảnh hưởng sâu sắc đến quần thể sinh vật và cân bằng sinh thái, nhất là ở những vùng mà biện pháp hóa BVTV được sử dụng trên qui mô lớn. - Gây ô nhiễm trên môi trường sống, nhất là đối với các loại thuốc có độ bền lớn, dễ lưu tồn trong đất với một thời gian khá dài. Phải mất khoảng 10 năm để phân hủy 95% DDT, hiện nay DDT đã thấy hiện diện trong đất ở nhiều nơi. - Gây ra hiện tượng quần thể dịch hại kháng thuốc, thường xãy ra nhất là khi dùng một loại thuốc liên tục trong nhiều năm tại một địa phương. Đây là một vấn đề rất quan trọng đang được quan tâm, nhất là đối với các loài sâu, nhện gây hại, do chúng rất dễ hình thành tính kháng thuốc. Với những nhược điểm trên, hiện nay trên thế giới đang có xu hướng hạn chế sử dụng các hóa chất độc trong BVTV, đồng thời cố gắng tìm ra những loại thuốc mới có những ưu điểm và tránh được những nhược điểm kể trên. Nói chung với những ưu điểm mà các biện pháp khác chưa có được, để đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, biện pháp hóa BVTV hiện nay vẫn còn được sử dụng rộng rãi. Nhu cầu về hóa chất BVTV trên thế giới ngày càng tăng, lượng thuốc tiêu thụ tính thành tiền trong những năm gần đây là: + 1986: 14.400 triệu đôla Mỹ + 1987: 20.000 triệu đôla Mỹ + 1990: 21.800 triệu đôla Mỹ II. Lịch sử pháp triển ngành Hóa BVTV Có thể chia làm ba giai đoạn như sau: 2 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  9. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương mở đầu - Từ thế kỷ XVIII trở về trước: Công tác BVTV nói chung và biện pháp Hóa BVTV nói riêng chỉ được tiến hành lẻ tẻ, tự phát, chưa có cơ sở khoa học và không có ý nghĩa thực tiển. Chủ yếu con người sử dụng những chất độc có sẳn trong tự nhiên như lưu huỳnh có trong tro núi lửa, cây cỏ có chứa chất độc để phòng trừ dịch hại. - Từ thế kỷ XVIII đến trước năm 1939: khi sản xuất nông nghiệp mang tính chất tập trung hơn thì thường xảy ra các trận dịch sâu bệnh, đôi khi lan tràn từ nước này sang nước khác, cho nên đòi hỏi về công tác BVTV trở nên cấp bách hơn. Nhờ các khoa học về côn trùng, bệnh cây và những ngành khoa học tự nhiên có liên quan khác đã bước vào giai đoạn hiện đại, các biện pháp phòng trừ dịch hại khoa học, tiến bộ mới dần dần được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp. Năm 1807, Benedict Prevot chứng minh được rằng nấu nước sôi trong nồi đồng có tính độc đối với bao tử nấm bệnh than đen, tiếp sau đó, Millardet đã nghiên cứu sự hổn hợp giữa đồng sulphate và vôi tạo ra hổn hợp Bordeaux để phòng trừ bệnh sương mai trên nho (1882 - 1887). Năm 1889, Aceto asenate đồng- hợp chất chứa Asen không tan đầu tiên đã được dùng để phòng trừ sâu Leptinotasa decemlineata Say hại khoai tây ở nhiều nước Châu Âu. Năm 1897 Rabate đã sử dụng H2SO4 và Martin dùng sắt sunfate để trừ cỏ cho ngũ cốc Nhìn chung từ giữa thế kỷ XIX trở đi, biện pháp Hóa BVTV đã ngày càng được chú trọng và bước đầu đã phát huy được tác dụng trong sản xuất. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế do những hợp chất hóa học dùng trong giai đoạn này - chủ yếu là các chất vô cơ - còn mang nhiều nhược điểm: dễ gây độc cho người và gia súc, kém an toàn đối với cây trồng. - Từ năm 1939 đến nay: Từ khi ông Muller công bố công trình nghiên cứu của ông về thuốc trừ sâu DDT thì biện pháp hóa học phòng trừ sâu hại đã có một chuyển biến căn bản. Sau đó hàng loạt các hợp chất Clo hữu cơ và các hợp chất tổng hợp hữu cơ khác (lân hữu cơ, Các-ba- mat, Pyrethroid tổng hợp ) đã ra đời và được sử dụng ngày càng rộng rãi để phòng trừ sâu hại. Đối với nấm bệnh, bắt đầu bằng các thuốc trừ nấm chứa đồng, ngày nay người ta đã dùng nhiều hợp chất hữu cơ tổng hợp như các thiocarbamate, các hợp chất thủy ngân hữu cơ, các hợp chất benzimidazol, các thuốc kháng sinh để phòng trừ nấm và vi khuẩn. Đến năm 1945, khi những thuốc trừ cỏ Phenoxy (2,4-D, MCPA ) ra đời thì biện pháp hóa học phòng trừ cỏ dại mới thật sự có ý nghĩa trong sản xuất nông nghiệp. Trong những năm gần đây, biện pháp Hóa BVTV đã có những bước tiến mạnh mẽ, đã xuất hiện nhiều loại nông dược với bản chất hóa học hoàn toàn mới, có nhiếu ưu điểm so với các hợp chất so với các hợp chất đã dùng trước đây như: an toàn hơn với người và động vật máu nóng, cây trồng, diệt được những loài dịch hại đã kháng với các loại thuốc sử dụng trước đây III. Cơ sở mục đích và đối tượng môn học Cơ sở khoa học của biện pháp Hóa học BVTV là độc chất học nông nghiệp. + Độc chất học: (Toxicology) là môn khoa học chuyên nghiên cứu các chất độc và tác động của chúng đến cơ thể sống; cách phòng và chống tác dụng độc hại của chúng. + Độc chất học nông nghiệp: là một ngành của độc chất học, chuyên nghiên cứu các chất độc dùng trong nông nghiệp những chất trừ dịch hại; tìm hiểu những biến đổi đã xãy ra trong cơ thể sinh vật dưới tác động của các chất độc đó; tìm hiểu sự phát sinh, phát triển của những biến đổi đó trong cơ thể sinh vật. Như vậy đối tượng của Độc chất học nông nghiệp là thuốc trừ dịch hại và cơ chế của sự tác động đó. 3 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  10. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương mở đầu + Tính độc của một chất độc đối với sinh vật phụ thuộc vào 3 yếu tố sau: • Đặc điểm của chất độc (tính chất hóa học, tính chất vật lý, khả năng tác động sinh lý, liều lượng ). • Đặc điểm của sinh vật bị thuốc tác động: các đặc điểm di truyền như cấu tạo hình thái giải phẩu, hệ thống men, hoạt tính sinh lý và các đặc điểm khác như thể trọng, tuổi tác, tình trạng sức khoẻ • Điều kiện ngoại cảnh khi chất độc tác động lên cơ thể dịch hại, các yếu tố thường gây ảnh hưởng là nhiệt độ, ẩm độ, gió, mưa các yếu tố này một mặt tác động lên dịch hại làm ảnh hưởng đến tính mẫm cảm của nó; mặt khác ảnh hưởng đến tính chất lý, hóa học của thuốc, từ đó làm tăng hay giảm hiệu quả dùng thuốc. Mục đích của ngành độc chất học nông nghiệp là nghiên cứu sự tác động của thuốc lên cơ thể sinh vật trong mối quan hệ giữa 3 yếu tố nêu trên để từ đó: + Đề ra những yêu cầu của sản xuất nông nghiệp đối với một loại thuốc trừ dịch hại mà ngành hóa học cần giải quyết. + Đề ra các biện pháp dùng thuốc hợp lý nhất, nhằm phát huy đến mức tối đa hiệu lực trừ dịch hại và hạn chế đến mức tối thiểu tác hại của thuốc trên người, gia súc, cây trồng, môi trường và cân bằng sinh thái. Câu hỏi ôn tập Câu 1: Hãy cho biết vị trí và vai trò của ngành Hóa Bảo Vệ Thực Vật trong nông nghiệp? Câu 2: Hãy cho biết ưu và khuyết điểm của ngành Hóa Bảo Vệ Thực Vật trong nông nghiệp? 4 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  11. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 CHƯƠNG 1: ĐỘC CHẤT HỌC NÔNG NGHIỆP 1.1 CÁC KHÁI NIỆM VỀ CHẤT ĐỘC và SỰ NHIỄM ĐỘC 1.1.1 Các khái niệm cơ bản a. Độc chất học (Toxicology) Là môn khoa học nghiên cứu về chất độc và sự tác dụng của nó lên cơ thể sống, cách phòng và chống tác dụng độc hại của chúng. Độc chất học nông nghiệp là một ngành của môn độc chất học, chuyên nghiên cứu các chất độc dùng trong nông nghiệp, các thuốc trừ dịch hại; và tìm hiểu những biến đổi có thể xảy ra trong cơ thể sinh vật dưới tác động của chất độc khác nhau. b. Chất độc (Toxicant) * Chất độc: là một chất khi xâm nhập vào cơ thể với một lượng nhỏ cũng có thể gây ngộ độc, phá hủy vài chức năng của cơ thể hay gây tử vong cho cá thể đó. * Tính độc (Toxicity) của chất độc: là khả năng gây độc cho cơ thể của chất đó ở trong những điều kiện nhất định, tính độc của một chất phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Tính độc phụ thuộc vào bản chất của chất độc (đặc điểm hóa học, lý hóa, sinh vật học của chất độc). - Tính độc biểu hiện tuỳ theo đối tượng tác động, chất độc có thể gây ngộ độc được hay không còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của cơ thể sinh vật bị tác động. Một chất có thể độc với sinh vật này mà không độc với sinh vật khác. Ansen và stricnin là những chất độc được dùng làm thuốc trừ chuột, nhưng cũng được ứng dụng trong y học làm thuốc chữa bệnh cho người. - Chất độc chỉ có khả năng gây độc ở một liều lượng nhất định nào đó (từ liều lượng ngưỡng trở lên). Khi lượng chất độc trong cơ thể sống ở dưới một lượng nào đó nó sẽ không có khả năng gây độc nữa. - Tính độc của một chất còn tuỳ thuộc vào điều kiện và phương pháp áp dụng. Sự có mặt của axit HCL trong dịch vị là một điều bình thường nhưng nếu tiêm axit này vào máu thì lại gây ngộ độc. - Thước đo độ độc của thuốc độc đối với mỗi cơ thể sống là liều lượng độc (Toxic dose). c. Liều lượng độc (Toxic dose) Là lượng chất độc cần có để gây được một tác động nhất định trên cơ thể sinh vật. Liều lượng độc có thể tính bằng g hay mg chất độc trên một cá thể. Tuy nhiên, do có sự sai khác về độ lớn của cơ thể cũng như sự sai khác về độ mẫn cãm của cơ thể cho nên để diễn tả một cách chính xác hơn, độ độc của một chất thường được tính bằng lươûng chất độc cần để gây độc cho một đơn vị thể trọng (đơn vị là µg/kg, mg/kg hay g/kg thể trọng). Liều lượng độc càng nhỏ thì tính độc của chất độc càng lớn. Liều lượng độc có thể được phân biệt thành các mức độ như sau: * Liều lượng gây chết trung bình(LD50): là liều chất độc trong những điều kiện nhất định gây chết cho 50% cá thể dùng trong nghiên cứu. * Liều lượng ngưỡng: là liều chất độc tối thiểu trong những điều kiện nào đó, có thể gây ra những biến đổi không đáng kể cho cơ thể nhưng chưa gây hại đến sức khỏe một cách rõ ràng có thể cảm thấy được. 5 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  12. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 * Liều lượng độc: Là liều chất độc làm cho cơ thể lâm vào tình trạng xấu như gây hắt hơi, chóng mặt, nhức đầu nhưng chưa đưa đến tử vong. * Liều lượng gây chết: là liều chất độc nhỏ nhất có thể gây cho cơ thể những biến đổi không thể hồi phục được, dẫn đến tử vong. Ngoài ra người ta còn đưa ra một số khái niệm khác về liều lượng độc như sau: * Liều lượng dưới liều gây chết: Là liều chất độc có thể gây ra sự hủy hoại vài chức năng của cơ thể nhưng chưa dẫn đến tử vong. * Liều lượng gây chết tối thiểu: là liều chất độc nhỏ nhất trong những điều kiện nhất định có thể gây chết cho cơ thể. * Liều lượng gây chết tuyệt đối: Là liều chất độc thấp nhất trong những điều kiện nhất định có thể làm chết toàn bộ số cá thể dùng trong nghiên cứu. d. Mức dùng (liều dùng, liều lượng áp dụng) Là lượng hoạt chất hoặc chế phẩm của nó dùng trên một đơn vị thể tích, diện tích hoặc khối lượng cần xử lý để bảo vệ cây trồng và nông sản, nhằm thu được hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả kinh tế cao nhất. Mức dùng được tính bằng đơn vị trọng lượng của vật chất hoặc chế phẩm trên một đơn vị trọng lượng, thể tích hoặc diện tích của đối tượng cần xử lý. Đơn vị mức thường dùng là kg(lít) hoạt chất/ha. Đôi khi người ta chỉ khuyến cáo nồng độ sử dụng cùng với yêu cầu là thuốc phải được phun đều khắp bề mặt cần xử lý. 1.1.2 Những yêu cầu đối với một hóa chất dùng trong bảo vệ thực vật a. Hợp chất dùng trong bảo vệ thực vật phải có tính độc cao đối với sinh vật gây hại, có khả năng tiêu diệt hoặc ngăn chặn sự phá hoại của một hay nhiều loài dịch hại. Đây là điều kiện tiên quyết vì nếu mất đi tính chất này thì việc dùng hóa chất để BVTV chẳng có ý nghĩa gì cả. b. An toàn đối với cây trồng, với hạt giống và không ảnh hưởng xấu đến phẩm chất nông sản ở liều lượng, nồng độ và phương pháp sử dụng đã qui định. c. An toàn đối với người sử dụng thuốc (người pha chế thuốc, phun thuốc ).Với người và gia súc tiêu thụ những sản phẩm thu hoạch từ cây trồng có phun thuốc. Những thuốc này phải có độ độc cấp tính đối với động vật máu nóng thấp; không tích lũy trong cơ thể động vật; không phải là tác nhân gây ung thư, quái thai và các bệnh mãn tính hiểm nghèo khác. d. Hợp chất này phải có tính chọn lọc cao, khi sử dụng trên đồng ruộng chúng phải ít hoặc không ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của những sinh vật có ích như côn trùng bắt mồi và ký sinh, ong mật, cá, cua e. Không gây ô nhiễm môi trường sinh sống. Các hợp chất này không phải quá bền vững trong điều kiện sử dụng; không tồn tại quá lâu trong cây trồng và nông sản, trong đất, ao, hồ, sông, suối, nước ngầm Sau khi được phun, rãi trên đồng ruộng, trong một thời gian ngắn, thuốc phải diệt được những sinh vật gây hại và sau đó phải phân giải thành những chất không độc cho người và động vật. f. Các chế phẩm dùng trong BVTV phải không đòi hỏi cách sử dụng, bảo quản và chuyên chở quá phức tạp, vì điều này không phù hợp với trình độ kỹ thuật và cơ sở vật chất ở nông thôn, nhất là đối với nông thôn ở nước ta. 6 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  13. