Giáo trình Địa lí Kinh tế - Xã hội đại cương

pdf 155 trang phuongnguyen 12060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Địa lí Kinh tế - Xã hội đại cương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_dia_li_kinh_te_xa_hoi_dai_cuong.pdf

Nội dung text: Giáo trình Địa lí Kinh tế - Xã hội đại cương

  1. ĐỊA LÍ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẠI CƯƠNG ThsNguyễn Thành Nhân Khoa Địa Lý - Trường Đại học Sư Phạm Đồng Tháp CHƯƠNG 1: TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP 1. Những vấn đề lí luận chung 1.1. Vai trò của sản xuất nông nghiệp 1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp 2. Địa lí nông – lâm – ngư nghiệp 2.1. Địa lí nông nghiệp 2.1.1. Địa lí ngành trồng trọt 2.1.2. Địa lí ngành chăn nuôi 2.2. Địa lí ngư nghiệp 2.2.1. Vai trò 2.2.2. Ngành khai thác thủy sản 2.2.3. Ngành nuôi trồng thủy sản 2.3. Địa lí lâm nghiệp 2.3.1. Vai trò của rừng 2.3.2. Ngành khai thác rừng 2.3.3. Ngành trồng rừng 3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp 3.1. Khái niệm 3.2. Ý nghĩa kinh tế xã hội của việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp 3.3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Thực hành Câu hỏi và bài tập CHƯƠNG II: TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP 1. Những vấn đề lí luận chung 1.1. Vai trò của công nghiệp 1.2. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố công nghiệp 2. Địa lí các ngành công nghiệp 2.1. Địa lí ngành công nghiệp năng lượng 2.2. Địa lí ngành công nghiệp luyện kim 2.3. Địa lí công nghiệp cơ khí 2.4. Công nghiệp điện tử, tin học 2.5. Công nghiệp hóa chất 2.6. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng 2.7. Công nghiệp thực phẩm 3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp 3.1. Khái niệm 3.2. Nhiệm vụ của tổ chức lãnh thổ công nghiệp 3.3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp Thực hành Câu hỏi và bài tập CHƯƠNG III: TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÁC NGÀNH DỊCH VỤ 1. Những vấn đề lí luận chung 1.1. Vai trò của các ngành dịch vụ
  2. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố các ngành dịch vụ 1.3. Đặc điểm phân bố ngành dịch vụ 2. Địa lí các ngành dịch vụ 2.1. Địa lí giao thông vận tải 2.2. Địa lí thông tin liên lạc 2.3. Địa lí thương mại 2.4. Địa lí dịch du lịch Thực hành Câu hỏi và bài tập
  3. CHƯƠNG 1: TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP MỤC TIÊU CHƯƠNG I - Làm cho sinh viên hiểu rõ vai trò và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt nhấn mạnh đất trồng là tư liệu sản xuất, cây trồng vật nuôi là đối tượng lao động; các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển và phân bố nông nghiệp, trong đó nhân tố tự nhiên là tiền đề cơ bản, nhân tố kinh tế- xã hội có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển và phân bố nông nghiệp. - Nắm vững vai trò, đặc điểm sinh thái, tình hình phát triển và phân bố các cây trồng chủ yếu trên thế giới, kể cả trồng rừng cũng như của ngành chăn nuôi và đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản. - Phân biệt được một số hình thức chủ yếu của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp (TCLTNN) dựa theo những đặc điểm chính. 1. Những vấn đề lí luận chung 1.1. Vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế- xã hội Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là sự hợp thành của trồng trọt và chăn nuôi, còn theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Tựu chung lại, toàn bộ nền kinh tế có thể được chia thành 3 khu vực, trong đó khu vực 1 bao gồm nông- lâm- ngư nghiệp. Từ khi ra đời cho đến nay, nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế nói chung và bảo đảm sự sinh tồn của loài người nói riêng. Ănghen đã khẳng định: nông nghiệp là ngành có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ thế giới cổ đại và hiện nay nông nghiệp lại càng có ý nghĩa như thế. Vai trò to lớn của nông nghiệp được thể hiện ở các điểm sau: a) Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu cơ bản của con người. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất xuất hiện sớm nhất của xã hội loài người. Sản phẩm quan trọng hàng đầu mà con người làm ra để nuôi sống mình là lương thực. Cách đây khoảng 1 vạn năm, con người đã biết thuần dưỡng động vật hoang, trồng các loại cây rừng và biến chúng thành vật nuôi, cây trồng. Sự ổn định bước đầu của dân số thế giới từ khi loài người biết trồng trọt và tạo được cơ sở lương thực, thực phẩm. Với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật, nông nghiệp ngày càng được mở rộng, các giống cây trồng, vật nuôi ngày càng đa dạng và phong phú. Các Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn rồi sau đó mới nói đến các hoạt động khác. Ông đã chỉ rõ: nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người và việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên cho sự sống của họ và của mọi lĩnh vực sản xuất nói chung. Điều này khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của nông nghiệp trong việc nâng cao mức sống dân cư, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như sự ổn định chính trị- xã hội của đất nước. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định ý nghĩa to lớn của vấn đề lương thực trong chiến lược phát triển nông nghiệp và phân công lại lao động xã hội. Cho đến nay, chưa có ngành nào dù hiện đại đến đâu, có thể thay thế được sản xuất nông nghiệp. b) Nông nghiệp là một trong những ngành quan trọng cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho dân cư. Nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho các ngành công nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống; công nghiệp dệt, da và đồ dùng bằng da đều sử dụng nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp. Đối với các nước đang phát triển, nguyên liệu từ nông sản là bộ phận đầu vào chủ yếu để phát triển công nghiệp chế biến và nhiều ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Một số loại nông sản, nếu tính trên đơn vị diện tích, có thể tạo ra số việc làm sau nông nghiệp nhiều hơn hoặc tương đương với số việc làm của chính khâu sản xuất ra nông sản ấy. Hơn nữa, thông qua công nghiệp chế biến, giá trị nông sản được tăng lên và đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Vì thế, trong chừng mực nhất định, nông nghiệp có ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố các ngành công nghiệp chế biến.
  4. c) Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển, nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và cơ cấu ngành nghề của dân cư. Đời sống dân cư nông thôn càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế nông thôn càng đa dạng và đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nông nghiệp và nông thôn sẽ trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn và ổn định của nền kinh tế quốc dân. d) Nông nghiệp là ngành cung cấp khối lượng hàng hoá lớn để xuất khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước. Nông sản dưới dạng thô hoặc qua chế biến là bộ phận hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của hầu hết các nước đang phát triển. Trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ nông sản xuất khẩu- nhất là dưới dạng thô, có xu hướng giảm đi, nhưng về giá trị tuyệt đối thì vẫn tăng lên. Vì vậy, trong thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá ở nhiều nước, nông nghiệp trở thành ngành xuất khẩu chủ yếu, tạo ra tích luỹ để tái sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân. Ở Việt Nam, năm 2002, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng nông- lâm- thuỷ sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (trên 5 tỷ đô la) với các mặt hàng chủ yếu là thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, hạt điều, rau quả e) Nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội. Đây là xu hướng có tính qui luật trong phân công lại lao động xã hội. Tuy vậy, khả năng di chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác còn phụ thuộc vào việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, vào việc phát triển công nghiệp và dịch vụ ở thành thị và cả việc nâng cao chất lượng nguồn lao động ở nông thôn. f) Nông nghiệp trực tiếp tham gia vào việc giữ gìn cân bằng sinh thái, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với việc sử dụng thường xuyên đất đai, nguồn nước, các loại hoá chất , với việc trồng và bảo vệ rừng, luân canh cây trồng, phủ xanh đất trống, đồi trọc Tất cả điều đó đều có ảnh hưởng lớn đến môi trường. Chính việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái còn là điều kiện để sản xuất nông nghiệp có thể phát triển và đạt hiệu quả cao. Rõ ràng, hiện tại cũng như sau này, nông nghiệp luôn luôn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Trên 40% lao động thế giới đang tham gia sản xuất nông nghiệp (trong đó ở các nước phát triển dưới 10%, các nước đang phát triển từ 30- 70%) và tạo ra 4% GDP toàn cầu (ở các nước phát triển là 2%, các nước đang phát triển là 27%, có những nước trên 50%). Ở Việt Nam, cho đến hết năm 2003 có 66% lao động trong ngành nông nghiệp và tạo ra 21,8% giá trị GDP cả nước. Tại các nước đang phát triển như ở nước ta, nông nghiệp là ngành có liên quan trực tiếp đến việc làm, thu nhập và đời sống của đại đa số dân cư. Vì vậy, nông nghiệp có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự ổn định kinh tế và chính trị - xã hội. 1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, với những đặc điểm riêng biệt. Nghiên cứu các đặc điểm của nó có vai trò quan trọng trong việc xác định phương hướng phát triển, hoạch định chính sách và tiến hành các biện pháp quản lý có hiệu quả. a) Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt Trong công nghiệp, giao thông, đất đai chỉ là nơi xây dựng nhà xưởng, hệ thống đường giao thông. Còn trong nông nghiệp, đất đai trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất như là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế. Thường thì, không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Quy mô sản xuất, trình độ phát triển, mức độ thâm canh, phương hướng sản xuất và cả việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp lệ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng của đất đai (thổ nhưỡng). Trong quá trình sử dụng, đất đai ít bị hao mòn, bị hỏng đi như các tư liệu sản xuất khác. Nếu con người biết sử dụng hợp lý, biết duy trì và nâng cao độ phì trong đất, thì sẽ sử dụng được lâu dài và tốt hơn. Tất nhiên, việc duy trì, nâng cao độ phì trong đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đầu tư vốn, lao động, phương tiện sản xuất hiện
  5. đại, áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kĩ thuật và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Trong lịch sử phát triển nông nghiệp có hai hình thức sử dụng đất là quảng canh và thâm canh. Quảng canh là biện pháp tăng sản lượng nông nghiệp chủ yếu do mở rộng diện tích đất trồng trọt (đặc trưng của nền nông nghiệp ở trình độ thấp), còn mức độ sử dụng máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu trên một đơn vị diện tích rất thấp. Hình thức quảng canh phổ biến ở những nước có nền kinh tế chậm phát triển. Thâm canh là biện pháp tăng sản lượng nông nghiệp do tăng năng suất cây trồng và sức sản xuất của vật nuôi, đặc trưng của nền nông nghiệp tiên tiến hiện đại. Nền nông nghiệp thâm canh áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kĩ thuật trong nông nghiệp, như máy móc, tưới tiêu khoa học, lai tạo giống, phân bón, thuốc trừ sâu Nhìn chung, hình thức thâm canh phổ biến ở những nơi bị hạn chế về diện tích đất canh tác, ít có khả năng khai hoang, mở rộng diện tích, bình quân đất nông nghiệp trên đầu người thấp. b) Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật, cơ thể sống Trong khi đối tượng sản xuất của công nghiệp phần lớn là các vật vô tri, vô giác thì nông nghiệp có đối tượng sản xuất là các cây trồng, vật nuôi, nghĩa là các cơ thể sống. Cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển theo các qui luật sinh học và đồng thời cũng chịu tác động rất nhiều của quy luật tự nhiên (điều kiện ngoại cảnh như thời tiết, khí hậu, môi trường). Quá trình sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp là quá trình chuyển hóa về vật chất và năng lượng thông qua sự sinh trưởng của cây trồng và vật nuôi. Quá trình phát triển của sinh vật tuân theo các quy luật sinh học không thể đảo ngược. Ví dụ như hạt giống được nẩy mầm rồi mới sinh trưởng, phát triển và ra hoa kết trái, hoặc sự thụ thai, sinh đẻ, lớn lên và trưởng thành của vật nuôi. Các quy luật sinh học và điều kiện ngoại cảnh tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan của con người. Vì vậy, nhận thức và tác động phù hợp với quy luật sinh học và quy luật tự nhiên là một yêu cầu quan trọng nhất của bất cứ một quá trình sản xuất nông nghiệp nào. c) Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ Tính thời vụ là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt, bởi vì, một mặt, thời gian lao động không trùng với thời gian sản xuất của các loại cây trồng và mặt khác, do sự biến đổi của thời tiết, khí hậu, mỗi loại cây trồng có sự thích ứng khác nhau. Thời gian lao động là khoảng thời gian mà lao động có tác động trực tiếp tới việc hình thành sản phẩm. Còn thời gian sản xuất được coi là thời gian sản phẩm đang trong quá trình sản xuất. Quá trình sinh học của cây trồng, vật nuôi diễn ra thông qua hàng loạt các giai đoạn kế tiếp nhau: giai đoạn này là sự tiếp tục của giai đoạn trước và tạo tiền đề cần thiết cho giai đoạn sau. Vì vậy, sự tác động của con người vào các giai đoạn sinh trưởng của chúng hoàn toàn không phải như nhau. Từ đây nảy sinh tình trạng có lúc đòi hỏi lao động căng thẳng và liên tục, nhưng có lúc lại thư nhàn, thậm chí không cần lao động. Việc sử dụng lao động và các tư liệu sản xuất không giống nhau trong suốt chu kỳ sản xuất là một trong các hình thức biểu hiện của tính thời vụ. Tính thời vụ thể hiện không những ở nhu cầu về đầu vào như lao động, vật tư, phân bón, mà còn ở cả khâu thu hoạch, chế biến, dự trữ và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Chu kỳ sản xuất các loại sản phẩm nông nghiệp tương đối dài và không giống nhau. Trong nông nghiệp, thời gian sản xuất bao giờ cũng dài hơn thời gian lao động cần thiết để tạo ra sản phẩm đó, kể cả sản phẩm trồng trọt và sản phẩm chăn nuôi. Sự không phù hợp giữa thời gian lao động và thời gian sản xuất là nguyên nhân nảy sinh tính mùa vụ. Thời gian nông nhàn và thời gian bận rộn thường xen kẽ nhau. Tất nhiên, trong giai đoạn hiện nay bằng nhiều biện pháp kinh tế- tổ chức, người ta đã hạn chế tính thời vụ tới mức thấp nhất. Chẳng hạn để khắc phục tính thời vụ, chúng ta có thể xây dựng một cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý, thực hiện đa dạng hóa sản xuất (tăng vụ, rải vụ ), phát triển các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn. d) Nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nhất là vào đất đai và khí hậu. Đặc điểm này bắt nguồn từ chỗ đối tượng lao động của nông nghiệp là cây trồng và vật nuôi. Chúng chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi có đủ 5 yếu tố cơ bản của tự nhiên là nhiệt độ, nước, ánh sáng, không khí và chất dinh dưỡng, trong đó yếu tố này không thể thay thế yếu tố kia. Các yếu tố trên kết hợp và cùng tác
  6. động với nhau trong một thể thống nhất. Chỉ cần thay đổi một yếu tố là có hàng loạt các kết hợp khác nhau và dĩ nhiên, điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nông nghiệp. Mỗi yếu tố và sự kết hợp của các yếu tố thay đổi từ nơi này sang nơi khác. Những thay đổi ấy phụ thuộc vào tính quy luật theo lãnh thổ và theo thời gian (mùa). Đất, khí hậu, nước với tư cách như tài nguyên nông nghiệp quyết định khả năng (tự nhiên) nuôi trồng các loại cây, con cụ thể trong từng lãnh thổ và khả năng áp dụng các quy trình kỹ thuật để sản xuất ra nông phẩm. Do những đặc điểm trên, sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên không gian rộng lớn, liên quan tới khí hậu, thời tiết, đất đai của từng vùng cụ thể. Trong cơ chế thị trường, việc bố trí sản xuất nông nghiệp sao cho phù hợp với từng vùng sinh thái sẽ tăng thêm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, cần xem xét, vận dụng các đặc điểm trên của sản xuất nông nghiệp một cách linh hoạt. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp a) Vị trí địa lí kết hợp cùng khí hậu, thổ nhưỡng qui định sự có mặt của các hoạt động nông nghiệp Vị trí địa lí của lãnh thổ với đất liền, với biển, với các quốc gia trong khu vực và nằm trong một đới tự nhiên nhất định sẽ có ảnh hưởng tới phương hướng sản xuất, tới việc trao đổi và phân công lao động trong nông nghiệp. Thí dụ, vị trí của Việt Nam nằm ở khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa đã qui định nền nông nghiệp nước ta là một nền nông nghiệp nhiệt đới với các sản phẩm đặc trưng là lúa gạo, cà phê, cao su, điều Các nông sản trao đổi trên thị trường thế giới tất nhiên chủ yếu là sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới. b) Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên là tiền đề cơ bản để phát triển và phân bố nông nghiệp Từ những đặc điểm đặc thù của sản xuất nông nghiệp, có thể thấy rằng sự phát triển và phân bố của ngành này tuỳ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Sự phân đới nông nghiệp trên thế giới phụ thuộc vào sự phân đới tự nhiên. Sự tồn tại của các nền nông nghiệp gắn liền với các đặc trưng của từng đới tự nhiên. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp, trong việc sử dụng lao động và các nguồn lực khác, trong việc trao đổi sản phẩm cũng chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Tính bấp bênh, không ổn định của nông nghiệp phần nhiều là do tai biến thiên nhiên và thời tiết khắc nghiệt. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ có thể sinh trưởng và phát triển trong những điều kiện tự nhiên nhất định. Rõ ràng, các nhân tố tự nhiên có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó nổi lên hàng đầu là đất, nước và khí hậu. - Đất đai Đất trồng là tư liệu sản xuất chủ yếu, là cơ sở để tiến hành trồng trọt và chăn nuôi. Không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Quĩ đất, cơ cấu sử dụng đất, các loại đất, độ phì của đất có ảnh hưởng rất lớn đến qui mô và phương hướng sản xuất, cơ cấu và sự phân bố cây trồng, vật nuôi, mức độ thâm canh và năng suất cây trồng. Đất đai không chỉ là môi trường sống, mà còn là nơi cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng (các chất khoáng trong đất như N, P, K, Ca, Mg và các nguyên tố vi lượng). Những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu trên thế giới đều là những vùng nông nghiệp trù phú. Chẳng hạn những vùng đất đen có tầng mùn dày, độ phì cao ở những vùng ôn đới của châu Âu, Bắc Mỹ trở thành vựa lúa mỳ lớn trên thế giới. Những kho lúa gạo của nhân loại thuộc về các vùng phù sa châu thổ sông Mê Công, Trường Giang, sông Hằng, sông Hồng của châu Á gió mùa. Kinh nghiệm dân gian đã chỉ rõ vai trò của đất đối với việc phát triển và phân bố nông nghiệp như đất nào, cây ấy; tấc đất, tấc vàng. Tài nguyên đất nông nghiệp rất hạn chế, chỉ chiếm 12% diện tích tự nhiên của toàn thế giới. Ở nước ta tương ứng là 28,5% với 9,3 triệu ha. Xu hướng bình quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu người ngày một giảm do gia tăng dân số, do xói mòn, rửa trôi, do hoang mạc hoá và chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất công nghiệp, đất đô thị và đất cho cơ sở hạ tầng. Vì vậy con người cần phải sử dụng hợp lí diện tích đất nông nghiệp hiện có, duy trì và nâng cao độ phì cho đất. - Khí hậu Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió và cả những bất thường của thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, gió nóng có ảnh hưởng rất lớn tới việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, khả năng xen canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Tính mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất và cả trong tiêu thụ sản phẩm.
