Giáo trình Cơ khí nông nghiệp: Máy nông nghiệp

pdf 65 trang phuongnguyen 70
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Cơ khí nông nghiệp: Máy nông nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_co_khi_nong_nghiep_may_nong_nghiep.pdf

Nội dung text: Giáo trình Cơ khí nông nghiệp: Máy nông nghiệp

  1. Giáo trình Cơ khí nông nghiệp Máy nông nghiệp
  2. Phần II MÁY NÔNG NGHIỆP 137
  3. GIỚI THIẾU CHUNG VỀ CÁC HỆ THỐNG MÁY TRONG NÔNG NGHIỆP Trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, việc cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp là một khâu không thể thiếu của công cuộc này. Cơ giới hóa sẽ làm thay đổi phương thức sản xuất, giảm nhẹ sức lao động cho con người, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí trong sản xuất nông nghiệp. Nhờ cơ giới hoá mà bộ mặt của nông thôn thay đổi, phát triển thành một nông thôn văn minh, hiện đại vì cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp cũng là tiền đề cho việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ giúp cho các ngành kinh tế khác ở nông thôn cũng sẽ phát triển như thủ công nghiệp, công nghiệp, dịch vụ v.v Khi sử dụng cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp sẽ đạt được những ưu điểm như sau: - Nâng cao năng suất lao động ví dụ: việc cuốc đất, một người khỏe mạnh chỉ có thể cuốc được 40 m2/h. Nếu sử dụng sức kéo của súc vật là trâu bò, một con trâu có thể cày được 300 m2/h. Nếu sử dụng máy kéo nhỏ năng suất nâng cao lên từ 360 - 720 m2/h còn khi sử dụng máy kéo lớn thì năng suất là 0,5 ha/h. Ngoài ra khi làm thủ công thì chỉ lao động được một thời gian ngắn trong ngày còn khi sử dụng máy thời gian làm việc có thể tăng lên từ 2-3 lần nên năng suất khi sử dụng máy cao gấp nhiều lần so với lao động thủ công. - Giải quyết được yêu cầu bức thiết về thời vụ, sản xuất nông nghiệp mang tính chất thời vụ rất chặt chẽ. Tùy loại cây trồng, tùy tính hòa hợp với điều kiện sống môi trường, tùy đặc điểm sinh trưởng, cây trồng đòi hỏi điều kiện sống, phát triển, cho năng suất và thời lịch trong năm như là một điều kiện tiên quyết không thể thiếu. Thời gian để thực hiện mồi công đoạn canh tác sẽ được rút ngắn do khi sử dụng máy ta có thể làm nhiều ca/ngày, đây là việc mà khi làm thủ công không thể thực hiện được. Nhờ vậy mà ta có thể tăng thêm vụ sản xuất (hệ số sử dụng đất) từ 1- 2 vụ lên 2 -3 vụ/năm, tăng thu nhập cho người sản xuất. - Chất lượng của công việc khi sử dụng máy cao hơn so với canh tác thủ công, khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật nông học dễ dàng hơn. Trong một số khâu canh tác đặc biệt để đạt được yêu cầu kỹ thuật nông học thì không thể làm thủ công mà phải dùng máy như cày ngầm, cày khai hoang. Cũng như vậy trong việc cải tạo nâng cao độ phì của đất, tăng chiều sâu canh tác đối với đất bạc màu hoặc đất có độ sâu canh tác nhỏ, với các loại đất này phải làm đất thành nhiều lớp do vậy bắt buộc phải dùng máy mới có khả năng đáp ứng được. Chất lượng công việc là một đòi hỏi rất quan trọng của quá trình canh tác trong nông nghiệp. Các nhà nông học đặt ra những yêu cầu nông học rất chặt chẽ cho từng công đoạn của mỗi quy trình sản xuất nông nghiệp. Dù làm bằng tay hay cơ giới thì cũng phải đáp 138
  4. ứng các yêu cầu nông học này. Vì vậy trong quá trình canh tác, đánh giá chất lượng công việc, tức là được so sánh với các yêu cầu kỹ thuật nông học đặt ra. Đặc biệt trong nông nghiệp có nhiều loại cây trồng nên có nhiều yêu cầu kỹ thuật nông học khác nhau. Trong công đoạn thu hoạch và sau thu hoạch yêu cầu về chất lượng còn cao hơn nữa, đặc biệt với các sản phẩm dùng cho xuất khẩu. Ví dụ như để nâng cao chất lượng gạo để xuất khẩu thì chỉ tiêu quan trọng nhất là tỷ lệ gạo gẫy, vỡ phải nhỏ. Muốn đạt được yêu cầu này ngoài việc phải sử dụng nhiều loại máy hiện đại còn cần phải khống chế độ ẩm của hạt khi đưa vào chế biến, thời gian sơ chế và phương pháp bảo quản điều này nếu chỉ dùng lao động thủ công thì khó thực hiện được hoặc sẽ làm giảm chất lượng thành phẩm. - Về hiệu quả kinh tế, hiện nay ở đồng bằng và các tỉnh trung du, miền núi Bắc bộ diện tích đất bình quân trên lao động thấp vì vậy nếu chỉ sản xuất nông nghiệp thuần tuý thì thu nhập của người dân rất thấp. Ngoài ra công việc chỉ tập trung vào một số thời điểm trong năm, thời gian còn lại thì công việc ít nếu không có ngành nghề phụ thì khả năng cải thiện kinh tế càng khó khăn hơn. Hiện nay trong thời kỳ mở cửa cho các doanh nghiệp công nghiệp đầu tư đã thu hút một số lượng lớn nhân công từ nông thôn, ngoài số lượng nhân công trên còn một số người dân ra thành phố để tìm việc làm trong lúc nông nhàn hoặc làm thêm các công việc thủ công tại địa phương. Một số nơi người dân còn đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài nhờ vậy mà thu nhập của người dân tại nông thôn tăng lên đáng kể. Tuy nhiên để thực hiện được nhu cầu này của xã hội thì tại nông thôn số lượng lao động thuần tuý trong nông nghiệp giảm đi dẫn đến việc phải thuê mướn nhân công hoặc máy móc. Vào thời điểm mùa vụ căng thẳng giá cả thuê mướn tăng lên vì vậy dần dần hình thành những cá nhân hoặc doanh nghiệp nông nghiệp chuyên đi làm thuê, để tăng thu nhập những cá nhân hoặc doanh nghiệp này không thể không nghĩ đến việc cơ giới hoá sản xuất. Mặt khác nếu so sánh thì giá cả của một máy kéo nhỏ cùng với một số máy nông nghiệp kèm theo nhiều hơn giá một con trâu cày không đáng kể trong khi đó số lượng, khối lượng công việc, năng suất khi dùng máy cao hơn, thời gian phục vụ của máy dài hơn như vậy hiệu quả kinh tế của việc cơ giới hoá là rất cao. - Giảm nhẹ sức lao động, bảo vệ sức khoẻ của người làm nông nghiệp. Khi sử dụng máy ngoài việc giảm nhẹ sức lao động cho phần lớn người lao động còn bảo vệ để người lao động không phải tiếp xúc trực tiếp với những hoá chất độc hại có ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người và động vật. Trên đây là một số ưu điểm nổi bật của việc cơ giới hoá nông nghiệp. Tuy nhiên cơ giới hoá như thế nào để phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện địa hình, điều kiện canh tác và đạt hiệu quả cao nhất thì cần phải tính toán cụ thể cho 139
  5. từng vùng. Với vùng trung du, miền núi phía Bắc có địa hình phức tạp, kích thước ruộng nhỏ và trung bình là chủ yếu nên việc đồng bộ hoá các khâu canh tác bằng cơ giới là cực kỳ khó. Với những điều kiện này thì chỉ có thể áp dụng cơ giới cho một số khâu canh tác độc lập và chỉ sử dụng các loại máy vừa và nhỏ. Một vấn đề khác là nguồn vốn để đầu tư máy móc, hiện nay phần nhiều người dân mới chỉ đầu tư những máy có công suất nhỏ phục vụ cho khâu làm đất, một số công việc đơn lẻ trong chăm sóc và thu hoạch. Các loại máy khác do khả năng ứng dụng và giá cả còn quá cao nên hiện tại chưa được sử dụng phổ biến. Trong tương lai gần khi chính sách dồn điền đổi thửa thực hiện hoàn chỉnh kết hợp với việc cải tiến các loại máy phù hợp cho từng khu vực thì việc cơ giới hoá đồng bộ một số khâu canh tác hoàn toàn có thể thực hiện được. Để đáp ứng nhu cầu cơ giới hoá một cách đồng bộ trong ngành trồng trọt chúng tôi giới thiệu các loại máy phục vụ trong nông nghiệp theo từng công đoạn bắt đầu từ khâu làm đất đến khâu chế biến sản phẩm của một số sản phẩm chính trong ngành trồng trọt bao gồm: * Hệ thống máy canh tác: + Cụm máy làm đất: là các máy phá vỡ, làm tơi nhuyễn lớp đất trồng trọt đến độ sâu nhất định để canh tác cho từng loại cây trồng. Mặc dù có nhiều loại máy làm đất dành cho các loại cây trồng khác nhau, với kích cỡ khác nhau nhưng nhìn chung chúng có nhiều đặc tính và nguyên lý làm việc giống nhau. + Cụm máy gieo, trồng, cấy: làm công việc đưa hạt giống mạ hoặc cây con xuống đất. Tùy đặc tính của hạt có gần giống nhau hay không mà một công cụ hoặc máy gieo hạt loại có thể áp dụng cho việc gieo hạt nhiều loại cây khác nhau hoặc sử dụng máy gieo đơn lẻ. Máy trồng cây non dùng để trồng một số loại cây trong nông nghiệp và cây công nghiệp như các loại rau: bắp cải, cà chua, thuốc lá ngoài ra còn dùng để trồng cây lưu niên hoặc cây lâm nghiệp Máy cấy sử dụng để cấy cây mạ xuống đất, máy cấy có các loại như máy cấy mạ dược. mạ thảm, mạ khay. + Cụm máy chăm sóc bao gồm: bón phân cho cây trồng (phân hữu cơ, phân vô cơ) để làm giàu đất. Nó có thể dùng chung cho tất cả các loại cây trồng (trước khi làm đất) mà cũng có các loại đặc chủng cho từng loại cây trồng khi bón phân trong quá trình sinh trưởng của cây. Máy sới, làm có làm công việc diệt cỏ, xới đất làm tăng lượng ôxy, nước trong đất cho cây trồng. Các máy này cũng có thể kết hợp bón phân vô cơ trong quá trình xới, bón. Hệ thống tưới với nhiệm vụ cung cấp cho cây trồng một lượng nước thích hợp vào thời điểm cần thiết để đảm bảo tốc độ sinh trưởng phát triển của cây trồng. + Máy bảo vệ cây trồng: nhiệm vụ của cụm máy này là đưa, lượng chất hoá học đúng liều lượng và nồng độ, đúng lúc để diệt côn trùng, diệt bệnh cho cây 140
  6. trồng nhằm đảm bảo cho cây trồng khỏe mạnh, cho năng suất cao. Máy có nhiều chủng loại để có thể phục vụ cho thảm thực vật thấp hoặc cây trồng lưu niên có chiều cao trên 10 m. * Hệ thống máy thu hoạch: có nhiệm vụ thu lấy các sản phẩm đặc trưng của cây trồng như hạt, củ, trái, lá, thân; có thể là thu riêng biệt hoặc là thu tất cả cùng một lúc cả sản phẩm chính và phụ. Với từng loại cây trồng, lại phải có máy thu hoạch riêng biệt cho nó, vì thế máy thu hoạch lại càng đa dạng hơn và phức tạp hơn nhiều so với các máy nông nghiệp khác. * Hệ thống máy sau thu hoạch: việc mẫn cảm với nhiệt độ, độ ẩm môi trường, sự,,thở" của hạt dẫn đến hư hỏng nhanh chóng của sản phẩm nông nghiệp. Xử lý chúng để đưa chúng tới các điều kiện tạm thời làm giảm tốc độ hư hỏng, được các cụm máy sau thu hoạch đảm nhận. Không phải nông sản nào cũng có thể làm thức ăn ngay được mà phải sơ chế để cung cấp cho con người. Sau cùng là hệ thống máy hay thiết bị chế biến để có sản phẩm sử dụng cho người hay gia súc. Ngoài việc giới thiệu kết cấu và hoạt động của những máy móc trên, phần cuối chúng tôi giới thiệu một cách khái quát về các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chính của một số liên hợp máy sử dụng trong nông nghiệp. Các phương pháp xác định định mức các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, biện pháp nâng cao năng xuất, giảm chi phí với những khâu canh tác bằng máy. Một số phương pháp tính toán, tổ chức sản xuất cho các khâu canh tác bằng máy. 141
  7. Chương IV HỆ THỐNG MÁY CANH TÁC 1. MÁY LÀM ĐẤT 1.1. Giới thiệu chung 1.1.1. Mục đích và nhiệm vụ của máy làm đất * Mục đích: làm đất là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình canh tác, nhằm mục đích nâng cao độ phì của dết, tạo điều kiện cho sự sinh trưởng và phát triển của hạt giống và cây trồng. * Nhiệm vụ: máy làm đất là làm nhỏ (nhuyễn) lớp đất trồng cỏ, diệt cỏ dại và sâu bệnh, chuẩn bị đất tết để gieo, trồng, cấy. 1.1.2. Các phương pháp làm đất Có các phương pháp làm đất như sau: - Phương pháp chia 2 giai đoạn: + Dùng công cụ (cuốc, cày) phá vỡ đất trồng trọt có kích thước lớn có thể ngâm hoặc phơi (thỏi cục). + Làm tơi nhuyễn đất đến độ sâu nhất định để có thể gieo, trồng, cấy được. - Phương pháp làm đất 1 giai đoạn: dùng công cụ làm tơi nhuyễn luôn lớp đất trồng trọt đạt tới yêu cầu của khâu gieo, trồng, cấy. - Phương pháp làm đất chuyên dùng: cày vỡ hoang, cày đồng lầy, cày vườn, phay đất - Phương pháp làm đất bề mặt: cày ngả rạ, bừa xới, bừa lăn, đánh rãnh - Phương pháp cơ bản: Dùng cày lật đất phơi ải hoặc ngâm dầm. Sau đó đùng bừa, phay làm nhỏ đất. - Dùng phay làm nhỏ lớp đất mặt. Dùng bánh lồng làm nhuyễn lớp đất mặt đối với ruộng nước. 1.1.3. Yêu cầu kỹ thuật - Sau khi làm đất xong mặt đồng phẳng, đáy luống phẳng, cỏ rác, sâu bệnh phải gom lại hoặc vùi xuống dưới hoặc dồn lên bờ. Yêu cáu trong khi làm việc máy phải cân bằng đi thẳng, không được lỏi không được lặp. - Có khả năng làm đất tới độ sâu 25 - 35 cm. Độ sâu phải đồng đều, độ sai lệch cho phép về độ sâu không quá ± 10% so với yêu cầu. - Khi cày đất có nhiều cỏ dại hoặc cày sâu lớn hơn 18 cm, trước các thân cày 142
  8. chính nhất thiết phải lắp thêm thân cày phụ để chúng hớt lớp đất mặt tới độ sâu 8 - 12 cm và hất lớp đất đó cùng cỏ dại xuống đáy luống. Vì vậy, khi cày đất có nhiều cỏ dại, rễ cây hệ thống máy và thiết bị làm đất phải tiêu diệt cỏ dại và lấp cỏ dại cùng phân bón một cách triệt để. - Sau khi làm đất xong bề mặt ruộng phải bằng phẳng hoặc gợn sóng (độ cao của sóng đất không quá 5 cm). Đáy luống phải phẳng để tạo điều kiện cho hệ thống máy làm việc tốt ở lượt sau. - Hệ thống máy và thiết bị làm đất phải có hệ thống điều chỉnh cơ học để điều chỉnh và sử dụng dễ dàng theo yêu cầu, làm việc chắc chắn, tuổi thọ cao, năng suất và hiệu quả cao. 1.1.4. Phân loại máy làm đất * Máy cày: - Máy cày tịnh tiến (phổ biến cày lưỡi). - Máy cày quay (phổ biến cày đĩa). Cày lưỡi: Cày nhỏ cho máy cày nhỏ. Cày lớn cho máy cày lớn. Cày đĩa: Cày đĩa nhỏ cho máy cày nhỏ. Cày đĩa lớn cho máy cày lớn. - Máy cày đĩa chia làm 2 loại: + Máy cày đĩa nhiều trục đĩa. + Máy cày đĩa 1 trục đĩa. * Máy bừa: - Máy bừa khô: + Trục lăn. + Bừa răng. + Bừa đĩa. - Máy bừa ruộng nước: + Bừa răng. + Máy bừa móng. + Máy bừa bánh lồng. * Máy phay đất: - Máy phay cỡ nhỏ. - Máy phay cỡ lớn. 1.1.5. Nguyên lý làm việc của máy làm đất 143