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 g. Các chế phẩm phải không được quá đắt tiền, phải đem lại hiệu quả kinh tế cao khi sử dụng chúng. Ngày nay công nghiệp hóa chất đã và đang có nhiều nổ lực để chế tạo ra những hợp chất đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu nói trên. Tuy nhiên cần phải thấy rằng chưa có hóa chất nào đáp ứng thật đầy đủ tất cả những yêu cầu trên. Với kỹ thuật dùng thuốc đúng đắn, trên cơ sở hiểu biết thật đầy đủ về độc chất học nông nghiệp sẽ góp phần khắc phục những mặt hạn chế và nâng cao giá trị sử dụng của các hóa chất độc trong lãnh vực phòng trừ dịch hại. Nếu chúng ta coi thuốc BVTV như một vũ khí để chống lại những sinh vật gây hại cho cây trồng thì kết quả thắng lợi hay thất bại của trận đánh đâu phải chỉ phụ thuộc vào vủ khí? Rỏ ràng người sử dụng vũ khí đóng vai trò quyết định. 1.1.3 Phân loại thuốc trừ dịch hại Có nhiều cách phân loại thuốc trừ dịch hại, sau đây là một số cách phân loại thông dụng nhất: a. Phân loại theo nguồn gốc và thành phần hóa học Thuốc trừ dịch hại được chia thành các nhóm sau: - Các thuốc có nguồn gốc thực vật: Các bộ phận của một số thực vật có chứa các hợp chất alcaloid, nicotin, albazin, pyrethrin, rotenone, và một số chất kháng sinh được sơ chế hoặc trích ly hoạt chất để sử dụng. - Các thuốc vô cơ: Gồm các hợp chất vô cơ chứa đồng, lưu huỳnh, các hợp chất asenit - Các thuốc tổng hợp hữu cơ: Gồm các hợp chất thuộc nhóm chlor hữu cơ, nhóm lân hữu cơ, nhóm carbamate, nhóm các hợp chất dị vòng, nhóm pyrethroid tổng hợp Các lại thuốc có nguồn gốc vi sinh vật: Các thuốc kháng sinh. b. Phân loại theo đối tượng tác dụng Các thuốc trừ dịch hại (pesticide) được chia thành: Thuốc trừ sâu (insecticide), thuốc trừ bệnh (fungicide), thuốc trừ vi khuẩn (bactericide), thuốc trừ cỏ dại (herbicide), thuốc trừ chuột (ratticide), thuốc trừ tuyến trùng (nematocide), thuốc trừ nhện (acaricide), thuốc trừ ốc sên (limacide, molluscide), thuốc giết động vật (zoocide). Trong một số trường hợp, thuốc trừ dịch hại còn được chia thành từng nhóm dựa vào khả năng gây độc của thuốc đến một giai đoạn sinh trưởng nhất định của địch hại: Thuốc trừ sâu non (larvicide), thuốc trừ trứng (ovicide) c. Phân loại theo phương pháp thẩm thấu và đặc tính tác dụng Tuỳ theo con dường mà các chất độc xâm nhập vào cơ thể dịch hại, có thể phân các loại thuốc trừ dịch hại theo các nhóm sau: - Thuốc vị độc (thuốc nội tác động): Là những thuốc xâm nhập vào cơ thể cùng với thức ăn qua con đường tiêu hóa, thường dùng để diệt các côn trùng nhai gậm, liếm hút, chuột - Thuốc tiếp xúc: Xâm nhập vào cơ thể qua da, biểu bì, thường dùng để diệt các côn trùng sống không ẩn náu, các vi sinh vật gây hại, trừ cỏ - Thuốc xông hơi: Qua dạng hơi thuốc khuyếch tán vào không khí chung quanh dịch hại và xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp. Ngoài ra người ta còn phân biệt: 7 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  14. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 - Thuốc lưu dẫn và thuốc không lưu dẫn: Thuốc lưu dẫn là những thuốc khi được áp dụng trên bộ phận của thực vật (như lá hoặc rễ) thì nó có khả năng xâm nhập vào bên trong và dẫn truyền theo mạch nhựa đến các bộ phận khác làm cho cơ thể thực vật trở nên độc đối với dịch hại (thuốc trừ sâu, bệnh); hoặc toàn bộ cá thể thực vật đó bị gây hại (thuốc trừ cỏ). Thuốc không lưu dẫn là tất cả những thuốc không có đặc tính trên, các thuốc có đặc tính lưu dẫn thường được ưa chuộng hơn do ít bị mưa rửa trôi, ít gây hại đến thiên địch. - Thuốc có tác động chọn lọc và không chọn lọc: Thuốc có tác động chọn lọc là những thuốc chỉ có tác dụng trên một số loài dịch hại và không ảnh hưởng xấu đến các loài thiên địch (côn trùng bắt mồi và ký sinh) hay những sinh vật có ích khác (gia súc, cá, thú, thiên địch (côn trùng ký sinh) hay những sinh vật có ích khác (gia súc, cá, thú rừng ). Đối với thuốc trừ cỏ, tính chọn lọc của thuốc biểu hiện ở khả năng không gây hại đối với thực vật. Thuốc Bảo Vệ Thực Vật dùng trong nông nghiệp còn được phân nhóm theo các chỉ tiêu độc hại đối với người và động vật máu nóng, cũng như theo tính bền vững của chúng trong môi sinh. Độc tính của thuốc đối với ĐVMN được tính qua một lần đưa thuốc qua dạ dày (qua miệng), bôi thuốc lên da (tiếp xúc qua da) và khi hít hơi thuốc, và sự tích lũy của thuốc trong cơ thể động vật. (Trích theo “ Kinh tế và tổ chức Bảo Vệ Thực Vật”; trang 205 phần Phân loại vệ sinh thuốc Bảo vệ Thực vật. A.F. Chenkin, theo Viện Nghiên cứu Khoa học Toàn Liên Bang về Vệ Sinh và Độc hại của Thuốc BVTV), NXB Nông nghiệp - Hà Nội, 1988. d. Phân loại theo mức độ bay hơi - Chất rất nguy hiểm: Nồng độ bảo hòa ≥ nồng độ độc hại. - Chất nguy hiểm: Nồng độ bão hòa > nồng độ bốc cháy. - Chất ít nguy hiểm: Nồng độ bão hòa 3 Độc tính yếu *Theo độ độc cấp tính qua miệng hay đường ruột (biểu thị bằng LD50, thử nghiệm trên chuột), các loại thuốc trừ dịch hại được chia thành các nhóm như sau: Bảng phân chia nhóm độc qua miệng theo qui định của Bộ Nông Nghiệp & PTNT và Công Nghệ Thực Phẩm, 1995. Phân nhóm Biểu tượng Độ độc cấp tính LD50 (mg/kg) và ký hiệu nhóm độc qua miệng nhóm độc Thể rắn Thể lỏng I “Rất độc” Đầu lâu xương chéo <50 <200 chử đen trên băng màu đỏ II “Độc cao” Chử thập đen 50-500 200-2000 8 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  15. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 chử đen trên băng màu vàng III “Nguy hiểm” Vạch đen không >500 >2000 chử đen trên liên tục băng màu xanh nước biển f. Phân loại theo dạng tích lũy Thuốc trừ dịch hại có khả năng tích lũy trong cơ thể sinh vật dưới các dạng sau: +Tích lũy hóa học: xảy ra khi chất độc hóa học được hấp thu vào cơ thể với tốc độ nhanh hơn là bài tiết ra ngoài. Mỗi lần chất độc hóa học xâm nhập vào cơ thể đều không thải ra ngoài hoàn toàn, sự tích tụ của chất độc xảy ra khiến cơ thể dần dần bị ngộ độc và chết. + Tích lũy động thái (tích lũy chức năng): mỗi lần chất độc xâm nhập vào cơ thể đều bị thải ra hoàn toàn, tuy nhiên hậu quả của sự tác động của liều chất độc đó vẫn còn và được tăng thêm do qua các lần xâm nhập sau. Khã năng tích lũy trong cơ thể của một chất được biểu thị qua các hệ số tích lũy: LD50 (MÃN TÍNH) Hê số tích lũy K = LD50 (CẤP TÍNH) K 5 : “ “ “ “ “ yếu (tích lũy không rõ rệt) Ngoài ra y học còn dựa vào mức độ tạo khối u ở người và động vật, để phân loại các chất độc theo mức độ gây độc theo mức độ gây đột biến gen, gây quái thai g. Phân loại theo khả năng phân hũy Dựa vào chu kỳ bán hũy (DT50: Disappearance Time) của hóa chất là thời gian phân hũy phân nữa lượng chất độc. - DT50 1 năm : Độ bền vững rất cao. 1.2 SỰ XÂM NHẬP CỦA CHẤT ĐỘC VÀO CƠ THỂ SINH VẬT Chất độc xâm nhập vào cơ thể theo những con đường khác nhau: qua đường tiêu hóa (thuốc vị độc), qua đường hô hấp (thuốc xông hơi), qua da hay biểu bì (thuốc tiếp xúc). Cho dù 9 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  16. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 xâm nhập vào cơ thể bằng con đường nào đi nữa, các chất độc muốn gây ra một tác động nào đó lên cơ thể sinh vật đều phải xâm nhập được vào bên trong tế bào của sinh vật đó. 1.2.1 Sự xâm nhập của chất độc vào tế bào a. Sơ lược về cấu tạo tế bào Tế bào trưởng thành điển hình cấu tạo cơ bản gồm có: màng nguyên sinh, nguyên sinh chất, nhân, bộ máy golghi, ty thể và các vi thể khác. Riêng đối với tế bào thực vật và một số vi sinh vật, bên ngoài màng nguyên sinh còn có màng tế bào - đó là một màng cellulose cứng bảo đảm cho tế bào được bền vửng. b. Sự xâm nhập của các chất vào bên trong của tế bào Màng tế bào có khả năng thẩm thấu rất lớn đối với các chất khoáng và các chất hữu cơ. Thường quá trình hấp thu các chất đi qua màng này xảy ra nhờ vào sự hấp thu phân tử, sự trao đổi ion hoặc liên kết hóa học. Màng nguyên sinh chất có cấu tạo chuyên hóa rất phức tạp và là vật cảng thứ hai trên con đường các chất thâm nhập vào cơ thể do các yếu tố sau: ¾ Tính thấm chọn lọc: các chất đi qua màng tế bào với tốc độ khác nhau, điều này làm cản trở khả năng khuyếch tán của nhiều chất vào tế bào. Tuy nhiên tính thấm này có thể thay đổi khi có tế bào bị một tác động nào đó. Như khi chịu sự tác động của tác nhân gây hại, tế bào có thể bị kích thích hoặc bị tổn thương và khi đó tính thấm của màng tế bào tăng lên rõ rệt, lúc đó các chất - kể cả chất độc sẽ khuyếch tán nhanh chóng và bên trong tế bào cho đến khi cân bằng về áp suất được xác lập ¾ Khả năng hấp thu của toàn khối nguyên sinh chất: khả năng này được đặc trưng bởi một hệ số nào đó. Khi bị chất độc tác động thì hệ số này tăng lên do tính hấp thu của khối nguyên sinh chất tăng lên, kết quả là chất độc xâm nhập vào tế bào với một tốc độ nhanh hơn. Khả năng hấp phụ của màng nguyên sinh chất: Đặc biệt là đối với các kim loại nặng như Hg, Cu, As Các chất độc này thường phản ứng với các nhóm thio và amin của màng tế bào, trong nhiều trường chúng đã phá hủy màng tế bào để đi vào bên trong. Nhìn chung các chất hữu cơ thường xâm nhập vào tế bào bằng con đường khuyếch tán dưới dạng phân tử qua các khe lipoprotein của màng tế bào. Các chất độc vô cơ như các hợp chất của Cu, Fe, Zn thường xâm nhập vào tế bào dưới dạng ion hoặc phân tử. 1.2.2 Sự xâm nhập của chất độc vào cơ thể côn trùng Các thước trừ sâu xâm nhập vào cơ thể côn trùng theo 3 con đường: qua bộ máy tiêu hóa (thuốc vị độc); qua biểu bì (thuốc tiếp xúc) và qua con đường hô hấp (thuốc xông hơi). Với từng cách xâm nhập, chất độc sẽ bị chuyển hóa theo những hướng khác nhau và gây ra những tác động khác nhau. a. Tác động vị độc - Sự hấp thu chất độc: Các thuốc vị độc cùng với thức ăn đi vào cơ thể côn trùng. Từ lúc bắt đầu vào miệng, đi qua ống thực quản, cho đến khi vào túi thức ăn, chất độc được chuyển hóa 10 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  17. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 từ dạng không hòa tan sang dạng hòa tan. Khi đến ruột giữa, quá trình đồng hóa chất độc xảy ra mạnh mẽ. Bằng cách thẩm thấu hoặc phá hủyvách ruột giữa, chất độc từ ruột chuyển vào huyết dịch. Cùng với huyết dịch, chất độc vận chuyển đi khắp cơ thể, xâm nhập và tác động vào các trung tâm sống quan trọng (như hệ thần kinh, hệ men), hoặc giữ trong các mô (như mô mỡ). - Sự bài tiết chất độc: trong quá trình tiêu hóa thường không phải toàn bộ số lượng chất độc đều được cơ thể hấp thu và đồng hóa. Một phần chất độc không kịp hoặc không được chuyển hóa thành trạng thái hòa tan sẽ bị thải ra ngoài bằng con đường bài tiết qua ruột sau và lổ hậu môn. Như vậy đi qua ruột với tốc độ càng nhanh, chất độc bị bài tiết đi ra ngoài càng nhiều, và do đó càng ít tác động đến cơ thể dịch hại. Một số chất như Asen đã gây ra sự co bóp ruột giữa khiến cho chất độc một phần bị tống ra khỏi cơ thể côn trùng. b. Tác động tiếp xúc - Biểu bì côn trùng được cấu tạo chủ yếu bởi 3 lớp: biểu bì trên, biểu bì ngoài và biểu bì trong. Lớp biểu bì trên ở ngoài cùng có độ dày khoảng 0,2 - 0,8 µ cấu tạo từ một hỗn hợp acid béo, cholesterin và protein. Biểu bì, chủ yếu là lớp biểu bì trên lá vật chướng ngại quan trọng nhất trên con đường xâm nhập của những chất không tan trong sáp và lipit. Thường biểu bì ở chân và đệm chân của côn trùng tương đối mỏng nên chất độc xâm nhập qua những nơi này tương đối dễ dàng. Ở một số côn trùng, biểu bì còn được bao bọc bởi một lớp sáp ở bên ngoài (như rệp sáp). - Thông thường chỉ có những chất hữu cơ hòa tan được trong lipoit và lipoprotein mới xâm nhập được qua biểu bì. Sau khi qua được bểu bì, chất độc sẽ lan vào huyết dịch và truyền đi khắp cơ và tác động như trong trường hợp các chất vị độc. - Một số thuốc trừ sâu nhất là các loại dầu, tinh dầu có thể tạo thành một lớp mỏng bền vững bao phủ cơ thể côn trùng làm cản trở quá trình hô hấp của chúng, và do đó các chất này có thể giết côn trùng ngay cả khi chưa xâm nhập được vào cơ thể. Ví dụ như dầu khoáng DC Trons Plus do hãng Caltex sản xuất, dầu khoáng SK do Hàn quốc sản xuất. c. Tác động xông hơi Bằng dạng hơi, chất độc xâm nhập vào cơ thể côn trùng qua hệ thống khí quản. Chúng khuyếch tán qua vách khí quản và vi khí quản vào huyết dịch, lan truyền trong thân và gây ngộ độc cho côn trùng. Khi tiếp xúc với các chất độc xông hơi, côn trùng thường phản ứng tự vệ bằng cách đóng các lổ thở lại. Nhờ có lượng oxy chứa trong khí quản, chúng có thể chịu đựng được một thời gian nhất định. Cho đến khi hết lượng oxy dự trữ, chúng mới buộc phải mở các lổ thở ra; do đó để tiêu diệt được dịch hại, ta phải giử cho không khí chung quanh dịch hại luôn chứa khí độc ở nồng gây chết trong một thời gian tương đối dài thì mới có hiệu quả. Chính vì vậy mà chất độc xông hơi chỉ phát huy tác dụng khi được áp dụng ở những nơi có khoảng không gian cố định như kho, khoang tàu, nhà kính 1.2.3 Sự xâm nhập của chất độc và cơ thể loài gặm nhấm Thường là chỉ ứng dụng những chất vị độc hoặc xông hơi để tiêu diệt những loài gặm nhấm. - Chất vị độc sau khi đi vào bộ máy tiêu hóa các loài gặm nhấm được đồng hóa ổ dạ dày. Sau đó chất độc nguyên chất hoặc các sản phẩm chuyển hóa của nó thấm qua vách ruột vào máu 11 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  18. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 và được máu truyền đi khắp nơi trong cơ thể. Các loài gặm nhấm có khướu giác và vị giác rất phát triển lại rất đa nghi nên chúng có thể phản ứng tự vệ bằng cách lẩn tránh, không ăn bả độc hoặc bằng cách nôn mửa bả độc ra ngoài. - Chất độc xông hơi xâm nhập dễ dàng vào phổi của loài gặm nhấm và từ đó được máu vận chuyển đi khắp cơ thể. Ngoài khả năng theo huyết dịch đến các cơ quan khác và gây tác động, chất độc xông hơi còn có khả năng tác động lên chính huyết dịch, làm mất khả năng vận chuyển khí oxy, khí carbonic và các chất khác làm ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể. 1.3.2 Sự biến đổi của chất độc trong tế bào sinh vật a. Biến đổi hóa học Chất độc phản ứng với các thành phần của tế bào chủ yếu là với các protein hoặc với các thành phần kim loại trong các hợp chất protit. Ví dụ như: formaldehyd khi xâm nhập vào tế bào sẽ tác dụng với các amino acid tạo thành các methylamin. b. Biến đổi sinh học - Chất độc có thể ức chế hoạt động của các enzym như những enzym esteraza (cholin esteraza, methyl butyrat esteraza, phenyl acetat esteraza ) và nhiều enzym khác trong tế bào, làm đình trệ các hoạt động đồng hóa và dị hóa của tế bào, thuốc trừ cỏ Natrichlorate ức chế hoạt động của enzym catalaza trong cỏ, các thuốc trừ sâu lân hữu cơ có khả năng ức chế hoạt động của men cholinesterase (ChE.) và một số men khác mà các men này dùng để thủy phân Acetylcholin. Acetylcholin có trong tế bào thần kinh và tham gia vào quá trình truyền xung động thần kinh. Vì thế khi cholin-estaza bị ức chế, acetylcholin bị tích lũy làm rối loạn sự dẫn truyền xung động thần kinh, những chất đó gọi là thuốc độc thần kinh. Có loại chất độc tác động bằng cách ngăn cản sự tạo thành vitamin trong tế bào hoặc làm mất tác dụng của vitamin này đối với tế bào. Các dẫn xuất của hydroxicumarin có khả năng ức chế sự tạo thành vitamin K ở ruột các loài chuột, góp phần gây bệnh máu không đông ở chuột. - Tất cả các enzym đều là hợp chất chứa protein, tuỳ theo cấu tạo của nó, người ta chia làm hai loại: Loại thứ nhất trong thành phần chỉ chứa protein; loại thứ hai ngoài protein còn có thành phần khác như kim loại. Các hợp chất có thể kết hợp với thành phần protein hoặc thành phần kim loại làm cho enzym bị bất hoạt hoặc bị phá hủy hoàn toàn. Enzym bị bất hoạt đôi khi có thể được phục hồi khi ta tách chất độc ra khỏi tế bào. - Các enzym đặc biệt rất dễ mẫn cảm với chất độc. Do các enzym giữ vai trò xúc tác cho quá trình sinh học trong tế bào. Sự ngộ độc của bất kỳ enzym nào đều làm cho cơ thể suy yếu, thậm chí bị chết. Khi có một enzym nào đó trong cơ thể bị ức chế, ta nói cơ thể bị tổn thương sinh hóa. - Tất cả những chất ức chế enzym, trong đó có thuốc trừ dịch hại được chia thành hai nhóm: + Nhóm có khả năng ức chế toàn phần: Thường là các muối của các kim loại nặng (Pb, Hg), làm lắng, kết tủa protein dẫn đến ức chế hoàn sự hoạt động của các enzym. + Nhóm có khả năng ức chế chuyên biệt: Thuốc độc chỉ liên kết với một vị trí nào đó trong phân tử protein (như phần kim loại) để tạo thành những liên kết bền vững và ức chế hoạt động của enzym. Như H2S có thể liên kết với phân tử sắt trong enzym của tế bào hô hấp làm ức chế quá trình hô hấp. 12 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  19. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 c. Biến đổi lý học Mỗi loại chất độc đều có kiểu tác động đặc trưng đối với tế bào do các chất có bản chất khác nhau sẽ tác động lên những thành phần khác nhau của tế bào, nhưng nhìn chung tất cả những tác động này đều dẫn đến sự biến đổi trạng thái keo, độ nhớt và khả năng nhuộm màu của nguyên sinh chất. Sự thay đổi trạng thái keo biểu hiện bằng sự kết tụ các phần tử keo trong tế bào để tạo thành những phần tử lớn hơn, kèm theo đó là độ phân tán bị giảm sút và có xảy ra sự khử nước khiến cho ái lực của các phần tử nước bị giảm. Cùng với sự kết đọng nguyên sinh chất, thường diễn ra sự tạo thành nhiều không bào, chứng tỏ sự thay đổi quan hệ giữa các phân tử keo của tế bào đối với nước. Do sự kết tụ keo, độ nhớt của chất nguyên sinh lúc đầu bị giảm đi; nhưng sau đó lại tăng lên, có thể là do sự gel của keo nguyên sinh, hoặc do sự thay đổi về hình dạng phân tử. Trong tế bào bình thường, các chất nhuộm màu như xanh methylen, độ trung tính không nhuộm màu nguyên sinh chất và nhân mà thường kết đọng lại thành những hạt nhỏ hoặc liên kết với một vài thành phần của tế bào (đối với tế bào động vật). Lúc tế bào bị tổn thương, các chất này nhộm màu đều cả nguyên sinh chất và nhân. Với những biến đổi lý hóa học nói trên, tế bào không hoàn thành được chức năng sinh lý bình thường của mình nữa và có thể chết. Ngoài biểu hiện phá hủy tế bào, có khi người ta còn quan sát thấy những biểu hiện kích thích của hóa chất độc đối với tế bào. Naxonop và Alexendrop đã đưa ra thuyết biến chất để giải thích hiện tượng này. Thuyết này dựa trên cơ sở là các protein nguyên thể, thành phần quan trọng và phổ biến nhất trong nguyên sinh chất, có tính không ổn định và rất nhạy cảm với tác động của nhiều tác nhân khác nhau. Phản ứng đó thường dẫn đến sự biến đổi cấu hình bình thường của protid. Khi chỉ có một lượng nhỏ chất độc tác động đến tế bào thì chất độc mới chỉ tác động đến một số thành phần của nguyên sinh chất và có thể thúc đẩy các phản ứng trong tế bào xảy ra nhanh hơn làm tăng cường sự trao đổi chất trong tế bào. Nhưng khi lượng chất độc tăng lên thì sự biến chất sẽ xảy ra sâu sắc và bao trùm lên toàn khối nguyên sinh chất, làm cho tế bào bị tổn thương. Trạng thái tổn thương này lúc đầu có tính thuận nghịch, nghĩa là nếu tách tế bào ra khỏi tác động của chất độc thì chất nguyên sinh có thể phục hồi lại trạng thái bình thường. Trạng thái này gọi là trạng thái chết hoại giả (paranecrosis). Nếu bị tổn thương ở mức độ sâu sắc hơn, sự biến chất không còn mang tính chất thuận nghịch nữa, mà chuyển sang trạng thái chết hoại thật (necrosis). Như vậy với cùng một chất, nếu chất độc xâm nhập vào tế bào chỉ với một lượng nhỏ thì có thể gây kích thích, thường với lượng lớn thì lại gây ngộ độc cho cơ thể. 1.3.3 Các hình thức tác động của chất độc Có nhiều hình thức tác động khác nhau, tuỳ theo đặc tính của từng loại chất độc, đặc điểm của đối tượng và điều kiện áp dụng. a. Tác động cục bộ và tác động toàn bộ + Tác động cục bộ (tác động tiếp xúc): Chất độc chỉ gây tổn thương ở những bộ phận của cơ thể tiếp xúc với nó mà thôi. + Tác động toàn bộ (tác động lưu dẫn): Chất độc có tính hấp thu, có khả năng xâm nhập và lan truyền đi khắp cơ thể, làm ảnh hưởng đến nhiều cơ quan hoặc có khi ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể. b. Tác động tích lũy Chất độc xâm nhập vào cơ thể xảy ra sự tích lũy hóa học hoặc tích lũy động thái (xem 3.e). 13 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  20. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 c. Trúng độc cấp tính và mãn tính - Trúng độc cấp tính (Acute toxicity): Thường xảy ra khi chất độc thâm nhập vào cơ thể ngay một lần với lượng lớn, phá hủy mạnh mẽ các chức năng của cơ thể, biểu hiện bằng những triệu chứng rất rõ ràng, đặc trưng cho mỗi loại hay mỗi nhóm hóa học. Thuốc trừ sâu gốc lân hữu cơ thể hiện rỏ nhất. - Trúng độc mãn tính (Chronic toxicity): Xảy ra khi chất độc xâm nhập vào cơ thể với lượng nhỏ, trong nhiều lần và trong một thời gian dài. Các chất có khả năng tích lũy trong cơ thể như những thuốc trừ sâu Clo hữu cơ thường gây ngộ độc mãn tính. Tuy nhiên cũng có những trường hợp chất độc không có đặc tính tích lũy vẫn có khả năng gây độc mãn tính. d. Tính độc dị hậu Một số chất độc khi xâm nhập vào cơ thể thì không gây chết cho cơ thể đó mà chỉ phá hoại những chức năng sinh lý của các cơ quan riêng biệt, làm cho chúng không phát triển bình thường được nữa, và sau này gây thoái hóa hoặc có khi gây chết cho thế hệ con cái. 1.3.4 Tác động của chất độc đến dịch hại a. Tác động của chất độc đến cơ thể côn trùng và động vật gây hại Mỗi loại hoặc mỗi nhóm chất độc có thể gây cho côn trùng những phản ứng đặc trưng, những triệu chứng trúng độc đặc biệt. Khi tác động đến hệ thần kinh, các bộ phận của côn trùng thường không có khả năng cử động nhịp nhàng, ăn khớp với nhau. Lúc đầu chất độc có thể gây hưng phấn cho côn trùng rồi sau đó làm cho cơ thể bị tê liệt dần. Các chất độc tiếp xúc có thể gây ra chất bỏng trên da, biểu bì, hoặc làm biến đổi màu sắc da. Khi ăn phải những chất độc vị độc như hợp chất Asen, côn trùng có thể nôn mữa, tiêu chảy. Các chất độc vị độc có thể làm thành ống tiêu hóa bị tổn thương, ống tiêu hóa bị nhợt màu, ruột bị nhăn nheo, áp suất ruột cũng có thể bị biến đổi. Trong cơ thể, chất độc được huyết dịch dẫn đi khắp nơi; ngoài ra chính các men nằm trong huyết dịch cũng bị tác động làm biến đổi thành phần hóa học và hình thái học của huyết dịch. Dưới tác động của chất độc, có trường hợp mô thần kinh của côn trùng bị phân hủy, các mô tuyến bị chết Đối với những loài gậm nhấm, chất độc cũng gây ra biến đổi bệnh lý ở các cơ quan riêng biệt: hệ thần kinh, hệ tiêu hóa, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp. Khi chất độc tác động lên hệ thần kinh, những động này cũng có những biểu hiện co rút, hưng phấn, tê liệt. Trong nhiều trường hợp chất độc liên kết với hemoglobin trong máu, ảnh hưởng đến hô hấp, khiến cho chúng bị chết vì ngạt thở. b. Tác động của chất độc đến tác nhân gây bệnh Trong tế bào nấm, vi khuẩn gây bệnh, chất độc có thể gây ra những tác động sau: - Phá hủy các thành phần cấu trúc của tế bào: Chất độc có thể tác động trực tiếp, phá hủy một hoặc nhiều thành phần trong tế bào nấm bệnh (vách tế bào, màng tế bào, ty thể, vi thể hoặc nhân). Trong tế bào nấm bệnh, do mỗi cấu tử có một chức năng nhất định có liên quan đến sự hoạt động sinh lý bình thường của toàn bộ tế bào nên khi một cấu tử nào đó bị hủy hoại đến một mức độ nhất định thì hoạt động sinh lý của tế bào bị rối loạn và cuối cùng làm cho cá thể bị chết. - Ngăn cản sự tổng hợp các cấu tử của tế bào: Tác động này thực sự thông qua sự ức chế hoạt động của các men điều khiển quá trình tổng hợp hoặc ngăn cản ngay sự tổng hợp men. 14 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  21. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 - Tác động đến hệ sản sinh năng lượng của tế bào hoặc làm cho năng lượng dự trữ bị phóng thích bừa bãi. Chất độc có thể gây chết cho tếï bào vi sinh vật (fungicide - chất diệt nấm, batericide - chất diệt vi khuẩn), nhưng cũng khi chỉ làm ngưng trệ sự sinh trưởng và sinh sản của tế bào, những chất này gọi là chất nấm tĩnh hóa (fungistate - chất đình chỉ hoạt động của nấm), vi khuẩn tĩnh hóa (bacteriostate - chất đình chỉ hoạt động của vi khuẩn), dục tĩnh hóa (genostat, chất ngăn cản sự tạo thành bào tử). Tuy nhiên người vẫn gọi chung những chất này là thuốc trừ nấm. c. Tác động của chất độc đến cỏ dại Nhiều loại thuốc trừ cỏ gây ra cho cỏ dại những triệu chứng rất điển hình. Những triệu chứng thường thấy là: lá cỏ bị trắng ra từng mảng hoặc có những đốm bị cháy; lá có thể bị xoắn, héo vàng toàn bộ rồi lụi, rụng đi. Những thuốc trừ cỏ phenoxy làm cho ngọn bị xoăn, lá mọc dị dạng, thân cong và có nhiều rễ trên thân Các chất độc có những tác động rất khác nhau đến hoạt động sống của cỏ dại: gây rối loạn sinh trưởng, ngăn cản sự phân chia tế bào, phá hủy diệp lục, ức chế hoạt động quang hợp, thúc đẩy hoạt động hô hấp, làm mất cân đối trong hoạt động trao đổi chất của cỏ dại, ngăn trở sự vận chuyển điện tử, ngăn trở sự tổng hợp các acid amin, các chất lipid Cuối cùng làm cho cỏ dại thiếu năng lượng, cây dại bị chết. 1.4 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH ĐỘC CỦA CHẤT ĐỘC Để gây được một tác động nào đó đến cơ thể sinh vật, chất độc phải xâm nhập được vào cơ thể, lưu lại đó trong một khoảng thời gian nhất định và được cơ thể đồng hóa, từ đó tác động lên các cơ quan, hủy hoại các chức năng của thể sống. Tính độc của chất độc phụ thuộc vào các nhân tố sau: tính chất của chất độc, đặc điểm của sinh vật bị chất độc tác động và những yếu tố môi trường khi áp dụng chất độc. 1.4.1 Sự liên quan giữa tính chất của chất độc và tính độc của chất độc Các đặc tính sau đây của phân tử chất độc có liên quan chặt chẻ đến chất độc: - Sự hiện diện của gốc sinh học độc trong phân tử chất độc. Gốc sinh học là một nguyên tử hay một nhóm nguyên tử tạo nên tính độc của chất độc, chúng thường gây ra những triệu chứng ngộ độc đặc trưng khi tác dụng lên dịch hại. Ứng với từng gốc sinh độc thường có một dãy các hợp chất có khã năng gây độc, từ những hợp chất này người ta chọn ra một số hợp chất để dùng trong BVTV. Ví dụ như các hợp chất thủy ngân có tính độc nhờ sự có mặt nguyên tố thủy ngân trong phân tử, một vài hợp chất thủy ngân đã được chọn làm thuốc trừ sâu, bệnh (falizan ). - Hoạt tính hóa học của chất độc càng cao thì tính độc của nó càng cao. Anhydricasenno (As2O3) do có hoạt tính cao hơn nên có tính độc cao hơn Anhydric asenic (As2O5). Với các chất hữu cơ, thường các hợp chất không no có hoạt tính cao hơn do có tính độc cao hơn so với những hợp chất no. - Thành phần hóa học của phân tử chất độc: Sự thêm, bớt hoặc thay thế một nhóm nguyên tử nào đó trong phân tử, dù nhóm đó có một gốc sinh độc hay không đều dẫn đến sự thay đổi ít nhiều tính độc của hợp chất. Khi thay thế gốc ethyl trong phân tử thuốc trừ sâu parathion bằng các gốc methyl sẽ thu được thuốc trừ sâu mới là methyl parathion (wofafox); khi đính thêm một gốc mêthyl vào vòng phenyl của phân tử methylparathion lại thu được một loại thuốc trừ sâu khác là sumithion. Tính độc của 3 loại thuốc trên khác nhau rõ rệt: LD50 đối với chuột của parathion chỉ có 6-8 mg/kg, của methyparathion tăng lên đến 25-50mg/kg và của sumithion lại còn tăng lên nhiều nữa: 242-433mg/kg. 15 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  22. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 O S C2H5O CH 3O P ONO2 PO NO2 C2H5O CH 3O Parathion Metyl parathion LD50: 6-8 mg/ kg LD50: 25-500 mg/ kg S CH 3O PO NO2 CH 3O CH 3 Su m i t h i o n LD : 242-433 mg/ kg 50 - Cấu trúc phân tử: Cách sắp xếp các nguyên tử trong phân tử đôi khi có ảnh hưởng rất lớn đến tính độc của hợp chất đó. Các đồng phân không gian thường có tính độc rất khác nhau. Trong số các đồng phân của BHC chỉ có đồng phân gama là có độ độc cao nhất, các đồng phân kia rất ít độc đối với côn trùng. - Tính phân cực của chất độc: Các chất phân cực không có sự phân bố diện tích đồng đều trong phân tử và có xu hướng dễ tan trong các dung môi phân cực, các chất này thường xâm nhập vào tế bào bằng cách chui qua những lỗ nhỏ trên màng nguyên sinh, do đó khi thể tích phân tử càng tăng thì tốc độ xâm nhập của chúng càng giảm. Còn chất không phân cực thường có xu hướng dễ tan trong các dung môi không phân cực, do đó chúng thường thẩm thấu qua các lớp lipoit để xâm nhập vào tế bào. Thể tích phân tử chất không phân cực càng lớn thì tốc độ xâm nhập vào tế bào càng lớn nếu như sự tăng kích thước phân tử dẫn đến sự giảm độ phân cực. Trong các hợp chất hữu cơ thì các nhóm gây phân cực phổ biến nhất là hydroxyl, cacbonyl và các nhóm amin. Ngược lại, các nhóm metyl, etyl, phenyl ít gây phân cực phân tử. - Mức độ điện cũng ảnh hưởng đến tốc độ xâm nhập của chất độc vào tế bào. Các chất phân cực mạnh có thể phân ly ra thành các ion. Các ion tự do, ngay cả trong trường kích thước của chúng nhỏ hơn kích thước lỗ trên màng nguyên sinh, cũng có khi xâm nhập rất kém hay thậm chí không xâm nhập được vào tế bào. Điều này được giải thích là do sự tích điện bề mặt của màng nguyên sinh chất và lực hút tĩnh điện giữa màng tích điện này với các ion tự do. Cũng có khi các ion bám trên màng nguyên sinh chất phá hủy màng này để xâm nhập vào tế bào. - Kích thước các hạt thuốc rắn cũng ảnh hưởng đến sự xâm nhập của thuốc vào cơ thể côn trùng, hạt thuốc có kích thước quá lớn sẽ khó vào miệng côn trùng. Mặt khác, kích thước hạt thuốc càng nhỏ thì tổng diện tích bề mặt của nó càng lớn và do đó chúng được hòa tan và hấp thu vào cơ thể dịch hại càng dễ dàng. 1.4.2 Sự liên quan giữa đặc điểm của sinh vật với tính độc của chất độc a. Tính mẫn cảm và tính chống chịu của sinh vật đối với chất độc Sau khi áp dụng thuốc trừ dịch hại, thông thường phần lớn các cá thể dịch hại bị tiêu diệt, chỉ có một số ít còn sống sót vì những lý do sau: 16 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  23. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 - Do các cá thể này không tiếp xúc với thuốc hoặc thuốc chỉ xâm nhập vào cơ thể chúng ở liều lượng dưới liều gây chết. - Do chúng đã trở thành chống chịu đối với thuốc. Trong các lý do trên, lý do thứ ba là quan trọng nhất. Chúng ta thường chỉ quan tâm đến số dịch hại bị tiêu diệt (tỷ lệ sâu, cỏ dại, chuột bị diệt là bao nhiêu? Chỉ số bệnh, tỷ lệ bệnh giảm bao nhiêu?). Tất nhiên sự quan sát này là cần thiết là mối quan tâm trên là đúng đắn. Tuy nhiên có một số điều quan trọng khác đáng được quam tâm là các cá thể còn sống sót sau khi áp dụng thuốc, số cá thể này có thể sẽ phát triển thành những trận dịch, tai hoạ thật sự đối với sản xuất. Khi áp dụng một loai thuốc trừ dịch hại, các cá thể côn trùng hay các tác nhân gây hại khác mẫn cảm với loại thuốc đó sẽ bị tiêu diệt. Có thể một số cá thể sẽ không bị tiêu diệt nhờ có khả năng chống chịu được với thuốc ở liều lượng, nồng độ áp dụng. Nói chung, tính chống chịu thuốc của dịch hại phụ thuộc vào thành phần loài, tuổi, tình trạng sinh lý, cấu tạo hình thái, thành phần men trong tế bào tuỳ thuộc vào bản chất của thuốc và điều kiện áp dụng thuốc. Do côn trùng và nhện là những dịch hại có khả năng kháng thuốc mạnh nhất, nên dưới đây, chủ yếu chúng ta đề cập đến tính mẫn cảm và tính chống thuốc của các loài này. * Tính mẫn cảm thuốc của dịch hại: - Tính mẫn cảm thuốc của dịch hại thay đổi theo từng loại thuốc. Một loài dịch hại có thể mẫn cảm với loại thuốc này nhưng lại chống chịu được với loại thuốc khác. BHC có hiệu lực cao trên nhiều loại sâu ăn lá nhưng lại kém tác dụng đối với bọ rầy, trong khi đó các thuốc carbamat như: Mipcin, Bassa lại có hiệu lực cao đối với các loài bọ rầy. - Tính mẫn cảm thay đổi theo quá trình phát triển của cơ thể. Thông thường thì với cùng một loại thuốc, ở giai đoạn trứng và nhộng, côn trùng có sức chống chịu cao hơn so với các giai đoạn khác (ấu trùng, thành trùng). Đối với ấu trùng thì tính chống chịu của chúng thường tăng theo tuổi, trước khi lột xác côn trùng chống chịu khoẻ hơn là sau khi lột xác. Côn trùng ở thời kỳ đình dục qua đông có khả năng chống chịu rất cao đối với thuốc. Giữa con đực và con cái cũng có sự sai khác về tính chống chịu, nói chung con đực thường mẫn cảm với thuốc hơn con cái. - Tính mẫn cảm phụ thuộc vào tình trạng sinh lý và hoạt tính sinh lý của sinh vật. Khi hoạt tính sinh lý của côn trùng tăng lên thì khả năng đồng hóa chất độc cuả nó cũng tăng lên, làm cho chất độc được hấp thu và chuyển hóa càng nhiều. Người ta còn phân biệt các cá thể chống chịu thuốc ra thành những cá thể có khả năng chịu đựng được thuốc và những cá thể có tính kháng thuốc. * Thuật ngữ chịu đựng được dùng để chỉ những cá thể dịch hại có khả năng chịu đựng được một lượng chất độc cao hơn so với liều lượng thường dùng chỉ trong vòng đời của cá thể đó. Tính chịu đựng thuốc của dịch hại thường thay đổi theo từng cá thể, tình trạng sinh lý của cơ thể. * Thuật ngữ kháng thuốc (còn gọi là tính quen thuốc hay tính miễn dịch) dùng để chỉ những cá thể dịch hại có khả năng chịu đựng được chất độc ở liều lượng, nồng độ bình thường hoặc cao hơn và đặc tính này có thể di truyền lại cho thế hệ sau. Hiện tượng dịch hại kháng thuốc là một quá trình chọn lọc tự nhiên trên cơ sở biến dị và di truyền. Trên thực tế, đây là một trong những ví dụ điển hình về sự tiến hóa theo học thuyết Darwin, nhưng chỉ khác là diễn ra với một nhịp độ hết sức nhanh chóng. Sự biến dị thường 17 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  24. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 xuyên xảy ra trong quần thể dịch hại- ngay cả khi không bị thuốc độc tác động, và đặc tính kháng thuốc cũng chỉ xuất hiện một cách ngẩu nhiên. Các cá thể có được đặc tính này sẽ không bị diệt bởi thuốc độc sau khi áp dụng thuốc và do đó chúng sử dụng luôn phần thức ăn của những cá thể không có đặc tính kháng thuốc đã bị tiêu diệt, điều này làm cho mật số các cá thể kháng thuốc tăng lên rất nhanh. Mật số dịch hại tăng theo cấp số nhân, nên lúc đầu mật số thường tăng chậm nhưng sau đó tăng nhanh một cách đột ngột, gây ra những trận dịch có sức tàn phá rất lớn. Hiện nay hiện tượng dịch hại kháng thuốc khá phổ biến và đáng lo ngại, nhất là đối với sâu hại và nhện. Ở nước ta, sâu tơ hại bắp cải Plutella xylostella ở nhiều vùng trồng rau đã kháng rất mạnh thuốc như DDT, Wofatox, Dipterex Ngoài ra khả năng kháng thuốc của rệp Myzus persicae hại rau họ chữ thập ở Hà Nội, của rầy nâu Nilaparvata lugens hại lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long cũng khá quan trọng. Người ta phân biệt hai kiểu kháng thuốc của dịch hại: kháng chuyên biệt và kháng chéo. + Kháng chuyên biệt (hay tính chống chịu chuyên biệt, specific resistance): Dịch hại chỉ kháng thuốc thường xuyên được áp dụng để phòng trừ nó tại một vùng nhất định. + Kháng chéo (tính chống chịu bắt chéo, cross resistance): Là hiện tượng khi một loài dịch hại đã hình thành tính kháng đối với một loaüi thuốc này thì đồng thời nó có khả năng kháng được những loại thuốc khác mà nó chưa hề tiếp xúc. Những loại thuốc mà một loài dịch hại kháng được sẽ hợp thành phổ chống chịu (resistance spectra) (hay phổ kháng chéo - cross resistance spectra) của loài dịch hại đó. Những thuốc này có thể có những đặc điểm như thành phần, cấu trúc và tác động tương tự với thuốc, thậm chí đôi khi khác hẳn vối thuốc mà dịch hại đã quen. + Trường hợp ngược lại, tức là khi dịch hại đã quen với một loại thuốc nào đó thì lại trở nên rất mẫn cảm với một loại thuốc khác, được gọi là hiện tượng chống chịu bắt chéo âm. Ví dụ như bọ rầy xanh đuôi đen N. cinticeps và bọ rầy nâu Laodelphax striatellus khi đã quen với Malathion thì trở nên rất mẫn cảm với DDT và Lindane. Khả năng chống chịu thuốc của côn trùng thường do các nguyên nhân sau: - Nhờ các phản ứng tự vệ của côn trùng: nôn mữa, tiêu chảy, đóng lổ thở - Nhờ các đặc trưng cấu tạo hình thái giải phẩu của sinh vật, (cấu tạo biểu bì, lông bên ngoài biểu bì ). - Nhờ các phản ứng hóa học, phản ứng sinh hóa phân giải chất độc xảy ra ở dạ dày, huyết dịch, trong tế bào. b. Cơ chế hình thành tính chống chịu thuốc của côn trùng Các loại côn trùng có thể chống chịu được với thuốc có thể do: + Thay đổi về cấu tạo hình thái của cơ thể. Nhiều tác giả đã chứng minh rằng các loài ruồi nhà kháng DDT có đốt bàn chân dày hơn, khá thấm thuốc hơn so với ruồi mẫn cảm với thuốc này. Otto D. (1976) cũng đã nêu lên những thay đổi về cấu tạo của lipoit, sáp và protein trong cutin, hoặc sự gia tăng kết cứng biểu bì của côn trùng đã làm giảm khả năng xâm nhập của thuốc trừ sâu vào cơ thể côn trùng. 18 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  25. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 + Tính chống thuốc của côn trùng có trường hợp do kết quả của sự hình thành những tập tính đặc biệt, có tác dụng ngăn chặn hoặc hạn chế sự tiếp xúc của côn trùng với thuốc trừ sâu. Những côn trùng thường gây hại vào ban đêm và trú ẩn ban ngày như sâu xám, nếu áp dụng thuốc vào ban ngày thì nó ít có khả năng bị nhiễm độc thuốc. + Sự giảm sút nhạy cảm của những vị trí tác động của thuốc. Nhiều tác giả cho rằng những quần thể sâu chống thuốc đã tạo thành một lớp lipit có tác dụng ngăn cản sự xâm nhập nhanh chóng của chất độc vào cấu trúc tinh tế của hệ thần kinh, và dần dần làm cho thuốc mất tác dụng. Có nhiều loài côn trùng và nhện chống được các thuốc trừ sâu lân hữu cơ và carbamat do men nhạy cảm cholinesteraza trở nên “trơ” (kém mẫn cảm) đối với các thuốc này. + Cơ chế chống thuốc quan trọng nhất, phổ biến nhất là tính chống chịu sinh lý. Côn trùng tăng cường sự giải độc thuốc hoặc làm giảm hoạt tính của thuốc bằng các quá trình chuyển hóa. Trong cơ thể côn trùng chống thuốc DDT, men DDT- aza có khả năng khử Hydrocarbon của DDT dưới sự hiện diện của men DDT- aza làm cho hợp chất này bị thoái biến. Trong cơ thể côn trùng chống các thuốc Cyclodien, thuốc bị cô lập bởi các thể protein Trong số các cơ chế trên, hai cơ chế sau quyết định khả năng kháng thuốc của côn trùng. Sự hình thành tính kháng thuốc của dịch hại thể hiện khả năng thích nghi để tồn tại của sinh giới trên cơ sở biến dị và di truyền theo qui luật tiến hóa của sinh vật, vì vậy ta chỉ có thể làm giảm tốc độ chớ không thể ngăn chặn sự hình thành kháng thuốc của dịch hại. Trên cơ sở lý luận và cả trong thực tiển đã cho thấy rằng nếu chỉ dựa vào biện pháp hóa học để phòng khắc phục tính kháng thuốc thì sớm muộn gì cũng thất bại. Trên thực tế, đã có nhiều người tăng liều lượng, tăng nồng độ thuốc, tăng nhịp độ phun thuốc đều không làm giảm bớt tốc độ quen thuốc của địch hại, thậm chí dịch hại còn hình thành tính kháng thuốc nhanh hơn. Cách tốt nhất có thể kiềm hãm tốc độ quen thuốc của dịch hại là xây dựng hệ thống các biện pháp phòng trừ tổng hợp. Trong đó cần chú trọng một số biện pháp sau: - Xây dựng một chế độ luân canh cây trồng hợp lý. Tuy nhiên các cây trồng luân canh phải không nằm trong phổ ký chủ của loài địch hại đã từng gây hại trước đây. - Thực hiện kiểm tra chặt chẽ và xử lý kịp thời nguốn sâu đầu vụ, tập trung các vườn ươm cây con thành một khu để kịp thời phát hiện ổ sâu mới nở và phun thuốc trừ. - Thực hiện các biện pháp khác ngoài biện pháp hóa học để làm giảm mật số sâu trên đồng ruộng như xen canh với những cây trồng có tác dụng xua đuổi sâu (như cỏ mực, cà chua xen với bắp cải ). - Khi cần thiết phải phun thuốc, phải tuân thủ nguyên tắc “4 đúng”: dùng đúng thuốc, dùng đúng lúc, đúng liều lượng (hay nồng độ) và đúng cách. 1.4.3 Ảnh hưởng của một số ngoại cảnh đến tính độc của chất độc Các yếu tố ngoại cảnh gồm ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ một mặt có thể ảnh hưởng đến lý, hóa tính của chất độc, mặt khác cũng ảnh hưởng đến trạng thái sinh lý và hoạt tính sinh lý của dịch hại. a. Các yếu tố ngoại cảnh đối với dịch hại Tính thấm của màng nguyên sinh chất có thể thay đổi rõ rệt theo điều kiện ngoại cảnh (pH môi trường, ánh sáng, nhiệt độ ). dưới tác động của tia tử ngoại, của nhiệt độ, tính thấm của tế 19 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  26. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 bào tăng lên rõ rệt. Khi nhiệt độ tăng đến điểm tối thích, hoạt động sống (hô hấp, trao đổi chất ) của côn trùng và các loài dịch hại tăng lên mạnh mẽ, kèm theo đó là sự tăng tốc độ hấp thu các chất, đưa đến kết quả là tăng khả năng ngộ độc của dịch hại. Tuy nhiên trong một số trường hợp, sự tăng nhiệt độ môi trường đã làm tăng tính chống chịu của dịch hại. Sự tăng nhiệt ở trong một giới hạn nhất định đã làm tăng hoạt tính phân giải của men DDT- aza,làm cho khả năng phân giải DDT của các loài ruồi nhà có chứa men này tăng lên. Ẩm độ trong đất và trong không khí cũng ảnh hưởng đến quá trình sinh lý của dịch hại, từ đó ảnh hưởng đến mức độ mẫn cảm thuốc của chúng. b. Các yếu tố ngoại cảnh đối với thuốc trừ dịch hại - Nhiệt độ đôi khi cũng ảnh hưởng rất lớn đến tính độc của thuốc trừ dịch hại; nhất là đối với các loại thuốc có tính xông hơi, khi nhiệt độ tăng, các thuốc này bay hơi càng mạnh, làm tăng nồng độ tác động và do đó tăng khả năng trừ dịch hại. - Ẩm độ không khí và ẩm độ đất thường có ảnh hưởng nhiều đến sự hòa tan và thủy phân của chất độc. Ẩm độ không khí giúp cho bordeaux hòa tan thành dạng có thể gây tác động lên nấm bệnh. Các thuốc trừ cỏ thường chỉ phát huy tác dụng khi đất đủ ẩm. - Lượng mưa vừa phải làm tăng độ ẩm đất, do đó làm tăng tính hòa tan của thuốc trong đất. Sau khi mưa, nếu phun thuốc bột thì thuốc sẽ bám dính trên lá tốt hơn. Tuy nhiên, lượng mưa quá lớn thường làm cho thuốc phun trên lá bị rửa trôi, thuốc phun trên đất bị cuốn đi theo nước hoặc lắng xuống những lớp đất sâu, vừa không có tác dụng trừ dịch hại, vừa gây ô nhiễm môi trường. Do các keo đất có khả năng hấp phụ các chất, trong đó có cả các chất độc dùng làm thuốc trừ dịch hại, nên ở những nơi đất có nhiều sét, nhiều chất hữu cơ thì khả năng hấp phụ chất độc càng cao. Nhiều khi để thuốc diệt dịch hại tốt, cần phải tăng liều lượng lên cao hơn so với khi dùng trên những đất nghèo chất hữu cơ, thành phần cơ giới nhẹ. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những thuốc trừ cỏ có tác động chọn lọc kém, cho nên cần chú ý để khi sử dụng vừa đạt hiệu quả cao vừa không ảnh hưởng đến cây trồng. Một trong những tác nhân quan trọng phân hủy thuốc trong đất là các vi sinh vật sống trong đất, nếu điều kiện đất đai càng thuận lợi cho sự phát triển của những vi sinh vật này thì chất độc bị phân giải càng nhanh chóng.pH trên cây trồng và trong đất cũng ảnh hưởng rất lớn đến tính độc của thuốc, ổ những nơi có pH đất cao, khi sử dụng những thuốc kỵ kiềm như Kitazin 10H, chắc chắn hiệu quả của nó sẽ bị giảm. Mặt khác pH đất cũng ảnh hưởng khả năng phân giải thuốc. 1.5 THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC QUẦN THỂ SINH VẬT Hệ sinh thái là một phức hệ bao gồm các yếu tố như đất đai, khí hậu, thủy văn, động vật, thực vật, vi sinh vật Hệ sinh thái tự nhiên rẩt đa dạng, phức tạp và có tính cân bằng động nên khá ổn định. Sự khai khẩn, trồng trọt của con người đã biến hệ sinh thái tự nhiên này thành hệ sinh thái nông nghiệp đơn giản, dễ biến động. Các biện pháp thâm canh, canh tác đặc biệt là việc dùng các hóa chất độc để phòng trừ dịch hại càng phát triển thì sự mất cân bằng của hệ sinh thái càng trở nên nghiêm trọng. Sự phát sinh thành dịch của các loài gây hại là một bằng chứng hiển nhiên của sự mất cân bằng này. Khi phân tích việc phun thuốc, người ta ước tính chỉ có khoảng 10-20% lượng thuốc ở dạng bột và 20-25% lượng thuốc ở dạng lỏng bám trên cây; còn lượng thuốc thực sự xâm nhập, tác động đến sâu hại chỉ chiếm khoảng 1%. Ngoài ra khi lá rụng, lượng thuốc bám trên lá chưa phân hủy hết sẽ tích tụ lại trong đất. Phần thuốc dư tồn này sẽ tác động lên những sinh vật không thuộc đối tượng phòng trừ. Khi áp dụng thuốc BVTV, các tác động xảy ra đáng kể nhất là: 20 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  27. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 1.5.1 Thuốc BVTV với quần thể dịch hại Sau khi áp dụng thuốc, phần lớn các cá thể loài gây hại bị tiêu diệt, tuy nhiên một số cá thể có tính kháng thuốc sẽ không bị chết, số này sẽ tăng lên theo cấp số nhân và nhanh chóng trở thành một quần thể dịch hại kháng thuốc. Dưới tác động của thuốc, một số loài gây hại thứ yếu cũng bị tiêu diệt. Tuy mhiên có khi một số loài gây hại thứ yếu có khả năng kháng thuốc mạnh sẽ phát triển thành loài gây hại chủ yếu rất khó phòng trị. Khoảng năm 1950, loài gây hại chủ yếu trên bắp cải được ghi nhận là sâu xanh, nhưng sau một thời gian dùng thuốc hóa học liên tục, sâu tơ trở thành loài gây hại chủ yếu với tính kháng thuốc rất mạnh. Phòng trị sâu tơ là một vấn đềì nan giải hiện nay. 1.5.2 Thuốc bảo vệ thực vật với những sinh vật có ích Thuốc bảo vệ thực vật một mặt tiêu diệt hàng loạt các cá thể gây hại, làm cho các loài thiên địch thiếu thức ăn, mặt khác chính các loài thiên địch này cũng bị thuốc tiêu diệt. Các loài sinh vật có ích khác cũng bị ảnh hưởngđôi khi rất nghiêm trọng. Đó là ong, bướm vô hại giúp cho cây thụ phấn, giun đất và các loài côn trùng sống trong đất chuyên ăn tàn tích thực vật, làm cho đất tơi xốp và cung cấp thức ăn cho các loài vi sinh vật tiếp tục phân giải thành những chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng, duy trì độ màu mỡ của đất. Các thuốc trừ dịch hại, nhất là các thuốc trừ nấm, có thể tiêu diệt những vi sinh vật có ích khác như những vi khuẩn nitrat hóa, vi khuẩn nitrit hóa, cố định đạm trong đất. Ngoài ra thuốc BVTV còn ảnh hưởng đến gia súc và các động vật có xương sống ở vùng có áp dụng thuốc. 