Đời sống, lễ hội, phong tục tập quán của người Chăm

pdf 74 trang phuongnguyen 1620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đời sống, lễ hội, phong tục tập quán của người Chăm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdoi_song_le_hoi_phong_tuc_tap_quan_cua_nguoi_cham.pdf

Nội dung text: Đời sống, lễ hội, phong tục tập quán của người Chăm

  1. ĐỜI SỐNG, LỄ HỘI, PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI CHĂM Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 3
  2. biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi ịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ phong tục cổ truyền. L ở duyên hải miền Trung Việt ặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên M Ðàn ơng mặc áo cánh ngắn xẻ một nền văn hố rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hố Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chămpa. Hiện tại cư dân gồm cĩ hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bàlamơn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc,Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới. oạt động sản xuất: Người Chăm H cĩ truyền thống nơng nghiệp Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm đang phát triển và thích ứng với kinh tế vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm hàng hố, phục vụ đáng kể cho nhu cầu du ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khách khắp cả nước. khơ một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui bằng nghề chài lưới, dệt thủ cơng và đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu buơn bán nhỏ, nghề nơng chỉ là thứ yếu. trắng của vải sợi bơng. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc ghề thủ cơng phát triển ở vùng như người Việt ở miền Trung, chỉ cĩ N Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm chiếc áo dài chui đầu là cịn thấy xuất và nghề gốm nặn tay, nung trên các lị lộ hiện trong giới nữ cao niên. thiên. Việc buơn bán với các dân tộc láng : Người Chăm cư trú tại Ninh giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên Ở Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động (nhà trệt). Mỗi gia đình cĩ những ngơi của những đội hải thuyền nổi tiếng trong nhà được xây cất gần nhau theo một trật lịch sử. tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và n: Người Chăm ăn cơm, gạo các con nhỏ tuổi, nhà của các cơ gái đã Ă được nấu trong những nồi đất lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đĩ nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau cĩ kho thĩc, buồng tân hơn và là chỗ ở củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuơi, của vợ chồng cơ gái út. trồng trọt đem lại. Thức uống cĩ rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 4
  3. Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và hoả táng theo giáo luật, cịn các nhĩm cư thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên dân khác thì thổ táng. Những người trong lưng. Cư dân Chăm cũng là những người cùng một dịng họ thì được chơn cất cùng thợ đĩng thuyền cĩ kỹ thuật cao để hoạt một nơi theo huyết hệ mẹ. động trên sơng và biển. Họ làm ra những hà mới: Người Chăm ở Ninh chiếc xe bị kéo, trâu kéo cĩ trọng tải khá N Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà lớn để vận chuyển trên bộ. mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng uan hệ xã hội: Gia đình người thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại Q Chăm mang truyền thống mẫu hệ, rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội làm lễ đĩn cây. Lễ phạt mộc được tổ đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng chức để khởi cơng cho việc xây cất ngơi theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã nhà. chuyển sang phụ hệ, vai trị nam giới ễ tết: Người ta thực hiện nhiều được đề cao, nhưng những tập quán mẫu L nghi lễ nơng nghiệp trong một hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, gia đình, dịng họ với việc thờ cúng tổ lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành ra địng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dịng katê được tổ chức linh đình tại các đền Niee và Mlơ ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tháp vào giữa tháng mười âm lịch. tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở ịch: Người Chăm cĩ nơng lịch cổ thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. L truyền tính theo lịch âm. Dưới thị tộc là các dịng họ theo huyết hệ ọc: Dân tộc Chăm cĩ chữ từ rất mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc H sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, dịng con út. Mỗi dịng họ lại cĩ nhiều chi kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ nhưng việc sử dụng chữ này cịn rất hạn đại. Họ cĩ những vùng cư trú riêng và cĩ hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. những ngăn cách rõ rệt: khơng được thiết Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu lập quan hệ hơn nhân, khơng sống cùng là truyền khẩu và bắt chước, làm theo. một xĩm, khơng ăn cùng một mâm ăn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật ưới xin: Phụ nữ chủ động trong V cĩ trống mặt da Paranưng, trống C quan hệ luyến ái. Hơn nhân cư trú vỗ, kèn Saranai. Nền dân ca - nhạc cổ phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung vợ một chồng là nguyên tắc trong hơn như trống cơm, nhạc nam ai, ca hị Huế nhân. Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày a chay: Người Chăm cĩ hai hội Katê diễn ra tại các đền tháp. M hình thức đưa người chết về thế hơi: Trẻ em thích đánh cù và thả giới bên kia là thổ táng và hoả táng. C diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, Nhĩm cư dân theo đạo Bàlamơn thường chơi trị bịt mắt bắt dê. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 5
  4. LỄ HỘI KATÊ CỦA NGƯỜI CHĂM BàLaMôn TS. Nguyễn Đức Tồn atê là mùa lễ hội lớn trong năm của K người Chăm Bà La Mơn tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Lễ hội Katê cĩ ý nghĩa kính nhớ ơng bà tổ tiên, những người đã khuất, tưởng nhớ đến các vị anh hùng dân tộc (được người Chăm suy tơn thành thần) như Pơ Rơ mê và Pơ Klong Garai: các vị vua đã cĩ nhiều cơng lao đối với người Chăm thuở xa xưa như kiến thiết đất nước, hướng dẫn làm thủy lợi và sản xuất nơng nghiệp. Lễ hội Katê cịn Theo truyền thống, ngày 1 tháng 7 cĩ ý nghĩa tưởng nhớ đến ơng bà tổ tiên lịch Chăm là ngày chính lễ của lễ hội bên ngoại (tức bên cha, vì người Chăm Katê, được tổ chức tại các đền tháp của theo mẫu hệ). Tương tự ý nghĩa kính nhớ người Chăm. Vì thế, ngày này cịn được ơng bà tổ tiên trong Katê, người Chăm cĩ gọi là ngày lên tháp. Tính theo dương lễ Chabur (vào 15/9 lịch Chăm) để tưởng lịch, ngày lên tháp tương ứng với khoảng nhớ ơng bà tổ tiên bên nội (bên mẹ). thời gian từ giữa tháng 9 đến giữa tháng Chabur đồng thời là dịp sùng kính thần 10 dương lịch. Năm nay (2004), ngày lên mẹ xứ sở Pơ Nagar – vị thần lớn nhất của tháp nhằm vào ngày 13/10 dương lịch. người Chăm. Lễ hội Chabur thường được Đến ngày lên tháp, ngay từ khi trời chưa tổ chức với quy mơ nhỏ hơn so với lễ hội kịp sáng, khắp các palay Chăm (làng Katê. Chăm) của người Chăm Bà La Mơn tại Ninh Thuận đã nhộn nhịp tiếng mọi Những nghi lễ chính của Katê được người gọi nhau để chuẩn bị “lên tháp” diễn ra nơi các đền tháp. Ở Ninh Thuận, (các tháp Chăm thường được xây dựng cĩ ba địa điểm hành lễ là đền thờ Pơ trên các ngọn đồi). Nagar (ở làng Chăm Hữu Đức thuộc xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Đến khoảng 7 - 8 giờ sáng hơm lên Ninh Thuận), tháp Pơ Romê (ở gần làng tháp, y phục của các “thần vua” được Chăm Hậu Sanh, thuộc địa bàn huyện rước từ danok lên trên tháp để hành lễ. Ninh Phước, cách trung tâm thị xã Phan Theo truyền thống, y phục vua Chăm do Rang gần 20 Km về phía tây nam theo người Raglai gìn giữ và được đem đến đường bộ) và tháp Pơ Klong Garai (ở thị danok vào ngày kế trước hơm lên tháp. Ở trấn Tháp Chàm, cách Phan Rang 5 Km Ninh Thuận cĩ ba danok: danok vua Pơ theo đường quốc lộ 27 từ Phan Rang đi Rơ mê ở làng Chăm Hậu Sanh, danok nữ Đà Lạt). thần Pơ Nagar ở làng Chăm Hữu Đức và danok vua Pơ Klong Garai tại làng Phước Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 6