  7. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ thích hợp với những điều kiện khí hậu nhất định (nghĩa là trong điều kiện đó cây trồng, vật nuôi mới có thể phát triển bình thường). Vượt quá giới hạn cho phép, chúng sẽ chậm phát triển, thậm chí bị chết. Ví dụ, cây lúa ưa khí hậu nóng, ẩm, nhiệt độ trung bình tháng từ 20°C đến 30°C. Nhiệt độ thấp nhất vào đầu thời kỳ sinh trưởng không xuống dưới 12°C. Trong quá trình sinh trưởng, cây lúa cần có nước ngập chân. Những vùng dồi dào về nhiệt, ẩm và lượng mưa, về thời gian chiếu sáng và cường độ bức xạ có thể cho phép trồng nhiều vụ trong năm với cơ cấu cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng, có khả năng xen canh gối vụ, chẳng hạn như vùng nhiệt đới. Còn như vùng ôn đới, với một mùa đông tuyết phủ nên có ít vụ trong năm. Trên thế giới, sự hình thành 5 đới trồng trọt chính (đới nhiệt đới, đới cận nhiệt, đới ôn hoà có mùa hè dài và nóng, đới ôn hoà có mùa hè mát và ẩm và đới cận cực) phụ thuộc rõ nét vào sự phân đới khí hậu. - Nguồn nước Muốn duy trì hoạt động nông nghiệp cần phải có đầy đủ nguồn nước ngọt cho cây trồng, nước uống, nước tắm rửa cho gia súc. Nước đối với sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết như ông cha ta đã khẳng định “Nhất nước, nhì phân”. Nước có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Những nơi có nguồn cung cấp nước dồi dào, thường xuyên đều là những vùng nông nghiệp trù phù, chẳng hạn như vùng hạ lưu các con sông lớn như Mêkông, Hoàng Hà Ngược lại, nông nghiệp không thể phát triển được ở những nơi khan hiếm nước như các vùng hoang mạc, bán hoang mạc Do ảnh hưởng của khí hậu và địa hình, nên nguồn nước trên thế giới phân bố không đều và thay đổi theo mùa. Ở nước ta, mùa mưa lượng nước tập trung quá lớn, làm dư thừa nước, còn mùa khô, ngược lại rất khan hiếm nước. Điều đó gây ra nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Để khắc phục tình trạng thiếu nước trong mùa khô và quá dư thừa nước trong mùa mưa, người ta đã xây dựng các công trình thuỷ lợi, hồ chứa nước để phục vụ tưới tiêu một cách chủ động. Sự suy giảm nguồn nước ngọt cạn kiệt là một nguy cơ đe doạ sự tồn tại và phát triển nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vì vậy, chúng ta cần phải sử dụng hợp lí, tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước. - Sinh vật Sinh vật trong tự nhiên xưa kia là cơ sở để thuần dưỡng, tạo nên các giống cây trồng, vật nuôi. Sự đa dạng về thảm thực vật và hệ động vật, hay nói cách khác về loài cây, con là tiền đề hình thành và phát triển các giống vật nuôi, cây trồng và tạo khả năng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái. Trên thế giới, sản lượng lương thực (lúa, ngô, khoai ) và các cây công nghiệp quan trọng (cao su, cà phê, ca cao, bông, đay, dầu cọ, lạc ) tập trung ở vùng nhiệt đới vì tại đây đã có tới 6 trên 10 trung tâm phát sinh cây trồng. Các diện tích đồng cỏ, bãi chăn thả và diện tích mặt nước tự nhiên là cơ sở thức ăn tự nhiên để phát triển ngành chăn nuôi. Ngày nay, mặc dù ngành chăn nuôi được đẩy mạnh nhờ ứng dụng phương pháp chăn nuôi công nghiệp dựa trên nguồn thức ăn được chế biến theo phương pháp công nghiệp, nhưng nguồn thức ăn tự nhiên vẫn còn vai trò quan trọng. Những vùng đồng cỏ tươi tốt, chẳng hạn như preri ở Hoa Kỳ hay pampa ở Achentina, hoặc các đồng cỏ ở Anh, Pháp nổi tiếng với hướng chuyên môn hoá thịt, sữa bò và các sản phẩm chế biến từ thịt, sữa bò. Trong khi đó ở Mông Cổ và các nước Tây Á, trên các vùng đồng cỏ khô cằn chỉ thích hợp cho việc nuôi cừu, dê, ngựa c) Các nhân tố kinh tế- xã hội có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển và phân bố nông nghiệp - Dân cư và lao động ảnh hưởng tới hoạt động nông nghiệp dưới hai góc độ: là lực lượng sản xuất trực tiếp và là nguồn tiêu thụ các nông sản. + Dưới góc độ là lực lượng sản xuất trực tiếp để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp, nguồn lao động được coi là nhân tố quan trọng để phát triển theo chiều rộng (mở rộng diện tích, khai hoang ) và theo chiều sâu (thâm canh, tăng vụ ). Các cây trồng, vật nuôi đòi hỏi nhiều công chăm sóc thường được phân bố ở các vùng đông dân, nhiều lao động. Không phải ngẫu nhiên, vùng lúa gạo được thâm canh cao nhất của nước ta lại xuất hiện ở đồng bằng sông Hồng. Các cây trồng, vật nuôi tốn ít công chăm sóc hơn
  8. có thể phân bố ở các vùng thưa dân. Nguồn lao động không chỉ được xem xét về mặt số lượng, mà còn cả về mặt chất lượng, như trình độ học vấn, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp, tình trạng thể lực của người lao động Nếu nguồn lao động đông và tăng nhanh, trình độ học vấn và tay nghề thấp, thiếu việc làm sẽ trở thành gánh nặng cho nông nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. + Dưới góc độ là nguồn tiêu thụ, cần quan tâm đến truyền thống, tập quán ăn uống, quy mô dân số với khả năng sản xuất lương thực, thực phẩm. Chăn nuôi lợn ở các nước Nam Á và Trung Đông không phát triển, thậm chí không có như ở Bănglađet và Pakixtan do các quốc gia Hồi giáo không ăn thịt lợn. Ở Ấn Độ, một nước đa dân tộc và tôn giáo, ngành chăn nuôi lợn và bò cũng bị ảnh hưởng bởi tập quán kiêng ăn thịt bò của đạo Hinđu và không ăn thịt lợn của tín đồ Hồi giáo. Ở các nước đang phát triển thuộc khu vực Á- Phi, dân số đông và tăng nhanh. Trong cơ cấu nông nghiệp luôn có sự mất cân đối. Tỷ trọng chăn nuôi rất nhỏ bé so với trồng trọt, vì lương thực sản xuất ra chủ yếu để dành cho người. - Khoa học- công nghệ đã thực sự trở thành đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Nhờ nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, con người hạn chế được những ảnh hưởng của tự nhiên, chủ động hơn trong hoạt động nông nghiệp, tạo ra nhiều giống cây, con mới cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện hình thành các vùng chuyên canh, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá. Các biện pháp kỹ thuật như điện khí hoá (sử dụng điện trong nông nghiệp và nông thôn), cơ giới hoá (sử dụng máy móc trong các khâu làm đất, chăm sóc và thu hoạch), thủy lợi hoá (xây dựng hệ thống kênh tưới tiêu hoặc áp dụng tưới tiêu theo khoa học), hoá học hoá (sử dụng rộng rãi phân hoá học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, các chất kích thích cây trồng, vật nuôi), sinh học hoá (áp dụng công nghệ sinh học như lai giống, biến đổi gien, cấy mô ) nếu được áp dụng rộng rãi thì năng suất trên một đơn vị diện tích và của một người lao động sẽ thực sự được nâng cao. Trên thế giới có sự chênh lệch rất lớn về năng suất lao động. Ở các nước phát triển, bình quân một lao động nông nghiệp có thể sản xuất từ 8 đến 14 tấn lương thực, từ 1,5 đến 2,0 tấn thịt các loại, đủ nuôi sống cho 30 đến 80 người, trong khi đó ở các nước đang phát triển tương ứng chỉ là 1 tấn lương thực, 50- 100 kg thịt, đủ cho nhu cầu 2- 4 người. - Quan hệ sở hữu và chính sách nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới con đường phát triển và các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp. Chính sách khoán 10 ở Việt Nam từ năm 1988 là một thí dụ sinh động. Hộ nông dân được coi là một đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài để phát triển sản xuất, được tự do trao đổi hàng hoá, mua bán vật tư. Kinh tế hộ nông dân đã tạo đà cho việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng sẵn có, sản xuất nông nghiệp nước ta tăng lên rõ rệt. Có thể nói chính sách khoán hộ đã tạo động lực cho tăng trưởng nông nghiệp trong những năm 90 của thế kỉ XX. Ngoài ra các chương trình giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân đã thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. - Nguồn vốn và thị trường tiêu thụ có tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp và giá cả nông sản. + Nguồn vốn có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển và phân bố nông nghiệp, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Nguồn vốn tăng nhanh, được phân bố và sử dụng một cách có hiệu quả sẽ tác động đến tăng trưởng và mở rộng sản xuất, đáp ứng các chương trình phát triển nông nghiệp (như nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt xa bờ), đưa tiến bộ khoa học- công nghệ vào nông nghiệp + Sự phát triển của thị trường trong và ngoài nước không chỉ thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và giá cả nông sản, mà còn có tác dụng điều tiết đối với sự hình thành và phát triển các vùng nông nghiệp chuyên môn hoá. Ngoài các nhân tố kể trên còn có nhiều nhân tố khác nữa như cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp Tất cả đã tạo thành một hệ thống cùng thúc đẩy sự phát triển của ngành kinh tế quan trọng này.
  9. 2. Địa lí nông – lâm – ngư nghiệp 2.1. Địa lí nông nghiệp Theo truyền thống, nông nghiệp bao gồm hai ngành trồng trọt và chăn nuôi. Trong mỗi một ngành lại chia ra nhiều phân ngành. Chẳng hạn, các phân ngành cây lương thực, cây công nghiệp trong trồng trọt, hay chăn nuôi gia súc lớn (trâu, bò), gia súc nhỏ (lợn, cừu, dê) và gia cầm trong chăn nuôi. 2.1.1. Địa lí ngành trồng trọt a) Vai trò Trồng trọt là ngành quan trọng nhất trong nông nghiệp nhằm khai thác và sử dụng đất đai để tạo ra các sản phẩm thực vật. Trồng trọt là nền tảng của sản xuất nông nghiệp với chức năng cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến, là cơ sở để phát triển chăn nuôi và cũng là nguồn hàng xuất khẩu có giá trị. b) Trung tâm phát sinh cây trồng Cây trồng ngày nay do con người thuần hoá, chọn lọc và cải tạo từ cây hoang dại mà có. Lịch sử cây trồng gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1.500 loài cây trồng. Trên cơ sở xác lập mối quan hệ giữa cây trồng với các loài hoang dại cũng như nghiên cứu các tài liệu lịch sử và khảo cổ học, đến nay người ta đã xác định 10 trung tâm phát sinh cây trồng. Trong số này có 6 trung tâm nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới (Trung Mỹ, Nam Mỹ, Tây Xu Đăng, Ấn Độ, Êtiôpia, Đông Nam Á), 2 trung tâm nằm trong vòng đai cận nhiệt (Địa Trung Hải và Tây Á), 2 trung tầm nằm ở vòng đai cận nhiệt và một phần ở vòng đai ôn đới (Trung Quốc và Trung Á). Bảng I.1. Mười trung tâm phát sinh cây trồng trên thế giới (theo N.I.Vavilốp) STT Trung tâm Các cây trồng chính 1 Trung Mỹ Ngô, ca cao, hướng dương, khoai lang 2 Nam Mỹ Khoai tây, thuốc lá, lạc, cao su, côca 3 Tây Xu Đăng Cọ dầu, họ đậu 4 Êtiôpi Cà phê, vừng, lúa miến 5 ấn Độ Cây lúa, mía, cam, chanh, quít, hồ tiêu 6 Đông Nam Á Cây lúa, chuối, mít, mía, dừa, chè 7 Địa Trung Hải Cây thức ăn gia súc (yến mạch), rau (củ cải, bắp cải ), ô liu 8 Tây Á Lúa mì, lúa mạch 9 Trung Quốc Cây thực phẩm (cải thìa, cải cúc ), cây ăn quả (lê, táo ) 10 Trung Á Lúa mì, nho, táo, đậu xanh c) Phân loại cây trồng Trên thế giới có rất nhiều loại cây trồng. Để phân loại, người ta đã dựa vào một số dấu hiệu nhất định. Dựa vào điều kiện sinh thái, cây trồng được chia thành 4 nhóm: cây trồng xích đạo, nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới. Dựa vào thời gian sinh trưởng và phát triển có nhóm cây trồng ngắn ngày và dài ngày, hay nhóm cây trồng lâu năm và hàng năm. Dựa vào giá trị sử dụng kinh tế, cách phân loại quan trọng và phổ biến nhất, cây trồng được phân chia thành các nhóm: - Nhóm cây lương thực (lúa, ngô, khoai, sắn ); - Nhóm cây thực phẩm (rau, đậu, cây ăn quả);
  10. - Nhóm cây công nghiệp (cây lấy đường, cây lấy dầu, cây lấy nhựa, cây lấy chất kích thích, cây lấy sợi, cây lấy tinh dầu, cây làm thuốc); - Nhóm cây làm thức ăn cho gia súc (cỏ Ghinê, cỏ voi, cỏ Pangalô, cỏ Xu Đăng ); - Nhóm cây lấy gỗ (xoan, bạch đàn, thông, tếch, sồi ); - Nhóm cây cảnh, cây hoa (uất kim cương, trắc bách diệp, vạn tuế, phong lan, hoa hồng ). d) Địa lí một số cây trồng quan trọng trên thế giới Địa lí cây lương thực Khái quát chung - Cây lương thực là nguồn chủ yếu cung cấp tinh bột cho người và gia súc; cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm (rượu, bia, bánh, kẹo ) và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. - Theo Tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO), các loại lương thực truyền thống chủ yếu được sản xuất và tiêu thụ trên thế giới bao gồm 5 loại: lúa gạo (Rice), lúa mì (Wheat), ngô (Maize), kê (Sorghum), lúa mạch (Barly). Năm loại lương thực có hạt này gọi chung là ngũ cốc. Riêng lúa mạch còn được chia ra mạch đen, kiều mạch và đại mạch. Ngoài ra, lương thực còn bao gồm những cây có củ, phổ biến là khoai lang, sắn. - Trong số ngũ cốc kể trên, quan trọng hơn cả là lúa mì, lúa gạo và ngô. Theo thống kê của FAO, năm 2003 toàn thế giới sản xuất được 2.021 triệu tấn ngũ cốc với cơ cấu như sau: Lúa mì đạt : 557,3 triệu tấn, chiếm: 27,6% Lúa gạo : 585,0 triệu tấn, : 29,0% Ngô : 635,7 triệu tấn, : 31,4% Các loại khác : 243,0 triệu tấn, : 12,0% Hình I.1. Cơ cấu sản lượng lương thực thế giới năm 2003 (%) - Do vai trò to lớn của cây lương thực và khả năng bảo quản lâu dài của nó, nên 1/2 diện tích đất canh tác trên thế giới được dành để trồng các loại cây này. Việc sử dụng lương thực có sự khác nhau rõ rệt giữa các khu vực. ở các nước kinh tế phát triển chỉ có 1/4 sản lượng dùng làm lương thực cho người, còn 3/4 dành cho chăn nuôi. Trong khi đó, ở các nước đang phát triển, 3/4 sản lượng dành cho con người. Nếu như ngô, kê chủ yếu dành cho chăn nuôi, đại mạch vừa dùng cho chăn nuôi ngựa, vừa để nấu rượu, bia ở các nước phát triển thì ở các nước châu Phi, châu Mỹ Latinh, ngô và kê lại là cây lương thực chính. - Sản lượng lương thực bình quân theo đầu người tăng đều qua các năm, tuy có sự khác biệt giữa các nước, các khu vực và châu lục.