1.5.3 Thuốc bảo vệ thực vật đối với cây trồng a. Tác động có lợi của thuốc bảo vệ thực vật đối với cây trồng Các thuốc bảo vệ thực vật tiêu diệt các loài ký sinh hoặc cạnh tranh điều kiện sống với cây trồng (như sâu, nấm bệnh, cỏ dại), giúp cho cây trồng phát triển tốt, cho năng suất cao. Nếu không trừ cỏ thì cây lúa chỉ hấp thu một lượng N bằng 52-70% so với trừ cỏ, do đó năng suất có thể bị giảm 18-43% (Arai Masao A., 1996). Một số thuốc bảo vệ thực vật còn có khả năng kích thích quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng: Nâng cao tỷ lệ giống nảy mầm, cải thiện sự phát triển của bộ rễ, tăng chiều cao cây, số hạt trên bông, trọng lượng hạt, tỷ lệ hạt chắc, hoặc làm cho cây trồng vững vàng, cứng cáp hơn. Thuốc trừ nấm kitazin P dạng hạt khi bón vào ruộng để trừ bệnh đạo ôn hại lúa đã làm cho thân lúa mập hơn, hạn chế chiếu cao cây nên chống được lốp đổ. b. Tác hại của thuốc BVTV đến cây trồng Nếu sử dụng không đúng thuốc, không đúng liều lượng, phương pháp thuốc có thể gây hại cho cây trồng. Triệu chứng và mức độ bị hại khá đa dạng. Chất độc có thể gây hại trực tiếp ngay tại nơi thuốc tiếp xúc với cây trồng, triệu chứng bị hại thường rất đặc trưng và có thể biểu hiện ngay sau đó hoặc sau một thời gian dài. Các thuốc trừ nấm thủy ngân hữu cơ, thuốc gốc đồng nếu dùng ở nồng độ quá cao, một ngày sau khi dùng thuốc lá và những chồi non có thể bị héo và đen; thời tiết càng nóng, tác hại càng lớn. Thuốc trừ cỏ 2,4-D có thể làm cho thân cà chua bị cong queo, lá mọc dị hình Một số thuốc không gây hại cho cây trồng nhưng lại ảnh hưởng đến phẩm chất nông sản. BHC kỷ nghệ có thể làm cho củ khoai tây, chè, thuốc lá có mùi hôi rất khó chịu. 21 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  28. Giáo Trình Hoá Bảo Vệ Thực Vật Chương 1 Nói chung, tác hại của thuốc BVTV phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Bản chất của thuốc, loại cây trồng, điều kiện ngoại cảnh. Độ an toàn của thuốc BVTV đối với cây trồng có thể biểu thị bằng chỉ số hóa trị liệu: c K= t K: Chỉ số hóa trị liệu c: Liều gây chết tối thiểu của thuốc đối với dịch hại t: Liều tối đa của thuốc mà cây chịu đựng được (toxic tolerant) Trị số K càng nhỏ, thuốc càng an toàn đối với cây trồng, thường những thuốc có trị số k ≥ 1 chỉ được dùng để làm bả độc hoặc xử lý trên những khu đất không có cây trồng phát triển. Có thể thuốc chỉ gây hại cho một số cây trồng. DDT, BHC tỏ ra an toàn đối với nhiều loại cây trồng, nhưng cây thuộc họ bầu bí lại rất mẫn cảm với các loại thuốc này. Thuốc trừ cỏ DCPA có thể gây hại cho nhiều loại cây trồng, nhưng được dùng để trừ cỏ cho lúa do lúa có khả năng chịu đựng thuốc này rất tốt. Điều kiện môi trường đôi khi cũng hổ trợ cho điều kiện gây hại cây trồng của thuốc. Thuốc trừ nấm lưu huỳnh bột khi sử dụng trong điều kiện nhiệt độ môi trường cao có thể gây cháy lá. Những thuốc BVTV có độ bền vững lớn, có thể tích tụ lại trong đất và gây hại cho cây trồng ở các vụ sau. Trên đất cát pha ven sông Đáy ở Hà Nội, khi dùng Simazin và Triazin phun cho ngô với lượng 4-5kg/ha đã có tác dụng trừ cỏ cao. Tuy nhiên sau khi thu hoạch ngô, làm đất để gieo tiếp đậu hoặc lúa mì các cây trồng này sẽ bị gây hại nặng (phát triển kém, chết cây con, năng suất thấp). Bên cạnh những yêu cầu thường được đặt ra đối với thuốc BVTV như khả năng diệt dịch hại cao, an toàn đối với con người, các sinh vật có ích, thiên địch, cây trồng cũng cần có những lưu ý thích đáng đến tác động của thuốc lên cân bằng sinh thái, sự tồn dư và gây ô nhiễm môi trường của thuốc. Hiện nay người ta chú ý sử dụng những thuốc có tác dụng diệt dịch hại cao nhưng độ bền vừa phải (để có thể phân hủy trong một thời gian ngắn sau khi tiêu diệt dịch hại); những thuốc có tính chọn lọc cao, những thuốc có khả năng lưu dẫn. oOo Câu hỏi ôn tập Câu 1: Phân loại thuốc trừ dịch hại theo phương pháp thẩm thấu và đặc tính tác dụng? Câu 2: Hiểu thế nào về sự xâm nhập của chất độc vào cơ thể côn trùng? 22 PGs. Ts. Trần Văn Hai
  29. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 CHƯƠNG 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG và THỬ NGHIỆM THUỐC TRỪ DỊCH HẠI 2.1 CÁC DẠNG CHẾ PHẨM DÙNG TRONG BẢO VỆ THỰC VẬT Các chế phẩm dùng trong BVTV chứa hai thành phần chủ yếu là hoạt chất và chất phụ gia. Thành phần chủ yếu của thuốc là hoạt chất (chất hoạt động - active ingredient, a.i.), đó là thành phần mang hoạt tính trừ dịch hại. Trong sản xuất công nghiệp, các hoạt chất thường có lẫn một ít tạp chất, được gọi là thuốc kỹ thuật hay thuốc ở đạng kỹ nghệ. Người ta ít khi sử dụng hoạt chất ở dạng nguyên chất mà thường là gia công để tạo thành các chế phẩm khác nhau bắng cách trộn thêm vào các chất phụ gia như chất độn, chất nhũ hóa Các chất phụ gia sẽ giúp cho việc pha chế, chuyên chở, bảo quản và sử dụng được thuận tiện hơn, hữu hiệu hơn. Các chế phẩm dùng trong BVTV có thể chia thành hai nhóm sau. 2.1.1 Những chế phẩm cần hòa loãng trước khi sử dụng Những chế phẩm này thường được hòa với một lượng dung môi nhất định cho đến khi đạt được nồng độ sử dụng đã được qui định cho từng loại chế phẩm. Dung môi thường dùng là nước. Trong một số trường hợp có thể sử dụng những dung môi khác, như thuốc trừ cỏ PCP (pentaclophenol) được hòa chung với dầu diezen để phun trừ cỏ. Nhóm này gồm có các dạng sau: a. Bột thấm nước (BTN, BHN - bột hòa nước WP - water wettable powder, DP - water dispersible power): các chế phẩm này thường chứa 25-80% hoạt chất, khi hòa vào nước sẽ tạo thành một huyền phù tương đối bền vững. Yêu cầu: kích thước các hạt phai đồng đều và đường kính nhỏ hơn 3µ; khi hòa thuốc vào nước, dạng huyền phải nhanh chóng được tạo thành nhưng chậm lắng đọng; tính thấm ướt, tính trải rộng và tính loang tốt, sau khi nước đã bay hơi, thuốc phải còn bám lại trên bề mặt xử lý trong một thời gian dài. Một số dạng thuốc khác khi hòa vào nước cũng tạo thành huyền phù: • Bột keo (colloidal powder): Giống như thuốc BHN nhưng kích thước các phần tử rất nhỏ nên rất lâu lắng, bám dính tốt mà không cần thêm chất bám dính hay chất ổn định. Các thuốc gốc đồng và các thuốc gốc lưu huỳnh nguyên tố thường có đặc tính này. • Huyền phù (HP, Suspension): Chế phẩm ở dạng huyền phù đậm đặc, pha loãng đẻ dùng như thuốc BHN (như Oxychlorur đồng 20 HP). • Thuốc nhão (Paste): Chế phẩm ở dạng nhảo như kem, có hàm lượng và cách dùng như thuốc BHN. Thuốc được pha thành dạng huyền phù đậm đặc để quét lên vết thương của cây hoặc dùng để xử lý giống, cũng có khi pha loãng với nước để sử dụng như BHN (thuốc Bordeaux thấy có bán dưới dạng này). b. Nhũ dầu (ND: thuốc sữa, thuốc sữa đậm đặc; EC: Emulsive concentrate): dạng chế phẩm nay thường chứa 30-50% hoạt chất, khi hòa vào nước sẽ tạo ra nhủ tương khá ổn định. Chế phẩm thường được thêm vào các chất hoạt động bề mặt không ion hóa hoặc anion để làm chất nhủ hóa. c. Thuốc lỏng tan trong nước (SS: soluble, DD: dung dịch hay L- Liquid, SC: suspension concentrate, FL: flowable Liquid): Khi hòa vào nước, thuốc sẽ tan hoàn toàn trong dung dịch. 23 PGs.Ts. Trần Văn Hai
  30. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 d. Bột tan: (SP: soluble powder): Khi hòa tan vào nước sẽ tạo thành dung dịch. 2.2.2 Những chế phẩm không hòa loãng trước khi áp dụng Gồm những thuốc có thể áp dụng trực tiếp lên cây trồng hoặc những đối tượng cần xử lý khác mà không phải hòa vào dung môi nào cả. Nhóm này gồm những dạng sau: a. Bột phun (Bột rắc - BR, D - Dust): Kích thước hạt thường nhỏ hơn 44µ. Chế phẩm thường chứa 4 - 10% hoạt chất, được dùng để phun ở dạng khô như bụi. Yêu cầu: tỷ trọng và kích thước hạt phải được chế tạo sao cho vừa đủ nhẹ khi phun, gió có thể mang thuốc đi một lượng đáng kể nhưng chỉ trong phạm vi phòng trị, lượng thuốc lắng ở điểm cách máy phun 5m và điểm cách máy phun 20m phải tương đương nhau. So với các thuốc phun lỏng như BTN, các thuốc phun bột dễ sử dụng hơn, nhất là ở những nơi thiếu nước pha thuốc, dễ áp dụng trên những diện tích lớn; tuy nhiên lượng thuốc bột bị hao phí trên một đơn vị diện tích nhiều hơn do thuốc dễ bị gió cuốn đi và do độ bám dính kém nên dễ rơi xuống đất. Để tăng cường tính bám dính, người ta thường gắn hoạt chất lên những ‘’chất mang’’. b. Thuốc hạt (H,G = granule): Hạt to đường kính thay đổi trong khoảng 297-1680µ. Thuốc được dùng để rải bằng tay hoặc bằng máy lên ruộng, sau đó trộn đều với đất bằng các công cụ. Lượng thuốc dùng trên một đơn vị diện tích thường phải lớn hơn so với những phương pháp khác. Loại thuốc này thích hợp cho những trường hợp cần thuốc có tác dụng lâu dài. Ngoài ra còn có các dạng trung gian giữa thuốc bột và thuốc hạt như thuốc bột hạt (dust - granule) hay còn gọi là vi hạt (microgranule) với đường kính hạt thuốc nằm trong khoảng 44 - 297µ gồm có hai dạng: thuốc bột thô (coarse dust) có cở hạt từ 44 - 105µ và thuốc hạt mịn (fine granule) có cở hạt từ 105 - 297µ. Người ta còn dùng các thuốc hỗn hợp của nhiều cở thuốc hạt kể trên. c. Thuốc phun mù (aerosol), thuốc phun thể tích cực thấp (UVL), thể tích cực - cực thấp (UULV): Những thuốc này gồm có hoạt chất được trộn với một ít dung môi hữu cơ và thường được dùng ở nguyên dạng chế phẩm chứ không hòa loãng. Các dạng thuốc này được sử dụng ở dạng lỏng bằng những máy bơm đặc biệt như máy phun mù, máy ULV. d. Thuốc xông hơi: Thuốc ở dạng lỏng rắn hay khí nén. Khi dùng, thuốc biến đổi thành dạng khí hay dạng hơi (có đôi khi ở dạng thăng hoa) hòa vào không khí và từ đó tác động lên dịch hại. 2.2.3 Chất phụ gia Là những chất được trộn với hoạt chất nhằm cải thiện tính chất lý, hóa học của thuốc, tạo điều kiện cho việc pha chế, chuyên chở, bảo quản và sử dụng được dễ dàng, tiện lợi hơn. Các chất phụ gia thường được dùng là: a. Chất độn (chất mang, chất tải - carrier): gồm những chất có tác dụng làm giảm bớt hàm lượng chất độc có trong chế phẩm, nhằm làm cho việc rãi một lượng chất độc nhỏ trên một đơn vị diện tích lớn được dễ dàng hơn. Chất độn phải mang tính trơ, không tác dụng với chất độc, không gây hại cây trồng,v.v Những chất độn như Attapulgite, kaolin, bột talc, pyrophyllite, bentonit, diatonit, thường có mặt trong các dạng thuốc bột và thuốc hạt. 24 PGs.Ts. Trần Văn Hai