  5. Đồng, cả ba danok đều nằm trên địa bàn đến khi đĩng cửa tháp, từng dịng người huyện Ninh Phước. Đồn rước “y-trang” đơng đảo tiếp tục tuơn về các đền tháp. (trang phục của vua) lên tháp gồm dàn cờ Người lớn mang lễ vật đến cầu khấn ngũ sắc, các cơ gái Chăm múa lễ duyên được buơn may bán đắt, gia đình bình an, dáng và rực rỡ trong chiếc áo dài Chăm hịa thuận hoặc dâng lễ để tạ ơn thần đã nhiều màu, các vị chức sắc Bà La Mơn đáp ứng lời cầu xin; thanh niên nam nữ Giáo và những thầy lễ dân gian trang cầu thần ban cho văn hay, chữ tốt, nghề trọng trong bộ lễ phục bước cạnh kiệu nghiệp tinh thơng, tình duyên mặn nồng rước y trang, nối tiếp kiệu rước là các các phụ nữ hiếm muộn cũng tranh thủ dịp đơng đảo đồng bào Chăm và du khách từ này để đến tháp cầu tự. Thơng thường, các nơi quy tụ về. những ai cĩ nhu cầu được buơn may bán Ngay khi đồn rước đến vừa đến đắt, học hành tấn tới thì đến cầu với Pơ trước cửa tháp, các cơ gái Chăm phụ Klong Garai, muốn cĩ sức mạnh, uy trách múa lễ liền biểu diễn các vũ điệu dũng thì tìm đến Pơ Romê, cịn muốn cầu Chăm truyền thống để chào đĩn các vị tự thì tìm đến với Pơ Nagar. Sau khi cầu thần linh về dự lễ hội Katê. Tiếp đến là khấn cùng thần linh, mọi người lưu lại nghi thức rảy nước trong Lễ Mở Cửa chút ít thời gian để cùng nhau chuyện trị, Tháp do thầy Cả Sư (Pơ Dhia) và các ghi hình kỷ niệm hoặc sum họp ăn thầy Bà Xế (Pasêh) thực hiện và nghi uống . Khơng chỉ cĩ người Chăm lên thức tắm tượng (Pamưnay Yăng) được tháp, mà cịn cĩ một số người Việt ở khu tiến hành nơi tượng thờ (bên trong lịng vực lân cận các tháp Chăm cũng đến cầu tháp hoặc tại chính điện của các đền thờ). xin, cúng bái. Các du khách thường đến Những nghi thức này xuất phát từ các tập viếng tháp Pơ Klong Garai mà ít đến tháp tục bản địa vốn cĩ nguồn gốc sâu xa là Pơ Romê, do tháp Pơ Klong Garai cĩ vị nền văn minh nơng nghiệp lúa nước liên trí gần quốc lộ và trung tâm thị trấn Tháp quan đến thuật cầu đảo (cầu mưa). Y Chàm, thuận tiện cho các loại xe vào sát phục vua Chăm được Pơ Dhia làm lễ ban chân đồi tháp. phước và trao cho Muk Pajâu (Bà múa lễ Sẽ là một thiếu sĩt lớn nếu chỉ đến dự cộng đồng) mặc vào tượng vua trong tháp Katê vào ngày lên tháp, bởi vì theo thờ. Sau khi tiến hành nghi thức tắm truyền thống hàng năm, trong ngày tiếp tượng, cuộc tế lễ bắt đầu. đĩn y phục vua Chăm do đồng bào Trong khung cảnh trang nghiêm tại Raglai mang từ trên núi xuống (kế trước lịng tháp, tiếng thầy Kadhar kể tiểu sử và ngày lên tháp), tại làng Chăm Hữu Đức ca tụng cơng đức các vị thần hịa quyện (Ninh Phước - Ninh Thuận) bao giờ cũng với tiếng kèn saranai, đàn kanhi réo rắt và cĩ tổ chức múa Chăm (múa quạt) với quy tiếng trống ginăng rộn rã. Trong khi đĩ, ở mơ lớn. Các du khách sẽ bị chống ngợp trước thềm cửa tháp, các phụ nữ Chăm bởi khung cảnh hồnh tráng và sự uyển bày biện la liệt các lễ vật cúng thần linh chuyển của hàng trăm thiếu nữ Chăm với để cầu xin ơn lành, cầu cho gia đình một những vũ điệu duyên dáng hịa nhịp cùng năm mới an khang thịnh vượng. Lễ vật tiếng trống ginăng rộn rã. Cuộc múa diễn cĩ cả mĩn ngọt lẫn mĩn mặn như: ngạnh ra dưới ánh nắng cháy bỏng giữa trưa hè (dê), cơm, canh, mĩn mặn, xơi, chuối, (khoảng 12 - 13 giờ trưa) của vùng đất bánh ngọt, trái cây . Thời gian cúng lễ Phan Rang khơ hạn trong sự tham gia cổ trên tháp được kéo dài cho đến xế chiều động của cả ngàn người. Tiếp theo tiết và kết thúc vào khoảng 15 - 16 giờ cùng mục múa Chăm là các hoạt động thi đấu ngày bằng nghi lễ đĩng cửa tháp. Trong thể thao. Buổi tối ngày hơm đĩ, cũng tại khoảng thời gian từ lúc mở cửa tháp cho Hữu Đức, mọi người sẽ cùng dự đêm văn Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 7
  6. nghệ truyền thống Chăm để thưởng thức Ở làng dệt cổ truyền Mỹ Nghiệp (thuộc các điệu múa Chăm từ múa dân gian cho thị trấn Phú Quý - Ninh Phước - Ninh đến múa cung đình, những làn điệu dân Thuận), đơi khi cịn cĩ hội thi tay nghề ca từ cổ truyền cho đến hiện đại . dệt và triển lãm các mặt hàng thổ cẩm do Katê cĩ ba cấp độ là Katê đền tháp, người Chăm sản xuất. Xưa kia, người Katê làng và Katê gia đình. Những ngày Chăm ăn tết Katê trong một tháng, nay tiếp theo “ngày lên tháp” (Katê đền tháp), được gĩi gọn lại trong vài ngày. người Chăm tiến hành Katê làng. Tuần tự Đến dự lễ hội Katê là đến với nền văn từng làng Chăm theo từng nhĩm đền tháp hĩa truyền thống của dân tộc Chăm. Katê tổ chức cúng Katê làng ở kajang (nhà lễ) là dịp để mọi người gần gũi, gắn bĩ, đồn của mỗi làng. Sau Katê làng, bà con kết, thương yêu nhau hơn. Đồng thời, người Chăm tiếp tục Êw Lithay (cúng Katê cũng là dịp vui chơi, giải trí sau một ơng bà) tại gia đình, gọi là Katê gia đình. năm lao động miệt mài. Lễ hội Katê cịn Trong những ngày mừng tết Katê, ai đĩ là mơi trường sống động trong việc bảo cĩ việc phải đi đâu xa cũng đều tranh thủ lưu và phát triển văn hĩa truyền thống tìm về mái ấm gia đình. Người ta đến Chăm, là một biểu hiện gìn giữ bản sắc thăm hỏi nhau, tiệc tùng, vui chơi giải dân tộc của cộng đồng người Chăm, gĩp trí Trong những ngày diễn ra lễ hội phần làm phong phú kho tàng văn hĩa Katê, tại các làng Chăm thường cĩ các Việt Nam đa dạng và giàu bản sắc. hoạt động thể thao, giao lưu văn nghệ . Độc đáo những nét văn hóa Chăm ântộc thiểu số Chăm cĩ duy trì phát triển Hồi giáo trong việc học khoảng trên 100.000 dân, xếp tập giới luật và tìm hiểu kinh thánh D thứ 17 trong 54 thành phần Koran nên đã dùng chữ Ả Rập và chữ Mã tộc người nước ta; sống tập trung đơng Lai. Cho đến bây giờ Chăm Tây sử dụng nhất ở 3 tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận và loại chữ Mã Lai khá thành thạo trong An Giang. Ngồi ra họ cịn cư trú một việc ghi chép và thư từ Chăm Ðơng thì phần ở các tỉnh từ Nam Trung Bộ đến sử dụng chữ Thrah và xem đĩ là loại chữ Ðơng và Tây Nam Bộ. Hiện nay người truyền thống. Chăm cịn sống rải rác ở nhiều nước khác Người Chăm luơn tự hào về những như Campuchia, Thái Lan, Malaysia ngơi tháp Chăm-pa cổ kính xây dựng Những nét đặc sắc của văn hố Chăm bằng đất nung độc đáo. Hình ảnh vũ nữ thể hiện từ tiếng nĩi, chữ viết, từ nghệ Chăm-pa cổ xưa đã được chạm khắc vào thuật và kỹ thuật tạo dáng của các ngơi các đền tháp, trong đĩ bức phù điêu Vũ tháp bằng đất, các pho tượng bằng đá, nữ Trà Kiệu là một trong những tuyệt tác. đến các sản phẩm vải thêu, dệt hoa văn, Là một bộ phận của nền văn hố dân tộc, dệt thổ cẩm hoặc đồ gốm và các vật dụng kiến trúc dân gian của người Chăm cũng phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. cĩ một lịch sử và truyền thống lâu đời. Người Chăm cĩ tiếng nĩi và chữ viết Bàn tay và khối ĩc sáng tạo của dân tộc riêng của mình. Chăm Tây cùng với sự Chăm làm sáng tỏ tính phong phú, đa dạng, giúp chúng ta thấy được sự giao Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 8
  7. lưu văn hố, quá trình phát triển của tộc chồng, ai cũng biết dệt vải. Những tấm người. khăn, cái áo làm ra được coi là thước đo Người ta cịn thấy nhiều nét trạm trổ của sự đảm đang tháo vát của các cơ gái và các bức tượng bằng đá thể hiện nếp Chăm. Nghề dệt thổ cẩm địi hỏi sự tỉ mỉ sinh hoạt ca múa và chơi nhạc dân gian và khéo léo. Ðể cĩ một tấm chăn, các cơ rất sinh động. Người Chăm luơn mang gái phải cần mẫn ngồi bên khung cửi từ trong máu của mình một tâm hồn văn sáng đến chiều tối với sự nhịp nhàng, nghệ dân tộc đặc biệt. Nghệ thuật truyền chuẩn xác trong từng thao tác. Chỉ cần thống luơn được người Chăm nuơi một mối chỉ bị rối, mặt vải sẽ khơng cịn dưỡng, trân trọng và liên tục truyền cho mịn nữa. Các sản phẩm dệt của người nhau từ bao đời nay. Chăm khá phong phú, đáp ứng rộng rãi cho nhu cầu trang phục, trang sức của Múa Chăm phong phú và độc đáo. người Chăm. Hầu như mỗi làng Chăm cĩ một đội múa riêng. Những điệu múa cổ xưa nhất Vào dịp hội hè, lễ lạc, trai gái Chăm thường được trình diễn trong các lễ hội. cịn trang sức bằng các thắt lưng do Các nghệ nhân Chăm đã sáng tác thêm người Chăm tự dệt. Hầu như phần lớn những điệu múa đặc sắc như múa chàm các sản phẩm vải của người Chăm khơng rơng, múa đoa pụ (đội bình nước trên thể thiếu các loại hoa văn trang trí, nhất đầu). Múa quạt là điệu múa phổ thơng là trên các y phục cổ truyền của các thiếu của người Chăm. Khi múa, các vũ nữ nữ. dùng quạt làm đạo cụ để biểu diễn những Nghề truyền thống khác của người loại múa khác nhau. Múa bĩng mang tính Chăm là nghề làm đồ gốm. Làng Chăm tơn giáo và cũng rất phổ biến của người Bầu Trúc duy nhất cĩ nghề làm đồ gốm Chăm. Trong những nét đặc trưng của từ lâu đời. Hầu như gia đình nào cũng múa Chăm là múa ổn định theo nhạc. làm, phần lớn do phụ nữ đảm đang. Từ Dàn nhạc đệm cho múa thương gồm hai chiếc lu đựng nước, chiếc nồi đất, bộ trống Pa-ra-nưng và một kèn sa-ra-nai. khuơn đổ bánh xèo đến siêu sắc thuốc, Nhìn chung, vũ điệu Chăm-pa nhằm phơ chiếc cà om đều rất dụng cơng với những diễn vẻ đẹp của con người. hoa văn độc đáo của dân tộc. Sản phẩm Người Chăm cĩ nhiều lễ hội trong gốm Chăm cịn được trao đổi rộng rãi với năm, như hội Rija, Roya, Ramadan, lễ nhiều vùng và nhiều tộc người khác nữa. Pơk Băng Yang, lễ Katê Trong đĩ, lễ Trong quá trình nghiên cứu, chúng ta hội Katê là một trong những lễ hội lớn thấy rằng người Chăm đã cĩ một nền văn nhất của người Chăm được tổ chức hố thật phong phú về nội dung, đa dạng thường xuyên vào đầu tháng 7 (lịch âm) về diện mạo. Nền văn hố ấy đã được thể tức là vào trung tuần tháng 9 (âm lịch) và hiện trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh tháng 10 (dương lịch) để tưởng nhớ các vực kiến trúc; đĩ là kết quả của quá trình vị anh hùng dân tộc và ơng bà tổ tiên. hoạt động cĩ định hướng trong một thời gian lịch sử lâu dài. Thổ cẩm là nghề truyền thống của người Chăm. Thiếu nữ đến tuổi lấy Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 9