  11. Bảng I.2. Sản lượng lương thực và lương thực bình quân đầu người trên thế giới thời kì 1950- 2003 Năm Sản lượng (triệu tấn) Sản lượng bình quân đầu người (kg/người) 1950 676 247 1960 847 279 1970 1.213 294 1980 1.561 350 1990 1.950 368 2000 2.060 341 2002 2.032 327 2003 2.021 325 Nguồn: FAO 1950- 2003 Hình I.2. Sản lượng lương thực và lương thực bình quân đầu người trên thế giới thời kì 1950- 2003 Những nước có sản lượng lương thực lớn nhất thế giới năm 2002 là Trung Quốc 401,8 triệu tấn (19,8% sản lượng lương thực thế giới), Hoa Kỳ 299,1 triệu tấn (14,7%), ấn Độ 222,8 triệu tấn (11,0%), LB Nga 84,4 triệu tấn (4,2%), Pháp 69,1 triệu tấn (3,4%), Inđônêxia 57,9 triệu tấn (2,9%), Braxin 50,7 triệu tấn (2,5%), CHLB Đức 43,3 triệu tấn (2,1%), Bănglađet 40,7 triệu tấn (2,0%) và Việt Nam 36,7 triệu tấn (1,8%). 10 nước trên chiếm tới 2/3 tổng sản lượng lương thực của toàn thế giới. Đến nay, nhiều nước đang phát triển, nhất là ở châu Phi và cả châu á vẫn còn thiếu lương thực. Gần 800 triệu người (chiếm 17% dân số) ở trong tình trạng thiếu ăn. Nếu như toàn thế giới, bình quân lương thực đầu người là 327 kg/người, thì ở châu Mỹ là 535 kg/người, châu Âu 459 kg/người, trong khi đó ở châu á là 268 kg/người, châu Phi 143 kg/người. Có những nước bình quân lương thực trên 1000kg/người như Đan Mạch (1.755), Hungari (1.500), Canađa (1.427), Hoa Kỳ (1.138) và Achentina (1.024). Ngược lại, có nhiều quốc gia của châu Phi bình quân chưa đến 50 kg/người như Libi, Ruanđa, Xômali, CHDC Côngô, Gabông
  12. - Tập quán ăn uống của các dân tộc trên thế giới có sự khác nhau rõ rệt. Điều đó dĩ nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến địa lý sản xuất và buôn bán lương thực trên thế giới. Bức tranh phân bố ngũ cốc trên thế giới hiện nay thể hiện rõ rệt theo các vùng. Lúa mì là cây của miền rừng lá rộng, rừng thảo nguyên và thảo nguyên. Lúa gạo là cây của miền cận nhiệt đới và nhiệt đới. Ngô là cây của miền rừng thảo nguyên và thảo nguyên. Kê và cao lương là cây của miền đồng cỏ và nửa hoang mạc. Lúa mạch (mạch đen, kiều mạch, đại mạch) là các cây của miền rừng taiga, lan rộng lên phía Bắc và các vùng núi cao. Lúa gạo - Nguồn gốc Cây lúa gạo là một cây lương thực cổ nhất của nhân loại. Lúa hiện nay là loại cây một năm, nhưng có nguồn gốc từ một thứ cây dại nhiều năm, cao cây, mọc ở các hồ nước nông của vùng Đông Nam á, châu Phi và ở quần đảo Ăngti lớn. Tuy nhiên, khu vực Đông Nam á là nơi đã thuần hoá và tạo ra được cây lúa gạo đầu tiên và trở thành quê hương của cây lúa và nghề trồng lúa. Cây lúa được trồng ở miền Đông ấn Độ, gần sông Hằng, sau đó lan sang bán đảo Đông Dương và Nam Trung Quốc hiện nay. Giống lúa này cao cây, mọc nổi, gần với giống lúa dại, hiện nay còn thấy cả ở Bănglađet, Thái Lan và miền Nam Việt Nam. Từ Đông Nam á, cây lúa lan sang Bắc Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Inđônêxia, Philippin và về phía tây tới Iran. Qua các dân tộc có nền văn minh ảrập, cây lúa đi vào miền Tiền á và Địa Trung Hải. Qua các thuỷ thủ Malaixia và người Âu, cây lúa tới Mađagaxca, Malaixia và quần đảo Pôlinêzi. Người Tây Ban Nha đã đưa cây lúa tới châu Mỹ. Người Nêgrôit trồng một loại giống lúa nổi, cao cây ở trung và thượng lưu sông Nigiê. Sau này, người Bồ Đào Nha mang giống lúa châu á tới đây. Kết quả là giống lúa châu Phi hiện nay là giống lai với giống lúa châu á. - Điều kiện sinh thái Lúa gạo là cây lương thực của xứ nóng thuộc miền nhiệt đới và cận nhiệt. Cây lúa ưa khí hậu nóng, ẩm với nhiệt độ trung bình các tháng từ 20 - 300C. Nhiệt độ thấp nhất vào đầu thời kỳ sinh trưởng là 12 - 150C, tổng nhiệt độ trong thời kỳ sinh trưởng 2.200 - 3.2000C. Trong quá trình sinh trưởng, lúa gạo sống trong các chân ruộng ngập nước và cần nhiều công chăm sóc. Ngày nay, cây lúa gạo được trồng ở toàn bộ miền nhiệt đới và miền cận nhiệt (tới giáp miền ôn đới). ở Bắc bán cầu, giới hạn trồng lúa gạo có thể lên tới vĩ tuyến 420B ở Bồ Đào Nha, 450B ở Nhật, 490B ở Hoa Kỳ. ở Nam bán cầu, giới hạn có thể xuống tới vĩ tuyến 260N ở Môzămbich, 350N ở australia. Về độ cao, cây lúa có thể trồng được ở độ cao 2.600 - 2.700m so với mặt biển (ví dụ, vùng núi Tây Nam Trung Quốc). Vùng trồng lúa gạo quan trọng nhất hiện nay là vùng châu á gió mùa. Đó là một vùng rộng lớn kéo dài từ Nhật Bản, Viễn Đông (Liên Bang Nga), Triều Tiên, Đông Trung Quốc, Đông Nam á, Bănglađet, ấn Độ và Xrilanca. - Tình hình sản xuất Sản lượng lúa gạo trên thế giới tăng lên hàng năm, nhưng không ổn định.
  13. Hình I.3. Sản lượng lúa gạo thế giới Nhìn chung, từ sản lượng lúa gạo toàn cầu trong những năm qua (1980- 2003), có thể rút ra một số nhận xét chính sau đây: + Tổng sản lượng lúa gạo toàn cầu trong thời gian qua thể hiện rõ xu hướng tăng lên hàng năm. + Trong từng năm cụ thể, mức tăng không ổn định vì tình hình canh tác của các nước phụ thuộc nhiều vào biến động của thiên tai như lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh + Tốc độ tăng trưởng sản lượng lúa gạo trên thế giới ở đầu thập kỷ 90 không đáp ứng đủ nhu cầu lương thực của các nước đang phát triển trước sự bùng nổ dân số. Theo FAO, muốn đảm bảo an ninh lương thực trong điều kiện đó, sản lượng lúa gạo phải tăng tương ứng 3,0- 3,5%/ năm. Do tình hình sản xuất lúa còn nhiều hạn chế nên nạn đói vẫn xảy ra nghiêm trọng ở nhiều nước trên thế giới. + Theo khu vực địa lý, sản lượng lúa gạo tập trung hầu hết ở khu vực châu á, chiếm 91,5%. Mọi biến động lớn trong sản xuất lúa gạo ở châu á đã chi phối trực tiếp đến tình hình thị trường gạo toàn cầu. Ngoài châu á, sản lượng lúa gạo của các khu vực còn lại chỉ chiếm 8,5%. Trong số này, trước hết phải kể đến châu Mỹ, khu vực sản xuất lúa gạo lớn thứ 2 và chiếm 5,2% tổng sản lượng lúa gạo toàn cầu, nhưng tập trung phần lớn ở châu Mỹ Latinh. Sản xuất lúa gạo của châu Phi đứng thứ 3 trên thế giới, chiếm tỷ trọng 2,7% và tập trung chủ yếu ở vùng hạ sa mạc Xahara. Sau cùng, châu Âu và châu Đại Dương có sản lượng lúa gạo không đáng kể, với tỷ trọng 0,5% và 0,1% tổng sản lượng lúa gạo toàn cầu. Đại bộ phận lúa gạo trên thế giới (96,4%) được sản xuất ở các nước đang phát triển. Điều này diễn ra ngược lại với tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa mì, tập trung phần lớn ở các nước phát triển. Có thể nói, toàn bộ sản lượng lúa gạo của tất cả các nước phát triển cộng lại hiện chỉ tương đương với sản lượng lúa của Việt Nam. Bảng I.3. Các nước sản xuất lúa gạo chính trên thế giới (triệu tấn) Nước 1995 2000 2001 2002 2003 Trung Quốc 187,3 195,0 179,3 177,6 167,6 ấn Độ 121,6 132,8 136,6 123,0 133,5 Inđônêxia 48,5 50,8 50,1 48,6 51,8 Bănglađet 26,6 31,9 38,5 39,0 38,0 Việt Nam 25,0 32,5 32,1 34,4 34,6 Thái Lan 21,3 24,0 26,9 27,0 27,0
  14. Mianma 19,6 16,9 20,6 21,2 21,9 Philippin 11,1 11,7 12,9 12,7 13,2 Braxin 11,2 10,9 10,2 10,5 10,2 Nhật Bản 13,4 11,0 11,3 11,3 9,9 Hoa Kỳ 7,9 9,0 9,7 9,6 9,0 Nguồn: FAO 1995- 2003 Các nước trồng nhiều lúa gạo đều rất đông dân với tập quán lâu đời tiêu dùng gạo. Vì thế lúa gạo sản xuất ra chủ yếu để tiêu dùng trong nước, còn lượng gạo xuất khẩu hàng năm rất nhỏ (trên dưới 4,5%; khoảng 23 đến 28 triệu tấn). Bảng I.4. Các nước xuất khẩu lúa gạo chủ yếu (Triệu tấn) Nước 1995 2000 2001 2002 2003 Thái Lan 5,9 6,6 7,5 7,3 7,3 Việt Nam 2,0 3,5 3,7 3,2 4,0 ấn Độ 4,2 1,4 1,9 6,5 4,0 Hoa Kỳ 3,1 2,9 2,5 2,9 3,7 Trung Quốc 0,2 2,8 1,8 1,9 2,3 Pakixtan 1,6 1,9 2,4 1,5 1,6 Các nước khác 5,5 4,2 7,0 2,4 4,8 Toàn thế giới 22,5 23,6 26,8 25,7 27,7 Nguồn: FAO 1995- 2003 Có thể thấy việc xuất khẩu lúa gạo tập trung hầu hết vào các nước đang phát triển (80% tổng lượng xuất khẩu gạo toàn cầu), nhất là ở châu á (70%). Lúa mì - Nguồn gốc Lúa mì là một trong những cây trồng cổ nhất của các dân tộc thuộc đại chủng Ơrôpêôit, sống ở vùng từ Địa Trung Hải tới Tây Bắc ấn Độ. Cây lúa mì đã được trồng cách đây trên 1 vạn năm, ở vùng Lưỡng Hà, từ đó lan sang châu Âu, châu Mỹ và châu úc. Đến thế kỷ XVI, lúa mì đã trở thành cây lương thực chủ yếu của thế giới.
  15. Cánh đồng lúa mì ở Hoa Kỳ - Đặc điểm sinh thái Lúa mì là cây của miền ôn đới và cận nhiệt. Lúa mì ưa khí hậu ấm khô, cần nhiệt độ thấp nhất vào đầu thời kỳ sinh trưởng là 4 - 50C, tổng nhiệt độ trong thời kỳ sinh trưởng là từ 1.150 - 1.7000C; đòi hỏi các loại đất đai màu mỡ và cần nhiều phân bón. Lúa mì được trồng đến 67030’ Bắc vĩ ở Bắc bán cầu và 46030’ Nam vĩ ở Nam bán cầu. ở phía tây của Bắc Mỹ, nó lên tới 55°Bắc vĩ, ở Nga là 63°Bắc vĩ dọc theo sông Lêna, ở Achentina là 45°Nam vĩ. Cây trồng này có thể phát triển trên độ cao 3.700 đến 4.000m so với mặt biển. ở miền cận nhiệt và nhiệt đới, lúa mì được trồng ở vùng núi có khí hậu mát mẻ. Ngày nay, lúa mì đã được trồng ở tất cả các quốc gia thuộc vùng ôn đới và cận nhiệt (nhiều nhất là ở các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Bắc Trung Quốc, Tây Bắc ấn Độ, Pakixtan, Thổ Nhĩ Kỳ ). ở Việt Nam không trồng lúa mì. Do phân bố rộng rãi như vậy, nên quanh năm không tháng nào là không có nước thu hoạch lúa mì và thị trường lúa mì thế giới tương đối nhộn nhịp. Hiện nay trên thế giới có khoảng 30.000 giống lúa mì khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào cấu tạo và đặc điểm sinh thái, có thể nêu lên hai loại tiêu biểu là lúa mì mềm và lúa mì cứng. + Lúa mì mềm là loại lúa mì được trồng phổ biến trên thế giới, phát sinh từ Tiền á. Loại này có đặc điểm là chín nhanh qua mùa đông và chịu hạn. Trong công nghệ làm bánh mỳ, bột của lúa mì mềm là loại thượng hạng mà không có loại bột nào có thể thay thế được. Lúa mì mềm thích nghi nhất với khí hậu ôn hoà và cận nhiệt. Nó được phân bố ở vùng ôn đới, các đới thảo nguyên và thảo nguyên rừng ở Nga, Nam Phi, Nam Mỹ và Ôxtrâylia. Giới hạn về độ cao có thể lên đến 4.000m (Pêru). + Lúa mì cứng được trồng nhiều ở khu vực ven Địa Trung Hải thuộc châu Âu. ở châu á nó được phân bố ở bờ tây bán đảo ảrập, ở Iran, ấn Độ, Trung Quốc. Ngoài ra còn có thể thấy cả ở Bắc Phi, Bắc Mỹ. Lúa mì cứng có chứa nhiều đạm, cất giữ được lâu, nhưng bánh mì từ bột mì cứng không trắng bằng bột mì mềm. - Tình hình sản xuất Sản lượng lúa mì trên thế giới có xu hướng tăng lên, nhưng không ổn định.