  9. Sử dụng các nêm: (Hình 4.2) + Nêm nâng α góc hợp giữa bề mặt nêm với mặt phẳng đáy luống XOY. + Nêm nâng δ góc hợp giữa bề mặt nêm với mặt phẳng thành lương XOZ. + Nêm nâng β góc hợp giữa bề mặt nêm với mặt phẳng đáy luống YOZ. + Kết hợp 3 loại nêm này lại gọi là nêm tam hợp, bề mặt làm việc của máy cày được thiết kế dựa trên một nêm tam hợp cong (nêm tam hợp phức hợp) bao gồm nhiều nêm tam hợp phảng ghép lại. 1.2. Máy cày 1.2.1. Nhiệm vụ, yêu cầu kỹ thuật - phân loại 1.2.1.1. Nhiệm vụ và yêu cầu kỹ thuật đối với máy cày Nhiệm vụ của cày là cày một lớp đất ở mặt đồng có độ sâu từ 10 đến 35 cm. Thỏi đất được cày có thể bị lật úp hoặc không lật, có thể được làm vỡ sơ bộ hay không. Hiện nay trong nông nghiệp nước ta, phổ biến vẫn là cày lật đất. Đối với cày lật đất cán đáp ứng những yêu cáu kỹ thuật sau: bảo đảm cày sâu đều và đúng yêu cầu đặt ra, độ cày sâu trung bình thực tế sai lệch so với yêu cầu đặt ra không được vượt quá ± 1cm. Cày phải lật đất, lấp kín cỏ rác, phân bón. Đường cày thẳng, không cày lỏi và cày trùng lặp. Máy cày phải bền vững, chăm sóc và sử dụng thuận tiện, lực cản riêng của cày nhỏ mà năng suất làm việc cao. Ở những vùng có xói mòn hoặc độ ẩm thấp, ta sử dụng cày không lật. Cày loại này chỉ làm tơi sơ bộ lớp đất canh tác mà không lật thỏi đất. 1.2.1.2. Phân loại máy cày Máy cày khá phong phú về chủng loại, tùy theo bộ phận làm việc chính có thể chia cày thành hai loại: + Máy cày lưỡi: có bộ phận làm việc chính là lưỡi hoặc lưỡi cộng với diệp. Khi làm việc cày chuyển động tịnh tiến. Nếu chỉ có lưỡi thôi thì cày không lật đất. Nếu có cả lưỡi và diệp thì cày sẽ lật úp thỏi đất. Ở nước ta phần lớn dùng cày lưỡi diệp. Thuộc loại này có cày CT-3-25, CT-4-25, do các cơ sở trong nước sản xuất. + Máy cày đĩa: có bộ phận làm việc là đĩa thép chỏm cầu, khi làm việc đĩa chuyển động quay. Ở nước ta có máy cày đĩa C-2-30. Theo nhiệm vụ máy cày được chia thành các loại: - Máy cày làm nhiệm vụ chung thường dùng để cày loại đất đã thuần thuộc, loại đất này chiếm phần lớn diện tích đất canh tác của nước ta, thuộc loại này có cày CT-3-25, CT-4-25 144
  10. - Máy cày chuyên dùng, loại này dùng để cày ở loại đất đặc biệt, theo những yêu cầu tiếng như cày đất hoang, đất có đá sỏi, đất đồi núi dốc, đất có lớp dưới nhiễm chua, mặn Thuộc loại này có cày không lật, cày tầng, cày trở chiều lật đất. Ví dụ - máy cày ПOH-2-30 do Liên Xô (cũ) chế tạo, cày trở chiều để lật đất.chỉ về một phía, dùng để cày đất đồi dốc, chống sói mòn, máy cày ПTH-40 ao Liên Xô (cũ) chế tạo dùng để cày 3 lớp đất. - Theo cách liên kết với nguồn động lực người ta phân ra cày móc, cày treo, cày nửa treo. Cày móc liên kết với máy kéo nhờ bộ phận móc nối, loại cày này khi di chuyển cần phải có bánh xe, thuộc loại này có cày ПY-5-35. Cày treo là loại cày liên kết với máy kéo qua bộ phận treo của cày và hệ thống treo thuỷ lực của máy kéo. Khi di chuyển, cày treo được nâng lên khỏi mặt đường, do đó không cần phải có bánh xe để vận chuyển. Việt Nam có sản xuất cày treo CT- 4- 25. - Cày tự chạy là cày lắp vào một hệ thống khung có động cơ, cày có thể tự vận hành như một kết cấu máy động lực chặt chẽ. Ngoài những loại cơ bản trên, người ta còn phân loại cày theo độ cày sâu, theo số bộ phận làm việc, cày tốc độ bình thường, tốc độ cao 1.2.2. Cày lưỡi diệp Máy cày có nhiệm vụ cắt đất thành thỏi, cục có kích thước lớn chưa thể gieo trồng ngay được. Thỏi đất cày có thể được cắt thành 1,2 hoặc 3 lớp, các thỏi đất cày có thể được lật úp toàn phần hoặc lật một phán. Tuỳ theo nhiệm vụ mà máy cày có kết cấu khác nhau tuy nhiên một máy cày lưỡi hoàn chỉnh sẽ bao gồm các bộ phận như: thân cày chính, thân cày phụ: dao cày, thân cày sâu thêm, khung cày, bánh xe cùng hệ thống vít điều chỉnh độ cày sâu v.v - Cụm thân cày chính có nhiệm vụ cắt đáy thỏi đất với bề rộng là 25 - 35cm, tách thỏi đất khỏi thành luống, nâng thỏi đất lên trên và lật úp. Đối với đất cày sâu >20 cm hoặc đất có cỏ thì trước mỗi thân cây chính thì phải lắp thân cày phụ, thân cày phụ sẽ hớt đi 1 lớp đất 10 - 12cm, bề rộng = 2/3 thân cày chính. - Trong trường hợp đất bạc màu hoặc lớp đất mầu mỏng người ta lắp sau thân cày chính 1 lưỡi cày sâu thêm để phá vỡ lớp đất đáy nhưng không lật lên trên. - Dao cày: với đất có cỏ và có sỏi đá thì trước mỗi thân cày chính thì lắp 1 dao cày. Có 2 dạng dao cày thường được sử dụng là dao thẳng và dao đĩa. 145
  11. - Hệ thống bánh xe + vít điều chỉnh: bánh xe là điểm tựa của máy cày trong quá trình làm việc và di chuyển, do vậy bánh xe sẽ lắp qua 1 hệ thống vít điều chỉnh thay đổi khoảng cách từ lưỡi cày lên mặt cày để thay đổi độ sâu của cày. - Khung + móc: dùng để lắp các bộ phận làm việc và các thiết bị khác và liên kết với máy kéo, trên khung có cơ cấu các bộ phận dùng để điều chỉnh thăng bằng cày. 1.2.2.1. Cấu tạo thân cày chính Gồm 4 chi tiết: lưỡi cày, diệp cày, thanh tựa đồng, trụ cày. + Lưỡi cày và diệp cày sẽ hình thành lên bề mặt làm việc của thân cày chính và được chế tạo dựa trên cơ sở của 1.nêm tam hợp cong nêm bao gồm 3 góc đặc trưng là: góc nâng α, góc tách γ, góc lật β. * Lưỡi: chế tạo bằng thép có hình dạng chung là hình thang, bề mặt cong dạng mặt trụ, cạnh sắt mài ở mép dưới của lưỡi, chiều dày cạnh sắt (0,5mm, mài ở mặt trên của lưỡi). Loại lưỡi cày hình thang dùng trong các máy cày làm việc ở đất nhẹ và trung bình, có lực cản riêng 0,3 - 0,5 kg/cm2, được dùng phổ biến ở nước ta. Loại lưỡi cày mũi đục dùng trong máy cày làm việc ở đất trung bình và nặng, có lực cản riêng > 0,7 kg/cm2. Trên thế giới nó được dùng rộng rãi hơn vì tuổi thọ cao hơn, ăn sâu vào đất tốt hơn và chắc chắn hơn nhờ có cạnh sắc của mũi đục thấp hơn cạnh sắc của lưỡi cày 10 mm, khi làm việc mũi đục sẽ ăn sâu vào đất. Ngoài ra còn có lưỡi cày ứng lực má chêm dùng trong điều kiện phức tạp như đất lẫn nhiều đá, rễ cây lưỡi cày với mũi đục di động dùng để cày đất thịt nẫng, đất sét để tăng khả năng ăn sâu của cày. Khi làm việc lưỡi chiếm 50% sức cản của máy do vậy cạnh sắc của lưỡi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức cản của toàn bộ máy, theo các nghiên cứu thì khi cạnh sắc của lưỡi dầy đến 3 tâm thì sức cản kẻo tăng 1,5 lần và độ cày sâu giảm 1/3 do vậy không nên để lưỡi cày quá cùn. * Diệp cày: có nhiệm vụ tách thỏi đất khỏi thành luống, hướng cho thỏi đất chuyển động, làm tơi một phần. xoay thỏi đất và lật sang bên. Diệp được chế tạo bằng thép, bề mặt diệp chiếm phần lớn bề mặt làm việc của thân cày do vậy nó quyết định chất lượng của máy. Sự thay đổi của các góc nâng, tách, lật sẽ có ảnh 146
  12. hưởng trực tiếp đến chất lượng của công việc và sẽ hình thành nên các loại diệp cày khác nhau và có các loại diệp cày phổ biến sau: + Diệp này hình trụ: bề mặt là dạng mặt cong dạng hình trụ (nhìn từ trên xuống) thì các đường sinh hình thành nên bề mặt diệp song song với đáy hợp với thành luống một góc tách γ không đổi. Với loại diệp cày này có góc lật β tăng chậm nên diệp cày làm tơi đất tốt lật kém do vậy thích hợp khi cày đất khô. + Diệp cày á trụ: bề mặt diệp cày là 1 phần của mặt á trụ, các đường sinh hình thành lên bề mặt diệp luôn song song với đáy luống, nhưng hợp với thành luống 1.góc tách thay đổi, góc tách của diệp cày thay đổi theo các cấp độ khác nhau và hình thành nên hai loại diệp cày nhỏ. - Diệp cày dết thuộc: γ - 42 - 470 - Diệp cày nửa xoắn: γ = 35 - 470 Với 2 diệp cày này thì góc lật β tăng nhanh dần lên do góc tách tăng lên. Do vậy 2 diệp cày này thích hợp cày để cày đất thuộc và đất ướt. + Diệp cày hình xoắn: đường sinh hình thành lên bề mặt diệp song song với mặt phẳng vuông góc với hướng chuyển động. Với loại diệp cày này thì ngực diệp thoải và cánh diệp uốn cong cho nên lật đất rất nhanh, loại diệp này thích hợp với ruộng nước. * Thanh tựa đồng: trong quá trình làm việc bề mặt làm việc của thân cày luôn hợp với thành luống một góc tách nhất định trong khoảng từ 45 - 500 do vậy đuôi cày luôn có xu hướng xoay về phía đồng để chống lại lực xoay cày mỗi thân cày chính lắp thanh 1 tựa đồng, thanh tựa đồng luôn tựa vào thành luống về phía đồng để chống lại lực xoay cày. * Trụ cày: là nơi lắp, lưỡi, diệp, thanh tựa đồng trụ dùng để liên kết giữa thân 147
  13. cày với khung. Trụ được chế tạo bằng thép đúc hoặc dập có tiết diện là tam giác đều, hình vuông hoặc tròn rỗng. Phía dưới có mặt đế yên ngựa để lắp lưỡi cày và diệp cày. 1.2.2.2. Thân cày phụ Thân cày phụ được lắp trước thân cày chính, có nhiệm vụ hớt lớp đất mặt tới độ sâu 8 - 12 cm, bề rộng bằng 2/3 bề rộng làm việc của thân cày chính, hất xuống đáy luống do thân cày phía trước tạo nên. - Cấu tạo gần giống như thân cày chính, nhưng khác ở hình dạng bề mặt, kích thước nhỏ hơn và không có thanh tựa đồng. - Vị trí của thân cày phụ lắp trước thân cày chính một khoảng bằng bề rộng làm việc của thân cày chính. 1.2.2.3. Dao cày Dao cày có nhiệm vụ cắt thỏi đất theo phương thẳng đứng, giúp cho thỏi đất lật tốt hơn, chém nát cỏ, bảo đảm độ cày sâu đồng đều và máy làm việc ổn định không bị tắc. - Với vùng đất lẫn nhiều rễ cây, đá hộc, đất có độ dính cao, sử dụng dao thẳng. - với vùng đất canh tác thường xuyên, lẫn ít rễ cây, đá sỏi và độ dính kết thấp dùng dao địa. Vị trí: dao cày được lắp trước thân cày phụ. tâm của dao cách mũi cày của thân cày phụ 1.khoảng = 1.30 mm, trục dao cách mặt ruộng 2 - 4 cm, mặt phẳng quay của dao cách thành luống một khoảng 1- 3 cm về phía trong đồng. 1.2.2.4. Bánh xe cày Bánh xe cày (bánh tựa đồng) được lắp trên cày treo dùng để điều chỉnh độ cày sâu. Bộ phận này gồm bánh tựa và cam trục vít điều chỉnh: - Quay trục vít để nâng bánh tựa lên hoặc hạ bánh tựa xuống. - Bánh tựa lăn trên mặt đồng nên nó giới hạn độ cày sâu. Khi nâng bánh tựa lên so với khung, độ cày sâu sẽ tăng và ngược lại. 1.2.2.5. Lưỡi cày sâu thêm 148
  14. Lưỡi cày sâu thêm có nhiệm vụ làm tơi vỡ lớp đất dưới đáy luống tới độ sâu 6 - 15 cái mà không lật và không đưa lên mặt luống với mục đích làm tăng độ dày lớp đất canh tác, giữ nước và không khí để rễ cây phát triển tốt hơn. Lưỡi cày sâu thêm chỉ dược lắp khi cày đất bạc màu hoặc thịt nặng có lớp đất canh tác mỏng có 2 loại: + Dạng lưỡi cày. + Dạng lưỡi xới hình vàm, loại lưỡi cày sâu thêm hình vàm được sử dụng phổ biến hơn. - Góc doãng ∝: 45 - 500 - Góc tới β = 35 - 400 - Góc mài canh sắc ∝ = 15 - 160 - Bề rộng làm việc b' = 3/5.B (B: là bề rộng làm việc của thân cày chính từ 25- 35 cái tuỳ thuộc vào loại cày). - Lưỡi cày sâu thêm (vị trí) được lắp ngay sau thân cày chính, mũi của lưỡi cày sâu thêm cách thân cày chính một khoảng không nhỏ hơn 500 tâm và đường trung tuyến i - i cách thành luống một khoảng bằng nửa bề rộng làm việc của thân cày chính cộng 10 mm. 1.2.2.6. Khung cày Khung cày dùng để lắp các bộ phận làm việc và các thiết bị cơ học khác của cày. * Phân loại: theo câu tạo chia ra: - Khung phẳng. - Khung móc. - Khung liên hoàn. Khung phẳng được sử dụng phổ biến nhất. Khung phẳng bao gồm các thanh dọc với số lượng bằng số thân cày chính. Các thanh dọc nối liền với nhau bằng các giằng ngang. Để đảm bảo độ bền của khung, trên khung được lắp 1.dầm chịu lực hình vuông rỗng, dạng thép góc hay chữ I. Phía trước khung cày móc lắp má có lỗ để lắp móc cày, khung cày treo lắp các chốt để lắp vào cơ cấu treo của máy kéo. 1.2.3. Cày đĩa - Cày đĩa nhiều trục. - Cày đĩa 1 trục. 149
  15. Bộ phận làm việc chính của máy là đĩa cày. 1.2.3.1. Máy cày đĩa 1 trục: địa cày được chế tạo bằng thép, có hình dạng chung là chòm cầu, đường kính của đĩa cày 600 - 700mm, địa cày được mài cạnh sắt ở xung quanh mép, chiều dày cạnh sắt <0,4mm. Với 2 loại máy cày đĩa khác nhau thì cạnh sắt được 2 mặt khác nhau. Với cày nhiều trục cày được mài ở mặt lõm (trong) cua trục, với cày 1.trục mài ở một lồi (ngoài). Ở tâm của đĩa cày gia công lỗ, với loại cày địa 1.trục thì cày đưa được lắp cứng với trục trong quá trình làm việc toàn bộ trục đĩa cày quay. Với loại đĩa cày này thường lắp 7 - 9 đĩa cày, góc tiến α của đĩa cày nằm trong khoảng 30- 500. - Để máy có khả năng đi thẳng được trong quá trình làm việc thì ở đầu và đuôi của trục sẽ lắp 1- 2 dao cày, dao cày có chiều nghiêng ngược lại so với chiều nghiêng của đĩa cày để chống lại lực xoay cày. Bề rộng làm việc là 1,05m trở lên. 1.2.3.2. Máy cày đã nhiều trục: mỗi đĩa cày sẽ lắp lên 1 trục riêng. Đĩa cày lắp nghiêng so với hướng tiến 1 góc α từ 60 - 800 và sẽ nghiêng so với trục thảng đứng 1 góc 13 = 20- 300. Với loại máy cày này với đĩa cày cỡ lớn thường tập 3 - 5 đĩa cày bề rộng làm việc là 1,05m trở lên. Tương tự với đĩa cày nhiều đĩa để chống lại lực xoay cày ở phía cuối của máy có lắp bánh xe và dao cày cũng nghiêng ngược lại với chiều nghiêng của địa để chống lại lực xoay cày. 150