  8. hà thơ, nhà nghiên cứu văn hĩa Inrasara nhận định: “Sự ra đời sớm của chữ viết đã tạo điều kiện cho văn học viết của người Chăm phát triển. N Chính chữ viết đã cho người Chăm cĩ một nền văn minh rực rỡ và độc đáo một thời”. Xưa nay, chúng ta biết đến sự đặc sắc thất truyền. Nguyên liệu chính để làm của văn hĩa Chăm qua các điệu múa của giấy là lá buơng (loại lá phổ biến tại địa vũ nữ Apsara, sự độc đáo của lễ hội Rija bàn cư trú của người Chăm), ngồi ra Nưgar, Katê hay sự bí ẩn của các ngơi người Chăm cịn làm giấy từ vỏ cây bồ tháp cổ. Tuy nhiên, nền văn minh đề cĩ màu trắng đục, dày và dai, trơn Chămpa xưa cịn là ngơn ngữ Chăm và mặt, ít thấm nước. Mực viết được chế từ nền văn học viết cĩ từ rất sớm. Tất cả vỏ cây akuh rất tốt vì chĩng khơ, đen đang được giới thiệu tới cơng chúng Thủ đậm, khơng bay màu. Đầu bút là đầu các đơ trong triển lãm Khơng gian văn hĩa que tre vĩt nhọn và về sau sử dụng đầu Chăm, tại 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội. kim loại. Chămpa là dân tộc cĩ chữ viết sớm Các thư tịch cổ nhất bằng chữ Chăm nhất Đơng Nam Á. Theo các nghiên cứu cịn lại cách ngày nay khoảng 300 năm. về văn bia cổ, ngay từ thế kỷ thứ IV Các cuốn sách cổ từ vài trang đến vài người Chăm đã cĩ chữ viết của mình. trăm trang giấy chứa đựng tồn bộ văn Tiếng Chăm cĩ 65 ký hiệu và 24 chân hĩa Chăm với các chủ đề chính là kinh ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo của luật tơn giáo, ngồi ra cịn cĩ các nội Ấn Độ. Chữ viết Chăm cũng khơng dung về văn học, triết học, hướng dẫn ngừng hồn thiện và phát triển. Theo ơng nghi lễ, những bài tụng ca, lịch pháp, Thập Liên Trưởng, chuyên gia ngơn ngữ thiên văn, phong thủy, âm nhạc, y - dược của Trung tâm Nghiên cứu văn hĩa học, pháp thuật, tử vi - bĩi tốn, gia huấn Chăm tại Ninh Thuận: “Khoảng đầu thế ca Văn học cũng xuất hiện nhiều trong kỷ XVII, chữ Akhan thrah - chữ Chăm các thư tịch cổ của người Chăm, trong đĩ hiện đại, đã thốt khỏi vỏ bọc của chữ cĩ chép lại các sử thi của Ấn Độ như Phạn và được sử dụng phổ biến trong các Ramayana, Mahabharata, Bhagavata thư tịch cổ và bia ký cịn lưu lại ngày Bên cạnh sách cổ, các văn bia cổ chính là nay”. mảng quan trọng của văn học Chăm. Các Người Chăm cổ cĩ một kỹ thuật làm bia ký Chămpa bằng chữ Phạn được viết giấy điêu luyện và độc đáo, tiếc là nay đã chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, nội dung nhuốm màu sắc tâm linh huyền Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 10
  9. hoặc, lời thơ mỹ miều, văn hoa. Trong Inrasara, Đồng Chuơng Tử, Trà Vigia, các sáng tác văn thơ, các tác giả Chăm Nguyễn Phú Hải, Tuệ Nguyên thường sử dụng nhiều điển tích và ẩn dụ Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hĩa của văn học Ấn Độ để thể hiện sự hiểu Chăm Inrasara đã tham gia biên soạn gần biết và thơng thái của mình. Song song 40 đầu sách về văn hĩa Chăm như Văn với nĩ là một dịng văn học dân gian, với học Chăm khái luận, Từ điển song ngữ ca dao, dân ca truyền miệng bình dân gần Việt – Chăm, tạp chí Tagalau; đồng thời gũi. là một trong những người cĩ cơng tạo Người Chăm khơng thích nĩi về dựng lại văn hĩa Chăm và giới thiệu tới những điều thực tế, kỹ thuật hay vật chất. nhiều vùng. Ơng nhận định: “Sự ra đời Tính đa chủ đề, khái quát được thể hiện sớm của chữ viết đã tạo điều kiện cho rõ trong từng cuốn sách. Qua những cuốn văn học viết của người Chăm phát triển. sách mỏng nĩi về các nghi lễ tâm linh, Chính chữ viết đã cho người Chăm cĩ chúng ta cịn bắt gặp trong đĩ một bài một nền văn minh rực rỡ và độc đáo một thơ, một lời chúc phúc, vài ý tưởng, quan thời. Qua các thư tịch cổ, chúng ta cĩ thể điểm tơn giáo, triết học nhận thấy văn hĩa Chăm là văn hĩa đùa Chữ viết của người Chăm cĩ một thời vui, chịu chơi cả trong đau khổ”. gian bị bỏ rơi. Từ năm 1978 đến nay, Ban Hiện các thư tịch cổ cùng bia ký chưa biên soạn sách tiếng Chăm đã xuất bản được sự quan tâm tập hợp và gìn giữ các cuốn sách bằng ngơn ngữ Chăm cho đúng mức. Sách cổ vẫn được lưu truyền các lớp tiểu học của con em người Chăm. trong cộng đồng Chăm, nhưng do sự bảo Tạp chí Sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu quản thủ cơng đã khiến nhiều cuốn bị hư Chăm mang tên Tagalau xuất bản từ năm hỏng. Kỹ thuật làm giấy độc đáo của 2000, gĩp phần gìn giữ văn hĩa viết người Chăm hiện chưa được phục dựng Chăm. Bên cạnh đĩ, dịng văn học bằng để bảo tồn Đĩ là những điều mà các tiếng Chăm đã bắt đầu hồi sinh và phát nhà nghiên cứu văn hĩa Chămpa cịn trăn triển với các nhà thơ đương đại như: trở. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 11
  10. Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận cĩ số dân đơng nhất (57.137), chiếm gần 50% người Chăm ở Việt Nam. Họ sống tập trung thành từng làng palei riêng biệt và bảo lưu đậm nét nhiều tập tục truyền thống như nghi lễ, hội hè, tục cúng tế đền tháp, tục cưới gả, tang ma, tín ngưỡng, tơn giáo, luật tục, văn chương, làng nghề mang bản sắc văn hố riêng. 1. Làng Palei Chăm: như Palei Chăm là đơn vị cư trú cổ Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận truyền mang tàn dư của cơng xã nơng cĩ tất cả 22 làng palei thuộc 13 xã và 4 thơn thì gia đình lại là bộ phận hình thành huyện thị (Ninh Phước, Ninh Hải, Ninh nên đặc trưng ấy. Gia đình trong palei Sơn, thị xã Phan Rang - Tháp Chàm). Chăm được tổ chức theo hình thái gia Trong đĩ được phân chia ra thành hai đình mẫu hệ, bao gồm gia đình lớn cộng đồng: Chăm Ahiêr (Chăm ảnh (mưngawơm pruang) và gia đình nhỏ hưởng Bàlamơn giáo) và Chăm Awal (mư ngawơm sít). Thành viên cơ bản (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo). Mỗi cộng trong gia đình được tính theo huyết thống đồng tơn giáo lại sinh sống thành từng bên mẹ. Trong mỗi gia đình cĩ đàn bà palei riêng biệt. Trong tổng số 22 làng lớn tuổi đứng đầu gọi là “Po sang” (chủ palei thì cĩ 15 làng Chăm Ahiêr và 7 làng nhà). Các gia đình cĩ cùng chung một mẹ Chăm Awal. Mặc dù là một dân tộc sinh ra thường bố trí chung nhà cửa trong Chăm Ahiêr và 7 làng Chăm Awal. Mặc một khuơn viên. Tương tự như vậy, các dù là một dân tộc Chăm nhưng phân chia gia đình chung một dịng họ phía mẹ ra làm hai nhĩm Chăm, ảnh hưởng đạo thường bố trí nhà cửa cùng dãy với nhau. giáo khác nhau (Ahiêr và Awal), sống Mỗi dịng họ cĩ một tộc trưởng đứng đầu tách biệt nhau. Tuy vậy hai nhĩm này gọi là “akauk gơp”. Ngày xưa trưởng tộc vẫn cùng mang một đặc trưng văn hố là đàn bà, ngày nay được thay thế bởi chung. người đàn ơng. Nhiệm vụ của trưởng tộc là quản lí các thành viên, giải quyết Palei Chăm thường định cư trên những vấn đề thắc mắc giữa các thành những vùng gị đất cao, xung quanh là viên và chăm lo, tổ chức cúng tế những lễ ruộng lúa và nương rẫy. Mỗi palei cĩ nghi tín ngưỡng liên quan đến tộc họ. khoảng từ 300 - 400 hộ gia đình, tập hợp Mỗi dịng họ trong làng được phân biệt bởi nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Các với nhau bằng nghĩa địa của dịng họ mẹ khuơn viên nhà ở được bố trí theo hướng (kút, ghơr). Mỗi dịng họ cĩ một vật thờ Bắc – Nam. tổ gọi là “Chiết atâu” (Chiếc Atâu là một Trong mỗi palei Chăm đều cĩ một loại giỏ đan bằng tre hình hộp vuơng cĩ đền thờ thần (sang Pơ yeang) và ở đầu nắp đậy, dùng để bỏ y trang, đồ cúng lễ làng cĩ nhà làng (sang palei). Cách palei của tổ tiên tộc họ. Chiếc Atâu chỉ được khơng xa thường cĩ một nghĩa địa (kút, đem ra ngồi khi tộc họ cĩ dịp cúng lễ). ghơr). Mỗi palei Chăm đều cĩ đơn vị Đơn vị cơ cấu căn bản của hệ thống quản lí hành chính thơn, đồn Thanh thân tộc của người Chăm là mẫu hệ gia niên, Hội Nơng dân Bên cạnh đĩ cịn tộc. Những mối quan hệ bên mẹ là quan cĩ Hội đồng phong tục (Hội đồng già hệ thân thuộc và quan trọng nhất. Tổ tiên làng) chăm lo cúng tế và cùng với chính được thờ phụng là tổ tiên bên mẹ. Quyền quyền tham gia giải quyết những vụ bất thừa kế tài sản thuộc về con gái út. Phụ đồng của các thành viên trong làng liên nữ Chăm nắm quyền quyết định trong gia quan đến phong tục, tập quán. Palei đình. Vai trị Cậu (cey) được đề cao và Chăm cĩ luật tục riêng gọi là adat. Nếu Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 12