  16. Hình I.4. Sản lượng lúa mì thế giới thời kì 1980- 2003 Ngược lại với lúa gạo, đại bộ phận lúa mì được trồng ở các nước phát triển. Những nước có sản lượng lúa mì lớn nhất là các nước công nghiệp thuộc vành đai ôn đới. Bảng I.5. Các nước có sản lượng lúa mì lớn nhất thế giới (triệu tấn) Nước 2000 2001 2002 2003 Trung Quốc 100,9 93,9 89,3 86,1 ấn Độ 70,1 68,8 71,5 69,3 Hoa Kỳ 62,0 53,3 44,0 63,6 LB Nga 37,0 46,9 50,0 34,0 Pháp 37,3 31,6 39,0 30,0 Ôxtrâylia 22,2 22,0 21,9 24,1 Canada 26,2 20,6 15,5 23,6 Đức 21,3 22,8 20,8 19,3 Pakixtan 21,1 19,0 18,5 19,2 Thổ Nhĩ Kỳ 18,0 19,0 20,0 19,0 Nguồn: FAO 2000- 2003 Sản lượng lúa mì của 10 nước trên đã chiếm tới 70% sản lượng lúa mì của thế giới. Nếu như lúa gạo chỉ có một phần nhỏ được xuất khẩu thì lúa mì là loại hàng hoá ngũ cốc quan trọng nhất trên thị trường quốc tế. Gần 1/2 sản lượng ngũ cốc xuất khẩu thuộc về lúa mì. Khoảng 20% sản lượng lúa mì thế giới dành cho xuất khẩu. Có nước sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu. Chẳng hạn, Canada năm 2001 xuất khẩu trên 85% sản lượng lúa mì, Hoa Kỳ gần 50%, Ôxtrâylia 70%
  17. Lúa mì được dùng làm lương thực chủ yếu ở châu Âu và châu Mỹ tuy lượng bột mỳ trong khẩu phần ăn hàng ngày không nhiều. ở những nước này, qui mô dân số không đông, tỷ suất gia tăng dân số rất thấp trong khi sản lượng lúa mì lại rất nhiều. Đó là lý do vì sao lúa mì trở thành mặt hàng lương thực chính trên thị trường lương thực thế giới. Hình I.5. Xuất khẩu lúa mì thế giới năm 2002 (triệu tấn)  Cây ngô - Nguồn gốc Ngô (còn được gọi là bắp hoặc bẹ), là một trong ba cây lương thực quan trọng nhất của thế giới. Cây ngô thuộc họ lúa, thân đặc, cao từ 1,5m đến 2- 3m và có giống tới 4m. Đây là cây lương thực cổ xưa của người thổ dân châu Mỹ. Cách đây 7000- 8000 năm, cây ngô được người da đỏ trồng ở vùng Mêhicô và Goatêmala. Đến cuối thế kỷ XV, người Tây Ban Nha đem ngô về trồng ở miền Địa Trung Hải, còn người Bồ Đào Nha đưa ngô vào Đông Nam á. Vào thế kỷ XVI, ngô được trồng ở các thuộc địa của Bồ Đào Nha, tại châu Phi nhiệt đới, rồi được nhập nội vào các đảo của châu Đại Dương. Cho tới giữa thế kỷ XX, cây ngô đã lan tới phần Bắc của miền Patagôni ở Nam Mỹ, sau đó tới phía Nam Niu Dilân. ở Bắc Mỹ, cây ngô phát triển tới vùng Bắc Ngũ Hồ, nhưng diện tích tập trung chủ yếu ở lưu vực sông Mixuri và thượng lưu sông Mixixipi, tạo nên "vành đai ngô" nổi tiếng thế giới. - Đặc điểm sinh thái Sinh ra ở vùng nhiệt đới, ngô là cây ưa nóng, phát triển tốt trên đất ẩm, nhiều mùn, dễ thoát nước với điều kiện nhiệt độ trung bình từ 20 - 300C. Ngô là cây dễ tính, dễ thích nghi với các dao động về khí hậu. Vì thế, cây ngô tới nay đã được trồng ở khắp các lục địa. Ngô có diện phân bố khá rộng. Nó được trồng phổ biến không những ở miền nhiệt đới, cận nhiệt đới, mà còn sang cả ôn đới nóng. ở Bắc bán cầu, ngô được trồng tới vĩ tuyến 550B (châu Âu), còn ở Nam bán cầu xuống đến vĩ tuyến 400N (Nam Mỹ). Trên vùng núi, ngô có khả năng trồng ở độ cao lớn hơn nhiều so với lúa. ở Pêru, người ta trồng ngô trên độ cao 4.200m. Trên thế giới hiện có khoảng 8.500 giống ngô. - Tình hình sản xuất So với lúa gạo và lúa mì, sản lượng ngô trên thế giới tăng nhanh liên tục và ổn định hơn. Trong thời gian trên 20 năm, sản lượng ngô đã tăng 1,6 lần; từ 394 triệu tấn năm 1980 lên gần 636 triệu tấn năm 2003. Ngô được trồng nhiều với năng suất cao và sản lượng lớn tại các nước có ngành chăn nuôi phát triển mạnh. Chỉ riêng Hoa Kỳ đã chiếm 40% sản lượng ngô toàn thế giới.
  18. Hình I.6. Sản lượng ngô của thế giới thời kì 1980- 2003 Bảng I.6. Mười nước có sản lượng ngô đứng đầu thế giới năm 2003 Nước Sản lượng (triệu tấn) % so với tổng sản lượng thế giới 1. Hoa Kỳ 256,9 40,4 2. Trung Quốc 114,2 18,0 3. Braxin 47,5 7,5 4. Mêhicô 19,7 3,0 5. Achentina 15,5 2,4 6. ấn Độ 14,7 2,3
  19. 7. Pháp 11,6 1,8 8. Inđônêxia 10,8 1,7 9. Italia 9,8 1,5 10. Nam Phi 9,7 1,5 Nguồn FAO 2003 - Sản lượng ngô của 10 nước này chiếm trên 80% tổng sản lượng ngô của toàn thế giới. Ngô sản xuất ra chủ yếu dành cho chăn nuôi. Tuy nhiên ở nhiều nước đang phát triển, ngô vẫn là lương thực chính cho con người. Việt Nam trồng nhiều ngô ở các vùng Đông Bắc, Đông Nam Bộ với sản lượng 2,9 triệu tấn (2003), đứng thứ 30 trong tổng số 157 nước có trồng ngô. Ngô cũng là một mặt hàng buôn bán trên thị trường lương thực thế giới. Những nước xuất khẩu ngô nhiều nhất năm 2002 là Hoa Kỳ (48 triệu tấn), Achentina (11 triệu tấn), Pháp (7,0 triệu tấn), Trung Quốc (6,0 triệu tấn) Những nước nhập khẩu ngô là Nhật Bản, Hàn Quốc, Mêhicô, Ai Cập, Canada Lúa mạch - Lúa mạch là tên gọi chung cho một số cây lương thực ôn đới gồm có đại mạch, kiều mạch, mạch đen và yến mạch. Lúa mạch được trồng nhiều ở các nước công nghiệp phát triển xứ lạnh. Lúa mạch được sử dụng chủ yếu làm nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm như sản xuất chế rượu bia (đại mạch), làm bánh ngọt (kiều mạch) và làm thức ăn cho gia súc (gà, vịt , lợn, ngựa). - Lúa mạch là cây lương thực ngắn ngày (thời gian sinh trưởng trung bình 85- 100 ngày), chịu lạnh giỏi, không kén đất như lúa mì. Đại mạch Mạch đen - Sản lượng lúa mạch trên thế giới có xu hướng giảm đi do nhu cầu hạn chế của thị trường thế giới. Ngày nay, lúa mạch ít được sử dụng làm lương thực.
  20. Hình I.7. Sản lượng lúa mạch trên thế giới thời kì 1990- 2003 Trong cơ cấu sản lượng lúa mạch của thế giới, đại mạch chiếm ưu thế tuyệt đối (khoảng trên 80%), vì đây là nguyên liệu chủ yếu để sản xuất bia cho thị trường đồ uống thế giới. Những nước trồng nhiều lúa mạch là LB Nga (22,6 triệu tấn năm 2003), Ucraina (8,7 triệu tấn), Canada (12,3 triệu tấn), Đức (13 triệu tấn), Pháp (10 triệu tấn) Nhờ là nguyên liệu để nấu bia mà lúa mạch (chủ yếu là đại mạch) được xuất khẩu nhiều từ thị trường Âu- Mỹ sang thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, ả Rập Xêut, Iran Ngoài các cây lương thực kể trên, bổ sung vào nguồn lương thực cho người và gia súc còn có cao lương và kê. Cao lương (còn gọi là lúa miến) có nguồn gốc từ châu Phi, sau đó đem trồng ở ấn Độ, Mianma, Philippin, Trung Quốc Đây là loại cây ưa nóng, chịu được hạn, thích hợp với các vùng xa van và thảo nguyên. Hạt cao lương dùng làm thức ăn cho gia súc và gia cầm. Chỉ ở những nước nghèo thuộc châu á, châu Phi, hạt cao lương mới dùng làm lương thực. Sản lượng cao lương của thế giới đạt trung bình khoảng 60 triệu tấn năm. Trung Quốc, ấn Độ và các nước châu Phi trồng nhiều cao lương. Cao lương
  21. Kê có nguồn gốc ở Trung Quốc, rồi từ đây lan sang Trung á, Nam Âu và Tây á. Hạt kê chủ yếu dùng làm thức ăn cho gia cầm. Kê là cây lương thực của vùng khô hạn và được trồng nhiều nhất ở các vùng thảo nguyên khô của LB Nga, Trung Quốc, các vùng khô hạn của ấn Độ, Nigiêria, Nigiê, Xuđăng, Uganđa Sản lượng kê của thế giới dao động khoảng 26- 29 triệu tấn năm. Cây kê Địa lí cây công nghiệp Vai trò và đặc điểm - Cây công nghiệp cho sản phẩm dùng để làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, đặc biệt là công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm. Phát triển cây công nghiệp còn khắc phục được tính mùa vụ, tận dụng tài nguyên đất, phá thế độc canh và góp phần bảo vệ môi trường. Giá trị sản phẩm của cây công nghiệp sẽ tăng lên nhiều lần sau khi được chế biến. Vì thế, trong vùng trồng cây công nghiệp thường xuất hiện xí nghiệp chế biến. ở nhiều nước đang phát triển thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt, sản phẩm cây công nghiệp trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng, mang lại nguồn thu lớn về ngoại tệ. - Đa phần cây công nghiệp là cây ưa nhiệt, ưa ẩm, đòi hỏi đất thích hợp, với biên độ sinh thái hẹp. So với cây lương thực, các loại cây này cần lao động có kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất và sử dụng nhiều lao động (số ngày công lao động trên một đơn vị diện tích trồng cây công nghiệp thường gấp 2 đến 3 lần). Cây công nghiệp lâu năm đòi hỏi đầu tư lớn, lâu thu hồi vốn. Chẳng hạn như trồng cây cao su phải mất 7 năm mới được thu hoạch. Do vậy, cây công nghiệp thường được trồng ở những nơi có điều kiện thuận lợi nhất và từ đó tạo nên các vùng chuyên canh quy mô lớn. Có nhiều loại cây công nghiệp và có thể được sắp xếp theo các nhóm như: + Các cây lấy đường: mía, củ cải đường, thốt nốt + Các cây lấy sợi: bông, đay, gai, lanh, dứa sợi
  22. + Các cây lấy dầu: dừa, lạc, đậu tương, cọ dầu, hướng dương, ô liu + Cây lấy nhựa: cao su, thông, sơn + Cây cho chất kích thích: chè, cà phê, ca cao Cây lấy đường - Đường được sản xuất từ 2 nguồn nguyên liệu chính: + Mía là cây trồng ở vùng nhiệt đới chiếm trên 60% sản lượng đường của thế giới; + Củ cải đường là cây cận nhiệt và ôn đới chiếm phần còn lại. Ngoài hai nguồn nguyên liệu này, có thể sản xuất đường từ loại cây trồng khác (như thốt nốt ), song sản lượng hầu như không đáng kể. - Tình hình sản xuất đường Hình I.8. Sản lượng đường (đường thô) của thế giới thời kì 1990- 2002 (triệu tấn) Đường được sản xuất nhiều nhất ở châu Mỹ (33% sản lượng thế giới), châu á (29%) và châu Âu (25%). Châu Phi và châu Đại dương có sản lượng đường không đáng kể.
  23. Hình I.9. Mười nước đứng đầu về sản lượng đường năm 2002 Đường là sản phẩm rất cần thiết cho nhu cầu của con người, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp thực phẩm, dược phẩm Các nước xuất khẩu chủ yếu là Braxin, Cu Ba, Ôxtrâylia, Thái Lan, Nam Phi Những nước nhập khẩu đường là Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Malaixia - Cây mía + Trong số các loại cây trồng để lấy đường của vùng nhiệt đới, mía là cây quan trọng và phổ biến nhất. Cây mía thuộc họ Lúa và là cây thân thảo lớn, sống nhiều năm. Trong thân cây mía có chứa 80- 90% nước dịch, với hàm lượng đường là 16- 18%. Khi mía già, người ta chặt rồi ép lấy nước, chế lọc và cô đặc thành đường. Mía được chế biến bằng phương pháp công nghiệp trong nhà máy và tạo thành đường kết tinh. Ngoài ra, mía còn được chế biến bằng phương pháp thủ công, cho các sản phẩm là mật, đường phên (đường đen), đường hoa mai. Nước mía ép dùng để chế biến rượu, cồn. Mía cây để ăn tươi và uống giải khát; lá mía để lợp nhà; bã mía để sản xuất giấy, mũ, đun bếp + Cây mía có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, với hai trung tâm phát sinh là đảo Tân Ghinê (phía Đông quần đảo Inđônêxia) và ấn Độ, sau đó lan rộng ra toàn bộ khu vực Đông Nam á và châu Đại Dương. Sau thế kỷ XVI, nhờ sự phát triển giao thông vận tải đường biển, mía được người Âu đưa sang trồng ở châu Mỹ và châu Phi. Ngày nay, mía được trồng trên toàn bộ vành đai nhiệt đới của Trái đất trong phạm vi vĩ tuyến từ 330B đến 300N. Nói chung, cây mía đòi hỏi điều kiện nhiệt và ẩm rất cao. Mía phát triển thuận lợi ở nhiệt độ từ 30 - 350C. Nếu nhiệt độ dưới 100C và kéo dài thì mía sẽ ngừng phát triển và chết. Lượng mưa trung bình năm từ 1.000- 2.000 mm, với mùa khô 4- 5 tháng. Trong thời gian sinh trưởng nếu không đủ độ ẩm, cây sẽ chậm phát triển, giảm chiều dài các gióng và tỷ lệ đường thấp. Nếu điều kiện khí hậu khô nhưng đất được tưới đủ ẩm thì vẫn trồng được tốt (Pêru, Ai Cập). Đến thời kỳ mía chín, nếu thời tiết hanh khô thì sự tích luỹ đường của mía sẽ cao (hanh heo mật trèo lên ngọn). Vì thế ở những vùng mưa nhiều và phân bố đều quanh năm, việc trồng mía không đem lại hiệu quả kinh tế do tỷ lệ đường thấp. Cây mía thích hợp với đất phù sa mới, chịu được loại đất cát pha, đất thịt nặng. Mía được trồng bằng ngọn và gọi là hom mía. Từ hom mía, các mầm non mọc lên và phát triển thành cây. Vì là cây sống nhiều năm nên lần trồng đầu tiên phải sau 15- 24 tháng mới cho thu hoạch. Sau khi chặt hết mía cây, người ta lại bón phân để mía mọc mầm và phát triển thành vụ thứ hai, nhưng các vụ sau năng suất giảm. Do đó, sau 4- 5 năm người ta phải trồng lại. Năng suất mía dao động trong khoảng 30- 50 tấn cây/ha tương đương với 3- 5 tấn đường thô.