  16. 1.3. Bừa máy 1.3.1. Nhiệm vụ và phân loại 1.3.1.1.Nhiệm vụ: Bừa máy có nhiệm vụ làm tơi nhỏ lớp đất mặt tới độ sâu 10 - 12 cm đối với ruộng khô và làm nhuyễn lớp đất mặt tới độ sâu 15 - 20 cm đối với ruộng nước cho tới khi đạt yêu cầu kỹ thuật nông học. Đồng thời bừa máy còn có nhiệm vụ san phẳng mặt ruộng, diệt trừ cỏ dại và các ổ sâu bệnh, dồn cỏ dại gom lên bờ hoặc cắt vụn dìm xuống dưới lớp đất và trộn đều phân bón với đất. 1.3.1.2. Phân loại - Theo đối tượng làm việc có: + Máy bừa đất khô: bừa đĩa, bừa trống lăn + Máy bừa ruộng nước: bừa răng, bừa lồng - Theo cấu tạo của bộ phận làm việc + Bừa răng + Bừa trống lăn + Bừa đĩa + Bừa lưới - Theo nguyên tắc làm việc: + Bừa tịnh tiến: bừa răng, bừa lưới. 151
  17. + Bừa quay: bừa đĩa, bừa trống lăn 1.3.2. Cấu tạo 1.3.2.1. Bừa tịnh tiến Bừa tịnh tiến làm việc theo nguyên tắc chuyển động tịnh tiến, nghĩa là trong quá trình làm việc các răng bừa chuyển động tịnh tiến trên mặt đất tạo thành các vết răng. Độ bừa nhỏ phụ thuộc vào khoảng cách giữa các vết Hình 4.7. Các dạng răng bừa răng bừa, độ bừa sâu phụ thuộc vào a. Răng dạng đinh; b. Răng dạng dao; trọng lượng, chiều cao của các răng c. Răng dạng lưỡi; d,e,g. Răng bừa lưới. bừa (có thể lắp thêm bộ phận tăng trọng lượng phụ). Theo trọng lượng các răng bừa chia ra 3 loại: - Bừa răng với trọng lượng mỗi răng q = 16 - 20 N. - Bừa trung bình trọng lượng mỗi răng q = 12 - 15 N. - Bừa nhẹ trọng lượng mỗi răng q = 6 - 10 N. Răng bừa có tiết diện hình vuông, hình tròn hoặc dạng dao hoặc dạng lưỡi, răng bừa có thể được vát đầu nhọn hoặc không. Các răng bừa thường được lắp lên khung cứng thành một hay nhiều hàng, răng bừa có thể được lắp nghiêng về phía trước, ngả về phía sau hoặc lắp thẳng đứng. Với loại răng láp nghiêng về phía trước thì máy sẽ đảm bảo được độ bừa sâu tuy nhiên có hạn chế là đưa cỏ rác, gốc rạ lên mặt đồng và sẽ dồn đất về phía trước. Với loại răng bừa lắp ngả về phía sau thì không đảm bảo độ bừa sâu tuy nhiên có tác dụng dìm cỏ rác, gốc rạ xuống phía dưới và có tác dụng san phẳng mặt đồng. Với loại răng bừa lắp theo phương thẳng đứng thì tác động lên răng bừa cân đối tuy nhiên để đảm bảo được độ bừa sâu thì cần phải có trọng lượng phụ lắp lên trên máy. Răng bừa lắp lên khung phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Mỗi răng bừa phải tạo nên một vết riêng, khoảng cách vết đều và nhỏ. - Khoảng cách răng bừa trên hàng ngang phải đủ lớn để tránh ùn tắc đất hoặc cỏ rác khi làm việc. - Tác động của đất lên răng bừa phải cân đối để máy đi thẳng trong quá trình làm việc. - Với răng bừa dạng đinh có tiết diện là hình vuông thì phải lắp để sống lang hướng về phía trước. - Với răng bừa có vát đầu nhọn thì phải lắp để chiều vát ngược so với hướng tiến. 152
  18. Loại máy bừa răng phổ biến là máy bừa ziczăc, máy gồm 3 mảng kết nối với nhau theo chiều ngang và có bề rộng làm việc là 3 m. Mỗi mảng bừa có 20 răng và được lắp thành 5 hàng ngang, 4 hàng dọc khoảng cách răng trên hàng ngang 15 - 30cm, khoảng cách vết răng 3 - 6cm. Thứ tự các vết răng: vết thứ nhất do răng bàng I vạch nên, vết thứ hai răng hàng IV, vết thứ ba răng hàng III, vết thứ tư răng hàng II, vết thứ năm răng hàng V. 1.3.2.2. Bừa quay Bừa quay: khi máy làm việc bộ phận làm việc chính quay nghĩa là khi làm việc các bộ phận này quay một cách chủ động hoặc thụ động do lăn trên mặt đất. Máy bừa quay có các loại: - Bừa răng quay: dùng để phá váng sau khi gieo. - Bừa đĩa: dùng làm nhỏ đất trước khi gieo trồng hoặc phá váng ruộng đã để lâu. -Bừa trống lăn: dùng để làm nhỏ đất và đôi khi dùng để nén đất đối với những vùng sói mòn. 153
  19. - Bánh tồng đất: bánh lồng sử dụng trên các ruộng ngập nước sâu, thường là ruộng có nên yêu. * Bừa tăng quay (bừa móng). Bộ phận làm việc chính là các đĩa bừa có dạng rẻ quạt tròn các răng có tiết diện tròn, đường kính φ = 1,0 - 1,6 mm, đĩa bừa lăn trên mặt ruộng, các răng sẽ cào và phá vỡ lớp váng trên mặt. * Bừa đĩa - Thường có 2 loại: nhẹ và nặng. Hình 4.10. Kết cấu máy bừa đã nặng Bộ phận làm việc chính của bừa địa là các đĩa bừa, các đĩa bừa có dạng chỏm cầu với đường kính từ 450 - 660 tâm, với địa bừa của máy bừa đĩa nặc xung quanh mép đĩa có cái hình tai khế. Đĩa bừa được mài sắc ở mép, chiều dầy cạnh sắc < 0,5 mm, cạnh sắc được mài ở mặt lồi của địa. Tại tâm của đĩa bừa có khoét lỗ hình vuông để lắp lên trục hình vuông, trong quá trình làm việc toàn bộ trục và đĩa cùng quay. Để trục bừa quay được tại vị trí liên kết với khung có lắp tai bắt, ở trong tai bắt có lắp vòng bi hoặc bạc, thông thường một đầu của trục bừa lắp cố định, đầu còn lại có thể thay đổi vị trí lắp để thay đổi góc tiến của đĩa bừa khi làm việc. Mỗi trục có lập từ 5 - 12 địa để hình thành nên một tổ bừa, mỗi máy bừa có thể lắp 2 hoặc 4 tổ bừa trên một mảng hay hai mảng bừa, với máy bừa gồm 2 mảng bừa thì các mảng kết nối với nhau theo chiều dọc. Các tổ bừa lắp vào khung thành hàng và nghiêng với hướng tiến 1góc β = 900 - α, thông thường các tổ bừa xếp với nhau thành hình chữ v hoặc chữ x nằm ngang. α là góc lệch của đĩa bừa với hướng tiến và gọi là góc tiến của đĩa bừa, khi α tăng độ bừa sâu tăng. Các địa bừa lắp lên khung cần phải đảm bảo các yêu cầu sau: 154
  20. - Vết đĩa hàng trước và sau cần phải lệch nhau để bừa cho đồng đều. Đĩa hàng trước và sau lắp ngược chiều nhau để trải đất lại, làm cho mặt đồng bằng phẳng. - Góc tiến của đĩa bừa có thể thay đổi được trong khoảng 0 - 220, khi làm việc đĩa bừa phải hướng chiều lõm về phía trước. - Với các đĩa bừa có cắt tai khế thì phải xếp các tai khế lệch nhau. Mỗi mảng bừa lắp hai bánh xe bằng thép rỗng, các bánh xe liên kết với khung qua hệ thống vít điều chỉnh để nâng hạ, điều chỉnh độ bừa sâu. * Bừa trống lăn Dùng để nén đất trước và sau khi gieo. Khi làm việc các trống lăn trên mặt đất và nén đất bằng chính trọng lượng của nó: - Trước khi gieo san phẳng Hình 4.11. Các loại trục lăn đất ruộng, đập vỡ các tảng đất còn lại. a. Loại đã có mấu; b. Loại đã có răng, - Sau khi gieo nén lớp đất mặt c. Loại trống có răng; d. Trục lăn chứa nước ép hạt vào đất tốt hơn, tăng lớp mùn cho lớp đáy tạo điều kiện cho cây trồng phát triển nhanh hơn đối với vùng hạn hán, hạn chế độ thoái hoá của mùn, giúp cho đất giữ ẩm tốt hơn. Khả năng nén của đất, phụ thuộc vào M, D, B Trong đó: - p: áp lực riêng trên 1 cm. - M: trọng lượng của trống lăn. - D, B: đường kính và bề rộng làm việc của trống lăn. Đánh giá khả năng nén đất qua công thức tổng quát: a = M2/B2.D * Bánh lồng Bánh lồng bao gồm các thanh thép góc L hàn cứng trên các vành bánh. Có các loại bánh lồng cho máy kéo lớn, máy kéo trung bình và nhỏ. Máy kéo khi di chuyển trên ruộng bánh lồng vừa là bộ phận di động vừa là các máy canh tác để làm đất. Do trọng lượng máy kéo, bánh lồng lún sâu vào bùn, các thanh thép góc cắt đất thành thỏi hất lên phía trên, cỏ hoặc góc rạ bị vùi dập xuống phía dưới. Để 155
  21. chống lật ngửa khi làm việc với máy kéo lớn phía sau có lắp một bừa răng hoặc bừa đĩa nhỏ có bề rộng 1,2m ở khoảng giữa hai bánh, bừa được gài ở tư thế bơi khi làm việc, với máy kéo nhỏ, có thể lắp kèm bánh lồng với máy phay đất để làm nhỏ đất giữa 2 bánh. Khi di chuyển xuống ruộng máy phải tiến xuống và khi lên bờ sau khi làm việc xong phải lùi lên để chống lật. Mức nước trong ruộng khi lồng đất tốt nhất là 7 - 25 cm (bùn nhuyễn), 25 - 30 cm (bùn bị se trên mặt ruộng). Nếu ít nước, bánh lồng bị bùn đất kết dính, đất bị cuốn vào bánh lồng làm tăng lực cản và không đảm bảo chất lượng làm đất, trên ruộng nền yếu hoặc mức nước sâu cần phải lắp thêm phao dưới bụng máy khi làm việc. 1.4. Máy phay đất 1.4.1. Nhiệm vụ phân loại * Nhiệm vụ: Máy phay dùng để làm đất nhỏ và nhuyễn hơn, tiêu diệt cỏ dại, chém nát rơm rạ, rễ cây, phân bón, trộn phân với đất và trong phẳng mặt ruộng. * Phân loại: máy phay có các loại máy cỡ lớn dùng với máy kéo lớn và máy phay nhỏ liên kết với máy kéo nhỏ. 1.4.2. Nguyên lý làm việc Máy phay làm việc theo nguyên lý chém. Nghĩa là khi làm việc các lưỡi phay quay cùng trục của chúng với vận tốc lớn và chém thẳng vào đất, cắt đất thành những lát mỏng. nhỏ hoặc đập nhỏ. 156
  22. 1.4.3. Cấu tạo của máy phay Máy bao gồm các bộ phận làm việc như sau: - Hệ thống truyền lực. - Bộ phận làm việc chính (trống phay). - Khung, vỏ máy, bộ phận điều chỉnh độ phay sâu. a. Hệ thống truyền lực: với các loại máy phay của máy kéo lớn thì máy nhận mômen quay từ trục thu công suất của máy kéo do vậy sử dụng tay gài trên buồng lái để gài trục thu công suất khi làm việc. Từ trục thu công suất mômen truyền đến máy qua bộ truyền động các đăng. Từ trục các đăng mômen quay truyền đến 1 cặp bánh ràng côn lắp trên máy, từ bánh răng thứ cấp của cặp bánh ràng côn mômen quay truyền đến trục trống phay qua các bánh răng trụ răng thẳng (3 bánh răng). Với máy phay nhỏ hệ thống truyền lực của máy phay sẽ nhận mômen quay từ bánh răng trích công suất trên hộp số (thông thường là bánh răng sơ cấp của hộp số). Bánh răng này sẽ quay với tốc độ nhất định ở mỗi chế độ làm việc của động cơ, bánh răng này luôn quay khi ta không ngắt ly hợp chính do vậy trên máy phay có lắp một ly hợp riêng để ngãi mômen quay đến máy phay khi máy di chuyển trên đường Từ trục của ly hợp phay mômen quay truyền đến trống phay qua một bộ truyền động xích. bộ truyền xích được đặt trong hộp kín và bôi trơn bằng dầu nhớt. b. Trống phay: bộ phận làm việc chính của máy phay là trống phay gồm các 157
  23. lưỡi phay lắp lên trục theo một quy luật nhất định. mỗi loại máy phay sử dụng một hay nhiều loại lưỡi phay, lưỡi phay có các dạng như sau: - Lưỡi phay thẳng dùng để phay dết cát, khô, nhẹ. - Lưỡi phay cong to và nhỏ bản dùng để phay đất trung bình, ẩm ướt, nhiều cỏ. - Lưỡi phay dạng móng dùng để phay đất cứng, lẫn nhiều sỏi đá. - Lưỡi phay xoắn lắp trên máy phay nhỏ dùng để phay đất ruộng nước. Lưỡi phay có thể lắp trực tiếp trên trục hoặc lắp trên đĩa, trong trường hợp lắp trên đĩa, các địa lưỡi liên kết với trục qua các đưa ma sát, cách lắp này an toàn cho lưỡi phay khi làm việc tuy nhiên chế tạo đất tiền. Lưỡi phay lắp trên trục theo một quy luật nhất định và phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Nếu là lưỡi phay cong thì có thể lắp chia thành hai nửa trống có chiều cong ngược nhau hoặc lắp các lưỡi cong trái chiều xen kẽ nhau. - Các lưỡi phay lắp lên trục theo quy luật đường ren vít một hay nhiều đầu ren. - Với lưỡi phay cong thì nên lắp 2 lưỡi phay ngoài cùng có chiều cong quay vào phía trong để luống đất phay gọn. c. Khung, vỏ máy và hệ thống điều chỉnh độ phay sâu: vỏ máy bao gồm 2 phần, phần vỏ che hệ thống truyền lực thường được bao kín có chứa dấu hoặc mỡ bôi trơn, phần vỏ che trống phay đế đất không bắn lên trên khi máy làm việc. Tuỳ theo loại máy phay mà có thể lắp bánh xe hoặc thuyền trượt để máy phay tựa lên trong quá trình làm việc. Bánh xe được lắp trên vít điều chỉnh nâng hạ thay đổi độ phay sâu, thuyền trượt là một tấm thép mỏng uốn cong dạng lòng thuyền một đầu lắp khớp bản lề với khung đâu còn lại có thể thay đổi vị trí liên kết khung để thay đổi độ phay sâu, thuyền trượt thích hợp với loại máy phay trên ruộng nước. 1.4.4. Hoạt động Trong quá trình làm việc máy phay nhận mômen quay từ trục cơ các lưỡi phay quay cùng trục của chúng với vận tốc lớn và chém thẳng vào đất, cắt đất thành những lát mỏng, nhỏ hất lên phía trên. Giả sử vận tốc góc của trống phay là ω (rad/s), bán kính của trống phay là R, vận tốc tiến của máy là Vm (km/h). Quỹ đạo chuyển động của lưỡi phay có dạng đường cong Xycloit. Khi lưỡi phay quay hết một vòng thì máy tiến được 1 đoạn S. Gọi T là thời gian để lưỡi phay quay 1 158
  24. vòng, vận tốc quay của lưỡi phay là Vq: Ta có: Do đó: Trong đó: - Vq: vận tốc quay của dao. - Vm: vận tốc chuyển động tiến của máy. - λ: hệ số phay (chế độ động học của máy phay). Nếu trên vòng tròn lắp z lưỡi (cùng cong về 1 phía) thì trên đoạn S có z lưỡi cắt vào đất, thỏi đất do mỗi lười phav cắt được là: (gọi là bước của máy phay). - Khi s nhỏ cục đất phay nhỏ, muốn s lớn bé khác nhau ta thay đổi λ. Thông thường ở máy phay Vq = Const. Vì vậy, muốn thay đổi λ ta thay đối Vm. Do đó khi máy đi nhanh cục đất phay sẽ to và ngược lại ngoài ra số lưỡi cong cùng một phía lắp trên một đĩa càng nhiều thì thỏi đất do một lười cắt càng nhỏ, tuy nhiên số lưỡi lắp trên địa có giới hạn nên điều chỉnh tốc độ phù hợp thì chất lượng, năng suất làm việc của máy sẽ tăng lên. - Khi lưỡi phay chém xuống đất do phản lực của đất tác dụng lên lưỡi phay bao gồm hai thành phần. Một thành phần đẩy máy tiến về phía trước, một thành phần đẩy máy nổi lên phía trên do vậy lực cản riêng của máy nhỏ và máy có xu hướng nổi lên mặt đồng khi làm việc. 1.5. Một số loại máy làm đất nên hợp với máy kéo tay 1.5.1. Cày 1 trụ và cày 2 trụ 1.5.1.1. Cày 1 trụ: gồm có các chi tiết và cụm chi tiết sau: - Khung cày 6 và cụm nối 1- 2 nối cày với máy kéo. - Bộ phận làm việc có: Trụ cày 7, diệp cày 8, lưỡi cày 9, gót cày 10. 159
