Giáo trình Địa lý kinh tế Việt Nam - ThS. Nguyễn Văn Huân

pdf 92 trang phuongnguyen 2160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Địa lý kinh tế Việt Nam - ThS. Nguyễn Văn Huân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_dia_ly_kinh_te_viet_nam_ths_nguyen_van_huan.pdf

Nội dung text: Giáo trình Địa lý kinh tế Việt Nam - ThS. Nguyễn Văn Huân

  1. Giáo trình ĐỊA LÝ KINH TẾ 1
  2. Địa lý kinh tế. LỜI NÓI ĐẦU Địa lý kinh tế Việt Nam là một trong những môn học đại cương, là nền tảng kiến thức cho sinh viên học các môn phân vùng kinh tế, kinh tế đầu tư, kinh tế quốc tế, , đặc biệt đối với sinh viên các ngành Hệ thống thông tin Kinh tế. Môn học Địa lý kinh tế thường được đưa vào chương trình đại cương của sinh viên kỳ I năm thứ nhất. Cho đến nay đã có một số giáo trình Địa lý kinh tế Việt Nam được xuất bản. Song tuỳ theo từng trường, nội dung giáo trình được thay đổi cho phù hợp với mục tiêu và đối tượng đào tạo. Thông qua giáo trình này, sinh viên ngành Hệ thống thông tin Kinh tế cũng như các độc giả có quan tâm tới Địa lý kinh tế của Việt Nam sẽ có được những kiến thức đầy đủ về các nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, hiện trạng và phương hướng tổ chức lãnh thổ các ngành Kinh tế: công nghiệp, nông - lâm - ngư nghiệp, dịch vụ ở Việt Nam. Với Địa lý kinh tế Việt Nam, vấn đề tổ chức lãnh thổ có vai trò đặc biệt quan trọng và gắn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy tổ chức lãnh thổ là vấn đề xuyên suốt giáo trình này. Giáo trình “Địa lý kinh tế Việt Nam” do tập thể các cán bộ giảng dạy Bộ môn Hệ thống thông tin Kinh tế, Khoa Công nghệ thông tin, Đại học Thái Nguyên biên soạn dưới sự chủ biên của ThS. Nguyễn Văn Huân cùng với các tác giả Nguyễn Thị Hằng, Trần Thu Phương và Trần Thị Tâm. Trong quá trình biên soạn mặc dù gặp không ít khó khăn nhưng chúng tôi cố gắng đến mức cao nhất để giáo trình đảm bảo tính khoa học hiện đại, tiếp cận với những thông tin cập nhật về kinh tế, xã hội của đất nước, của khu vực Đông Nam á và trên thế giới. Chúng tôi hy vọng rằng đây là chuẩn mực tối thiểu về phần kiến thức nền tảng của bậc đại học để các trường Đại học, Cao đẳng áp dụng nhằm nâng dần mặt bằng kiến thức ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới. Giáo trình “Địa lý kinh tế Việt Nam” chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhưng chúng tôi hy vọng nó sẽ là tài liệu bổ ích đối với đông đảo sinh viên cũng như những người quan tâm tới vấn đề này ở Việt Nam. Chúng tôi chân thành cảm ơn các ý kiến đóng góp, phê bình của các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp và bạn đọc để giáo trình này được hoàn thiện hơn nữa. Tập thể tác giả 2
  3. MỤC LỤC Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 1 5 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỊA LÝ KINH TẾ 5 1.1. Đối tượng nghiên cứu của Địa lý Kinh tế 5 1.1.1. Đối tượng nghiên cứu: 5 1.1.2. Vị trí của môn học trong hệ thống các ngành học : 6 1.3. Phương pháp nghiên cứu 7 1.3.1. Phương pháp khảo sát thực địa 7 1.3.2. Hệ thống thông tin địa lý (GIS) 7 1.3.3. Phương pháp bản đồ 7 1.3.4. Phương pháp viễn thám 7 1.3.5. Phương pháp dự báo 8 1.3.6. Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích 8 CHƯƠNG 2 9 CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 9 2.1. Các nguồn lực tự nhiên của Việt Nam 9 2.1.1. Những đặc điểm và điều kiện tự nhiên độc đáo của Việt Nam 9 2.1.2. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam 11 2.2.Tài nguyên nhân văn 19 2.2.1. Những vấn đề lý luận về phát triển, phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động 19 2.2.2. Dân cư 22 Biểu 4.1. Dân số Việt Nam qua các năm (Đơn vị tính: triệu người) 23 Biểu 4.3. Chỉ số phát triển con người của các nước 25 2.2.3. Phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động 33 2.2.4. Nguồn lao động 36 CHƯƠNG 3 40 TỔ CHỨC LÃNH THỔ NGÀNH SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP 40 3.1. Vị trí ngành sản xuất công nghiệp trong phát triển và phân bố sản xuất 40 3.2. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ ngành sản xuất công nghiệp 40 3.2.1. Đặc điểm chung 40 3.2.2. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ của một số ngành công nghiệp chủ yếu 42 3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố công nghiệp 44 3.3.1. Nhân tố lịch sử-xã hội 44 3.3.2. Sự phân bố của các nguồn tài nguyên thiên nhiên 44 3.3.3. Cơ sở kinh tế-xã hội 44 3.4. Tình hình phát triển và phân bố công nghiệp Việt Nam 44 3.4.1. Tình hình chung 44 3.4.2. Tình hình phân bố các ngành công nghiệp 46 CHƯƠNG 4 52 TỔ CHỨC LÃNH THỔ NGÀNH NÔNG-LÂM-NGƯ NGHIỆP 52 3
  4. A. NÔNG NGHIỆP 53 A4.1. Những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp 53 A4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phân bố và phát triển sản xuất nông nghiệp 58 A4.3. Thực trạng phân bố và phát triển nông nghiệp Việt Nam 60 A4.4. Định hướng phân bố và phát triển nông nghiệp Việt Nam 67 B. LÂM NGHIỆP 69 B4.1. Vai trò của lâm nghiệp 69 B4.2. Đặc điểm phân bố và phát triển lâm nghiệp Việt Nam 70 B4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân bố và phát triển lâm nghiệp 70 B4.4. Hiện trạng - định hướng phân bố và phát triển lâm nghiệp Việt Nam 71 C. NGƯ NGHIỆP 72 C4.1. Vai trò của ngư nghiệp 73 C4.2. Đặc điểm phân bố và phát triển ngư nghiệp 73 C4.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển và phân bố ngư nghiệp . 73 C4.4. Hiện trạng và định hướng phân bố, phát triển ngành ngư nghiệp Việt Nam 75 CHƯƠNG 5 78 TỔ CHỨC LÃNH THỔ DỊCH VỤ VIỆT NAM 78 5.1. Vai trò của dịch vụ trong đời sống kinh tế xã hội 78 5.2. Đặc điểm của tổ chức lãnh thổ dịch vụ 78 5.2.1. Khái niệm dịch vụ 78 5.2.2. Phân loại dịch vụ 78 5.2.3. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ dịch vụ 79 5.3. Hiện trạng phát triển và phân bố một số ngành dịch vụ chủ yếu 79 5.3.1. Ngành giao thông vận tải 79 5.3. 2. Ngành thông tin liên lạc 85 5.3.3. Thương mại 86 5.3.4. Du lịch 89 4
  5. CHƯƠNG 1 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỊA LÝ KINH TẾ Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của địa lý kinh tế. 1.1. Đối tượng nghiên cứu của Địa lý Kinh tế 1.1.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động kinh tế là bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên xã hội loài người, hoạt động đó không thể xảy ra ngoài không gian sống của con người, đó chính là môi trường địa lý. Lãnh thổ và hoạt động kinh tế của con người luôn có mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Bởi vậy hoạt động kinh tế không thể thiếu sự hiểu biết và nghiên cứu lãnh thổ nơi diễn ra các hoạt động kinh tế đó. “Địa lý kinh tế" (ĐLKT) ra đời cùng với sự hình thành các ngành sản xuất Nông nghiệp khi con người biết gieo trồng và thu hoạch. Kinh nghiệm mà con người tích luỹ được khi phân biệt hạt giống gieo ở lãnh thổ này thì tốt, lãnh thổ kia thì xấu chính là nền móng ban đầu của ĐLKT. Theo quan điểm ngày nay, ĐLKT là môn khoa học xã hội, nghiên cứu các hệ thống lãnh thổ kinh tế xã hội nhằm rút ra những đặc điểm và quy luật hình thành và hoạt động của chúng để vận dụng vào tổ chức không gian (lãnh thổ) tối ưu các hoạt động kinh tế xã hội trong thực tiễn. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của ĐLKT là hệ thống Lãnh thổ - Kinh tế - Xã hội (LKX). LKX là một hệ thống có cấu trúc phức tạp, bao gồm điều kiện tự nhiên và điều 5
  6. kiện xã hội của lãnh thổ liên quan tới hoạt động sản xuất, nghỉ ngơi của con người cùng với việc bảo vệ môi trường sống. Về thực chất LKX được xác định bởi các yếu tố tự nhiên bởi mức độ phát triển của các ngành kinh tế, phân bố kinh tế trên lãnh thổ, bởi các điều kiện xã hội chính trị. Vì thế nó sẽ khác biệt rất lớn giữa các quốc gia, các vùng hoặc các khu vực có đặc điểm tự nhiên, sự phát triển kinh tế, hình thái xã hội khác nhau. 1.1.2. Vị trí của môn học trong hệ thống các ngành học : Địa lý kinh tế là một môn khoa học độc lập nhưng nó luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các môn khoa học khác. Địa lý kinh tế nghiên cứu không gian địa lý nơi diễn ra hoạt động kinh tế xã hội của con người. Vì vậy Địa lý kinh tế sử dụng hầu hết các khái niệm, các kiến thức của các môn: Địa chất học, địa vật lý, sinh vật, lý, hoá Mặt khác môn học lại liên quan nhiều tới các kiến thức kinh tế - xã hội: chính trị, kinh tế, luật, dân tộc học Do đó muốn lĩnh hội tốt kiến thức môn học ĐLKT cần phải có kiến thức tổng hợp cơ bản của nhiều môn học khác nhau. Địa lý kinh tế phải giải quyết vấn đề quan hệ giữa môi trường địa lý và nền sản xuất xã hội. Đó là mối quan hệ mang tính triết học giữa con người và tự nhiên. 1.2. Nhiệm vụ của địa lý kinh tế Nghiên cứu Địa lý kinh tế nhằm thực hiện nhiệm vụ quan trọng về mặt lý luận - phương pháp luận, phương pháp cũng như thực tiễn tổ chức không gian kinh tế xã hội. Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, ĐLKT Việt Nam tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp chiến lược cho các vấn đề chủ yếu sau: - Đánh giá thực trạng và định hướng phát triển của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ của Việt Nam, khả năng hội nhập của Việt Nam vào tiến trình phân công lao động khu vực và quốc tế. - Hoạch định chính sách và chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế xã hội theo lãnh thổ (theo vùng) nhằm tạo ra những chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ mạnh mẽ và có hiệu quả theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Phương pháp luận và phương pháp phân vùng kinh tế, quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, phân bố lực lượng sản xuất. - Những đặc điểm, quy luật hình thành và hoạt động các hệ thống lãnh thổ chức năng (các ngành và lĩnh vực kinh tế), các hệ thống lãnh thổ tổng hợp đa chức năng (các vùng kinh tế, các địa bàn kinh tế trọng điểm ). - Phương pháp luận và phương pháp lựa chọn vùng (địa bàn) địa điểm cụ thể cho phân bố và đầu tư phát triển các loại hình cơ sở sản xuất kinh doanh. - Mối quan hệ giữa nâng cao hiệu quả và bảo đảm công bằng theo chiều ngang (theo vùng) trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế xã hội với bảo vệ môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái. 6
  7. - Mối quan hệ giữa kế hoạch hoá và quản lý theo ngành với kế hoạch hoá và quản lý theo lãnh thổ, giữa quản lý vĩ mô và quản lý vi mô về mặt lãnh thổ. 1.3. Phương pháp nghiên cứu Để xứng đáng với vị trí của môn học và hoàn thành tốt các nhiệm vụ trên, Địa lý kinh tế sử dụng rộng rãi các quan điểm, các phương pháp nghiên cứu truyền thống cũng như hiện đại. Địa lý kinh tế nghiên cứu các lãnh thổ kinh tế xã hội, các LKX thường khá rộng lớn có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh, có quy mô và bản chất khác nhau nhưng lại tương tác chặt chẽ với nhau. Vì vậy để nghiên cứu tốt vấn đề đó, các nhà Địa lý kinh tế phải sử dụng thường xuyên nhất quán các quan điểm tiếp cận, hệ thống và tổng hợp. Hơn nữa các L.K.X không ngừng vận động trong không gian và biến đổi theo thời gian vì vậy để định hướng đúng đắn sự phát triển tương lai của chúng cần phải có quan điểm động và quan điểm lịch sử. Địa lý kinh tế cũng có phương pháp nghiên cứu chung như nhiều môn khoa học khác: Thu thập tài liệu, số liệu thống kê song với Địa lý kinh tế còn có một số phương pháp đặc trưng sau: 1.3.1. Phương pháp khảo sát thực địa Khảo sát thực địa là phương pháp truyền thống đặc trưng của Địa lý kinh tế. Điều căn bản của Địa lý kinh tế là việc nghiên cứu L.K.X muốn vậy phải tai nghe, mắt thấy. Vì vậy việc xem xét, cảm nhận, mô tả trên thực địa là cái không thể thiếu. Sử dụng phương pháp này giúp các nhà Địa lý kinh tế tránh được những kết luận, quyết định chủ quan, vội vàng, thiếu cơ sở thực tiễn. 1.3.2. Hệ thống thông tin địa lý (GIS) GIS là một cơ sở dữ liệu trên máy tính, hiện được sử dụng rộng rãi để lưu giữ, phân tích, xử lý và hiển thị các thông tin về không gian lãnh thổ. 1.3.3. Phương pháp bản đồ Phương pháp bản đồ là phương pháp truyền thống được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu địa lý tự nhiên, địa lý nhân văn, địa lý kinh tế và nhiều môn học khác. Lãnh thổ cần phải nghiên cứu của Địa lý kinh tế thường rất lớn: Thành phố, tỉnh, miền, quốc gia. Vì thế nếu không sử dụng bản đồ thì chúng ta không thể có một tầm nhìn bao quát lãnh thổ trong sự nghiên cứu của mình. Bởi vậy các nghiên cứu Địa lý kinh tế được khởi đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản đồ, nó chính là “ngôn ngữ” tổng hợp, ngắn gọn, súc tích, trực quan của đối tượng nghiên cứu. 1.3.4. Phương pháp viễn thám 7
  8. Viễn thám là phương pháp ngày càng được sử dụng rộng rãi trong nhiều môn khoa học đặc biệt là các môn khoa học về trái đất. Nó cho ta một cách nhìn tổng quát nhanh chóng hiện trạng của đối tượng nghiên cứu, phát hiện ra những hiện tượng, những mối liên hệ khó nhìn thấy trong khảo sát thực địa. 1.3.5. Phương pháp dự báo Phương pháp dự báo giúp người nghiên cứu định hướng chiến lược, xác định các mục tiêu và kịch bản phát triển trước mắt và lâu dài của các đối tượng nghiên cứu một cách khách quan, có cơ sở khoa học phù hợp với các điều kiện và xu thế phát triển của hiện thực. 1.3.6. Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích giúp các nhà nghiên cứu ra quyết định ở mọi cấp (quốc tế, quốc gia, vùng ) một cách hợp lý, sử dụng bền vững và có hiệu quả các nguồn lực, lựa chọn các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển trên cơ sở so sánh chi phí với lợi ích. 8
