Đường Thi nhất bách thủ (Một trăm bài thơ Đường) - Phùng Hoài Ngọc

pdf 136 trang phuongnguyen 2200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đường Thi nhất bách thủ (Một trăm bài thơ Đường) - Phùng Hoài Ngọc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfduong_thi_nhat_bach_thu_mot_tram_bai_tho_duong_phung_hoai_ng.pdf

Nội dung text: Đường Thi nhất bách thủ (Một trăm bài thơ Đường) - Phùng Hoài Ngọc

  1. Phùng Hoài Ngọc 冯 怀 玉 唐 诗 一 百 首 Đường Thi nhất bách thủ ( Một trăm bài thơ Đường) Đại học An Giang 1.2005 安 江 大 学 2005年 1月 P.H.N 2004 1
  2. Lời nói đầu Bắt đầu bằng câu thơ bí ẩn của Lí Bạch : 诗成草树皆千古 Shī chéng cǎo shù jiē qiān gǔ: “Thi thành, thảo thụ giai thiên cổ ” [ Bài thơ làm xong, cỏ cây (và bài thơ) đều đã trở thành thiên cổ ] Lí Bạch đã nêu lên một quan niệm thơ độc đáo trong thế giới văn học của loài người ! Hiểu cách thứ nhất là : Bài thơ đồng nhất với nhà thơ, cùng với cây cỏ thoắt trở thành quá khứ (thiên cổ) sau khi bài thơ hoàn thành. Hiểu cách thứ hai : bài thơ và cây cỏ phút chốc trở nên nghìn năm, nghìn xưa (thiên cổ). “Cỏ cây” là hình ảnh đại diện của thiên nhiên hoang sơ. Bài thơ, nhà thơ cùng với cỏ cây trở thành một thứ “thiên nhiên” ư ? Mơ hồ nhất là ý nghĩa chữ “thiên cổ” . Câu thơ Lý Bạch hàm súc bí ẩn lạ, hiểu lẽ nào cho đúng ? Tiếc rằng soạn giả chưa tìm thấy nguyên vẹn bài thơ có câu thơ trên. Đọc một bài thơ hay, ta thấy cuộc sống trở nên thư thả, đôi mắt nhìn đời của ta sẽ khác. Thơ không thích hợp với “công nghiệp hoá hiện đại hoá” . Trộm nghĩ, thơ sẽ mãi mãi thủ công hoá và cổ điển hoá. Một cây bút, một mảnh giấy thêm vào một tâm hồn là đủ cho thơ . Đọc thơ rồi trò chuyện với nhau cũng thấy tâm đắc thú vị ở đời ! Đường Thi và người Việt Nam Hai bên thân quen với nhau từ lâu lắm rồi, và không bao giờ tách ra được nữa. Đường Thi đã được Việt hoá nhuần nhuyễn. Nhiều bài thơ Việt Nam có thể gọi là “giá đáng Thịnh Đường ” như thơ của các nhà sư thời Lý, vua Trần, Nguyễn Trãi, vua Lê, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh Đường Thi sẽ còn sống mãi cùng người Việt Nam . Tiêu chí lựa chọn tuyển tập “Đường Thi nhất bách thủ” 100 bài lựa chọn sao cho thể hiện sự đa dạng phong phú của Đường Thi. Đặc biệt, trong tập thơ này có tới 11 bài được tuyển chọn vào sách giáo khoa Văn trung học, chưa kể ở đại học cao đẳng. 100 bài chỉ là con số nhỏ trong khoảng non nghìn bài lưu hành ở Việt Nam, trong tổng số khoảng 54 000 bài Đương Thi đã được sưu tập ở Trung Quốc. Nhưng đây là 100 bài ưu tú, nổi bật và khá quen thuộc với người Việt Nam. 100 bài được sắp xếp theo trật tự abc cho dễ lật đọc. Phần phụ lục chọn thêm 10 bài thơ đời Tống để tham khảo . Cách biên soạn từng bài thơ : Đầu tiên là văn bản nguyên tác, kế đó là phiên âm Bắc Kinh (pinyin, tiếng quan thoại, bạch thoại, tiếng phổ thông), phiên âm Hán Việt, dịch nghĩa và dịch thơ nếu có. Sau một số bài có chú thích cần thiết để hiểu bài thơ. Một số bài ghi thêm gợi ý cho SV khi học tập Văn học Trung Quốc. Có khi ghi cả lời bình tuỳ hứng của soạn giả. Lời bình này mang tính cá nhân, có thể gợi hướng phân tích cho học sinh, sinh viên . Cũng là ý kiến trao đổi cùng bạn tri âm tri kỷ. Tác phẩm nghệ thuật có thể hàm chứa những lớp ý nghĩa khác nhau . Mỗi người đọc có quyền cảm nhận riêng. Nếu là bài thi của học sinh sinh viên thì sao ? Trước hết GV có một đáp án mở. Đáp án đó có phần “cứng”, là nội dung khách quan của văn bản và ý tứ gợi ra từ cuộc đời của nhà thơ và hoàn cảnh đương thời. Học sinh sinh viên có thể cảm nhận theo chủ quan nhưng phải trên cơ sở ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm. Cảm nhận đó phải mang tính văn chương, hợp lý, hợp thời thì mới được chấp nhận (“phần mềm”) . Đó là quyền tự do dân chủ sáng tạo của học sinh sinh viên khi làm văn, khác với sự cảm nhận tuỳ tiện lung tung, thiếu tính thẩm mĩ . Bạn đọc có thể xem nguyên tác Hán ngữ, ngắm mỗi bài thơ như một bức tranh. Mặt khác, phần phiên âm tiếng Trung khiến ta tự lẩm nhẩm đọc theo mà thực hành tiếng cũng rất lí thú. Hoàng đế Thuận Trị từng dạy hoàng tử Khang Hy rằng: 立 身 以 至 诚 为 本 . 读 书 以 明 理 为 先 Lì shēn yǐ zhì chéng wēi běn . Dú shū yǐ míng lǐ wēi xiān Lập thân dĩ chí thành vi bản . Độc thư dĩ minh lý vi tiên . (Lập thân lấy sự chân thành làm căn bản. Đọc sách trước hết phải hiểu nghĩa lý ) Với tập thơ này, soạn giả muốn nhấn mạnh câu thứ hai: đọc sách. Đọc thơ Đường cần nhất hiểu đúng nghĩa lý, việc dịch thành thơ Việt chưa quan trọng . Tài liệu này muốn hỗ trợ bạn đọc điều đó thôi. Nếu hiểu câu thứ hai (đọc sách) ắt sẽ tâm đắc câu thứ nhất (lập thân) Đi vào Đường Thi, chúng ta lạc vào một thế giới khác, cổ xưa mà hiện đại. Giữa thời buổi nhiễu loạn các loại hình giải trí, tìm đến thơ cổ điển là tự vệ tự bảo hiểm không để rơi vào tình trạng đánh mất mình, khả dĩ chống lại những thứ hào nhoáng phù du thời thượng. Sự thanh tĩnh, ấm áp tâm hồn do thơ cổ điển mang lại thực là một điều thú vị lắm. P.H.N 2004 2
  3. 3 Kính bút Ths.Phùng Hoài Ngọc Hạ quí Giáp Thân niên 2004 - Đại học An Giang 唐 诗 一 百 首 ĐƯỜNG THI NHẤT BÁCH THỦ 1. Ân chế tứ thực vu Lệ Chính điện thư viện yến phú đắc lâm tự (Trương Thuyết) 2. Bái tân nguyệt ( Lí Đoan ) 3. Bần nữ (Tần Thao Ngọc) 4. Cầm sắt ( Lí Thương Ẩn ) 5. Chương Đài Liễu (Hàn Hoành và Liễu thị ) 6. Cung oán (Tư Mã Lễ) 7. Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ (Vương Duy) 8. Dao sắt oán (Ôn Đình Quân) 9. Diễm nữ từ ( Lương Hoàng ) 10. Dịch thuỷ tống biệt (Lạc Tân vương) 11. Du tử ngâm (Mạnh Giao) 12. Đào hoa khê (Trương Húc) 13. Đáp nhân (Thái thượng ẩn giả) 14. Đăng cao (Đỗ Phủ) 15. Đăng U châu đài ca (Trần Tử Ngang) 16. Đằng vương các tự (Vương Bột) 17. Đề đô thành nam trang (Thôi Hộ) 18. Đề hoa cúc (Hoàng Sào) 19. Điểu minh giản (Vương Duy) 20. Đông Dương tửu gia tặng biệt (Vi Trang) 21. Độ Tang càn (Giả Đảo) 22. Độc Lí Bạch tập (Trịnh Cốc) 23. Độc toạ Kính Đình sơn (Lí Bạch) 24. Giang tuyết (Liễu Tông Nguyên) 25. Hàn thực (Hàn Hùng) 26. Hành lộ nan (Lí Bạch) 27. Hoài thượng biệt hữu nhân (Trịnh Cốc) 28. Hoàng hạc lâu (Thôi Hiệu) 29. Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch) 30. Hoàng hạc lâu văn địch (Lí Bạch) 31. Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương) 32. Khiển hoài (Đỗ Mục) 33. Khúc Giang ức Nguyên Cửu (Bạch Cư Dị ) 34. Khuê oán (Vương Xương Linh) 35. Khử phụ (Mạnh Giao) 36. Kim lũ y (Đỗ Thu Nương) 37. Kinh Lỗ, tế Khổng Tử nhi thán chi (Đường Huyền Tông) 38. Kí Đỗ Vị (Đỗ Phủ) 39. Kí phu (nữ sĩ Tần Ngọc Lan) 40. Lâm giang tống Hạ Chiêm (Bạch Cư Dị ) 41. Lục ngôn tuyệt cú (Vương Duy) 42. Lương Châu từ (Vương Hàn) 43. Lưu biệt Vương Duy ( Mạnh Hạo Nhiên ) 44. Lưu Nguyễn du Thiên Thai (Tào Đường) 45. Lưu Nguyễn động trung ngộ tiên tử (Tào Đường) 46. Lưu Nguyễn tái đáo Thiên Thai bất phục kiến chư tiên tử (Tào Đường) 47. Mạch thượng tặng mĩ nhân (Lí Bạch) 48. Mao ốc vi thu phong (Đỗ Phủ) 49. Minh tranh (Lí Đoan) 50. Mộ xuân qui cố sơn thảo đường 51. Mộng Lí Bạch ( Đỗ Phủ bài 1 ) 52. Nguyệt dạ (Lưu Phương Bình) P.H.N 2004 3
  4. 53. Nguyệt hạ độc chuốc (Lý Bạch) 54. Phong kiều dạ bạc (Trương Kế) 55. Phù Dung lâu tống Tân Tiệm (Vương Xương Linh) 56. Quá Hương Tích tự (Vương Duy) 57. Quân hành ( Lí Bạch) 58. Quy ẩn (Trần Phốc ) 59. Quy gia ( Đỗ Mục ) 60. Song yến ly (Lí Bạch) 61. Sơ xuân tiểu vũ (Hàn Dũ) 62. Sương nguyệt ( Lí Thương Ẩn) 63. Tam niên biệt (Bạch Cư Dị) 64. Tảo khởi (Lí Thương Ẩn ) 65. Tảo phát Bạch đế thành ( Lí Bạch) 66. Tân giá nương ( Vương Kiến) 67. Tặc bình hậu tống nhân bắc qui 68. Tặng Lí Bạch (Đỗ Phủ) 69. Tặng Uông Luân ( Lí Bạch ) 70. Tầm ẩn giả bất ngộ (Giả Đảo) 71. Tần Hoài dạ bạc (Đỗ Mục) 72. Thạch Hào lại (Đỗ Phủ) 73. Thanh minh (Đỗ Mục) 74. Thái liên khúc (Lí Bạch) 75. Thiên mạt hoài Lí Bạch (Đỗ Phủ ) 76. Thu hứng (Đỗ Phủ) 77. Thu phố ca (Lí Bạch) 78. Thu tứ (Lí Bạch) 79. Tì bà hành (Bạch Cư Dị) 80. Tiên tử tống Lưu Nguyễn xuất động (Tào Đường) 81. Tiên tử động trung hữu hoài Lưu Nguyễn (Tào Đường) 82. Tiễn biệt hiệu thư Thúc Vân ( Lí Bạch) 83. Tĩnh dạ tư (Lí Bạch) 84. Tống biệt (Vương Duy ) 85. Tống Nguyên Nhị đi sứ Tây An (Vương Duy) 86. Trúc lý quán ( Vương Duy) 87. Tuyệt cú (Đỗ Phủ) 88. Tử vi hoa ( Bạch Cư Dị) 89. Tương giang (KD) 90. Tương tư (Bài ca đậu đỏ) Vương Duy 91. Văn Bạch Lạc Thiên tả giáng Giang Châu tư mã (Nguyên Chẩn) 92. Vọng Lư Sơn bộc bố ( Lí Bạch) 93. Vô đề (Lý Thương Ẩn) 94. Xích bích (Đỗ Mục) 95. Xuân hiểu (Mạnh Hạo Nhiên) 96. Xuân oán (Kim Xương Tự) 97. Xuân tịch lữ hoài (Thôi Đồ) 98. Xuân tình (Vương Giá) 99. Xuân tứ ( Lí Bạch ) 100. Xuân vọng ( Đỗ Phủ) Phụ lục 1: Thư gửi Nguyên Chẩn (Bạch Cư Dị) Phụ lục 2: Đọc thêm 10 bài Tống thi 1. Đề Trúc Lâm tự (Chu Phóng) 2. Đông cảnh (Lưu Khắc Trang) 3. Lập thu ( Lưu Hàn) 5. Nguyên đán ( Vương An Thạch) 6. Tây giang nguyệt (Chu Đôn Nho) 7. Thôn cảnh tức sự (Ông Quyển) 8. Thôn vãn (Lôi Chấn) 9. Xuân nhật ngẫu thành (Trình Hiệu) 10. Xuân tiêu (Tô Đông Pha ) P.H.N 2004 4
  5. Bạt : Lời cuối tập của soạn giả 1. Ân chế tứ thực vu Lệ Chính điện thư viện yến phú lâm tự 恩 制 赐 食 于 丽 正 殿 书 院 宴 赋 林 字 Ēn zhì cì shì yú Lì Zhèng diàn shū yuàn yàn fù līn zì Được ơn vua ban yến tiệc ở Lệ Chính điện thư viện, viết bài thơ vần “lâm” ( Trương Thuyết 张 说 Zhang Shūo ) Dōng Bì tú shū fǔ 东 壁 图 书 府 Xī yuān hán mò līn 西 园 翰 墨 林 Sòng Shī wēn guó zhèng 诵 诗 闻 国 政 Jiǎng Yì jiàn tiān xīn 讲 易 见 天 心 Wèi qiè hé xuān zhòng 位 窃 和 萱 重 Ēn tāo zuì jiǔ shēn 恩 滔 醉 酒 深 Zài gē chūn xìng qǔ 载 歌 春 兴 曲 Qíng jié wèi zhī yīn 情 竭 为 知 音 O Phủ Đông Bích chứa sách Đông Bích đồ thư phủ Vườn phía Tây nhiều nho sĩ Tây viên hàn mặc lâm Đọc Kinh Thi biết việc nước Tụng Thi, văn quốc chính Giảng Kinh Dịch hiểu lòng trời Giảng Dịch, kiến thiên tâm Chức vụ cao được vua trọng Vị thiết hoà huyên trọng Ơn vua cuồn cuộn, (vừa) uống rượu say sưa Ân thao tuý tửu thâm vừa hát khúc nhạc xuân Tài ca xuân hứng khúc Tận tình vì người tri âm Tình kiệt vị tri âm dịch thơ : Đông Bích nơi vựa sách Vườn tây học giả đầy Đọc Thi nghe việc nước Giảng Dịch thấy lòng trời Chức trọng xin ra sức Ơn dầy được rượu say Thơ ngâm hoà điệu hát Tạ ơn vua cao dày (Ngô Văn Phú) Ghi chú: Đông và Bích là tên hai ngôi sao trong nhị thập bát tú (chòm sao văn chương). Vì thế nhà Đường lấy hai chữ Đông Bích đặt tên thư viện hoàng gia đặt ở Lệ Chính điên. Thi: Kinh Thi , Dịch : Kinh Dịch . P.H.N 2004 5
  6. Cuốn Thiên gia thi (Nhà xuất bản Hội nhà văn 1998- soạn giả Ngô Văn Phú) đã nhầm lẫn : chữ cuối câu 6 in lầm là “đồng” , in đúng phải là “thâm”. Có lẽ cũng in sai cả chữ “tao” nghĩa là “cuồn cuộn” thành “tao” nghĩa là “được nhờ” . Soạn giả Ngô Văn Phú dịch nghĩa câu 7 là: “Ngâm vang thơ, hoà theo lời nhạc chúc tụng “, e rằng sai nguyên tác. Phải dịch luôn câu 6 và 7 thành một câu liền mạch:”vừa uống rượu vừa ca hát”, chứ không phải “vừa ngâm thơ vừa hát”. 2. Bái tân nguyệt 拜新月 Bài xīn yuè Lạy trăng mới Lí Đoan 李端 LǐDuān Kāi lián jiàn xīn yuè 开帘见新月 Jì biàn xià jiē bài 即便下阶拜 Jì yǔ rén bù wēn 细语人不闻 Bèi fēng chuī qún dài 北风吹裙带 Mở rèm thấy vầng trăng mới Khai liêm kiến tân nguyệt Liền bước xuống thềm vái trăng Tức tiện há giai bái Thì thầm khấn không ai nghe thấy Tế ngữ nhân bất văn Gió bấc thổi dải quần bay lên Bắc phong xuy quần đới dịch thơ Mở rèm thấy tấm trăng non Thềm trên bước xuống vái luôn trăng này Khẽ lời khấn, chẳng ai hay Thoảng cơn gió bấc thổi bay dải quần (Tản Đà dịch- báo Ngày Nay số 117 ngày 3.7.1938) Lời bàn : Yêu quí trăng sáng đến độ sùng bái như thế đấy ! Người ta nói lúa mới, nắng mới, còn trăng thì non, già . . .Thi sĩ Lí Đoan nói “ trăng mới” ,ấy là trăng đầu tháng (thượng huyền nguyệt). Ta nhớ đến Cao Bá Quát (được thể hiện thành nhân vật Huấn Cao- truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân) từng nói : “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (Một đời chỉ biết cúi lạy hoa mai) . . . Một người lạy trăng, người kia lạy hoa . 拜新月 P.H.N 2004 6
  7. 3. Bần nữ 贫女 Pín nǔ Tần Thao Ngọc 秦 韬玉 Qín Tāo Yù (đỗ tiến sĩ năm 882, Vãn Đường) Péng mén wèi shí qǐ luō xiāng 蓬门未识绮罗香 Ni tuò shang liāng méi yì zì 拟托良媒亦自伤 Shuí ài fēng liū gāo gè diào 谁爱风流高格调 Gong lián shí shì jiǎn shū zhuāng 共怜时世检梳妆 Gǎn jiāng shì zhǐ kuā zhēn qiǎo 敢将十指夸针巧 Bù bǎ shuāng mēi dòu huà cháng 不把双眉斗画长 Kǔ hèn nián nián yā jīn xián 苦恨年年压金线 Wèi tā rén zuò jià yī cháng 为他人作嫁衣裳 v Con gái nhà nghèo Bần nữ Nhà tranh chưa biết mùi lụa là Bồng môn vị thức ỷ la hương Muốn nhờ mai mối lại ngại bẽ bàng Nghĩ thác lương môi diệc tự thương Ai thích phong lưu kiểu cách điệu đàng Thuỳ ái phong lưu cao cách điệu Cùng thương người mộc mạc y trang Cộng liên thời thế kiệm sơ trang Dám lấy mười ngón kim chỉ khéo tay Cảm tương thập chỉ khoa châm xảo Không cậy đôi mi nét kẻ dài . . . Bất bả song mi đấu hoạ trường Khổ nỗi hàng năm thêu kim tuyến Khổ hận niên niên áp kim tuyến Cho người ta có trang phục tân hôn Vị tha nhân tác giá y thường Lời bàn : Rất hiếm những bài thơ về người lao động bình dân . P.H.N 2004 7