  11. vẫn cịn chi phối mạnh mẽ trong gia đình giống lúa chiêm, lúa mùa (padai bidiên, người Chăm hiện nay.Nĩi chung sinh padai halim, paday ia ok, padai hoạt làng (palei), gia đình (mưngawơm), kuprok ). Do đĩ khơng phải ngẫu nhiên tộc họ (gơp tian) của người Chăm phản mà người Trung Quốc và người Kinh đều ánh đậm nét chế độ mẫu hệ thể hiện trên du nhập giống lúa của người Chăm mà các mặt: sự phân hố xã hội, quan hệ về họ thường gọi là “lúa Chiêm”.Bên cạnh gia đình và hình thức hơn nhân; hình thái làm ruộng người Chăm cịn là những tín ngưỡng; phương thức sản xuất và người làm vườn giỏi. Họ trồng nhiều hoa quyền sở hữu tài sản Vì vậy cơ chế xã màu và cây ăn trái như ngơ, khoai lang, hội truyền thống người Chăm gắn bĩ chặt đậu xanh, đậu nành, chuối, dừa, hồ tiêu chẽ với nhau và được vận hành bằng luật Nhờ đĩ mà dân cư cĩ hoa quả và ăn rau tục (adat). Họ sống trên cơ sở bình đẳng, xanh 4 mùa. Bên cạnh nghề nơng, người đồn kết thương yêu lẫn nhau. Cùng nhau Chăm cịn biết khai thác những khu rừng bảo vệ, lưu giữ thuần phong mỹ tục, lớn cĩ các loại gồ mun, trầm hương, vỏ những giá trị văn hố của tổ tiên. Cĩ thể cây làm thuốc nhuộm rất được ưa thích nĩi làng palei, gia đình người Chăm là trên thị trường. Họ cũng biết khai thác tài mắc xích quan trọng, gắn liền chặt chẽ nguyên khống sản ở xứ họ để đem bán ở với nhau, tạo nên một cơ cấu xã hội cổ xa. Người Chăm cịn làm nghề biển, họ là truyền bền vững, trở thành cái nơi bảo những thủy thủ can trường, là những tồn và lưu giữ văn hố Chăm, lễ hội người buơn bán giỏi. Những chiếc thuyền Chăm trong suốt những tháng năm thăng buơn của họ thường vượt biển khơi đi trầm của lịch sử dân tộc. đến hải cảng Trung Quốc và cĩ mối quan 2. Đời sống kinh tế: hệ với các nước Java trong thời cổ trung đại. Nĩi chung kinh tế truyền thống của Người Chăm định cư trên dải đất người Chăm bao gồm cả nghề nơng, nghề miền Trung với đặc điểm địa hình là đi biển và khai thác rừng. Ba hình thái miền đất hẹp, kéo dài và được cấu tạo bởi kinh tế đĩ đã gĩp phần làm cho đời sống ba vùng: Núi - Đồng bằng - Biển cả. Khí kinh tế Chăm phát triển phồn thịnh và hậu nơi đây khắc nghiệt, khơ ẩm, nhiều hiện nay cịn in dấu ấn đậm nét trong lễ nắng, ít mưa. Điều kiện tự nhiên, địa lí hội Chăm. Tuy nhiên ngày nay, một số mơi sinh đĩ đã hình thành nên nền kinh ngành kinh tế truyền thống đã bị mất đi. tế của người Chăm. Hiện nay người Chăm khơng cịn làm Trong nền kinh tế truyền thống của nghề biển. Tuy một số làng Chăm ở Ninh mình, người Chăm cĩ một nền nơng Thuận như Bỉnh Nghĩa, Tuấn Tú vẫn cịn nghiệp phát triển khá sớm. Từ lâu đời họ sống gần biển nhưng họ khơng làm nghề đã biết đắp đập khai mương để trồng lúa biển mà lại quay lưng với biển. Đa số nước mà đến nay vẫn cịn các dấu vết các (khoảng 95%) người Chăm Ninh Thuận cơng trình thủy lợi trên dải đất miền ngày này sống bằng nghề nơng, và một trung như: đập Do Linh (Quảng Trị), đập số ít làm nghề chăn nuơi và khai thác Nha Trinh và đập Marên (Ninh Thuận). rừng. Đến nay họ vẫn cịn phát huy Họ cịn cĩ kĩ thuật canh tác ruộng nước truyền thống làm lúa nước và chăn nuơi khá cao. Tùy theo loại ruộng như ruộng gia súc, gia cầm. Hoạt động nơng nghiệp gị (hamu tamu), ruộng cát (hamu cwah), vẫn là nền kinh tế chủ đạo trong đời sống ruộng sâu (hamu dhong) mà họ cĩ kĩ kinh tế chủ đạo trong đời sống kinh tế thuật canh tác và sử dụng các loại giốngl của người Chăm hiện nay. úa ngắn ngày, cho năng suất cao như loại Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 13
  12. ễ dựng chịi cày (Padang L paday tuan): L Lễ dựng chịi cày là lễ mở đầu cơng việc đồng áng hàng năm của người Chăm. Trước khi khởi đầu cơng việc cày gieo người Chăm thường dựng lên một cái chịi nhỏ ở gần ruộng của mình để trú ngụ tránh mưa nắng và để dụng cụ lao động trong thời gian cày cấy. Lễ này được thực hiện trên thửa ruộng từng gia đình. Lễ hội cầu đảo Thầy cúng lễ là ơng “Cai ễ cúng lúa làm địng (Padai dơk tian): mương” (Hamu ia) hoặc “Ong Từ”( Camưney). Ngày cúng lễ là ngày thứ tư Lễ này người Chăm cúng lúc lúa hay thứ bảy trong tuần. Lễ vật gồm cĩ 1 đang dậy thì con gái. Họ quan niệm hồn cặp gà, 5 mâm cơm, rượu, trứng, trầu lúa cũng như hồn người. Đây là giai cau đoạn quan trọng quyết định và ảnh hưởng đến năng suất cây lúa. Lễ này Các vị thần linh được cầu cúng trong khác với lễ trước là lễ vật cúng 1 con lễ này là các vị thần như thần trời, thần dê, 5 mâm cơm, rượu, trứng, trầu cau cha (Po yang amư), thần mẹ, thần sơng Chủ tế lễ là thầy Kadhar kéo đàn Rabap (Po patau ia), thần thủy lợi như Pơ (đàn tương tự như đàn nhị người Kinh), KLong Garai, Pơ Rơmê và các vị khẩn ơng Cai mương (Hamu ia) hoặc ơng hoang tiền hiền Mục đích lễ này, họ Camưney. Các vị thần linh được mời về cầu mong cho mưa thuận giĩ hịa, cơng dự lễ cũng tương tự như lễ vừa nêu trên việc cày cấy được suơng sẻ, mùa màng nhưng nội dung hành lễ này phong phú tốt tươi hơn, thầy Kadhar vừa kéo đàn Rabap ễ cúng ruộng lúc lúa đẻ nhánh (Iew vừa mời các vị thần và hát về những bài L po Bhùm): thánh ca, ca ngợi cơng đức của các vị Sau khi ruộng lúa cày gieo xong thần mẹ (Po Inư Nưgar) đã dạy người khoảng tháng sau thì họ tiếp tục làm lễ trồng lúa, cày cấy đem lại lúa gạo cho cúng cho cây lúa đẻ nhánh. Lễ vật cúng người Chăm và hát ngợi ca các vị thần cho lễ này tương tự như lễ cúng dựng thủy lợi như Po Kluang Garai, Po Rame chịi cày. Những thần linh cầu cúng của đã đem nước về cho dân làng tưới tiêu, lễ này chủ yếu là thần mẹ xứ sở Po Inư trồng lúa. Nưgar. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 14
  13. ễ thu hoạch lúa (Iew Yang Trun đền tháp Chăm cịn được tổ chức tại các L Yuak): cửa biển. Đây là lễ chung cho cả cộng Lễ này thường diễn ra vào đồng Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng tháng 11 lịch Chăm (tháng 10 âm lịch). Bàlamơn) và Chăm Awal (Chăm ảnh Khi cúng lễ, người Chăm phải chọn hưởng Hồi giáo). ngày tốt (ngày thứ tư hoặc thứ bảy) để Ngày xưa, cứ đến tháng 4 Chăm lịch xuống gặt lúa. Lễ này do ơng Cai - mùa khơ hạn nắng nĩng thì người mương hoặc ơng Cai đập cúng (ơn Chăm đến các cửa biển Lâm Ngư (xã Binưk). Lễ vật gồm cĩ 1 cặp gà, rượu, Phương Hải, Ninh Hải) và gần cửa biển trứng, trầu cau, xơi chè Nội dung Cà Ná (Phước Diêm - Ninh Phước) và cúng tương tự như lễ lúa làm địng. Khi cửa biển Mỹ Tân (Mỹ Tường, Ninh lễ cúng này kết thúc thì ơng thầy cúng Hải) để cúng lễ. bước xuống ruộng, dùng lưỡi liềm cắt Lễ Palau sah là một nghi lễ tổng hợp một bĩ lúa để khai lễ ngày gặt lúa. Cách của các lễ thức người Chăm. Đây là lễ 3 ngày sau ruộng lúa mới được thu cúng chung cho các vị thần Chăm như hoạch. Bĩ lúa lễ được chủ ruộng đem các vị thần Bàlamơn (Yang bimon - về nhà để trên trần nhà đến mùa sau thì yang aklak), các thần Hồi giáo - Bàni đem ra cúng. (yang birow - thánh alla); thần núi, thần ễ lúa mới lên sân (Da a patai tagok sơng, thần biển Các vị chức sắc cúng L lan): lễ như tu sĩ Paseh của nhĩm Chăm Lễ này nội dung tương tự như lễ Ahiêr, tu sĩ Acar của nhĩm Chăm Awal, cúng lúa làm địng. Mục đích là lễ tạ ơn thầy cúng tín ngưỡng dân gian như các vị thần thánh, tổ tiên đã phù hộ độ Kadhar (thầy kéo đàn Rabap), thầy trì cho họ thĩc lúa đầy bồ. Mưduơn (thầy vỗ trống Basanưng), thầy Ka-in (thầy bĩng), Muk Pajau (Bà Nĩi chung qua 5 lễ nghi nơng nghiệp bĩng), ơng Cai đập (binưk), ơng Cai của người Chăm như trên, đã phản ảnh mương (Hamu ia) nhu cầu sinh trưởng của cây lúa (từ lúc cày gieo, lúa đẻ nhánh, lúa đơm địng Riêng lễ Palau Sah (cầu đảo) ở Bỉnh đến lúa chín). Mặc dù đây là lễ nghi tổ Nghĩa (Ninh Hải) cĩ nội dung khác lễ chức từng gia đình nhưng lại liên quan cầu đảo (Yuơr yang) ở các vùng Chăm đến mùa vụ của cả cộng đồng nên nĩ khác. Lễ Palau sah ở thơn Bỉnh Nghĩa trở thành lễ hội cộng đồng. Ngày nay, cĩ nội dung tương tự như lễ hội múa kể từ sau năm 1975 thì hệ thống lễ nghi Rija Nưgar (Lễ hội múa tống ơn đầu nơng nghiệp này khơng cịn phụ hợp năm). Cịn lễ Palau sah ở vùng Chăm cĩ nữa mà đã biến mất. đặc điểm chung như nhau và bao gồm các tiểu lễ như sau: ễ cầu đảo (Palau Sah): ễ Rija harei (lễ múa ban ngày): Lễ palau sah là lễ cầu đảo liên L Lễ này được tiến hành trong quan đến cầu mưa, cầu nước của L người Chăm. Lễ được tổ chức vào tháng một nhà lễ làm bằng tre, mái lợp 4 lịch Chăm. Lễ này ngồi tổ chức ở các bằng tranh hoặc bằng tấm bạt, hướng Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 15