  9. CHƯƠNG 2 CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội. Các nguồn lực tự nhiên bao gồm: những đặc điểm và điều kiện tự nhiên độc đáo của Việt Nam, các nguồn tài nguyên thiên nhiên như tài nguyên rừng, nước, biển, khoáng sản, Các tài nguyên nhân văn, dân cư, 2.1. Các nguồn lực tự nhiên của Việt Nam 2.1.1. Những đặc điểm và điều kiện tự nhiên độc đáo của Việt Nam 2.1.1.1. Vị trí địa lý Lãnh thổ toàn vẹn của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một khối thống nhất, bao gồm cả vùng đất liền, vùng biển và vùng trời. Tính riêng phần đất liền, nước ta có hình chữ S và được xác định bởi hệ toạ độ địa lý như sau: o o - Điểm cực Bắc ở vĩ độ 23 22’ Bắc, 105 20’ kinh độ Đông, nằm trên cao nguyên Đồng Văn, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. o o - Điểm cực Nam ở vĩ độ 8 30’ Bắc, 104 50’ kinh độ Đông; nằm tại xóm Mũi, xã Rạch Tâu, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau. o o - Điểm cực Đông ở vĩ độ 12 40’ Bắc, 109 24’ kinh độ Đông, nằm trên bán đảo Hòn Gốm thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà. o o - Điểm cực Tây ở vĩ độ 22 24’ Bắc, 102 10’ kinh độ Đông, nằm trên đỉnh núi Phan La San ở khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Trung Quốc, thuộc xã Apa Chải, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Toàn bộ diện tích tự nhiên của phần lục địa của ta là 32.924,1 nghìn ha (Niên giám thống kê năm 2001), thuộc loại nước có quy mô diện tích trung bình trên thế giới (đứng thứ 56). Biên giới trên đất liền tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc có chiều dài là 1.306 km; phía Tây và Tây Nam tiếp giáp với Lào có chiều dài 2.069 km, tiếp giáp với Cămpuchia có chiều dài 1137 km; còn lại toàn bộ phía Đông và Nam được bao bọc bởi 3.260 km bờ biển. Nhìn chung biên giới trên đất liền của nước ta với các nước láng giềng hầu hết là dựa theo núi, sông tự nhiên, với những dải núi, hẻm núi hiểm trở, chỉ có một phần biên giới với Cămpuchia là vùng đồi thấp và đồng bằng. Điều đó tạo ra một số 9
  10. thuận lợi nhưng cũng gây ra những khó khăn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ đất nước. Vùng biển của nước ta khá rộng lớn. Phía ngoài lãnh thổ đất liền, Việt Nam có phần thềm lục địa khá rộng và có nhiều đảo, quần đảo lớn nhỏ khác nhau, gần đất liền nhất có các đảo ở vùng vịnh Hạ Long, ra xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong vùng biển Đông, cùng với các đảo Phú Quốc và Thổ Chu ở vịnh Thái Lan. Vùng biển nước ta bao gồm vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế có diện tích 2 rộng hơn 1 triệu km , bao gồm: vùng nội thuỷ (vùng nước ở phía trong đường cơ sở - được dùng để tính lãnh hải của một quốc gia); lãnh hải thuộc chủ quyền và quyền tài phán rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở; vùng tiếp giáp lãnh hải được quy định 12 hải lý tính từ ranh giới phía ngoài của lãnh hải (theo công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển) và vùng đặc quyền kinh tế với thềm lục địa thuộc chủ quyền rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Đó là một nguồn lợi to lớn về nhiều mặt của nước ta. Vùng trời của Việt Nam là toàn bộ khoảng không bao trùm trên lãnh thổ đất liền và toàn bộ vùng biển của đất nước. Việt Nam có vị trí địa lý khá độc đáo, đặc điểm điều kiện tự nhiên của nước ta rất đa dạng và phong phú, nói chung có nhiều điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - văn hoá - xã hội phát triển. 2.1.1.2. Việt Nam nằm ở vị trí bao bọc toàn bộ sườn Đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam á và ở ranh giới trung gian tiếp giáp với các lục địa và đại dương Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới và toàn cầu hoá, vị trí địa lý được xác định là một nguồn lực quan trọng về nhiều mặt, để định ra hướng phát triển có lợi nhất trong sự phân công lao động và hợp tác quốc tế, trong quan hệ song phương hoặc đa phương với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm Đông Nam á, trở thành cầu nối giữa các nước trong khu vực, giữa các nước trong lục địa: Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma và các nước trên đại dương: Philipin, Inđônêxia. Về mặt tự nhiên, với vị trí trên đây, Việt Nam trở thành nơi giao lưu và hội tụ của các luồng di cư động, thực vật từ Đông Bắc xuống và từ Tây Nam lên. Điều đó không những đã tạo cho nước ta có tập đoàn động, thực vật đa dạng và phong phú mà còn cho phép chúng ta có thể nhập nội và thuần dưỡng các loại cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc khác nhau trên thế giới. Về mặt giao thông, vị trí trên đây đã tạo cho Việt Nam những điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới với các loại giao thông vận tải khác nhau: đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không. 10
  11. 2.1.1.3. Việt Nam nằm trong khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất trên thế giới Nước ta nằm trong khu vực tiếp giáp với Trung Quốc, gần với Nhật Bản và nói rộng hơn nữa là nằm trong khu vực châu á - Thái Bình Dương. Các nước trong khối ASEAN và Trung Quốc trong những thập kỷ gần đây đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao vào loại đứng đầu thế giới. Trong khi tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của thế giới là 3- 5%, thì trong khu vực đã đạt được tốc độ bình quân là 6-9%. Các nước và lãnh thổ: Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Xinhgapo, sau thời gian phát triển nhanh đã trở thành những con rồng của châu á. Với vị trí địa lý như trên và với thực trạng nền kinh tế đó của các nước trong khu vực đã và đang tạo ra cho nước ta những lợi thế quan trọng và cơ hội lớn trong việc hợp tác và tiếp thu những kinh nghiệm quý báu về phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời nước ta còn có thể tranh thủ tối đa nguồn vốn, kỹ thuật - công nghệ tiên tiến và hiện đại từ các nước trong khu vực; mặt khác, khu vực châu á - Thái Bình Dương còn là thị trường quan trọng và rộng lớn nhập khẩu nhiều loại hàng hoá của nước ta. Đó là những thuận lợi cơ bản và cơ hội lớn để Việt Nam giao lưu và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế - xã hội với các nước trong khu vực và sớm hội nhập vào thị trường kinh tế thế giới. 2.1.2. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam 2.1.2.1. Tài nguyên khí hậu Với vị trí địa lý được xác định bởi hệ thống toạ độ nêu trên, Việt Nam nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam châu á, với đặc trưng nắng, nóng, ẩm. Trong năm có hai mùa gió tác động: gió Đông Bắc về mùa Đông gây ra rét, khô, lạnh và gió Đông Nam về mùa hè gây ra nóng, ẩm. Việt Nam quanh năm nhận được lượng nhiệt rất lớn của mặt trời, số giờ nắng trung bình trong năm lên tới trên 2300 giờ, nó đã cung cấp lượng bức xạ nhiệt khá 2 lớn (bình quân 100-130 kcal/cm /năm). Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.000 mm, năm cao nhất lên tới trên 3.000 mm, năm thấp nhất vào khoảng 1.600 - 1.800 mm. Lượng mưa đó phân bố không đều theo thời gian và không gian: nơi có lượng mưa cao nhất là vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh và Đà Nẵng (khoảng 3200 mm/năm) và nơi thấp nhất là Phan Rang (650-700 mm/năm); theo thời gian thì lượng mưa phân bố tập trung chủ yếu vào các tháng trong mùa hè chiếm tới 80% lượng mưa cả năm. Độ ẩm không khí cao, dao động trong khoảng 80% và thay đổi theo vùng, theo mùa trong năm. Nhiệt độ bình o quân trong năm luôn luôn trên 20 C, cao nhất vào các tháng 6 và 7 (nhiệt độ khoảng 35- o o 36 C, cũng có năm nhiệt độ lên tới 38-39 C) và thấp nhất vào cuối tháng 12, tháng 1 o o (nhiệt độ xuống dưới 15 C, cũng có năm dưới 10 C, ở một số nơi vùng núi cao nhiệt độ o xuống tới 0 C đã xảy ra hiện tượng sương muối, băng giá, nhưng cũng chỉ trong một vài ngày). 11
  12. Tuy nhiệt độ bình quân chung như vậy nhưng nó cũng khác nhau theo địa hình, theo vùng của đất nước, cụ thể là nhiệt độ đó tăng dần theo địa hình từ cao xuống thấp và từ Bắc vào Nam. Điều kiện khí hậu thời tiết nước ta như vậy đã tạo ra nhiều thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt đối với nông nghiệp nó là cơ sở để chúng ta phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, với tập đoàn cây trồng, vật nuôi đa dạng và phong phú; có thể phân bố sản xuất ở nhiều vùng khác nhau của đất nước với nhiều mùa vụ sản xuất trong năm; đa dạng hoá sản phẩm với năng suất và chất lượng cao. Tuy nhiên, chính điều kiện khí hậu thời tiết đó cũng gây không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân ta. Do nắng lắm, mưa nhiều nhưng lượng mưa chủ yếu tập trung vào mùa mưa; kết hợp với địa hình phức tạp, dốc dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, địa hình các tỉnh phía Nam lại thấp trũng; hệ thống sông ngòi dày đặc mà lòng sông thì hẹp và dốc theo địa hình; lại chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa châu á, do vậy hàng năm thường xảy ra lũ lụt và bão quét về mùa mưa, hạn hán về mùa khô, gây ra biết bao khó khăn và thiệt hại cho sản xuất, đời sống của nhân dân ta. Mặt khác, khí hậu nóng ẩm cũng là điều kiện thuận lợi cho sâu, bệnh, dịch hại vật nuôi và cây trồng phát sinh và phát triển, gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp nước ta. Chính vì những điều trên, đòi hỏi chúng ta phải điều tra, phân tích kỹ điều kiện khí hậu thời tiết của từng vùng, từng địa phương và nắm vững quy luật diễn biến của các hiện tượng tự nhiên để có những biện pháp hữu hiệu nhằm khai thác tốt những tác động tích cực, những thuận lợi mà điều kiện khí hậu mang lại, đồng thời khắc phục và hạn chế những khó khăn, thiệt hại do chính điều kiện đó gây ra cho sản xuất và đời sống. 2.1. 2.2.Tài nguyên đất Diện tích đất đai nói lên quy mô lãnh thổ của một quốc gia, là tài sản quý của mỗi nước. Nói chung, mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều cần đất, song riêng trong nông nghiệp thì đất đai là loại tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu không thể thiếu, không thể thay thế được, nếu như không có đất thì không thể có ngành sản xuất nông nghiệp, đồng thời đất đai còn là thành phần của môi trường sống của con người. Toàn bộ quỹ đất đai tự nhiên của Việt Nam có 32.924,1 nghìn ha (xếp thứ 56 trên thế giới), trong khi đó dân số nước ta năm 2001 là 78.685,8 nghìn người, cho nên bình quân diện tích đất tự nhiên trên đầu người rất thấp (gần 0,42 ha/ người). Quỹ đất đai của nước ta được phân bổ như ở biểu 3.1. Đất đai nước ta rất đa dạng: nằm trong vành đai Bắc bán cầu với vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa (nắng lắm, mưa nhiều, nhiệt độ không khí cao, độ ẩm không khí lớn) nên các quá trình trao đổi chất xảy ra mạnh mẽ, đó là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. 12
  13. Biểu 3.1. Hiện trạng phân bổ và sử dụng đất năm 2000 Diện tích Cơ cấu Các loại đất (nghìn ha) (%) * Tổng số cả nước 32.924,1 100,0 1. Đất nông nghiệp 9.345,4 28,4 2. Đất lâm nghiệp có rừng 11.575,4 35,2 3. Đất chuyên dùng 1.532,8 4,6 4. Đất ở 443,2 1,3 5. Đất chưa sử dụng và sông, suối, núi đá 10.027,3 30,5 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001 Về loại hình, do quá trình hình thành và phát triển khác nhau nên đất đai của nước ta có 13 nhóm, gồm 64 loại khác nhau, vì vậy nên có các hướng khai thác và sử dụng khác nhau. Trong 13 nhóm đất đó có 2 nhóm đất quý, có giá trị kinh tế cao đó là nhóm đất phù sa và đất đỏ vàng. Đất phù sa chủ yếu tập trung ở hai vùng đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, đây là loại đất rất thích hợp cho việc gieo trồng và phát triển cây lúa nước cũng như các loại cây rau màu khác. Trong nhóm đất đỏ vàng, do quá trình phong hoá nhiệt đới và gốc đá mẹ khác nhau nên đã hình thành các loại đất đỏ vàng khác nhau, trong đó có hai loại đất tốt: đất đỏ vàng Feralit, được phân bố chủ yếu ở các vùng trung du và miền núi phía Bắc và một số tỉnh vùng Bắc Trung Bộ. Loại đất này rất thích hợp cho việc bố trí và phát triển nhóm cây công nghiệp dài ngày có nguồn gốc nhiệt đới như chè và cà phê. Đặc biệt trong nhóm đất đỏ vàng có hơn 2 triệu ha đất đỏ Bazan tập trung chủ yếu ở vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, đất này là cơ sở rất tốt cho việc phát triển các cây công nghiệp nhiệt đới có giá trị kinh tế cao như: cao su, cà phê, hồ tiêu, chè và các loại cây ăn quả. Ngoài các nhóm, các loại đất tốt đó, trong tổng diện tích đất tự nhiên của nước ta có tới 2/3 diện tích là đất đồi núi, đất dốc, cộng với chế độ canh tác cũ lạc hậu để lại, lượng mưa hàng năm lớn, cho nên hiện nay có tới 20% diện tích tự nhiên bị xấu đi do bị xói mòn, rửa trôi đã gây ra hiện tượng đất bạc màu, nghèo dinh dưỡng. Mặt khác, phần diện tích bị nhiễm phèn, nhiễm mặn và sa mạc hoá đang tồn tại ở vùng ven biển miền Trung và một số vùng khác, đó là những khó khăn lớn đối với sản xuất nông nghiệp nước ta. Do đó, trong quá trình phân bố và phát triển sản xuất đòi hỏi đi đôi với sử dụng và khai thác những lợi thế về nguồn lực đất đai tạo ra cho sản xuất, cần phải tăng cường bảo vệ, cải tạo và bồi dưỡng đất đai để không ngừng tái tạo và nâng cao sức sản xuất của loại tài nguyên quý giá và quan trọng này. 13