  8. Việt Nam có bài thơ “Bần nữ thán” không rõ tác giả . Chắc cũng có ảnh hưởng từ bài Bần nữ . dịch thơ Lụa là chưa bén mùi sang, Muốn cậy băng nhân ngại bẽ bàng. Ai thích thanh cao giàu cách điệu, cùng thương mộc mạc kém thời trang. Dám khoe mười ngón đường kim khéo, Không cậy đôi mi nét kẻ trường. Ngán nỗi hàng năm thêu áo cưới, để người làm dáng với tân lang (Lí Phúc Điền dịch) 4. Cầm sắt 锦瑟 Jǐn sè Lí Thương Ẩn 李 商 隐 Lǐ Shāng Yǐn Jǐn sè wū duān wǔ shì xián 锦瑟无端五十弦 Yī shēng yī zhù sí huā nián 一弦一柱思花年 Zhuang shēng xiǎo mèng mī hú diè 庄生晓梦迷蝴蝶 Wàng dì chūn xīn tuō dǔ juan 亡帝春心托杜鹃 Qiāng hǎi yuè míng zhū yǒu lèi Lan Tián rì nuǎn yù shēng yān 沧海月明珠有泪 Cǐ qíng kě dāi chéng zhuī yì 蓝田日暖玉生烟 Zhǐ shì dāng shí yǐ wǎng rān 此情可待成追忆 只是当时已惘然 C Đàn cầm sắt 50 dây, biết đâu là manh mối ! Cầm sắt vô đoan ngũ thập huyền Mỗi giây một trụ đàn nghĩ về tuổi hoa niên Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên Trang sinh giấc mộng buổi sớm mơ hoá bướm Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp Vọng đế lòng xuân gửi vào chim đỗ quyên, Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên (Tiếng đàn như) bể xanh trăng sáng, ngọc trai ứa lệ Thương hải nguyệt minh, châu hữu lệ ấm áp trời Lam Điền, ngọc sinh khói vẩn . Lam Điền nhật noãn, ngọc sinh yên Tình này còn dằng dai ghi nhớ mãi Thử tình khả đãi thành truy ức Hay chỉ là nỗi lòng gắt gay trong thoáng chốc ! Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên P.H.N 2004 8
  9. Chú thích : Theo truyền thuyết cây đàn đầu tiên 50 dây do thần linh chế tác, giao cho nữ thần Tố Nữ giữ và dạy người biết đàn. Từ đó sinh ra thể tài “tranh tố nữ” vẽ các nữ diễn viên, nhạc công . Thành ngữ nói “ duyên cầm sắt ” . Ý nói mối duyên đẹp, lãng mạn như cây đàn cầm sắt . Trang sinh : Trang Chu nhà triêt học cổ đại với “ giấc mơ hoá bướm” . Vọng đế : vua nước Thục thời cổ đại, theo truyền thuyết nhường ngôi cho viên tướng Miết Linh sau mất luôn cả vợ, khi chết hoá thành con chim (đỗ quyên, đỗ vũ, tử qui, chim cuốc) kêu “ quốc quốc “ tiếc rẻ ngai vàng . Lam Điền : một vùng núi ở tỉnh Thiểm Tây nơi có nhiều ngọc quí . Chúng tôi đã hiệu đính phần dịch nghĩa rất nhiều khi dùng bản của ông Phú. Bản “Đường thi tam bách thủ” của ông Ngô Văn Phú in sai : Câu 1 : huyền : dây đàn ( xián : 弦) ghi thành ( xuán : 玄) nghĩa là màu đen, huyền bí . Câu 3 : hồ : 蝴 ( hồ điệp: con bướm ) thành: 湖 (cái hồ ao) Lời bàn : Lí Thương Ẩn làm thơ phong cách lãng mạn, đài các quí tộc . Phần sau ta sẽ còn đọc bài “Vô Đề” của ông quen thuộc hơn với người Việt Nam . . . 5 . Chương Đài liễu 章 台柳 Zhang tái lǐu Hàn Hoành (韩 横 Hán Héng) và Liễu thị (柳 氏 Liǔ shì) Giai thoại : Hàn Hoành (hoặc Hàn Hồng) hồi trẻ chưa thành danh, yêu nàng kĩ nữ tên Liễu thị rồi cưới nàng làm thiếp. Sau Hàn đi làm quan nơi xa, gặp thời chiến loạn nên không mang theo Liễu thị, để nàng ở lại phố Chương Đài, kinh đô Trường An . Ba năm sau, Hàn cho người mang một gói vàng và lá thư về cho Liễu . Lá thư ghi một bài thơ . Đọc thư, Liễu cảm động rơi lệ, cảm tác bài thơ hồi đáp mà gửi cho Hàn. Về sau Liễu thị bị viên tướng kiêu binh là Sa Tra Lợi bắt làm thiếp, rất ưu ái nàng . Ngày trở về Hàn Hoành chỉ biết buồn bã khôn nguôi chẳng biết làm sao được. May sao có một người bạn là Hứa Tuấn cảm thông với Hàn, dũng cảm lập mưu cướp lại Liễu thị đưa về cho Hàn . Vợ chồng thi nhân lại được xum họp đầm ấm 章台柳 章 台柳 Zhang Tái lǐu , Zhang Tái lǐu 昔日青 青今在否 Xī rì qing qing jin zài fǒu 纵 使长条自旧垂 Zòng shǐ cháng tiáo zi jiù chúi 也应 攀折他人手 Yě xing pan zhè tā rén shǒu Liễu Chương đài CHƯƠNG ĐÀI LIỄU Liễu Chương Đài, liễu Chương Đài ! Chương Đài liễu, Chương Đài liễu.! Ngày trước xanh xanh nay còn không ? Tích nhật thanh thanh kim tại phủ ? Cho dù cành dài còn rủ xuống như hồi ấy Túng sử trường điều tự cựu thuỳ Có lẽ đã bẻ vào tay người khác rồi . Dã ưng phan chiết tha nhân thủ. P.H.N 2004 9
  10. (Dị bản : câu chót là « Cũng nên bẻ vào tay người khác », Hàn Hoành tỏ ý thông cảm với Liễu thị cho dù nàng có đi theo người khác ) Dịch thơ: Liễu ơi, hỡi Liễu Chương Đài Ngày xưa xanh biếc, hỏi nay có còn ? Ví tơ buông vẫn xanh rờn, Hay vào tay khác có còn nguyên xưa ? Liễu thị hồi đáp : 柳 氏 回 答 (Liǔ shì húi dà) 杨 柳 枝 被 芳 非 节 Yāng lǐu zhī , fāng fēi jiè 所 恨 年 年 赠 离 别 Suǒ hèn nián nián zèng lí bié 一 叶 随 风 忽 报 秋 Yi yè súi féng hù bào qiu Zòng shǐ jūn lái q kan zhè 纵 使 君 来 起 堪 折 ǐ Liễu thị trả lời : Cành dương liễu đang độ tốt tươi Dương liễu chi, phương phi tiết Đáng giận năm năm phải tặng cho sự biệt li Khả hận niên niên tặng li biệt Một chiếc lá theo gió chợt báo thu sang Nhất diệp tuỳ phong hốt báo thu, Cho dù anh có đến thì làm sao có thể bẻ được nữa ! Túng sử quân lai khởi kham chiết ! Dịch thơ : Xanh non cành liễu đương tươi Năm năm luống để tặng người biệt ly Thu sang quyện lá vàng đi Chàng về biết có còn gì bẻ vin ! Lời bàn : Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du viết : Nhớ lời nguyện ước ba sinh. Xa xôi ai có thấu tình chăng ai ? Khi về hỏi liễu Chương Đài cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay ? Bà Huyện Thanh Quan cũng viết : CẢNH CHIỀU HÔM Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn Gác mái ngư ông về viễn phố Gõ sừng mục tử lại cô thôn Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Dặm liễu sương sa khách bước dồn Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ Lấy ai mà kể chuyện hàn ôn ! Hai thi sĩ Việt Nam đều tâm đắc hình ảnh Liễu Chương đài và vận dụng rất tự nhiên. Nguyễn Du nghĩ về tình trai gái khi chọn cây liễu Chương Đài, để viết về tâm trạng Thuý Kiều (cô P.H.N 2004 10
  11. tưởng tượng rằng khi chàng Kim quay lại tìm mình sẽ bồi hồi lo lắng thế nào ) . Còn Bà Huyện Thanh Quan có lẽ viết về người tri âm tri kỉ chứ không hẳn tình yêu trai gái. Chẳng lẽ bà lại nghĩ chồng như «liễu». Mỗi nghệ sĩ yêu cây liễu theo cách khác nhau. Nhìn thấy dáng liễu ai mà chẳng khỏi yêu . Ở Việt Nam cây liễu rất hiếm hoi, đôi khi có ở miền Bắc, nhất là Hà Nội, cây dương liễu còn là một biểu tượng của Thăng Long Hà Nội . Bờ hồ Hoàn Kiếm có một ít cây xoã tóc ven bờ nước. Trong sân vườn khách sạn La Thành phố Đội Cấn có hàng liễu xanh lả lướt chào đón khách . Có lần lang thang trong Công viên hoa Đà Lạt, ta mừng rỡ gặp liễu (Tháng 8 năm 2003 dẫn đoàn SV khoá 1C đại học Ngữ văn đi thực tế Đà Lạt) . Hỏi ra mới biết đó là tràm bông đỏ chứ không phải liễu. . . Soạn giả không thích câu thơ Xuân Diệu ”Rặng liễu âm thầm đứng chịu tang . Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng ”. Câu thơ chỉ bày tỏ được cái khéo bút ! Nhà thơ Xuân Diệu sử dụng điển cố của Đường Thi khá áp đặt, giống như ông Huy Cận khi viết cấu cuối của Tràng giang. Trong phim Trung Quốc, các lâu đài vườn cảnh quí tộc đều thấp thoáng bóng liễu xanh. Cảnh an nhàn thong thả hiện ra dưới cành liễu hiền hoà đu đưa. Ôi liễu xanh, biết nói mấy cho vừa ! Thật không gì sánh nổi với Liễu Xanh. Ước sao trong cái vườn nghỉ hưu của mình sau này sẽ mọc lên một bóng liễu xanh xanh . . . 6. Cung oán 宫怨 Gōng yuàn Tư Mã Lễ 司马礼 Si Mă Lǐ Liǔ yǐng cēn cī yǎn huà lóu 柳影参差掩画楼 Xiǎo yīng tí sòng mǎn gōng chóu 晓莺啼送满宫愁 Nián nián huā luò wū rén jiàn 年年花落无人见 Kōng zhú chūn quán chù yù gōu 空竹春泉出御沟 O Nỗi oán hờn trong cung Cung oán Bóng liễu loi thoi che lầu hoạ vẽ Liễu ảnh sâm si yểm hoạ lâu Sáng sớm tiếng oanh hót xua nỗi buồn ngập cung điện Hiểu oanh đề tống mãn cung sầu Hàng năm hoa rụng chẳng ai để ý Niên niên hoa lạc vô nhân kiến Như con quay theo suối xuân chảy ra theo dòng ngự Không trục xuân toàn xuất ngự câu Nỗi oán hờn trong cung P.H.N 2004 11
  12. Tháp cao bóng liễu che lầu. Oanh kêu giục giã tiếng sầu đầy cung, Hoa rơi nào thấy ai trông, Luống theo ngọn suối ra vùng ngự câu (Nguyễn Huy Như dịch) Chú thích - Dòng ngự : dòng nước suối (giả) trong vườn nhà vua Tuy không nói rõ “ai ” (vô nhân) nhưng ta biết đó là nhà vua. Lời bàn : Không khỏi nhớ đến Cung oán ngâm khúc viết bằng chữ Nôm của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều Nhà thơ Việt Nam đã viết một bản ngâm khúc song thất lục bát, dài tới 356 câu, thoả mãn hơn bài tứ tuyệt của thi sĩ họ Tư Mã nhà Đường. Mặt khác Ôn Như Hầu còn mượn thân phận người cung nữ để than thở số phận mình, khát vọng của nhà thơ, triết lý của nho sĩ trước cuộc đời nhốn nháo thời Lê- Trịnh, cũng như Nguyễn Du than tiếc nàng Tiểu Thanh cũng là tự than vãn số phận mình (Độc Tiểu Thanh ký). 7. Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ Vương Duy 王 维 Wáng Wēi Jiǔ yuè jiǔ rì yì Shan Dong xiong dì 九 月 九 日 忆 山 东 兄 弟 Dù zài yì xiang wei yì kè 独 在 异 乡 为 异 客 Měi féng jia jiè bèi si qin 每 逢 佳 节 倍 思 亲 Yao zhi xiong dì deng gao chù 遥 知 兄 弟 登 高 处 Biàn chā zhū yu shǎo yi rén 遍 插 茱 臾 少 一 人 X Dịch nghĩa : Ngày Tết 9 tháng 9 nhớ anh em Sơn Đông Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ Một mình ở xứ lạ làm người khách lạ Độc tại dị hương vi dị khách, Mỗi lần tiết đẹp càng nhớ những người thân thích bội phần. Mỗi phùng giai tiết bội tư nhân. Tuy ở xa cũng đoán biết nơi anh em đang lên cao , Dao tri huynh đệ đăng cao xứ, Ai ai cũng cài cành thù du, chỉ thiếu một người. Biến sáp thù du thiểu nhất nhân. Dịch thơ: P.H.N 2004 12
  13. Chiếc gối quan hà nghiêng đất khách; Trùng dương tiết đến nhớ thương ai. Cành thù tưởng lúc lên cao bẻ, Đủ mặt anh em thiếu một người. (Tùng Văn. dich) Lời bàn : Câu mở đầu : “Một mình làm khách lạ nơi đất lạ”. Hai tiếng “lạ”, bị “lạ” tới hai lần thì càng buồn hơn ! SV chú ý phân tích ý thơ như sau : ở ngay quê nhà có người vẫn là “khách lạ” đối với người làng, nhưng chỉ “lạ” một lần thôi. Đến ở xứ lạ thì bị lạ tới hai lần. Lại chỉ một mình” nữa. Câu thơ mở đầu ngắn thế mà tầng tầng lớp lớp . . . Vương Duy, người thực là bạn tri âm của muôn đời ! 8. Dao sắt oán 瑶 瑟 怨 Yáo sè yuàn Ôn Đình Quân 温 庭 均 Wēn Tíng Jūn Bīng diàn yīn chuáng mèng bù chéng 冰 簟 银 床 梦 不 成 Bì tiān rū shuǐ yè yūn qīng 碧 天 如 水 夜 云 轻 Yàn lái yuǎn guó Xiāo Xiāng qù 雁 来 远 过 潇 湘 去 Shì èr lóu zhōng yuè zì míng 十 二 楼 中 月 自 明 C Nỗi oán của đàn ngọc Dao sắt oán Chiếu băng, giường bạc, mộng không thành Băng điếm ngân sàng mộng bất thành Trời xanh như nước, mây đêm mỏng nhẹ Bích thiên như thuỷ dạ vân khinh Tiếng nhạn xa đã bay qua Tiêu Tương Nhạn lai viễn quá Tiêu Tương khứ Trong khoảng mười hai lầu, một vầng trăng tự sáng Thập nhị lâu trung nguyệt tự minh dịch thơ : Chiếu băng, giường bạc, mộng không thành Mỏng nhẹ mây đêm, trời nước xanh Qua khỏi Tiêu Tương, tiếng nhạn đuối Mười hai lầu vắng, một vầng trăng (NVPhú) P.H.N 2004 13
  14. Chú thích : sông Tiêu Tương xem điển cố ở bài Tương Giang (bài số 87) . Ở đây nói nỗi niềm tương tư trai gái. Ôn Đình Quân sống thời Vãn Đường, phần nhiều thơ ông viết về tình yêu . Lời thơ tình yêu rất kín đáo, tao nhã. 9. Diễm nữ từ 艳女词 Yǎn nǔ cí Lương Hoàng 梁簧 Liang Huáng Lù jǐng táo huā fà 露井桃花发 Shuāng shuāng yàn jìng fēi 双双燕静飞 Měi rén zī tài lǐ 美人姿态里 Chūn sè shàng luō yī Zì ài pín kuī jìng 春色上罗衣 Shí xiū yù yàn fēi 自爱频窥镜 Bù zhī xíng lǔ kè 时羞欲掩扉 Yāo rě wǔ xiāng gui 不知行路客 遥惹五香归 v Bài ca người đẹp Diễm nữ từ Hoa đào lộ tỉnh mọc ra Lộ tỉnh đào hoa phát P.H.N 2004 14
  15. Song đôi chim yến thảnh thơi bay Song song yến tịnh phi Mĩ nhân trong một dáng vẻ riêng Mĩ nhân tư thái lý vẻ xuân xinh trên tấm áo lụa Xuân sắc thượng la y Hài lòng nhiều lần ngắm mình Tự ái tần khuy kính Lúc lại e thẹn muốn kéo cửa che Thời tu dục yểm phi Chẳng biết có khách đang đi bên ngoài Bất tri hành lộ khách từ xa đã thưởng thức mùi thơm ngũ hương Dao nhạ ngũ hương qui Dịch thơ : Hoa đào lộ tỉnh mới khai Song song chim yến thảnh thơi lượn vòng Ấy là người đẹp tư dung Vẻ xuân mơn mởn ở trong áo là Soi luôn nét mặt đậm đà Ngượng ngùng có lúc cửa hoa muốn cài Hay đâu có khách dạo ngoài Xa xa hưởng lấy những mùi hương thơm (Trần Trọng Kim) Chú thích và lời bàn : Có loại hoa đào tên là “lộ tỉnh”. “Ngũ hương” còn gọi “thanh mộc hương” là một loại hương mĩ phẩm phụ nữ dùng trang điểm. Bài thơ tả một mĩ nhân với tâm lí rất tinh tế, thú vị . Mĩ nhân nửa muốn phô ra sắc đẹp nửa lại e ngại muốn che giấu. Nhưng mùi hương thơm đã phát lộ thì không che giấu được, khách đi đường đã phát hiện thấy rồi . “Diễm” và “lệ” là một vẻ đẹp đặc biệt của người con gái đẹp, khác với chữ “mỹ” 美 thông thường. Chữ “diễm” gồm những nét khá phức tạp, có bộ “ sắc” bên phải, bên trái dưới gồm bộ “đậu”, trên là 2 bộ “điền” cân đối và hai bộ “thập” đối xứng. Chữ “lệ” cũng rất hoa mĩ. Mĩ học Trung Hoa quả là phong phú . Nhìn nét chữ đã thấy người đẹp lạ . Diễm lệ 艳 丽(Hán cổ) và Diễm lệ 艳 丽( Hán mới) 10 . Dịch thuỷ tống biệt 易水送别 Yì shuǐsòng bié Lạc Tân vương 骆宾王 Lùo Bin Wáng Cǐ dì bié Yān Dān 此地别燕丹 Zhuàng shì fà chōng guān 壮士发冲冠 Xì shí rén yǐ mèi Jīn rì shuǐ yóu hán 昔时人已没 今日水犹寒 Chia tay ở sông Dịch Nơi này từ biệt Yên Đan Thử địa biệt Yên Đan Tráng sĩ tóc dựng cả mũ Tráng sĩ phát xung quan Người xưa đã mất rồi Tích thời nhân dĩ một Nước sông còn lạnh buốt Kim nhật thuỷ do hàn P.H.N 2004 15