  24. + ở nước ta, do điều kiện sinh thái khá rộng mà cây mía có thể phát triển được cả ở vùng núi, trung du lẫn ở đồng bằng từ Bắc vào Nam. Các vùng trồng mía lớn nhất là đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ. Diện tích và sản lượng mía có tăng, nhưng không ổn định. Năm 2003, diện tích trồng mía của nước ta đạt 320 nghìn ha, với sản lượng 16,5 triệu tấn mía cây, gần 1,4 triệu tấn đường, đứng thứ 15 trên tổng số 103 nước có trồng mía. - Củ cải đường + Củ cải đường là tên gọi chung cho một số cây củ cải làm ra đường mà có gốc là loài củ cải biển. Đây là cây mọc hoang dại, cây 1 năm, sau đó được thuần hoá thành cây 2 năm, cho năng suất rất cao. + Củ cải đường nói chung bé hơn so với củ cải làm rau ăn và nuôi gia súc. Về thành phần, ngoài 80% nước còn chứa từ 15- 19% đường (tương đương với mía). Ngoài ra, trong củ cải đường còn có chứa đạm, sắt, canxi, vitamin B1, B2. Cây củ cải đường + So với mía, củ cải đường được biết đến muộn hơn, mới chỉ cách đây hơn 200 năm. Năm 1747, một người Đức tên là Macgơrap phát hiện củ cải biển có chứa saccarô. Do trong nước ép có chứa nhiều chất đạm và các chất khác cản trở sự kết tinh của đường nên phải mất gần nửa thế kỷ, người ta mới biết kỹ thuật lấy đường từ củ cải. Công nghệ làm đường từ loại củ cải này chỉ bắt đầu vào đầu thế kỷ XIX, khi nước Pháp của Napôlêông bị các nước khác, phong toả, không nhập được đường từ thuộc địa. Hơn nữa, do giá thành quá đắt khiến người ta chỉ bắt đầu chế biến đường từ củ cải vào năm 1811. + Củ cải đường là cây lấy đường của các nước ôn đới và được trồng từ vĩ tuyến 470B đến 540B. Đất trồng phải giầu dinh dưỡng, thích hợp nhất là đất đen, đất phù sa, cày bừa kỹ và bón phân đầy đủ. Cây củ cải đường thường được trồng luân canh với lúa mì, tập trung ở các nước Tây Âu (Pháp, Đức) và Đông Âu (Ucraina, LB Nga, Ba Lan), Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ Cây cho chất kích thích - Cây cà phê + Cà phê là một trong ba cây trồng (cà phê, chè, ca cao) làm thức uống phổ biến rộng rãi nhất trên thế giới. Cà phê được nhiều người ưa chuộng, là đồ uống chủ yếu của các dân tộc châu Âu, Bắc Mỹ bởi vì ngoài hương thơm rất hấp dẫn, trong cà phê còn chứa cafein có tác dụng kích thích thần kinh, trước hết là vỏ não, làm tăng quá trình hô hấp, tuần hoàn máu, kích thích tiêu hoá và hoạt động của các mô. Uống cà phê làm cho cơ thể sảng khoái và dễ chịu. Trong y học, người ta dùng cà phê để chữa bệnh huyết áp cao và suy nhược thần kinh.
  25. Quả cà phê + Cây cà phê có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới ẩm châu Phi. Tên gọi cà phê có thể là tên gọi của địa phương nơi phát hiện ra nó- làng Caffa- nằm ở tây nam cao nguyên Êtiôpia. Cà phê có thể xuất hiện cách đây 500 năm, nhưng đến thế kỷ XVII, sản phẩm của cà phê mới được đưa vào châu Âu và sau đó trở thành nhu cầu phổ biến của khu vực này. Đến cuối thế kỷ XVII, cà phê được đưa sang trồng ở Xri Lanca, rồi khu vực Đông Nam á và các nước châu Mỹ. + Cà phê là cây rất ưa nhiệt (nhiệt độ >150C) và ưa ẩm (lượng mưa trên 1.250 mm/năm). Cây này phát triển thuận lợi nhất ở những vùng có lượng mưa từ 1.900 -3.000 mm và phân bố đều trong năm. Cà phê ưa đất tơi xốp, giàu chất dinh dưỡng, nhất là vùng đất đỏ đá vôi và đất đỏ bazan. Nó chỉ phát triển được trong các vùng nằm giữa hai chí tuyến Bắc và Nam, không vượt quá giới hạn 35° và độ cao 1300m. Cà phê hiện nay được trồng tập trung ở Trung Mỹ, quần đảo Ăngti, Đông Nam Braxin, Tây và Trung Phi, Tây Nam ấn Độ và Đông Nam á, trong đó có Việt Nam. + Hiện nay trên thế giới có 3 loại cây cà phê được trồng phổ biến với giá trị kinh tế cao. Cà phê chè (hay cà phê Arabica) có nguồn gốc ở cao nguyên Êtiôpia. Cà phê chè có hương thơm, vị đậm nên được thị trường thế giới ưa chuộng và là loại có giá trị trao đổi cao nhất, chiếm 90% sản lượng cà phê của thế giới. Tuy nhiên cà phê chè khó trồng vì thường bị sâu bệnh phá hoại. Khu vực trồng nhiều loại cà phê này tập trung ở Trung và Nam Mỹ. Cà phê vối (hay cà phê Robusta) có nguồn gốc ở lưu vực sông Cônggô, thuộc vùng khí hậu xích đạo. Cà phê vối dễ trồng, năng suất cao, nhưng kém chịu rét và chất lượng không thơm ngon bằng cà phê chè. Cà phê vối được trồng nhiều ở Inđônêxia. Cà phê mít (hay cà phê Sary) có nguồn gốc ở Libêria thuộc Tây Bắc Châu Phi nhiệt đới. Cà phê mít dễ trồng, có khả năng chịu được hạn và sương muối nhưng năng suất thấp, có vị chua, ít thơm, phẩm chất kém hơn cà phê chè và cà phê vối nên nhu cầu tiêu thụ thấp, giá rẻ. Cây cà phê có thể trồng bằng hạt hay giâm cành. Sau 2- 3 năm bắt đầu cho thu hoạch. Chu kì kinh tế không quá 25 năm. + Tình hình sản xuất và phân bố Sản lượng cà phê của thế giới không ngừng tăng lên do thói quen uống cà phê hàng ngày đã phổ biến trong 1/3 dân số thế giới, song không ổn định.
  26. Hình I.10. Sản lượng cà phê thế giới thời kì 1990- 2003 (triệu tấn) Những quốc gia đứng đầu về sản lượng cà phê năm 2003 là Braxin (1,99 triệu tấn chiếm 27,6% sản lượng thế giới), Việt Nam (0,77 triệu tấn và 10,7%), Côlômbia (0,7 triệu tấn và 9,7%), Inđônêxia (0,62 triệu tấn và 8,6%), ấn Độ (0,32 triệu tấn và 4,4%) và Mêhicô (0,31 triệu tấn và 4,3%) Trong thời gian gần đây, hàng năm thế giới tiêu thụ trên dưới 6 triệu tấn cà phê, trong đó các nước EU tiêu thụ tới 40% sản lượng cà phê của thế giới, Hoa Kỳ 30%. Nhu cầu uống cà phê của các dân tộc ở châu Âu và Bắc Mỹ rất lớn, nhưng đa phần các nước này lại không trồng được cà phê. Vì thế cà phê là mặt hàng xuất khẩu quan trọng hàng đầu của nền nông nghiệp nhiệt đới. Hình I.11. Xuất khẩu cà phê thế giới năm 2003 Những nước nhập khẩu cà phê chủ yếu là Hoa Kỳ, CHLB Đức, Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản Hiện nay Việt Nam đứng thứ hai về sản xuất và xuất khẩu cà phê sau Braxin. Các vùng trồng cà phê lớn nhất cả nước là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
  27. - Cây chè + Chè là đồ uống chủ yếu của các dân tộc ở châu á, Nga, Ănglô Xắcxông với hơn 1/2 nhân loại. Chè có khả năng kích thích hệ thần kinh và làm giảm mệt nhọc cho cơ thể. Hỗn hợp tananh trong chè có tác dụng giải khát, giúp cho tiêu hóa, chữa được bệnh đường ruột. Ngoài ra, chè còn chứa các chất dinh dưỡng prôtêin, aminôaxit, các vitamin C, B1, B2, PP. Chè được loài người sử dụng sớm hơn cà phê rất nhiều, cách đây hàng ngàn năm. Mỗi dân tộc lại có một cách uống trà khác nhau. Người Trung Quốc uống trà nóng đựng trong chén sứ có hoa văn đẹp với nắp đậy. Người Việt Nam ở miền Bắc thì uống trà đặc nóng trong chén nhỏ, pha rất cầu kỳ, trong khi người Nam Bộ lại uống trà với đá đựng trong cốc thuỷ tinh to. Người châu Âu và Bắc Mỹ uống trà đen nóng với đường và chanh bằng cốc lớn. Người Nhật có nghệ thuật trà đạo, xát trà thành bột đặc quánh, nhấp trà với lễ nghi cầu kỳ. Người Nga uống trà nóng pha trong bình lớn đặc biệt với tên gọi Samôva. Thu hoạch chè ở Xri Lanca + Chè là cây bụi thường xanh của miền nhiệt đới và cận nhiệt đới gió mùa. Quê hương của cây chè là Mianma, Việt Nam và Đông Nam Trung Quốc. Có lẽ chè xuất hiện cách đây 5000 năm và từ đây lan sang các nơi khác. Vào đầu thế kỷ XIX, người Âu đem chè về trồng ở các thuộc địa ấn Độ, Pakixtan, Xri Lanca, Inđônêxia. Cây chè thích hợp với nhiệt độ ôn hòa (15 - 250C) với yêu cầu tổng nhiệt độ hàng năm 8.0000C, lượng mưa lớn 1.500 - 2.000 mm rải đều quanh năm, độ ẩm không khí và đất 70 - 80% kéo dài nhiều tháng, độ cao thích hợp 500- 1000m, và giới hạn đến 2000m. Chè có khả năng chịu được sương muối; thích hợp với đất chua (pH từ 4 đến 6). Hiện nay, chè được trồng ở vành đai nhiệt đới và lên tới vĩ tuyến 37°B, tập trung ở Đông Nam Trung Quốc, Đông Nam á, ấn Độ, Xri Lanca, Trung á, Nga, Đông Phi. Trên thế giới đang phổ biến 4 loại chè chính: chè ấn Độ (hay còn gọi chè Atxam) với đặc điểm chịu lạnh, lá lớn và mềm, dễ vò, tỷ lệ búp cao, dễ chăm sóc và thu hái; chè Trung Quốc lá nhỏ, dày; chè Vân Nam lá lớn và chè San lá lớn, mềm. + Sản lượng chè tăng đều qua các năm và tương đối ổn định. Những nước trồng nhiều chè (năm 2003) là ấn Độ (885 nghìn tấn), Trung Quốc (735 nghìn tấn), Xri Lanca (310 nghìn tấn), Kênia (290 nghìn tấn), Inđônêxia (160 nghìn tấn), Thổ Nhĩ Kỳ (150 nghìn tấn), Việt Nam (95 nghìn tấn), Nhật (84 nghìn tấn), Achentina (63 nghìn tấn) và Bănglađet (60 nghìn tấn). Mười nước này chiếm tới 88% sản lượng chè của toàn thế giới.
  28. Hình I.12. Sản lượng chè thế giới thời kì 1980- 2003(triệu tấn) + Chè được tiêu thụ dưới hai dạng khác nhau: chè đen và chè xanh. Trên thế giới, thị trường chè đen có sức mua lớn hơn thị trường chè xanh. Lượng chè xuất khẩu hàng năm trên thế giới là trên 1 triệu tấn. Các nước xuất khẩu nhiều chè nhất thế giới là Trung Quốc, Kênia, ấn Độ, Xri Lanca, Inđônêxia. Thị trường nhập khẩu là Anh, Pakixtan, Hoa Kỳ, LB Nga, Ai Cập. + Việt Nam có những vùng chè nổi tiếng thơm ngon như chè xanh Tân Cương (Thái Nguyên), chè Suối Giàng (Yên Bái), chè San (Hà Giang). Đó là những loại chè có vị đượm, ngon nước, mầu nước trong xanh và pha đến ba bốn lần vẫn đượm mùi thơm. Ngoài ra còn có vùng chè Bảo Lộc (Lâm Đồng), chè Mộc Châu (Sơn La). Hàng năm, nước ta trồng khoảng 100 nghìn ha chè với sản lượng trung bình 90 nghìn ha và xuất khẩu trên dưới 60 nghìn tấn. Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số 45 nước trồng chè và đứng thứ 8 về xuất khẩu chè. Các vùng chè nổi tiếng là Đông Bắc và Tây Nguyên. - Ngoài cây cà phê và chè được con người sử dụng làm đồ uống hàng ngày, người ta còn biết đến cây ca cao, loài cây có nguồn gốc từ vùng rừng xích đạo của châu Phi và Nam Mỹ. Hạt cây ca cao đem rang có mùi thơm, sau đó ép lấy bớt dầu rồi xay thành bột, pha nước uống và làm sôcôla. Hạt ca cao có chứa 50% chất béo, gần 15% chất đạm, 1- 2% chất kích thích có tác dụng chống mệt mỏi, tăng cường hoạt động của tim
  29. Cây ca cao Ca cao được trồng ở 50 nước trên thế giới với sản lượng hàng năm khoảng 3 triệu tấn, trong đó 70% tập trung ở 3 nước Côtđivoa, Gana và Inđônêxia. Các nước có nhu cầu nhập khẩu nhiều ca cao là Hoa Kỳ và EU (Bỉ, Hà Lan, Anh, Pháp, Đức ). Quả ca cao Cây lấy sợi - Cây bông + Trong nhóm các cây lấy sợi thì bông là cây trồng quan trọng nhất, cung cấp hơn 1/2 nguồn nguyên liệu cho công nghiệp dệt. Xơ bông là nguyên liệu cho công nghiệp kéo sợi, dệt vải, dùng trong y tế, làm giấy và các sản phẩm khác. Hạt bông chứa từ 18- 26% dầu được dùng trong bữa ăn và sử dụng trong công nghiệp. Là loại cây có sợi đến với con người sau cùng nhưng do giá trị quan trọng của nó mà ngày nay, bông trở nên thông dụng nhất. Ngày nay tuy sợi tổng hợp đã phát triển mạnh nhưng bông tự nhiên vẫn có những đặc tính quý mà sợi tổng hợp không thể có được. Sợi bông được nhiều người ưa chuộng và là sản phẩm buôn bán quan trọng trên thị trường thế giới.
  30. Cánh đồng bông ở Udơbêkixtan + Bông là cây nhiệt đới ưa nóng và ánh sáng có thể phát triển được ở nhiệt độ 17 - 200C, nhưng thích hợp nhất là 25 - 300C. Nếu nhiệt độ xuống dưới 50C cây sẽ chết. Cây bông không cần ẩm (độ ẩm của đất thích hợp nhất trong thời gian sinh trưởng từ 60 - 70%, lúc quả chín từ 40 - 45%). Lượng mưa cần thiết 800 - 1.000mm. Bông cần khí hậu tuyệt đối ổn định, đất tốt, nhiều phân bón nên đòi hỏi nhiều vốn và lao động. Bông cần điều kiện địa lý đặc biệt: nhiệt độ phải đều đặn từ khi nảy mầm đến khi chín, mùa bông ra quả phải có mưa nhiều, nhưng lúc quả chín lại cần thời tiết tuyệt đối hanh khô, nếu không quả bông nở chín, sợi sẽ bị hao hụt nhiều. Vì thế, trồng bông tốt nhất là ở các vùng có khí hậu nhiệt đới và gió mùa. Các vùng khô hanh muốn trồng phải có công trình thuỷ lợi. Trồng bông đòi hỏi nhiều nhân công để tỉa ngọn, làm cỏ, xới và tưới, đặc biệt là hái bông phải kịp thời. Về phân bố, cây bông chủ yếu tập trung ở vùng nhiệt đới. Giới hạn rộng nhất của nó là từ vĩ tuyến 420Bắc đến 320Nam. Cây bông phân bố chủ yếu ở vùng trung tâm và phía Nam Hoa Kỳ, Trung Mỹ, Pêru, Đông Nam Braxin, Bắc Achentina, Ai Cập, các nước Tây và Trung Phi, cao nguyên Đêcan của ấn Độ, Trung á, Pakixtan và phía đông Trung Quốc.