  14. 2.1.2.3. Tài nguyên nước Nước được coi là nhựa sống của sinh vật trên trái đất. Nước ta có nguồn tài nguyên nước rất dồi dào, với đầy đủ các loại nước khác nhau được phân bố trên mặt đất và trong lòng đất: nước mặt, nước ngầm. Điều đó đã tạo ra cho chúng ta những điều kiện thuận lợi và khả năng to lớn trong việc cung cấp nước sạch cho sinh hoạt, cả nước khoáng giải khát và chữa bệnh; cung cấp nước tưới cho cây trồng, vật nuôi; phát triển ngành khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, ngành công nghiệp thuỷ điện, ngành giao thông vận tải đường thuỷ, ngành dịch vụ du lịch.v.v Nguồn nước mặt của nước ta rất phong phú, với hệ thống sông ngòi, kênh rạch khá dày đặc và được phân bố tương đối đồng đều trong cả nước, trong đó, đại diện cho ba miền Bắc, Trung, Nam có ba con sông lớn, đó là sông Hồng, sông Cả và sông Cửu Long. Lượng nước trên các sông phụ thuộc chủ yếu vào lượng nước mưa theo mùa: về mùa mưa (ở miền Bắc từ tháng 4 đến tháng 10, miền Nam muộn hơn, từ tháng 5 đến tháng 11), trong thời gian này lượng nước mưa cung cấp cho mặt đất tới 80% lượng nước mưa 3 cả năm. Hàng năm các con sông của nước ta đổ ra biển tới 900 tỷ m nước. Đặc điểm sông ngòi Việt Nam có rất nhiều thuận lợi đối với sản xuất và đời sống: chất lượng nước tốt, hàm lượng phù sa cao, khoáng hoá thấp và ít biến đổi, độ pH trung bình (7,2 - 8). Nhưng bên cạnh đó, do lượng mưa hàng năm lớn lại phân bố không đều trong năm, sông ngòi dày đặc nhưng lòng sông hẹp và dốc cũng đã gây ra không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống. Do vậy, cần phải có những biện pháp tích cực để phát huy, khai thác những lợi thế, đồng thời khắc phục, hạn chế những khó khăn, thiệt hại do chính nguồn tài nguyên nước gây ra. 2.1.2.4. Tài nguyên rừng Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn nhưng có khả năng phục hồi còn gọi là nguồn tài nguyên tái tạo. Ngoài ý nghĩa về cung cấp nguồn lâm sản: động vật và thực vật, rừng còn thể hiện như một yếu tố địa lý không thể thiếu vắng được trong tổng thể môi trường tự nhiên. Rừng có tác dụng về nhiều mặt: điều hoà khí hậu, chế ngự nguy cơ lũ lụt, ngăn chặn sự phá huỷ của các dòng thác lũ, chống xói mòn rửa trôi bảo vệ đất, hạn chế sức phá huỷ của gió bão, chống cát bay, làm tăng khả năng giữ ẩm của đất bảo vệ sản xuất và đời sống. 14
  15. Biểu 3.2. Tình hình biến động diện tích rừng ở Việt Nam (Đơn vị tính: nghìn ha) Năm Tổng số Rừng tự nhiên Rừng trồng 1943 14000 14000 0 1976 11169 11077 92 1980 10608 10486 422 1985 9892 9308 584 1990 9175 8430 745 1995 9302 8252 1050 2000 11575,4 - - Nguồn: Niên giám thống kê 2001 Diện tích rừng và đất rừng của nước ta khá lớn, khoảng 19 triệu ha, trong đó riêng diện tích đất có rừng năm 2000 có 11.575,4 nghìn ha (chiếm tới 35,2 % diện tích đất tự nhiên của cả nước), nhưng diện tích có rừng của nước ta chủ yếu là rừng tái sinh và rừng trồng mới. Diện tích rừng và đất rừng của nước ta được phân bố ở tất cả các dạng địa hình khác nhau và ở khắp các vùng miền trong cả nước, nhưng các vùng có quy mô diện tích rừng tập trung lớn là: Tây Nguyên (2.993,2 nghìn ha), Đông Bắc (2.673,9 nghìn ha), Bắc Trung Bộ (2.222,0 nghìn ha), Duyên hải Nam Trung Bộ (1.166,3 nghìn ha), Tây Bắc (1037,0 nghìn ha), Đông Nam Bộ (1.026,2 nghìn ha). Bên cạnh diện tích có rừng nêu trên thì diện tích đất trống đồi núi trọc có khả năng trồng rừng được còn khá lớn. Rừng Việt Nam phần lớn là rừng nhiệt đới, song bên cạnh đó có các khu rừng ôn đới ở các vùng núi cao thuộc các tỉnh phía Bắc và vùng Tây Nguyên. Do điều kiện khí hậu nhiệt đới: ánh sáng nhiều, nhiệt lượng lớn, mưa nhiều, độ ẩm cao đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho nhiều chủng loại động, thực vật rừng sinh trưởng và phát triển mạnh. Tài nguyên rừng phong phú và đa dạng với tập đoàn động, thực vật rừng ở nước ta có tới hàng nghìn loại thực vật, hàng trăm loài động vật; trong các loại cây lấy gỗ có đủ các nhóm từ nhóm I (đinh, lim, sến, táu ) đến các nhóm khác và các loại tre, nứa khác nhau đều có trong rừng Việt Nam. Nhưng bên cạnh những thuận lợi đó cũng có một số khó khăn trong việc chăm sóc và bảo vệ rừng vì rừng tạp với nhiều loại cây, dây leo; sâu bệnh nhiều và phát triển mạnh. Với những thuận lợi và khó khăn như vậy, nên đi đôi với khai thác lâm sản, phải tích cực bảo vệ, tu bổ, khoanh nuôi để phục hồi và tái sinh rừng, đồng thời phải phát triển và mở rộng diện tích trồng rừng, có như vậy mới đảm bảo rừng thường xuyên cung cấp lâm sản, nguyên liệu có chất lượng cao cho nền kinh tế quốc dân và bảo vệ tốt được môi trường sinh thái. 15
  16. 2.1.2.5. Tài nguyên biển Việt Nam có hơn 3.260 km bờ biển, chiếm gần 50% chiều dài biên giới của đất nước 2 và với diện tích trên 1 triệu km thềm lục địa, đó là một thế mạnh quan trọng của nước ta. Biển là cơ sở tốt để phát triển ngành ngư nghiệp, là địa bàn thực hiện việc khai thác và nuôi trồng hải sản, từ đó thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. Bên cạnh đó, tài nguyên biển còn tạo ra điều kiện thuận lợi cho giao thông vận tải đường thuỷ và ngành công nghiệp đóng tàu thuỷ, nghề muối, ngành kinh tế dịch vụ du lịch phát triển. Đặc biệt, một nguồn lợi to lớn và có giá trị kinh tế cao mà biển đem lại cho đất nước phải kể đến đó là kho dầu khí nằm trong lòng đại dương với trữ lượng khá cao. a) Về hải sản: Biển Việt Nam là biển nhiệt đới nên tài nguyên hải sản rất phong phú và đa dạng. o o Nước ta có vị trí địa lý khá độc đáo, lãnh thổ của đất nước lại trải dài từ 8 30’ đến 23 22’ vĩ độ Bắc nên có thể nói rằng biển Việt Nam là nơi giao lưu và hội tụ của các luồng di cư động, thực vật biển từ Đông Bắc xuống và từ Tây Nam lên. Trong các loài hải sản hầu như có gần đầy đủ các loại cá, tôm, cua, trai, ốc, ngao, sò.v.v có nhiều loại hải sản quý có giá trị kinh tế cao với trữ lượng khá lớn cũng có trong biển Việt Nam. b) Về muối: Nước biển Việt Nam có độ mặn trung bình trên thế giới với nồng độ muối bình quân là 3,5%, nhiều nơi có điều kiện, khả năng và nhân dân rất giàu kinh nghiệm, kỹ thuật cao trong nghề muối, như: Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Bình Thuận, Bà Rịa đó là những thế mạnh cho nghề muối của nước ta. c) Về du lịch nghỉ mát: Đặc điểm khí hậu thời tiết nắng nóng ở nước ta cộng với điều kiện biển có nhiều nơi du lịch nghỉ mát có vị trí đẹp và ý nghĩa lớn, đây cũng đang là một nguồn lực to lớn đối với ngành kinh tế quan trọng, có khả năng mang lại lợi ích kinh tế lớn. Có nhiều khu du lịch biển đã và đang được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến, như: Hạ Long, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Đồng Châu (Thái Bình), Hải Thịnh, Quất Lâm (Nam Định), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Thiên Cầm, Thạch Hải (Hà Tĩnh), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu).v.v chính những nơi đó đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và cả nước. 16
  17. d) Về dầu khí: Đây là nguồn tài nguyên hàng đầu, góp phần quan trọng đáng kể vào việc phát triển kinh tế, hình thành nên nền công nghiệp dầu khí non trẻ của nước nhà. Theo dự đoán ban đầu thì trữ lượng dầu mỏ có thể đạt 5 - 6 tỷ tấn và trữ lượng khí đốt khoảng 180 - 330 tỷ 3 m . Khả năng khai thác hàng năm đạt khoảng 23 - 25 triệu tấn dầu thô. 2.1.2.6. Tài nguyên nhiên liệu, năng lượng Nguồn tài nguyên này ở nước ta rất đa dạng và phong phú với trữ lượng tương đối lớn, chất lượng tốt. Điều đó tạo điều kiện cho ngành công nghiệp nhiên liệu, năng lượng phát triển; có khả năng thoả mãn nhu cầu về nhiên liệu, năng lượng của nền kinh tế quốc dân và tham gia hợp tác kinh tế với nước ngoài trong lĩnh vực này. a) Than: Nguồn tài nguyên than ở nước ta có cả than đá, than nâu và than bùn. Than đá có trữ lượng lớn khoảng 6 tỷ tấn (đứng đầu khu vực Đông Nam á), chủ yếu tập trung ở Quảng Ninh (khoảng 5,5 tỷ tấn), được phân bố từ lộ thiên và vào sâu trong lòng đất, tính từ mặt đất đến độ sâu 300 m, có trữ lượng thăm dò là 3,5 tỷ tấn; từ 300 đến 900 m, có trữ lượng thăm dò là 2 tỷ tấn. Ngoài Quảng Ninh, than đá còn có ở: Thái Nguyên (80 triệu tấn); Lạng Sơn (hơn 100 triệu tấn); Quảng Nam (hơn 10 triệu tấn) Than đá Việt Nam có chất lượng tốt, chủ yếu là loại Antraxit có tỷ lệ cacbon cao, cho nhiệt lượng cao (bình quân 8.120 - 8.650 kcal/1kg than). Than nâu phân bố tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng, từ độ sâu 200m đến 2.000m, trữ lượng dự báo 900 triệu tấn (hiện nay chưa có khả năng khai thác). Với trên 100 điểm có than bùn, vùng có trữ lượng lớn nhất và tập trung là Đồng bằng sông Cửu Long (khoảng 400 - 500 triệu tấn). b) Dầu khí. Trữ lượng dầu khí tập trung chủ yếu ở vùng thềm lục địa thuộc địa bàn phía Nam: Huế, Bà Rịa - Vũng Tàu, Côn Đảo, Phú Quốc. 3 Trữ lượng dự báo khoảng 5 - 6 tỷ tấn dầu và khoảng 180 đến 330 tỷ m khí đốt. Khả năng mỗi năm có thể khai thác được 23 - 25 triệu tấn dầu thô. Hiện nay nước ta đang xây dựng khu công nghiệp hoàn chỉnh Dung Quất (Quảng Ngãi) mà trọng tâm là công nghiệp hoá dầu và trong tương lai gần nước ta sẽ đáp ứng được nhu cầu trong nước về nhiên liệu lỏng và khí đốt do chính nước ta khai thác và chế biến, đồng thời sẽ phát triển ngành công nghiệp hoá chất tạo ra các loại sản phẩm đi từ gốc hydrocacbon, như: phân đạm, sợi tổng hợp, chất dẻo mà nguyên liệu do ngành công nghiệp hoá dầu cung cấp. c) Nguồn thuỷ năng: Việt Nam là một trong 14 nước giầu thuỷ năng trên thế giới. Tổng trữ năng của nước ta ước tính khoảng 300 tỷ kwh. Song nguồn trữ năng này phân bố không đều giữa các 17
  18. vùng trong nước: vùng Bắc Bộ 47%; vùng Trung Bộ 15%, vùng Nam Trung Bộ 28% và vùng Nam Bộ 10%. Trong đó, chỉ có một số con sông có trữ lượng thuỷ năng lớn như: Sông Đà 38,5%, sông Đồng Nai 14,1%, sông Xê Xan: 9,1%. Với tiềm năng to lớn đó, ngành thuỷ điện nước ta đã và đang có bước phát triển đáng kể. Nước ta đã xây dựng và đưa vào hoạt động các nhà máy thuỷ điện như: Thác Bà công suất 108 MW, Hoà Bình công suất 1.920 MW, Đa Nhim công suất 160 MW, Trị An 400 MW, Yaly 700 MW và trên 200 trạm thuỷ điện nhỏ với tổng công suất là 330 MW. Các nhà máy thuỷ điện đang xây dựng: Hàm Thuận 330 MW, Thác Mơ 120 MW, sông Hinh 60 MW, Vĩnh Sơn 60 MW Đặc biệt, ta đang giải phóng mặt bằng để khởi công xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La trên sông Đà, đây là nhà máy có quy mô lớn nhất với công suất thiết kế là 4.000 MW. Tuy vậy, Việt Nam mới chỉ khai thác hơn 10% trữ năng hiện có, trong khi đó các nước: Thụy Sỹ, Pháp, Na Uy, Thụy Điển, ý đã khai thác tới 70 - 90% trữ năng mà họ có. Ngoài 3 loại tài nguyên nhiên liệu, năng lượng chủ yếu đã và đang được khai thác có hiệu quả nêu trên, Việt Nam còn có nhiều loại năng lượng khác chưa có điều kiện và khả năng khai thác, như: năng lượng mặt trời, năng lượng thuỷ triều, năng lượng gió, năng lượng hạt nhân, nhiệt năng trong lòng đất cũng là tiềm năng lớn của nước ta cần được đầu tư nghiên cứu để tổ chức khai thác và sử dụng khi có đủ điều kiện về vốn, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ cho phép. 2.1.2.7. Tài nguyên khoáng sản Nguồn tài nguyên khoáng sản của nước ta rất phong phú về chủng loại và đa dạng về loại hình, trong đó có cả khoáng sản kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý hiếm và có cả các loại khoáng sản phi kim Có nhiều loại với trữ lượng lớn, song cũng có một số khoáng sản như: Thạch cao, kali trữ lượng hạn chế. Theo kết quả điều tra thăm dò địa chất và tìm kiếm khoáng sản, Việt Nam có hơn 3.500 mỏ và điểm quặng của 80 loại khoáng sản khác nhau, trong đó chúng ta đã tổ chức khai thác ở 270 mỏ và điểm quặng với 30 loại quặng. a) Các mỏ quặng kim loại đen: Mỏ sắt ở Thái Nguyên, Yên Bái, Hà Tĩnh (mỏ sắt Thạch Khê - Thạch Hà - Hà tĩnh mới được phát hiện đầu thập kỷ 60 thế kỷ XX với trữ lượng thăm dò hàng trăm triệu tấn, nhưng hiện nay chưa có điều kiện khai thác). Ngoài sắt còn có mangan, crom b) Các mỏ và điểm quặng kim loại màu: - Quặng boxit có ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn với trữ lượng khoảng 50 triệu tấn, ở vùng cao nguyên miền Trung (Đắc Lắc, Lâm Đồng) với trữ lượng khoảng 10 tỷ tấn. - Mỏ thiếc có ở Cao Bằng, Vĩnh Phúc (Tam Đảo) với trữ lượng khoảng 140 ngàn tấn. - Mỏ kẽm có ở Hà Giang, Bắc Cạn, Thái Nguyên với trữ lượng khoảng 4 triệu tấn. - Mỏ đồng: Lào Cai, Sơn La. 18