  25. Có 2 bộ phận điều chỉnh đó là: điều chỉnh nông sâu 5 và điều chỉnh độ ổn định ngang (bề rộng làm việc không đổi máy kéo đi thẳng hướng) bằng các tay gài 4, hình rẻ quạt 8 (trên có rãnh) và bu lông- êcu 1 và 2 hạn chế độ xoay của cày. 1.5.1.2. Đối với này 2 trụ: liên kết với máy kéo GN-91 hoặc GN-111 (còn gọi là Cao Phong- 12) có thêm một cơ cấu điều chỉnh độ thăng bằng dọc của cày gồm các chi tiết 2, 3, 4 ( hình 4.18). 1.5.2. một số điểm cần lưu ý khi cày Phải đạt các yêu cầu sau: - Độ cày sâu đồng đều. - Bề rộng làm việc của xá cày ổn định. - Điều khiến nhẹ nhàng, thoải mái. 1.5.2.1. Các bước kiểm tra trước khi sử dụng: các bộ phận làm việc như trụ lưỡi diệp phải ở tình trạng tốt. Các cơ cấu điều chỉnh nông sâu, điều chỉnh bề rộng xá cày, nâng hạ cày làm việc nhẹ. linh hoạt, vững chắc. - Cày được đặt lên mặt tựa (bằng phóng) điều chỉnh cho các lưỡi nằm trên mặt tựa, chiều cao từ mũi lưỡi cày đến mặt phẳng khung bằng nhau. - Kiểm tra sự liên kết vững chắc toàn bộ cày. Sự lắp ráp giữa cày với máy kéo. 1.5.2.2 Kiểm tra sư làm việc ổn định vỉa cày ở ngoài đồng ruộng - Sau đường cắt vạt (còn gọi là chia luống) tiến hành chỉnh lại cày về độ sâu và sự ổn định ngang (bề rộng làm việc). - Nếu có hiện tượng đầu máy di chuyển về bên phải nghĩa là hướng lực kẻo của máy kéo không đi qua vết trọng tâm của cày phái điều chỉnh lại độ ổn định ngang. Tay đòn 4 dịch chuyển sang rãnh trái của tấm giẻ quạt 8. Nếu đầu máy kéo có xu hướng lệch trái phải thao tác tay đòn 4 ngược lại. 160
  26. - Điều chỉnh độ cày sâu ổn định bằng bu lông 5 (hình 4.17). - Điều chỉnh độ thăng bằng của cày đảm bảo độ sâu đồng đều giữa 2 lưỡi cày bằng cách thay đổi chiều dài L (hình 4.18). Thực tế sử dụng cho thấy đối với cày ở tình trạng kỹ thuật tốt, điều chỉnh đúng, số truyền và số vòng quay của động cơ hợp lý được thể biện ở hiện tượng là khi bỏ 2 tay máy kéo vẫn đi thẳng từ đầu đến cuối đường cày hoặc số lần điều khiển tay lái là ít nhất. - Hạn chế quay vòng gấp trên ruộng (quay tại chỗ) khỉ cày. Không để cày ở vị trí làm việc khi quay vòng (vừa quay vòng đầu bờ vừa cày lật đất). 1.5.3. Máy phay đất cỡ nhỏ 1.5.3.1. Cấu tạo Máy phay đất là công cụ làm đất thích hợp với vùng đất nhẹ, đất mầu và phù sa ven sông. Máy phay đất liên kết với máy kéo BS- 12, DF- 12, DF- 12L (Đông phong- 1) và GN-91, GN- 111 (Cao Phong 12) được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp (hình 4.20). Máy phay đất liên kết với máy kéo 6-8 mã lực do một số nhà máy cơ khí trong nước sản xuất. Máy phay đất gồm có các bộ phận sau: - Hộp số phay liên kết với bích sau hộp số máy kéo nhờ 4 bu lông. Loại phay đất do nhà máy cơ khí Hà Tây sản xuất (Công ty máy kéo và máy nông nghiệp) và của nhà máy cơ khí Thường Châu (Trung Quốc). DF-12 TDF-12L) có 2 số truyền. Còn loại phay đất do nhà máy cơ khí Quảng Tây (Trung Quốc) có 4 số truyền. - Hộp dẫn động kiểu xích kép truyền chuyển động từ trục hộp số đến trục phay. - Trục phay và lưỡi phay: Trên trục phay có giá để lắp lưỡi phay. Lưỡi phay có 2 loại: loại xoắn và loại cong. Lưỡi xoắn thích hợp với đất ruộng nước có nền, đất có độ ẩm cao. Lưỡi cong thích hợp với đất khô, đất cứng. Lưỡi phay xoắn của máy BS- 12 và Đông Phong 12 (DF- 12) có 18 chiếc (9 chiếc "phải", 9 chiếc "trái"), của máy Cao Phong 12 (GN - 91) có 16 chiếc (8 chiếc phải", 8 chiếc "trái"). Khung phay và vỏ bao ngoài phay để bảo vệ các bộ phận làm việc và an toàn cho người vận hành máy. 161
  27. - Bánh hạn chế nông sâu và ghế ngồi (hình 4.20). 1.5.3.2. Sử dụng máy phay đất * Các bước kiểm tra kể thuật đối với máy phay đất Bước 1. Kiểm tra trước khi làm việc: phải kiểm tra sự đầy đủ dầu bôi trơn ở hộp số và hộp dẫn động phay. Phay ở vị trí thăng bằng, lưỡi tỳ lên mặt nền. Nới lỏng bu lông thăm dầu hộp dẫn động 2 và bu lông thăm dầu ở hộp số 2. Nếu thấy dầu chảy ra ít nhu vậy là dầu bôi trơn không đủ. Phải nạp thêm dầu vào hộp dẫn động và hộp số. Sau đó siết chặt các chi tiết trên. - Đặt tay gài phay ở số (0) - vị trí phay không làm việc. Dùng tay để quay trục phay nhằm kiểm tra độ căng của xích đã đảm bảo yêu cầu kỹ thuật chưa. - Hướng dẫn điều chỉnh độ căng của xích phay: trục phay quay đều, êm, không có hiện tượng lúc nặng lúc nhẹ, không nghe thấy va đập ở hộp xích như vậy là xích và bánh răng ở tình trạng kỹ thuật tốt. Nếu quay trục phay thấy có hiện tượng "hẫng" và có tiếng va đập giữa xích với hộp phay, hoặc giữa xích với bánh răng cần phải chỉnh lại xích cho đúng kỹ thuật (do xích bị chùng), cách kiểm tra tương tự như kiểm tra xích xe đạp với áp và vành đĩa. Sau khi điều chỉnh xong phải kiểm tra lại cho đến khi quay đều tay và thấy êm, không có hiện tượng va đập) hoặc giật cục. - Kiểm tra sự liên kết giữa phay với máy kéo các cụm chi tiết của phay, lưỡi phay với giá bắt lưỡi phay. Nếu có hiện tượng không bình thường, không đảm bảo kỹ thuật phải sửa chữa ngay. Chỉ cho phép phay làm việc khi máy ở tình trạng vững chắc, ổn định. Bước 2. Kiểm tra phay ở chế độ chạy không tải (chạy không). Phay được kê vững chắc các lười phay cách mặt nền 10cm. Cho máy kéo làm việc ở số vòng quay thấp (600-800 v/ph). Cho phay làm việc ở chế độ chạy không, quan sát toàn bộ phay và lắng nghe tiếng gõ (va đập và rung động) chú ý hộp số, hộp dẫn động và sự làm việc của trục phay. Nếu thấy phay làm việc bình thường, tăng dần số vòng quay của động cơ máy kéo nghĩa là đưa máy phay đất về chế độ làm việc gần với thực tế. Yêu cầu phay rung đều trục phay quay ổn định, không có tiếng va đập tại hộp dẫn động và hộp số. Nếu nghe thấy tiếng va đập không bình thường phải dừng máy (giảm số vòng quay của động cơ hoặc cắt 162
  28. truyền động từ máy kéo đến hộp số) xác định nguyên nhân và thực hiện các giải pháp kỹ thuật để loại trừ những hiện tượng hư hỏng. Căn cứ vào yêu cầu nông học đối với cây trồng mà bố trí lắp lưỡi phay cho phù hợp. Có 3 cách lắp lưỡi phay xoắn. Trong sử dụng, tuỳ theo yêu cầu canh tác và điều kiện đồng ruộng mà lựa chọn tốc độ của máy kéo và tốc độ của trục phay cho phù hợp (tốc độ máy kéo càng nhỏ, số vòng quay trục phay càng lớn thì đất được phay càng tơi xốp). * Chú ý khi sử dụng. - Sau một vụ làm đất khô (khoảng 20-30 mẫu) cần kiểm tra sự ăn khớp giữa xích và cặp bánh răng tại hộp dẫn động. Khi làm việc nghe tiếng va đập kim loại giữa xích với vỏ hộp xích, tiếng va đập giật mạnh ở vùng trên và dưới hộp xích phải ngừng máy, xả hết dầu ở hộp dẫn động, tháo vỏ hộp che xích để kiểm tra vết ăn khớp giữa xích và cặp bánh răng. Nếu thấy mòn phải thay ngay. Biểu hiện của sự hao mòn là xích khi trùng khi căng, xích không "ôm" khít răng của bánh răng, xích "trèo" lên đỉnh răng v.v - Quan sát phay khi làm việc nếu thấy có hiện tượng phay bị giật, rung không đều, hoặc phay lúc bên phải bị nâng lên, lúc bên trái bị nâng lên chứng tỏ việc lắp lưỡi phay có sai sót. Có thể là các lưỡi phay không nằm trên một chiều xoắn, nghĩa là có lưỡi phay đã lắp ngược chiều quay. Phải đổi lại chiều lắp lưỡi phay. - Khi phay trên ruộng đất pha cát, đất có độ ẩm cao (mặt đất ướt, hoặc ruộng se mặt nhưng đất khi nắm chặt trong tay bị biến dạng phay ở ruộng nước cần phải lắp thêm bánh bám hoặc thay bánh lốp của máy kéo bằng bánh bám để tăng độ bám và cho máy làm việc ổn định không bị trượt). 2. HỆ THỐNG MÁY GIEO, TRỒNG, CẤY 2.1. Máy gieo hạt 2.1.1. Nhiệm vụ và yêu cầu kỹ thuật 2.1.1.1. Nhiệm vụ: máy gieo hạt có nhiệm vụ gieo hạt trên đồng với những hình thức sau (tuỳ theo loại hạt): - Vãi đều trên mặt ruộng, không lấp hoặc chỉ lấp sơ. - Gieo đều thành hàng (rộng, hẹp, chữ thập, dải) và lấp kín hạt, có nén hay không nén đất. - Gieo thành cụm (mỗi cụm 1,2 hay 3 hạt) lấp và nén đất và hạt khít chặt nhau. 163
  29. Để thực hiện việc gieo hạt máy gieo có nhiệm vụ: - Để gieo vãi máy có nhiệm vụ vung hạt đều trên đồng và cào đất lấp sơ. - Để gieo hàng máy có nhiệm vụ ra hạt, xẻ rãnh, đưa hạt xuống rãnh, lấp đất, nén hoặc không nén. - Để gieo hốc ngoài những nhiệm vụ ở máy gieo hàng, máy còn có thêm nhiệm vụ chụm 1.số hạt lại gieo xuống rãnh, nếu là Hình 4.22. Sơ đồ cấu tạo máy gieo - bón lúa gieo ở ô vuông máy còn thêm trang bị để gieo các cụm thẳng 1. Cam điều khiển nâng hạ lưỡi rạch; 2. Trục cuốn gieo thóc; 3. Trục cuốn bón phân; 4. Cần điều khiển hàng ngang. nâng hạ; 5. Ống dẫn phân; 6. Ống dẫn hạt; 7. Lưỡi rạch hành; 8. Bộ phận [ấp hạt. 2.1.1.2. Yêu cầu kỹ thuật - Máy gieo cần gieo được nhiều loại hạt khác nhau, cả về tính chất bề mặt, hình dạng và kích thước với định mức theo yêu cầu. - Máy gieo đảm bảo gieo đều trên diện tích gieo. Đảm bảo số lượng hạt trên mỗi hàng, mộc hốc, mỗi đơn vị diện tích gieo đều nhau. Độ sai lệch cho phép so với định mức không quá ± 3%; độ sai lệch giữa các hàng và các bộ phận gieo 3%. - Bộ phận rạch hàng phải rạch hàng tới độ sâu theo yêu cầu. hướng hạt tới đáy rãnh đã nén chặt và độ sâu đồng đều, lấp hạt kín bằng đất tới, nhỏ với độ dày theo yêu cầu. Độ sai lệch về độ sâu sai số cho phép không quá ± 1cm. Mặt ruộng sau khi gieo phải phẳng, độ cao các các sóng và gồ đất không vượt quá 2 - 3 cm. - Máy gieo phải đảm bảo gieo hạt với bề rộng giữa các hàng đúng quy định. Độ sai lệch cho phép không quá ± 1cm. - Máy gieo kết hợp bón phân phải rải được từ 25 - 200 kg/ha (phân vô cơ). Độ sai lệch ≤ 10%. - Máy gieo không được làm hỏng hạt và mầm hạt, có hệ thống điều chỉnh cơ học, để điều chỉnh lượng hạt gieo. độ sâu lấp hạt. Máy phải làm việc chắc chắn, an toàn, sử dụng và chăm sóc thuận tiện và hiệu quả kinh tế cao. 164
  30. 2.1.1.3. Phân loại máy gieo - Theo phương pháp gieo: máy gieo hàng, hàng hẹp, gieo dải, gieo hốc, ngắt quãng và gieo vãi. - Theo công dụng có các nhóm máy: gieo ngũ cốc, gieo cỏ, gieo hạt kết hợp bón phân và các nhóm máy khác. - Theo phương pháp liên kết với máy kéo: máy gieo móc và máy gieo treo. Hình 4.23. Sơ đồ cấu tạo máy gieo 2.1.2. Cấu tạo và hoạt động của 1. Thùng chứa hạt, 2. Bộ phận gieo; 3. Ống dẫn hạt; máy gieo 4. Bánh xe máy gieo; 5. Lưỡi rạch hàng; 6. Hệ thống lấp hạt; 7. Lò xo đè lưỡi rạch. Cấu tạo chung của một máy gieo gồm có các bộ phận: thùng đựng hạt, bộ phận gieo ống dẫn hạt, bộ phận rạch hàng, bộ phận lấp hạt, hệ thống truyền động, cần rạch tiêu, bộ phận nâng hạ, ly hợp, bộ phận vận chuyển và khung máy và các thiết bị phụ trợ. 2.1.2.1. Bộ phận gieo Là bộ phận làm việc chính - quyết định chất lượng gieo (độ gieo đều, gieo đúng lượng, an toàn hạt). * Bộ phận gieo kiểm là cuốn Cấu tạo gồm có thân là hộp gieo và phần làm việc là trục cuốn. Trục cuốn 6 có tai khế, khi trục quay những tai khế sẽ gạt hạt ra ống dẫn. Để điều chỉnh lượng hạt ra, bên phái có ống chắn che bớt phần trục tiếp xúc với hạt hoặc điều chỉnh tốc độ quay của trục cuốn. Trục cuốn có thê quay theo hai chiều khác nhau: - Gieo dưới: dùng đế gieo các loại hạt ngũ cốc, hạt rau và các loại hạt nhỏ khác. - Gieo trên: dùng để gieo các loại hạt lớn như lạc, đậu cô ve giảm sự trà sát lên vỏ hạt. * Bộ phận gieo kiểu khí động học Bộ phận làm việc chính là đĩa gieo, khi máy hoạt động, địa gieo quay, đồng thời quạt hút khí hút hết không khí trong địa ra, tạo ra khoảng chân không trong đĩa. Hạt từ thùng chứa hạt được bộ phận cấp hạt đưa tới địa. Do có sự chênh áp giữa môi trường và trong đĩa nên hạt bị ép chặt vào các lỗ hút hạt, mỗi lỗ một hạt và chuyển động quay cùng với đưa lới vị trí con lăn, con lăn bị bịt kín phía trong 165
  31. lỗ hút hạt nên hạt không bị hút nữa và rơi xuống ống dẫn hạt. Để điều chỉnh lượng hạt gieo bằng cách thay đổi số lỗ trên mỗi hàng hoặc vận tốc gieo của đĩa gieo. Bộ phận gieo này thích hợp với hạt như ngô, đỗ, lạc * Bộ phận gieo kiểu đĩa quay Đĩa quay những hạt nằm trong rãnh được đi vào dưới nắp, những hạt ngoài rãnh bị lưỡi gạt lại. Khi hại đi đến lỗ của vòng đáy bị lưỡi ấn ấn rơi xuống đất. Điều chỉnh lượng hạt gieo bằng cách thay đổi tốc độ quay của đĩa hoặc thay đổi đĩa có rãnh phù hợp với kích thước hạt. * Bộ phận gieo kiểu rung Khi làm việc, trục cam nhận truyền động từ bánh xe máy gieo sẽ làm các thanh truyền rung chuyển động dao động làm ống rung rung động, hạt từ thùng chứa rơi vào ống rung và bị rung động tới ống dẫn hại. Thay đổi lượng hạt gieo bằng cách thay đổi kích thước miệng ống rung và độ nghiêng của ống rung. - Bộ phận gieo hạt loại này có ưu điểm đảm bảo an toàn cho hạt gieo, do đó gieo các loại hạt có vỏ mỏng, dễ bị xây sắt như vừng, lạc Ngoài ra còn có loại bộ phận gieo hạt kiểu bàn chải, bộ phận gieo kiểu gầu múc 2.1.2.2. Bộ phận rạch hàng Bộ phận rạch hàng có nhiệm vụ rạch rãnh tới độ sâu quy định để hạt rơi vào đó. Bộ phận rạch hàng chia làm hai loại: rạch hàng kiểu đĩa quay và rạch hàng kiểu tịnh tiến. * Bộ phận rạch hàng kiểu đĩa quay - Bao gồm hai đĩa, hai địa lắp nghiêng với nhau một góc bằng 11- 230. Khi làm việc địa sẽ quay do tiếp xúc với đất, rạch đất và ép đất sang hai bên tạo thành rãnh. Hạt từ ống dẫn hạt rơi xuống rãnh và sau khi đĩa đi khỏi, đất lơi nhỏ lừ hai bên thành rãnh, rơi xuống lấp lên trên hạt. Để cạo sạch đất bên trong của đĩa giữa hai đĩa lắp thêm thanh gạt đất. Dưới sức ép của lò xo đĩa rạch rãnh tới độ sâu tương ứng. - Để điều chỉnh độ rạch sâu chỉ việc điều chỉnh sức nén của lò xo. - Ưu điểm: rạch rãnh sâu đều. không dính đất nên được sử dụng phổ biến. Đối với đất lẫn nhiều sỏi đá không sử dụng được, giá thành chế tạo đắt. * Bộ phận rạch hàng kiểm tịnh tiến Sử dụng phổ biến có 2 loại: bộ phận rạch hạng loại dao cong có tấm tựa và không có tấm tựa. 166