  16. Lời bàn : Cảm hứng vịnh sử, thi nhân nghĩ về thời cuộc. Lúc này, thi nhân nhớ đến một anh hùng thất thế ( hiệp sĩ Kinh Kha thời Chiến quốc liều mình đi ám sát Tần Thuỷ Hoàng không thành) . Điều đó không phải ngẫu nhiên vô tình. Nhà thơ mong muốn một bậc anh hùng xuất hiện ngay giữa thời nhà Đường để trừng trị kẻ hôn quân . Nhà thơ cũng tiếc cho bao anh hùng đã hi sinh vô ích. . . Hình ảnh “nước sông còn lạnh buốt” là trọng tâm dồn nén xúc cảm. Lạnh buốt là nỗi đau hôm nay chứ không phải nỗi đau ngày xưa . . . Khi phân tích, sinh viên cần chú ý vào câu cuối này thì mới có đường phát triển ý tưởng bình luận . 11. Du tử ngâm Mạnh Giao 孟郊 Mèng Jiāo Yóu zǐ yīn 游子吟 Cí mǔ shǒu zhōng xián 慈母手中线 Yóu zǐ shēn shàng yī 游子身上衣 Lín xíng mì mì féng Yì kǒng chí chí guī 临行密密缝 Shuí yān cùn cǎo xīn 意恐迟迟跪 Bào dè sān chūn huī 谁言寸草心 P.H.N 2004 16
  17. 报得三春晖 Khúc ngâm của đứa con đi xa Mẹ hiền sợi chỉ trong tay Từ mẫu thủ trung tuyến Con xa mặc áo trên thân Du tử thân thượng y Sắp đi, mũi chỉ càng kĩ lưỡng Lâm hành mật mật phùng Lo lắng con chờ lâu Ý khủng trì trì qui Ái bảo tác lòng cỏ đau Thuỳ ngôn thốn thảo tâm Đáp ơn bóng nắng ba xuân Báo đắc tam xuân huy Mẹ từ sợi chỉ trong tay, Trên mình du tử áo may vội vàng. Sắp đi mũi chỉ kĩ càng, Sợ con đi đó nhỡ nhàng chờ lâu. Chút lòng tấc cỏ dễ đâu, Bóng ba xuân đáp ơn sâu cho vừa. (KD) Lời bàn : Người Trung Quốc đặc biệt coi trọng chữ Hiếu . Thành ngữ tục ngữ khá nhiều về đức tính này . Tập truyện kể “Nhị thập tứ hiếu” trở thành sách học của trẻ em Trung Hoa từ bao đời . Cấu tạo chữ “hiếu” đã thể hiện rõ ý nghĩa .孝 gồm 2 phần : phần trên là bộ phận chính của chữ lão (già), phần dưới là chữ tử (con) . Con phải ở dưới, đội cha mẹ già ở trên đầu. Từ xưa đã vậy, ngày nay nói nữa vẫn không thừa ! 孝 12. Đào hoa khê 桃花 溪 (Táo huā xī) Trương Húc ( 张旭) Zhang Xù Yǐn yǐn fēi qiáo gè yě yān 隐隐飞桥隔野烟 Shí chí xī pàn wèn yú chuán 石矶西畔问渔船 Táo hāu jìn rì suì liū shuǐ 桃花尽日随流水 P.H.N 2004 17
  18. 洞在清溪何处边 Dòng zài qīng xī hé chù biān dịch nghĩa Suối hoa đào Đào hoa khê Ẩn hiện cầu treo sau làn khói đồng Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên Ở phía tây hòn đá, hỏi thăm thuyền chài : Thạch cơ tây bạn, vấn ngư thuyền Hoa đào suốt ngày trôi theo dòng nước Đào hoa tận nhật tuỳ lưu thuỷ động suối trong về phía bên nào ? Động tại thanh khê hà xứ biên ? Cầu bay cách khói mờ mờ, Hỏi thăm thuyền cá đậu bờ đá kia. Suốt ngày nước chảy hoa đi, Chẳng hay trong suối, động kề mé nao? ( Trần Trọng Kim dịch ) Lời bàn : Ý tưởng chủ yếu của bài thơ là “suối hoa đào” gợi nhớ điển cố suối Đào nguyên và hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đi hái thuốc gặp suối Hoa Đào, rồi tìm thấy động Thiên Thai nơi ở của thần tiên. Cảm hứng Đạo giáo thấp thoáng trong thơ. Nhớ tới bài thơ “ Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu , “Vô đề” của Lí Thương Ẩn đều mơ tưởng đi tìm cõi Bồng Lai - một chốn thần tiên khác. 13. Đáp nhân Thái thượng ẩn giả 太尚 隐者 Tài shàng yǐn zhè Dá rén 答人 Ǒu lái sóng shù xià 偶来松树下 P.H.N 2004 18
  19. Gao zhěn shí tóu mián 高枕石头眠 Shān zhōng wū lì rì 山中无历日 Hán jìn bù zhī nián 寒尽不知年 dịch nghĩa Trả lời người Đáp nhân Ngẫu nhiên đến dưới gốc cây tùng Ngẫu lai tùng thụ hạ gối đầu lên tảng đá mà ngủ Cao trẩm thạch đầu miên Trong núi không có lịch ngày tháng Sơn trung vô lịch nhật Lạnh đã hết, không biết đến tháng năm ! Hàn tận bất tri niên Lời bàn : Câu kết cho thấy : nhà thơ chỉ biết thời gian khi cảm thấy cái lạnh cái nóng của mùa vụ, không cần biết đến ngày giờ. Ây là cuộc sống xuất thế, tránh khỏi mọi tục luỵ, vui với núi non ung dung tự tại. Xã hội nhiễu nhương khiến thi nhân chán ngán mà tìm vào nơi núi non làm bạn với cây tùng . Hình ảnh cây tùng là biểu tượng cứng cỏi, hiên ngang, chịu đựng của người quân tử, bậc cao nhân . 14. Đăng cao 登 高 Dēng gāo Đỗ Phủ 杜 甫 Dù Fǔ Fēng jì tiān gāo yuān xiào āi 风 急 天 高 猿 啸 哀 P.H.N 2004 19
  20. Zhǔ qīng shā bái niǎo fēi huí 渚 清 沙 白 鸟 飞 回 Wū biān lè mù xiāo xiāo xià 无 边 乐 木 萧 萧下 Bù jìn Cháng jiāng gǔn gǔn lái 不 尽 长 江 滚 滚来 Wàn lǐ bēi qiū cháng zuó kè 万 里 悲 秋 常 作 客 Bái nián duō bìng dú dēng tái 百 年 多 病 独 登台 Jiān nán kǔ hèn fán shuāng zuǎn Liào dǎo xīn tíng zhuó jiǔ béi 艰 难 苦 恨 繁 霜纂 潦 倒 新 亭 浊 酒 杯 V Gió thổi mạnh, trời cao, tiếng vượn hót buồn thương, Phong cấp thiên cao viên khiếu ai Trên bến trong, cát trắng, chim bay trở về tổ Chử thanh sa bạch điểu phi hồi Biết bao cây rụng lá càng xơ xác tiêu điều Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ Sông Trường Giang dài vô tận chảy cuồn cuộn Bất tận Trường Giang cổn cổn lai Vạn dặm mùa thu buồn, thường chà đạp khách, Vạn lí bi thu thường tác khách Cõi đời trăm năm, nhiều bệnh một mình bước lên đài. Khổ hận gian nan (làm cho) búi tóc nhuộm đầy sương Bách niên đa bệnh độc đăng đài Lận đận gần đây phải ngừng chén rượu đục Gian nan khổ hận phồn sương mấn Lạo đảo tân đình trọc tiểu bôi dịch thơ Trèo lên cao Gió mạnh trời cao vượn réo sầu Bến trong cát trắng, chim về đâu ? Mênh mông cây rụng hiu hiu trải, cuồn cuộn Trường Giang chảy chảy mau. Muôn dặm sầu thu, thường tác khách, Trăm năm đa bệnh, dạo đài cao. Gian nan khổ hận đầu mau bạc, lận đận đành thôi chén rượu đào. (Ngô Văn Phú) Ghi chú: Chén rượu đục: ý nói rượu xoàng, rẻ tiền. Bản Đường thi tam bách thủ ( soạn giả Ngô Văn Phú) chép sai một số chữ : Câu 5: dịch nghĩa sai là “Muôn dặm sầu thu thường là khách xa nhà “. Câu 7: “khổ hận” dịch sai là “khổ hạnh” . Câu 8 : tửu bôi (chén rượu) viết sai là “ tiểu bối”. Tân đình : dịch sai là “mới phải ngừng”, dịch đúng nghĩa là : “gần đây phải ngừng”. 15. Đăng U châu đài ca 登 幽 州 台 歌 Dēng You zhou tái gē Bài ca trèo lên đài U Châu P.H.N 2004 20
  21. Trần Tử Ngang 陈 子 横 Chén Zǐ Hēng 前 不 见 古 人 Qián bù jiàn gǔ rén Hòu bù jiàn lái zhè 后 不 见 来 者 Xiǎng tiān dì zhī yōu yōu 想 天 地 之 悠 悠 Dú lián rán ér tì xià 独 怜 然 而 涕 下 . Ngó trước không thấy (ai giống như) người xưa Tiền bất kiến cổ nhân Nhìn về sau, chưa thấy người mới tới Hậu bất kiến lai giả Nghĩ trời đất mênh mông chơi vơi Niệm thiên địa chi du du Một mình thương cảm, bỗng nhiên nước mắt rơi xuống Độc thương nhiên nhi thế hạ Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ, Trông về sau quạnh quẽ người sau. Ngẫm hay trời đất dài lâu, Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan ( KD) Lời bàn : Đài U Châu về sau được xây dựng thành Bắc Kinh Người soạn nghĩ rằng bài thơ mang cảm hứng lớn. Cái người mà nhà thơ trông đợi ấy phải là một nhân vật lý tưởng của thời đại, bậc anh hùng cái thế, minh quân của đất nước Trung Hoa. Khẩu khí bài thơ cho thấy Trần thi sĩ nghĩ về vận mệnh đất nước. Nỗi cô đơn của ông là tâm sự của một người ưu thời mẫn thế . Một ngày nọ trong buổi chấm Luận văn của SV Dương Thuý Hằng do người soạn hướng dẫn (tháng 5/2004), ông bạn Phan Nhật Chiêu (Đại học KHXH-NV thành phố Hồ Chí Minh) được mời phản biện, lại bảo đó là “ tâm sự một người thất vọng trong tình bằng hữu ”. Soạn giả thật ngỡ ngàng ! Chẳng lẽ là vậy ? Văn chương đa nghĩa, gây ra những cảm nhận khác nhau. Trần Tử Ngang đồng tình với Phùng Hoài Ngọc hay với ông Phan Nhật Chiêu nhỉ ? Có phải Chế Lan Viên từng viết: “ Ôi thương thay những thế kỉ vắng anh hùng / Những thế kỉ thiếu người mang thanh gươm nghìn cân ra trận” (“Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi”). Soạn giả tin rằng Chế Lan Viên có cùng tâm sự, cảm hứng lớn lao như Trần Tử Ngang tiền bối . 16. Đằng vương các tự 藤王阁 序 Téng wáng gé xù P.H.N 2004 21
  22. Bài tựa đề gác Đằng Vương Vương Bột 王 勃 Wáng Bó Luò xiá yǔ gū wù qí fēi 落霞与孤骛齐飞 Qiū shuǐ gòng cháng tiān yī sè 秋水共长天一色 ( . . .) ( 。。。) Téng Wāng gāo gè lín jiāng zhǔ 藤王高阁临江诸 Pèi yù míng luān bà gē wǔ 佩玉鸣銮罢歌舞 Huà dòng zhāo fēi Nán pǔ yūn 画栋朝飞南浦云 Zhū lián mù juǎn Xī Shān yǔ 朱帘暮卷西山雨 Xián yūn tán yǐng rì yōu yōu Wù huán xīng yí jǐ tù qiū 闲云潭影日游游 Gè zhōng dì zǐ jīn hé zài ? 物换星移几度秋 Kǎn wài cháng jiāng kōng zì liū 各中帝子今何在 槛外长江空自流 O Ráng chiều với cánh cò lẻ cùng bay Lạc hà dữ cô vụ tế phi Nước thu cùng trời dài một sắc Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc ( . . . ) ( . . . ) Toà lầu Đằng Vương cao ngất bên bãi sông Đằng vương cao các lâm giang chử Đeo ngọc rung chuông ngừng hát múa Bội ngọc minh loan bãi ca vũ Buổi sớm mây từ của bể Nam bay quanh nóc nhà chạm vẽ Hoạ đống triêu phi Nam phố vân Buổi chiều, rèm son cuốn , (thấy) cảnh mưa ở núi phía Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ Tây Nhàn vân đàm ảnh nhật du du Mây lơ lửng, đầm lồng bóng, chuỗi ngày dài dặc trôi Vật hoán tinh di kỉ độ thu Vật đổi sao dời, thu qua bao độ ? Các trung đế tử kim hà tại ? Con vua trong gác nay thấy đâu ? Hạm ngoại trường giang không tự lưu Ngoài hiên, sông dài cứ chảy hoài . Chú thích : Đằng Vương là tước hiệu của Lí Nguyên Anh, con vua Đường Cao Tổ, Lí đã dựng một toà lầu ở Nam Xương, bên sông Tầm Dương, gọi tên là Đằng Vương các (các= gác= lầu) dịch thơ : Gác Đằng cao ngất bãi sông thu Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu ? Nam phố mây mai quanh nóc vẽ Tây sơn mưa tối, cuốn rèm châu Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi Mấy phen vật đổi với sao dời Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá ? Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài ! (Tương Như dịch) P.H.N 2004 22
  23. Lai lịch và giai thoại Vương Bột : Vương Bột tự là Tử An , 16,17 tuổi đã nổi tiếng thần đồng, hạ bút thành thơ. Cha Vương Bột làm thứ sử Giao Châu (Việt Nam), anh đi thăm cha , bị đắm thuyền chết ngoài biển, yểu thọ với 29 tuổi. Bài thơ trên trích ra từ bài phú thể biền ngẫu (cũng gọi là bài “Tự” hoặc Tựa) là “ Đằng Vương các tự” nhân dịp một bữa tiệc lớn được tổ chức ở Đằng vương các. Vương Bột đọc theo yêu cầu của chủ nhân. Bài phú được mọi người tán thưởng, thán phục tài hoa của chàng thi sĩ trẻ . Nhưng về sau có người chê rằng “hai câu thơ đầu còn có chỗ dở”. . . Truyền thuyết kể rằng sau khi chết, hồn Vương Bột còn uất ức vì chưa hiểu tại sao người ta chê thơ mình nên đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên bãi biển, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng ngâm hai câu thơ trên và hỏi “ta dốt ở chỗ nào xin chỉ giúp” . Nhưng ai cũng chỉ khen hay. Hồn Vương không hài lòng, mắng sĩ tử kia còn dốt hơn, đi thi khoa này ắt không đậu . Quả thật mấy người bị mắng đều thi rớt . Hồn Vương Bột sau đấy vẫn cứ dật dờ trên bãi biển. Ngày nọ có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn ma Vương Bột lại hiện hình níu áo hỏi . Chàng văn nhân cười bảo : “ Nhà người từng nổi tiếng “tứ kiệt Sơ Đường” mà bao năm không nhận ra cái dốt của mình ư ? ” . Nói xong dứt áo quay đi . Hồn Vương tha thiết nài nỉ khách giải thích . Khách văn nhân nghĩ chẳng đành phụ lòng cố thi nhân họ Vương bèn nói : “ Hai câu thơ thừa chữ “ dữ” (với) và “ cộng” (cùng) . Nếu bỏ hai chữ ấy thì câu thơ thật tuyệt, gọn và thanh thoát lại liền mạch : Lạc hà cô vụ tề phi Thu thuỷ tràng thiên nhất sắc Hồn Vương Bột ngẩn người hiểu ra, bèn bái tạ vị khách qua đường Từ đó không ai còn nhìn thấy bóng ma nhà thơ trẻ tài hoa Vương Bột xuất hiện nữa. Lời bàn: Chao ôi, sao lại có câu chuyện luỵ văn chương bi thiết mà thú vị đến thế ! Vì sao bao người khen bài thơ hay mà không nhận ra hai từ dư thừa. ? Người chê Vương Bột sao lại chẳng chịu nói ra ? Bỉ nhân cho rằng cái tài năng lập ý, chọn cảnh vật đã cao siêu đến nỗi nó lấn át hai giới từ dư thừa (dữ, cộng) khiến nhiều người không biết. Cho hay, văn chương chẳng biết đâu là bến bờ hoàn hảo. Thi sĩ Vương Bột chết thành ma vẫn trăn trở không thể siêu thoát được. Hồn ma ông vẫn muốn làm cho câu thơ được toàn bích. Câu chuyện sáng tạo văn chương công phu như thế thực là kỳ thú lắm ! P.H.N 2004 23
  24. 17. Đề đô thành nam trang ( đề tích sở kiến xứ) Thôi Hộ 崔 护 Cuí Hù Tí du chéng nán zhuang 题 都 城 南 庄 ( Tí xì suǒ jiàn chù) ( 题 昔 所 见 处 ) Qù nián jīn rì cǐ mén zhong 去 年 今 日 此 门 中 Rén miàn táo huā xiāng yìng hóng 人 面 桃 花 相 映 红 Rén miàn bù zhi hé chù qù 人 面 不 知 何 处 去 Táo huā yī jiù xiào chūn feng 桃 花 依 旧 笑 东 风 v Ghi ở trang trại phía nam đô thành Đề đô thành nam trang (Đề chỗ nhìn thấy gây ấn tượng) ( Đề tích sở kiến xứ) Năm trước ngày này ngay cửa này Khứ niên kim nhật thử môn trung Mặt người, hoa đào ánh hồng lẫn nhau . . . Nhân diện, đào hoa tương ánh hồng Mặt người chẳng biết đã đi đâu Nhân diện bất tri hà xứ khứ Vẫn hoa đào năm ngoái đang cười giỡn với gió đông Đào hoa y cựu tiếu đông phong . Cửa đây năm ngoái cũng ngày này Hôm nay năm ngoái, cửa sài Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi Má phấn giờ đâu, đâu vắng tá Mặt người chẳng biết đâu rồi Hoa đào còn bỡn gió xuân đây Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông (Tản Đà dịch) (Trần Trọng Kim dịch) Ghi chú : Gió thổi từ phía đông tức là gió mùa Xuân Giai thoại về bài thơ khá phong phú, hấp dẫn. Đài Loan đã phóng tác ra một bộ phim “ Nhân diện đào hoa” nhiều tập mà chỉ dựa vào bài tứ tuyệt này . Gợi ý SV phân tích • SV cần chú ý vào chữ “ tương ánh hồng”- mặt người và hoa đào toả hồng lẫn nhau, nhà thơ không phân biệt rõ được. Vì sao không nhìn rõ ? - ấy là cách tả khéo vẻ đẹp của thiếu nữ đồng thời bộc lộ tâm trạng thi nhân say đắm ngẩn ngơ đến nỗi hoa mắt. . . • Một năm sau tìm đến, chàng chỉ chú ý “mặt người” nên vẫn coi hoa đào là “năm ngoái” mặc dù đích thực là năm nay . Bởi thế, hoa đào cười giỡn lại cái anh si tình. Đây là trường hợp độc đáo : P.H.N 2004 24