  19. - Mỏ chì lẫn bạc: Cao Bằng, Sơn La. c) Các quặng kim loại quý hiếm: - Ăngtimoan: Cao Bằng, Hà Giang. - Vàng: Bồng Miêu (Quảng Nam) và dọc sông Hồng. - Thuỷ ngân: Cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang). d) Khoáng sản phi kim loại: được chia thành 2 nhóm - Nhóm làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp hoá chất sản xuất phân bón: Apatít (có ở Lào Cai với trữ lượng khoảng 2 tỷ tấn); Phốt pho (có ở Lạng Sơn, Thanh Hoá). - Nhóm làm nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng và đồ gia dụng: + Cát trắng: có ở các tỉnh vùng Duyên hải Trung Bộ (dùng làm nguyên liệu chế tạo thuỷ tinh, pha lê). + Cao lanh: có ở Hải Dương, Móng Cái, Phú Thọ ( dùng để sản xuất đồ sứ). + Đá vôi, đất sét: có ở nhiều nơi (sản xuất vôi, xi măng). + Đá, cát, sỏi xây dựng được phân bố khắp nơi trong đất nước. + Các loại đá hoa vân: Tràng Kênh, Hòn Gai, Ninh bình, Thanh Hoá e) Nước khoáng: có ở nhiều nơi trong cả nước. Nói chung nguồn tài nguyên khoáng sản của Việt Nam có nhiều dạng, loại khác nhau với trữ lượng khá lớn, chất lượng cao và phân bố tập trung gần nguồn năng lượng, động lực, cho nên có điều kiện để phát triển ngành công nghiệp khai khoáng và luyện kim đạt hiệu quả cao. 2.2.Tài nguyên nhân văn 2.2.1. Những vấn đề lý luận về phát triển, phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động 2.2.1.1. Mối quan hệ giữa dân cư, lao động và hoạt động sản xuất xã hội Một trong những nguồn tài nguyên quý giá của đất nước đó là tài nguyên nhân văn. Có thể hiểu tài nguyên nhân văn bao gồm sức lao động của con người và những giá trị vật chất, văn hoá, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử. Khai thác đầy đủ và có hiệu quả lợi thế tiềm năng nguồn tài nguyên này để tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội là các định hướng cơ bản, xu thế tất yếu của thời đại. Lịch sử đã chứng minh rằng: Dân cư - nguồn lao động xã hội và hoạt động kinh tế là hai mặt của quá trình tạo ra của cải xã hội. Hai mặt đó tác động qua lại rất phức tạp, quy định và chi phối lẫn nhau. Sự phát triển kinh tế xã hội xác định những đặc điểm chủ yếu của sự phân bố dân cư và nguồn lao động xã hội. 19
  20. Ngược lại, sự phân bố dân cư và nguồn lao động xã hội lại là tiền đề, là động lực quan trọng của sự hình thành và phát triển các quá trình kinh tế xã hội trong một nước, một vùng. Dân cư và nguồn lao động không chỉ là lực lượng sản xuất trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là lực lượng tiêu thụ các sản phẩm của xã hội, kích thích quá trình tái sản xuất mở rộng của xã hội, thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội. Trong mọi quá trình sản xuất dù giản đơn hay phức tạp đều không thể thiếu nguồn lao động. Để tăng doanh thu lợi nhuận trong quá trình sản xuất thì các doanh nghiệp không thể không quan tâm tới các vấn đề: giá cả sức lao động, tiền lương, thất nghiệp Rõ ràng trong hệ thống tự nhiên - dân cư - kinh tế, chính dân cư là thành phần năng động nhất, gắn bó giữa tự nhiên và kinh tế nhờ những thuộc tính sẵn có của mình. Toàn bộ những giá trị vật chất tinh thần cần thiết cho xã hội đều do lao động của con người tạo ra. 2.2.1.2. Những vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu về dân cư lao động * Dân số và mật độ dân số Dân số là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội. Dân số đông cũng đồng nghĩa với nguồn lao động dồi dào và còn là thị trường tiêu thụ rộng lớn. 2 Mật độ dân số: là số lượng người trên một đơn vị diện tích (1km ). Mật độ dân số phản ánh mức độ tập trung dân cư trên lãnh thổ. Trong thực tế, dân số và mật độ dân số ở các nước, các vùng có sự khác nhau. Điều đó ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, mỗi vùng. Tuy nhiên, dân số và mật độ dân số không phải là một chỉ tiêu hoàn hảo về nguồn lao động. *. Lứa tuổi, giới tính Kết cấu dân số theo tuổi và giới là vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu về dân cư, lao động. Kết cấu độ tuổi của dân cư có ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng và chất lượng lao động. Tỷ lệ người có khả năng lao động trong độ tuổi lao động cao hay thấp có ảnh hưởng tới việc hình thành các ngành nghề thu hút nhiều hay ít lao động. ở mỗi độ tuổi, dân cư có khả năng làm việc khác nhau đồng thời nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng cũng khác nhau. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sản xuất và nhu cầu tiêu dùng chung của xã hội. Nam và nữ đều có nhu cầu về giới khác nhau. Giới tính của người lao động ảnh hưởng tới sự sắp xếp ngành nghề cho người lao động, đảm bảo sự hợp lý giữa sức khoẻ người lao động và mức độ đòi hỏi của công việc được giao. *. Nghề nghiệp, trình độ học vấn, khoa học, kỹ thuật, truyền thống sản xuất 20
  21. Nghiên cứu nghề nghiệp, trình độ học vấn, khoa học kỹ thuật và truyền thống sản xuất của người lao động có tác động lớn tới sự hình thành các ngành sản xuất của dân cư, nhất là những ngành sản xuất chuyên môn hoá. Truyền thống sản xuất với tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới việc tổ chức các ngành sản xuất và dịch vụ trong vùng. *. Tỷ suất gia tăng dân số tự nhiên Tỷ lệ sinh là số lượng trẻ em sinh ra trung bình của 1000 dân vào thời điểm giữa năm (30/6), tính theo công thức: Trong đó : W : Tỷ lệ sinh của năm t Ut Ut : Số trẻ em sinh ra của năm t L : Số dân giữa năm (30/6) của năm t t Tỷ lệ tử là số người chết trung bình của 1000 dân ở thời điểm giữa năm (30/6), tính theo công thức: Trong đó: WZt: Tỷ lệ tử của năm t Z : Số người chết trong năm t t Lt: Số dân giữa năm (30/6) của năm t Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên chính là hiệu số giữa tỷ suất sinh và tỷ suất tử của dân số trong năm. Nó cho biết trung bình 1000 dân của dân số ở một lãnh thổ nào đó trong một năm có thêm (hoặc bớt đi) bao nhiêu người. Đơn vị tính của tỷ suất gia tăng dân số tự nhiên là ‰ (hoặc đổi ra %). Về cơ bản, gia tăng dân số tự nhiên cũng chính là quá trình tái sản xuất dân cư. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên: *. Sự biến động cơ học của dân số Di dân cùng với sự sinh và tử là ba quá trình cơ bản của dân số. Sự di chuyển dân cư (hoặc nhập cư) làm thay đổi số lượng, chất lượng dân cư của các vùng trong nước hoặc giữa các nước khác nhau trên thế giới. Chính vì vậy, ở các nước hàng năm tính dân số hay các cuộc tổng điều tra dân số bao giờ cũng phải quan tâm tới vấn đề di dân giữa các vùng và di dân quốc tế. Đó chính là một trong những cơ sở để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội. 21
  22. 2.2.2. Dân cư 2.2.2.1. Dân cư Dân cư là tập hợp người sống trên lãnh thổ, được đặc trưng bởi kết cấu, mối quan hệ qua lại với nhau về mặt kinh tế, bởi tính chất của việc phân công lao động và cư trú theo lãnh thổ. Việt Nam là một nước đông dân. Theo số liệu tổng điều tra dân số toàn quốc ngày 1/4/1999 cả nước có 76.327.953 người (tăng 11,9 triệu người so với tổng điều tra dân số ngày 1/4/1989). Với dân số này, Việt Nam đứng thứ 13 trong tổng số hơn 220 quốc gia trên thế giới sau Trung Quốc, ấn Độ, Hoa Kỳ, Indonesia, Braxin, Liên bang Nga, Pakistan, Nhật Bản, Banglades, Nigiêria, Mêhico, Cộng hoà liên bang Đức. Nếu tính trong khu vực Đông Nam á, dân số nước ta đứng thứ hai sau Indonesia. So với dân số thế giới theo thống kê của Liên Hợp Quốc (12/10/1999) đạt 6 tỷ người, dân số Việt Nam chiếm gần 1,3%. Đối với từng đơn vị hành chính (tỉnh, thành phố) dân số cũng có sự khác nhau. Theo niên giám thống kê năm 2001 (Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội), thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị có số dân lớn nhất: 5.378.100 người, Thanh Hoá là đơn vị có số dân đứng thứ hai trong cả nước: 3.509.600 người. Các tỉnh có dân số từ hai đến ba triệu người gồm Nghệ An (2.913.800 người), Hà Nội (2.841.700 người), Hà Tây (2.432.000 người), An giang (2.099.400 người) và Đồng Nai (2.067.200 người). Có 29 tỉnh, thành phố với số dân từ 1 đến 2 triệu người đó là: Thành phố Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Bình Thuận, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng và Cà Mau. Có 23 tỉnh, thành phố còn lại, dân số từ 0,5 đến 1 triệu người: Bắc Ninh, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh, Bạc Liêu. Có 2 tỉnh, dân số dưới 0,5 triệu người là Bắc Cạn (283.000 người) và Kon Tum (330.700 người). Dân số là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế. Với dân số đông, nước ta có nguồn lao động dồi dào và còn là thị trường tiêu thụ rộng lớn. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, dân số đông cũng là một trở ngại lớn cho việc phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho nhân dân. 22
  23. Sự thay đổi dân số ở Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 19 cho đến năm 2001 được thể hiện qua biểu 4.1. Biểu 4.1. Dân số Việt Nam qua các năm (Đơn vị tính: triệu người) Năm Số dân Năm Số dân 1802 – 1819 4,3 1970 41,0 1820 – 1840 5,0 1977 50,0 1841 – 1883 7,2 1979 52,5 1921 15,6 1985 60,0 1931 17,7 1989 64,4 1939 19,6 1995 73,9 1943 22,1 1999 76,3 1945 20,1 2000 77,6 1955 25,0 2001 78,6 1960 30,0 Nguồn: Niên giám thống kê 2001 Số liệu trên chứng tỏ tốc độ tăng dân số không giống nhau giữa các thời kỳ. Trong suốt thế kỷ XIX tỷ suất tăng bình quân hàng năm khoảng 0,4 %. Vào đầu thế kỷ XX tỷ suất tăng hàng năm đạt 1,3%, đặc biệt ở thời kỳ 1943 - 1951. Số dân có xu hướng giảm do ảnh hưởng của chiến tranh và nạn đói. Từ những năm 50 trở lại đây, số dân nước ta đã tăng nhanh, trong đó có nhiều thời kỳ mức tăng trung bình năm vượt quá 3% (1954 - 1960 : 3,9%; 1960 - 1970 : 3,24%; 1970 - 1977: 3%). Do kết quả của việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, tốc độ tăng dân số hàng năm có xu hướng giảm dần tuy còn chậm. Thời kỳ giữa hai cuộc tổng điều tra dân số (1979 -1989) mức tăng bình quân hàng năm là 2,1%. Thời kỳ 1989 -1993 mức tăng dân số bình quân có nhích lên (2,2%), từ năm 1994 lại tiếp tục giảm còn 1,7%. Mức tăng tự nhiên của dân số ở Việt Nam có sự phân hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế và các tỉnh. Thông thường ở thành thị, mức gia tăng tự nhiên thấp (từ 1,4 - 1,5%), ở nông thôn mức gia tăng tự nhiên cao hơn (trên 2%). Dân số tăng nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đối với việc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đối với tài nguyên môi trường và việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho từng thành viên trong xã hội. 23
  24. Tốc độ tăng dân số và tốc độ phát triển kinh tế thường có quan hệ với nhau và được phản ánh trong mức sống của dân cư cũng như khả năng sản xuất của nền kinh tế và được thể hiện qua các chỉ tiêu: GDP/người/năm; các loại sản phẩm chủ yếu của nền sản xuất xã hội/người/năm. Hơn nữa dân số tăng nhanh cùng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá làm tăng các chất phế thải vào môi trường, làm ô nhiễm đất, nước, không khí. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn tới tuổi thọ của con người. Từ năm 1990, Liên Hợp Quốc đã dùng chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index) để đánh giá mức độ phát triển con người ở các nước và các vùng lãnh thổ. Chỉ số phát triển con người là thước đo tổng hợp về sự phát triển của con người. Nó đo thành tựu trung bình của một quốc gia trên ba phương diện của sự phát triển con người: - Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh được đo bằng tuổi thọ trung bình. - Kiến thức được đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục tiểu học, trung học và đại học. - Mức sống tử tế được đo bằng GDP (PPP) đầu người. (PPP: ngang bằng sức mua) Áp dụng công thức tính chung sau: Biểu 4.2. Các giá trị biên để tính HDI Chỉ tiêu Giá trị tối đa Giá trị tối thiểu Tuổi thọ (năm) 85 25 Tỷ lệ người lớn biết chữ 100 0 (%) Tỷ lệ các cấp giáo dục (%) 100 0 GDP (PPP) đầu người 40 000 100 Dựa vào các giá trị ở biểu và công thức trên ta tính được các chỉ số thước đo tuổi thọ, chỉ số tiếp thu giáo dục (= 2/3 chỉ số nhập học các cấp + 1/3 chỉ số người trưởng thành biết chữ) và chỉ số GDP (PPP)/đầu người. Sau đó chỉ số phát triển con người HDI được tính theo công thức sau: 24
  25. Theo cách tính toán như trên, chỉ số HDI của một số nước và một số vùng lãnh thổ như ở biểu 4.3. Biểu 4.3. Chỉ số phát triển con người của các nước Chỉ Các nước Chỉ số Chỉ Xếp số Chỉ số giáo (xếp hạng theo GDP(PPP)/ngư số hạng tuổi dục HDI) ời HDI thọ Na Uy 0,93 1 0,89 0,98 0,94 9 Ôxtrâylia 0,93 2 0,90 0,99 0,92 6 Canađa 0,93 3 0,89 0,98 0,93 6 Thụy Điển 0,93 4 0,91 0,99 0,90 6 Bỉ 0,93 5 0,89 0,99 0,92 5 Mỹ 0,93 6 0,86 0,98 0,96 4 Aixơlen 0,93 7 0,90 0,96 0,94 2 Hà Lan 0,93 8 0,88 0,99 0,92 1 Nhật Bản 0,92 9 0,93 0,93 0,92 8 Phần Lan 0,92 10 0,87 0,99 0,91 5 Latvia 0,79 50 0,75 0,93 0,69 1 Mêhicô 0,79 51 0,79 0,84 0,74 0 Panama 0,78 52 0,81 0,86 0,68 4 25
  26. Bêlarut 0,78 53 0,73 0,92 0,71 2 Bêlixê 0,77 54 0,81 0,86 0,65 6 Nga 0,77 55 0,69 0,92 0,72 5 Malaixia 0,77 56 0,79 0,80 0,74 4 Bungari 0,77 57 0,76 0,90 0,66 2 Rumani 0,77 58 0,75 0,88 0,68 2 Việt Nam 0,68 101 0,71 0,84 0,49 2 Pakixtan 0,48 127 0,58 0,43 0,49 9 Tôgô 0,48 128 0,44 0,58 0,44 0 Nêpan 0,47 129 0,55 0,47 0,42 7 Butan 0,47 130 0,61 0,39 0,43 6 Lào 0,32 131 0,47 0,51 0,45 1 Êtiopia 0,32 158 0,32 0,34 0,31 0 Buốckinaphaxô 0,30 159 0,35 0,23 0,38 9 Burundi 0,27 160 0,26 0,37 0,29 4 Nigiê 0,25 161 0,33 0,15 0,34 8 162 Xiêralêon 0,22 0,30 0,25 Nguồn:Báo cáo phát triển con người 2001 Công nghệ mới vì sự phát triển con người. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001. 26