  14. mặt về phía mặt trời lặn. Lễ vật gồm cĩ hiện. Đây là lễ cúng các vị thần Chăm ở 1 con gà, 5 mâm cơm (mỗi mâm cĩ đền tháp (yang Bimon) đặc biệt là cúng cơm, canh cá và cá khơ), 3 mâm chuối, tế thần lửa (yang apui) để cầu thần lửa hai mâm trầu, rượu, trứng và 5 mâm đem lại lửa làm sấm chớp, mây, mưa xơi chè. Nội dung lễ này tương tự như lễ nghi Lễ do Mưduơn (thầy vỗ trống đốt thần lửa ở đền tháp Chăm. Paranưng) và ơng Ka-in (thầy bĩng ễ rước gậy thần của tu sĩ Acar (Gay thực hiện). Đặc điểm của lễ này là L bhong): Mưduơn vỗ trống Paranưng hát mời các Lễ này do nhĩm tu sĩ Chăm Awal vị thần như thần núi (Po cơk), thần sơng thực hiện. Nghi lễ này rất long trọng, Po biển (Po Riyak), thần chèo thuyền (po Acar và dân làng rước gậy thần (Gay tang ahuak), thần giữ rừng trầm (Po bhong) - gậy lễ rao giảng kinh của gilau), đặc biệt là thần thủy lợi như Pơ thánh Mohamach từ thánh đường hồi KLong Garai, Pơ Rơ mê Khi ơng giáo đến cửa sơng, cửa biển để cầu Mưduơn hát các tiểu sử ca ngợi các mưa. Nghi thức cúng lễ này tương tự cơng lao đức độ của các vị thần thì thầy như lễ hội Ramưwan Chăm Awal. Lễ bĩng (Ka-in) múa phụ họa trong tiếng vật gồm 5 mâm xơi chè, chuối. Tu sĩ Po trống Ginăng, Paranưng, kèn Saranai Acar đọc kinh Coran, cầu thánh Alla Chăm. Bà con dân làng dự lễ cầu cúng (Pamrơ) về hưởng lễ, dâng làng van vái, khấn vái và tham gia múa mừng. cầu khấn cho thánh Alla hiệu nghiệm, ễ cúng Rija Dayuap (lễ cúng ban ban cho dân làng mưa thuận giĩ hịa, L đêm): mùa màng tốt tươi. Lễ này được tiến hành vào lúc Ngồi lễ Palau Sah (Lễ cầu đảo) như chiều tối hoặc ban đêm do Kadhar (thầy trên, vào thời điểm này (tháng 4 lịch kéo đàn Rabap) và bà bĩng (Muk Chăm), từng làng người Chăm cịn tổ Pajau) thực hiện. Lễ này cĩ sự tham gia chức lễ hội cầu đảo cho riêng mình, chủ của tu sĩ Po Acar nhĩm Chăm Awal. Lễ yếu họ cầu cúng Po Nai (Nữ hồng đi tu vật gồm 1 con dê, 5 mâm cơm, xơi chè, tại núi Chà Bang - Ninh Thuận) và lễ trầu cau, rượu trứng, bánh trái Thầy cúng Po Riyak (thần sĩng biển) Lễ Kadhar (thầy kéo đàn Rabap) hát mời này diễn biến tương tự như lễ múa ban các vị thần như Po Au loah, Po Bal ngày (Rija harei) do thầy Maduơn và Gina, Po Cah ya, và thần mẹ xứ sở (Po Ka-in thực hiện. Lễ lơi cuốn cả dân làng Inư Nưgar), Pơ KLong Garai, Pơ Rơ mê tham gia trở thành ngày hội của các (Vua Chăm được suy tơn thành thần palei Chăm. thủy lợi), thần núi (Po Cơk), thần sơng Nĩi chung Lễ Palau Sah là lễ nghi (Po Patau Ia), thần biển (Yang tasik) tổng hợp của người Chăm. Lễ này Ơng Kadhar hát thì bà bĩng múa phụ khơng những tập trung các chức sắc, tu họa sĩ, các loại hình tơn giáo, tín ngưỡng mà ễ tế thần lửa (cuh yang apui): nĩ cịn lơi kéo được dân làng, từng thơn L Lễ này do tu sĩ paseh thực và từng khu vực tham gia. Cùng với lễ Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 16
  15. Palau Sah (cầu đảo), thời điểm này cịn dân làng, tín đồ ở các thơn, các vùng cĩ lễ cầu đảo Po Nai, Po Rijak đã gĩp cùng hưởng chung đập nước tham gia phần làm cho lễ hội Chăm sơi động hẳn cúng lễ. Tất cả bà con dân làng cúng lễ lên. Đây là thời điểm lễ hội Chăm diễn vật đều cầu mong cho trời ban cho mưa ra khắp nơi, từ bãi trống đầu làng đến thuận giĩ hịa, khơng gây lũ lụt phá hoại mỏm núi, bờ sơng, bờ biển là cho làng mùa màng. Chăm thực sự là mùa trẩy hội. Tháng tư ễ tế trâu (Ngak kabaw yang patau): là mùa nắng nĩng - mùa cầu mưa, cầu nước - mùa cầu khấn cho dân làng khỏi L Lễ tế trâu là loại lễ nghi cúng bệnh tật bởi sức nĩng khắc nghiệt của tế lớn nhất trong hệ thống lễ nghi nơng vùng nhiệt đới. Do vậy thời điểm này là nghiệp của người Chăm. Lễ được tổ mùa diễn ra nhiều nghi lễ hội hè ở khắp chức 7 năm 1 lần. Lễ vật cúng một con mọi nẻo của làng - Palei Chăm. trâu trắng tại núi Đá Trắng thuộc thơn Như Ngọc, Ninh Phước, Ninh Thuận. ễ chặn nguồn nước (Kap kraung Halau): Nguồn gốc của lễ này theo truyền L thuyết kể lại: Ngày xưa khi người Chăm Sau khi làm lễ cầu đảo, trời bắt chưa cĩ vua, ơng “kay Klong, kay đầu ban xuống cơn mưa cho dân làng Biên” mới đào đất lấp biển, phá núi để cày cấy. Để tránh mưa nhiều, gây ra bão hình thành đất đai, sơng biển cho người lụt thì người Chăm cịn tổ chức làm lễ Chăm. Lúc đĩ ở xứ Chăm cĩ một Chằn chặn nguồn nước. Lễ này được thực tinh (Rak) từ đâu xuất hiện địi làm vua hiện ở các cửa sơng lớn. Lễ được diễn xứ Chăm. Chằn tinh địi vua Chăm phải ra ở hai cộng đồng Chăm Ahiêr và nộp nhiều thứ thuế và nộp cả người đẹp. Chăm Awal. Lễ này cĩ nghi thức diễn Về sau Chằn tinh cịn địi vua Chăm ra khá long trọng do các tu sĩ po Acar, nộp cả cơng chúa. Thấy Chằn tinh ngày Ong binưk (cai đập) thực hiện. Trong càng gieo tai họa cho dân làng, và để lễ này, ngồi việc lễ vật là 5 mâm cơm cứu cơng chúa ra khỏi tay Chằn tinh. và xơi chè, người Chăm cịn rước gậy lễ Vua cầu xin thần linh phù hộ cho dân rao giảng kinh của Mohamach (Gay làng và giúp vua tiêu diệt cho được bhong) ở trong thánh đường (sang Chằn tinh. Vua tập trung dân làng, ra mưgik) đến cửa sơng. Trong nghi lễ này tay chiến đấu nhiều ngày đêm với Chằn cĩ 9 tu sĩ Acar nhĩm Chăm Awal - tinh. Cuối cùng Chằn tinh bị vua chém Chăm ảnh hưởng Hồi giáo mặc áo màu đầu, Chằn tinh bị giết chết, xương chất đen (aw juk) để thực hiện lễ. Họ đọc đống thành núi màu trắng. Từ sự tích kinh Coran cầu nguyện thánh Alla đĩ, tại làng này cĩ một ngọn núi Đá xin đừng mưa nhiều, gây lũ lụt phá hoại Trắng, trên núi cĩ một cái hang sâu mà mùa màng, nhà cửa, xĩm làng. Khi lễ dân gian gọi hang đĩ là đầu và miệng kết thúc tất cả tu sĩ Po Acar ở trần lội của Chằn tinh và lấy tên núi đĩ là “Cơk xuống sơng làm lễ “té nước” và kết thúc yang Patau” (Núi vua chúa). Từ đĩ dân nghi lễ. làng thốt khỏi tai họa. Về sau để trừ Nghi lễ này ngồi chức sắc, tu sĩ Chằn tinh phá hoại dân làng, mùa thực hiện cịn cĩ sự tham gia của một số Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 17
  16. màng, dân làng thường cúng trâu trắng Địa điểm cúng lễ ngồi tại chân núi 7 năm một lần. Đá Trắng - nơi hành lễ chính, họ cịn Lễ cúng trâu trắng do Cai lệ (Hamu cúng tại nơi dựng tấm bi “Yang Tikuh” ia), thầy Kadhar (thầy kéo đàn Rabap), một mâm cơm, 1 mâm thịt, 1 mâm cỗ Muk pajau (bà bĩng) thực hiện Lễ bánh (bánh tét, trái cây hoa quả). Và được thực hiện một ngày từ sáng đến cúng tại đỉnh núi đá trắng gồm: 1 mâm chiều. Trong buổi sáng, Ơng Cai lệ dắt cơm, một mâm thịt trâu, 1 cỗ bánh, 1 trâu trắng đến chân núi Đá Trắng và thau huyết trâu. làm lễ tâu trình với thần Yang tại tấm bi Nghi thức hành lễ, thầy Kadhar kéo “Yang tikuh” (thần Chuột) bằng lễ vật 3 đàn Rabap hát thánh ca mời các vị thần trứng gà, rượu và trầu cau Sau khi tâu thì ơng Cai lệ (Humua ia) đánh chiêng trình thần Yang, ơng Cai lệ trở lại chân và Bà bĩng (Muk pajau) dâng lễ vật. Họ núi Đá Trắng, ơng Cai lệ đọc lời khấn mời các vị thần như thần đất (Po bhum), làm lễ tẩy uế con trâu và xin phép thần các vị thần núi ở núi đá trắng (Po cơk Yang làm lễ cắt cổ trâu. Nghi thức lễ yang patau), thần sơng (Po patau ia), cắt cổ trâu diễn ra rất trọng thể. Trước thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar), thần khi bị cắt cổ cúng thần, con trâu được thủy lợi (Pơ KLong Garai, Pơ Rơ mê), làm lễ tẩy thể bằng “nước thần” (nước thần chuột phá hoại mùa màng (Yang cĩ pha cát lồi). Sau đĩ trâu được buột tikuh) Lễ này cĩ sự tham gia của dân lại bốn chân và vật ngã nằm xuống đất. làng ở khu vực núi Đá Trắng, họ cũng Ơng Hamu ia (Cai lệ) cầm cây kiếm dài dâng bánh trái, cầu khấn, múa mừng tạo hướng về phía mặt trời mọc, tay cầm 3 thành một lễ hội mang tính khu vực. Lễ tem trầu cau và một nắm gạo trắng vung này từ lâu đã trở thành phong tục, tín lên trời để cầu siêu cho linh hồn con ngưỡng của người Chăm. Do đĩ cứ 7 trâu. Ơng Hamu ia cầu thánh Alla, thần năm 1 lần, người Chăm tổ chức lễ cúng đất, thần núi Đá Trắng, thần Chằn tinh trâu tại núi Đá Trắng. Dân gian Chăm (Cơk yang patau) cho phép ơng được cĩ câu tục ngữ để tưởng nhớ đến tục lễ cắt cổ trâu và các vị thần sớm cầu siêu trên như sau: cho linh hồn con trâu và các vị thần Bilan năm yang tikuh nhanh mà đến hưởng lễ. Hết lời cầu khấn ơng cắt cổ trâu. Trong lúc cắt cổ Bilan tajuh yang patau trâu ơng Cai lệ nín thở cho đến khi (Tháng sáu cúng thần chuột phá hoại huyết trâu chảy hết và trâu tắt thở trong mùa màng tiếng chiêng và lời hát lễ của thầy Tháng bảy cúng thần Chằn tinh ở núi Kadhar kéo đàn Rabap. Đá Trắng) Lễ vật cúng thần Yang, thần Chằn tinh ở núi Đá Trắng, ngồi thịt trâu cịn m/Lehoi.htm cĩ hai con gà luộc, bánh chà cung (bánh bột gạo), 2 chén rượu cần, trứng, trầu cau, bánh trái Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 18