  32. - Bộ phận làm việc chính là dao rạch. Khi làm việc dao rạch chuyển động tịnh tiến trên mặt ruộng, sẽ đất ép sang hai bên tạo thành rãnh. Phía sau dao rạch có dạng lõm để lắp ống dẫn hạt bảo đảm hạt rơi xuống đáy rãnh đều đặn. Sau khi dao rạch đi khỏi, đất tơi nhỏ từ hai bên thành rãnh rơi xuống lấp hại. - Điều chỉnh độ rạch sâu bằng cách thay đổi khoảng cách giữa cạnh sác của dao rạch với bánh xe máy gieo hạt theo phương thẳng đứng. - Ưu điểm: cấu tạo gọn nhẹ. làm việc chắc chắn. dùng để rạch rãnh đất lẫn nhiều sỏi đá - Nhược điểm: hay bị dính đất nên không sử dụng ở vùng đất ẩm ướt, có độ kết dính cao, nén đất dưới đáy rãnh kém thường tạo thành những sóng đất cao. 2.1.2.3. Ống dẫn hạt Ống dẫn hạt có nhiệm vụ dân hạt từ bộ phận gieo xuống rãnh dã rạch sẵn. Yêu cầu: phải đảm bảo mềm, dẻo. không làm vướng hạt, trọng lượng nhỏ, giá thành thấp và không thay đổi hình dạng khi nhiệt độ thay đổi. Ống dẫn có các loại sau: - Loại dải xoắn có trong các máy gieo lúa. Loại này rung động tết, co dãn tết, nhược điểm là khó sửa chữa. - Loại ống cao su gấp nếp: loại này kém rung hơn so với, loại dải xoắn. Ưu điểm không bị phân hoá học làm hỏng nên thường dụng làm ống dẫn phân hoá học. - Loại phễu chồng lên nhau: rung kém hơn loại dải xoắn. Nhưng hỏng dễ sửa chữa bằng cách thay phễu, dùng làm ống dẫn phân hoá học. Ngoài ra có loại ống cao su, ống tôn, ống lồng, những loại này không đảm bảo yêu cầu nên ít dùng. 2.1.2.4. Bộ phận lấp hạt - Nhiệm vụ: lấp hạt đã gieo với độ dày theo yêu cầu nhằm giữ ẩm cho hạt và tránh bị chim, chuột phá hoại. - Các biện pháp lấp hạt thường sử dụng: nếu loại hạt đất không cần nén thì dùng xích lấp hạt. Nếu loại hạt cần nén lớp đất phía trên hạt thì dùng bánh xe lấp hạt hoặc thanh gạt đàn hồi. 2.1.2.5. Hệ thống truyền động * Nhiệm vụ: truyền động từ bánh xe máy gieo tới trục của bộ phận gieo, hệ thống nâng hạ lưỡi rạch hàng và ngắt chuyển động của trục bộ phận gieo khi máy vòng đầu bờ. 167
  33. * Cấu tạo: gồm hệ thống truyền động bánh răng và truyền động xích để đảm bảo thay đổi được tỉ số truyền cho trục của bộ phận gieo nhằm đảm bảo định mức gieo của máy. Trên hệ thống truyền lực phải có một ly họp riêng để ngắt mômen quay khi di chuyển và khi quay vòng đầu bờ. 2.1.2.6. Cần rạch tiêu Dùng để rạch đường tiêu làm đường chuẩn giúp cho người lái máy đi đúng đường, đúng khoảng cách quy định cho lượt làm việc kế tiếp. 2.2. Máy trồng cây non 2.2.1. Nhiệm vụ phân loại, yêu cầu kỹ thuật nông học 2.2.1.1. Nhiệm vụ: máy có nhiệm vụ rạch đất thành rãnh, tiếp theo guồng đưa cây nhả cây xuống rãnh đất sau đó bộ phận lấp sẽ nén đất từ hai phía lại và tưới nước cho cây. 2.2.1.2. Phân loại: hiện nay có các loại máy trồng cây non có bầu hoặc không có bầu đất. máy trồng cây theo hàng, theo hình chữ nhật, theo ô vuông 2.2.1.3. Yêu cầu kỹ thuật nông học: máy phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Trồng đúng mật độ, khoảng cách hàng khoảng cách giữa các cây trong hàng đúng theo quy định. - Trồng đúng độ sâu quy định. - Sau khi trồng cây đứng tự nhiên, rễ cây không gập gãy, thân lá không bị vùi lấp hoặc giập nát. - Lấp nén và tưới nước vừa đủ cho cây tuỳ thuộc loại cây và điều kiện đồng ruộng mà sai lệch về khoảng cách hàng, khoảng cách cây trong hàng, độ trồng sâu mức nước lưới và độ nghiêng cây phái nằm trong giới hạn thích hợp. 2.2.2. Cấu tạo và hoạt động của máy Máy gồm có các hệ thống làm việc như sau: bộ phận chứa cây, bộ phận đưa cây bộ phận tạo rãnh, bộ phận lấp đất vào gốc cây, hệ thống tưới nước, hệ thống truyền lực và di động, hệ thống các bộ phận kiểm tra và điều chỉnh, hệ thống cần chỉ tiêu, khung và bộ phận nối với máy kéo. a. Cơ cấu trồng cây Nhiệm vụ của máy trồng cây con là đưa cây con hoặc bầu đất có cây con xuống rãnh đúng chiều (rễ xuống dưới, ngọn lên trên) mà rãnh đã được rạch sẵn 168
  34. bởi lưỡi rạch. Nguyên tắc làm việc của cơ cấu trồng cây trong các máy này thường dùng loại đĩa - tay kẹp, hay cơ cấu sai tâm (cơ cấu hình thang lệch tâm) (H.4.24). Ở đây, Vp là tốc độ của bộ phận kẹp cây và Vs là tốc độ liên hợp máy. Cây con được đưa vào cơ cấu kẹp cây lừ vị trí P tới vị trí 0 và chuyển động với vận tốc Vp ở điểm 0 tay kẹp nhả cây và được bộ phận lập nén đẩy đất vào rãnh đã rạch để giữ cây thẳng đứng. Tốc độ Vs và Vp nói chung tương đương. Người ta có thể điều chỉnh được vị trí của điềm 0 tùy theo độ trượt của máy khi đi chuyển vì độ cứng của đất thay đổi thì độ ổn định của máy cấy trồng có bị ảnh hưởng. b. Lưỡi rạch hàng và bộ phận lấp Giống như nhiệm vụ của lưỡi rạch hàng ở máy gieo hạt, lưỡi rạch ở máy trồng cây cũng tạo ra những rãnh sâu tùy theo yêu cầu của cây trồng được đem đặt vào rãnh. Đối với cây con không có bầu đất, lười rạch đào sâu 5-8 cm: còn khi có bầu đất thì phải cần rạch sâu 8-12 cm. Việc điều chỉnh độ sâu có thể áp dụng giống như ở máy gieo. Bộ phận lấp cây khác với ở bộ phận lấp hạt trên máy máy gieo là được bố trí sát ngay với điểm 0 (H.4.25). Vì nếu không có sự tác động ngay có thể làm cho cây ngả về phía trước hoặc về phía sau. Ở hình 5.3 cho thấy việc sử dụng hai bánh xe có tác dụng nén, lấp đất cho cây con khi đặt cây con xuống rãnh. Các loại bánh xe nén đất này có đường kính 400- 450 mm. Áp lực đè xuống của các bánh xe này phụ thuộc vào khối lượng của nó. Đôi khi người ta dùng thêm cả các lò xo để tăng thêm áp lực của bánh xe lên đất. Tùy thuộc vào bộ rễ của cây con mà người ta lựa chọn prôphin của bánh xe nén đất. Người ta hay sử dụng loại bánh xe hình trụ (H.4.25A). Độ sâu mà vành ngoài của bánh xe ấn xuống được gọi là h và vành trong là h1. Từ đó cho thấy lực nén ép đất cạnh gốc cây là nhỏ. Để sự phân bố lực nén đều hơn, người ta bố trí loại bánh xe kiểu nón cụt (H. 4.25B). Với kết cấu kiểu này độ nén đất phân bố đều xung quanh rễ cây con. Prôphin của bánh xe lấp đất phù hợp nhất có dạng như ở hình 4.25.E. Nếu điều chỉnh thích hợp độ sâu h2 thì phần đường cong 1-2 sẽ tạo ra lực nén đất đều đặt quanh bộ rễ của cây con được trồng. Các hệ thống,truyền lực, hệ thống phụ trợ như nâng hạ có kết cấu giống như máy gieo hạt. Máy di chuyến tựa trên hai bánh xe có mấu bám, đây là nơi truyền mômen 169
  35. quay cho các hệ thống làm việc của máy. Mômen quay của bánh xe được truyền đến các guồng đưa cây và xích kiểm tra qua bộ truyền bánh răng côn và hộp vi sai. cặp bánh ma sát và các bộ truyền xích. Vận tốc quay của guồng đưa cây được điều chỉnh bằng cách thay đổi tỷ số truyền của cặp bánh ma sát, để điều chỉnh ta quay vô lăng để bánh ma sát bị động dịch vào gần hoặc xa tâm bánh ma sát chủ động. Cần rạch tiêu có tác dụng giúp cho người điều khiển máy lái đúng khoảng cách với hàng cây trồng trước để đảm bảo khoảng cách cây trên các hàng đúng quy định. 2.3. Máy cấy lúa 2.3.1. Nhiệm vụ phân loại, yêu cầu kỹ thuật 2.3.1.1. Nhiệm vụ: máy có nhiệm vụ cấy cây mạ đến độ sâu cần thiết theo hàng thành từng khóm, mỗi khóm có một số dành mạ nhất định thích hợp với từng giống lúa. 2.3 1.2 Phân loại: hiện nay có các loại máy cấy như máy cấy mạ thảm, máy cấy mạ dược, mạ khay, máy cấy dạng kẹp cấy, dạng chải cấy, máy cấy thủ công, máy cấy tự chạy, máy cấy liên hợp với máy kéo. 2.3.1.3 Yêu cầu kỹ thuật - Mật độ cấy đều và đúng quy định (đảm bảo khoảng cách hàng, khoảng cách khóm, số dành mạ trên môi khóm, tỷ lệ khóm thích hợp). - Cấy đúng độ sâu quy định. - Cây mạ sau khi cấy phải thẳng đứng, gọn khóm, vững gốc, an toàn mạ. - Máy cơ động tốt trên ruộng bùn nước. 170
  36. - Máy phải dễ sử dụng, năng suất cao. 2.3.2. Cấu tạo và hoạt động của máy cấy Nhìn chung với các loại máy cấy cân phái có các hệ thống làm việc như: thùng chứa mạ, bộ phận cung cấp dọc và cung cấp ngang, bộ phận cấy bộ phận di động, cần rạch tiêu, hệ thống truyền lực. Hình 4.28. Cấp tạo của máy cấy tự hành 1. Động cơ; 2. Phần gá khay chứa mạ; 3. Phanh hãm; 4. Ly hợp; 5. Tay điều khiển: 6. Tay ly hợp chuyển hướng; 7. Khớp mở bộ phận cấy; 8. Khay mạ; 9. Tay đòn bộ phân cấy; 10. Thiết bị dẫn hướng; 11. Bánh xe; 12. Phao; 13. Tay cấy 171
  37. - Thùng chứa mạ phải chứa được một lượng mạ nhất định phù hợp với dạng mạ và phải đảm bảo cho sự lấy mạ được dễ dàng không bị rối. Máy cấy mạ dược thường dùng loại thùng chứa mạ có thành thùng cao, máy cấy mạ thảm sử dụng máng chứa mạ thành thấp. Thùng hoặc máng chứa mạ có thể chia thành nhiều ngăn phù hợp với số hàng cấy. Hình 4.29. Sơ đồ và quỹ đạo tay cấy - Bộ phận cuộc, cấp gồm 2 hệ thống của máy cấy tự hành với nhiệm vụ đưa mạ đến điền vào chỗ 1. Chốt quay; 2. Cam; 3. Lò xo; 4. Tay cấy; mạ bị lấy khuyết đi sau mỗi lần bộ phận 5. Bu lông; 6. Kẹp cấy; 7. Tay đẩy mạ cấy lấy đi một khóm mạ để cấy. Hệ thống cung cấp ngang có nhiệm vụ dịch chuyển thùng chứa mạ theo chiều ngang (vuông góc với chiều tiến của máy). Khoảng dịch chuyển ngang sau mỗi lần lấy mạ gọi là độ cung cấp ngang, độ cung cấp ngang phải phù hợp với bề rộng lấy mạ của bộ phận cấy, nó ảnh hưởng đến số mạ trong một khóm. Sau một lần lấy mạ nhất định, hàng mạ ở phía cửa giáp thành thùng phía cửa ra mạ sẽ bị lấy hết, hàng khuyết này sẽ được bù lại nhờ hệ thống cung cấp dọc. Tiếp theo đó thùng chứa mạ sẽ dịch chuyển theo hướng ngược lại. Để dịch chuyển thùng mạ một cách đều đặn và tuần hoàn qua lại có thể sử dụng bộ phận truyền động dạng chốt - trục rãnh xoắn hai chiều, thanh răng - cung vít đảo chiều hoặc thanh răng ngón đẩy. Hệ thống cung cấp dọc có nhiệm vụ dồn mạ theo hướng vuông góc với hướng cung cấp ngang (theo chiều tiến của máy). Hệ thống cung cấp dọc có thể sử dụng thanh gỗ đè mạ thùng từ trên xuống hoặc dùng ngón đẩy hoặc dùng các bánh sao đẩy mạ lắp ở dưới đáy thùng. - Bộ phận cấy có nhiệm vụ lấy mạ từ thùng chứa, đưa mạ xuống bùn và đặt mạ ở đó, bộ phận cấy cần lấy đúng số dành mạ cấy thành khóm gọn, đúng độ sâu, bảo đảm đứng cây vững gốc và an toàn mạ. Bộ phận cấy có hai loại là kẹp cấy và chải cấy: bộ phận kẹp cấy gồm hai má kẹp làm việc theo nguyên tắc kẹp nhả. Bộ phận cấy loại này gồm hai má kẹp một má cố định và một má di động, các má kẹp có thể được lắp trên các thanh kẹp hoặc lắp trên các đĩa kẹp trong quá trình làm việc má kẹp xoay tròn (với loại lắp trên đĩa) hoặc quay một góc nhất định xuống ruộng sau đó bật lên (với loại lắp trên thanh kẹp). Khi làm việc các má kẹp đi vào cửa lấy mạ ở trạng thái mở sau đó răng di động được điều khiển ép vào răng cố định để kẹp một số cây mạ nhất định, giữ cây mạ quay xuống mặt ruộng đưa cây mạ xuống bùn đến một độ sâu nhất định thì răng di động tách khỏi má cố định. Độ mở rộng của má kẹp hoặc độ kẹp chặt cần phải diều chỉnh được để thay đổi số lượng mạ trên khóm và không ép dập thân mạ. Bộ phận cấy loại chải lấy mạ ra 172
  38. khỏi thùng và kẻo mạ xuống bùn nhờ răng chảy có móng nhọn lắp trên thanh ngang. Khi lấy mạ răng chải thò qua cửa lấy mạ cào mạ ra, phối hợp với răng chải là ngón vuốt và máng đỡ để giữ cho khóm mạ không bị xoè rộng và chân mạ không bị xô lệch trong quá trình đưa mạ xuống bùn. Trong quá trình lấy mạ và đưa mạ xuống ruộng, răng chải đi theo một quỹ đạo nhất định nhưng khi mạ đã ở độ sâu cán thiết trước khi rút lên răng chải được thả lỏng để không kẻo cây mạ lên và không cào theo bùn ảnh hưởng đến độ vững của cây mạ. Tần số làm việc của bộ phận cấy phải đồng bộ với tốc độ tiến của máy để khoảng cách khóm đều nhau, để thay đổi khoảng cách khóm trên hàng ta thay đổi tần số làm việc của bộ phận cấy so với lốc độ tiến của máy. Bộ nhận di chuyển của máy phải đảm bảo cho máy tiến với vận tốc đều và giữ cho máy nằm ngang ở vị trí ổn định so với mặt bùn để cấy sâu đều giữa các hàng lúa. Bánh xe chủ động của loại máy cấy tự chạy thường có cánh rộng bản và nghiêng một góc nhất định so với hướng kính đảm bảo chuyển động đều và êm dịu, lực cản nhỏ. Phải đảm bảo trọng lượng bám cho bánh xe chủ động trong điều kiện mức bùn thay đổi thì máy mới tiến đều, giữ đúng mật độ cấy. Phao trượt có tác dụng đỡ một phần trọng lượng của máy giúp cho máy thăng bằng, ổn định độ sâu cấy và giảm lực cản di động của máy. Khi thay đổi chiều cao của phao trượt sẽ thay đổi độ sâu cấy. các phao trượt có thể làm bằng gỗ nhẹ hoặc bằng nhựa, có thể làm một phao chung cho toàn bộ máy hoặc lắp nhiều phao riêng rẽ. Phao thường láp khớp với khung máy để tiện nâng hạ thay đổi độ sâu cấy. - Hệ thống truyền động có nhiệm vụ truyền mômen quay đến bánh xe chủ động và các hệ thống làm việc khác. Cần rạch tiêu có nhiệm vụ vạch xuống mặt đồng một vết để dẫn hướng cho đường chạy kế tiếp của máy. 3. MÁY CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ CÂY TRỒNG 3.1. Máy xới, làm cỏ 3.1.1. Nhiệm vụ, yêu cầu kỹ thuật nông học * Nhiệm vụ: + Đối với ruộng nước: - Diệt cỏ dại để giữ màu cho cây trồng phát triển. - Sục bùn, làm nhuyễn đất, làm thoáng, tăng dưỡng khí, thải khí độc, xáo trộn phân, làm đứt một số rễ gây kích thích phát triển rễ mới tăng cường hút thức ăn, xúc tiến đẻ nhánh. - Vun gốc, bón thúc nếu cần. + Đối với ruộng khô: - Diệt cỏ dại, sâu bệnh, giữ ẩm cho đất, phá váng, khôi phục kết cấu cho đất, vun gốc và bón thúc nếu cần. 173