  27. Như vậy về mặt toán học chỉ số HDI nằm trong khoảng: 0 < HDI < 1 Các quốc gia có hệ số càng gần 1 thì mức độ phát triển con người của họ càng cao. Ngược lại các quốc gia có hệ số HDI càng gần 0 thì mức độ phát triển con người càng thấp. 2.2.2.2. Kết cấu dân số *Kết cấu dân tộc: Khái niệm “các dân tộc” ở Việt Nam vẫn sử dụng, thực chất là để chỉ các tộc người. Viện Dân tộc học sau nhiều lần trao đổi qua các hội thảo khoa học, giới chuyên môn đã thống nhất về các tiêu chí để xác định thành phần tộc người ở Việt Nam là: - Sự cộng đồng về mặt ngôn ngữ. - Có các đặc điểm chung về sinh hoạt - văn hoá. - Có ý thức tự giác tộc người. Căn cứ vào 3 tiêu chí này chúng ta có được bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam (Công bố của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê nước CHXHCN Việt Nam ngày 2/3/1979). Số lượng các tộc người trong toàn quốc là 54, sắp xếp thứ tự theo số lượng cư dân như sau: 1. Kinh (Việt) 17. Chăm (Chàm) 2. Tày 18. Sán dìu 3. Thái 19. Hrê 4. Hoa (Hán) 20. Mnông 5. Khơme 21. Raglai 6. Mường 22. Xtiêng 7. Nùng 23. Bru (Vân kiều) 8. H’mông (Mèo) 24. Thổ 9. Dao 25. Giáy 10. Gia rai 26. Cơ tu 11. Ngái 27. Gié - Triêng 12. Êđê 28. Mạ 13. Bana 29. Khơ mú 14. Xơđăng 30. Co 15. Sán chay (Cao lan - Sán chỉ) 31. Tà ôi 27
  28. 16. Cơ ho 32. Chơ ro 33. Kháng 44. Chứt 34. Xinh mun 45. Mảng 35. Hà nhì 46. Pà thèn 36. Churu 47. Cơ lao 37. Lào 48. Cống 38. La chỉ 49. Bố y 39. Laha 50. Si la 40. Phù lá 51. Pu péo 41. La hủ 52. Brâu 42. Lự 53. Ơ đu 43. Lô lô 54. Rơ măm Các tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam có những đặc điểm, phong tục tập quán, truyền thống sản xuất, tổ chức xã hội, địa bàn cư trú rất khác nhau. Những đặc điểm đó ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi tộc người nói riêng và cả cộng đồng Việt Nam nói chung. a) Người Kinh: Đây là tộc người chiếm 88% dân số của cả nước, thuộc ngữ hệ Nam á, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, phân bố khắp 64 tỉnh, thành phố của cả nước nhưng tập trung nhiều nhất ở đồng bằng. Từ xưa đến nay, người Việt vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển của đất nước ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, quân sự, văn hoá, ngoại giao. Người Việt cổ đã sáng tạo ra nền văn minh rực rỡ với nền nông nghiệp lúa nước là chủ đạo, chinh phục châu thổ sông Hồng. Bên cạnh đó, người Việt còn phát triển hàng loạt nghề thủ công truyền thống sản xuất nhiều hàng hoá cần thiết cho cuộc sống như cái ăn, cái mặc, nhà ở và các phương tiện sống khác. Về tổ chức xã hội, người Việt lấy làng xã làm đơn vị cư trú. Làng xã là đặc trưng nổi bật về văn hoá, cư trú và tiêu biểu cho thiết chế làng xã Việt Nam. b) Các tộc người thiểu số ở phía Bắc: Phía Bắc Việt Nam là địa bàn cư trú của 32/54 tộc người ở Việt Nam với khoảng trên 50% số dân của các tộc người thiểu số trong toàn quốc. ở đây có nhiều tộc người với ngữ hệ khác nhau, từ Nam á (nhóm Việt - Mường, H’mông - Dao), Thái đến ngữ hệ Hán - Tạng. Số dân của mỗi tộc người dao động từ vài trăm, vài nghìn đến vài triệu người. - Người Tày: 28
  29. Người Tày thuộc ngữ hệ Tày - Thái với khoảng 1,2 triệu người. Người Tày sinh sống ở vùng núi thấp thuộc miền núi và trung du Bắc Bộ nhưng tập trung nhiều ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh. Kinh tế nông nghiệp của người Tày chủ yếu là lúa nước với trình độ kỹ thuật tiến bộ, giỏi chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây công nghiệp (chè, hồi), có truyền thống sản xuất tiểu thủ công nghiệp như dệt thổ cẩm, đan lát, làm bàn ghế bằng trúc Cư trú tập trung thành bản ở chân núi, người Tày nổi tiếng với hát lượn, hát then, đàn tính độc đáo. - Người Thái: Có khoảng 1 triệu người, thuộc ngữ hệ Tày - Thái. Người Thái sống ở trong các thung lũng và cánh đồng miền núi ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Nghệ An. Họ thường sống bằng nông nghiệp: làm ruộng giỏi, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra còn có nghề thủ công đan lát, làm đệm cỏ, dệt vải, làm gốm, dệt thổ cẩm. Người Thái thích hát, đàn và múa. Múa xoè, múa sạp, ném còn là những điệu múa, trò chơi tiêu biểu của người Thái. - Người Mường: Người Mường có khoảng trên 90 vạn, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường. Người Mường cư trú thành một dải từ Nghĩa Lộ về Hoà Bình, Tây Thanh Hoá, Tây Nghệ An. Kinh tế của người Mường chủ yếu trồng lúa nước, chăn nuôi, đặc biệt người Mường có nghề rèn, chế tạo công cụ có tiếng từ lâu đời. Họ thường quần tụ trong các bản mường. Người Mường sống trong nhà sàn và bếp lửa được coi là trung tâm sinh hoạt gia đình. Người Mường có nền văn hoá dân gian phong phú với nhiều truyện cổ nổi tiếng. Nét văn hoá đặc sắc của người Mường là nhạc cụ cồng chiêng với hát xoè. - Người Nùng: Hiện người Nùng có hơn 70 vạn, thuộc ngữ hệ Thái. Người Nùng cư trú tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Kinh tế chủ yếu dựa vào lúa nước và lúa nương, trồng ngô, cây công nghiệp, đặc biệt là cây hồi. Người Nùng có một số nghề thủ công: dệt, mộc, đan lát, rèn sắt, gốm sứ. Họ tập trung thành từng bản nằm trên sườn đồi, phía trước là ruộng nước, phía sau là ruộng nương và vườn. Nét đặc sắc của người Nùng là hát Sli giao duyên của nam nữ vùng Lạng Sơn và hát then. - Người H’mông (còn gọi là người Mèo): 29
  30. Người H’mông có khoảng 60 vạn thuộc nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao. Họ thường tập trung ở vùng núi cao thuộc các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Tuyên Quang, Yên Bái, Thanh Hoá, Nghệ An. Kinh tế chủ yếu của họ là nương rẫy, làm ruộng bậc thang, có kỹ thuật dẫn nước tưới cho ruộng bậc thang để trồng lúa nước. Ngoài ra còn trồng ngô, lúa mạch, trồng lanh lấy sợi dệt vải, trồng cây dược liệu. Nghề thủ công truyền thống của người H’mông là dệt vải, may mặc, thêu thùa, rèn sắt. Nhạc cụ nổi tiếng của họ là khèn và đàn môi. - Người Dao: Người Dao có gần 50 vạn thuộc nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao. Người Dao sống xen kẽ với một số dân tộc khác ở các tỉnh biên giới Việt - Trung, Việt - Lào cho tới các tỉnh trung du và ven biển Bắc Bộ. Địa bàn cư trú của họ là ở cả vùng cao và vùng thấp. Kinh tế chủ yếu là trồng lúa nương, làm ruộng nước, trồng hoa màu, chăn nuôi gia súc, tìm kiếm lâm sản Người Dao nổi tiếng với nghề thủ công: dệt vải, rèn, mộc, làm giấy, ép dầu Phụ nữ Dao có trang phục đặc trưng để gọi tên: Dao đỏ (có khăn đội đầu màu đỏ), Dao quần chẹt (mặc quần bó), Dao sơn đầu (tóc cắt ngắn chải sáp ong). c) Các tộc người thiểu số ở Trường Sơn - Tây Nguyên: Địa bàn Trường Sơn - Tây Nguyên là nơi cư trú của nhiều tộc người: Các tộc người thuộc ngữ hệ Nam á với nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (người Chứt), nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me (Ba na, Xơ đăng, Bru, Cơ tu ) và ngữ hệ Nam đảo với các nhóm ngôn ngữ Gia rai, Ê đê Trong số các tộc người này, người Gia rai, Ê đê, Ba na là đông nhất. - Người Gia rai: Người Gia Rai hiện có 25 vạn thuộc ngữ hệ Nam đảo, tập trung ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía Bắc Đắc Lắc. Cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào rừng, làm rẫy trồng lúa, ngô với kỹ thuật đơn giản: xới đất bằng cuốc, chọc lỗ, tra hạt, nuôi gia súc, gia cầm, đặc biệt là voi. Buôn của người Gia rai (plây hay bon) ở rải rác ven suối, lưng chừng núi hoặc thung lũng. Người Gia rai theo chế độ mẫu hệ, vợ chồng lấy nhau ở bên nhà vợ, con cái lấy họ mẹ. Người Gia rai nổi tiếng với bản trường ca Đam San, cồng chiêng, đàn Tơ rưng, Tưng nung, Klôngpút. - Người Ê đê: Người Ê đê thuộc ngữ hệ Nam đảo với khoảng 20 vạn người, tập trung ở các tỉnh Đắc Lắc, nam Gia Lai, Tây Phú Yên, Khánh Hoà. Người Ê đê lấy nương rẫy, chăn nuôi làm kinh tế chính. Người Ê đê ở trong những ngôi nhà dài trên những quả đồi hay cạnh đường giao thông, kề sông suối. Trong nhà chia thành nhiều ngăn, ngăn tiếp khách có bếp lửa, ngăn để chiêng, ngăn để rượu và ngăn để ở. Người Ê đê cũng theo chế độ mẫu hệ như người Gia rai. Trước đây người Êđê có tục cà răng căng tai và quy định mọi người phải cắt cụt 6 chiếc răng của hàm trên. 30
  31. - Người Ba na: Với khoảng 14 vạn, người Ba na thuộc ngữ hệ Nam á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me. Họ tập trung ở Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, miền núi của tỉnh Bình Định, Phú Yên. Kinh tế chủ yếu của người Ba na là làm nương rẫy và ruộng khô, trồng ngô, lúa, hoa màu. Nghề thủ công là dệt vải, rèn, gốm và đan lát. Văn hoá dân gian phong phú, nhạc cụ nổi tiếng là đàn Tơ rưng, klôngpút, kơni, lễ hội Kiến trúc đặc trưng là nhà Rông và tượng nhà mồ bằng gỗ. - Người Bru (Vân Kiều): Người Bru hiện có 4 vạn thuộc ngữ hệ Nam á trong nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme. Địa bàn cư trú của họ tập trung ở miền núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Kinh tế chủ yếu của người Bru là nương rẫy, một số ít biết làm ruộng nước, chăn nuôi gia súc. Người Bru cũng giống như các tộc người khác ở Tây Nguyên, coi nhà Rông là trung tâm văn hoá của mỗi bản. d) Các tộc người thiểu số ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ: - Người Hoa: Người Hoa có gần 1 triệu, thuộc ngữ hệ Hán - Tạng. Người Hoa cư trú ở khắp các tỉnh cả nông thôn và thành phố nhưng đông nhất tại Chợ Lớn (thành phố Hồ Chí Minh). Một số người Hoa đã Việt hoá hay lai với người Việt. Người Hoa sinh sống bằng đủ mọi nghề nhưng thành đạt nhất vẫn là thương mại và dịch vụ. - Người Khơ me: Với khoảng 1 triệu, người Khơ me thuộc ngữ hệ Nam á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me, sống tập trung ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long: An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long. Người Khơ me chủ yếu trồng lúa nước với trình độ thâm canh và làm thuỷ lợi khá cao. Họ sống trong các phum, sóc (giống như thôn của người Việt). Người Khơ me có nhiều lễ hội, điển hình là Chôn Chơ Nam Thơ Mây (Tết năm mới). - Người Chăm: Người Chăm hiện có khoảng 10 vạn, thuộc ngữ hệ Nam Đảo, sinh sống chủ yếu ở vùng đồng bằng duyên hải cực Nam Trung Bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận). Một số bộ phận sống ở An Giang, Long Xuyên, Đồng Nai, Phú Yên, Bình Định và thành phố Hồ Chí Minh. Kinh tế chủ yếu của người Chăm là nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. Họ thành thạo kỹ thuật làm ruộng nước, đắp đập chứa dẫn nước vào ruộng. Người Chăm sống tập trung theo từng ấp gọi là puk (với 50 - 100 nóc nhà), nhiều puk hợp lại thành plây (làng). Người Chăm còn thể hiện đậm nét chế độ mẫu hệ. Nhiều kho tàng kiến trúc nghệ thuật Chăm kiệt xuất như: Thánh địa Mỹ Sơn, tháp Pônaga, tháp 31
  32. Poklong Tộc người Chăm có nhiều lễ hội truyền thống, tiêu biểu là lễ hội Mbăngkatê, Pơh Mbangyang (lễ cúng đầu năm). Cộng đồng dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất với một nền văn hoá chung nhưng đa dạng và hình thái biểu hiện do từ nhiều nguồn sinh thái nhân văn tập hợp lại. Trong sự thống nhất này nổi lên vai trò đặc biệt của người Việt với tư cách là hạt nhân tập hợp các tộc người khác. *Kết cấu sinh học: a) Kết cấu theo giới: Kết cấu theo giới là tập hợp những người được sắp xếp theo giới (nam, nữ). Thông thường kết cấu dân số theo giới được biểu thị bằng số nam trên 100 nữ. Nghiên cứu kết cấu dân số theo giới có ý nghĩa to lớn trong sự phân công lao động xã hội và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và của từng vùng. Tỷ số giới tính không cân bằng và thường thay đổi theo các nhóm tuổi, theo thời gian và theo không gian. Tỷ số giới tính trên toàn cầu hiện nay là 98,6 (nghĩa là cứ 98,6 nam thì có 100 nữ). Tuy nhiên lúc mới sinh, số trẻ sơ sinh nam luôn cao hơn nữ (trung bình từ 103 - 106 nam trên 100 nữ). Đến tuổi trưởng thành, tỷ số này gần ngang nhau. Tới lứa tuổi già, số nữ cao hơn số nam. ở Việt Nam theo số liệu tổng điều tra dân số lần thứ nhất (1/4/1979), tỷ số giới là 94,2 (nghĩa là có 94,2 nam trên 100 nữ). Tới thời điểm tổng điều tra dân số lần 2 (1/4/1989), tỷ số giới là 94,7 và kết quả điều tra dân số toàn quốc lần thứ 3 (1/4/1999), tỷ số giới là 96,7. Theo thời gian và không gian, tỷ số giới ở nước ta cũng có sự thay đổi. Theo các số liệu thống kê, tỷ số giới tính của nước ta đã liên tục tăng lên và đạt được mức 96,7 vào năm 1999. Nếu phân theo vùng, tỷ số giới có sự khác nhau rõ rệt. Tây Nguyên là vùng có tỷ số giới cao nhất trong cả nước: 102,69, duyên hải Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng tỷ số này là 95,2. Sở dĩ có sự khác biệt về tỷ số giới ở Việt Nam là do hậu quả của các cuộc chiến tranh, do nam giới phải lao động nhiều hơn, làm những công việc nặng nhọc hơn nên tuổi thọ thường thấp hơn so với nữ. Mặt khác, việc chuyển cư cũng ảnh hưởng tới tỷ số giới giữa các vùng. Những tỉnh có tỷ số nhập cư cao đều có tỷ số giới tính cao. Những tỉnh có tỷ số giới tính cao như Đắc Lắc (103,31), Gia Lai (101,69), Kon Tum (101,31), Lai Châu (101,10), Sơn La (100,67), Hà Nội (100,10). Quảng Ninh tuy không có tỷ lệ nhập cư cao nhưng là vùng khai thác than và công nghiệp nặng nên có tỷ số giới cao nhất cả nước (104,20). 32