  25. người buồn mà cảnh cứ vui . Người không thèm chú ý cảnh nên cảnh nó phản lại người, nó chẳng thèm chia sẻ nỗi ngẩn ngơ của anh, nó cười vào mũi thi nhân đấy. ™ Nguyễn Du đã mựơn ý thơ để tả Kim Trọng trở lại vườn thuý không gặp Kiều: : Trước sau nào thấy bóng người Hoa đào năm ngoài còn cười gió đông (câu 2748 Truyện Kiều) ™ Nguyễn Khuyến : Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái Một tiếng trên không ngỗng nước nào 18. Đề hoa cúc Hoàng Sào 黄巢 Huáng Cháo Tí jù huā 题 菊花 Sà sà xī fēng mǎn yuán cái 飒飒西风满园才 Ruǐ hán xiāng lěng diè nán lái 蕊寒香冷蝶难来 Tā nián wǒ ruò wēi Qīng dì 他年我若为青帝 Bào yǔ táo huā yī chù kāi 报与桃花一处开 C Viết về hoa cúc Đề cúc hoa Gió tây thổi ào ạt trong vườn hoa mới nở Táp táp tây phong mãn viên tài Nhị khô hương lạnh bướm khó bay đến Nhị hàn hương lãnh điệp nan lai Năm khác nếu ta làm chúa xuân Tha niên ngã nhược vi Thanh đế sẽ truyền cho hoa đào nở ở cùng một chỗ đây. Báo dữ đào hoa nhất xứ khai Vi vút đầy vườn thổi gió tây, Nhuỵ rầu hương lạnh bướm khôn bay. Nếu xuân năm tới ta làm chúa, Truyền với hoa đào nở khắp đây. (Khương Hữu Dụng dịch) Chú thích : Vì không có bản Hán văn trong tay, người soạn bèn tự phiên âm ngược từ Việt ngữ sang Hán ngữ . Lời bàn : Lại một kiểu thơ ngôn chí của người anh hùng thất thế Hoàng Sào. Bài tứ tuyệt ngụ ý chí hướng lớn lao của Hoàng Sào, không thể nói rõ ý đồ mà phải giấu trong hình ảnh một vườn hoa dưới thời tiết lạnh buốt khắc nghiệt làm mất mùa hoa . Thời này văn nghệ tự do nên bài thơ trên được truyền tụng . Nếu vào thời Minh và nhất là Mãn Thanh thì do tinh thần cảnh giác cao độ của giai cấp thống trị ắt hẳn Hoàng Sào chưa kịp khởi nghĩa đã bị bắt giam theo luật hình ngục văn tự . Gợi ý tiếp tục tìm hiểu : Vì sao nhà thơ đang thương tiếc hoa cúc gặp phải thời tiết xấu sớm chịu tàn phai lại chuyển sang hoa đào ở câu kết vậy ? Cần so sánh hai loài hoa này. Hoa cúc bình thường, dân dã, nở mùa thu - đặc trưng cho mùa này. Hoa đào đại diện vẻ đẹp mùa xuân . Phải P.H.N 2004 25
  26. chăng bài tứ tuyệt này là lời hứa của thi nhân anh hùng Hoàng Sào muốn thay trời đổi đất, quyết tâm đem lại cảnh sắc hạnh phúc hơn nữa cho mọi người. Hoa cúc, hoa đào còn là hình ảnh tượng trưng cho con người mà nhà thơ anh hùng tự nhận vai trò chúa Xuân (Thanh đế) để ban phát sự sống cho tất cả loài hoa . 19. Điểu minh giản 鸟鸣涧 Niǎo míng jiàn Vương Duy 王 维 Wáng Wēi 人闲桂花落 Rēn xián guì huā luò Yè jǐng chūn shān kōng 夜静春山空 Yuè chù jīng shān niǎo 月出惊山鸟 Shí míng zài jiàn zhōng 时鸣在涧中 V Khe chim kêu Điểu minh giản Người thảnh thơi hoa quế rụng Nhân nhàn quế hoa lạc Đêm yên lặng non xuân vắng không Dạ tĩnh xuân sơn không Ánh trăng ló lên làm chim núi giật mình Nguyệt xuất kinh sơn điểu thỉnh thoảng hót trong khe núi Thời minh tại giản trung Người nhàn hoa quế nhẹ rơi, Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh. Trăng lên, chim núi giật mình, Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi. (Ngô Tất Tố dịch) Lời bàn: Thi nhân Vương Duy đã đi sâu vào khe núi, hoà nhập làm một với cảnh vật. Nhà thơ như đã hoá thân vào con chim núi mà giật mình khi thấy trăng lên. (Bạn đã giật mình vì trăng lên bao giờ chưa ? Có thể vì ta chẳng để ý đón chờ trăng. Có lẽ ta bị cuốn hút vào những thứ ồn ào hào nhoáng khác) . “Giật mình” trong thơ không phải là sợ hãi, hoảng hốt. . . P.H.N 2004 26
  27. Khi đọc bản dịch thơ, “tiếng kêu” của con chim núi ở cuối bài thơ khiến SV làm bài bị lạc hướng. Bởi hiểu theo tiếng thuần Việt “kêu” là sợ hãi . . . Nên bám theo nguyên tác, cảm thụ theo phiên âm Hán hoặc Hán Việt là tốt nhất. “Minh” nghĩa là “cất tiếng”, biểu lộ sự thích thú ngạc nhiên, không phải là sợ hãi. Dịch là “hót” cũng được nhưng bị trái âm. Bài thơ này là một trong nhiều trường hợp chứng tỏ rằng đọc hiểu theo bản dịch thơ rất dễ bị lầm lẫn, dù rằng bản dịch thơ đã cố gắng tối đa . 20. Đông Dương tửu gia tặng biệt 东阳酒家赠别 Dong Yang jǐu jia zèng bíe Vi Trang 韦庄 Wei Zhuang 天涯方叹异乡身 Tiān yā fāng tàn yì xiāng shēn Yòu xiàng tiān yā biè gù rén 又向天涯别故人 Míng rì wǔ gēng gū diàn yùe 明日五更孤店月 Zuì xing hé chù gè zhān jīn 醉醒何处各沾巾 Chia tay ở quán rượu Đông Dương Thiên nhai phương thán dị hương thân Nơi góc trời than thở người xa lạ Hựu hướng thiên nhai biệt cố nhân Lại hướng về bến trời từ biệt người cũ Minh nhật ngũ canh cô điếm nguyệt Sớm mai trăng cô đơn đếm hết năm canh Tuý tỉnh hà xứ các triêm cân Say tỉnh nơi nào cũng (lệ) ướt khăn Bên trời lận đận đã thương thân, Lại ở bên trời biệt cố nhân, Trăng lặn canh tàn nơi quán khách, Tỉnh say mỗi ngả lệ đầm khăn. (Khương Hữu Dụng dịch) Lời bàn : Lưu ý hình ảnh “thiên nhai” (bến trời, góc trời) dùng trong văn cổ, khác với “ thiên mạt, thiên tận”(chân trời) thường dùng nhiều hơn . “Thiên nhai” nói lên cái nơi vu vơ, khó xác định phương hướng trên đường giang hồ lưu lạc. Còn “ thiên mạt”” thiên tận” nói về nơi rất xa, xa hút. Có khi nào trong đời bạn không biết hướng quê nhà ở phía nào ? Thôi Hiệu đã có lúc như thế khi thất vọng ngơ ngác bên lầu Hoàng Hạc. Còn Vi Trang thi nhân tìm hướng “người cũ” đang ở, nơi ấy không hẳn là chốn quê nhà. P.H.N 2004 27
  28. Bài thơ bộc lộ cảm xúc bi thương của tình bằng hữu. Xa cách một người bạn nào đấy mà bi ai như xa cách người yêu vậy . 21. Độ Tang càn Giả Đảo 贾 岛 Jiă Dăo Dù Sāng qián 渡桑乾 Kè shè Jīng Zhōu yǐ shì shuāng 客舍精州已十霜 Guī xīn rì yè yì Xián Yang 归心日夜忆咸阳 Wū duān gěng dù Sāng qián shuǐ 无端更渡桑乾水 Què wàng Jīng Zhōu shì gù xiāng 却望精州是故乡 Vượt qua sông Tàng Càn Ở nhà khách Tinh Châu trải mười năm, Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương Hôm sớm Hàn Dương chỉ nhớ cố hương Qui tâm nhật dạ ức Hàm Dương Không biết vì sao qua bến Tang Càn nọ, Vô đoan cánh độ Tang Càn thuỷ Ngoảnh lại Tinh Châu (thấy) đã là quê hương . Khước vọng Tinh Châu thị cố hương Ghi chú : Viết địa danh “Tinh Châu”, ông Nguyễn Quảng Tuân trong bản Thơ Đường Tản Đà dịch đã viết sai chữ 井(jǐng) đọc là “ tỉnh” nghĩa là cái “giếng”. Tôi đã sửa lại là 精(jīng) đọc là“ tinh” có nghĩa là tinh hoa, tốt đẹp, nhỏ xinh. Tinh Châu nghĩa là cái cồn nhỏ xinh đẹp, không thể là “cái giếng”. Tinh Châu nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây . Hàm Dương tức là Trường An nơi nhà Đường đóng đô, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây. Sông Tang Càn nay gọi là sông Vĩnh Định. chảy giữa hai địa điểm trên. P.H.N 2004 28
  29. Giai thoại về Giả Đảo: Trền đường về Trường An dự thi, ông cưỡi con lừa ngâm bài thơ “ Đề Lí Ngưng u cư” tay chân khua lên : Nhàn cư thiểu lân tình Ở nhàn ít láng giềng Thảo kính nhập hoang viên Đường cỏ vào vườn hoang Điểu túc trì biên thụ Chim ngủ cây bên ao Tăng thôi nguyệt hạ môn Sư đẩy cửa dưới trăng Chưa thoả mãn với câu cuối, ông bèn đổi “thôi” (đẩy) thành “xao”: tăng xao nguyệt hạ môn (xao : gõ) . Rồi nghĩ đi nghĩ lại, vừa đi vừa đưa tay “thôi” , “ xao” liên tục khiến ai cũng thấy lạ lùng . Gặp xe ngựa quan Hàn Dũ đi qua ông không kịp tránh. Lính trói ông đưa đến trước mặt quan. Hàn Dũ hỏi , Giả giãi bày mình đang mải làm thơ . Hàn Dũ hỏi câu thơ thế nào, Giả trình bày và xin chỉ giáo. Hàn Dũ nhà thơ nhà văn lớn thời ấy đã bảo ông chọn “xao” ( tối chùa đóng cửa, ông có dám đẩy cửa (thôi) được không ? vậy phải gõ chứ !) . Từ đó người TQ dùng từ “thôi xao” để nói việc khổ luyện văn chương . Lời bàn: Bài thơ Độ Tang càn an ủi những kẻ tha hương như soạn giả và những người cùng cảnh ngộ. Lí trí đã khẳng định rằng trên đất nước mình thì đâu cũng là quê hương. Nhà thơ Giả Đảo bồi thêm một bài thơ đầy xúc cảm. Trộm nghĩ đó chỉ là một xúc cảm thoáng qua khó bền vững trong lòng người. Vậy thì câu thơ “Quê hương mỗi người chỉ một” của Đỗ Trung Quân phiến diện, dễ dãi. . . Nhà thơ Chế Lan Viên viết “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất đã hoá tâm hồn” phóng khoáng thoải mái hơn nhiều . Ai hay ai dở, ai chân lý, hỡi bạn đọc ! 22. Độc Lí Bạch tập Trịnh Cốc 郑谷 Zhèng Gǔ Dù Lǐ Bái jì 读李白诗集 Hé shì Wēn xīng yǔ Jiǔ xing 何事文星舆酒星 Yī shí zhōng zài Lǐ Xiānshēng 一时锺在李先生 Gāo yīn dà zuì sān qiān shǒu Liū zhù rén jiān bàn yuè míng 高吟大醉三千首 留著人间伴月明 Đọc tập thơ Lí Bạch Tại sao ngôi sao Văn và ngôi sao Tửu Hà sự Văn tinh dữ Tửu tinh lại cùng một lúc dồn cả vào ông Lý ? nhất thời chung tại Lý tiên sinh ? Ngâm vang lúc say khướt ba nghìn bài thơ Cao ngâm đại tuý tam thiên thủ Để lại cõi đời làm bạn với ánh trăng Lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh Cớ chi sao Rượu sao Văn, P.H.N 2004 29
  30. Đúc nên một Lý tiên sinh ở đời. Ba nghìn say đọc nên bài, Nghìn thu bạn với trăng trời sáng sao (Tản Đà dịch) Lời bàn : Hình như hễ ai kết bạn với Lí Bạch thi tiên cũng đều làm thơ về họ Lý . Nhà thơ họ Lý trở thành nguồn thơ cho nhiều người khác . Cuộc đời Lý vốn đã chứa đầy chất thơ. Có thể đó là những vẻ đẹp lạ của Lý và những tấn bi kịch của Lý đã động lòng bằng hữu ? Thi sĩ họ Lý khiến ta nghĩ đến bao nhiêu kẻ tầm thường chả dính dáng gì đến thi ca nhan nhản trên đời này. Đọc thơ khiến ta muốn được sống cùng thi tiên họ Lý ở trên đời . 23. Độc toạ Kính Đình sơn 独 坐 敬 亭 山 Dú zuò Jìng Tíng shān Lí Bạch 李白 LǐBái 众鸟高飞尽 Zhòng niǎo gāo fēi jìn 孤云独去闲 Gū yūn dù qù xián 相看两不厌 Xiāng kàn liǎng bù yàn Zhǐ yǒu Jìng Tíng shān 只有敬亭山 Một mình ngồi trên núi Kính Đình Độc toạ Kính Đình sơn Đàn chim bay đi hết Chúng điểu cao phi tận Mây lẻ thong thả trôi Cô vân độc khứ nhàn Nhìn nhau không biết chán Tương khán lưỡng bất yếm chỉ có núi Kính Đình Chỉ hữu Kính Đình san Lời bàn P.H.N 2004 30
  31. Có ba nhân vật trữ tình (chim, mây và núi), nhân vật chính là núi Kính Đình . Nhà thơ Lí Bạch đã hoá thân vào mây núi. Một tư thế sống trên đời thực là ung dung tự tại . Đây là lí do khiến người đời gọi Lý là “ thi tiên ” bởi tư thế sống ung dung như thần tiên vậy . 24. Giang tuyết 江雪 Jiāng xuě Liễu Tông Nguyên 柳宗元 Lǐu Zōng Yuan 天山鸟飞绝 Tiān shān niǎo fēi juè Wàn jìng rén zōng miè 万径人踪灭 Gū zhōu suō lì wēng 孤舟蓑笠翁 Dù diào hán jiāng xuè 独钓寒江雪 Nghìn núi chim bay mất hút Thiên sơn điểu phi tuyệt Muôn lối dấu người không thấy Vạn kính nhân tung diệt Thuyền lẻ loi, ông chài áo tơi nón lá Cô chu toa lạp ông một mình câu cá trên sông tuyết lạnh giá Độc điếu hàn giang tuyết Tuyết trên sông Nghìn non chim hết vẫy vùng, Vắng tanh muôn nẻo tuyệt không dấu người. Áo tơi nón lá ông chài, P.H.N 2004 31
  32. Con thuyền giữa tuyết ngồi hoài buông câu. Chú thích : Ttoa lạp / thôi lạp : nón áo tơi lá Lời bàn Nhà thơ Liễu Tông Nguyên hoá thân vào ông chài mùa rét , thản nhiên câu cá trên sông tuyết, nơi ấy thật xa bóng người, xa tục luỵ . [Sinh viên nên đi sâu phân tích cả 4 câu thơ để hình dung trọn vẹn chân dung nhân vật trữ tình này] 25. Hàn thực 寒 食 Hán shì Hàn Hùng 韩 雄 Hán Xióng Chūn chéng wū chù bù fēi huā 春 城 无 处 不 飞 花 Hán shì dōng fēng yùliǔ xié 寒 食 东 风 御 柳 斜 Rì mù Hàn gōng chuán là zhù 日 暮 汉 宫 传 蜡 烛 Qīng yān sàn rù wǔ hóu jiā 轻 烟 散 入 五 候 家 Tết hàn thực Thành mùa xuân chẳng chỗ nào không có hoa bay Xuân thành vô xứ bất phi hoa Tiết hàn thực gió đông thổi trên vườn liễu của vua Hàn thực đông phong ngự liễu gia Chiều tối cung điện nhà Hán truyền thắp nến Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc Khói nhẹ toả lan vào các nhà công hầu Khinh yên tán nhập ngũ hầu gia P.H.N 2004 32
  33. 26. Hành lộ nan 行 路 难 Xíng lù nan Lí Bạch 李白 Lǐ Bái 金 樽 清 酒 斗十 千 Jin zun qing jiǔ dǒu shì qian 玉 盘 珍 馐 值 万 钱 Yù pán zhen xiu zhí wàn qiān 停 杯 投 筋 不 能 食 Ting bèi tóu jin bù néng shí Bá jiàn sì gù xin máng rán 拔 剑 四 顾 心 茫 然 Yù dù Huáng hé bing sai chuan 欲 渡 黄 河 冰 塞 川 Jiang deng Tài Xing xuè àn tian Xián lái chuí diào zài qì shàng 将 登 太 行 雪 暗 天 Hù fù chéng zhou mèng rì bian 闲 来 垂 钓 在 溪 上 Xíng lù nan, xìng lù nan Duo qí lù , jin an zài 忽 复 乘 舟 梦 日 边 Cháng feng pò làng huì yòu shí P.H.N 2004 33