  39. * Yêu cầu kỹ thuật nông học: + Đối với ruộng nước: - Làm nhuyễn tốt, đảm bảo độ sâu độ nhuyễn đều. - Diệt sạch cỏ. - Không làm hỏng cây. + Đối với ruộng khô: - Làm tơi đất tốt, đảm bảo độ xới sâu, xới lần đầu độ sâu 4-6 cm, lần sau sâu 10 - 12 cm và xới sâu đều (sai lệch so với độ sâu quy định không quá 1cm). - Không xáo trộn đất làm mất ẩm (trừ trường hợp vun gốc xẻ rãnh). - Không làm hỏng cây. Để tránh làm hỏng cây, khi lắp bộ phận làm việc cần chú ý chừa vùng bảo vệ. Vùng bảo vệ tuỳ thuộc loại cây và lần xới mà có khác nhau. Ví dụ đối với ngô xới lần đầu vùng bảo vệ kiểm, lần 2: 12 cm lần 3 là 15 cm. 3.1.2. Một số công cụ và máy xới cỏ tiêu biểu a. Xới cỏ cải tiến đẩy tay Hình 4.30a. Xới cỏ đẩy tay (một hàng) Hình 4.30b. Sới cỏ đẩy tay (2 hàng) Được cải tiến từ xới cỏ đẩy tay 64A của Nhật có nhiệm vụ xới cỏ làm nhuyễn đất, xáo trộn phân giữa các hàng lúa nước. Cấu tạo gồm các bộ phận chính sau (hình 4.30a): - Cán làm bằng gỗ gồm tay cầm 1, cán dọc 2 được nối liền với khung cào 3 và bộ phận điều chỉnh 10. Bộ phận điều chỉnh 10 để nâng hạ tay cầm 1 phù hợp độ cao người sử dụng. Khung làm bằng thép gồm 2 tay có 3 và 2 thanh dọc 4. Khung được liên kết với trống răng nhờ ổ trượt, với cán và thuyền trượt bằng bu lông. 174
  40. - Trống răng là bộ phận làm việc chủ yếu gồm 2 trống trước 5 và sau 6. Răng cào 7 làm bằng thép uốn cong theo hình lòng máng, răng trống trước nhỏ và nhọn, máng trống sau to và dẹt hơn. - Trống trước gồm 6 hàng răng, ba hàng có bốn răng, ba hàng có 5 răng. Các hàng răng lắp xen kẽ với nhau theo hình nanh sấu. - Trống sau gồm 6 hàng răng mỗi hàng có 4 răng, không lắp so le. - Thuyền trượt 9 làm bằng thép đi trước lướt trên mặt ruộng giới hạn độ xới sâu và ép đất sang hai bên vun vào gốc lúa. - Điều chỉnh nông sâu bằng cách thay đổi độ cao của đáy thuyền trượt với khung. Nếu độ cao càng lớn thì xới càng nông và ngược lại. Nguyên tắc làm việc: trống răng tự quay xung quanh trục cố định, khi quay lưng răng ép lên bùn làm nhuyễn, không quấn cỏ rác vào răng Điều kiện sử dụng tốt nhất là chân ruộng đất thịt trung bình và nhẹ, nước liền bùn, ít cỏ rạ, mực nước từ 10 cái trở xuống, ruộng cây thẳng hàng. Khi làm việc, đẩy dụng cụ tiến về phía trước 2 bước, kẻo lùi 1 bước thì đất nhuyễn hơn. b. Các loại máy xới cỏ có động cơ: Hiện nay tại Nhật Bản đã sản suất một số loại máy xới cỏ tự hành hoặc máy xới cỏ treo sau máy kéo (hình 4.31.). Nhìn chung các loại máy xới này có kết cấu bao gồm các bộ phận sau: Bộ phận làm việc chính gồm trống xới và các hàng răng xới: trống xới được thiết kế theo hai dạng trống xới bao gồm các thanh thép nhỏ Ф 4 - 5mm2 được hàn song song với nhau tạo thành trống có dạng hình trụ với bề rộng nhỏ hơn khoảng cách hàng lúa (H.31b). Mỗi trống được lắp trên các ổ bi hoặc bạc ở hai đầu để liên kết với trụ đỡ trống, khi làm việc trống sẽ lăn trên mặt đất, mỗi trống sẽ xới cỏ ở khoảng cách giữa hai hàng lúa. Kết hợp với trống xới có các địa lưỡi xới bao gồm các lưỡi 175
  41. phay soạn nhỏ lắp trên đĩa. Các địa lưỡi được lắp nghiêng so với phương thẳng đứng một góc tuỳ thuộc vào loại đất khô hoặc ướt, khi làm việc các đĩa lưỡi quay với một tốc độ nhất định tuỳ theo tốc độ làm việc của máy. Loại máy xới này có thể sử dụng để xới cả đất khô và ruộng nước. Loại máy xới cỏ chuyên dùng cho làm cỏ ruộng nước có bộ phận xới dạng trống bao gồm các răng sới lắp thành trống hoặc thành dạng đĩa với bề rộng của trống xới nhỏ hơn khoảng cách giữa các hàng lúa. Mỗi máy có số lượng địa hoặc trống xới tuỳ thuộc vào số hàng làm việc, khi làm việc các đỉa hoặc trống xới nhận mômen từ động cơ và quay với một tốc độ nhất đinh (H. 31a,c). Ngoài ra trên một số loại máy xới cỏ có bố trí thêm các hàng răng xới (từ 1-3 hàng), các hàng răng lắp trên các thanh răng. khi làm việc các thanh răng được truyền mômen quay từ động cơ qua cơ cấu truyền động và dao động lắc ngang để xới cỏ ở hàng ngang của cây lúa (H. 31a). 3.1.3. Máy xới chăm sóc ruộng khô Hiện nay ở nước ta có máy xới chăm sóc ở ruộng khô như xới cho ngô, bông, lạc, rau xới ở vườn cây ăn quả, cây nông nghiệp. Những máy chăm sóc ở ruộng khô thường là máy xới bón làm việc giữa hàng vừa xới vừa bón thúc. Do đó trên máy xới có trang bị thêm hệ thống bón phân hoá học. Tất nhiên nếu ta chỉ cần xới không bón cũng được. Một máy xới nói chung gồm có khung chính tựa trên hai bánh xe, trên đó lắp các bộ phận phục vụ cho việc xới bón. Tuỳ theo cách lắp các bộ phận làm việc lên máy, tuỳ theo loại bộ phận lắp lên máy mà máy xới đó có các chức năng khác nhau. Vì thế trước khi nghiên cứu một số máy xới tiêu biểu, ta nghiên cứu các bộ phận làm việc của nó. a. Bộ phận làm việc + Bộ phận làm việc phần xới: máy xới chăm sóc ở đồng ruộng khô thường là máy xới lưỡi Bộ phận làm việc chính là lưỡi xới, lưỡi xới có các loại chính sau. - Lưỡi nạo: một phía, hai phía (mũi tên thẳng). - Lưỡi xới tơi: mũi tên vạn năng, mũi đục, mũi nhọn. - Lưỡi xới vun. Lưỡi nạo một phía gồm cánh và má, bề rộng làm việc từ 73 - 182 tâm, góc γ là góc giữa cạnh sắc và hướng chuyển động nằm trong khoảng 28 - 32 độ. Độ dày của cạnh sắc nhỏ hơn 0,4mm. Lưỡi nạo một phía có lưỡi nạo phía phải, lưỡi nạo phía trái dùng để nắp vào máy xới xới lần đầu, nó nạo lớp cỏ non có độ sâu từ 4-6 cái. Má lưỡi xới giữ không cho đất lấp cây con. Người ta dùng lưỡi nạo một phía để tỉa cây tạo khóm. 176
  42. Lưỡi nạo hai phía còn gọi là lưỡi mũi tên phẳng. Bề rộng làm việc từ 145-330 tâm góc doãng γ = 60 - 700, góc nâng α và góc nghiêng β. Loại lưỡi này cũng dùng để xới cỏ lần đầu có độ sâu từ 4-6mm thường lắp cùng với lưỡi nạo một phía. Lưỡi mũi tên vạn năng. Loại này có khả năng cắt lớp đất cỏ đồng thời làm tơi. Về cấu tạo nó gần giống mũi tên phẳng, nó chỉ khác ở chỗ sống lưỡi dốc hơn, cánh lười nghiêng hơn, nhờ vậy nó làm tơi tốt hơn. Người ta thường dùng nó để xới toàn bề mặt cũng như xới lần hai giữa hàng cây, nó có thể xới sâu từ 8-12cm. Bề rộng làm việc 220 - 385mm. Lưỡi mũi đục có bề rộng làm việc 20mm dùng để xới tơi giữa hàng cây. Độ xới sâu đến 16 cm. Thường xới lần hai, lần ba khi hệ thống rễ cây trồng đã ăn sâu. Lưỡi mũi nhọn có bề rộng làm việc 45-55 lạm có loại có một đầu nhọn, có loại có hai đầu nhọn. Có hai đầu nhọn phòng khi đầu nảy cùn ta trở đầu kia. Lưỡi này có thể lắp vào trụ cứng hoặc trụ lò xo. Loại lắp vào trụ cứng có thể xới sâu tới 25cm. Loại này trang bị ở các máy xới làm vườn, xới bông Loại lắp vào trụ lò xo có thể xới sâu lới 12cm trang bị ở máy xới làm nhiệm vụ chung, diệt có dại lâu năm. Lưỡi xới vun gồm có một mũi 1, hai diệp 2 bên và hai cánh 3. Đất do mũi 1 làm tơi, được nâng lên trên diệp và cánh, đổ nó sang hai bên. Tuỳ theo độ sâu làm việc và khoảng cách giữa hàng mà ta điều chỉnh cánh cho phù hợp. Lưỡi này sẽ xới đất giữa hai hàng cây vun vào gốc cây tạo điều kiện cho cây phát triển rễ làm cây vững chãi, nếu loại cây lấy củ nó tạo điều kiện phát triển củ. Lưỡi xới lắp lên khung máy xới có nhiều cách khác nhau. - Lắp cứng với khung. - Lắp khớp với khung đáp khớp có thể là lắp cương treo riêng, trên cương treo từng nhóm lưỡi, hoặc trên nhánh cơ cấu bình hành). Đối với máy xới chăm sóc thường lắp khớp trên cương Hình 4.32. Một nhánh của máy sới treo từng nhóm lưỡi, hoặc trên nhánh cơ cấu bình hành, phổ 1. Giá đỡ trước; 2. Nhánh điều chỉnh; 3. Thanh kéo khi vận chuyển; 4. Giá đỡ sau; 5. Ngàm; biến rộng rãi là lắp khớp trên 6. Cái lắp lưỡi sau; 7 Cái lắp lưỡi hai bên; nhánh cơ cấu bình hành, ví dụ ở 8. Lưỡi sau; 9. Thanh ngang; 10. Thanh dọc; máy KPH-4,2, KPH-2,8 11. Bánh tựa; 12. Nhánh dưới của cơ cấu hình bình hành. 177
  43. Hệ thống cơ cấu bình hành cho phép bánh tựa 11 lượn tốt theo mặt đồng và do đó lưỡi xới cũng đảm bảo xới sâu đều theo mặt đồng. Trên thanh dọc 10 lắp những cái lắp lưỡi xới 6 và7 ở đây lưỡi có thể lắp cao thấp theo độ sâu đã định. Cái lắp lưỡi xởi 7 có thể xê dịch trên thanh ngang 9, nhờ thế lưỡi có thể lắp phù hợp với khoảng cách giữa các hàng cây. Để lưỡi xới làm việc tốt cạnh súc phải nằm ngang hoặc hơi chúi đầu xuống một chút. Nhánh điều chỉnh 2 sẽ giúp ta thoả mãn yêu cầu đó. Nếu lưỡi xới bị ngược lên ta thu ngắn nhánh 2 lại và nếu lưỡi xới bị chúc quá ta nới dài ra. b. Bộ phận bón phân: Ở máy xới chăm sóc thường kèm theo hệ thống bón phân hoá học. Bộ phận bón phân: thường là loại AT-2 được truyền động từ bánh xe máy xới đến. Khả năng bón 100-600kg/ha. Ống dẫn phân: phổ biến loại phễu chồng lên nhau. Nó đảm bảo rung động thu ngắn, nới dài được và đồng thời cũng đảm báo vững chắc chống gỉ tốt, nếu hỏng (từng phễu riêng) có thể sửa chữa dễ dàng. Lưỡi rạch để bón phân: nó gồm có trụ 2, lưỡi mũi đục 1 và phễu 3. Khi máy làm việc lưỡi rạch bón phân được lắp trước và sâu hơn lưỡi xới. Lưỡi xới vun bón phân gần giống như lưỡi xới vun thường, nhưng có thêm hai phễu dẫn phân vào giữa rãnh. 3.2. Công cụ và máy phun thuốc trừ sâu bệnh 3.2.1. Khái niệm chung 3.2.1.1. Các phương pháp trừ sâu bệnh Hiện nay có nhiều biện pháp để phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại như: phun thuốc bột hoặc thuốc nước. khử trùng hạt giống, bơm thuốc vào đất và phun mù. * Phun thuốc' nước: thuốc hoá học được hoà với nước theo một tỷ lệ nhất định để có dung dịch thuốc với nồng độ quy định cho mỗi loại thuốc sau đó dùng máy phun thành bụi sương, phủ lên cây trồng một lớp thuốc mỏng. Chi phí chất lỏng cho phương pháp phun thuốc này nằm trong khoảng 25 - 3000/ha. Máy sẽ phun được một hay nhiều loại thuốc phối hợp tuỳ theo yêu cầu diệt sâu bệnh. Dùng máy phun thuốc nước sẽ tiết kiệm hoá chất và đảm bảo vệ sinh cho người sử 178
  44. đụng nhưng kết cấu nặng nề, cồng kềnh, tốn nhiều năng lượng cho quá trình phun, thuốc khó vào kẽ lá, kẽ cây nên khó diệt được hoàn toàn sâu bệnh, độ bền của thuốc không cao. * Máy phun thuốc bột: chất hoá học ở dạng bột được phun thành bụi bám vào bề mặt của cây trồng một lớp thuốc rất mỏng. Quá trình phun nhẹ nhàng hơn phun thuốc nước, chi phí năng lượng thấp hơn, công chuyên chở thấp hơn tuy nhiên phương pháp này tốn thuốc hơn (hao phí thuốc tăng cao gấp 4 - 6 lần). không làm phun được khi có gió mạnh, bẩn, mất vệ sinh. Để cho thuốc bám vào mặt cây tốt và giữ được lâu người ta phun bột ẩm nghĩa là phun thuốc bột kết hợp với thuốc nước hoặc dầu mỏ. Trong trường hợp này chi phí chất lỏng chiếm khoảng 25 - 100% khối lượng chất hoá học khô nhờ thế mà có thể tiết kiệm được từ 40 - 50% chất hoá học. * Phương pháp phun mù: phun dung dịch ở dạng sương mù đọng lại trên cây trồng, tường nhà, trại chăn nuôi Phương pháp này có Ưu điểm là chất lượng làm việc cao, năng suất lớn, chi phí lao động ít. Để giảm tốc độ bốc hơi người ta thường phun kèm với các loại dầu hoả có nhiệt độ đôi cao như dầu điêzen, dầu sông Mức chi phí dung dịch lúc phun ngoài đồng 5 - 10/ha, lúc phun trong vườn là 8 - 25/ha. Phương pháp này sử dụng máy phát tạo nên luồng sương mù nhân tạo bằng cách sử dụng luồng khí nóng chuyển động với vận tốc lớn. * Bơm khí độc hoặc hun khói độc: phương pháp này sử dụng hơi độc hoặc đốt các chất độc tẩy trùng các kho chứa, nếu diệt sâu ở trên cây phải dùng chụp để chụp kín cây trồng. Ngoài ra người ta cũng có thể tiêm các chất lỏng độc dễ bay hơi xuống đất xung quanh gốc cây cho thuốc bốc hơi diệt sâu trong đất. * Khử trùng hại giống: có thể chủ động trừ mầm mống sâu bệnh, nấm bệnh của hạt giống bằng các phương pháp khác nhau như trộn thuốc bột vào hạt giống, ngâm hạt giống trong dung dịch thuốc hoặc phun thuốc thành nhiều tia nhỏ qua lớp hạt giống. * Vãi bả độc: bả độc được chế bằng nhiều loại nguyên liệu khác nhau như khô dầu, vỏ hạt bông, cám, cỏ khô và những thân cây tươi, đem trộn với thuốc bột rồi rải trên đồng ruộng, xung quanh gốc cây để trừ các loại sâu bọ, chồn chuột Tuy nhiên khi dùng thuốc phòng trừ sâu bệnh thì cũng sẽ hại chết các loại côn trùng có ích và dư lượng thuốc có thể ảnh hương đến sức khoẻ cửa người: nên hiện nay người ta thường dùng các loại thuốc vi sinh vật để trừ những côn trùng có hại. Thuốc phòng trừ sâu bệnh có nhiều loại khác nhau như thuốc tác dụng qua da, tác dụng qua đường ruột, thuốc tác dụng hỗn hợp và thuốc trừ nấm bệnh. 3.2.1.2. Kỹ thuật an toàn khi phun thuốc 179