  33. Thành phố Hồ Chí Minh với số nhập cư khá lớn nhưng tỷ số giới lại thấp nhất (92,79) vì thành phố này có khả năng cung cấp nhiều việc làm cho nữ ở các ngành công nghiệp nhẹ và dịch vụ. Sự chênh lệch về giới còn thể hiện rõ theo nhóm tuổi: - Độ tuổi < 15 có tỷ số giới là 105/100. - Từ độ tuổi 15 đến 65 số nữ vượt quá số nam. Tuổi càng cao khoảng cách giữa số nam và số nữ càng rõ. b) Kết cấu theo độ tuổi: Nghiên cứu dân số theo giới và tuổi trên phạm vi cả nước và trong từng vùng có ý nghĩa quan trọng vì nó thể hiện tổng hợp tình hình sinh tử, tuổi thọ, khả năng phát triển dân số và nguồn lao động. Kết cấu dân số theo tuổi và giới tính được biểu hiện qua tháp dân số hay tháp tuổi. Hình dạng của tháp tuổi cho thấy Việt Nam là nước có dân số trẻ. Nghiên cứu dân cư lao động không thể không quan tâm tới mối tương quan giữa tổng số người dưới tuổi và trên tuổi lao động so với số người ở tuổi lao động đó chính là tỷ số phụ thuộc. ở Việt Nam, tỷ số phụ thuộc còn khá cao so với các nước phát triển trên thế giới và khu vực. Năm 1999 tỷ số này là 68,6 (cứ 100 người trong độ tuổi lao động phải nuôi 68,6 người ở hai nhóm tuổi kia). 2.2.3. Phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động 2.2.3.1. Phân bố dân cư *Tình hình chung: Sự phân bố dân cư phụ thuộc vào các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, lịch sử Song chúng tác động khác nhau tuỳ theo thời gian và không gian cụ thể để tạo nên bức tranh dân cư. Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999, với dân số 76,3 triệu người sống 2 2 trên diện tích 330.000 km , mật độ dân số trung bình toàn quốc là 231 người/km . Mật độ dân số nước ta cao hơn mật độ dân số thế giới cùng năm 1999 là 5,7 lần và vượt xa 2 2 các nước láng giềng trong khu vực (Lào 23 người/km ; Campuchia 61,2 người/km ; 2 2 Malaixia 67,6 người/km ; Thái Lan 120 người/km ). Tính chất không hợp lý trong sự phân bố dân cư giữa các vùng (số liệu năm 1999) Các vùng Mật Sự chênh lệch về mật độ 33
  34. độ So với cả Giữa tỉnh có mật độ cao nhất và nước tỉnh có mật độ thấp nhất 2 2 (người/km ) (người/km ) Tây Bắc 62 - 169 130 Hoà Bình 164 Lai Châu 34 Đông Bắc 162 - 69 333 Bắc Giang 390 Bắc Cạn 57 Đồng 1180 + 949 2246 bằng sông Hà Nội 2883 Hồng Ninh Bình 637 Bắc 196 - 35 211 Trung Bộ Thanh Hoá 310 Quảng Bình 99 Duyên hải 195 - 36 416 Nam Đà Nẵng 548 Trung Bộ Quảng Nam 132 Tây 67 - 164 58 Nguyên Đắc Lắc 90 Kon Tum 32 Đông 285 + 54 2315 Nam Bộ Tp. HCM 2410 Bình Phước 95 ĐBSCL 408 + 177 471 Tiền Giang 686 Cà Mau 215 * Sự phân bố dân cư ở đồng bằng: Đồng bằng là nơi dân cư tập trung đông nhất, với chưa đầy 1/4 diện tích tự nhiên đã tập trung hơn 3/ 4 dân số của cả nước. 34
  35. 2 Đồng bằng sông Hồng với diện tích 14685,5 km (từ năm 1999 về mặt hành chính bao gồm cả Vĩnh Phúc và Bắc Ninh) là địa bàn cư trú của 16.334.434 người. Dân tập 2 trung đông nhất ở khu vực trung tâm (Hà Nội 2883 người/ km ; Hưng Yên 1201 2 2 2 người/km ; Thái Bình 1183 người/km ; Hải Phòng 1113 người/km ). Mật độ dân số cao có quan hệ trực tiếp với nền nông nghiệp thâm canh lúa nước và cơ cấu ngành nghề đa dạng. Sự hiện diện của các thành phố, trung tâm công nghiệp, dịch vụ lớn cũng góp phần làm tăng mật độ dân số của đồng bằng. 2 Vựa lúa lớn nhất của cả nước - Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 39.569,9 km là nơi cư trú của 16.132.024 người. Những tỉnh có mật độ cao là Tiền Giang (686 2 2 2 người/km ); Vĩnh Long (680 người/km ); Cần Thơ (611 người /km ). Hệ thống đồng bằng duyên hải miền Trung nhỏ hẹp, tiềm năng nông nghiệp không lớn nên mật độ dân số thấp hơn so với Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. ở các đồng bằng của Việt Nam đất đai có hạn, mật độ dân số cao đã gây rất nhiều khó khăn trong việc tạo đủ công ăn việc làm, đảm bảo các nhu cầu đời sống và phúc lợi xã hội của người dân. *. Sự phân bố dân cư ở trung du và miền núi: Việt Nam với 3/4 diện tích là đồi núi, nơi đây dân cư còn thưa thớt. Đây là địa bàn cư trú của các tộc người thiểu số với trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với vùng đồng bằng đất chật người đông. ở trung du miền núi, gần như địa hình càng lên cao thì dân số càng thấp. 2 ở Đông Bắc, dân cư tương đối đông đúc như Bắc Giang (390 người/km ); Phú Thọ 2 (361 người/km ). Trong khi đó các tỉnh vùng cao dân thưa hơn như Bắc Cạn (57 2 2 2 người/km ); Cao Bằng (73 người/km ); Hà Giang (77 người/km ); Lai Châu (34 2 người/km ). Tây Nguyên với tài nguyên đất bazan nhưng dân cư quá thưa thớt, là nơi có 2 mật độ dân số thấp nhất Việt Nam (Kon Tum 32 người/km ). *Sự phân bố dân cư ở thành thị và nông thôn: Việt Nam là một nước nông nghiệp hình thành từ lâu đời nhưng bị chế độ thực dân phong kiến thống trị lâu dài, kìm hãm sự phát triển kinh tế, mặt khác phải chịu chiến tranh liên miên nên hệ thống thành phố của Việt Nam vừa ít lại vừa chậm phát triển. Trước năm 1975, mục đích và sự hình thành đô thị ở các tỉnh phía Bắc và phía Nam hoàn toàn khác nhau. Phía Bắc, quá trình công nghiệp hoá đã thúc đẩy sự phát triển của một số đô thị. ở phía Nam dân cư dồn về khu vực đô thị để lánh nạn và làm ăn sinh sống. Vì vậy vào thời điểm trước năm 1975, tỷ lệ dân số đô thị ở miền Bắc là 21,3%, miền Nam là 31,3%. 35
  36. Sau ngày thống nhất đất nước, số dân thành thị giảm nhanh do việc hồi hương của dân cư các thành phố lớn ở miền Nam, do điều động lao động và di cư đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Vào đầu những năm 1980 thế kỷ XX, cùng với đường lối đổi mới, nền kinh tế thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước làm cho dân số thành thị tăng dần. Tới thời điểm 1/4/1999, dân số sống ở thành thị là 23,5 %. Dân số ở nông thôn quá lớn phản ánh trình độ thấp của quá trình công nghiệp hoá và phát triển chậm của nhóm ngành kinh tế dịch vụ. Sự phân bố dân cư nông thôn và thành thị cũng khác nhau giữa các vùng. Đông Nam Bộ là vùng có số dân thành thị cao nhất (49,98%) và Bắc Trung Bộ là vùng có số dân thành thị thấp nhất (12,31%). Một số tỉnh thành phố có số dân tập trung đông ở thành thị đó là: Thành phố Hồ Chí Minh (83,47%), Đà Nẵng (78,63%), Hà Nội (57,56%), Bà Rịa - Vũng Tàu (41,56%), Quảng Ninh (44,14%). Ngược lại một số tỉnh thành có tỷ lệ dân thành thị quá thấp so với dân ở nông thôn: Thái Bình (5,78%), Hà Nam (6,09%), Hà Tây (7,99%) Công nghiệp hóa trong tương lai sẽ tạo điều kiện giảm dần sự chênh lệch về phân bố dân cư giữa thành thị và nông thôn. 2.2.4. Nguồn lao động 2.2 4.1. Số lượng nguồn lao động: Do tỷ suất gia tăng tự nhiên của dân số qua các thời kỳ ở Việt Nam cao nên nguồn lao động tăng lên nhanh. Thời kỳ 1960 - 1975 tỷ lệ tăng nguồn lao động là 3,2 %, thời kỳ 1975 - 1980 (3,37%), thời kỳ 1980 - 1985 (3,36%), thời kỳ 1986 đến nay (3,55%). Nguồn lao động tăng nhanh đã gây nhiều khó khăn cho vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Điều đó đòi hỏi phải có những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao động nước ta hiện nay cũng như trong tương lai. 2.2.4.2. Chất lượng nguồn lao động: Sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, của từng vùng phụ thuộc vào quy mô dân số hoạt động kinh tế, chất lượng, tính ổn định và sự thường xuyên của việc làm. Đó là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển và các chính sách của mỗi quốc gia. Dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động) ở Việt Nam, nữ chiếm 50% (tính trong cả nước) trong đó khu vực thành thị là 48,6%, khu vực nông thôn là 50,37%. Dân số hoạt động kinh tế nếu chia theo nhóm tuổi thì nhóm trung niên ngày một tăng nhanh, nhóm lao động trẻ và cao tuổi ngày càng giảm. Về trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động trong cả nước ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ người chưa biết chữ, chưa tốt nghiệp cấp I giảm nhanh, số người tốt nghiệp cấp II, III tăng lên liên tục. Những chuyển biến tích cực về trình độ học vấn sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho lực lượng lao động. 36
  37. Tuy nhiên trình độ học vấn còn có sự phân hoá giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở Việt Nam còn thấp (số người có trình độ từ sơ cấp trở lên tới tiến sĩ chiếm 13,11% trong lực lượng lao động). ở khu vực thành thị, quy mô và tốc độ tăng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn hẳn khu vực nông thôn (chiếm 33,7% trong lực lượng lao động, còn ở nông thôn chỉ chiếm 8,06%). Mặc dù chất lượng nguồn lao động của nước ta ngày càng được nâng cao, lực lượng lao động có kỹ thuật ngày càng tăng song trước yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội thì lực lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc dân còn ít và còn yếu, nhiều ngành sản xuất chủ yếu lao động kỹ thuật còn chiếm tỷ trọng thấp. 2.2.4.3. Phân bố và sử dụng lao động: a) Phân bố và sử dụng nguồn lao động theo các ngành kinh tế: Năm 2001, số lao động làm việc trong các ngành kinh tế là 36.701.800 người (năm 2000), thì 63,6% làm việc trong khu vực nông lâm ngư nghiệp; 12,5% trong công nghiệp và xây dựng; 24,1% trong các ngành dịch vụ. Như vậy công cuộc đổi mới đang từng bước làm thay đổi việc sử dụng lao động xã hội, nhưng sự phân công lao động theo ngành ở nước ta còn chậm chuyển biến. Việc sử dụng lao động phân theo các thành phần kinh tế đã có chuyển biến rõ rệt. Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức sản xuất tạo ra các điều kiện cần thiết cho sự hình thành, tồn tại và phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần. Lao động trong thành phần kinh tế quốc doanh giảm, chuyển sang khu vực kinh tế tập thể và tư nhân, cá thể. Sự chuyển dịch lao động giữa các thành phần kinh tế diễn ra rõ nét trong công nghiệp và thương nghiệp. Trong nông nghiệp, với “khoán 10”, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ nông dân, đấu thầu, khoán ruộng đất đã xuất hiện các nông trại sản xuất nông sản hàng hoá. Những chuyển biến đó đã cho phép tạo ra sự phân công lao động mới ở nông thôn, tạo ra những thay đổi xã hội sâu sắc trong nông thôn Việt Nam . b) Phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động theo vùng: Từ sau năm 1954, nhất là từ sau ngày thống nhất đất nước, chúng ta đã từng bước cải tạo sự phân bố dân cư và nguồn lao động không hợp lý giữa các vùng trong nước bằng cách phát triển kinh tế xã hội ở những vùng ít dân, thiếu lao động song còn nhiều tiềm năng (miền núi, trung du, cao nguyên), tạo sức thu hút dân cư và nguồn lao động từ các vùng đông dân, ít tiềm năng (các tỉnh đồng bằng, các thành phố đông dân). Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội chung ta đã thực hiện các định hướng di chuyển dân cư chủ yếu sau: - Hướng di chuyển dân cư từ đồng bằng lên miền núi và cao nguyên. Nhiều khu công nghiệp mới, nhiều xí nghiệp công nghiệp hiện đại, nhiều nông trường, lâm trường và các khu kinh tế mới được xây dựng cùng với việc phát triển giao 37
  38. thông vận tải, thương mại ở miền núi trung du đã thu hút hàng triệu lao động từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, các thành phố lên Tây Bắc, Việt Bắc đã làm cho mật độ dân số ở nhiều tỉnh trung du, miền núi tăng rõ rệt. - Hướng di chuyển dân cư từ Đông sang Tây. Đây là hướng phổ biến trên phạm vi cả nước, ở các tỉnh phía Bắc luồng di chuyển này trùng với luồng chuyển dân từ đồng bằng lên miền núi. ở miền Nam từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, luồng di chuyển này nhằm phát triển kinh tế Tây Nguyên và các tỉnh miền Tây Nam Bộ. - Hướng di chuyển dân cư từ Bắc vào Nam đã hình thành từ lâu đời. Từ sau năm 1975, luồng di chuyển này đã được xúc tiến mạnh hơn để khai thác các nguồn lực và phát triển kinh tế các tỉnh phía Nam. Ngoài ba hướng chủ yếu trên còn có các hướng di chuyển dân khác: + Di chuyển dân từ nông thôn ra thành thị do phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ. + Di chuyển dân cư từ vùng núi cao xuống vùng núi thấp do thực hiện phong trào định canh định cư đối với đồng bào các tộc người thiểu số. + Di chuyển dân cư từ nội địa ra vùng ven biển và hải đảo để khai thác các tiềm năng của biển. c) Phương hướng phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động: Trong thời gian tới (năm 2010), việc phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động nhằm điều hoà sức lao động giữa các vùng trong nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam . Di chuyển dân cư nội vùng gắn liền với quá trình phân bổ lại lực lượng sản xuất trong cả nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng lãnh thổ. - Hướng phân bổ và sử dụng lao động ở nước ta như sau: + Xuất phát từ nhiệm vụ và tiềm năng của sản xuất nông nghiệp cần sử dụng lao động theo hai hướng: Một là thâm canh trên cơ sở đầu tư thêm lao động trên một đơn vị diện tích, hai là tăng vụ trên những diện tích có thể tăng được đồng thời tận dụng tối đa diện tích đất có khả năng sản xuất nông nghiệp để tạo thêm việc làm và phân bố lại lao động và dân cư. + Riêng ngành lâm nghiệp, lao động còn chiếm tỷ trọng rất thấp vì vậy cần tăng cường, bổ sung lực lượng lao động cho lâm nghiệp (dự kiến lao động lâm nghiệp phải chiếm tới 15% lực lượng lao động xã hội). Tăng lực lượng lao động trong lâm nghiệp có ý nghĩa to lớn để phát triển nghề rừng, định canh định cư có hiệu quả đối với đồng bào các tộc người thiểu số. + Phát triển toàn diện kinh tế biển nhằm khai thác các tiềm năng to lớn của biển đồng thời góp phần giải quyết việc làm cho số lượng lao động chưa có việc làm hiện nay. + Lao động trong ngành công nghiệp dự kiến chiếm khoảng 17% lao động toàn xã hội. Việc tăng cường lực lượng lao động trong công nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong 38