  31. Cây Bông + Trên thế giới có nhiều loài bông được trồng, nhưng phổ biến hơn cả là hai loài. Bông Mêhicô (còn gọi là bông luồi) chiếm 2/3 sản lượng bông thế giới với ưu điểm là sợi trắng và dài 25- 30 mm, năng suất cao, chất lượng xơ khá tốt, lại chịu được hạn. Bông Pêru (còn gọi là bông hải đảo) với thế mạnh sợi mịn, dài từ 36- 38 mm đến 70 mm, chất lượng xơ tốt, song khó trồng, dễ bị sâu bệnh, chiếm 6- 7% sản lượng bông thế giới. Đây là hai loài quan trọng nhất được trồng ở khắp các châu lục. Ngoài ra còn có bông cỏ châu á, bông cỏ á Phi và bông Ai Cập. + Trong thập niên 90 của thế kỉ XX và những năm đầu của thế kỉ XXI, sản lượng bông của thế giới dao động ở mức 20 triệu tấn/năm. Hình I.13. Sản lượng bông thế giới thời kì 1990- 2003 (triệu tấn) Các nước có sản lượng bông sợi lớn nhất (năm 2003) là Trung Quốc (trên 25% sản lượng thế giới), Hoa Kỳ (trên 20%), ấn Độ (9%), Pakixtan (9%), Udơbêkixtan (6%) và các nước khác như Thổ Nhĩ Kỳ, Braxin, Ai Cập, Hi Lạp Các nước có nhu cầu tiêu thụ nhiều bông là Trung Quốc, ấn Độ, Pakixtan, Hoa Kỳ, các nước EU (Anh, Pháp, Đức, Italia ) và các nước Đông Nam á. Ngành công nghiệp dệt vải bông của thế giới phụ thuộc nhiều vào việc sản xuất sợi bông. Có hai xu hướng sản xuất vải bông. Đó là những nước phát triển trông chờ vào nguồn nguyên liệu nhập (như Anh, Pháp, Đức) và những nước dựa trên nguồn sợi bông của chính mình như (Hoa Kỳ, Trung Quốc, ấn Độ, Ai Cập). + ở Việt Nam, nghề trồng bông đã có từ thế kỷ XIII, nhưng đến thế kỷ XIX mới phát triển mạnh. Diện tích và sản lượng bông không ổn định do tính chất thất thường của khí hậu và cả nhu cầu của thị trường. Từ năm 1998 trở lại đây, diện tích trồng bông đạt mức hơn 20 nghìn ha, năm cao nhất trên 34 nghìn ha (năm 2002). Sản lượng bông dao động từ 22 nghìn tấn (1998- 1999) đến 40 nghìn tấn (2002). Hai vùng trọng điểm trồng bông của nước ta là Đồng Nam Bộ và Tây Nguyên. Các tỉnh trồng nhiều bông là Đắc Lắc, Đồng Nai. Ngoài ra, nó còn phân bố ở cả duyên hải Nam Trung Bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận). Sản lượng bông của nước ta chỉ đáp ứng được trên 10% nhu cầu trong nước. Hàng năm, Việt Nam phải nhập trên 80 nghìn tấn bông của Trung Quốc, ấn Độ. - Cây đay + Đay là cây công nghiệp quan trọng và có giá trị kinh tế cao. Sợi đay qua chế biến được dùng để dệt vải bạt, vải buồm, vải lót lốp ô tô. Còn bẹ đay dùng để dệt bao tải, đan võng, bện thừng. Ngoài ra người ta còn dùng thân đay để chế bột giấy, làm củi đun. Lá non của một vài giống đay có thể dùng làm thức ăn cho người và gia súc. + Là cây nhiệt đới có nguồn gốc ở ấn Độ và Bănglađét, cây đay ưa khí hậu nóng và ẩm, phát triển thuận lợi ở nhiệt độ 25- 260C. Nếu nhiệt độ thấp hơn 180C cây phát triển khó khăn, khi gặp hạn hán đay ngừng phát triển. Lượng mưa trung bình năm cần 1.500mm và độ ẩm không khí 70- 80%. Đay có thể
  32. chịu ngập nước từ 7- 8 ngày. Cây đay thuộc loại phát triển nhanh, thời gian sinh trưởng ngắn nên đòi hỏi đất phải có nhiều màu. Đất thích hợp cho đay phát triển là đất phù sa ven sông, cát pha, thịt nhẹ và trung bình. Ngày nay, đay được trồng ở nhiều nước trên thế giới, nhưng tập trung nhất là vùng Đông Bắc ấn Độ và Bănglađet- nơi phát sinh cây đay và trồng đay lâu đời nhất, đồng thời cũng là nơi có điều kiện khí hậu nóng ẩm, đất phù sa màu mỡ, thích hợp cho sự phát triển của cây. Ngoài ra, đay còn được trồng ở Pakixtan, Trung Quốc, Mianma, Việt Nam + Sản lượng đay của thế giới đạt xấp xỉ 3 triệu tấn (năm 2003), đứng đầu là ấn Độ (gần 1,8 triệu tấn, 64% sản lượng thế giới), tiếp theo là Bănglađet (0,8 triệu; 28,5%), Mianma (0,04 triệu tấn; trên 14%), Trung Quốc (0,09 triệu tấn; 3,2%). + ở nước ta, cây đay được trồng tại các tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Long An, Thanh Hoá với diện tích khoảng 7,5 nghìn ha và sản lượng đạt 20 nghìn tấn. Trong số các cây trồng lấy sợi, ngoài bông, đay còn có gai, dứa sợi và lanh. Cây lấy dầu Dầu thực vật được lấy từ các cây công nghiệp hàng năm (lạc, đậu tương, hướng dương, vừng ) và cây công nghiệp lâu năm (ôliu, dừa, cọ dầu ). Xu hướng phổ biến hiện naydùng dầu thực vật thay cho mỡ động vật trong bữa ăn hàng ngày vì chứa ít cholesteron, không gây béo phì, ảnh hưởng tới tim mạch càng làm tăng vai trò của các cây lấy dầu. - Cây lạc + Lạc là cây lấy dầu và thực phẩm quan trọng được trồng ở nhiều nước trên thế giới. Dầu lạc dùng làm dầu ăn, dầu tinh chế, bơ thực vật. Ngoài ra, ở nhiều nơi lạc còn là thức ăn trong bữa ăn hàng ngày của con người. Khô lạc dùng để chế biến thức ăn cho gia súc rất tốt. Vỏ, quả, thân, lá dùng làm thức ăn cho lợn và trâu bò. + Lạc có nguồn gốc từ vùng Nam Mỹ nhiệt đới (Braxin, Bôlivia ), rồi sau đó lan sang các nước khác ở Nam Mỹ. Đến thế kỷ XVI, cây lạc được đưa sang trồng ở châu Phi, Đông Nam á, Trung Quốc và nhanh chóng trở thành cây trồng phổ biến của các vùng này. Từ vùng nhiệt đới, lạc dần dần lan sang các vùng cận nhiệt và ôn đới. ở Hoa Kỳ, mãi đến cuối thế kỷ XIX, cây lạc mới được trồng ở các bang phía Đông Nam. Trong thời gian sinh trưởng, lạc cần khí hậu nóng và đủ ẩm, nhiệt độ thấp nhất trên 14°C, trung bình 220C. Lượng mưa trung bình 400- 800mm. Lạc ưa đất nhẹ, tơi xốp và dễ thoát nước. Hiện nay, lạc được trồng rộng rãi trên thế giới. ở Bắc bán cầu nó lên tới vĩ tuyến 350 Bắc ở Bắc Mỹ và 480 Bắc ở lục địa á - Âu. ở Nam bán cầu, lạc được trồng tới vĩ tuyến 350 Nam (Achentina). Người ta thường trồng hai loại lạc chính: lạc dài ngày (6 tháng) cho củ to, năng suất cao nhưng khó trồng và lạc ngắn ngày (3 tháng), dễ trồng, dễ tăng vụ. + Sản lượng lạc của thế giới trong những năm gần đây dao động ở mức 30 triệu tấn lạc nhân và khoảng trên dưới 5 triệu tấn dầu lạc/năm. Những nước đứng đầu thế giới về sản lượng lạc nhân năm 2003 là Trung Quốc (15,3 triệu tấn chiếm 41,4% sản lượng của thế giới), ấn Độ (7,5 triệu tấn; 20,3%), Nigiêria (2,7 triệu tấn; 7,3%), Hoa Kỳ (1,9 triệu tấn; 5,1%), Xu Đăng (1,2 triệu tấn; 3,2%). Ngoài ra còn có một số nước khác như Xênêgan, Inđônêxia, Gana, Sát, Minama. Với sản lượng 400 ngàn tấn năm 2003, Việt Nam đứng thứ 11 trên tổng số 112 nước có trồng lạc. Cây lạc ở nước ta được trồng nhiều ở hai vùng Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ.
  33. Hình I.14. Sản lượng lạc và dầu lạc thế giới thời kì 1990- 2003 (triệu tấn) - Cây đậu tương + Cây đậu tương có hạt làm thực phẩm (đậu phụ, xì dầu, tương, sữa đậu nành, sữa bột, tào phớ, phù chúc, bơ thực vật) hoặc ép để lấy dầu. Khô dầu dùng cho chăn nuôi. Hạt đậu tương có tỷ lệ chất đạm và chất béo cao nhất trong các loại đậu. + Đậu tương được mệnh danh là “con bò sữa” của người Trung Quốc và có nguồn gốc từ nước này. Nó ưa ẩm và không đòi hỏi nhiệt với nhiệt độ trung bình khoảng 22 - 250C. Tuy nhiên, nếu nhiệt độ xuống dưới 4°C thì cây không phát triển. ở nửa đầu thời kỳ sinh trưởng và vào thời kỳ quả chín, cây cần thời tiết khô hơn. Đậu tương thích hợp với nhiều loại đất, tơi xốp, thoát nước. Từ lâu, đậu tương được trồng nhiều ở các nước nhiệt đới, cận nhiệt thuộc vùng Đông á, Đông Nam á. Ngày nay nó được trồng ở cả các nước ôn đới. Về phân bố, giới hạn phía Bắc của cây đậu tương lên đến vĩ tuyến 500 Bắc ở lục địa á - Âu và 470 Bắc ở Bắc Mỹ. Sản lượng đậu tương và dầu đậu tương của thế giới tăng nhanh và ổn định từ năm 1990 đến nay. Hình I.15. Sản lượng đậu tương của thế giới thời kì 1990- 2003 (triệu tấn)
  34. Những nước có sản lượng đậu tương đứng đầu thế giới (năm 2003) là Hoa Kỳ (65,8 triệu tấn chiếm 34,7% sản lượng của thế giới), Braxin (51,5 triệu tấn; 27,2%), Achentina (34,8 triệu tấn; 18,4%), Trung Quốc (16,9 triệu tấn; 8,9%), ấn Độ (6,8 triệu tấn; 3,6%), Paragoay (4,4 triệu tấn; 2,3%), Canađa (2,3 triệu tấn; 1,2%) và Bôlivia (1,65 triệu tấn; 0,9%). Như vậy, các nước trồng nhiều đậu tương đều thuộc châu Mỹ và châu á. Riêng ba nước châu Mỹ là Hoa Kỳ, Braxin, Achentina đã chiếm trên 80% sản lượng, đồng thời cũng là những nước xuất khẩu đậu tương hàng đầu thế giới. + ở nước ta, cây đậu tương được trồng nhiều tại các vùng trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Diện tích và sản lượng tăng nhanh, từ 110 nghìn ha và 86,6 nghìn tấn năm 1990 lên 158,6 nghìn ha và 205,6 nghìn tấn năm 2002. Năm 2003, sản lượng đậu tương đạt 225,3 nghìn tấn. Ngoài lạc và đậu tương, trong nhóm cây lấy dầu còn có dừa, cọ dầu, quỳ Cây lấy nhựa - Trong số các cây lấy nhựa tiêu biểu nhất là cây cao su. Cao su được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp và trong đời sống. Đối với công nghiệp sản xuất ô tô, máy bay và phương tiện đi lại khác, cao su được sử dụng làm vỏ ruột xe hơi, máy bay, xe gắn máy, xe đạp, làm đệm xe Đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, cao su được sử dụng làm giầy dép, đệm giường, đồ giả da, bọc cáp điện, các chất chống thấm Hiện nay tuy đã có cao su nhân tạo và giá thành hạ, nhưng nhờ có ưu thế riêng nên nhu cầu về cao su thiên nhiên vẫn rất lớn. Mủ cây cao su - Quê hương của cây cao su là vùng rừng nhiệt đới Amazôn ở Nam Mỹ. Tại đây, cao su mọc khắp trong các cánh rừng từ phía Bắc của Nam Mỹ (Guyan) đến Bắc sơn nguyên Braxin và vùng ven biển phía Đông, tới tận Riôđơ Gianerô. Từ thời cổ xưa, người dân xứ nhiệt đới nàyđã biết đến cao su thiên nhiên, nhưng lúc đó chưa được phổ biến rộng rãi. Vào thế kỷ XIX, việc phát triển công nghiệp ô tô, máy bay đòi hỏi nhu cầu về săm lốp và vì thế, từ chỗ chỉ khai thác cao su tự nhiên mọc hoang trong rừng Amazôn, người ta bắt đầu trồng cao su. Năm 1876, Henri Vicghem mang hạt cao su Hêvêa về trồng thử ở Côlômbô và đã thành công. Từ đó cây cao su phát triển nhanh chóng sang các nước Đông Nam á và châu Phi. Ngày nay, cao su được trồng ở 27 nước thuộc châu Mỹ, châu Phi và châu á (Đông Nam á và Nam á). Là loại thân gỗ lớn, có thể mọc cao 10- 40m, cây cao su là cây ưa nhiệt, phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ từ 22 - 270C. Cao su cũng là cây ưa ẩm, đòi hỏi lượng mưa từ 1500- 2500mm, nhưng không chịu được gió bão (miền Trung và miền Bắc của Việt Nam không trồng được cây cao su). Cây này phát triển tốt nhất trên đất đỏ bazan núi lửa. - Từ đầu thập niên 90 của thế kỉ XX cho đến nay, sản lượng cao su thiên nhiên của thế giới tăng liên tục. Các quốc gia dẫn đầu về sản lượng cao su (năm 2003) là Thái Lan (2,9 triệu tấn chiếm 38,7% sản lượng của thế giới), Inđônêxia (1,6 triệu tấn; 21,3%), ấn Độ (0,65 triệu tấn; 8,7%), Malaixia (0,6 triệu tấn;
  35. 8%), Trung Quốc (0,55 triệu tấn; 7,3%), Việt Nam (0,39 triệu tấn; 5,2%). Các nước khác như Côtđivoa, Nigiêria, Braxin, Xri Lanca, Libêria cũng có sản lượng cao su đáng kể. Hình I.16. Sản lượng cao su của thế giới thời kì 1990- 2003 (triệu tấn) - Cao su được đưa vào trồng ở Việt Nam từ năm 1897. Đến đầu thế kỷ XX người Pháp bắt đầu thành lập các đồn điền cao su ở vùng đất đỏ bazan Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Về sau này, cây cao su còn được trồng cả ở vùng Bắc Trung Bộ. Ngành trồng cây cao su ở nước ta phát triển rất mạnh mẽ. Năm 1991, cả nước có 220 nghìn ha và đạt sản lượng 64,6 nghìn tấn, trong đó xuất khẩu gần 63 nghìn tấn. Đến hết năm 2003 các số liệu này đã tăng lên tương ứng là gần 430 nghìn ha, 314 nghìn tấn và 438 nghìn tấn (xuất khẩu cả số tồn kho của các năm trước). Cây cao su được trồng nhiều ở các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh (Đông Nam Bộ); Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum (Tây Nguyên). 2.1.2. Địa lí ngành chăn nuôi a) Vai trò Các vật nuôi vốn là động vật hoang được con người thuần dưỡng, chọn giống, lai tạo làm cho chúng tách khỏi cuộc sống hoang dã. Chăn nuôi là ngành cổ xưa nhất của nhân loại. Nó cung cấp cho con người thực phẩm có dinh dưỡng cao từ nguồn đạm động vật và bảo đảm sự cân đối trong khẩu phần ăn. Sản phẩm của ngành chăn nuôi còn là nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ (tơ tằm, lông cừu, da), cho công nghiệp thực phẩm (đồ hộp), dược phẩm và cho xuất khẩu. Cho dù con người đã sản xuất và sử dụng rộng rãi tơ, sợi, len, da nhân tạo, nhưng các sản phẩm tự nhiên từ ngành chăn nuôi có nhiều ưu điểm mà các vật liệu nhân tạo không thể có được. Chăn nuôi còn cung cấp sức kéo, phân bón và tận dụng phụ phẩm của ngành trồng trọt. Việc kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi sẽ làm cho sản xuất nông nghiệp tăng thêm hiệu quả. b) Đặc điểm - Đặc điểm quan trọng nhất của ngành chăn nuôi là sự phát triển và phân bố của nó phụ thuộc chặt chẽ vào cơ sở thức ăn. Ngoài các đồng cỏ tự nhiên và diện tích mặt nước, phần lớn thức ăn phục vụ chăn nuôi đều do ngành trồng trọt cung cấp. Vì thế, ở đâu ngành trồng trọt phát triển, con người không phải quan tâm đến lương thực cho bản thân mình thì ở đó có nhiều điều kiện để đẩy mạnh ngành chăn nuôi.