  34. Zhí guà yun fān jì cang hǎi 行 路 难 行 路 难 多 崎 路 今 安 在 长 风 破 浪 会 有 时 直 挂 云 帆 济 沧 海 Đường đi khó Hành lộ nan Cốc vàng rượu trong một đấu mười ngàn Kim tôn thanh tửu đẩu thập thiên Mâm ngọc nhắm quý giá một vạn. Ngọc bàn trân tu trị vạn tiền Dừng chén ném đũa nuốt không được, Đình bôi đầu trợ bất năng thực Rút kiếm nhìn quanh lòng mênh mang. Bạt kiếm tứ cố tâm mang nhiên Muốn vượt Hoàng Hà sông băng đóng Dục độ Hoàng Hà băng tắc xuyên Toan lên Thái Hàng núi tuyết phủ mờ Tương đăng Thái Hàng tuyết ám thiên Lúc rỗi buông câu bờ khe biếc Nhàn lai thuỳ điếu bích khê thượng Bỗng mơ cưỡi thuyền lướt bên mặt trời Hốt phục thừa chu mộng nhật biên Đưòng đi khó ! Đường đi khó ! Hành lộ nan ! Hành lộ nan ! Nay ở đâu đường bao ngả ? Đa kì lộ, kim an tại Gió dài phá sóng hẳn có ngày Trường phong phá lãng hội hữu thì treo thẳng buồm mây vượt biển cả ! Trực quải vân phàm tế thương hải Lời bàn: Khí phách anh hùng, cao nhân của Lí Bạch thể hiện thật rõ nét . Lí tưởng sống của ông thật rõ ràng hùng tráng biết bao . Nhà thơ khinh rẻ những thói thường của bao kẻ truy đuổi vinh hoa phú quí tầm thường . Ba năm được chiều chuộng trong cung vua Đường Minh Hoàng như một “bồi bút” khiến ông chán nản, tìm cớ bỏ ra đi . Trên đời mấy ai làm được như Lý ! 27. Hoài thượng biệt cố nhân 淮上别故人 Trịnh Cốc 郑谷 Zhèng Gǔ Yāng zǐ jiāng tóu yāng liǔ chūn 杨子江头杨柳春 Yāng huā chóu shā dù jiāng ré 杨花愁杀渡江人 Shǔ shēng fēng dì “li tíng” wǎn P.H.N 2004 34
  35. Jūn xiàng Xiāo Xiāng wǒ xiàng Qín 数声风笛篱亭晚 军向潇湘我向秦 Trên sông Hoài chia tay bạn Đầu sông Dương Tử, cây dương liễu vào xuân Dương tử giang đầu dương liễu xuân Hoa dương làm buồn chết người qua sông Dương hoa sầu sát độ giang nhân Chiều hôm ở li đình thoáng nghe tiếng sáo kể lể Sổ thanh phong địch li đình vãn Anh đi sông Tiêu Tương, tôi rẽ hướng sangTần Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần dịch thơ: Sông Dương dương liễu đua tươi, Hoa dương buồn chết dạ người sang sông. Đình hôm tiếng sáo não nùng, Anh đi bến Sở tôi trông đường Tần. ( KD) Lời bàn : “Ly đình” là những quán nghỉ chân được xây dành làm nơi cho người ta đưa tiễn nhau. Có hai loại ly đình: đoản đình (để tiễn gần) và trường đình (tiễn xa hơn). Miền Bắc Việt Nam có những cái “điếm”, “cầu” xây ven đường, nơi cách xa xóm làng để cho người làm ruộng, đi chợ xa tạm nghỉ ngơi, cũng dành cho những lữ khach qua đường trú mưa nắng và nghỉ chân, qua đêm .”Cầu”(hoặc “điếm”) ở miền Bắc nước ta cũng là một kiểu “ly đình” như vậy ( “cầu” không bắc qua sông, cầu “ bắc” qua mưa nắng, “ bắc” qua mệt mỏi và đêm. Cầu là căn nhà gạch xây ở ven đường lộ. Căn nhà chỉ có hai bức vách tường. Trong nhà có xây cái bục gạch cao khoảng nửa thước, rộng bằng một, hai cái giường để khách ngồi chơi hoặc ngả lưng qua đêm) Lại một bài thơ tình bằng hữu trong số hàng trăm bài . Đôi bạn chia tay nhau, buồn bã nhưng vẫn quả quyết dứt áo ra đi . 28. Hoàng hạc lâu Thôi Hiệu 崔 灏 Cūi Xiào, hoặc Thôi Hạo 崔 效 Cūi Hào 黄 鹤 楼 Huáng hè lóu 昔 人 已 乘 黄 鹤 去 Xì rén yǐ chéng huáng hé qù Cǐ dì kōng you huáng hé lóu 此 地 空 悠 黄 鹤 楼 Huáng hé yī qù bù fù fǎn 黄 鹤 一 去 不 复 返 Bái yūn tiān zài kong you yōu P.H.N 2004 35
  36. Qíng chuān lì lì Hán Yāng shù 白 云 千 载 空 悠 悠 Fāng cǎo qiè qiè Ying Wǔ zhōu 晴 川 历 历 汉 阳 树 Rì mù xiāng guan hé chù shì ? Yān bò jiāng shàng shǐ rén chóu 芳 草 妾 妾 鹦 鹉 州 日 暮 乡 关 何 处 是 烟 波 江 上 使 人 愁 c Người xưa đã cưỡi hạc vàng đi rồi Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ Nơi đây (chỉ còn) khoảng không bao trùm Lầu Thử địa không du Hoàng hạc lâu hoàng hạc Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản Hoàng hạc một đi không trở lại Bạch vân thiên tải không du du Mây trắng nghìn năm bay vu vơ Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ Trời quang nắng in rõ bóng cây trên sông Hán Phương thảo thê thê Anh Vũ châu Cỏ thơm sum sê trên bãi cồn Anh Vũ Nhật mộ hương quan hà xứ thị Trời tối rồi quê hương ta ở phía nào ? Yên ba giang thượng sử nhân sầu Khói sóng trên sông làm người buồn rầu Hai bản dịch thơ Ai cưỡi hạc vàng đi mất hút Hạc vàng ai cưỡi đi đâu Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi. Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng một đã đi, đi biệt Hạc vàng đi mất từ xưa Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay Sông tạnh Hán Dương, cây sáng ửng, Hán Dương sông tạnh cây bày Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh ngời. Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non Hoàng hôn về đó, quê đâu tá, Quê hương khuất bóng hoàng hôn Khói sóng trên sông não dạ người. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ! (Khương Hữu Dụng dịch) (Tản Đà dịch) Chú thích : Lầu Hoàng hạc thuộc huyện Vũ Xương, thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc. Có bản ghi “Tình Xuyên” là tên cái gác, nhưng bỉ nhân thấy “cái gác” không đối chỉnh với “cỏ thơm” (phương thảo) nên chọn “ tình xuyên” là “nắng chiếu” thích hợp hơn. “Anh Vũ” là tên loài chim vẹt thường sống ở bãi cồn đó. 29. Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 黄 鹤 楼 送 孟 浩 然 之 广陵 Huáng hè lòu sòng Mèng Hào Rán zhi Guăng Ling Lí Bạch 李白 Lǐ Bái P.H.N 2004 36
  37. Gù rén xi cí Huáng hè lóu 故人西 辞黄鹤楼 Yan hua san yuè xìa Yang zhou 烟花三 月下杨州 Gu fán yuàn yìng bì kong jìn Weí jian Cháng jiang tian jì líu 孤帆远影碧空尽 惟见长江天际流 x Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc lâu từ phía tây Cố nhân tây từ Hoàng hạc lâu Tháng ba hoa khói, xuống Dương châu Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu Bóng buồm xa dần trong trời biếc vô tận Cô phàm viễn ảnh bích không tận Chỉ thấy Trường giang vẫn chảy mau tới Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu cuối trời dịch thơ Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng. Bóng buồm đã khuất bầu không Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời. (Ngô Tất Tố dich) Chú thích : quận Quảng Lăng ( còn gọi Dương Châu, Giang Châu ) nay là huyện Giang Đô , tỉnh Giang Tô. . Lời bàn Một kiệt tác của tình bạn thơ Lí Bạch- Mạnh Hạo Nhiên . Sinh viên nên chú ý phân tích : Hai câu 3 và 4 là trọng tâm . Tưởng tượng cảnh người đưa tiễn ở trong tư thế dáng điệu như thế nào . Hình ảnh “viễn ảnh bích không tận” và “Trường Giang thiên tế lưu” có ngụ ý xã hội đương thời chứ không phải chỉ là cảnh thiên nhiên mênh mang rợn ngợp . Không bao giờ oán trách trời đất vô tình, nhà thơ chỉ mựơn cảnh để nói thời cuộc mà thôi . Sinh viên thường hay bỏ qua khía cạnh “thời cuộc” . 30. Hoàng hạc lâu văn địch 黄 鹤 楼 闻 笛 Huáng hè lóu wén dì Lí Bạch 李白 Lǐ Bái P.H.N 2004 37
  38. 一为迁客去长沙 Yī wēi qiān kè qù zháng shā 西望长安不见家 Xī wàng Zháng Ān bù jiàn jiā Huáng hè lóu zhōng chuī yù dì 黄鹤楼中吹玉笛 Jiāng chéng wǔ yuè “Luò méi huā” 江城五月落梅花 v Nghe thổi sáo ở lầu Hoàng hạc Hoàng hạc lâu văn địch Một lần làm khách đi đày đến Trường Sa Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa Nhìn về phía Tây thành Tràng An chẳng thấy nhà Tây vọng Tràng An bất kiến gia Trong lầu Hoàng Hạc nghe tiếng sáo ngọc Hoàng hạc lâu trung xuy ngọc địch Thành Giang hạ tháng Năm nghe khúc nhạc Giang thành ngũ nguyệt “Lạc mai hoa” “Hoa mai rụng” dịch thơ : Trường Sa đất biếm làm thân khách Ngảnh lại Trường An chẳng thấy nhà Hoàng hạc lầu cao nghe sáo ngọc Thành Giang nghe khúc “Lạc mai hoa” (Ngô Văn Phú) Chú thích Trường An là thủ đô thời nhà Đường, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây- một cố đô nổi tiếng thời thịnh trị của TQ , một cố đô văn hoá của Trung Hoa . Đến nỗi người Việt Nam trước đây cũng gọi Hà Nội- Thăng Long là “Trường An / Tràng An” . Sáo ngọc là cây sáo làm bằng loại đá quí (ngọc) . Lời bàn : Nhà văn Tào Tuyết Cần (tác giả Hồng Lâu Mộng) từng cho rằng Lí Bạch chịu ảnh hưởng của Thôi Hiệu khi viết bài thơ này. Giai thoại kể rằng khi đến chơi lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch lấy bút định làm thơ, ngẩng lên định viết thì nhìn thấy bài Hoàng Hạc lâu . Đọc xong Lí thở dài buông bút không viết nữa. Sau đấy Lí viết bài thơ tả lại cảm xúc trên , thế là cũng thành một bài thơ . Lí Bạch rất biết thẩm định thơ của bạn hữu, và không ngại nói ra sự khâm phục của mình. Lí tài hoa mà lại khiêm tốn biết chừng nào ! Thiên hạ yêu quí mến phục Lí Bạch còn vì điểm ấy nữa . Ai bảo “văn nhân tương khinh” ! Nhìn chung, bài thơ này dễ hiểu, dung dị . SV chỉ cần tập trung phân tích vào cái tâm thế nhớ thủ đô và tên khúc nhạc sáo “ lạc mai hoa”. Hoa mai rụng là hình ảnh tượng trưng số phận tàn lụi , sự mất mát . . . 31. Hồi hương ngẫu thư 回 乡偶 书 P.H.N 2004 38
  39. Hạ Tri Chương 夏 知章 Xià Zhi Zhang 回 乡偶 书 Húi xiāng ǒu shū 少小离家老大回 Shào xiǎo li jia lǎo dà húi 乡音无改纂毛推 Xiang yin wu gǎi zuǎn mao tuí 儿童相见不相识 Èr tóng xiang jiàn bù xiang shì 笑问客从何处来 Xiào wèn : kè cóng hé chù lái ? . Trở về quê, ngẫu hứng viết Hồi hương ngẫu thư Tuổi nhỏ xa nhà, già cả trở về Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi Tiếng quê không đổi, tóc thưa rụng Hương âm vô cải, mấn mao tồi Trẻ con gặp, không biết nhau Nhi đồng tương kiến bất tương thức Cười hỏi: ông khách từ đâu đến . Tiếu vần : khách tòng hà xứ lai Dịch thơ : Bé đi, già mới về nhà, Tiếng quê vẫn thế, tóc đà rụng thưa. Trẻ con trông thấy hững hờ, Cười đùa hỏi khách đến từ phương nao. (Khuyết Danh) Gợi ý SV phân tích : “Giọng quê không đổi” cần được hiểu cả theo nghĩa rộng, nghĩa bóng. Đó là tấm lòng không đổi, danh dự con người quê hương không đổi, trách nhiệm với làng quê không đổi . . . Vì sao bài thơ không nhắc đến những người lớn trong làng ? Đó mới là chỗ trống đáng suy nghĩ trong thơ văn. Nhà thơ chỉ mượn trẻ con để trách người lớn thờ ơ lãnh đạm với ông mà thôi. Người làng quê thường biết ơn những người trực tiếp đem lợi ích cho làng, ai biết đâu cái ông quan chức ở triều đình đến già mới về (!) Nên lưu ý chữ “ngẫu”. Ngẫu là viết tuỳ hứng thôi, nhân tiện viết chơi, chả có gì quan trọng đâu ! Nhưng thực ra vấn đề lại chẳng nhó mọn chút nào ! Đó là cách nói tinh tế của nhà thơ Sách giáo khoa Văn 7 hướng dẫn quá sơ sài nông cạn, thật là tíêc ! Lời bàn : Rời nhà ra đi từ năm 20 tuổi, tôi đi dạy học ở vài trường huyện Ứng Hoà rồi chuyển về Hoài Đức, Hà Tây. Đến cái năm 1975 đất nước thống nhất, tôi miễn cưỡng nhận Quyết Định điều đi công tác Nam Bộ với một cái túi du lịch . . . Cũng đã nhiều lần hồi hương thăm thân, tôi có cảm xúc như Hạ Tri Chương vậy. Cảm ơn thi sĩ đã chia sẻ với vãn sinh cái nỗi sầu Hà Tây Mộng kéo dài hơn nửa đời người . . . P.H.N P.H.N 2004 39
  40. 32. Khiển hoài 遣 怀 Qiǎn huái Đỗ Mục 杜 牧 Dù Mù 落 魄 江 湖 载 酒行 Luò pò jiāng hú zài jiǔ xíng Chǔ yāo xiān xì zhǎng zhōng qīng 楚 腰纤 细 掌 中 轻 Shì nián yī juè Yāng zhōu měng 十年 一 觉 杨 州 梦 Yīng dè qīng lóu bò xìng míng 赢 得 青 楼 薄 幸名 O Nói phóng ra nỗi niềm thầm kín Lãng đãng giang hồ rượu suốt năm Lạc phách giang hồ tải tửu hành Lưng eo dẹt đét, trong tay nhẹ không Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh ( không có tiền) Thập niên nhất giác Dương Châu mộng Tỉnh giấc mộng Dương châu kéo dài 10 năm Dinh đắc thanh lâu bạc hạnh danh Nổi danh bạc hạnh chốn lầu xanh Chú thích : “Sở yêu”: cái eo lưng con gái nước Sở nhỏ thon . Vua Linh Vương thích con gái eo thon nên trong nước có nhiều cô nhịn đói để cho bụng thon (!). Nhà thơ tự giễu mình vì đói quá nên trở thành“Sở yêu”. Đỗ Mục viết bài này khi nhớ lại mấy năm lêu lổng chốn Giang Châu. P.H.N 2004 40
  41. 33. Khúc Giang ức Nguyên Cửu Bạch Cư Dị 白 居 易 Bái Ju Yì 曲 江 亿 元久 Qù jiāng yì Yuān Jiǔ Chūn lái wū yǒu xián yōu shào 春来无友闲悠少 Xíng lè sān fēn jiǎn èr fēn 行乐三分减二分 Hé kuàng jīn chāo Xìng yuān lǐ Xián rén féng jìn bù féng jūn 何况今朝荇园里 闲人逢尽不逢君 o Dịch nghĩa: Ở Khúc Giang nhớ Nguyên Cửu KHÚC GIANG ỨC NGUYÊN CỬU Xuân đến vắng bạn nên ít đi dạo chơi, Xuân lai vô bạn nhàn du thiểu , Thú vui ba phần đã kém mất hai. Hành lạc tam phân giảm nhị phân. Huống chi sáng nay trong vườn Hạnh, Hà huống kim triêu Hạnh viên lý, Gặp đủ bạn đi rong chơi chỉ thiếu một mình bác. Nhàn nhân phùng tận bất phùng quân. Dịch thơ: Không bạn, xuân về ít dạo chơi, Ba phần vui đã giảm đi hai. Phương chi vườn Hạnh sớm nay nữa, Gặp đủ người chơi thiếu một người. (Hoàng Tạo dich) Lời bàn : Lại một bài thơ tình bằng hữu, dung dị mà thấm đượm tình bạn. P.H.N 2004 41
  42. 34. Khuê oán Vương Xương Linh 王唱龄 Wáng Chang Ling Gui yuàn 闺 怨 Gui zhong shào fù bù zhi chóu 闺中少妇不知愁 Chun rì ning zhuang shàng cùi lóu 春日凝妆上翠楼 Hù jiàn mì tóu yang lǐu sè 忽见陌头杨柳色 Hùi jiào fu jì mì feng hóu 悔教夫婿觅封候 Phiên âm Hán Việt : Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc Hối giao phu tế mịch phong hầu Dịch nghĩa : Nỗi oán phòng khuê Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết buồn Ngày xuân, trang điểm rồi trèo lên lầu đẹp Chợt nhìn thấy sắc xuân cây dương liễu ở bên đường Bỗng hối hận đã xui chồng tòng quân kiếm ấn phong hầu Dịch thơ : Thiếu phụ buồng khuê chẳng biết sầu Ngày xuân trang điểm bước lên lầu Bên đường chợt thấy màu dương liễu Tiếc khiến chồng đi kiếm tước hầu Lời bàn: Nàng là một khuê phụ, một phu nhân quí tộc trẻ trung . Những ngày chồng mới ra trận, nàng còn háo hức . Mùa xuân mới đến, nàng trang điểm lên lầu, chợt thấy màu sắc cây dương liễu đã đổi khác. .Tâm trạng nàng thay đổi từ vô tư thành buồn và hối hận . Sao vậy, cây dương liễu có gì liên quan đến chàng mà chinh phụ nhớ thương ? Màu cây dương liễu nhắc nhở thời gian- ngày tiễn chàng ra đi. Mỗi năm cây dương liễu đổi màu lá qua bốn mùa. Mới đó mà đã một năm rồi, chưa nghe tin chiến thắng, chưa thấy chàng mã đáo thành công . Biết đâu chàng ngã ngựa rồi thì sao ? ( cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi – Vương Hàn ) P.H.N 2004 42