  17. Trong hệ thống lễ hội Chăm lễ Puis, Payak là loại lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm cĩ từ lâu đời. Đây là lễ hội của tộc họ được tổ chức theo định kỳ 1 năm, 3 năm hoặc 7 năm một lần. Lễ Puis, Payak là hai loại lễ khác nhau, tuỳ theo phong tục thờ cúng, hệ thống thờ thần mà mỗi tộc họ tổ chức lễ Puis hoặc Payak để tế thần linh. Lễ Puis: Là loại lễ nghi của tộc họ cúng để trả lễ và thết đãi thần Lễ rước y trang Nữ thần Pơ Inư Nưgar linh (Jiư muk key) - cụ thể là lễ tế thần Po Rame. Lễ này thường được hiện được bất cứ tháng nào trong năm và tổ chức theo định kỳ 1 năm, 2 năm hoặc phải là ngày chẳn trong tháng 3, 4, 5 trừ 7 năm một lần khi tộc họ làm ăn được tháng 11 và 12 (bilan Puis, mak). Vì hai mùa, phát đạt con cháu sum họp. tháng này người Chăm thường cử hành lễ Lễ Puis được tổ chức phổ biến trong đăng quan, tiến chức cho các vị vua chúa tộc họ thuộc các làng thờ tháp Pơ Rơ mê cho nên phải kiêng cữ. như Hậu sanh, Mỹ Nghiệp, Vĩnh Thuận, Sau khi được thầy Kadhar ấn định Vụ Bổn, Hiếu Thiện (Ninh Thuận) ngày tháng tổ chức lễ thì lễ Puis được Cịn các tộc họ khác thờ cúng thuộc khu diễn ra trong một nhà lễ (Kajang) trong lễ vực tháp Pơ KLong Garai (Đơ Vinh - Puis cĩ hai loại: Loại nhà lễ khơng cĩ lợp Ninh Thuận) thì làm lễ cúng Payak. Tục mái (Kajang mưtưh danah buah) và nhà lễ ấy đã cĩ từ xưa đến nay và đã trở thành lễ lợp mái (kajang bah bauh). Tuỳ theo phong tục, tín ngưỡng của tộc họ. Cứ như tộc họ cĩ tục cúng nhà lễ nào thì dựng thế khi đến chu kỳ cúng lễ hàng năm thì theo nhà lễ kiểu ấy. Ở hai nhà lễ này mặc tộc họ phải thực hiện những lễ cúng trên. dù hình thức khác nhau nhưng nội dung Khi đến một chu kỳ cúng lễ Puis của hành lễ, lễ vật hiến tế đều giống nhau. Ở tộc họ thì trưởng tộc họ (akauk gơp) cĩ đây chỉ khảo tả lại lễ Puis cĩ hình thức nhiệm vụ đi thơng báo đến các thành viên nhà lễ một mái. tộc họ và gĩp tiền của để thực hiện lễ Trong ngày làm lễ, từ sáng sớm tộc họ cúng. Khi đã đủ điều kiện về vật chất và tập trung đơng đủ tại nhà được tổ chức lễ. tài chính thì ơng trưởng tộc đem lễ vật Phụ nữ được phân cơng nhau chuẩn bị lễ (trầu, rượu) đến nhà thầy Kadhar Gru - vật như gĩi bánh, trầu cau, bánh trái thầy tế lễ Puis để xem ngày lành thàng tốt Cịn đàn ơng thì làm heo, gà và dựng cúng lễ. Thơng thường thì lễ Puis thực nhà lễ. Nhà lễ khơng rộng lắm (4m x Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 19
  18. 5m), chủ yếu làm bằng tre, và mái thì lợp một khay trầu, khay rượu, bình trà, chén tranh hoặc tấm bạt và mở một lối ra vào ở lửa đốt trầm. hướng đơng – tây. Lễ Puis do thầy kéo đàn Rabap Lễ vật cúng lễ Puis bao gồm: (Kadhar) và bà bĩng (Muk pajau) là chủ - 1 bộ y phục đàn ơng (1 cái váy tế lễ chính. Sau khi vật đã chuẩn bị xong trắng, 1 dây thắt lưng, 1 cái áo sah, 1 cái thì trong buổi sáng hơm đĩ chủ nhà đem khăn đội đầu) và 1 bộ trang phục đàn bà lễ vật trầu rượu đến làm lễ đĩn rước đàn (1 cái váy trắng, 1 dây thắt lưng, 1 cái áo, Rabap và gạo lễ - vật tổ của thầy Kadhar 1 cái khăn đội đầu). Hai bộ trang phục và Muk pajau. Sau đĩ lễ được tiến hành, này được treo lên trước bàn tổ trong nhà bà bĩng khấn vái mời thần linh, tổ tiên lễ (Kajang). trong nhà trình lễ. Sau đĩ là làm lễ cúng cá khơ (ngak yang tachauk rik) và cúng 5 - Ngồi trang phục lễ, lễ vật dâng mâm cơm (ieu tamư salao lithey). cúng cịn cĩ cơm canh, rượu trứng, cá khơ, bánh chakun (bánh hấp bằng bột Sau lễ cúng các vị thần tổ tiên trong gạo), cơm rượu (tapai thanh) và 3 chén nhà (Po truak patra) thì thầy Kadhar và rượu cần (ia tapay) và hoa quả Muk pajau bắt đầu cúng mời đãi các vị thần linh sau: Thần Siva (Po Ginơr Tất cả những lễ vật được sắp xếp theo mưtri), Thần trong nhà (Yang di sang), mâm lễ. Tùy theo lễ cúng vị thần nào mà Thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar taha), mâm lễ vật được xếp trên mâm 5 tầng, 7 Thần mẹ xứ sở Hamu Mưrâu (Po Inư tầng, 8 tầng hoặc 9 tầng. Mỗi tầng lễ vật Nưgar hamu Mưrâu), Thần mẹ xứ sở được sắp xếp xen kẽ nhau bao gồm: bánh Hamu Ram (po Inư Nưgar Hamu Ram), tét (pay nung), bánh chakun (kur), bánh Quan văn (Po Par), Vua Chăm thế kỷ tráng (pay Chăm), cá khơ (rik), chuối XVII (Po Rame), Vua Chăm thế kỷ XIV (patey) Tổng cộng tất cả 16 mâm lễ, (Po Thun Garai), Quan phĩ vương miền trong đĩ hai mâm xếp 9 tầng (kaya núi (Po Garai phauk), Po Klaung Kasat, salipan), 2 mâm xếp 7 tầng (kaya tajuh), Cey Thuơr (biệt hiệu thần Po Klaung 4 mâm xếp 8 tầng (kaya dalipan), 3 mâm Garai), Thần Yang in (Po Yang In), Thần xếp 5 tầng (kaya limư) và với 5 mâm rừng trầm, rừng quế (po Tang, Po Galau), cơm (cơm, canh, cá khơ, thịt gà luộc ) Thần sĩng biển (Po Riyak), Chàng trai trẻ Tất cả mâm lễ vật được đặt hai bàn tổ (Po Dam), Tổ tiên (Po Trauk, Po Patra). (sanai) chính bên trong nhà lễ. Mỗi vị thần trên khi được mời về dự Ngồi những mâm lễ như trên thì ở thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bài thánh chính giữa nhà lễ cịn cĩ bàn tổ của Muk ca, ca ngợi cơng lao tiểu sử của các vị Pajau (bà bĩng) - bàn tổ chính của nhà lễ. thần. Trong lúc thầy Kadhar hát bài thánh Ở bàn tổ này cĩ đặt một “thơn hala”, 1 ca thì bà bĩng (Muk pajau) rĩt rượu cầu khay trầu le, khay rượu, gạo lễ (brah khấn và dâng lễ vật. Bà con dự lễ cũng kran) tơ nước lã và chén lửa đốt trầm. Ở cầu khấn cho các vị thần linh vui lịng bên trái bàn tổ bà bĩng cịn cĩ bàn tổ thầy hưởng lễ vật của tộc họ dâng cúng mà kéo đàn Rabap và bàn tổ của chủ nhà (Po phù hộ độ trì cho tộc họ. Nghi thức hành sang). Ở hai bàn tổ này, mỗi bàn cĩ đặt lễ cúng thần linh và nội dung hát ở lễ Puis này tương tự như nghi lễ cầu cúng ở Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 20
  19. các lễ liên quan đến đền tháp Chăm như những hạt lúa nổ (kaman) rãi khắp bàn tổ lễ mở cửa tháp (pơh băng yang), lễ hội trong nhà lễ rồi rĩt rượu xuống đất miệng Katê cầu khấn: Nghi lễ cúng thần đã kết thúc, Tiếp theo lễ đãi thần linh thì bà bĩng cầu mong các vị thần trong đền tháp (Muk pajau) cịn múa dâng lễ. Múa dâng (yang bimơn kalan), các vị thần trong nhà lễ chỉ được thực hiện ở phần tế lễ đãi (yang di sang) và tổ tiên phù hộ độ trì thần Siva (Po Ginơr Mưtri), Po Inư cho tộc họ sức khỏe, được mùa, đồn kết Nưgar, Po Rame. Nghi thức múa cúng lễ sum họp, thương yêu lẫn nhau Sau lời 3 vị thần vừa nêu trên đều như nhau. khấn thì nghi lễ chấm dứt. Nhà lễ lập tức Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát mời, bà được dỡ bỏ, nghi lễ tế thần linh - Puis kết bĩng múa và dâng lễ vật mỗi vị thần một thúc trong ngày. khay trầu và một ché rượu cần. Chỉ cĩ Lễ Payak: múa dâng lễ ở vị thần mẹ xứ sở thì bà bĩng cịn cĩ tục múa dâng gạo, lúa bằng động tác múa đi xung quanh 3 mũng gạo và múa đạp vào đống lúa đổ sẵn trên chiếu lễ ở bàn tổ. Nghi thức múa lễ này người Chăm cịn gọi là “múa đạp lúa”. Lễ múa này người Chăm nhằm tưởng nhớ vị thần mẹ Po Inư Nưgar - Nữ thần hiện thân cho mẹ lúa, hồn lúa và họ cầu mong cho được mùa màng, đời sống ấm no, sung túc. Những điệu múa hát theo lễ như trên được hịa vào tiếng đàn Cả sư dâng lễ vật cúng thầnPơklong Garai Rabap, trống Basanưng, Chiêng, nhạc gõ bằng gỗ (người Chăm gọi là tăm Là lễ của tộc họ chủ yếu là cúng vị gek). Tất cả những lời ca điệu múa ấy thần tổ tiên (yang di sang) và thần Pơ mang một âm hưởng trầm hùng cùng với KLong Garai. Lễ payak do các tộc thuộc tiếng vỗ tay nhiệt thành của những người các làng Chăm thờ tháp Pơ KLong Garai tham gia lễ tạo nên một nhạc lễ riêng biệt thực hiện như: làng Phước Đồng, Chất đặc sắc của lễ Puis, Payak mà người Thường, Hiếu Lễ, Hồi Trung (Ninh Chăm gọi nhạc lễ này là điệu nhạc Phước - Ninh Thuận) “Chiêng jăp” Hành lễ Payak cũng tương tự như lễ Sau lễ múa hát kết thúc thì họ tổ chức Puis là do thầy Kadhar và bà bĩng thực lễ tiễn đưa các vị thần hưởng lễ về thiên hiện. giới. Lễ này ơng thầy kéo đàn Rabap và Lễ này chỉ khác ở chỗ là khi thầy bà bĩng cúng tâu trình với các thần linh Kadhar kéo đàn Rabap hát mời vị thần là lễ tế đãi thần của tộc họ đến đây kết Siva thì bà bĩng thực hiện nghi lễ “thả ba thúc. Bà bĩng ngồi rĩt rượu, tay cầm Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 21