  45. a. Chọn thời điểm phun thuốc - Cần phun thuốc vào thời điểm thích hợp nhất để tác dụng của thuốc mạnh nhất, không phun thuốc khi cây đang ra hoa vì làm hư hỏng hoa và làm các côn trùng có lợi cho quá trình thụ phấn bị chết dẫn đến việc thụ phấn không hoàn hảo. - Cần chọn thời điểm phun thích hợp trong ngày, tránh phun vào thời điểm nắng nóng hoặc trước khi trời mưa hoặc khi có sương với loại thuốc nước để dẫn đến khả năng tăng hay giảm nồng độ thuốc. Với thuốc bột thì tránh phun khi trời có gió, nên phun khi trên lá cây có sương để thuốc bám được tốt hơn. b. Các quy tắc an toàn lao động: Phải kiểm tra kỹ tình trạng kỹ thuật của thiết bị trước khi sử dụng. - Khi phun thuốc nước thì cần phải lọc kỹ trước khi nạp vào bình để tránh hư hỏng máy khi đang làm việc. Khi pha chế thuốc và nạp thuốc vào bình cần tránh xa nguồn nước và phải ngồi hoặc đứng trên hướng gió. - Người phun thuốc phải được tập huấn kỹ thuật. về quy trình sử dụng, kỹ thuật an toàn lao động, hiểu được tính năng của loại thuốc phun. - Không cho phép phụ nữ đang mang thai và trẻ em dưới 16 tuổi đi phun thuốc. - Người phun thuốc phải có đáy đủ trang thiết bị bảo hộ lao động như kính, mũ, quần áo, găng tay ủng và mặt nạ phòng độc. Sau khi phun thuốc xong phải thay ra ngay tắm rửa kỹ trước khi làm việc khác. - Không ăn uống, nói chuyện hút thuốc khi làm việc tại khu vực phun thuốc. - Phải cắm biển báo để cấm người và gia súc vào khu vực phun thuốc trong khoảng thời gian quy định với mỗi loại thuốc. - Khi phun phải di chuyển ngang và ngược với hướng gió để tránh thuốc tạt vào người. - Phải chấm dứt phun thuốc trước thời vụ thu hoạch đúng thời gian quy định để tránh gây ngộ độc cho người và gia súc. Nếu phun thuốc bội phải mang thuốc ra ruộng rồi mới nạp vào máy để tránh lắng thuốc khi di chuyển. - Khi phun thuốc nếu thấy luồng thuốc phun ra không đều, bị ngắt quãng thì phải ngừng phun để kiểm tra máy, khi phun thuốc phải di chuyển với tốc độ đều, giữ khoảng cách từ vòi phun đến cây trồng đều để đảm bảo nồng độ thuốc phun. - Sau khi phun xong phải đổ thuốc thừa và gom dụng cụ chứa thuốc vào nơi quy định (chôn sâu tối thiểu 25cm). Rửa sạch cả bên trong và phía ngoài bình chứa thuốc trưa bên trong bình bằng cách phun nước sạch trong một thời gian nhất 180
  46. định), bôi dầu mỡ vào những nơi cần hảo dưỡng, cất máy vào nơi quy định. - Kho chứa thuốc phải đặt biệt lập cách xa khu có người ở, cách xa chuồng trại chăn nuôi, xa kho chứa lương thực thực phẩm. 3.2.2. Các loại máy phun thuốc 3.2.2.1. Phân loại và yêu cầu kỹ thuật a. Phân loại + Theo đặc điểm kỹ thuật: - Loại mang: có kích thước bé vừa với sức người sử dụng có trang bị bơm tay hoặc có động cơ. Máy có cấu trúc đơn giản, dùng để tẩy trùng và phun thuốc cho cây thấp dưới 3,5m bao gồm các loại máy như bình phun cầm tay, bình phun đeo vai không có động cơ kiểu bơm thuỷ lực và bơm không khí, máy phun thuốc đeo vai có động cơ. - Loại đẩy: nguyên tắc làm việc giống như bơm tay nhưng nó có thùng chứa lớn hơn, năng suất làm việc cao hơn, có thể phun cho cây cao dưới 5m. - Loại súc vật kẻo có động cơ hoặc không có động cơ dùng phun thuốc cho vườn cây ăn quả, trong rừng, tiện lợi cho các vườn cây hẹp. - Loại tự hành, máy có động cơ và có hệ thống di động với nhiều loại kích cỡ khác nhau có thể phun thuốc trong vườn hoặc ngoài đồng cho các loại cây thấp. - Loại máy kéo: có năng suất cao, được áp dụng rộng rãi trong nông nghiệp, có hai loại: treo và móc. 181
  47. Hình 4.34. Cấu tạo của bình phun thuốc đeo vai kiểu bơm thuỷ lực 1,2. Bình tích áp; 3. Cổ bình tích áp; 4. Van bi nạp; 5. Xilanh bơm; 6. Van bi đẩy; 7. Dung dịch thuốc; 8, 9. Cửa nạp thuốc; 10,11. Ống dẫn thuốc; 12. Piston bóng; 14. Bàn đạp khuấy thuốc; 15. Tay bơm; 16. Nắp: 17 Lười lọc; 18. Vòi dẫn thuốc; 19 Khoá thuốc; 20, 21. Vòi phun. - Loại máy phun trên máy bay: có năng suất lao động cao, chi phí lao động thấp, có thể diệt sâu bệnh ở những vùng rộng trong khoảng thời gian ngắn hoặc ở những nơi có địa hình phức tạp như rừng núi + Theo nhiệm vụ: - Loại vạn năng: dùng phun thuốc trong vườn hay ngoài đồng. - Loại đặc biệt: dùng phun thuốc cho từng loại cây trong vùng kinh tế nông nghiệp riêng biệt như trồng bông, nho, cây ăn quả + Theo dạng thuốc: - Máy phun thuốc nước. - Máy phun thuốc bột. - Máy phun thuốc phối hợp. Ngoài ra còn phân loại máy phun thuốc theo nguyên tắc phun: - Máy phun thuốc sử dụng áp suất: chất lỏng bị nén nên bị đẩy ra vòi phun với áp suất cao thành bụi sương. Máy phun thuốc theo nguyên lý thổi: chất lỏng chảy ra vòi phun bị luồng gió 182
  48. có vận tốc lớn xé tơi và phun ra ngoài. - Máy phun mù: chất lỏng được đập tơi thành luồng sương mù nhờ phương pháp cơ nhiệt hoặc khí cơ. b. Yêu cầu kỹ thuật Máy phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật sau: - Phải tạo ra luồng thuốc tơi nhỏ (thành bụi sương hay thành bụi bột) phủ kín lên cây trồng với một lớp mỏng đều nhau khắp cây và khắp cả bề rộng làm việc của máy. - Đảm bảo phun đúng liều lượng quy định và nồng độ phun lúc bắt đầu cũng như lúc kết thúc. - Không làm hại cây trồng và an toàn cho người sử dụng. - Dễ sử dụng, chăm sóc bảo quản, có năng suất cao. - Các chi tiết máy phải chống chịu được sự ăn mòn của các chất hoá học, các ống dẫn mền, dễ uốn, bền 3.2.2 Cấu tạo - hoạt động bình phun thuốc đeo vai không động cơ kiểu bơm thuỷ lực a. Nguyên lý làm việc: bình phun làm việc dựa trên nguyên lý sử dụng đặc tính co giãn của không khí để tích áp suất đủ lớn để phun tơi thuốc ra ngoài. b. Cấu tạo: cấu tạo của bình phun thuốc trừ sâu đeo vai không động cơ kiểu bơm thuỷ lực. Bình chứa thuốc được làm bằng nhựa cứng hoặc kim loại chống gỉ (Inox, đồng) có dung tích từ 12 - 18 lít. Phía trên có gia công miệng đổ thuốc, trong miệng đổ thuốc đắt lưới lọc tạp chất có trong dung dịch thuốc để tránh tắc vòi phun khi làm việc. Nắp của bình chứa thuốc có khoan một lỗ nhỏ để thông không gian trong bình với môi trường để duy trì áp suất trên mặt thoáng của dung dịch thuốc bàng áp suất khí quyển. Trong bình có lắp xi lanh bơm, đáy của xi lanh bơm có khoan lỗ để nạp thuốc từ bình vào. tại đây lắp van bi một chiều để chỉ cho thuốc đi từ bình vào xi lanh mà không cho đi theo chiều ngược lại. Trong xi lanh có lắp một piston bơm một chiều, piston được lắp liền với bình tích áp, ở tâm của piston có lỗ thông bình tích áp với khoang xi lanh, tại đây có van bi để chỉ cho thuốc đi từ xi lanh vào bình tích áp mà không cho đi theo chiều ngược lại. Bình tích áp được làm bằng nhựa cứng trên bình có khớp để lắp bàn đạp khuấy thuốc, tại vị trí tiếp giáp của bình tích áp với bình chứa thuốc có lắp thoảng cao su để chân không cho thuốc đi theo bình tích áp ra ngoài, trong quá trình làm việc cụm bình tích áp và piston chuyển động tương đối so với bình chứa. Bình tích áp nối với tay bơm thông qua thanh kẻo, trên nắp của bình tích áp có gia công lỗ để lắp ống dẫn thuốc tới vòi phun, vòi phun được làm bằng ống nhựa mềm để thay đổi 183
  49. hướng phun trong quá trình làm việc. Tại tay cầm của vòi phun có lắp khoá để đóng mở cho thuốc ra vòi phun, trong tay cầm vòi phun có lắp lưới lọc tại miệng vòi phun có van điều chỉnh để thay đổi lượng thuốc phun cũng như thay đổi khoang cách phun thuốc. c. Hoạt động Sau khi đã nạp thuốc vào bình, vặn chặt nắp bình, dùng tay tác động vào tay bơm điều khiển piston. Khi kẻo piston lên thì thể tích khoang xi lanh tăng lên, áp suất tại đây giảm đi, van bi nạp mở ra thuốc từ bình đi vào trong xi lanh. Khi đẩy piston xuống thể tích khoang xi lanh giảm. áp suất trong xi lanh tăng lên, van bi nạp đóng lại, van bi một chiều mở ra, dung dịch thuốc từ xi lanh đi lên bình tích áp. Ban đầu trong bình tích áp chỉ có không khí, dung dịch thuốc dần chiếm chỗ trong bình tích áp nén không khí lại khi áp suất không khí đạt đến mức độ nhất định (l,5 - 2 kg/cm2) lúc này ta mở khoá thuốc đế thuốc phun ra ở vòi phun. d. Quy trình sử dụng bình phun - Lựa chọn thời điểm phun thích hợp để phun mỗi loại thuốc khác nhau. - Chuẩn bị đầy đủ các loại trang thiết bị bảo hộ lao động và dụng cụ cần thiết. - Kiểm tra tình trạng kỹ thuật của bình phun, thử bình phun bằng nước. - Chọn địa điểm pha thuốc thích hợp, pha thuốc nạp vào bình phun, nhất thiết phải lắp lưới lọc khi nạp thuốc để tránh tắc bơm khi làm việc. - Bơm một vài lần sau đó mang bình lên vai và tiến hành đi phun, trong quá trình phun phải bơm liên tục để đảm bảo áp suất trong bình tích áp đúng quy định. Khi pha chế thuốc phải ngồi trên hướng gió, khi đi phun phải di chuyển ngang, lùi ngược với chiều gió để tránh thuốc tại vào người. Khi phun phải giữ khoảng cách từ vòi phun đến cây trồng luôn ở một khoảng cách nhất định để đảm bảo nồng độ, liều lượng thuốc phun, tốc độ di chuyển đều Khi phun không được ăn uống hút thuốc hay nói chuyện. - Trong khi phun khi thấy thuốc phun ra không đều hoặc bị tắc ta phải ngừng phun để kiểm tra. - Sau khi phun xong phải rửa cả phía ngoài lẫn phía trong bình, rửa bên trong bình bằng cách phun nước sạch từ 1 - 2 phút, bôi dầu mỡ vào những nơi cần bảo vệ sau đó cất bình phun vào nơi quy định. - Sau khi phun thuốc xong nhất thiết phải tắm rửa sạch sẽ trước khi làm việc khác. 3.2.2.3. Bình phun thuốc đeo vai không động cơ kiểu bơm không khí. a. Nguyên lý làm việc: Bình phun làm việc dựa trên nguyên lý sử dụng đặc 184
  50. tính co giãn của không khí để tích áp suất đạt đến áp suất đủ để phun tơi hết bình thuốc. b. Cấu tạ o: Bình phun được làm bằng nhựa cứng hoặc bằng kim loại chống gỉ và chịu được sự ăn mòn của các chất hoá học, bình có dạng hình trụ và có dung tích từ 10- 12lít. Trên miệng đổ thuốc của bình có lắp một cụm bơm không khí, bên cạnh miệng đổ thuốc có khoan lỗ để lắp ống hút, đồng hồ đo áp suất, van xả khí thừa sau khi phun. Cụm bơm có thể tháo rời khi cần nạp thuốc và vặn chặt vào bình khi phun thuốc, cụm bơm bao gồm piston, xi lanh và van nạp. Piston bơm thuộc loại piston một chiều, khi kẻo lên thì piston hở để cho không khí đi từ phía trên đi xuống khoang phía dưới xi lanh, khi đẩy xuống thì piston kín để ngăn cách 2 khoang của xilanh. Van một chiều chỉ cho không khí đi từ trong xilanh bơm vào trong bình mà không cho dung dịch thuốc đi vào bơm để tránh thuốc theo bơm đi ra ngoài. Tại tay cầm vòi phun có lắp khoá thuốc để đóng mở cho thuốc ra vòi phun, van xả khí dùng để xả khí thừa có trong bình sau khi phun hết thuốc, bình thường do sức căng của lò xo van luôn đóng kín. Hình 4.35. Bình phần thuốc kiểu bơm không khí 1. Bình thuốc; 2. Piston; 3. Trục bơm; 4. Xilanh; 5. Van nạp; 6. Ống hút; 7, 8. Gioăng kín khít; 9. Dung dịch thuốc; 10 Miệng đổ thuốc; 11.Tay bơm; 12. ống dẫn thuốct; 13. Khoá; 14, 15. Vòi phun; 16. Đồng hồ áp suất c. Hoạt động: Để nạp thuốc vào bình ta tháo cụm bơm ra và đặt lưới lọc vào miệng đổ thuốc, chỉ nạp thuốc vào bình tối đa đến 2/3 thể tích của bình thuốc, sau khi nạp 185
  51. xong thuốc ta lắp cụm bơm trở lại và tiến hành bơm không khí vào trong bình. Khi kẻo piston lên lỗ khoan ở tâm của pislon không bị bịt kín không khí đi từ phía trên piston xuống dưới (hoặc đi qua mép piston xuống). Khi đẩy piston xuống lô ở lâm của piston bị bịt lại nên trở thành piston kín. thể tích khoang xilanh phía dưới giảm áp suất tại đây tăng lên, khi áp suất đủ lớn thì van nạp sẽ mở ra để đẩy không khí vào trong bình. áp suất của không khí trong bình tăng dần lên đến khi áp suất trong bình đạt đến 5 kg/cm2, hoặc bơm đủ số lần bơm đã ghi trên vỏ bình, sau đó ta mang bình đi phun. Sau khi phun hết bình thuốc ta phải kêu van xả hết khí thừa còn lại trong bình rồi mới được tháo cụm bơm ra để nạp thuốc cho lần bơm kế tiếp. Quy trình sử dụng của bơm giống như loại bình phun kiểu bơm thuỷ lực tuy nhiên ta phải bơm đủ lượng không khí để phun hết một bình trước khi phun nên trong khi phun không cần phải bơm tiếp và phải xả hết khí thừa khi nạp thuốc cho lần phun tiếp theo. 3.2.2.4. Bình phun thuốc đeo vai có động cơ a. Nguyên lý làm việc: máy làm việc theo nguyên lý sử dụng dòng khí có vận tốc lớn để xé tơi thuốc để phun ra ngoài. b. Cấu tạo: Hình 4.36. Máy phun thuốc đeo vai có động cơ a. Bình phun thuốc nước; b. Bình phun thuốc bột Máy sử dụng mômen quay từ một động cơ xăng hai kỳ cỡ nhỏ, quạt gió dùng cho máy là loại quạt ly tâm, quạt được lắp ở đầu trục cơ của động cơ. Luồng gió do quạt tạo nên được chia thành hai phần, phần chính theo vòi phun để phun tơi thuốc ra ngoài, một phần nhỏ theo ống trích khí đi lên bình chứa thuốc để tạo áp lực nén ép dung dịch thuốc xuống vòi phun. Bình chứa thuốc nước có dung tích từ 15 - 20 lít, trên miệng đổ thuốc có đặt lưới lọc nắp bình đổ thuốc hoàn toàn kín. Bên cạnh nắp bình có gia công lỗ để lắp ống trích khí từ quạt lên, dưới đáy bình gia công lỗ để lắp ống dẫn thuốc đến vòi phun, trên ống dẫn thuốc tới vòi phun có 186