  39. công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, khối kinh tế dịch vụ cần được đầu tư lao động đúng mức bởi lẽ đây là ngành thu hút nhiều lao động, là ngành có nhiều ưu thế và hoàn toàn có điều kiện phát triển ở Việt Nam hiện nay cũng như sau này. 39
  40. CHƯƠNG 3 TỔ CHỨC LÃNH THỔ NGÀNH SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP 3.1. Vị trí ngành sản xuất công nghiệp trong phát triển và phân bố sản xuất - Công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng, đặc trưng cho trình độ phát triển và vững mạnh của nền kinh tế quốc dân. Vai trò của công nghiệp đối với phát triển và phân bố sản xuất được thể hiện như sau: - Phát triển công nghiệp là con đường tất yếu và duy nhất để cải tạo và hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân; làm cho các ngành kinh tế quốc dân được sản xuất, tổ chức và quản lý theo phương pháp công nghiệp với hiệu quả cao. - Phát triển và phân bố công nghiệp tác động mạnh mẽ và sâu sắc tới sự phân bố của các ngành sản suất khác, tới toàn bộ tổ chức lãnh thổ của một xã hội, tới sinh thái môi trường. Các điểm công nghiệp, các trung tâm công nghiệp được phân bố ở đâu thường làm biến đổi theo nó sự phân bố của nông nghiệp, giao thông vận tải, các ngành dịch vụ hình thành ở đó những điểm dân cư lớn, tập trung, đẩy mạnh quá trình đô thị hoá, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt xã hội và môi trường thiên nhiên. - Phát triển và phân bố công nghiệp sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để đẩy mạnh cách mạng khoa học, công nghệ và ứng dụng những thành tựu của nó vào phát triển nền kinh tế quốc dân. - Phát triển và phân bố công nghiệp sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, mở rộng các quan hệ kinh tế- thương mại với nước ngoài. - Phát triển và phân bố công nghiệp hợp lý còn góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng và khả năng phòng thủ đất nước. Phát triển và phân bố công nghiệp đúng đắn đem lại những hiệu quả to lớn cho toàn bộ xã hội, ảnh hưởng tới sự hình thành các tổng thể sản xuất lãnh thổ của các vùng, tới bộ mặt kinh tế-xã hội của đất nước. Ngược lại, sai lầm trong phân bố công nghiệp sẽ gây những tác hại lâu dài không chỉ cho bản thân các xí nghiêp, cho ngành công nghiệp mà còn tác hại tới các ngành sản xuất khác và đời sống nhân dân, gây ô nhiễm và phá hoại môi trường. Nước ta đang trong quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phân bố công nghiệp trở thành một bộ phận quan trọng trong tổ chức nền kinh tế-xã hội theo lãnh thổ. 3.2. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ ngành sản xuất công nghiệp 3.2.1. Đặc điểm chung 40
  41. a). Sản xuất công nghiệp có khả năng thực hiện chuyên môn hoá sản xuất sâu và hiệp tác hoá sản xuất rộng: Do đối tượng sản xuất của ngành sản xuất công nghiệp là những vật vô sinh, sản xuất ít chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Quá trình sản xuất công nghiệp diễn ra liên tục, trình tự sản xuất không bắt buộc, mặt khác để sản xuất ra một sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều loại lao động. Do đó muốn nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế trong sản xuất, đòi hỏi phải thực hiện sản xuất chuyên môn hoá sâu đến từng bộ phận, từng chi tiết của sản phẩm. Nhưng đi liền với sản xuất chuyên môn hoá, đòi hỏi phải có sự hiệp tác hoá sản xuất là hai mặt không thể tách rời trong sản xuất để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Cho nên, chuyên môn hoá sản xuất và hiệp tác hoá sản xuất là hai mặt không thể tách rời trong sản xuất công nghiệp. Chuyên môn hoá sản xuất càng sâu đòi hỏi hiệp tác hoá sản xuất càng rộng. Từ đặc điểm trên, trong phát triển và phân bố công nghiệp phải nghiên cứu, lựa chọn được những vị trí phân bố hợp lý, tạo thuận lợi cho thực hiện chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác hoá sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất. b) Sản xuất công nghiệp có xu hướng phân bố ngày càng tập trung cao độ theo lãnh thổ: Phân bố tập trung theo lãnh thổ là quy luật phát triển của sản xuất công nghiệp thể hiện ở quy mô xí nghiệp và mật độ sản xuất các xí nghiệp công nghiệp trên một đơn vị lãnh thổ. Tính tập trung theo lãnh thổ của sản xuất công nghiệp có nhiều ưu điểm, song cũng có nhiều nhược điểm. Công nghiệp phân bố tập trung theo lãnh thổ hình thành những điểm công nghiệp, khu công nghiệp, vùng công nghiệp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để thực hiện chuyên môn hoá sản xuất và hiệp tác hoá sản xuất, khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản xuất, đưa lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Tuy nhiên nếu quy mô tập trung công nghiệp theo lãnh thổ quá mức,vượt quá sức chứa của lãnh thổ, sẽ gây ra rất nhiều khó khăn đó là: làm hình thành những khu công nhiệp lớn, những trung tâm dân cư đông đúc, những thành phố khổng lồ, tạo sức ép lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng, gây khó khăn phức tạp cho tổ chức, quản lý xã hội và môi trường. Vì vậy cần nghiên cứu toàn diện những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội trong từng địa phương; từng vùng cũng như trên lãnh thổ cả nước để lựa chọn quy mô phân bố công nghiệp cho phù hợp. c). Sản xuất công nghiệp có nhiều khả năng tổ chức phân bố thành loại hình xí nghiệp liên hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất: Trong nền công nghiệp hiện đại, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp có mối quan hệ với nhau trong quy trình công nghệ sản xuất đó là: cùng sử dụng chung loại sản phẩm khác nhau. Vì vậy trong phát triển và phân bố công nghiệp, những cơ sở công nghiệp có mối quan hệ như trên cần được tổ chức, phân bố thành loại hình xí nghiệp liên hợp để nâng cao hiệu quả trong sản xuất. Xí nghiệp liên hợp có đặc trưng ở sự thống nhất về quy trình công 41
  42. nghệ sản xuất và về mặt lãnh thổ của các cơ sở sản xuất nằm trong cơ cấu của xí nghiệp liên hợp. Giữa các cơ sở sản xuất trong xí nghiệp liên hợp có những mối liên hệ tuần tự với nhau trong một đơn vị quản lý hành chính, kỹ thuật. Loại hình xí nghiệp liên hợp có ưu điểm: giảm bớt được chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, cho phép sử dụng một cách tổng hợp và có hiệu quả các nguồn nguyên, nhiên liệu, vật liệu, rút ngắn các chu kỳ sản xuất, giảm hao phí lao động sống, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, đưa lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao. 3.2.2. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ của một số ngành công nghiệp chủ yếu a). Công nghiệp điện lực: Ngành công nghiệp điện lực sản xuất ra một loại năng lượng không thể tích trữ tồn kho được, nhưng có khả năng chuyển tải đi xa bằng đường dây cao thế, vì vậy trong phát triển và phân bố công nghiệp điện lực cần chú ý tới phát triển và phân bố hợp lý mạng lưới điện quốc gia thống nhất để nối liền các cơ sở sản xuất với các cơ sở tiêu dùng điện, nhằm điều hoà cung- cầu về điện, tận dụng công suất các nhà máy điện, đảm bảo an toàn trong sử dụng điện đến tất cả các vùng lãnh thổ, thúc đẩy kinh tế-xã hội của đất nước phát triển. - So với nhà máy thuỷ điện có cùng công suất, nhà máy nhiệt điện có thời gian xây dựng ngắn hơn, vốn đầu tư ban đầu lớn hơn, nhưng khi đi vào sử dụng lại có giá thành một đơn vị điện lực cao hơn so với nhà máy thuỷ điện. Từ đặc điểm này trong phát triển và phân bố công nghiệp điện lực cần nghiên cứu kết hợp tốt giữa các loại hình nhà máy điện cho phù hợp với khả năng, vốn đầu tư và nhu cầu tiêu dùng điện trong từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội. - Công suất nhà máy điện càng lớn, công nghệ càng hiện đại, mạng lưới phân phối điện càng rộng thì giá thành một đơn vị điện lực sản xuất ra càng rẻ. Do đó trong phát triển điện lực cần nghiên cứu, phân tích toàn diện điều kiện tự nhiên khả năng kinh tế-kỹ thuất. Nên xây dựng nhà máy có quy mô công suất lớn sẽ có lợi hơn xây dựng nhà máy điện công suất nhỏ. b). Công nghiệp luyện kim: - Ngành công nghiệp luyện kim sử dụng nhiều nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng nên thường được phân bố gần các vùng mỏ kim loại. Tuy nhiên, cũng có thể phân bố gần các trung tâm cơ khí nặng để đáp ứng yêu cầu nguyên liêu, hoặc gần vùng nhiên liệu lớn. - Ngành luyện kim đen bao gồm nhiều giai đoạn sản xuất phức tạp, đòi hỏi phải được phân bố thành một loại hình xí nghiệp liên hợp quy mô lớn nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. - Ngành công nghiệp luyện kim mầu, do hàm lượng kim loại trong quặng thường thấp và rất thấp, nên khi phân bố thường có thêm công đoạn làm giàu quặng trước khi tinh luyện, công đoạn này cần phân bố ngay trong vùng khai thác quặng: các xí nghiệp tinh 42
  43. luyện nên phân bố gần nơi khai thác, làm giàu quặng hoặc nơi giàu nhiên liệu năng lượng. Địa điểm phân bố còn tuỳ thuộc vào kỹ thuật và công nghệ tinh luyện thích hợp với mỗi loại quặng. c). Công nghiệp cơ khí: Ngành cơ khí vừa có yêu cầu phân bố tập trung, vừa có yêu cầu phân bố phân tán. Phần lớn các ngành cơ khí được phân bố gần thị trường tiêu thụ, gần trung tâm khoa học, gần nơi tập trung lao động. Có thể phân chia ngành cơ khí thành các nhóm để phân bố: - Cơ khí nặng cần phân bố gần nguồn nguyên liệu. - Cơ khí trung bình, máy móc, thiết bị nên phân bố gần những nơi tiêu thụ lớn. - Cơ khí chính xác phân bố gần trung tâm khoa học- kỹ thuật, gần nguồn lao động có kỹ thuật, vùng tập trung dân cư có trình độ dân trí cao. - Cơ khí sửa chữa, lắp ráp nên phân bố rộng khắp thành một hệ thống, mạng lưới trong cả nước. d). Công nghiệp hoá chất: - Những cơ sở sản xuất công nghiệp hoá chất sử dụng những hoá chất độc hại, hoặc sản xuất ra các hoá phẩm độc hại, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ của dân cư, cần được phân bố xa các khu dân cư, xa nguồn nước sinh hoạt và không được phân bố trước hướng gió chủ yếu của vùng. - Những cơ sở sản xuất hoá chất, sản xuất ra những sản phẩm chuyên chở đi xa không có lợi và nguy hiểm (chất gây cháy nổ, hoá chất cơ bản ), nên phân bố gần nơi tiêu thụ. - Đối với những cơ sở sản xuất hoá chất có quan hệ với nhau trong quy trình công nghệ sản xuất, trong phát triển và phân bố nên tổ chức thành loại hình xí nghiệp liên hợp để nâng cao hiệu quả trong sản xuất. e). Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng: Sản phẩm của ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thường có khối lượng lớn, giá trị thấp, vận chuyển đi xa không kinh tế, nên thường được phân bố ở những vùng có sẵn nguyên liệu hoặc vùng tiêu thụ. Tuy nhiên trong phát triển và phân bố, ngành này cũng được chia thành ba nhóm với những yêu cầu phân bố khác nhau, đó là: - Đối với những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ tiền, khó chuyên chở đi xa so với thành phẩm (xi măng ) thường được phân bố ở vùng có sẵn nguyên liệu. 43