  20. hạt gạo trơi trong lọ nước”, rồi bà bĩng váy ra. Bà bĩng cứ làm động tác cầm hai đợi cho đến khi 3 hạt gạo trơi đến gần đầu váy múa nửa kín nửa hở; nhảy múa nhau thì dùng lá trầu vớt 3 hạt gạo lên. trước bàn tổ để dâng cúng thần linh. Nghi Đĩ là điềm báo tộc họ này sum họp, làm thức múa mặc váy nửa kín, nửa hở như ăn thịnh vượng, may mắn. Sau đĩ họ làm trên người Chăm gọi là múa thốt y lễ thết đãi cơm, rượu cần như lễ Puis vừa (tamin lang halaup). nêu trên. - Nghi lễ múa mừng hạt lúa nổ: Bắt Trong lễ tế các vị thần linh trong lễ đầu điệu múa “Mừng hạt lúa nổ”. Bà Payak, khi cúng đến thần Pơ KLong bĩng nằm dài trên chiếc chiếu cổ (ciew Garai - đối tượng cúng chính của lễ này ang) đặt ở chính giữa nhà lễ, đầu hướng thì thầy Kadhar cĩ một nghi lễ riêng. Khi về hướng đơng. Bên cạnh bà bĩng nằm cúng thần Pơ KLong Garai thì thầy cĩ đặt một chén nước lễ, trong đĩ cĩ 3 Kadhar kéo vạt áo lên trùm đầu và hát hạt lúa nổ và một chén rượu cần. Khi vào những bài thánh ca, bà bĩng dâng lễ vật lễ múa thì bà bĩng ngậm nước phun vào cơm canh, ché rượu cần cho thần, rồi bà bàn tổ 3 lần rồi múa mừng theo tiếng đàn bĩng múa lễ mừng. Rabap, tiếng trống Paranưng và tiếng Múa trong lễ Payak phong phú hơn lễ Chiêng lễ. Puis. Ngồi lễ múa mừng (tamia ơn), - Nghi lễ múa cho con ăn: Lễ múa này dâng đạp lúa (tammia jaup paday) cịn cĩ do bà bĩng và vũ sư của tộc họ thực hiện. múa ngậm lửa (tamia jauk apaui), múa Chuẩn bị lễ vật múa cho con ăn bao gồm: thốt y (tamia halang halaup), múa mừng mâm cơm, canh, cá, gà luộc, chuối. Sau hạt lúa (tamia ơn kaman), múa cho con khi lễ vật chuẩn bị xong thì bà bĩng và ăn (tamia crauk lithey ka anưk), múa ru vũ sư ngồi vào bàn tổ. Trên vai bà vũ sư con (tamia dai anưk) cĩ đeo một chiếc váy trắng ngang ngực - - Nghi thức múa mừng và múa đạp tượng trưng cho tục “điệu con”. Lúc vào lúa tương tự như lễ Puis. lễ thì bà con dự lễ rĩt rượu khấn vái tổ tiên thần linh cho tộc họ con đàn cháu - Múa ngậm lửa: là một điệu múa của đống. Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bà bĩng, tay cầm 3 cây nến thắp sáng rồi bài lễ “cho con ăn”. Trong lúc Kadhar hát ngậm lửa vào miệng. Khi bà bĩng ngậm lễ thì bà bĩng làm động tác cho con ăn. lửa vào miệng mà nhún nhảy thì thầy Đầu tiên bà bĩng múa cho con uống Kadhar kéo đàn Rabap và nghệ nhân nước, tiếp đĩ là xúc miệng cho con bằng khác vỗ trống Paranưng, đánh chiêng dồn nước muối. Sau đĩ là cho con ăn cơm với dập Khi bà bĩng múa và ngậm tắt 3 cá, đùi gà và cuối cùng là trái chuối. Tất nén lửa thắp sáng thì múa lễ này kết thúc. cả lễ vật đĩ bà bĩng bỏ vào chiếc váy - Múa thốt y: Để thực hiện điệu múa trắng mà vũ sư đang đeo trước ngực. Vì lễ này ngồi bộ y phục màu trắng mà bà chiếc váy đeo tượng trưng cho con. Sau bĩng mặc đang hành lễ, thì bà bĩng cịn lễ cho ăn thì bà bĩng múa mừng. mặc chồng lên thêm một cái váy màu - Múa lễ ru con: Múa lễ ru con do vũ đen. Khi tiếng nhạc lễ cất lên thì điệu sư (Muk Rija) thực hiện. Bắt đầu vào lễ múa bắt đầu. Bà bĩng tay cầm hai đầu này thì nhà lễ được tháo gỡ để trống ở váy đen vừa mặc, vừa làm động tác mở đầu nhà lễ. Ở phần trống này họ treo một Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 22
  21. tấm váy trắng làm võng ru con. Khi vào dấu ấn về văn hĩa, tín ngưỡng bản địa cổ lễ bà bĩng ngồi vào bàn tổ rĩt rượu khấn sơ cĩ trước khi người Chăm tiếp nhận, vái và vũ sư đứng bên cạnh chiếc võng và ảnh hưởng loại hình tơn giáo Bàlamơn và treo bằng váy trắng làm động tác ru con Hồi giáo. Chính lễ nghi này là tiền đề để theo tiếng hát bài ru con (duah dai anưk) hình thành nên nghi thức lễ cúng tế ở đền về nữ thần mẹ Po Inư Nưgar do thầy tháp Chăm. Tín ngưỡng ấy thể hiện ở Kadhar kéo đàn Rabap hát Đây là điệu hình thức tế lễ, nội dung tế lễ. Lễ Puis, múa lễ cuối cùng trong hệ thống múa đãi Payak do thầy cúng lễ Kadhar và Muk tế thần linh Payak của tộc họ. Cũng Pajau thực hiện, khơng cĩ tu sĩ Paseh và tương tự như lễ cúng đãi thần linh - Puis Acar tham gia. Văn hĩa, tín ngưỡng bản đã trình bày ở trên, lễ Payak này cũng kết địa ấy cịn thể hiện dấu ấn cổ sơ như tục thúc lễ bằng nghi thức lễ tiễn đưa các vị thờ cúng tổ tiên, tục làm nhà một mái, tục thần linh về lại thiên giới (palau yang). ăn lúa nổ, lúa rang, uống rượu cần Đĩ Lễ tế trâu tộc họ tại tháp Pơ KLong là biểu hiện lối sống của cư dân tiền nơng Garai: nghiệp mới thốt thai từ nghề săn bắn và hái lượm. Đặc biệt ở hệ thống lễ này, cĩ Từ xa xưa người Chăm cịn cĩ tục lễ nghệ thuật múa dân gian Chăm như múa tế trâu, tục gọi là “Kabaw akadang khun mừng, múa đạp lúa, múa ngậm lửa, múa salao” để tế đãi thần linh. Lễ này do một hát ru con Tất cả những điệu múa này họ tộc thực hiện. Hiện nay họ cịn cúng tế chỉ mới dừng lại ở những động tác đơn trâu 7 năm một lần. Lễ này tương tự như giản của múa cổ điển như động tác nhún lễ cúng đãi thần linh Payak. Chỉ khác là nhảy cổ tay, bàn chân, đi, đứng, ngồi cúng trâu nướng nguyên con và phải Cùng với múa là nhạc lễ Puis, Payak cúng tại một rạp lễ gần chân núi tháp Pơ cũng vậy. Nhạc ở đây chỉ là nhạc cụ đơn KLong Garai. Hành lễ tế trâu ngồi nội giản như đàn Rabap, chiêng, nhạc gõ dung múa hát, nĩ cịn cĩ nghi thức lễ bằng gỗ (tăm gek), cĩ cả tiếng vỗ tay nướng trâu nguyên con khiêng lên dâng với khúc thức đơn giản mang tính cổ cúng tại tháp Pơ KLong Garai theo nghi điển. Tuy vậy, cả múa và nhạc ở lễ Puis, thức lễ cúng như lễ mở cửa tháp, lễ hội Payak chính là tiền đề, là con đường Katê Lễ này cũng do thầy Kadhar và manh nha để hình thành và nâng cao loại bà bĩng thực hiện. hình múa quạt Chăm và nhạc lễ trống Tĩm lại: Lễ tế trâu này cũng nằm Ginăng, Paranưng và kèn Saranai Chăm trong loại nghi lễ cúng thần linh của tộc sau này. Đây chính là loại hình nghệ họ như lễ Puis, Payak. Nhưng lễ nghi thuật múa nhạc cổ điển mang tính bản địa Puis, Payak là loại nghi lễ của tộc họ phổ của dân tộc Chăm rất quý giá cĩ trước biến hơn. Lễ Puis và Payak là ngày hội loại hình múa quạt Chăm và nhạc lễ trống của tộc họ - Ngày lễ hội mừng được mùa, Ginăng, kèn Saranai hiện nay. Chính nĩ mừng con cháu đầy đàn, no ấm, biểu hiện là cội rễ, là nền tảng, là phần hồn gĩp sự giàu sang phú quý của tộc họ mà làm phần quan trọng để hình thành nên kho lễ tạ ơn và thết đãi thần linh. Loại hình lễ tàng nghệ thuật múa hát đặc sắc, tơ thêm hội của tộc họ này cịn chứa đựng nhiều những sắc màu rực rỡ cho lễ hội Chăm. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 23