  52. lắp 2 khoá, một khoá dùng để đóng mở, một để điều chỉnh lượng thuốc đến vòi phun. Ở đầu vòi phun có lắp kim phun để chia nhỏ luồng thuốc thành nhiều tia nhỏ để dễ dung hoà trộn với không khí trong quá trình làm việc. Vòi phun được làm bằng nhựa cứng, tại chỗ nối vòi phun với quắt gió có lắp một đoạn ống nhựa mềm để thay đổi hướng phun một cách dễ dàng. Ở đầu vòi phun có lắp một miệng phễu, miệng phễu có thể điều chỉnh đẩy ra hoặc thụt vào để thay đổi độ xa của luồng thuốc phun, miệng phễu được định vị bằng các vít hãm. Khi phun thuốc cho cây trồng cạn ta phải điều chỉnh hết cỡ vào phía trong, khi cần phun thuốc cho cây ăn quả ta phải điều chỉnh hết cỡ miệng phễu ra ngoài. Với bình phun thuốc bột thông thường có dạng thành nghiêng để bột dễ dàng đi xuống cửa cung cấp thuốc. Từ quạt có ống dẫn khí đi lên cửa cung cấp thuốc để thổi vào các cánh khuấy lắp tại đây, các cánh khuấy sẽ đánh tơi thuốc trước khi thổi thuốc xuống vòi phun, thay đổi độ mở của cửa cung cấp thuốc để thay đổi lượng thuốc phun. c. Hoạt động: Trước khi cho động cơ làm việc ta nạp thuốc vào bình, khi nạp thuốc nhất thiết phải đặt lưới lọc Sau khi đã nạp xong thuốc ta khởi động động cơ và điều chỉnh chế độ làm việc của động cơ cho phù hợp (Vớ; Cây trồng cạn nên điều chỉnh chế độ làm việc của động cơ thấp, cây ăn quả thì điều chỉnh ở chế độ lớn hơn), mang máy lên vai để đi phun thuốc. Luồng gió từ quạt thổi ra chia thành 2 phán, một phần theo ống trích khí đi lên bình chứa thuốc để dồn thuốc xuống. Thuốc theo ống dẫn xuống vòi phun sẽ được luồng gió từ quạt thổi đến xé tơi hoà trộn với không khí và phun ra ngoài. Với loại máy phun thuốc này quy trình sử dụng giống như các loại bình phun thuốc đeo vai khác tuy nhiên ta cần phải điều chỉnh tốc độ làm việc của động cơ cho phù hợp với mỗi loại cây trồng khác nhau, điều chỉnh lượng thuốc ra vòi phun, điều chỉnh miệng phễu để thay đổi khoảng cách phun xa hoặc gần. 3.2.2.5. Các loại máy phun thuốc có động cơ khác Các máy này hiện đang được sử dụng hết sức rộng rãi, có nhiều kích cỡ khác nhau. Nói chung máy có kết cấu giống nhau và bao gồm các bộ phận: thùng chứa thuốc, bộ phận tạo áp suất (bơm), bộ phận điều chỉnh áp suất, ống dẫn thuốc, vòi phun, trang bị lấy nước vào thùng. a. Thùng chứa nước: có hình dạng và dung tích thích hợp, kín để thuốc không bị rò rỉ hoặc bốc hơi ra ngoài, tiện lợi cho quá trình nạp và xả thuốc. Trong thùng thường có bộ phận khuấy thuốc để làm đều nồng độ dung dịch thuốc phun ra trong quá trình phun, nó đặc biệt cần thiết cho các thùng dung tích lớn và cần sự khuấy trộn khi chuẩn bị dung dịch trong thùng. Bộ phận khuấy có 2 loại: cơ học và thuỷ lực. b. Bộ phận tạo áp suất (bơm cung cấp): có nhiệm vụ đẩy thuốc đi và đảm bảo 187
  53. lưu lượng và áp suất thuốc cần thiết. Có nhiều loại bơm như: bơm piston, bơm bánh răng, bơm màng Bơm piston trực tiếp nén dung dịch thuốc vào bình tích áp hoặc nén không khí vào bình chứa thuốc. Bơm thuốc có thể là loại bơm piston tác động một chiều, bơm piston tác động hai chiều, bơm sai động, bơm 3 piston c. Bộ phận điều hoà áp suất: giữ cho áp suất trong hệ thống có áp suất ổn định, dung dịch thuốc được đẩy đi đều để đảm bảo chất lượng phun, đồng thời bảo hiểm cho máy khỏi bị áp suất quá cao làm hư hỏng và gây hại cho người sứ dụng. Các phần tử chính của bộ điều áp là hệ thống van an toàn có nhiệm vụ xả dung dịch thuốc về thùng khi áp suất quá mức cần thiết, áp kế để theo dõi áp suất, bình ổn áp (là túi không khí) để giữ lưu lượng và áp suất của dung dịch thuốc một cách đều đặn tới vòi phun. Hình 4.37. Kết cấu và đặc tính cung cấp của một số loại bơm piston a. Bơm piston một chiều; b. Bơm piston hai chiều; c. Bơm vi sai; d. Bơm 3 piston; A. Buồng áp thấp; B. Buồng trung gian; C. Buồng cao áp d. Vòi phun: với mỗi loại máy tuỳ thuộc loại to hay nhỏ mà có thể sử dụng một hay nhiều vòi phun. có nhiều loại vòi phun. Tuỳ theo tính chất chuyển động của thuốc khi qua vòi phun có thể chia thành hai loại: vòi phun xoáy và vòi phun thẳng Theo nhiệm vụ có thể chia ra loại vòi phun trong vườn và vòi phun ngoài đồng. Với loại vòi phun xoáy thì dung dịch thuốc chuyển động xoáy do chạy qua rãnh xoắn ốc của lõi vòi phun, ở vòi phun ly tâm chuyển động xoáy gây ra do thuốc đưa vào thân theo hướng tiếp tuyến với thành buồng hình trụ hoặc chỏm cầu. Dung dịch qua buồng xoáy sẽ phun ra ngoài qua lỗ phun. lỗ phun được khoan ở chụp hoặc ở đĩa kẹp giữa chụp và thân vòi phun. Với loại vòi phun thẳng thì 188
  54. không có lõi phun thuốc đi thẳng từ thân qua chụp ra ngoài. Các chỉ tiêu làm việc của vòi phun như: độ tơi sương, góc nón phun, độ xa phun, lưu lượng thuốc phụ thuộc vào thông số cấu tạo của vòi phun, áp suất phun và tính chất của thuốc. Các thông số cấu tạo vòi phun quan trọng là kích thước rãnh xoắn, số rãnh xoắn của lõi phun, thể tích buồng xoáy, đường kính lỗ phun, số lỗ phun Vòi phun ngoài đồng làm việc với áp suất 3 - 10 at, nón phun dài 1- 2m, dùng để phun cho cây trồng thấp. Khi kích thước rãnh xoắn và đường kính lỗ phun nhỏ, ta có vòi phun tiết kiệm để phun thuốc có độ độc cao, chi phí thuốc ít. Vòi phun trong hờn làm việc với áp suất cao để phun cho cây ăn quả, cây rừng. Điều chỉnh mức thuốc phun (Q lít/ha) của máy phun thuốc nước theo nguyên tắc áp suất bằng các cách như: thay đổi loại vòi phun hoặc chi tiết của vòi phun như lõi xoắn, chụp, đĩa lỗ ; Thay đổi số lượng vòi phun, thay đổi áp suất phun và thay đổi vận tỉ tiến của máy. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà người dùng máy phối hợp các cách trên ' đạt mức phun thích hợp, khi điều chỉnh máy đạt mức phun qui định, cần phải đảm bị chất lượng phun của máy. 3.2.3. Tính toán kiểm tra và điều chỉnh máy phun thuốc 3.2.3.1. Với máy phun thuốc nước a. Loại bình mang: do dung tích của bình chứa nhỏ ta có thể phun thử cả bình. Kiể tra theo diện tích (khi ta phun thuốc ngoài đồng ruộng cho lúa, hoa màu, v.v Giả. dung tích của bình thuốc là E (lít), đem phun thử được F (m2), ta có thể tính được mi phun thực tế trên 1 ha Q (lít/ha). Đem so sánh với mức thuốc phun theo yêu cầu nếu sai số lớn hơn 3% ta phải đã chỉnh lại máy phun thuốc. - Kiểm tra theo số cây (khi phun thuốc cho cây ăn quả hay cây rừng), giả sử ta một ha có trồng N cây, dung tích của bình là E (lít), mức phun yêu cầu trên 1 ha là (lít/ha) thì số cây một bình thuốc phải phun được là: Nếu sai số lớn hơn 3% ta phải điều chỉnh lại máy phun thuốc. b. Loại máy phun thuốc cỡ lớn: dung tích của bình lớn nên ta không thể kiểm tra bằng cách phun thử mà phải kiểm tra theo năng suất phun trong 1 phút: q (l/ph): Nếu biết vận tốc di chuyển của máy là V (km/h), bề rộng luồng thuốc phun là B (m) lượng thuốc phun Q (l/ha) thì: 189
  55. Nếu vận tốc đo bằng (mình) thì công thức tính sẽ là Cho máy phun thử trong 1 phút đứng tại chỗ hứng được lượng thuốc là q (lít/ phí so sánh với lượng thuốc yêu cầu phun nếu sai số lớn hơn 3% thì điều chỉnh máy. Để điều chỉnh máy ta có thể áp dụng các biện pháp sau: - Điều chỉnh loại vòi phun với kích thước lỗ phun và rãnh kim phun khác nhau. Thi đổi cỡ lỗ của giáo đặt trên ống dẫn ra vòi hút loại phun nhờ luồng gió. - Điều chỉnh áp suất của thuốc. - Thay đổi số bộ phận phun trên một đầu phun. - Điều chỉnh độ rộng của đường phun. - Thay đổi tốc độ luồng gió và thay đổi luồng gió. - Điều chỉnh tốc độ di chuyển của máy phun thuốc. Muốn điều chỉnh áp suất phun người ta thường điều chỉnh lò xo của xu páp xả theo nguyên tắc: + Cho bơm làm việc bình thường. + Nới vít điều chỉnh của xu páp xả thả lỏng hết mức lò xo của xu páp này. + Đóng kín các khoá trên đường dẫn ra vòi phun. + Xiết từ từ vít điều chỉnh của xu páp xả và theo dõi áp suất trên áp kế cho đến khi đạt được áp suất quy định. 3.2.3.2. Đối với máy phun thuốc bột: * Loại bình mang trên vai: kiểm tra giống loại bình phun thuốc nước. * Loại máy phun cỡ lớn: nếu mức thuốc phun trên một đơn vị diện tích là Q (kg/ha), tốc độ tiến của máy là V (km/h), bề rộng đường phun là B (m), lượng thuốc phun trong 1 phút q là: Nếu tốc độ tiến của máy V là (m/ph) thì: 190
  56. Cho máy phun thử trong 1 phút đứng tại chỗ, cân lượng thuốc bột hứng được, so sánh với lượng thuốc yêu cầu nếu sai lệch quá 3% ta phải điều chỉnh máy. Biện pháp điều chỉnh máy phun thuốc bột bao gồm các cách như sau: - Điều chỉnh bộ phận cung cấp để thay đổi lượng thuốc đưa ra vòi phun. - Điều chỉnh tốc độ của luồng gió. -Thay đổi lượng gió (độ mớ của ống thổi), thay đổi độ đậm đặc của không khí trong luồng gió (độ mở của ông hút). - Thay đổi tốc độ tiến của máy. - Điều chính bề rộng của đường phun (có thể thay đổi trực tiếp bằng cách quay ống phun). 3.3. Hệ thống tưới 3.3.1. Kỹ thuật tưới 3.3.1.1. Các phương pháp tưới Hiện nay thường sử dụng các phương pháp tưới sau đây: - Phương pháp tưới bề mặt: là phương pháp cung cấp nước cho đất theo bề mặt của đất Phương pháp này gồm: tưới tràn, tưới khoảnh, tưới rãnh, tưới kiểu gợn sóng. - Phương pháp tưới thẩm thấu: là phương pháp cung cấp nước cho đất từ lớp đất đáy, nước tự thẩm thấu vào đất hoặc ngập nước. Phương pháp này gồm các dạng tưới: nước ngập, nước thấm tự do. nước thấm từ hệ thống ống dẫn. nước thấm từ các bình chứa nước. - Phương pháp tưới phun: là phương pháp cung cấp nước cho đất dưới dạng phun mưa như dùng thùng tưới có ô doạ, té nước, hệ thống ống dẫn có đục lỗ và tưới bằng vòi phun mưa. 3.3.1.2. Nhu cầu về nước của cây Trong cùng điều kiện khí hậu, các loại cây trồng khác nhau cần tổng lượng nước khác nhau, và số lượng nước do cùng loại cây tiêu thụ cũng khác nhau theo từng thời kỳ sinh trưởng và phát triển. Trước hết trong thời gian gieo trồng, nảy mầm và cây còn non, cây trồng tiêu thụ nước với tỷ lệ thấp. Cùng với sự phát triển của cây trồng, tỷ lệ đó sẽ tăng dần và đạt mức tối đa ở hầu hết các loại cây vào thời điểm cây bắt đầu nở hoa và bắt đầu chín. 3.3.1.3. Độ ẩm của đất: Kết cấu của đất bao gồm một mạng lưới chất rắn được bao phủ bởi hệ thống các ô hốc và khe rãnh trong đất để chứa khí và nước. Khi toàn bộ thể tích này 191
  57. chứa đầy nước thì đất đó được gọi là đất bão hoà nước. Đất chỉ giữ được trạng thái bão hoà khi mức nước thấp hơn cột nước định mức và không bị rò rỉ hay thẩm thấu tự do. Đất có thể giữ trạng thái bão hoà tạm thời khi mức nước cao hơn cột nước đinh mức trong suốt quá trình hay ngay sau khi tưới hoặc có mưa to. Tổng lượng nước hay độ ẩm mà đất giữ được ở trạng thái bão hoà phụ thuộc vào thể tích các ô hốc và được gọi là khả năng bão hoà. Các nhà khoa học đất cho rằng độ ẩm trong đất có thể chia thành 3 dạng chính: nước trọng lực, nước mao dẫn và nước màng (nghiệm ẩm). Nước trọng lực khi cao hơn cột nước định mức chỉ có thể giữ được trong đất trong thời gian ngắn vì nó sẽ bị thấm hay chảy ra ngoài do tác động của trọng lực. Nước mao dẫn được hiểu là những màng mỏng trên bề mặt các hạt đất hay những giọt nhỏ hoặc màng nước ở giữa các ô hốc, khe rãnh. Nước mao dẫn chính là nguồn nước cần thiết cho cây trồng phát triển và tổng lượng nước được giữ trong đất sau khi nước trọng lực bị chảy hoặc thấm hết ra ngoài gọi là khả năng giữ nước của đất. Nước màng bao gồm các màng rất mỏng được giữ bên ngoài các tế bào đất và rễ cây không thể hút được. Khi cây sinh trưởng và phát triển trên đất với lượng nước không đủ thì cây bắt đầu héo và cột nước ở mức đó được gọi là điểm héo. Vào thời điểm này nếu ta cung cấp nước kịp thời thì cây sẽ hồi lại. Mức nước này bao gồm cả nước màng và một phần nước mao dẫn. Hiệu số độ ẩm trong đất và độ ẩm ở điểm héo được hiểu là nước có ích. Khối lượng của các loại nước trong đất được biểu thị ở hình 4.38. Khối lượng nước có ích được xcm như không đổi đối với từng loại đất cụ thế và khác nhau phụ thuộc vào kết cấu và độ chặt của đất Khi đất được tưới nước, trước tiên nước sẽ dâng dần lên mức bão hoà và nếu ruộng tưới bị thẩm thấu tự nhiên thì lượng nước trọng lực sẽ bị thấm hết ra ngoài. Lượng nước trọng lực thấm hết ra khỏi vùng rễ không quá 1.ngày đối với đất cát, cát pha và trong vòng 3-4 ngày đối với đất sét. Nước có ích: lượng nước có ích là lượng nước cần thiết cho cây trồng. Cũng như lượng nước mưa hay nước tưới được tính theo độ sâu của nước, lượng nước có ích trong đất cũng được tính tương tự. Nếu ta gọi X là trọng lượng khô của loại đất đã cho theo đơn vị tính g/cm3, f là phần trăm trọng lượng của nước có ích thì 1m3 đất có chứa 10*f*X kg nước. Thể tích của lượng nước này sẽ là 10*f*X lít. Thể tích này trong 1m3 đất sẽ có độ sâu là 10*f*X mm. 192