  44. - Đối với những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng sản xuất ra những sản phẩm có kính thước lớn, cồng kềnh, nặng nề, khó chuyên chở đi xa so với nguyên liệu (bê tông đúc sẵn) nên phân bố gần nơi tiêu thụ. - Đối với những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất đơn giản, sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ tiền có ở khắp mọi nơi (sản xuất vật liệu xây dựng thông thường) nên phân bố rộng khắp để phục vụ yêu cầu tiêu dùng của dân cư. 3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố công nghiệp 3.3.1. Nhân tố lịch sử-xã hội Sản xuất công nghiệp đòi hỏi một cơ sở vật chất kỹ thuật lớn, nên lượng vốn đầu tư ban đầu rất cao. Trong phát triển và phân bố công nghiệp, người ta thường dựa vào các cơ sở công nghiệp cũ (được hình thành và phát triển trong quá khứ), dựa vào đó mà mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ sản xuất. Do đó, sự phát triển và phân bố công nghiệp trong quá khứ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và phân bố công nghiệp trong hiện tại và tương lai. Vì vậy trong phát triển và phân bố công nghiệp ngày nay, cần phải đặc biệt chú ý nghiên cứu, lựa chọn được vị trí phân bố hợp lý (không những trong hiện tại mà cả trong tương lai) để nâng cao hiệu quả sản xuất cho từng cơ sở sản xuất công nghiệp, cho toàn ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 3.3.2. Sự phân bố của các nguồn tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa hàng đầu đối với các ngành công nghiệp luyện kim và chế biến kim loại, chế biến nông-lâm-thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng Vì vậy sự phân bố các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên các vùng lãnh thổ của đất nước có ảnh hưởng đến phát triển và phân bố công nghiệp. 3.3.3. Cơ sở kinh tế-xã hội Nền công nghiệp của nước ta hiện nay đã có được một cơ sở vật chất, kỹ thuật nhất định, kể cả hệ thống cơ sở hạ tầng (than, dầu, thuỷ điện, mạng lưới vận tải ) và hàng loạt ngành công nghiệp cơ bản đã có đội ngũ lao động kỹ thuật cao có tay nghề và trình độ chuyên môn khá vững vàng. Ví dụ ngành dầu khí non trẻ đã có tới trên 2000 trong số trên 9000 lao động có trình độ đại học và trên đại học. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế, kích thích nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội ngày càng đa dạng và phong phú hơn đối với sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó, con đường liên doanh, hợp tác với nước ngoài mở ra thị trường rộng lớn đối với công nghiệp nước ta, đồng thời cũng đặt nền công nghiệp nước ta trước những thách thức lớn phải vượt qua. 3.4. Tình hình phát triển và phân bố công nghiệp Việt Nam 3.4.1. Tình hình chung 44
  45. Hiện nay, nước ta đã hình thành một hệ thống công nghiệp, bao gồm các ngành công nghiệp nặng và các ngành công nghiệp nhẹ phong phú, đa dạng. Công nghiệp nặng bao gồm một hệ thống các ngành từ năng lượng (than, điện, dầu khí), luyện kim (luyện kim đen, luyện kim mầu), cơ khí (từ cơ khí sửa chữa lắp ráp đến cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử), hoá chất (hoá chất cơ bản, hoá chất phân bón, thuốc trừ sâu), vật liệu xây dựng (từ khai thác đến chế biến), công nghiệp khai thác, chế biến gỗ và lâm sản khác ngành công nghiệp nhẹ (kể cả công nghiệp thực phẩm, in, xà phòng, bóng đèn, phích nước đến hệ thống các xí nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm từ các sản phẩm trồng trọt (xay xát, đường, bia rượu, thuốc lá, hoa quả hộp) đến hệ thống các xí nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm từ các sản phẩm chăn nuôi (thịt hộp, thịt đông lạnh, sữa ) sản phẩm của các ngành thuỷ sản (nước mắm, tôm, cá hộp, bột cá ). Công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương là hai loại hình phân cấp quản lý trong sản xuất công nghiệp tồn tại và hỗ trợ cho nhau phát triển. Công nghiệp trung ương bao gồm những xí nghiệp công nghiệp thuộc các ngành quan trọng được phân bố ở những vùng có điều kiện thuận lợi, đồng thời giữ vai trò nòng cốt và chủ đạo đối với toàn ngành công nghiệp. Công nghiệp địa phương gồm nhiều ngành (gồm cả tiểu thủ công nghiệp) tạo thành một mạng lưới công nghiệp từ cơ khí sửa chữa, cơ sở chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, nông cụ cải tiến, hàng tiêu dùng trên cơ sở nguyên liệu, lao động và thị trường địa phương. Hệ thống các ngành công nghiệp địa phương đã hỗ trợ cho công nghiệp trung ương phát triển và có tác dụng to lớn trong việc khai thác tiềm năng về tài nguyên, lao động và thị trường địa phương, nâng cao trình độ phát triển tổng hợp các ngành kinh tế địa phương. Trong những năm qua, các xí nghiệp quốc doanh và cơ sở ngoài quốc doanh đã sản xuất hàng vạn mặt hàng, bao gồm nhiên liệu - năng lượng, máy móc thiết bị, kim loại, hoá chất, phân bón, thuốc trừ sâu, xi măng và nhiều loại sản phẩm tiêu dùng đáp ứng một phần nhu cầu của các ngành nông-lâm-ngư nghiệp, nhu cầu tiêu dùng trong cả nước và xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2002 tăng 14,4% so với năm 2001. Cả ba khu vực kinh tế trong công nghiệp đều tăng trưởng khá, trong đó cao nhất là công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 19,1%, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%, công nghiệp khu vực nhà nước tăng 11,7% (trong đó trung ương quản lý tăng 12,6%) và giữ vững vai trò chủ đạo với tỷ trọng 40% tổng giá trị sản phẩm toàn ngành. Đáng chú ý là, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện chủ trương cổ phần hoá, đã phát huy tác dụng tích cực trong đổi mới cơ cấu đầu tư, cải tiến quản lý và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Từ khi nước ta hoàn toàn thống nhất đến nay, cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ công nghiệp nước ta đã bước đầu có những chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Nhiều điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, trung tâm công nghiệp được hình thành và phát triển. Trong đó bốn thành phố lớn là: Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng chiếm gần 50% tổng số xí nghiệp công nghiệp. Các tỉnh có trên 100 45
  46. xí nghiệp công nghiệp đang hoạt động đó là: Cần Thơ, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tầu, Quảng Ninh. Công nghiệp nặng và công nghiệp sản xuất nguyên liệu được phân bố nhiều ở các tỉnh miền Bắc. Ngược lại ở các tỉnh miền Nam tập trung chủ yếu là công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm và cơ khí lắp ráp. Hiện nay và những năm tiếp theo, nước ta đang tiếp tục phát triển và hiện đại hoá công nghiệp, tiếp tục điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế cho phù hợp với yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội hiện nay và trong tương lai. 3.4.2. Tình hình phân bố các ngành công nghiệp a). Công nghiệp năng lượng -nhiên liệu: Năng lượng là cơ sở của sự phát triển các lực lượng sản xuất , là động lực thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, bảo đảm cho việc thực hiện cơ giới hoá tự dộng hoá các quá trình sản xuất. Ngành năng lượng-nhiên liệu ảnh hưởng rất rõ nét tới sự phân bố các ngành công nghiệp khác , tới sự phát triển và hoàn thiện cơ cấu sản xuất của từng vùng. Công nghiệp năng lượng-nhiên liệu gồm hai ngành chính có liên quan chặt chẽ với nhau: công nghiệp nhiên liệu và công nghiệp điện lực. Công nghiệp năng lượng-nhiên liệu hiện nay ở nước ta đang chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Những cơ sở công nghiệp năng lượng-nhiên liệu lớn ở nước ta hiện nay đáng chú ý là: các xí nghiệp khai thác than lớn tập trung ở vùng than Quảng Ninh (Vàng Danh, Cẩm Phả, Hòn Gai ) chiếm gần 90% sản lượng than các loại. Ngoài ra còn có nhiều mỏ than khác, phân bố rải rác ở một số khu vực Đồng bằng sông Hồng, các tỉnh khu IV và vùng U Minh, Cà Mau. a1). Công nghiệp nhiên liệu: Nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển ngành công nghiệp quan trọng này. Quá trình tìm kiếm và thăm dò dầu khí ở nước ta đã tiến hành từ thập kỷ 60 ở cả hai miền Nam Bắc. Sau 7 năm thăm dò, năm 1979 mỏ khí đốt nhỏ ở Tiền Hải, Thái Bình đã được phát hiện. Năm 1986 lần đầu tiên nước ta bắt đầu khai thác được dầu khí trên vùng biển Bà Rịa- Vũng Tàu. Sản lượng khai thác dầu khí hàng năm tăng nhanh, tính đến hết năm 2002 đã khai thác được trên 100 triệu tấn dầu thô. Nước ta đã trở thành một trong 44 nước trên thế giới có khai thác dầu khí và đứng thứ 4 ở Đông Nam á về sản lượng khai thác dầu hàng năm. Cơ sở lọc dầu đầu tiên đã được xây dựng ở Tuy Hạ cách thành phố Hồ Chí Minh 15 km về phía đông đã hoạt động từ năm 1988 với công suất 40 vạn tấn năm. Hiện nay ngành dầu khí đang chuẩn bị tích cực cho việc xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 ở Dung Quất (Quãng Ngãi) công suất 6,5 triệu tấn/năm và tiếp đó là nhà máy lọc dầu số 2 ở Nghi Sơn - Thanh Hoá. 46
  47. Bên cạnh việc khai thác dầu, việc đưa khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng vào bờ dể chạy tuốc bin khí ở nhà máy điện Thủ Đức (36 MW) và Bà Rịa (108 MW) cũng là những kết quả rất quan trọng. Công nghiệp dầu khí, tính đến hết năm 2002 đã sử dụng trên 9000 lao động. Tuyệt đại bộ phận được đào tạo có trình độ kỹ thuật cao, trong đó trên 2000 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học, với các chuyên gia đầu ngành (chiếm gần 30% tổng số lao động). a2) Công nghiệp điện lực: Trong gần 30 năm phát triển (1975 -2002), công nghiệp điện lực nước ta đã đạt được những kết quả rất khả quan; chúng ta đã xây dựng được nhiều nhà máy điện lớn, nhỏ với các loại hình khác nhau, trong đó đáng chú ý là nhà máy thuỷ điện Hoà Bình công suất 1920 MW, nhà máy nhiệt điện Phả Lại 640 MW, nhà máy thuỷ điện Yaly công suất 720 MW, nhà máy thuỷ điện Trị An 400 MW, nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận 400 MW, củng cố và cải tạo các nhà máy thuỷ điện đã có như Đa Nhim 160 MW, Thác Bà 108 MW đã đưa vào sử dụng 83 trạm thuỷ điện nhỏ và vừa với tổng công suất 4,3 MW và trên 200 trạm thuỷ điện từ 10 -50 KW ở miền núi. Hình thành công nghiệp thiết bị điện và tự giải quyết việc trang thiết bị, tuốc bin cho nhà máy thuỷ điện công suất từ 04 dến 250 KW với áp lực cột nước từ 10 - 130m. Ngành công nghiệp thiết bị điện cũng đã tự chế tạo được các loại biến áp từ 3500 KVA đến 100.000 KVA. Thiết kế và xây dựng quy hoạch điều phối điện trong cả nước thành một mạng lưới thống nhất, nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối về điện năng giữa các vùng, với các trạm và đường dây tải có điện áp tương ứng từ 3,5 KV đến 120 KV. Riêng miền Bắc có một trạm biến áp 220 KV, 31 trạm 110 KV, 7500 trạm trung gian phân phối cho 8.000 biến áp các loại. Tuyến đường dây cao áp 500 KV (Hoà Bình – Phú Lâm) dài 1.487 km được hoàn thành năm 1994 đã đưa 5,6 tỷ KW/h điện từ miền Bắc vào miền Trung và miền Nam. Một đặc điểm quan trọng của ngành công nghiệp điện lực nước ta là thuỷ điện trong cơ cấu điện lực ngày càng tăng, từ 28% năm 1985 đến hết năm 1995 thuỷ điện trong cơ cấu điện năng đã chiếm 72,5% (nhiệt điện 16,8%, tuốc bin khí 7,8%, điêzen 2,7%, nguồn khác 0,2%). Thực trạng đó nói lên vị trí của thuỷ điện hiện nay rất quan trọng. Các năm sau này, vị trí đó còn được tăng thêm khi thuỷ điện Nà Hang, Xê Xan, Sơn La và nhiều nhà máy thuỷ điện nhỏ khác đi vào hoạt động. Sự phát triển ngành công nghiệp điện năng nước ta theo dự báo phân bố hướng vào những nơi trực tiếp cung cấp nguồn lực (than, thác nước) hoặc nằm ở những vùng tiêu thụ lớn. Đó là sự phân bố mang tính chất phụ thuộc rõ rệt. Sự điều phối chủ yếu thông qua hệ thống tải điện hơn là sự phân bố các điểm nhiệt điện ở các điểm thuận lợi chuyên chở than dầu. Quá trình phân bố ấy hình thành 3 vùng năng lượng lớn đó là: 47
  48. - Vùng công nghiệp năng lượng Bắc Bộ. Tính từ phạm vi Thanh Hoá trở ra Bắc, vùng này trước mắt có cơ sở năng lượng từ hai nguồn than đá và thác nước. Đây là một trong hai vùng tiêu thụ điện năng lớn nhất cả nước. - Vùng công nghiệp năng lượng Nam Bộ. Tính từ lưu vực sông Đồng Nai trở xuống, dựa trên cơ sở năng lượng thuỷ năng của hệ thống các sông vùng Đông Nam Bộ và nguồn năng lượng từ khí đồng hành của công nghiệp khai thác dầu khí - Vùng công nghiệp năng lượng Trung Trung Bộ gồm một dải ven biển từ Nghệ An đến Khánh Hoà và ba tỉnh Bắc Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc). Công nghiệp năng lượng vùng này phát triển chủ yếu dựa trên cơ sở nguồn thuỷ năng các hệ thống sông ở Tây Nguyên và hệ thống sông khác ở trong vùng, cũng như một số cơ sở nhiên liệu khác. b). Công nghiệp luyện kim và chế biến kim loại: Công nghiệp luyện kim và chế biến kim loại nước ta do điều kiện kinh tế và chiến tranh nên chậm phát triển, từ 1975 đến nay được quan tâm chú ý phát triển và ngành đang hướng mạnh vào các lĩnh vực: - Thăm dò, đánh giá trữ lượng, đưa vào khai thác và mở rộng khai thác các mỏ: thiếc, nhôm, crôm, titan, sa khoáng - Nhập kỹ thuật mới, thông qua hợp tác-đầu tư với công ty thép nước ngoài, cố gắng đáp ứng nhu cầu trong nước, hạn chế nhập thép thành phẩm từ nước ngoài. - Sắp xếp lại tổ chức, nhằm thích ứng với các hoạt động hợp tác-đầu tư trong nền kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN. Việc khai thác và chế biến kim loại được phân bố dưới hai hình thức: + Phân bố ngay trong vùng nguyên liệu như thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang), Quì Hợp (Nghệ An). + Phân bố ở thị trường có nhu cầu sử dụng kim loại như nhà máy cán thép ở Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Biên Hoà, Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ Với công suất các nhà máy này từ 120.000 tấn đến 200.000 tấn/năm. c). Công nghiệp cơ khí: Công nghiệp cơ khí là ngành công nghiệp đảm bảo việc sản xuất công cụ, thiết bị, máy động lực cho tất cả các ngành sản xuất. Vì thế, trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, công nghiệp cơ khí phải đủ sức mạnh để thực hiện các nội dung của cách mạng công nghiệp, đổi mới công nghệ cho các ngành kinh tế then chốt và thực hiện cách mạng kỹ thuật. Đến nay, ngành công nghiệp cơ khí nước ta có đặc điểm: - Đủ sức mạnh chế tạo nhiều loại máy công cụ vừa và nhỏ, chế tạo được nhiều thiết bị chuyên ngành như thiết bị điện, thiết bị khai thác mỏ, máy kéo công suất 12cv, máy bơm 48