  43. Chỉ một chữ “hối” đủ là linh hồn của bài thơ. Hối hận về điều gì ? Hối là trách mình chứ còn trách ai đây ? Chính nàng đã “khiến” chàng ra đi mà ! Chẳng phải chính nàng cũng đã ham công danh phú quí ? Oán trách chế độ phong kiến, thương xót nên đâu nỡ trách chàng, nàng chỉ biết tự trách mình thôi. Biết bao lớp người phụ nữ Việt Nam suốt trường kì lịch sử trải qua cuộc sống bi thảm như “khuê phụ”, dù có “chặt hết trúc Nam sơn “ không thể nào ghi xiết nỗi khổ đau của họ. 35 . Khử phụ Mạnh Giao 孟郊 Mèng Jiāo Qù fù 去妇 Jūn xīn xiá zhōng jìng 君心匣中镜 Yi pò wū fú quán 一破无复全 Qié xīn ǒu zhōng sī 妾心藕中丝 Suī duàn yóu qian lián 虽断犹牵连 Người vợ bị ruồng bỏ Khử phụ Lòng chàng gương trong hộp Quân tâm hạp trung kính rạn vỡ khôn hàn gắn Nhất phá vô phục toàn Lòng thiếp tơ ngó sen Thiếp tâm ngẫu trung ty dẫu đứt còn vương vấn Tuy đoạn do khiên liên Lòng chàng gương trong hộp, Rạn vỡ, khôn hàn gắn. Lòng thiếp tơ ngó sen Dẫu đứt còn vương vấn. Lời bàn: Thi hào Nguyễn Du viết “ Tiếc thay chút nghĩa cũ càng Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng ” (Truyện Kiều) P.H.N 2004 43
  44. 36. Kim lũ y 金搂衣 ( Jīn lǒu yī ) Đỗ Thu Nương 杜秋娘 Dù Qiu Niang 劝军莫惜金搂衣 Quàn jūn mò xì jīn lǒu yī Quàn jūn xì qǔ shào nián shí 劝军惜取少年时 Huā kāi kān zhè zhì xū zhè 花开堪折直须折 Mò dài wū huā kōng zhè zhī 莫待无花空折枝 Áo kim tuyến Kim lũ y Khuyên chàng chớ tiếc áo kim tuyến Khuyến quân mạc tích kim lũ y Khuyên chàng tiếc lấy thời tuổi trẻ Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì Cành hoa có thể bẻ, thì bẻ đi Hoa khai kham chiết trực tu chiết Đừng chờ hoa hết, hái cành không . Mạc đãi vô hoa không chiết chi Khuyên anh chớ tiếc áo hoa, Mong anh tiếc lấy thủa ta đương thì. Cành hoa nên bẻ, bẻ đi, Đừng chờ hoa hết bẻ gì cành không (Trần Trọng Kim dịch) Ghi chú: “Áo kim lũ” là áo quí dành cho tướng lĩnh, ngụ ý một người lính công thành danh toại . Bài thơ phê phán chàng ham công danh sự nghiệp, lãng quên hạnh phúc lứa đôi . P.H.N 2004 44
  45. 37. Kinh Lỗ, tế Khổng Tử nhi thán chi Đường Huyền Tông 唐玄宗 Táng Xuán Zōng Jing Lǔ, jì Kǒng zǐ ēr tán zhī 经鲁祭孔子而叹之 夫子何为者 Fū zǐ hé wēi zhě 栖栖一代中 Qī qī yī dài zhōng Dì yōu Zōu shì yì 地犹鄹氏邑 Zhài jí Lu wāng gōng 宅即鲁王宫 Tán fèng jiē shēn pǐ 叹凤嗟身丕 Shāng līn yuàn dào qióng Jīn kàn liǎng yíng diàn 伤麟怨道穷 Dāng yǔ mèng shí tóng 今看两楹颠 当舆梦时同 C Đi qua nước Lỗ, tế Khổng Tử mà than thở Phu tử đã trở thành nhà gì ? Phu tử hà vi giả ? Dừng chân, dừng chân trong một đời Thê thê nhất đại trung Đất thuộc ấp Châu Thị Địa do Châu thị ấp Nhà ở thuộc cung vua Lỗ Trạch tức Lỗ vương cung Khổ tiếc phượng, than thân Thán phượng ta thân bĩ Thương xóm giềng, oán đạo tận Thương lân oán đạo cùng Nay thấy hai ngôi điện Kim khan lưỡng doanh điện Thật và mộng cùng như nhau . Đương dữ mộng thời đồng P.H.N 2004 45
  46. Khổng phu tử đã làm gì, Một đời vội vã đi về những đâu. Quê hương ở ấp họ Châu, Nhà xưa cung điện Lỗ hầu bao vi. Than thân tiếc phượng lâm nguy, Thương lân oán đạo suy vi khốn cùng. Nay xem miếu mạo tôn sung, Rõ như trong mộng thật không khác gì ! ( Trần Trọng Kim dịch) Chú thích: “Tiếc phượng” , ý nói tiếc công danh phú quí . Bài thơ cũng nói lên tình trạng suy tàn của Đạo Nho . 38. Kí Đỗ Vị 寄 杜 未 Đỗ Phủ 杜 甫 Dù Fǔ Jì Du Wèi 寄 杜 未 Hán rì jīng jié duǎn 寒日 京 阶 短 Qióng yuan shī mù 穷 猿 失 木 悲 Jiǎ zhōng wei kè jiǔ 岬 中 为 客 久 Jiāng shàng yì jūn shí Taīn dì shēn hé zài 江 上 忆 君 时 Fēng chén bìng gǎn cí 天 地 身 何 在 Ffēng xīn liǎng háng lèi 风 尘 病 感 慈 Zhān sǎ yì xin shí 封 信 两 航 泪 沾 洒 挹 新 诗 X Dịch nghĩa: Gửi ông Đỗ Vị Kí Đỗ Vị Ngày rét, mặt trời chóng qua thềm, Hàn nhật kinh thiềm đoản, Mất cây, cùng đường vượn buồn rầu, Cùng viên thất mộc bi. P.H.N 2004 46
  47. Nấn ná lâu ngày, ở gửi nơi kẽm sông, Giáp trung vi khách cửu, Khi ở trên sông lại nhớ đến bác. Giang thượng ức quân thì. Khắp trời đất biết gửi thân nơi nào ? Thiên địa thân hà tại, Bước phong trần đau ốm biết nói sao ! Phong trần bệnh cảm từ. Gửi lá thư, hai hàng lệ nhỏ, Phong thư lưỡng hàng lệ, Đầm đìa thấm vào dòng thơ mới Triêm sái ấp tân thi. Dịch thơ : Bóng giời rét qua thềm thoăn thoắt, Vượn cùng đường mất ổ những bi ai. Nơi kẽm sông nấn ná bấy lâu rồi, Trên sông đó, nghĩ người thêm tưởng nhớ. Khắp giời đất biết đâu là chốn ở, Bước phong trần biết đau ốm nữa nài sao ! Phong thư hàng lệ tuôn rào, Đầm đìa lã chã thấm vào hàng thơ. (Á Nam dich) 39. Kí phu nữ sĩ Trần Ngọc Lan 陈 玉 兰 Chén Yù Lán Gěi fū 给夫 Fū shù biān guān qiè zài Wū 夫戍边关妾在吴 Xī fēng chuī qiè qiè yōu fū 西风吹妾妾忧夫 Yī háng shū xīn qián háng lèi 一行书信千行泪 Hán dào jūn biān yi dào wū ? 寒到军边衣到无 Gửi chồng Chàng đi lính biên giới, thiếp ở xứ Ngô Phu thú biên quan, thiếp tại Ngô Gió Tây thổi thiếp, thiếp nhớ chồng Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu Một hàng thư gửi, ngàn hàng lệ Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ Rét đến bên chàng, áo đến không ? Hàn đáo quân biên, y đáo vô ? Chồng trấn tây cương thiếp ở đông, Gió tây lạnh thiếp thiếp thương chồng. Một dòng thư gửi trăm dòng lệ, P.H.N 2004 47
  48. Rét đến bên chàng áo đến không Lời bàn : Vì sao chinh phụ lo lắng áo nàng gửi có đến tay chồng ? Ngày xưa cái sự tham nhũng ăn cắp trong quân đội đã xảy ra ư ? Khiến người chinh phụ lo âu . Hồ Chí Minh có bài “ Tư chiến sĩ ” viết thời kháng chiến chống Pháp : “Áo rét gửi mau cho chiến sĩ Trời loe nắng ấm báo xuân sang ” 40. Lâm giang tống Hạ Chiêm Bạch Cư Dị 白 居 易 Bái Ju Yì 临 江 颂 夏 瞻 Lin jiang sòng Xià Zhān 悲君老 别 泪 沾巾 Bēi jūn lǎo biè lèi zhān jīn Sì shì wū jiā wàn lǐ shēn 七十 无 家万 里身 Chōu jiàn zhou xíng feng yǒu qǐ 愁见舟 行 风又起 Bái tóu lǎng lǐ bái tóu rén 白头 浪里白 头 人 o Ra bên sông tiễn Hạ Chiêm Lâm giang tống Hạ Chiêm Thương anh tuổi già vẫn phải li biệt, (tôi) rơi lệ Bi quân lão biệt, lệ triêm cân, thấm ướt cả khăn. Thất thập vô gia vạn lí thân. Bảy mươi tuổi không nhà tấm thân ở xa xôi muôn dặm Sầu kiến chu hành phong hựu khởi Buồn thấy thuyền đi, trời lại nổi gió, Bạch đầu lãng lý, bạch đầu nhân ! Giữa đám sóng bạc đầu có con người bạc đầu ! P.H.N 2004 48
  49. 41. Lục ngôn tuyệt cú 六 言 绝 句 Liù yān juè jù Vương Duy 王 维 Wáng WWēi 桃 红复 含 宿 雨 Táo hóng fù hán sù yǔ Liǔ lǔ gèng dài zhāo yān 柳 绿 更 带 朝 烟 Huā luò jiā tóng wèi sǎo 花 落 家 童 未 扫 Niǎo tí shān kè yōu mián 鸟 啼 山 客 犹 眠 Đào hồng còn đẫm nước mưa Đào hồng phục hàm túc vũ Liễu xanh lại dầm sương sớm Liễu lục cánh đái triêu yên Hoa rụng, gia đồng chưa quét Hoa lạc gia đồng vị tảo Chim kêu, khách núi còn ngủ say Điểu đề sơn khách do miên P.H.N 2004 49
  50. 42. Lương Châu từ 凉州词 Vương Hàn 王翰 Wáng Hán Liāng zhōu cí 凉州词 Pú táo měi jiǔ yè guāng bēi 葡萄美酒夜光杯 Yù yǐn, pípá mǎ shàng cuī 欲饮琵琶马上催 Zuì wò shā chǎng jūn mò xiào 醉卧沙场君莫笑 Gǔ lái zhēng zhàn jǐ rén huí 古来征战几人回 Bài hát Lương Châu Rượu ngon bồ đào, chén lưu li Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi Muốn uống tì bà trên ngựa giục giã Dục ẩm tì bà mã thượng thôi Say nằm sa trường anh đừng cười Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu Xưa nay chinh chiến mấy ai về Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi ! dịch thơ P.H.N 2004 50
  51. Rượu nho kèo chén lưu li Uống thì trên ngựa tiếng tì dục sôi Say nằm bãi cát chớ cười Xưa nay chinh chiến mấy ai đã về (Trần Trọng Kim dịch) Chú thích: Lương Châu là một vùng đất thuộc tỉnh Cam Túc . Lời bàn Hỡi ôi, người Việt Nam đã biết bao lần buồn bã ngâm câu thơ “ cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ” ! Như Hữu Loan trong bài Màu tím hoa sim : “ Lấy chồng thời chiến binh mấy người đi trở lại ” 43. Lưu biệt Vương Duy 留 别 王 维 Líu bié WangWei Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然 Méng Hào Rán Jì jì jìng hé dāi 寂寂竟何待 Chao chao kōng zì guī 朝朝空自归 Yù xún fān cǎo qù 欲寻方草去 Xī yǔ gù rén wei 惜舆故人违 Dāng lù shuí xiāng jiǎ 当路谁相假 Zhi yin shì suǒ wēi Zhǐ yīng shǒu jí mò 知音世所稀 huán yǎn gù yuan fēi 只应守寂寞 还掩故园扉 O P.H.N 2004 51
  52. CHIA TAY VỚI VƯƠNG DUY Lưu biệt Vương Duy Tối tối đợi chờ đến Tịch tịch cánh hà đãi Sớm sớm không tự về Triêu triêu không tự quy. Muốn đi tìm nơi cỏ thơm, Dục tầm phương thảo khứ, Tiếc rằng trái ý bạn cũ Tích dữ cố nhân vi. Người trên đường ai che chở đây. Đương lộ thuỳ tương giả, Trên đời bạn tri âm thật hiếm, Tri âm thế sở hi. Đành im lặng cho qua ngày, Chỉ ứng thủ tịch mịch, Về vườn cũ cài chặt đám cỏ song Hoàn yểm cố viên phi. Dịch thơ : Chia biệt Vương Duy Quạnh hiu nào ai đợi, Sớm sớm luống công đi về, Muốn đến nơi cỏ lạ, Bạn nào đã chịu nghe, Dọc đường ai che chở, Bạn thiết đời vắng hoe. Lặng lẽ qua ngày tháng Cửa sài vui đất quên . Lời bàn : Thiếu bạn tri kỉ thì về đóng cửa nhốt mình . Một hành vi độc đáo của thi nhân. 44. Lưu Nguyễn du Thiên Thai Tào Đường 曹唐 Cáo Táng 刘阮游天台 Liū Ruǎn yóu Tiān Tāi 树入天台石路新 Shù rǔ Tiān Tāi shí lǔ xīn Yūn hé cǎo jǐng jiǒng wū chén 云和草静迥无尘 Yān xiá bù shěng shēng qián shì 烟霞不省生前事 Shuǐmù kōng yī mèng hòu shēn 水木空疑梦后身 Wǎng wǎng jī ming yán xià yuè Shí shí jī míng dòng zhōng chūn 往往鸡鸣岩下月 P.H.N 2004 52
  53. Bù zhī cǐ dì guī hé chù 时时鸡鸣洞中春 Xū jiù Táo Yuān wèn zhǔ rén 不知此地归何处 须就桃源问主人 O Theo cây đi vào Thiên Thai đường đá mới Thụ nhập Thiên Thai thạch lộ tân Mây êm cỏ lặng không chút bụi trần Vân hoà thảo tĩnh, quýnh vô trần ( nhìn) Khói và ráng, không tỉnh để nhớ việc cũ Yên hà, bất tỉnh sinh tiền sự ( thấy) Dòng sông và cây, ngỡ nằm mộng thức dậy Thuỷ mộc, không nghi mộng hậu thân Thi thoảng tiếng gà gáy bên sườn núi dưới trăng Vãng vãng kê minh nham hạ huyệt Liên miên tiếng chó sủa trong động vào giữa mùa xuân Thời thời khuyển phệ động trung xuân Chẳng hay vùng đất này ở xứ nào ? Bất tri thử địa qui hà xứ Hãy tới Đào Nguyên hỏi chủ nhân . Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân Lưu Nguyễn đi chơi cõi Thiên Thai Rẽ lối Thiên Thai mới lạ lùng, Mây êm cỏ mát bụi trần không. Ráng mù kiếp trước càng mê mẩn, Rừng suối thân sau những chốc mòng. Gáy nguyệt xôn xao gà dưới núi, Mách xuân văng vẳng chó trong thung. Chốn này chưa biết ai là chủ, Hãy tới Đào nguyên ướm hỏi cùng. ( Thơ Đường 2 tập) 45. Lưu Nguyễn động trung ngộ tiên tử Tào Đường 曹唐 Cáo Táng Liū Ruǎn dòng zhōng yù xián zǐ 刘阮洞中遇仙子 天和树色霭苍苍 Tiān hé shù sě ài cāng cāng Xiá zhòng lán shēn lǔ liào māng 霞重岚深路渺茫 Yūn dòu mǎn shān wū niào què 云窦满山无鸟雀 Shuǐ shēng yán jiàn yǒu shēng huáng 水声沿涧有笙簧 Bì shā dòng lǐ qián kūn biè P.H.N 2004 53
  54. Hóng shù zhī biān rì yuè cháng 碧沙洞里乾坤别 Yuàn dè huā jiān yǒu rén chù 红树枝边日月长 Mián líng xián quǎn fèi Liulāng 原得花间有人出 免令仙犬吠刘郎 O Da trời lẫn với màu cây xanh ngăn ngắt Tiên hoà thụ sắc ái thương thương Ráng nặng nề, hơi núi âm u, đường đi mênh mang Hà trọng lam thâm lộ diểu mang Mây phủ khắp núi, không một bóng chim sẻ Vân đậu mãn sơn vô điểu tước Tiếng suối chảy dọc theo khe như tiếng sáo Thuỷ thanh duyên giản hữu sinh hoàng Trong động cát biếc, riêng một cảnh trời đất Bích sa động lí càn khôn biệt Bên cành cây lá đỏ, ngày rộng tháng dài Ước mong trong hoa có người ra đón Hồng thụ chi biên nhật nguyệt trường Để khỏi chó nhà tiên sủa chàng Lưu Nguyện đắc hoa gian hữu nhân xuất Miễn linh tiên khuyển phệ Lưu lang Lưu Nguyễn trong động gặp tiên tử Xanh ngắt màu cây lẫn sắc trời, Mịt mù khói toả nơi xa khơi. Bóng mây đầy núi chim khôn đậu, Tiếng nước quanh khe sáo giục hồi. Trong động cát xanh trời đất lạ, Bên cây lá thằm tháng ngày dài. Dưới hoa ước có ai ra đón, Để chó nhà tiên khỏi sủa người. (Ngô Tất Tố dịch ) 46. Lưu Nguyễn tái đáo Thiên Thai bất phục kiến chư tiên tử 刘阮再到天台不复见诸仙子 Liū Ruǎn zài dào Tiān Tāi bù fú jiàn xiān zǐ Tào Đường 曹唐 Cáo Táng Zài dào Tiān Tāi fǎng Yù Zhēn P.H.N 2004 54
  55. Cāng tái bái shí yì chéng chén 再到天台访玉真 Shēng gē jí mò xián shēn dòng 苍苔白石已成尘 Yān hé xiāo tiáo juè jiù lín 笙歌寂寞闲深洞 Cǎo shù zǒng fēi qián dù sè 云鹤萧条绝旧邻 Yān xiá bù sì wǎng nián chūn Táo huā liū shuǐ yī rán zài 草树总非前度色 Bù jiàn dāng shí quán jiǔ rén 烟霞不似往年春 桃花流水依然在 不见当时劝酒人 O Lại đến Thiên Thai thăm hỏi Ngọc Chân Tái đáo Thiên Thai phỏng Ngọc Chân Đá trắng rêu xanh đã phủ bụi Thương đài bạch thạch dĩ thành trần Không còn đàn ca động sâu quạnh quẽ im lặng Sinh ca tịch mịch nhàn thâm động Xóm cũ tiêu điều vắng bóng mây hạc Vân hạc tiêu điều tuyệt cựu lân Cỏ cây đều khác hẳn màu sắc ngày trước Thảo thụ tổng phi tiền độ sắc Khói ráng chẳng như cảnh xuân năm trước Yên hà bất tự vãng niên xuân ( chỉ) Dòng suối hoa đào vẫn còn nguyên đó Đào hoa lưu thuỷ y nhiên tại Không thấy người chuốc rượu cho mình hồi ấy đâu Bất kiến đương thời khuyến tửu nhân . Lại đến Thiên Thai hỏi Ngọc Châu, Rêu xanh đá trằng nhuộm màu trần. Đàn im ca vắng trơ hang rỗng, Hạc lặng mây lờ dứt nghĩa thân. Cây cỏ rày xem ngơ ngẩn sắc, Khói sương giờ cũng hững hờ xuân. Hoa đào nước chảy y như cũ, Chén rượu khuyên mời vắng chủ nhân. K.D Chú thích: Ngọc Chân , tên nàng tiên trong động Thiên Thai . 47. Mạch thượng tặng mĩ nhân Lí Bạch 李白 Lǐ Bái P.H.N 2004 55