  36. Đây cũng là lý do vì sao ở phần lớn các nước phát triển, tỷ trọng của ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp lại cao hơn ngành trồng trọt (ở Hoa Kỳ, chăn nuôi chiếm 70%, ở Pháp hơn 50%, ở Anh trên 60%, ở Ai Len gần 90%). Ngược lại, ở các nước đang phát triển, qui mô dân số đông, gia tăng dân số còn cao, nguồn lương thực chưa đủ cung cấp cho con người, nên chăn nuôi kém phát triển. Ngoài ra, sự khác biệt về chất lượng của cơ sở thức ăn được thể hiện khá rõ trong cơ cấu và phương hướng chăn nuôi. Các đồng cỏ khô cằn của Mông Cổ và Tây Á chủ yếu để chăn nuôi cừu, dê, lạc đà Trong khi đó, các đồng cỏ tốt tươi ở nhiều nước châu Âu là vùng chuyên canh nuôi bò lấy thịt hoặc sữa. - Cơ sở thức ăn cho chăn nuôi đã có những tiến bộ vượt bậc nhờ những thành tựu về khoa học công nghệ. Ngành chăn nuôi trước kia dựa hoàn toàn vào nguồn thức ăn tự nhiên (đồng cỏ, bãi chăn thả ), rồi dần dần chuyển sang phụ phẩm của ngành trồng trọt và hiện nay chủ yếu là nguồn thức ăn chế biến bằng phương pháp công nghiệp. Ngay cả các đồng cỏ tự nhiên ngày nay cũng đã được cải tạo. Các đồng cỏ trồng với nhiều giống mới cho năng suất và chất lượng cao ngày càng trở nên phổ biến. - Trong nền nông nghiệp hiện đại, ngành chăn nuôi có nhiều thay đổi về hình thức (từ chăn nuôi chăn thả, sang chăn nuôi nửa chuồng trại, rồi chuồng trại đến chăn nuôi công nghiệp) và theo chuyên môn hoá (thịt, sữa, len, trứng ). Chăn nuôi bao gồm ba ngành chính: chăn nuôi gia súc lớn (trâu, bò, ngựa), chăn nuôi gia súc nhỏ (lợn, cừu, dê) và chăn nuôi gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng ). Chăn nuôi gia súc lớn Trâu, bò là các loại gia súc lớn được nuôi phổ biến để lấy thịt, sữa, da và các sản phẩm khác. Ở các nước đang phát triển, trâu bò là nguồn sức kéo chủ yếu trong nông nghiệp. Thịt trâu, bò (chủ yếu là bò) chiếm 40% sản lượng thịt toàn của thế giới. - Chăn nuôi bò + Chăn nuôi bò chiếm vị trí hàng đầu trong ngành chăn nuôi. Các giống bò trên thế giới hiện nay được thuần hóa từ bò rừng khoảng 8.000 - 7000 năm trước Công nguyên. Lúc đầu bò được thuần hóa và nuôi dưỡng ở Ấn Độ, rồi lan sang Nam Á, Địa Trung Hải và Trung Âu, về sau phát triển rộng rãi hầu khắp châu Âu, châu Á và C\châu Phi. Bò cung cấp sữa và thịt có chất lượng cao, là thức ăn hàng ngày đối với người Âu- Mỹ. + Trước đây, bò chỉ được nuôi theo kiểu chăn thả trên các thảo nguyên của các miền ôn đới ở Nam Mỹ, Bắc Âu (Achentina, Braxin, Anh, Đức, Pháp ). Ngày nay, bò được nuôi chủ yếu theo phương pháp công nghiệp (nhốt trong chuồng trại, cho ăn cỏ khô và thức ăn tổng hợp). Ngày nay trên thế giới, chăn nuôi bò được chuyên môn hoá theo ba hướng: lấy thịt, lấy sữa và lấy cả thịt lẫn sữa. Bò thịt được nuôi chăn thả trên các đồng cỏ tươi tốt. Đàn bò được nuôi tập trung đến 1 năm tuổi trên các cánh đồng cỏ, sau đó được chuyển về nuôi vỗ béo trong các chuồng trại ở gần thành phố với thức ăn tổng hợp. Trọng lượng bình quân đạt hơn 200 kg/con, cao nhất ở CH Ai Len (340kg/con). Bò thịt được nuôi nhiều ở các bang phía Tây và vùng đồng cỏ preri ở Hoa Kỳ, đồng cỏ pampa ở Achentina, ở Đông Nam Braxin, Mêhicô, Nga, Anh, Pháp Trung Quốc và Ấn Độ cũng nuôi nhiều bò, nhưng theo phương pháp chăn thả là chính. Chất lượng thịt không ngon bằng các nước Âu- Mỹ. Bò sữa cung cấp sữa, chất bổ dưỡng tổng hợp rất quan trọng cho trẻ sơ sinh, người già, thanh thiếu niên đang trưởng thành, phụ nữ có thai, người bệnh Hiện nay công nghệ chế biến sữa rất hiện đại. Nhiều sản phẩm được làm ra từ sữa bò như sữa hộp, sữa bột, sữa chua, váng sữa, pho mát, smêtana Bò sữa được nuôi chủ yếu trong các chuồng trại ở vùng đồng bằng hay ngoại ô các thành phố lớn, được chăm sóc chu đáo trên cơ sở áp dụng những thành tựu chăn nuôi hiện đại. Thức ăn cho bò sữa cần có chất dinh dưỡng cao hơn, tỉ lệ thức ăn mọng nước nhiều hơn. Trung bình một con bò sữa một năm ở Tây, Bắc Âu và Hoa Kỳ cho 6.000- 7.000 lít sữa, cao nhất ở Ixraen tới 9.000 lít. Đàn bò sữa tập trung ở Đông Bắc Hoa Kỳ và vùng ven Hồ Lớn- nơi tập trung những khu công nghiệp, thành phố đông dân (Bôxtơn, Niu Yooc, Philađenphia, Bantimo, Chicagô, Đitroi ). Ở khu vực này đã hình thành vùng chuyên môn hoá nuôi bò sữa với thức ăn nhập từ nơi khác kết hợp với thâm canh. Từ đó vành đai cỏ khô và vành
  37. đai sữa đã ra đời. Bò sữa còn được nuôi ở các nước Anh, Pháp, Đức, Nga, Braxin, Oxtrâylia, Niu Dilân, Hà Lan Một vài quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Đông Nam Á cũng phát triển chăn nuôi bò sữa. + Vào đầu thế kỉ XXI, đàn bò của thế giới có khoảng 1,3 tỷ con với sản lượng 58 triệu tấn thịt và 500 triệu tấn sữa. Hình I. 17. Đàn bò và sản lượng thịt bò của thế giới thời kì 1990- 2002 Các nước đứng đầu thế giới về số lượng bò (năm 2002) là Ấn Độ (gần 220 triệu con), Braxin (176 triệu con), Trung Quốc (trên 106 triệu con), Hoa Kỳ (gần 97 triệu con), Achentina (trên 50 triệu con), Xu Đăng (trên 38 triệu con), Êtiôpia (gần 35 triệu con), Côlômbia (27 triệu con) và Nga (gần 27 triệu con). Đàn bò của mười nước nói trên chiếm 57% tổng đàn bò của toàn thế giới. Bệnh bò điên mới xuất hiện gần đây ở Anh và lan sang một số nước khác đã gây tổn thất lớn cho ngành chăn nuôi. Nền nông nghiệp nước Anh đã bị thiệt hại hàng tỷ bảng Anh vì căn bệnh này. + Ngành chăn nuôi bò của nước ta phát triển tương đối mạnh mẽ. Đàn bò tăng nhanh qua các năm, từ 3,1 triệu con năm 1990 lên 3,6 triệu con năm 1995 và đạt 4,4 triệu con năm 2003. Bò được nuôi nhiều ở Duyên hải Nam Trung Bộ và Bắc Trung Bộ. Gần đây, đàn bò sữa đã phát triển mạnh ở ven các thành phố và trung tâm công nghiệp lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương - Chăn nuôi trâu + Con trâu được thuần dưỡng ở các vùng đồng bằng phù sa trồng lúa nước, là vật nuôi của miền nhiệt đới nóng ẩm. Trâu cung cấp sức kéo, phân bón, sữa, da. Hiện nay, trâu được nuôi nhiều ở Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Ở châu Âu, châu Mỹ hầu như không nuôi trâu. + So với đàn bò, số lượng đàn trâu chỉ bằng 1/8, song tăng đều qua các năm, kể cả sản lượng thịt và sữa.
  38. Hình I.18. Đàn trâu và sản lượng thịt trâu của thế giới thời kì 1990- 2002 Những nước nuôi nhiều trâu đều thuộc về châu Á, đứng đầu là Ấn Độ (hơn 94 triệu con), Pakixtan (24 triệu con), Trung Quốc (trên 22 triệu con), Nêpan (3,7 triệu con), Ai Cập (3,6 triệu con), Việt Nam (2,8 triệu con), Mianma (2,6 triệu con), Inđônêxia (2,3 triệu con) và Thái Lan (2,1 triệu con). + Việt Nam là một nước nuôi nhiều trâu, đứng thứ 7 trong tổng số 40 nước có nuôi trâu. Đàn trâu có xu hướng giảm nhẹ và không ổn định, từ 2,9 triệu con năm 1990 xuống còn 2,8 triệu con năm 2003. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là vì nhu cầu sức kéo của trâu đã bắt đầu được thay thế. Trâu tập trung ở vùng Đông Bắc và Bắc Trung Bộ. Chăn nuôi gia súc nhỏ - Chăn nuôi lợn + Lợn là gia súc nhỏ được thuần dưỡng cách đây khoảng 5.000 năm, có lẽ xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc, Ấn Độ sau đó lan sang các nước khác.
  39. Lợn là vật nuôi quan trọng thứ hai sau bò, dùng để lấy thịt, mỡ, da. Lượng thịt xẻ của lợn tương đương và có năm vượt lượng thịt trâu, bò. Đối với các nước đang phát triển, nuôi lợn còn tận dụng được nguồn phân bón ruộng. Thức ăn cho lợn cần nhiều tinh bột. Có thể nuôi lợn bằng thức ăn thừa và phế thải của công nghiệp thực phẩm. Chăn nuôi lợn theo kiểu công nghiệp lại dựa chủ yếu vào nguồn thức ăn đã được chế biến. Ngành chăn nuôi này thường phát triển tại các vùng ngoại thành, có nguồn thức ăn và nhất là có nhu cầu rất lớn về thực phẩm. + Tổng đàn lợn của thế giới nhìn chung tăng đều qua các năm, song không thật ổn định. Điều này phụ thuộc nhiều vào giá cả của thức ăn phục vụ cho chăn nuôi. Hình I.19. Đàn lợn và sản lượng thịt lợn của thế giới thời kì 1990- 2002 Những nước nuôi nhiều lợn và có sản lượng thịt đứng đầu thế giới (năm 2002) là Trung Quốc (464,7 triệu con và 44,3 triệu tấn thịt), Hoa Kỳ (59,1 và 9,0), Braxin (30 svà 2,0), Đức (26,0 và 4,1), Việt Nam (23,2 và 1,6), Ba Lan (18,7 và 1,9) + Đàn lợn ở Việt Nam tăng nhanh do nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước cũng như do việc giải quyết tốt cơ sở thức ăn cho chăn nuôi. Đàn lợn của nước ta đứng hàng thứ 5 trên thế giới, tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và vùng Đông Bắc. - Chăn nuôi cừu + Cừu là vật nuôi quan trọng được thuần dưỡng từ loài cừu núi cách đây khoảng 8.000 - 10.000 năm. Cừu có khả năng thích nghi rộng. Từ loài động vật ở vùng khí hậu khô nóng, ngày nay, cừu được nuôi khắp mọi nơi, ở vùng nhiệt đới và cả xứ lạnh ở Bắc Âu.
  40. Cừu Cừu là loài gia súc nhỏ, dễ tính, ăn được những thứ cỏ khô cằn mà trâu, bò, ngựa không ăn. Cừu ưa khí hậu khô, không chịu được ẩm. Vì vậy nó được nuôi chăn thả vào mùa hè, cho ăn cỏ khô và thức ăn tổng hợp vào mùa đông. Cừu được nuôi nhiều ở các vùng khô hạn, hoang mạc, nửa hoang mạc và các vùng núi, đặc biệt ở vành đai cận nhiệt. Ở đây, cỏ chỉ mọc tươi tốt trong một thời gian ngắn vào mùa xuân cho tới đầu mùa hè, còn suốt mùa hè sang mùa thu, đồng cỏ khô cằn. Do đó người ta phải dự trữ cỏ khô, nước uống và cả nơi nuôi nhốt. Cừu được nuôi để lấy thịt, lông, sữa, mỡ, da nhưng quan trọng nhất là lông và thịt. Cừu cho ít sữa. Một con cừu cái chỉ cho chừng 40 lít sữa một năm, nhưng sữa cừu quý và đắt hơn sữa bò. Cừu lấy thịt được nuôi ở những cánh đồng cỏ tự nhiên màu mỡ và nhốt trong chuồng vào mùa đông giống như nuôi bò. Giống cừu lấy thịt nổi tiếng là Linhcôn (Anh). Thịt cừu là món ăn thường ngày của người dân vùng Tây Bắc Trung Quốc, Mông Cổ, Úc, Trung Á (Cazăcxtan, Udơbekixtan), Đức, Áo. Cừu lấy lông được nuôi ở vùng hanh khô với giống Merinốt. Ôxtrâylia là nước nổi tiếng trên thế giới về sản xuất lông cừu (chiếm 1/4 sản lượng lông cừu của thế giới). Cừu được nuôi nhiều nhất ở vùng Tây và Tây Nam Ôxtrâylia. Ở đây, nuôi cừu lấy lông thường được tiến hành trong các trang trại. Ngoài ra, cừu còn được nuôi nhiều ở Niu Dilân, Trung Quốc, Achentina, Nam Phi. Hàng năm, thường vào mùa xuân hè lúc thời tiết khô ráo, người ta bắt đầu cắt lông cừu, tiến hành phân loại, sau đó đóng bao, ép lại, ghi mã hiệu và cuối cùng đưa đến những trung tâm công nghiệp dệt len.