  31. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 b. Chất tạo huyền phù (suspensible agent): Là những chất tạo nên sự tương hợp giữa nước và các hạt thuốc rắn, qua đó tạo điều kiện để hình thành một huyền phù bền của thuốc trong nước. Thuốc BTN thường chứa khoảng một vài phần trăm chất tạo huyền phù như bột khô dầu, bột bồ hóng, bột bồ kết. c. Chất nhủ tương hóa (emulsible agent): Là những chất tạo nên sự tương hợp giữa nước và các giọt chất độc ở thể lỏng thuộc nhủ dầu, làm bền nhủ tương tạo thành. Ví dụ như các chất nhủ tương hóa. d. Chất tẩm ướt (wetting agent), chất loang (chất trãi rộng - spreader): Có tác dụng làm ướt mặt phun và làm cho các giọt thuốc (huyền phù, nhủ tương, dung dịch) loang đều trên mặt vật phun. e. Chất khử đông tụ: làm tăng tính bền của huyền phù bằng cách ngăn cản các hạt thuốc liên kết lại với nhau thành những phần tử lớn hơn. f. Chất dính (sticker): giúp thuốc gắn chặt vào bề mặt phun, góp phần tạo nên một lớp thuốc bảo vệ bền chặt trên bề mặt vật phun. Chất dính thường dùng là những loại dầu, những glixerit khan, canxi sunphat, nhóm hydroxyt v.v. g. Chất trung hòa (chất bảo vệ cây): Có tác dụng khử những chất có hại cho cây còn lẫn trong chế phẩm. h. Chất hảo hóa: nói chung những chất này có tác dụng cải thiện các tính chất vật lý của chế phẩm. Ví dụ trong thuốc bột, nếu ta thêm vào 3 - 5% dầu khoáng (dầu xola, dầu nặng, dầu bôi trơn máy). Dầu sẽ giúp cho các hạt nhỏ kết tụ lại, không bị gió cuốn đi xa và làm tăng tính bám dính của thuốc . Trong nhiều trường hợp, một chất phụ gia có thể tác dụng nhiều mặt: nhủ hóa, tẩm ướt, ổn định, bám dính Đặc biệt là những chất hoạt động bề mặt như xà phòng, bả rượu - sunphit đậm đặc. Các chất hoạt động bề mặt có thể phân ly thành ion trong nước thành các ion, cũng có chất hoạt động bề mặt không phân ly. Trong nông nghiệp thường sử dụng những chất hoạt động bề mặt mang điện tích âm hoặc không mang điện tích. * Những chất hoạt động bề mặt thông dụng là: - Xà phòng lỏng, xà phòng rắn, xà phòng naptenic. Các loại xà phòng được dùng làm chất ổn định, chất nhũ hóa, chất dính, chất hoạt hóa. - Bả rượu - sunfit đậm đặc, là sản phẩm phụ của ngành sản xuất giấy xellulose, có thành phần hóa học là muối canxi của axit licnosunphonic hổn hợp với chất khử và chất khoáng vô cơ. Trong nông nghiệp, bả rượu sunfit đậm đặc được sản xuất dưới dạng lỏng, rắn, bột. Các sản phẩm này có hoạt tính bề mặt cao và được dùng rộng rãi làm chất ổn định. Ngoài ra còn có nhiều chế phẩm tổng hợp khác được dùng làm chất tẩm ướt, chất loãng như casein, canxi cazeinat, saponin, các axid sunfonic thơm và béo, rượu v v. 2.2 CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG THUỐC TRỪ DỊCH HẠI 2.2.1 Phun thuốc Việc phun thuốc nhằm làm cho thuốc được trãi đều trên khắp bề mặt diện tích cần được bảo vệ của cây trồng, nông sản hay đất để tiêu diệt hoặc ngăn chặn sự lây lan, phá hoại của các loài dịch hại, bảo vệ cây trồng và nông sản. Thuốc bảo vệ thực vật được phun bằng các loại đeo 25 PGs.Ts. Trần Văn Hai
  32. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 vai thông thường, máy bơm đeo vai, máy bơm gắn trên máy cày, trên máy bay. Có nhiều kiểu phun thuốc khác nhau, chúng được phân biệt tùy theo trạng thái vật lý (rắn, lỏng, khí), theo độ lớn của các phân tử thuốc (giọt thuốc, hạt thuốc) và lượng dùng trên một hecta. Phun thuốc lỏng là phương pháp được dùng phổ biến nhất hiện nay. a. Phun dạng lỏng Các dạng thuốc trừ dịch hại dưới dạng BHN, ND, DD, được hòa vào dung môi (thường là nước) để tạo thành các dung dịch phun (nước phun). Thuốc phân tán vào nước thành các dạng huyền phù, nhũ tương hay dung dịch thật. Dạng phun lỏng thường được ưa chuộng hơn thuốc bột phun khô do thuốc phun đều hơn, thuốc bám dính trên bề mặt xử lý tốt hơn. Trong các dạng thuốc phun lỏng, thuốc ở dạng huyền phù ít xâm nhập vào cây, trái hơn so với dạng nhũ dầu nên ít lưu bả độc hơn. Yêu cầu: hoạt chất phải bền vững trong nước thuốc, không bị phân hủy khi pha loãng. Hệ phân tán phải tương đối bền vững, lâu lắng tụ. Nước thuốc phải có tính thấm, tính loang tốt và bám dính bền lâu trên bề mặt vật phun (Khi rơi lên bề mặt vật phun, trước tiên giọt thuốc phải dính vào bề mặt vật phun, tẩm ướt được bề mặt này rồi mới loang ra; khi đã khô nước, thuốc vẫn còn bám chặt trên bề mặt vật phun. Để đảm bảo được yêu cầu trên, giọt thuốc phải có sức căng bề mặt nhỏ. Có thể làm giảm sức căng bề mặt của giọt thuốc bằng cách thêm vào thuốc các chất hoạt động bề mặt. Ngoài ra, người ta còn thêm vào thuốc chất bám dính để giúp cho thuốc bám chặt vào bề mặt vật phun, tạo nên một lớp thuốc bảo vệ khi nước đã bay hơi hết. Khi phun thuốc, áp suất phun phải đủ lớn để thuốc được phun ra đều và hạt thuốc có đủ động năng để dính vào bề mặt xử lý). Với các thuốc tạo thành huyền phù trong nước phun: tốc độ lắng của hạt chất rắn trong huyền phù phụ thuộc vào trọng lượng riêng của thuốc và độ nhớt của môi trường. Trọng lượng riêng của thuốc được tính bằng khối lượng thuốc (tính bằng g) trên một đơn vị thể tích (tính bằng g/m3) thường trọng lượng riêng của thuốc nằm trong khoảng 0.5 - 0,8 kích thước phân tử nhỏ hơn 3µ là tốt. Khi đó thuốc chậm kết lắng hoặc nổi lên, thuốc phun ra đều, ít bị nghẹt vòi phun, bảo đảm khả năng trừ dịch hại cao. Có thể làm tăng độ nhớt của thuốc bằng cách thêm vào chế phẩm các chất ổn định. Với dạng thuốc nhũ dầu, kích thước phân tử đòi hỏi phải nhỏ hơn 0,1µ. Người ta thường ngăn ngừa sự phân lớp giữa hoạt chất và dung môi, sự hợp nhất các giọt nhỏ thành các giọt lớn hơn và làm cho thuốc phân tán đều hơn trên bề mặt vật phun bằng cách thêm vào chế phẩm các chất ổn định, chất nhủ hóa. Có nhiều loại bơm phun khác nhau có thể dùng để phun thuốc lỏng, tuỳ theo yêu cầu và tuỳ theo thiết bị sử dụng, kích thước phun có thể rất khác nhau. Tuỳ theo kích thước giọt thuốc được phun ra, có nhiều kiểu phun đã được áp dụng: Phương pháp Độ lớn giọt Lượng nước phun (lít/ha) thuốc (µm) Cây hằng năm Cây lâu năm Phun nước (1) >150 >200 >600 (200 - 800) (600 - 1000) Phun mưa bụi (2) 50 - 250 50 200 Phun mưa bụi mịn (3) 25 - 125 3 - 20 3 - 20 (80 - 160) (1 - 6) (1 - 6) Phun mù (4) <30 3 - 6 3 - 6 26 PGs.Ts. Trần Văn Hai
  33. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 (80 - 120) (< 0,5) (< 0,5) (1): Phun thể tích trung bình và cao. (2): Phun thể tích thấp. (3): Phun thể tích cực thấp (ULV). (4): Phun thể tích cực cực thấp (UULV) + Kiểu phun nước với thể tích cao thường được thực hiện bằng các bình 10 lít, 20 lít đeo vai bơm tay, hoặc có gắn động cơ. + Xôn khí (aerosol, phun khói - với thuốc rắn, phun mù - với thuốc lỏng): bằng những dụng cụ đặc biệt, có thể phun thuốc ở dạng lỏng hay rắn với kích thước phân tử rất nhỏ, gọi là những “xôn khí”. Các hạt thuốc này sẽ lơ lững trong không khí trong một khoảng thời gian nhất định và gây độc cho dịch hại. Phương pháp này thường được dùng để trừ sâu, nhện, nấm bệnh trong các phòng kín (kho, nhà kính, toa tàu ) và trừ những côn trùng bay nhảy nhiều trên đồng ruộng. Do kích thước hạt rất nhỏ nên phương pháp này có một số ưu điểm sau: • Hoạt tính cao do thuốc có độ phân tán cao, xâm nhập vào vật phun dễ dàng. • Tính bám dính tốt. • Độ độc với dịch hại cao hơn do nồng độ thuốc cao. Lượng nước cần dùng nhỏ (khoảng 20 lít ). Với những phương pháp phun với thể tích cực thấp (ULV) và thể tích cực cực thấp (UULV), thể tích dung môi dùng chỉ ở khoảng 1 - 4,6 lít/ha. Tuy nhiên thuốc cũng có những nhược điểm như lơ lững rất lâu trong không khí, rất lâu lắng đọng, dễ bị gió cuốn đi. Để có hoạt tính vật lý cao mà không bị gió cuốn đi xa, kích thước hạt thường được yêu cầu phải nằm trong khoảng 0,5 - 100 µ.). Thành phần của thuốc gồm có: hoạt chất hòa tan vào dầu khoáng có nhiệt độ sôi tương đối cao như dầu xola, dầu máy biến áp, dầu diezen ; có thể dùng các dung môi dể bay hơi như CCl4 Để tạo thành những giọt mù, có thể phun thuốc dưới áp suất hàng trăm atmosphere bằng những thiết bị có tốc độ vòng quay hàng vạn vòng/phút; hoặc bằng cách đun hóa nhiệt dung dịch dầu của thuốc trong nồi hơi hoặc qua những ống ruột gà làm hạt thuốc được bắn ra khỏi máy dưới áp suất 7 - 8 atmotphe, hòa vào không khí lạnh ở bên ngoài và ngưng tụ thành mù có độ phân tán cao (đường kính giọt thuốc nhỏ hơn 1µ). Để tránh dùng áp suất quá cao và tránh sự phân hủy thuốc một phần do nhiệt, người ta có thể phối hợp cả hai phương pháp trên bằng cách cho một dòng hơi nóng đi qua dung dịch thuốc để bước đầu tạo ra những giọt thuốc có kích thước nhỏ, những giọt thước này khi đến miệng vòi phun mới được đun nóng và bay hơi, hoặc phối hợp cả hai cách. b. Phương pháp tưới đất Để diệt trừ những dịch hại sống trong đất hoặc với những thuốc nội hấp có thể hòa thuốc vào nước đến nồng độ bằng nồng độ phun và tưới vào đất. Có thể tưới vào lúc trước hoặc sau khi hạt nẩy mầm, bằng những bình tưới hoặc bình phun. Lượng nước thuốc phải được tính toán sao cho thuốc có thể ngấm đến độ sâu khoảng 10 - 15 cm. Thuốc cũng được dùng để tưới vào gốc cây với lượng nước khoảng 50 - 200 ml/gốc. c. Phun bột khô 27 PGs.Ts. Trần Văn Hai
  34. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 Thuốc bảo vệ thực vật hiện diện ở dạng bột, bột hạt, bột thô, hạt mịn đã pha chế sẳn sàng để phun lên cây hoặc lên mặt đất bằng các máy phun bột với lượng chế phẩm dùng cho mỗi hecta khoảng 20 - 40 kg. Thuốc hạt chủ yếu dùng để phun hoặc rắc vào đất với lượng chế phẩm khoảng 20 - 30 kg/ha. Yêu cầu: Bột phun ra phải bao phủ đều khắp bề mặt xử lý, không bị gió cuốn đi quá xa, bám dính và giữ lại tốt trên bề mặt xử lý. Chất lượng bột phun phụ thuộc nhiều vào đặc tính vật lý và hóa học của thuốc bột, vào đặc điểm bề mặt vật phun. * Tốc độ rơi của các phân tử thuốc bột được tính theo công thức: 2 gr 2 V = × (D − a) Y Với: v = tốc độ rơi tự do của các phân tử (cm/s). g = gia tốc trọng trường (981 cm/s2). r = bán kính của các phân tử (cm). Y = độ lớn của khí quyển (ở 10 - 30oC vào khoảng 0.00076 - 0.00086). D = tỷ trọng của thuốc bột. a = tỷ trọng không khí (0.0001225). g, Y, a: xem như hằng số, vì vậy tốc độ rơi của hạt thuốc phụ thuộc chủ yếu vào độ lớn và tỷ trọng của hạt thuốc bột. Thời gian rơi của các phân tử từ độ cao h được tính theo công thức sau: t: thời gian rơi của các phân tử. h t = h: độ cao. vt vt: tốc độ rơi tự do theo phương thẳng đứng. Từ hai công thức trên ta thấy rằng khi phun thuốc bột có cỡ hạt to, tỷ trọng lớn thì tốc độ rơi tự do sẽ lớn, thuốc không bay ra xa nơi phun thuốc. Tuy nhiên nếu cỡ hạt quá to, tỷ trọng quá lớn thì thuốc lại khó bám giữ trên bề mặt vật phun. Về kích thước, những hạt có hình cầu dể bị rơi khỏi mặt lá cây hơn so với những hạt hình đa diện. Hiện tượng bám dính của hạt thuốc lên bề mặt vật phun còn được giải thích như sau: trong quá trình chuyển động, các hạt thuốc bột có thể nhiễm điện do ma sát; dấu và cường độ điện tích phụ thuộc vào bản chất thuốc và vận tốc di chuyển của hạt. Khi hạt thuốc đến gần bề mặt vật phun thì theo qui tắc cảm ứng điện từ sẽ xuất hiện trên bề mặt vật phun điện tích trái dấu đưa đến kết quả là hạt thuốc bám giữ chặt vào bề mặt vật phun. 28 PGs.Ts. Trần Văn Hai
  35. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 Để tăng tính bám dính của thuốc, người ta thường trộn thêm chất hảo hóa, chất bám dính Hoặc gắn các hoạt chất lên những ”chất mang”. Khả năng bám dính và giữ lại của thuốc còn phụ thuộc vào tính chất bề mặt vật phun, thuốc bột bám dính và giữ lại tốt hơn trên những lá nằm ngang, có nếp nhăn nheo, có lông hoặc trên lá ẩm ướt do sương hay mưa; khó bám giữ lại trên những lá thẳng đứng, mặt lá phẳng, láng, trên lá khô. * Ưu nhược điểm của phương pháp phun bột so với phương pháp phun lỏng: + Ưu diểm: Đơn giản, thiết bị nhẹ nhàng, rẻ tiền hơn và có thể sử dụng trong những điều kiện địa hình bất lợi. Thích hợp với những nơi không có sẵn nguồn nước và cần phun trên diện tích lớn. + Nhược điểm: Phải dùng một lượng thuốc nhiều hơn so với phun lỏng trên một đơn vị diện tích. Trên mỗi ha cây trồng, lượng chế phẩm thường dùng là 30 - 50 kg/ha. Lượng thuốc hao phí lớn do bị cuốn trôi bởi mưa, gió. Lượng dư thừa này dễ làm ô nhiễm môi trường. 2.2.2 Rắc hạt Thuốc trừ dịch hại dạng hạt thường dùng để rắc vào đất để trừ các loài dịch hại sống trong đất, các loại thuốc lưu dẫn khi rắc vào đất được rễ hấp thu và dẫn truyền lên các bộ phận ở phía trên mặt đất để diệt trừ sâu hại (rệp, bọ phấn trắng Bemisia trên rau, cà chua ) hoặc các loài nấm bệnh trong một thời gian khá dài. Các thuốc này còn được dùng để rắc lên cây nhằm diệt trừ sâu đục thân, sâu đục ngọn (Như các thuốc trừ sâu clo hữu cơ, lân hữu cơ thường được dùng rắc lên non ngô để trừ các sâu ăn lá sống trong loa kèn). Thuốc có thể được rắc đều trên toàn bộ diên tích xử lý bằng tay hay bằng máy phun hạt, máy bay hoặc có thể chỉ rãi theo luống, theo từng gốc cây. Yêu cầu: Thuốc phải có độ rắn chắc nhất định, không bị vỡ vụn trước khi rắc, không bị phân rã quá nhanh khi áp dụng lên cây hoặc lên đất. Hạt thuốc rắc vào đất phải tan được dần vào nước để từ từ cung cấp chất độc tiêu diệt côn trùng, nấm bệnh, cỏ dại. Để thuốc được rắn chắc, trong quá trình chế biến người ta thường thêm vào các chất kết dính. Độ ẩm của đất ảnh hưởng rất lớn đến độ hòa tan của thuốc vào đất, những thuốc hạt có tính lưu dẫn sẽ không phát huy được tác dụng trong điều kiện khô hạn. Những thuốc có tính xông hơi ít chịu ảnh hưởng của ẩm độ, có nhiều trường hợp phải trộn lớp đất mặt để hạn chế sự bay hơi của thuốc vào không khí và giữ thuốc ở nồng độ cao trong đất, làm tăng hiệu quả diệt dịch hại. Ngoài tác dụng bảo vệ cây lâu dài, thuốc hạt rắc bằng máy bay hoặc máy phun thuốc lên đất ít làm cháy lá cây, ít gây ô nhiễm không khí trong vùng rắc thuốc. Phương pháp rắc thuốc hạt để trừ cỏ ngày càng được sử dụng rộng rải. 2.2.3 Nội liệu pháp thực vật Là phương pháp đưa những thuốc lưu dẫn vào trong hệ thống cây trồng, nhằm gây ra một trong những tác động sau: + Làm cho cây trở nên độc đối với dịch hại (côn trùng, nhện, nấm, vi khuẩn ) Ở trường hợp này, cây có thể chống lại được cả những dịch hại chuyên tính lẩn không chuyên tính. + Trung hòa những độc tố hình thành trong cây do tác động của dịch hại hay của những yếu tố khác. 29 PGs.Ts. Trần Văn Hai