  56. Mò shàng zèng měi rén 陌上赠美人 Juàn mǎjiāo xíng tà luò huā 骏马骄行踏落花 Chuí biān zhì fú wǔ yūn chē 垂鞭直拂五云车 Měi rén yī xiào qiān zhū bò Yāo zhǐ hóng lóu shì qiè jiā 美人一笑褰珠箔 遥指红楼是妾家 O Trên đường, tặng thơ cho mĩ nhân Con tuấn mã đi nghênh ngang giẫm lên hoa rụng Tuấn mã kiêu hành đạp lạc hoa Buông roi phất thẳng vào cỗ xe mây năm màu Thuỳ tiên trực phất ngũ vân xa Người đẹp liền cười, kéo rèm châu nhìn ra Mĩ nhân nhất tiếu khiên châu bạc trỏ lầu hồng phía xa : đó là nhà em. Dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia dịch thơ : Vó ngựa đạp trên những cánh hoa Đầu roi lướt chạm cỗ xe ngà Vén rèm người đẹp cười tươi trỏ Nhà thiếp lầu hồng cách phía xa. (Trần Trọng Kim dịch) 48. Mao ốc vi thu phong sở phá ca P.H.N 2004 56
  57. đỗ phủ 杜甫 Dù Fǔ Máo wú wéi qiū fēng suǒ pò gē 茅屋为秋风所破歌 Bā yuè qiū gāo fēng nù hào 八月秋高风怒号 Juǎn wǒ wù shàng san chōng máo 卷我屋上三重茅 Máo fēi dù jiàng jiǔ jiāng jiao 茅飞度江酒江郊 Gao zhě guà guà chāng lín xiao 高者挂挂长林消 Xià zhě piao zhuǎn chén táng you 下者飘转沉塘幼 Nán cūn qún tóng qī wǒ lǎo wú lì Rěn néng duì mian wéi dào zéi 南村群童欺我老无力 Gong rán bao máo rù zhù qù 忍能对面为盗贼 Chún jiao kou zao hu bù dé 公然抱茅入竹去 Gui lái yí zhang zì tan xí 唇焦口燥呼不得 Ē qǐng feng ding yún mò sè 归来依仗自叹息 Qiū tiān mò mò xiàng hun hei Bù qin duō nián lěng sì tiě 俄顷风定云墨色 Jiao ér è wǒ tà lǐ liè 秋天漠漠向昏黑 Chuáng chuáng wù lòu wú gan chù 布衾多年冷似铁 Yǔ jiǎo rú má wèi duán yue 骄儿恶卧踏里裂 Zì jing sang luàn shǎo shuì mián 床床屋漏无干处 Cháng yè zhàn shì hé yóu qie 雨脚如麻未断约 An dé guàng xià qiàn wàn jian 自经丧乱少睡眠 Dà pi tian xià hán shì jù huan yán 长夜沾湿何由沏 Feng yǔ bù dòng an rú shan Wu hu ! hé shì yǎn qián tù wù jiàn cǐ wù Wú lú dú pò shou dong sǐ yí zú . 安得广度千万间 大屁天下寒士俱欢颜 风雨不动安如山 呜呼!何时眼前突兀见此屋 吾庐独破受冻死亦足。 O P.H.N 2004 57
  58. Bài hát ngôi nhà bị gió thu phá nát Mao ốc vi thu phong sở phá ca Tháng tám, đang giữa mùa thu, gió gào dữ dội Bát nguyệt thu cao phong nộ hào Cuốn phăng cả mấy lớp tranh trên mái nhà ta. Quyển ngã ốc thượng tam trùng mao Tranh bay qua sông, rải rác khắp vùng ven sông Mao phi độ giang sái giang giao Cái bay cao thì mắc trên ngọn cây rừng. Cap giả quải quyên trường lâm sao Cái bay thấp thì quay lộn rồi rơi xuống vùng ao chuôm Hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao chìm nghỉm. Nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực Lũ trẻ xóm Nam khinh ta già yếu, Nhẫn năng đối diện vi đạo tặc Trước mắt ta dám làm đám kẻ cướp Công nhiên bão mao nhập trúc khứ cứ công nhiên ôm tranh chạy khuất vào bụi tre. Thần tiêu khẩu táo hô bất đắc Rát cổ bỏng họng gào chẳng ăn thua gì, Quy lai ỷ trượng tự thán tức ! Ta đành quay về, chống gậy đứng thở dài ! Nga khoảnh phong định, vân mặc sắc Chốc lát gió yên mây đen như mực, Thu thiên mạc mạc hướng hôn hắc Cảnh trời thu mịt mờ, mỗi lúc một tối. Bố khâm đa niên lãnh tự thiết Chiếc chăn vải đã cũ, lạnh như đồng Kiêu nhi ác ngoạ đạp lí liệt thằng con xấu nết, nằm trái thói, lục đục đạp rách toang. Sáng đầu ốc lậu vô can xứ Nhà đã dột, giường không chỗ nào khô, Vũ cước như ma vị đoạn tuyệt Mưa cứ rả rích không ngớt hạt. Tự kinh táng loạn thiểu thuỵ miên Từ khi loạn lạc, mình đã ít ngủ Trường dạ triêm thấp hà do triệt ! Nay lại bị giầm nước thâu đêm, chịu sao nổi đến sáng Ước gì có hàng nghìn vạn gian nhà rộng rãi, An đắc quảng hạ thiên vạn gian Để che ủ cho tất cả hàn sĩ trong thiên hạ, Đại tý thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan khiến mặt ai cũng được tươi vui, Phong vũ bất động an như sơn Vững như núi chẳng sợ mưa gió lay chuyển! Than ôi ! Bao giờ được trông thấy ngôi nhà ấy hiện ra Ô hô ! Hà thì nhãn tiền đột ngột hiện thử ốc cao ngất, Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc ! thì dù một cái nhà tan nát, một mình ta chết cũng cam lòng ! P.H.N 2004 58
  59. 49. Minh tranh 鸣筝 Míng zhēng Đàn tranh Lí Đoan 李端 Lǐ Duān 鸣筝金 粟柱 Míng zhēng jin sù zhù Sù shǒu yù fáng qián 素手玉 房前 Yù dè Zhou Lāng gù 欲得周郎顾 Shí shí wú fú xián 时时误拂线 Đàn tranh phím bằng vàng Minh tranh kim túc trụ Bàn tay trắng đẹp trước phòng ngọc Tố thủ ngọc phòng tiền Muốn Chu lang quay nhìn Dục đắc Chu lang cố thỉnh thoảng gẩy sai dây đàn Thời thời ngộ phất huyền dịch thơ: Đàn minh tranh phím trụ vàng, Bàn tay trắng đẹp của nàng trên dây Muốn chàng quay mặt nhìn đây Bồn chồn thi thoảng gẩy sai cung đàn. ( Phùng Hoài Ngọc ) Lời bàn : Giai thoại Chu Du . Là một đại tướng nhưng Chu Du say mê âm nhạc. Có lần, Chu Du mời một kĩ nữ đàn tranh nổi tiếng đến biểu diễn . Kĩ nữ rất vui mừng, hồi hộp được mời, được phục vụ bậc anh hùng nổi tiếng nhất xứ Đông Ngô. Khi cô đàn, Chu lặng nghe, nhắm nghiền mắt . Nhưng cô lại muốn Chu vừa nghe đàn vừa nhìn ngắm sắc đẹp của cô. Cô nghĩ ra mẹo : gẩy sai một nốt nhạc, thế là Chu Du bừng mắt, cau mặt nhìn kĩ nữ như oán trách. Cô rất thích thú, lại gảy tiếp thật hay . Thi thoảng cô lại dùng mẹo ấy . . P.H.N 2004 59
  60. Ai giỏi nhạc hơn ai, kĩ nữ hay Chu Du đại tướng ? Cuộc gặp gỡ giữa một nhà nghệ sĩ biểu diễn và một nhà phê bình âm nhạc. Mỗi người đều có năng lực âm nhạc khác nhau. Họ đều hiểu rõ tài năng của người kia (P.H.N) 50. Mộ xuân qui cố sơn thảo đường 暮 春 归 故 山 草 堂 Mù chūn guī gù shān cǎo táng Tiền Khởi 钱 起 Qián Qǐ Gù kǒu chūn cán huáng niǎo xī 谷 口 春 残 黄 鸟 稀 Xīn yī huā jìn xìng huā fēi 辛 夷 花 尽,杏 花 飞 Shǐ liān yōu zhù shān chuāng xià 始 怜 幽 竹 山 窗 下 Bù gǎi qīng yīn dǎi wǒ guī 不 改 青 阴 待 我 归 o Cửa động xuân tàn chim hoàng oanh hiếm hoi Cốc khẩu xuân tàn hoàng điểu hi Hoa tân di rụng hết, hoa hạnh bay bay Tân di hoa tận, hạnh hoa phi Chỉ thương cây trúc lặng lẽ dưới song cửa núi Thỉ liên u trúc sơn song hạ Không thay đổi sắc màu, đợi ta về Bất cải thanh âm đãi ngã qui P.H.N 2004 60
  61. 51. Mộng Lí Bạch (bài 1) 梦 李 白 Mèng Lǐ Bái Đỗ Phủ 杜 甫 Dù Fǔ 死 别 已 吞 声 Sǐ biè yǐ tun sheng Shēng bié cháng cè cè 生 别 长 恻 恻 Jiang nan zhàng li dì 江 南 瘴 ?地 Zhù kè wū xiāo xī 逐 客 无 消 息 Gǔ rén rù wǒ mèng 古 人 入 我 梦 Ming wǒ cháng xiang yì 明 我 长 相 忆 Jun jin zài luo wǎng Hé yǐ yǒu yǔ yì ? 君 今 在 罗 网 Kǒng fèi ping sheng hún 何 以 有 羽 翼 Lǔ yuǎn bù kě cè 恐 非 平 生 魂 Hún lāi feng līn qing 路 远 不 可 测 ! Hún fǎn guan shan hēi Luò yuè mǎn wù liáng 魂 来 枫 林 青 You yī zhào yan sè 魂 返 关 山 黑 Shuǐ shēn bó lǎng kuò P.H.N 2004 61
  62. Wu shǐ jiao long dè 落 月 满 屋 粱 犹 疑 照 颜 色 水 深 波 浪 阔 无 使 蛟 龙 得 Mơ thấy Lí Bạch Mộng Lí Bạch I Chết phải lìa nhau, khóc đến nghẹn lời, Tử biệt dĩ thôn thanh, Sống phải lìa nhau, lòng càng đau xót. Sinh biệt thường trắc trắc. Giang Nam là nơi ma thiêng nước độc, Giang Nam chướng lệ đia, Người đi đày chẳng có tin tức gì. Trục khách vô tiêu tức. Bạn đến với ta trong giấc mơ, Cố nhân nhập ngã mộng, Đã biết ta nhớ nhung không dứt. Minh ngã trường tương ức. Bạn bây giờ đang mắc trong bẫy lưới, Quân kim tại la võng, Lông cánh đâu mà bay về được ? Hà dĩ hữu vũ dực. E rằng không phải hồn bạn còn sống, Khủng phi bình sinh hồn, Vì đường xa xôi không thể lường được ! Lộ viễn bất khả trắc ! Hồn về rừng phong xanh ngắt, Hồn lai phong lâm thanh, Hồn đi quan ải đen ngòm. Hồn phản quan tái hắc. Trăng xế toả ánh đầy nóc nhà, Lạc nguyệt mãn ốc lương, Còn ngờ như soi vào vẻ mặt của bạn, Do nghi chiếu nhan sắc. Nước sâu, sóng cả, Thuỷ thâm ba lãng khoát, (Mong) bạn thoát khỏi miệng loài giao long Vô sử giao long đắc ! Dịch thơ : I Chết đành lặng ngắt tâm hơi, Sống mà xa cách sao nguôi tấc lòng; Giang Nam chướng độc muôn trùng, Mong người bị đuổi tin hồng vẳng tanh. Chiêm bao lẩn khuất bên mình, Tỏ rằng ta vẫn nặng tình nhớ nhung. Bạn nay còn mắc lưới hồng, Cánh đâu tháo cũi sổ lồng cao bay ? P.H.N 2004 62
  63. Phải chăng hồn sống về đây ? Nẻo đường xa lắc dễ hay mà lường. Hồn đi xanh ngắt rừng bàng, Hồn về cửa ải dặm đường tối đen. Trên xà xế bóng trăng xiên, Mơ hồ còn tưởng như in vẻ người. Nước sâu sóng rợn đầy giời, Gĩư sao cho khỏi mắc mồi giao long. (Á Nam dich) 52. Nguyệt dạ 月夜 Yuè yè Lưu Phương Bình 刘 方 平 Liū Fāng Píng 更 深 月 色 半 人 家 Gēng shēn yuè sè bàn rén jiā Bēi dǒu lān gān Nán dǒu xié 北 斗 阑 干 南 斗 斜 Jin yè piān zhī chūn qì nuǎn 今 夜 偏 知 春 气 暖 Chóng shēng xīn tòu lǔ chuāng shā 虫 声 薪 透 绿 窗 纱 o Đêm khuya trăng chiếu nửa nhà Canh thâm nguyệt sắc bán nhân gia Sao Bắc đẩu phía trước lan can, sao Nam đẩu đã xế Bắc đẩu lan can Nam đẩu tà Đêm nay mới biết rằng hơi xuân ấm áp Kim dạ thiên tri xuân khí noãn Tiếng côn trùng mới thấm vào tận cửa sổ lụa Trùng thanh tân thấu lục song sa Ông Ngô Văn Phú dịch nghĩa câu 3 chưa rõ ( thiên : thêm) , đúng ra là “mới/ chỉ” P.H.N 2004 63
  64. 53. Nguyệt hạ độc chước Lí Bạch 李白 Lǐ Bái Yuè xià dù zhuò 月下独酌 Huā jiān yī hú jiǔ 花间一壶酒 Dù zhuò wū xiāng qīn 独酌无相亲 Jǔ bēi yāo míng yuè 举杯邀明月 Duì yǐng chéng sān rén 对影成三人 Yuè jì bù jiě yǐn 月既不解饮 Yǐng tú suí wǒ shēn Zàn bàn yuè jiāng yǐng 影徒随我身 Xíng lè xū jì chūn 暂伴月将影 Wǒ gē yuè pái huái 行乐须及春 Wǒ wǔ yǐng ling luàn 我歌月徘徊 Xǐng shí tóng jiāo huān 我舞影凌乱 Zuì hòu gè fēn sàn Yǒng qiè wū qíng yōu 醒时同交欢 P.H.N 2004 64
  65. Xiāng qī miǎo Yūn hán 醉后各分散 永结无情游 相期邈云汉 Uống rượu một mình dưới trăng Giữa hoa một hồ rượu Hoa gian nhất hồ tửu Một mình rót uống không người thân Độc chước vô tương thân Nâng chén mời trăng sáng Cử bôi yêu minh nguyệt Cùng bóng mình thành ba người Đối ảnh thành tam nhân Trăng không biết uống rượu Nguyệt kí bất giải ẩm Bóng thì theo thân mình Ảnh đồ tuỳ ngã thân Tạm kết bạn với trăng và bóng Tạm bạn nguyệt tương ảnh Vui cho kịp với ngày xuân Hành lạc tu cập xuân Ta hát trăng cũng bồi hồi Ngã ca nguyệt bồi hồi Ta múa trăng cũng quay cuồng Ngã vũ ảnh linh loạn Khi tỉnh cùng vui với nhau Tỉnh thì đồng giao hoan Say rồi đều tan tác Tuý hậu các phân tán Tình giao kết buộc nhau lại mãi chi Vĩnh kết vô tình du Hẹn hò nhau trên tít Vân Hán (sông Ngân Hà) Tương kỳ mạc phân tán Lời bàn : Nỗi cô đơn thiếu bạn của Lí Bạch được tả thật lạ lùng, say mà buồn . . . Trăng thay người làm bạn với thi nhân . Trên đời thiếu bạn khổ thế đấy . 54. Phong kiều dạ bạc 枫 桥 夜 泊 Fēng qiáo yè bó Đỗ thuyền đêm ở Phong Kiều Trương Kế 张 继 Zhang Jì Yuè luò wū tí shuāng mǎn tiān 月 落 乌 啼 霜 满 天 Jiāng fēng yú huǒ duì chóu miān 江 枫 鱼 火 对 愁 眠 Gū Sū chéng wài Hán Shān sì 姑 苏 城 外 寒 山 寺 Yè bàn zhōng shēng dào kè chuán 夜半 钟声 到 客 船 . Trăng lặn, quạ kêu sương, đầy trời Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên (Nhìn) đèn chài, cây phong bên sông, ngủ trong nỗi buồn. Giang phong ngư hoả đối sầu miên (từ) Chùa Hàn Sơn ngoài thành Cô Tô, Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự tiếng chuông đi đến thuyền khách lúc nửa P.H.N 2004 65
  66. đêm . Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền Dịch thơ “Trăng tà chiếc quạ kêu sương Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ Thuyền ai đậu bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn” ( bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh ) Quạ kêu trăng lặn sương rơi Quạ kêu, trăng xế ngang đầu Lửa chài cây bãi đối người nằm co Lửa chài cây bến gối sầu ngủ mơ Con thuyền đậu bến Cô Tô Thuyền ai ngoài bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn Nửa đêm lạnh tiếng chuông chùa Hàn San (Trần Trọng Kim) (Ngô Văn Phú) Ghi chú: Thành Cô Tô do Ngô vương Phù Sai xây cho Tây Thi cùng ở, thuộc thành Tô Châu nay là tỉnh Giang Tô. Bản dịch thơ Phong Kiều dạ bạc đã từng hiểu lầm là của Tản Đà. Mới đây ông Nguyễn Quảng Tuân đã xác minh dịch giả là cụ Nguyễn Hàm Ninh làm quan dưới triều Tự Đức (sách Thơ Đường Tản Đà dịch- Nhà xuất bản Văn học 2003, trang 205, biên soạn : Nguyễn Quảng Tuân) . Lời bàn Bài thơ của Trương Kế ý nghĩa đã khá rõ ràng. Tuy vậy xưa nay vẫn có nhiều cách phân tích, thưởng thức, bình luận khác nhau về bài Phong Kiều dạ bạc. Hai câu thực vẽ ra một bối cảnh bao quát đất trời một đêm buồn bã . Nhưng nó còn có ý nghĩa tượng trưng cả thời đại . Xét theo luật thi, câu 2 vốn là câu thực mà đã sớm nói ra “nỗi lòng“ (sầu) thì khó lòng đi tới câu kết, do vậy nhà thơ bối rối. Và may nhờ tiếng chuông chùa Hàn San, nhà thơ tìm ra cách kết khác (thoát khỏi luật thi) : dùng ngay câu thực để kết . Giai thoại : Hàn San là tên vị hoà thượng xây dựng và trụ trì chùa này trong thời nhà Đường. Giai thoại kể rằng trong đêm ấy, Trương Kế viết hai câu thơ mở đầu Phong kiều dạ bạc thì bế tắc, cùng lúc hoà thượng trên chùa Hàn San làm được hai câu đầu bài tứ tuyệt thì bí lối . Hoà thượng trằn trọc . Chú tiểu lại vấn an, hoà thượng nói rằng mới làm được hai câu thơ như sau : 初 三 初 四 月 瞢 胧 Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung Bán tự ngân câu, bán tự cung 半 似 银 钩 半 似 弓 Chú tiểu xin làm tiếp : 一 片 玉 湖 分两 断 Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn Bán trầm thuỷ để bán phù không 半 沉 水 底 半 浮 空 Bốn câu hợp lại vừa khéo thành bài thất tuyệt . Chū sān chū sì yuè méng lóng Bàn sì yīn gōu bàn sì gōng P.H.N 2004 66