  41. Đàn cừu ở Ôxtrâylia Bảng I.7. Tình hình chăn nuôi cừu của thế giới thời kì 1990- 2002 Năm Số lượng (tỉ SL thịt (triệu SL sữa (triệu lít) SL lông cừu (triệu con) tấn) tấn) 1990 1,21 7,02 8,02 3,35 1995 1,08 7,25 7,99 2,57 2000 1,06 7,60 7,70 2,30 2001 1,05 7,62 7,80 2,20 2002 1,04 7,67 7,78 2,23 Nguồn: FAO 1995- 2003 Nhìn chung, đàn cừu có sự giảm sút. Nguyên nhân chính là do diện tích đồng cỏ chăn thả tự nhiên bị thu hẹp bởi đất đai bị xói mòn và thoái hoá. Sự suy giảm này làm cho sản lượng lông cừu và sữa cừu cũng giảm mạnh. Những nước có số lượng cừu và sản lượng lông cừu nhiều nhất là Trung Quốc (137 triệu con và 305 nghìn tấn), Ôxtrâylia (113 và 616), Ấn Độ (58,2 và 47,6), Iran (53,9 và 75,0), Xu Đăng (47 và 46), Niu Dilân (44,0 và 246,3), Anh (33 và 50) + Ở Việt Nam, cừu đang được nuôi với tính chất thử nghiệm để lấy lông tại Ninh Thuận và Bình Thuận. - Chăn nuôi dê + Dê cũng là loại gia súc nhỏ và dễ tính như cừu được nuôi để lấy thịt và sữa tại những vùng khô hạn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt hoặc trong các thung lũng của vùng núi đá vôi. Đối với người nông dân ở châu Á (Ấn Độ, Pakixtan, Bănglađét, Apganixtan), châu Phi (Êtiôpi, Nigiêria, Xu Đăng ), dê là nguồn đạm động vật quan trọng vì thịt nạc mà không xác, mỡ mà không béo. Dê còn được coi là “con bò sữa của người nghèo”. + Đàn dê trên thế giới ngày một đông hơn đã bổ sung nguồn thịt và sữa cho người nông dân nghèo của các nước đang phát triển. Bảng I.8. Tình hình chăn nuôi dê trên thế giới thời kì 1990- 2002 Năm Số lượng (triệu con) SL thịt (triệu tấn) SL sữa dê (triệu tấn) 1990 585,7 2,7 10,0 1995 669,0 3,3 11,8 2000 730,3 3,8 12,4 2001 740,4 3,9 12,5 2002 746,5 4,0 12,7 Nguồn: FAO 1995- 2003 Đàn dê tập trung nhiều ở các nước đang phát triển thuộc châu Á và châu Phi như Trung Quốc (161,5 triệu con năm 2002), Ấn Độ (123,5 triệu con), Pakixtan (50,9 triệu con), Xu Đăng (40,0 triệu con), Bănglađet (34,1 triệu con), Nigiêria (26,0 triệu con), Iran (25,8 triệu con)
  42. Nuôi dê ở Xômali + Ở Việt Nam, dê được nuôi nhiều tại vùng núi đá vôi Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An với trên 600 nghìn con (năm 2002). 2.2. Địa lí ngư nghiệp 2.2.1. Vai trò Thủy sản (bao gồm cả nguồn lợi nước ngọt, nước lợ và nước mặn) là nguồn cung cấp đạm động vật bổ dưỡng cho con người. Các chất đạm từ cá, tôm, cua dễ tiêu hoá, không gây béo phì và nhất là chúng cung cấp các nguyên tố vi lượng có từ biển như iốt, canxi, brôm, natri, sắt, mangan, phốt pho rất dễ hấp thụ và có lợi cho sức khoẻ của con người. Việc phát triển ngành thuỷ sản còn là nguồn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Ngành này còn có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn của nhiều nước. Ngành thuỷ sản gồm hai lĩnh vực chủ yếu: khai thác và nuôi trồng. 2.2.2. Ngành khai thác thuỷ sản - Biển bao phủ 71% bề mặt Trái đất với diện tích 361 triệu km2, là nơi sinh sống của khoảng 2 vạn loài thực vật, hơn 400 loài cá có giá trị kinh tế cao, trên 70 loài tảo biển cùng vô số các loài khác Sức sản xuất nguyên khai của biển khoảng 500 tỷ tấn/năm và sản lượng khai thác hàng năm đạt tối đa 600 triệu tấn. Đây là tiềm năng rất lớn đối với ngành khai thác thủy sản của thế giới. - Khai thác thủy sản là hoạt động đánh bắt từ hồ ao, sông ngòi, biển và đại dương các loài thuỷ sản khác nhau trong đó cá chiếm đến 85- 90% sản lượng. Sản lượng thuỷ sản đánh bắt được chủ yếu là từ biển và đại dương. Theo thống kê của FAO, hiện nay toàn thế giới có hơn 160 quốc gia làm kinh tế thuỷ sản, trong đó 21 quốc gia có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu tấn/năm thuộc châu á, châu Âu và châu Mỹ. Các ngư trường khai thác thủy sản chủ yếu trên thế giới là Biển Bắc, Đông Bắc Đại Tây Dương, Tây Bắc Đại Tây Dương, Trung tâm Tây Đại Tây Dương, Tây Nam Đại Tây Dương, Bắc Địa Trung Hải, Đông ấn Độ Dương, Tây Bắc Thái Bình Dương, Đông và Đông Bắc Thái Bình Dương và Tây Nam Thái Bình Dương (xem bản đồ các ngư trường chính và sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản).
  43. - Sản lượng khai thác thuỷ sản từ nửa sau thế kỉ XX cho đến nay ngày càng tăng nhanh. Các nước có sản lượng đánh bắt thuỷ sản lớn nhất thế giới là Trung Quốc (gần 18 triệu tấn), Pêru (gần 8 triệu tấn), Hoa Kỳ (5 triệu tấn), Nhật Bản (4,8 triệu tấn), Inđônêxia (4,3 triệu tấn), Chi Lê (4 triệu tấn), ấn Độ (3,9 triệu tấn), LB Nga (3,7 triệu tấn), Thái Lan (2,9 triệu tấn) và Nauy (2,8 triệu tấn). Đánh bắt cá hồi ở Hockaido, Nhật Bản Hình I.20. Sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản thời kì 1950- 2001 Ngành khai thác thuỷ sản đòi hỏi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ. Đó là các đội tàu đánh cá lớn với tàu chế biến đi kèm, lưới tốt, thiết bị hiện đại thăm dò luồng cá hiện đại, các cảng cá, xí nghiệp sửa chữa tàu, chế tạo ngư cụ, các cơ sở hậu cần dịch vụ Việc khai thác thuỷ sản quá mức ảnh hưởng lớn tới nguồn lợi thuỷ sản. Vì vậy, vấn đề khai thác hợp lý kết hợp với bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thuỷ sản có ý nghĩa to lớn.
  44. Cá Thu Cá Hồng 2.2.3. Ngành nuôi trồng thuỷ sản - Tuy việc đánh bắt từ biển và đại dương vẫn còn cung cấp cho thế giới tới 2/3 sản lượng thuỷ sản, song ngành nuôi trồng đã và đang phát triển nhanh với vị thế ngày càng cao. Rõ ràng, nguồn tài nguyên biển là có giới hạn, lại đang bị con người khai thác quá mức. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thế giới, việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng của thế giới từ năm 1950 đến nay tăng gấp 3 lần, đạt trên 48 triệu tấn. Các loài thuỷ sản được nuôi không chỉ trong ao, hồ, sông ngòi nước ngọt, mà còn ngày càng phổ biến ở các vùng nước lợ và nước mặn. Nhiều loài có giá trị cao về thực phẩm, về kinh tế đã trở thành đối tượng nuôi trồng để xuất khẩu như tôm (tôm sú, tôm hùm ), cua, cá (cá song, thu, ngừ ), đồi mồi, trai ngọc, sò huyết và cả rong tảo biển (rong câu ). Ngành nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh ở các nước châu á như Trung Quốc (34,5 triệu tấn, chiếm 71,3% sản lượng nuôi trồng của thế giới), ấn Độ (2,2 triệu tấn), Nhật Bản (1,3 triệu tấn), Philippin (1,2 triệu tấn), Inđônêxia (1,1 triệu tấn), Thái Lan và Việt Nam (cùng 0,7 triệu tấn). Ngoài ra, còn có các nước khác như Bănglađét, Hàn Quốc, Chi Lê
  45. Trai ngọc Đồi mồi - Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km với nhiều ngư trường lớn ở vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan (Hải Phòng- Quảng Ninh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu, Cà Mau- Kiên Giang ). Trên đất liền lại có nhiều ao, hồ, đầm, phá. Đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành thuỷ sản. Sản lượng thuỷ sản của nước ta tăng lên nhanh chóng, từ 890,6 nghìn tấn năm 1990 (trong đó khai thác 728,5 nghìn tấnvà nuôi trồng 162,1 nghìn tấn) đã tăng lên gấp hơn 3 lần, đạt 2.794,6 nghìn tấn (khai thác 1.828,5 nghìn tấn và nuôi trồng 966,1 nghìn tấn) năm 2003. Việt Nam nằm trong số 21 nước có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu tấn/năm. Ngành thuỷ sản phát triển mạnh và tập trung ở các vùng như là đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng. Vấn đề nảy sinh hiện nay là ở nhiều nơi do thiếu qui hoạch và quản lí, việc phá rừng ngập mặn để lấy diện tích nuôi tôm đã làm ô nhiễm môi trường nước và phá huỷ môi trường sinh thái. Việc đánh bắt quá mức ở vùng ven bờ cũng dẫn đến cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản. 2.3. Địa lí lâm nghiệp 2.3.1. Vai trò của rừng Rừng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, trong đời sống xã hội và việc bảo vệ môi trường sinh thái. Vai trò to lớn này được thể hiện ở một số điểm chính sau đây: a) Rừng có tác dụng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái - Rừng có khả năng sinh thuỷ cho đầu nguồn sông, suối, hồ nước, vùng dân cư, điều hoà lượng nước trên bề mặt Trái đất. - Rừng có khả năng hạn chế gió bão, lũ lụt, phòng chống hạn hán và sa mạc hoá, chống ô nhiễm môi trường nước mặt. - Rừng là lá phổi xanh của hành tinh, nhờ khả năng hấp thụ bức xạ, thoát hơi nước của cây. Ngoài ra, nó còn có tác dụng điều hoà khí hậu, làm trong sạch môi trường không khí, đảm bảo sự cân bằng sinh thái. - Rừng góp phần to lớn vào việc hình thành và bảo vệ đất, chống xói mòn, đồng thời cũng là nguồn gen quí giá của nhân loại. b) Rừng cung cấp nhiều loại lâm sản nhằm thoả mãn nhu cầu của sản xuất và đời sống - Rừng cung cấp gỗ cho công nghiệp, xây dựng và dân sinh. - Rừng cung cấp nguyên liệu làm giấy, diêm. - Từ lâm sản, người ta chế biến ra các loại đặc sản thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của con người. - Rừng còn cho các dược liệu quí có tác dụng chữa bệnh và nâng cao sức khoẻ của con người.
  46. - Rừng đáp ứng nhu cầu giải trí, du lịch của con người (du lịch sinh thái ). 2.3.2. Ngành khai thác rừng a) Tài nguyên rừng Sự phát triển của ngành này gắn liền với nguồn tài nguyên rừng hiện có. Trên thế giới, tài nguyên rừng có sự biến động mạnh cả về số lượng và chất lượng, cả về mặt không gian và thời gian. Đã từng có thời kì rừng che phủ tới 7,2 tỷ ha của thế giới. Song đáng tiếc, rừng đang bị thu hẹp nhanh chóng. Hơn 3 thế kỉ qua, gần 1/2 diện tích rừng đã bị biến mất, trong đó 2/3 là rừng nhiệt đới. Như vậy, trung bình mỗi năm trên thế giới có khoảng 9,5 triệu ha rừng bị phá huỷ. Cùng với sự gia tăng dân số, kết quả là diện tích rừng tính bình quân theo đầu người bị giảm mạnh. Hình I.21. Diện tích rừng và bình quân diện tích rừng tính theo đầu người trên thế giới trong thời kì 1650- 2000 Bảng I.9. Diện tích rừng và độ che phủ rừng năm 2000 Sự thay đổi trung bình 1990- Diện tích rừng năm 2000 2000 Khu vực Độ che phủ Nghìn ha Nghìn ha % % Thế giới 3.869.455 29,6 - 9.391 - 0,22 Châu Phi 649.866 21,8 - 5.252 - 0,78 Châu á 547.793 17,8 - 364 - 0,07 Châu Âu 1.039.251 46,0 881 0,08 Bắc và Trung Mỹ 569.304 25,7 - 570 - 0,10 Nam Mỹ 885.618 50,5 - 3.771 - 0,41
  47. Châu úc và Đại dương 197.623 23,3 - 365 - 0,18 Nguồn: Global Forest Resources Assessment 2000, FAO 2003 Độ che phủ rừng thấp nhất ở châu á và châu Phi, còn tốc độ mất rừng nhanh nhất là châu Phi (0,78%/năm), sau đó đến Nam Mỹ (0,41%/năm) và châu á (0,22%/năm). Nguyên nhân chính là do qui mô dân số đông, gia tăng dân số nhanh kết hợp với sự bùng nổ của quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá cùng với nhu cầu ngày càng tăng về đất trồng và nguồn nguyên liệu gỗ. Rừng ở các khu vực này đều là các cánh rừng nhiệt đới. Việc khai thác gỗ bừa bãi, hoặc phá rừng để phát triển nông nghiệp chỉ đem lại chút lợi trước mắt chứ không phải là cách sử dụng tối ưu nhất. Ngoài các nguyên nhân nói trên, việc phá rừng nhiệt đới còn do nhu cầu của thị trường và cả việc chính quyền địa phương và người dân có xu hướng chỉ đơn thuần chú ý đến mặt kinh tế, mà chưa quan tâm tới giá trị bảo vệ môi trường sinh thái của rừng. Các nước còn nhiều rừng nhất trên thế giới là LB Nga, Braxin, Canađa, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Ôxtrâylia, CHDC Cônggô, Inđônêxia, Ăngôla và Pêru. b) Khai thác rừng Bảng I.10. Sản lượng khai thác lâm sản của thế giới thời kì 1990- 2001 (Triệu m3) N¨m SL gç trßn SL gç xÎ SL gç d¸n SL cñi ®èt 1990 3.382,2 505,3 48,2 1.685,4 1995 3.244,1 425,3 55,4 1.733,6 2000 3.377,3 388,4 58,1 1.788,9 2001 3.327,6 377,6 55,5 1.784,3 Khai thác rừng ở Braxin
  48. Sản lượng khai thác gỗ tròn trong hơn thập kỉ vừa qua tương đối ổn định, ở mức trên dưới 3,3 tỉ m3. Các nước đứng đầu về sản lượng gỗ tròn là Hoa Kỳ (481 triệu m3), Trung Quốc (287,5 triệu m3), Braxin (236,4 triệu m3), Canada (176,7 triệu m3), ấn Độ (164,5 triệu m3), LB Nga (162,3 triệu m3), Inđônêxia (117 triệu m3), Nigiêria (69,1 triệu m3), Thuỵ Điển (64,9 triệu m3) và Phần Lan (52,2 triệu m3) Sản lượng khai thác gỗ hàng năm trên thế giới đang có xu hướng giảm dần, nhất là ở các nước phát triển. Việc khai thác và kinh doanh rừng cần phải kết hợp với trồng rừng để tái tạo nguồn tài nguyên quí giá này và bảo vệ môi trường. 2.3.3. Ngành trồng rừng Việc đẩy mạnh trồng rừng có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Nó không chỉ cung cấp nguyên liệu ổn định cho gỗ trụ mỏ, công nghiệp bột giấy, chế biến gỗ, sản xuất đồ dùng mỹ nghệ, nâng cao giá trị sản phẩm rừng, mà còn có tác dụng phòng hộ và bảo vệ môi trường. Theo kết quả đánh giá của FAO về tài nguyên rừng năm 2000, diện tích rừng trồng của thế giới tăng khá nhanh, từ 17,8 triệu ha năm 1980 lên 43,6 triệu ha năm 1990 và đạt mức 187 triệu ha năm 2000. Như vậy, trung bình mỗi năm trồng mới được khoảng 8,4 triệu ha, trong đó châu á chiếm khoảng 62%. Bảng I.11. Diện tích rừng trồng của thế giới thời kì 1980- 2000 1980 1990 2000 Châu lục % toàn % toàn % toàn Nghìn ha Nghìn ha Nghìn ha cầu cầu cầu Thế giới 17.780 100,0 43.591 100,0 187.087 100,0 Châu Phi 1.713 9,6 2.990 6,9 8.036 4,3 Châu á 11.088 62,4 31.755 72,9 115.847 61,9 Châu Âu - - - - 32.015 17,1