  36. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 + Làm thay đổi thành phần của dịch tế bào của cây, và biến đổi đặc điểm của qua trình sinh lý, sinh hóa của cây, khiến cho cây trở thành không còn phù hợp với dinh dưỡng các loại gây hại nữa. Trong trường hợp này, thường thuốc chỉ có tác dụng bảo vệ cây chống lại những loại dịch hại chuyên tính hẹp, ví dụ như những các loài sâu đơn thực, nấm và vi khuẩn chỉ chuyên tính cao. + Làm cho cây trở nên miễn dịch đối với một loài dịch hại (miễn dịch nhân tạo). + Các yêu cầu khi thực hiện biện pháp thực vật: những thuốc lưu dẫn này phải xâm nhập vào được bên trong cây, với một nồng độ nhất định nào đó đủ gây hại cho dịch hại, nhưng thuốc phải không độc cho cây và có khả năng phân hũy trong cây trồng sau một thời gian nhất định để trở thành vô hại đối với người và gia súc sử dụng nông sản, thực phẩm ở vùng phun thuốc. + Nội liệu pháp bảo vệ thực vật có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau với những thuốc lưu dẫn: trộn hạt giống với thuốc, bón thuốc vào gốc cây, cạo lớp vỏ ngoài của thân cây rồi buộc vòng vải tẩm thuốc, phun thuốc lỏng lên cây. + Tốc độ xâm nhập của thuốc vào trong cây, sự lan truyền, sự tồn tại của thuốc ở trong cây phụ thuộc vào đặc điểm của thuốc, loài cây, thời kỳ sinh trưởng của cây, điều kiện ngoại cảnh. 2.2.4 Xông hơi Dùng những thuốc có khả năng bay hơi để làm không khí xung quanh dịch hại bị nhiễm chất độc, nhằm đầu độc dịch hại qua đường hô hấp. Phương pháp xông hơi tỏ ra có hiệu quả cao khi được dùng để trừ những sinh vật gây hại ẩn náu ở những nơi kín đáo như kẻ tường, trong các kho hàng, kho lương thực, khoang tàu chở nông sản, trong nhà kính, trong đất. Phương pháp này được dùng để trừ chuột, sâu hại, nhện, tuyến trùng, nấm, vi khuẩn Thuốc dùng để xông hơi có thể ở dạng rắn, lỏng có áp suất hơi lớn hoặc ở dạng khí nén. Các thuốc này có thể khuyếch tán trong không khí ở trạng thái khí hoặc hơi, đôi khi còn ở dạng thăng hoa. * Các yếu tố sau đây có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thuốc xông hơi: + Không gian: Phải đảm bảo duy trì khoảng không gian dùng thuốc kín trong một khoảng thời gian nhất định. Phương pháp xông hơi thường chỉ được thực hiện ở những nơi kín đáo, do thuốc độc ở thể khí hoặc hơi có khả năng khuyếch tán mạnh, nên nếu không tiến hành trong một không gian cố định thì hơi độc, khí độc bị hòa loãng vào không khí, không duy trì được nồng độ thuốc đủ để tiêu diệt dịch hại. + Các đặc điểm vật lý, hóa học của thuốc: những đặc điểm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả dùng thuốc như: độ bay hơi, tỷ trọng hơi, tốc độ bay hơi, khả năng khuyếch tán vào không khí, khả năng bị hấp phụ bởi bề mặt vật được xử lý. + Độ bay hơi: Là khối lượng tối đa của chất độc trong một đơn vị thể tích không khí ở một nhiệt độ và áp suất nhất định. Đơn vị tính: g/m3. Độ bay hơi của một chất tỷ lệ thuận với nhiệt độ môi trường, tỷ lệ nghịch với áp suất và nhiệt độ sôi của chất xông hơi. Dĩ nhiên chất xông hơi chỉ có tác dụng khi độ bay hơi của thuốc cao hơn nồng độ gây độc cho dịch hại. + Tốc độ bay hơi: được xác định bằng khối lượng hơi bay lên từ 1cm2 bề mặt rắn hoặc lỏng của chất xông hơi trong thời gian một giây. Tốc độ bay hơi tỷ lệ thuận với nhiệt độ xông hơi và tỷ lệ nghịch với nhiệt độ sôi và áp suất. Nhiệt độ không khí và diện tích bề mặt cao làm tăng tốc độ bay hơi. 30 PGs.Ts. Trần Văn Hai
  37. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 + Tính khuyếch tán của thuốc vào không khí: Chất xông hơi có khả năng khuyếch tán càng mạnh càng dễ xâm nhập vào các khe hở trong đống hàng hóa, thực phẩm. Tính khuyếch tán này có liên quan đến nhiệt độ nơi xử lý thuốc và các chất hàng hóa. + Khả năng bị hấp phụ hay hấp thu bởi vật xử lý: Chất độc có thể bị hấp phụ hay hấp thu vào vật xử lý. Khi đó nồng độ thuốc trong không khí sẽ bị giảm, làm giảm hiệu quả sử dụng thuốc. Ngoài ra sự hấp thu còn khiến cho việc khử khí độc trong hàng hóa xông hơi xong (sự giải hấp) gặp nhiều khó khăn. Những nông sản, hàng hóa có bề mặt tiếp xúc lớn hay có độ xốp cao thường hút chất xông hơi nhiều, cho nên dễ xông hơi có hiệu quả thường phải tăng nồng độ xử dụng thuốc. + Tỷ trọng hơi: Tỷ trọng hơi của thuốc có liên quan nhiều đến kỹ thuật dùng thuốc. Nếu chất xông hơi có tỷ trọng lớn hơn 1 (nặng hơn không khí) thì khi sử dụng phải đặt thuốc ở vị trí cao và ngược lại. + Tính dễ bắt lửa, dễ bốc cháy: Các chất dễ bắt lửa, dễ bốc cháy thường ít được dùng để xông hơi. Đôi khi có thể sử dụng những chất này bằng cách trộn thêm những chất chống cháy, nổ. + Tính dễ nhận biết: những chất có mùi đặc biệt thường dễ nhận biết ngay cả khi ở nồng độ thấp, và do đó có thể dễ dàng phát hiện tình trạng rò rỉ, và có biện pháp đối phó kịp thời, bảo đảm an toàn lao động. Để khắc phục tình trạng này, đôi khi người ta trộn thêm các chất có mùi hoặc làm chảy nước mắt vào thuốc xông hơi để làm chất báo hiệu. Khi dùng các chất xông hơi, còn phải lưu ý đến khả năng thuốc làm han rỉ kim loại, làm hỏng các đồ dùng bằng vải, da, tơ sợi.v.v. Phương pháp xông hơi thường được dùng để tẩy trùng cho hàng hóa, nông sản trong kho, khoang chở hàng trên tàu, xe lửa, cho các đống hàng hóa được che phủ bằng các tấm bạt tráng cao su, trong nhà kính, trong đất. Muốn xông hơi kho hàng hóa thì các kho này phải được chuẩn bị chu đáo: dán kín trần và tường, dán các khe hở lại, sắp xếp hàng hóa sao cho thuốc có thể xâm nhập dễ dàng từ mọi phía, di chuyển những thứ có thể bị thuốc làm hư hại. Thời gian xông hơi tuỳ thuộc vào đặc điểm của thuốc và vật xử lý. Sau khi xông hơi, nếu thuốc bị hàng hóa, nông sản hấp thu, phải tiến hành giải hấp. Để xông hơi trong đất, có thể đào rãnh nhỏ đều nhau trên mặt ruộng hoặc nhưng hố nhỏ, đổ thuốc vào và lấp đất lại. Cũng có thể tưới thuốc vào đất và xới lên cho thuốc trộn đều vào đất. Phương pháp xông hơi cũng được dùng để trừ chuột bằng cách tẩm thuốc xông hơi ở dạng lỏng vào giẻ, nhét vào hang chuột và lấp đất lại. 2.2.5 Xử lý giống Giống cây trồng (hạt giống, củ, hom ) trước khi gieo trồng có thể được trộn hoặc ngâm với các loại thuốc trừ các mầm sâu, bệnh, tuyến trùng Lưu tồn trong hạt có khả năng gây hại cho hạt hoặc cây con (thối hạt, héo rủ cây con); có khi thuốc còn giúp cho cây trồng sau này có khả năng chống lại các loại dịch hại ở các giai đoạn sau (các thuốc lưu dẫn). Yêu cầu đối với biện pháp xử lý giống là thuốc phải bám dính tốt, có khả năng khử độc cao mà không gây hại cho sự nẩy mầm của hạt giống và sự phát triển của cây con. Hạt giống có thể được xử lý bằng các biện pháp vật lý như dùng nhiệt, nước nóng, ánh nắng mặt trời, hoặc bằng biện pháp hóa học: sử dụng các hóa chất, hoặc kết hợp cả hai biện pháp trên. Khi xử lý hạt giống bằng hóa chất, tuỳ theo trạng thái vật lý của thuốc xử lý, đặc điểm sinh học của sinh vật gây hại, cấu tạo và đặc điểm của hạt giống, có thể chọn một trong ba phương pháp xử lý giống sau: 31 PGs.Ts. Trần Văn Hai
  38. Giáo Trình Hóa Bảo Vệ Thực Vật Chương 2 + Xử lý khô ( trộn giống ): Dùng thuốc ở dạng bột khô trộn với giống, tạo nên một lớp thuốc bao bọc bên ngoài hạt. Sau khi trộn giống với các thuốc này phải ủ trong những thùng kín khoãng một vài tuần trước khi gieo trồng. Phải xác định thời gian ủ hợp lý sao cho thuốc diệt được mầm bệnh mà không gây hại giống. Để xử lý những hạt giống có kích thước nhỏ thường phải dùng một lượng thuốc nhiều hơn so với khi xử lý những hạt to. Phương pháp trộn giống có ưu điểm là kỹ thuật đơn giản, sau khi trộn xong, có thể gieo hạt ngay hay để chậm một thời gian. Tuy nhiên trong quá trình trộn, thuốc hạt có thể bay ra xung quanh gây độc cho người, làm ô nhiễm môi trường. + Xử lý ướt (ngâm giống): Dùng thuốc ở dạng BHN hay ND hòa vào nước theo nồng độ đã định rồi đổ giống vào ngâm theo một khoảng thời gian nhất định. Trong trường hợp nấm hay vi khuẩn gây bệnh đã xâm nhập sâu vào trong hạt, có thể kết hợp với phương pháp dùng nhiệt. Ta có thể ngâm giống trong nước nóng trước khi ngâm vào thuốc, hoặc có thể hòa thuốc vào nước nóng để ngâm giống. Phương pháp này có ưu điểm là thuốc dễ dàng tiếp xúc với tác nhân gây bệnh ngoài vỏ hạt và cả bên trong vỏ hạt. Những giống đã ngâm thuốc xong phải gieo ngay, không thể vì một lý do nào đó (như mưa nhiều làm ướt đất) mà trì hoãn được. + Xử lý nửa khô (nửa ướt, hồ nhão): Thuốc thường được pha ở nồng độ cao hơn so với ngâm giống. Giống được trải ra sân gạch hay ximăng, dùng nước thuốc phun đều lên, có thể xáo trộn giống cho thuốc ngấm đều hơn. Lượng nước thuốc dùng thường là ít (khoảng 3 lít/tạ giống), do đó sau khi xử lý độ ẩm của hạt giống thường tăng lên không quá 0,5%, sau khi xử lý có thể cho ngay hạt giống vào máy để gieo mà không cần phải hong khô. Ngày nay, người ta hay dùng phương pháp nửa khô để xử lý giống. Hạt giống được bao bọc một lớp thuốc ở dạng nhão trong những máy xử lý hạt quay liên tục. Đôi khi người ta trộn hạt giống với thuốc ngay trong các máy gieo hạt, biện pháp này cho phép loại trừ trường hợp ngẫu nhiên dư thừa một lượng hạt giống đã xử lý thuốc. Xử lý giống là một phương pháp dùng thuốc có nhiều ưu điểm: lượng thuốc tiêu dùng ít, khả năng diệt dịch hại cao, chi phí sử dụng thấp, ngăn chặn tốt sự phát sinh và lây lan của dịch hại. Vì vậy phương pháp này ngày càng được ưa chuộng và được xem như một thủ tục cần được tuân thủ khi gieo trồng. 2.2.6 Làm bả độc Bả độc là một hỗn hợp gồm thuốc độc và mồi. Mồi thường là những thức ăn mà dịch hại ưa thích. Bả độc chủ yếu dùng để trừ chuột và đôi khi cũng dùng để bẩy bướm, bắt sâu. Để đạt hiệu quả cao, không những thuốc phải có tính độc cao đối với côn trùng hay các loài gậm nhấm gây hại mà mồi dùng để bẩy cũng phải thật hấp dẫn, thu hút được dịch hại. Mỗi loại dịch hại lại ưa thích những loại mồi khác nhau. Tuỳ theo loài dịch hại mà có thể dùng các mồi như cám, hạt ngũ cốc, các loại bột, chất chua, chất tanh * Có nhiều phương pháp làm bả độc: + Bả khô: làm bằng cách trộn thuốc với mồi ở dạng khô. Đôi khi người ta thêm những chất dính nhũ dầu thảo mộc, hồ + Bả ướt: mồi được tẩm bằng huyền phù hay dung dịch thuốc. + Bả lỏng: mồi là chất lỏng có pha thêm chất độc, thường để vào những đĩa nhỏ để đặt bả những côn trùng ăn thức ăn lỏng (ruồi, bướm ). 32 PGs.Ts. Trần Văn Hai