  67. Yī piàn yù hú fēn liǎng duàn Bàn chén shuǐ dǐ bàn fú kōng dịch nghĩa Dịch thơ : Mồng ba mồng bốn ánh trăng mông lung Đêm nay đầu tháng trăng mờ Vừa giống cái móc câu bạc, lại vừa giống cái cung . Nửa như móc bạc nửa ngờ vành cung Một mảnh hồ trong xanh chia (vầng trăng) ra hai phần Hồ xanh ai xẻ đôi vừng Nửa chìm đáy nước, nửa nổi trên không Nửa chìm đáy nước nửa lòng trên mây (Theo bản thuyết minh phimTrung Hoa du ký, tập 4. HCMTV sản xuất 2004) Lời bàn “Nhất phiến ngọc hồ “ là mượn ý câu thơ trong bài “Phù Dung lâu tống Tân Tiệm “ của Vương Xương Linh (xem bài số 55), câu kết là “ Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ “. Khác nhau là : “hồ ngọc“ trong bài của Vương Xương Linh là cái bình ngọc, ở đây là cái hồ nước trong xanh như ngọc . Hoà thượng vui mừng bảo chú tiểu đi thỉnh chuông, còn ông thắp hương để tạ ơn Phật tổ đã phù hộ cho hai thầy trò làm được bài thơ hay. Trương Kế đang ở bến Phong Kiều gần đó chợt nghe tiếng chuông vọng đến thuyền, bắt được ý thơ cho hai câu chót. Nhà thơ đã tìm ra lối giải thoát là : Phật giáo. Bài thơ của hai thầy trò hoà thượng hàm chứa suy tưởng mơ hồ, “mông lung“ như vầng trăng trên mặt nước hồ xanh. Tâm tư tình cảm của hoà thượng cũng phân vân như thế Một vị hoà thượng quả không giản đơn, khô khan như người đời thường nghĩ. Có lẽ cả hai thầy trò đều “thân tại Hàn San, tâm tại thế“ chăng ? Mới viết được hai câu đầu chẳng phải bởi hoà thượng bí thơ, chỉ là ông ngượng ngùng chưa dám nói hết, chú tiểu còn hăng hái lòng trần nên bạo dạn nói ra hai câu sau vậy . Soạn giả xin tạm đặt tên bài tứ tuyệt của thầy trò Hàn Sơn là “ Nỗi lòng Hàn San hoà thượng“. Bài thơ của hai thầy trò Hàn San ý tứ kín đáo, rất đặc sắc. Hiềm nỗi nó chỉ là giai thoại, xuất xứ không chắc chắn, không rõ danh tính hai thầy trò. Bài thơ có lẽ thuộc về sáng tác truyền miệng của tác giả vô danh. 55. Phù Dung lâu tống Tân Tiệm Vương Xương Linh 王 昌 龄 Wáng Chāng Ling Fú Rong lóu sòng Xin Jiàn 浮蓉楼 送 辛 渐 Hán yǔ lian jiang yè rù Wu 寒 雨 连 江 夜 入 吴 Píng ming sòng kè Chǔ shān gu 平 明 送 客 楚 山 孤 Luò Yang qīn yǒu ru xiang wèn Yī piàn bīng xin zài yù hú 洛 阳 亲 友 如 相 关 一 片 冰 心 在 玉 壶 X Dịch nghĩa: Trên lầu Phù Dung tiễn Tân Tiệm PHÙ DUNG LÂU TỐNG TÂN TIỆM P.H.N 2004 67
  68. Đang đêm vào đất Ngô giữa lúc mưa lạnh tràn sông, Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô, Mờ sáng đi tiễn khách bên ngọn núi quạnh hiu đất Bình minh tống khách Sở sơn cô. Sở. Bạn thân Lạc Dương nếu có ai hỏi thăm, Lạc Dương thân hữu như tương vấn, ( thì thưa giùm rằng Ta) vẫn giữ một tấm lòng thanh “Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” khiết như mảnh băng chứa trong bình ngọc. Dịch thơ: Mưa lạnh tràn sông, đêm tới Ngô, Sáng ra tiễn khách núi buồn trơ. Lạc Dương nếu có người thân hỏi Một mảnh lòng băng tại ngọc hồ. (Tương Như dịch) Lời bàn “ Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” là lời nhắn của nhà thơ gửi Tân Tiệm nói với bạn ở xa . Ngọc hồ : cái bình ngọc, kín đáo, bền đẹp. Mảnh băng tuyết sạch sẽ thanh khiết đựng trong đó sẽ được giữ sạch, tránh khỏi tạp bụi của đời. Băng tuyết còn biểu hiện sự lạnh giá của tâm hồn người vắng bạn. Lòng chung thuỷ được ví như câu thơ kết thật là cầu kì. Vương Xương Linh được mệnh danh là “thiên tử thi”, vua của thơ, ấy là vì cái chất thơ tài hoa sang trọng đẹp đẽ cao quí lạ thường. Danh hiệu “thơ vua” dẫu sao vẫn còn mang tính trần thế (xếp chỗ dưới “ thi tiên Lí Bạch”, “ thi thánh Đỗ Phủ”, “thi Phật Vương Duy “ là những thơ vượt ra ngoài trần tục, cao cả hơn ). Lí Hạ còn được gọi là “ quỉ tài” hoặc “quỉ thơ” thì thật khó định . 56. Quá Hương Tích tự 过香迹寺 Guó Xiāng Jī sì Vương Duy 王 维 Wáng Wēi Bù zhī Xiāng Jī sì 不知香积寺 Shǔ lǐ rù yūn fēng 数里入云峰 Gǔ mù wū rēn jìng 古木无人迳 Shēn shān hé chù zhōng 深山何处锺 Quán shēng yàn wēi shí P.H.N 2004 68
  69. Rì sè lèng qing sóng 泉声咽危石 Bò mù kōng dán qù 日色冷青松 Ān chán zhì dù lóng 薄暮空潭曲 安禅制毒龙 O Chẳng biết chùa Hương Tích (ở đâu) Bất tri Hương Tích tự Mấy dặm đi vào gió mây Sổ lý nhập vân phong Cây cô đơn, chẳng có lối người đi Cổ mộc vô nhân kính Núi sâu thẳm, tiếng chuông đâu vọng tới ? Thâm sơn hà xứ chung ? Tiếng suối chảy bên gành đá Tuyền thanh yết nguy thạch Cây tùng ánh mặt trời lạnh Nhật sắc lãnh thanh tùng Chiều hôm trơ lại khúc đầm Bạc mộ không đàm khúc Vững tâm theo Phật thì trị được con rồng dữ An thiền chế độc long Chẳng hay Hương Tích chùa đâu, Đi đôi ba dặm lên đầu non cao. Cây già, chẳng lối người qua, Núi sâu, chuông tự nơi nào tiếng đưa ? Suối kêu gành đá ria bờ, Lạnh lùng bóng nắng chui lùa thông xanh. Trời hôm tấc dạ thanh minh, Quy y đạo Phật sửa mình là hơn. Lời bàn Nước ta cũng có chùa Hương (còn gọi Hương Tích) thuộc tỉnh Hà Tây, có lẽ dùng tên ngôi chùa Trung Hoa ? Không rõ Hương Tích ở TQ có thể sánh với Hương Tích Việt Nam mà chúa Trinh Sâm ghi dòng chữ “Nam thiên đệ nhất động” ? 57. Quân hành Lí Bạch 李 白 Lǐ Bái 军 行 Jun xíng 榴马新坷白玉鞍 Liú mǎ xīn kē bái yù yan Zhàn bà shā chǎng yuè sè hán 战罢沙场月色寒 Chéng tóu tiě gǔ xiǎng yóu zhèn P.H.N 2004 69
  70. Xiá lì jīn dao xiè wèi gān 城头铁鼓响犹震 匣里金刀血未干 O Bài hát về người lính Quân hành Con ngựa màu lựu, ( buộc) yên cương mới , yên (gắn ) Lựu mã tân khoa bạch ngọc an viên ngọc trắng . Chiến trận ngừng, ánh trăng trên sa trường lạnh lẽo Chiến bãi, sa trường nguyệt sắc hàn Đầu thành, tiếng trống còn nghe dư âm Thành đầu thiết cổ vang do chấn Trong hộp, lưỡi kiếm quí còn dính máu Hạp lí kim đao huyết vị can Ghi chú : “lựu mã “ là giống ngựa quí, lông đen đuôi hồng, trông như bông hoa lựu . Xin mời bạn đọc dịch thơ . Lời bàn Bài thơ miêu tả hình ảnh kẻ chinh phu ẩn hiện sau con ngựa quí Câu 1 tả con ngựa quí phái . Không một chữ tả người. Nhưng ta có thể tưởng tượng ra chủ nhân của con ngựa này. Hẳn phải là một trang hiệp sĩ quí tộc, một tay hào kiệt, chẳng phải một lính thường. Thái độ của anh ta ra sao khi chuẩn bị con ngựa lên đường ra trận nếu chẳng phải là hăng hái lập công ? Anh ta ra trận như đi trảy hội . Câu 2 đột ngột báo rằng chiến trận ngừng, ánh trăng trên sa trường lạnh lẽo. Vẫn không tả người Có lẽ chết cả rồi, chết nhiều đến nỗi tử khí thây ma bốc lên lạnh cả ánh trăng. Cũng là lòng người lạnh lẽo nữa. Câu 3 tả tâm trạng một con người. Hẳn đó là chủ nhân của con ngựa quí may mắn sống sót . Nhưng anh ta vẫn bàng hoàng, trong đầu dư âm tiếng trống trận khủng khiếp. Thanh kiếm quí, cán khảm vàng bạc (kim đao) dơ bẩn dính máu đã nhét vội vào vỏ kiếm . Sao anh không lau chùi sạch máu rồi hãy đặt vào hộp như trước khi ra trận con ngựa được trang bị đẹp đẽ nhường kia ? Tâm trí anh đã thay đổi rồi. Cái đẹp còn ý nghĩa gì nữa khi xương máu ngổn ngang ! Còn ngựa quí đâu ? Bài thơ không nhắc tới nữa, vậy nó đã chết rồi . Chủ nhân, tiếc rẻ con ngựa hay là hoang mang khiếp hãi về cuộc chiến tàn khốc vừa rồi ? Không một dòng tả cuộc chiến đẫm máu. Nhà thơ Lí Bạch không chịu dành một câu thơ nào cho sự đâm chém điên cuồng của con người. Quan điểm nhân sinh của ông thật độc đáo qua một bài tứ tuyệt miêu tả chiến tranh. Tư tưởng nhân đạo của ông thật cao vời vợi, nghệ thuật thi ca của Lí Bạch thật kì thú khác người . 58. Quy ẩn 归隐 Trần Phốc 陈 搏 Chén Pù 十年踪迹 走红尘 Shì nián zong jì zǒu hóng chén 回首青山入梦频 Huí shǒu qīng shān rù mèng pín P.H.N 2004 70
  71. 紫绶纵荣争及睡 Zǐ shòu zòng rōng zhēng jì shuì 朱门虽富不知贫 Zhu mén suī fǔbù zhī pín 愁闻剑戟扶危主 Chóu wēn jiàn jǐ fú wēi zhǔ 闷闻笙歌聒醉人 Mén wèn shēng gē guà zuì rén 携取旧书归旧隐 Xíe qǔ jiù shū guī jiù yǐn 野花啼鸟一般春 Yě huā tì niǎo yī bān chūn O Lui về ở ẩn Quy ẩn Mười năm tông tích chạy trốn nơi bụi trần Thập niên tông tích tẩu hồng trần Chuyện quay về núi xanh luôn vào trong mộng Hồi thủ thanh sơn nhập mộng tần Đai tía trả lại vinh hoa, tranh lấy giấc ngủ Tử thụ túng vinh tranh cập thuỵ Cửa son tuy giàu nhưng không biết được cảnh nghèo Chu môn tuy phú bất tri bần Lòng buồn nghe tin trong loạn lạc có người phò chúa Sầu văn kiếm kích phù nguy chủ khi bị nguy Muộn thính sênh ca quát tuý nhân Càng chán nghe sênh phách xui người sống say sưa Huề thủ cựu thư qui cựu ẩn Cầm sách cũ lên tay, về nơi ở ẩn cũ Dã hoa đề điểu nhất ban xuân Hoa đồng chim hót đem đến cho ta hương xuân dịch thơ : Dấu vết mười năm trốn cõi trần Quay đầu mộng hướng núi non xanh Trả về đai tía , tranh vùi ngủ Quyền quí thì sang, chẳng biết bần Phò chúa cơn nguy buồn loạn lạc Phách xênh chán ngắt, rượu say tràn Cầm tay sách cũ, về nơi cũ Chim hót hoa đồng ta đón xuân ( NV Phú dịch) Lời bàn : Ý thơ minh bạch rõ ràng. SV cần mở rộng phần đồng cảm với nhân vật trữ tình , , bàn về lẽ xuất xử của kẻ sĩ. 59. Qui gia 归家 Đỗ Mục 杜牧 Dù Mù P.H.N 2004 71
  72. Zhì zǐ qiān yī wèn 稚子牵衣问 Guī jiā hé tài chí 归家何太迟 Gòng shuí zhēng suì yuè 共谁争岁月 Yīng dè bìn rū sī 赢得鬓如丝 Trẻ con nắm áo hỏi Trĩ tử khiên y vấn Sao mãi không về nhà Qui gia hà thái trì Cùng ai tranh năm tháng Cộng thuỳ tranh tuế nguyệt Về nhà, mái tóc trắng như tơ Dinh đắc mấn như ti 60. Song yến ly 双 燕 鬲 shuāng yàn lí P.H.N 2004 72
  73. Lí Bạch 李 白 Lǐ Bái Shuāng yàn fù shuāng yàn 双 燕 复 双 燕 Chuāng fēi līng rén xiàn 双 飞 令 人 羡 Yù lóu zhhū gè bù dù qī Jīn chuāng xiù hù cháng xiāng jiàn 玉 楼 珠 阁 不 独 栖 金 窗 秀 户 长 想 见 Bǎi Liāng shì huǒ qù 白 梁 失 火 去 Yīn rù Wū Wáng gōng Wū gōng yòu fén dàng 因 入 吴 王 宫 Chú jìn cháo yì kōng 吴 宫 又 焚 荡 Qiáo cuì yī shén zài 雏 尽 巢 亦 空 Shuāng cí yì gù xióng 憔 悴 一 身 在 Chuāng fēi nán fù dè Shāng wǒ cùn xīn zhōng 孀 雌 忆 故 雄 双 飞难 复得 伤 我 寸 心 中 Đôi én bay đi, bay lại Song yến phục song yến Bay đôi khiến người ta trầm trồ song phi linh nhân tiễn Lầu ngọc gác son không chịu đậu một mình Ngọc lâu, châu các, bất độc thê Cửa sổ dát vàng, khung cửa màn thêu, ở cùng Kim song, tú hộ, trường tương kiến nhau lâu dài . Bách Lương thất hoả khứ Lâu đài Bách Lương bị lửa đốt cháy Nhân nhập Ngô vương cung bèn bay vào cung vua Ngô Ngô cung hựu phần đãng Cung vua Ngô lại bị thiêu huỷ Sồ tận, sào diệc không Chim non chết hết, tổ cũng tan ! Tiều tuỵ nhất thân tại Còn lại chiếc thân tiều tuỵ Sương thư ức cố hùng Chim mái goá bụa nhớ chim trống xưa Song phi nan phục đắc Muốn cùng bay đôi không được nữa Thương ngã thốn tâm trung Đau thương thay tấc lòng ta dịch thơ (Trúc Khê ) Nhở nhơ cặp én bay đôi, Bay đôi quấn quýt cho người mến yêu. Lầu vàng gác ngọc song thêu, Khi mai chắp cánh, khi chiều sóng vai. Lửa đâu cháy Bách Lương đài, Cung Ngô tưởng được là nơi ở bền. Lửa Ngô phút lại bùng lên, Con tan tổ vỡ biến thiên chẳng ngờ. Chiếc thân én goá bơ vơ, Nhớ chồng biết đến bao giờ cho khuây. Mong chi chắp cánh cùng bay, Lòng ta ảo não thương mày én ơi. P.H.N 2004 73
  74. Ghi chú : “Song yến ly” là một khúc nhạc cổ . “Bách Lương đài” : cung vua Hán Vũ đế . “Cô Tô đài” là cung vua Ngô. . Cặp chim én là hình tượng đôi vợ chồng thảo dân, loạn nơi này thì chạy đi nơi khác trú thân. Họ sống nhờ trong những mái, góc lâu đài. Chiến tranh triền miên . Người ta xót thương cho Tây Thi và những cô gái Việt, tiếc cho Ngô Vương , duy chỉ có Lí Bạch nghĩ thương cho ngưòi dân đen khốn khổ, tan nhà nát cửa bởi chiến tranh của bọn lãnh chúa tham tàn . . . 61. Sơ xuân tiểu vũ 初春小雨 Chu chun xiăo yǔ Hàn Dũ 韩愈 Hán Yù Tiān jiē xiǎo yǔ rùn rú hù 天街小雨润如醐 Cǎo sè yāo kān jìn ruò wū 草色 遥看近若无 Zuì shì yī nián chūn hǎo chù 最是一年春好处 Juè shēng yān liǔ mǎn huáng dōu 绝升烟柳满皇都 Góc trời mưa nhỏ như sợi sữa rớt bay Thiên nhai tiểu vũ nhuận như hồ Sắc cỏ nhìn xa dường như không có Thảo sắc dao khan cận nhược vô Đây là nơi xuân đẹp nhất trong năm Tối thị nhất niên xuân hảo xứ Rờn rờn khói liễu khắp cả hoàng thành Tuyệt thăng yên liễu mãn hoàng đô Mưa nhỏ đầu xuân Mưa nhỏ góc trời tơ sữa bay Xa gần sắc cỏ gợn hây hây Buổi nay xuân đẹp không đâu sánh Khói liễu hoàng thành đủ ngất ngây (NVP) P.H.N 2004 74
  75. 62. Sương nguyệt 霜月 Shuang yùe Lí Thương Ẩn 李商隐 Lǐ Shang Yǐn 初闻征雁已无蝉 Chū wēn zhēng yàn yǐ wū chán 白尺楼台水接天 Bái chì lóu tái shuǐ jiè tiān 青女素娥俱耐冷 Qing Nǔ Sù E gōu nài lèng 月中霜里头婵娟 Yuè zhōng shuāng lǐ tòu chán juān O Trăng sương Vừa nghe nhạn từ xa rong ruổi về tiếng ve đã im bặt Sơ văn chinh nhạn dĩ vô thiền Lâu đài trăm thước, nước liền trời Bách xích lâu đài thuỷ tiếp thiên Thần tuyết sương và Tố Nga chẳng nề hà lạnh lẽo Thanh nữ, Tố Nga câu nại lãnh Trong sương, dưới ánh trăng ( hai cô) đua đẹp cùng nhau Nguyệt trung sương lý đấu thuyền quyên dịch thơ : P.H.N 2004 75
  76. 63. Tam niên biệt 三 年 别 Sān nián biè Bạch Cư Dị 白居易 Bái Ju Yì 悠 悠 一 别 已三 年 Yōu yōu yì biè yǐ sān nián Xiang wàng xiang si ming yuè tiān 相 望 相 思 明 月天 Cháng duàn qīng tiān wàng mingyuè 长 断 青天望 明 月 Biè lái sān shì liù huí yuán 别来三 十 六 回 圆 X Ba năm xa cách Tam niên biệt Mỗi lần từ biệt ba năm đằng đẵng, Du du nhất biệt dĩ tam niên, Mong nhớ nhau những đêm sáng trăng Tương vọng tương tư, minh nguyệt thiên. Đau lòng trời xanh ngóng ánh trăng Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt Xa nhau đã ba mươi sáu lần tròn Biệt lai tam thập lục hồi viên. Dịch thơ: Xa nhau một chuyến ba năm, Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau. Trời xanh, trăng sáng, lòng đau, Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn. ( Tản Đà dich) P.H.N 2004 76