  22. NGƯỜI CHĂM CĨ MỘT LÀNG NGHỀ CỔ TS.Phan Quốc Anh hững nhà nghiên cứu lịch sử văn hĩa thường rất quan tâm đến đồ gốm. Họ đi khai quật khắp nơi, bởi lẽ gốm là một nghề rất cổ của lồi người. N Thơng qua những hiện vật, di chỉ gốm, người ta cĩ thể nghiên cứu được con người và xã hội trong quá khứ. Dọc theo quốc lộ I, cách thành phố Phan Rang Tháp Chàm khoảng 7 km về phía nam cĩ làng Chăm Bầu Trúc. Đây là một làng nghề cổ, những người Chăm ở đây đang sản xuất ra những sản phẩm gốm cổ bằng phương pháp tối cổ. Trong lịch sử, những người của nền văn hĩa Đơng sơn cách đây hơn 2000 năm đã biết sử dụng bàn xoay để làm gốm. Cịn ở làng Chăm BầuTrúc, bước vào thế kỷ 21, những người Chăm ở đây vẫn hàng ngày làm gốm khơng cĩ bàn xoay. Người thợ làm gốm vẫn phải đi vịng quanh, xoay theo đồ gốm đang làm. Đĩ là một phương pháp thủ cơng tối cổ vào thời tiền Đơng sơn ở Đại Việt. Những sản phẩm gốm Chăm Bầu Trúc thì sao? Anh em ở Trung tâm nghiên cứu văn hĩa Chăm Ninh Thuận thường nĩi vui, bây giờ chỉ cần lấy vài mảnh gốm Bầu Trúc đem ra chơn ở Bắc Ninh hay Hà Tây, ở Nghệ An hay Quảng Namv.v Sau đĩ lại đào lên và làm thơng báo khoa học, đưa tin về việc phát hiện một nền văn hĩa cổ. Trung tâm sẽ lại tha hồ mà tổ chức hội thảo, các nhà khảo cổ tha hồ cơng việc nghiên cứu. Đĩ là nĩi vui, nhưng trên thực tế, trong lịch sử, sản phẩm gốm Chăm của dân làng Bầu Trúc đã từng được các thương gia buơn bán thơng thương với các nước trên thế giới bằng nhiều con đường khác nhau. Gốm cổ Chăm đã được tìm thấy khắp nhiều nơi trong và ngồi nước. Sản phẩm gốm Chăm sản xuất ra hiện nay ở làng Bầu Trúc vẫn khơng khác gì mấy so với hàng vài nghìn năm trước đây. Cĩ đồ gốm thơ và cĩ cả đồ gốm mịn Ngồi việc khơng cĩ bàn xoay, lị nung gốm của người Chăm hiện nay cũng rất cổ. Đĩ là kiểu nung bán lộ thiên. Độ nung của gốm Chăm hiện nay cũng vẫn chỉ dưới 1000 0C. Việc tiêu thụ sản phẩm thì sao? Hiện nay ở Ninh thuận cĩ 22 làng Chăm với khoảng trên 60 nghìn dân và chỉ cĩ một làng làm gốm là làng Bầu Trúc. Người Chăm vẫn sử dụng những sản phẩm gốm do mình sản xuất ra. Khi được hỏi tại sao khơng dùng đồ dùng bằng nhơm, bằng nhựa cho thuận tiện? Bà con Chăm trả lời rằng đồ gốm nấu cơm cũng như thức ăn ngon hơn, đựng nước và nấu nước uống ngon hơn, giá cả lại rẻ hơn. Đồ gốm Chăm hiện nay vẫn được chở đi bán ở khắp nơi. Ngồi những đồ dùng như chum, vại, nồi niêu, ché, chậu v.v những sản phẩm khác như bếp lị nấu than, lị làm bánh Căn, bánh Xèo vẫn dễ tiêu thụ ở cả thị trường trong và ngồi tỉnh. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 24
  23. Tuy nhiên, làng gốm Chăm vẫn chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu văn hĩa làng nghề thủ cơng. Chính phương pháp thủ cơng của lịch sử để lại đã khơng đáp ứng nhu cầu kinh tế thị trường hiện nay. Do phương pháp thủ cơng nên tốn rất nhiều cơng lao động dẫn đến giá thành cao. Mẫu mã sản phẩm khơng được đổi mới. Việc tiêu thụ sản phẩm ngày càng khĩ khăn do hàng tiêu dùng bằng những nguyên liệu khác như nhơm, nhựa ngày càng phong phú, một phần lại bị tư thương ép giáv.v Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến những lo ngại về sự tồn vong của một làng nghề đã cĩ hàng nghìn năm tuổi. Trước đây, làng Bầu Trúc cĩ hơn 300 hộ làm nghề gốm, nay chỉ cịn được gần 70 hộ. Những hộ này hiện nay cũng chỉ sản xuất cầm chừng do hàng gốm ngày càng khĩ tiêu thụ, giá cả ngày càng rẻ. Nhiều hộ đầu tư sản xuất càng nhiều càng lỗ. Các hộ dân chuyển sang trồng lúa, trồng nho cĩ lãi hơn. Nghề gốm ngày càng bị coi nhẹ. Nguy cơ biến mất của một làng nghề cĩ hàng nghìn năm tuổi đang hiển hiện. Nguyên nhân từ đâu? Họa sĩ Đàng Năng Thọ, người trở nên nổi tiếng nhờ những tác phẩm nghệ thuật làm từ đất gốm nung, cũng là người dân làng Bầu Trúc, tâm sự:” Báo chí, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà văn hĩa ai cũng ca ngợi làng gốm Bầu Trúc, coi Bầu Trúc là một làng nghề truyền thống nổi tiếng của nền văn hĩa Chăm chúng tơi.Thế nhưng chẳng ai quan tâm đến sự sống cịn của nĩ, nhà nước khơng đầu tư, cũng khơng hề cĩ một chính sách nào để bảo tồn làng nghề. Các cụ già trong làng rất lo lắng, nghề làm gốm đang bị thất truyền từng ngày. Bà con làng nghề Bầu Trúc chúng tơi chỉ mong được sự quan tâm chỉ đạo, định hướng của nhà nước để làm sao duy trì được làng nghề”. Việc duy trì làng nghề truyền thống gốm Chăm khơng chỉ cĩ ý nghĩa về mặt kinh tế mà cịn cĩ ý nghĩa lớn về mặt bảo lưu văn hĩa dân tộc. Người Chăm cĩ một nền văn hĩa phong phú, đa dạng, trong đĩ gốm Chăm đã gĩp phần rất lớn trong việc nghiên cứu lịch sử văn hĩa Việt nam nĩi riêng và lịch sử văn hĩa Đơng Nam Á nĩi chung./. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 25
  24. “KHƠNG GIAN VĂN HĨA CHĂM” GIỮA LỊNG HÀ NỘI ân tộc Chăm, xưa kia là cư dân của Vương quốc Champa cổ, cĩ một nền văn hĩa dân gian độc đáo và đặc sắc được giữ gìn cho đến tận D ngày nay. Khơng Gian Sáng Tạo Trung Nguyên sẽ giới thiệu một “Khơng gian văn hố Chăm” giữa lịng Hà Nội. Triển lãm sẽ khai mạc tại 36 - Điện Biên Phủ-Hà Nội vào chiều 28/5 và được trưng bài tới hết ngày 11/6/2010. Dân tộc Chăm, xưa kia là cư dân của Vương quốc Champa cổ, hiện cĩ khoảng 20 vạn người, nhiều nhất ở Ninh Thuận - 85.000 người, và Bình Thuận - 37.000 người. Người Chăm theo chế độ mẫu hệ, sinh hoạt hàng ngày vẫn giữ nếp truyền thống với các lễ hội dân gian rất đặc sắc. Rija Nưgar (vào đầu năm Chăm lịch, tức tháng 4 Dương lịch) và Katê (Tết Chăm, vào tháng 7 Chăm lịch, tức tháng 10 Dương lịch) là hai lễ hội quan trọng hơn cả. Người Chăm biết sử dụng chữ viết từ khá sớm. Bia Võ Cạnh bằng chữ Sanskrit ở Nha Trang (năm 192 sau Cơng nguyên) và bia Đơng Yên Châu (cuối thế kỉ IV) là minh văn bằng chữ bản địa cĩ mặt sớm nhất trong khu vực. Ngơn ngữ-chữ viết phát triển thúc đẩy văn học Chăm phát triển theo. Song hành với văn học bình dân như tục ngữ, ca dao, truyện cổ là nền văn học viết cĩ mặt từ rất sớm: văn bi kí, sử thi, trường ca, thơ thế sự, thơ triết lí, gia huấn ca Mặc dù đã thất tán nhiều, nhưng ngày nay người ta vẫn cĩ thể tìm đọc một số tác phẩm, như những cuốn sách 150 năm tuổi tại triển lãm “Khơng gian văn hố Chăm” lần này. Đặc biệt, người Chăm rất giỏi nghề thủ cơng, nổi bật nhất là nghề gốm và dệt thổ cẩm. Nĩi về nghề gốm, hiện cịn hai cộng đồng Chăm cịn giữ nghề này là làng Bầu Trúc (Ninh Thuận) và xã Phan Hịa (Bình Thuận). Đất sét trộn cát mịn được nhồi nhuyễn thành hình quả bí đặt lên bàn kê (chứ khơng phải bàn xoay); người thợ vừa đi giật lùi vừa dùng tay tạo khối đất thành dáng cơ bản. Hoa văn trang trí gốm Chăm khá đơn giản, thường là hình sĩng hay hình con thoi, được tạo bằng que nhỏ, răng lược hay vỏ sị Sản phẩm gốm được phơi khơ cả trong nhà và ngồi nắng, trước khi đem nung bằng củi, phân trâu bị khơ, rơm rạ Sau 2 - 3 tiếng, người thợ dùng sào mĩc sản phẩm và dùng màu thực vật chiết từ da cây săng, trái thị để tạo màu cho gốm ngay khi gốm cịn nĩng. Do nung bằng nhiều nguyên liệu khác nhau, lửa táp khơng đều, nên khơng cĩ hai sản phẩm gốm Chăm nào hồn tồn giống nhau. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 26
  25. Trước đây, gốm Chăm gồm ba nhĩm: gốm nấu (nồi nấu cơm, nồi nấu canh, trách kho cá, bếp lị, ); gốm đựng (khương đựng gạo, lu đựng nước, ảng ); và gốm dùng trong sinh hoạt chung. Ngày nay, nhờ biết tạo nhiều mẫu mã mới, gốm Chăm khơng chỉ là mặt hàng tiêu dùng tự cung tự cấp nữa mà phần nào đã trở thành hàng mĩ nghệ, nhưng kĩ thuật sản xuất vẫn khơng thay đổi. “Khơng gian văn hố Chăm” tự hào giới thiệu với người xem hơn 50 sản phẩm tiêu biểu cho gốm Chăm xưa và nay. Với người Chăm, dệt thổ cẩm là nghề “mẹ truyền con nối”. Nghề này hiện vẫn là nguồn sống của cả làng Mỹ Nghiệp (Ninh Thuận), mảnh đất văn vật từ thời Vương quốc Champa cổ mà tên cịn tìm thấy trong bi kí. Khoảng thập niên 50 trở về trước, người Chăm thường trồng bơng để lấy sợi và dùng lá cây, vỏ cây để tạo màu, cịn ngày nay, các nguyên liệu từ tơ sợi cho đến thuốc nhuộm đều được mua sẵn. Trên nền vải ưa thích là màu đen hay đỏ, người thợ Chăm dệt nên các loại hoa văn rất phong phú và độc đáo: cĩ hoa văn được bố trí trên tồn mặt vải, cĩ hoa văn chạy song song với nền sợi dọc, cũng cĩ hoa văn hình động vật cách điệu như rồng, phụng, chim trão, cơng Trong xã hội Chăm, cĩ thể phân biệt mức độ sang hèn của một người chỉ qua hoa văn trên y phục. Như phụ nữ Chăm thuộc tầng lớp trên thì mặc y phục cĩ hoa văn chim trão hay chim phụng , cịn phụ nữ tầng lớp dưới thì mặc y phục cĩ hoa văn dây rừng Đến với “Khơng gian văn hố Chăm”, người xem cĩ cơ hội thưởng lãm những mẫu hoa văn thổ cẩm Chăm cổ xưa và nguyên bản nhất. Triển lãm cịn cĩ sự tham gia của nghệ nhân Thuận Thị Trụ, danh hiệu “Bàn tay vàng thổ cẩm Việt Nam”, cùng tham gia hành trình giới thiệu văn hĩa Chăm. Bà là người cĩ cơng sưu tầm hơn ba mươi hoa văn nền tưởng như đã thất truyền và từ đĩ cách điệu ra khoảng năm mươi hoa văn khác. Cơng ty Dệt may thổ cẩm Inrahani do bà thành lập là cơng ty thổ cẩm đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam, chuyên chế tác hàng thơ thành các sản phẩm phục vụ cuộc sống như váy áo, túi xách, ví, thắt lưng, khăn trải bàn , gĩp phần đưa thổ cẩm Chăm được nhiều người biết đến hơn. Tại triển lãm, bà sẽ kể những câu chuyện thú vị về văn hĩa Chăm thơng qua phần trình diễn nghệ thuật dệt thổ cẩm và những điệu múa của mình. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 27
  26. Huyền bí TẾT Katê của người Chăm gười Chăm nhiều hơn và trở thành lên hiểm trở để ai cĩ ý cĩ ba ngày cái Tết lớn nhất của định trộm cướp cũng N Tết trong người Chăm trong năm. khĩ thực hiện được. năm để cùng nhau tụ họp Những cụ già người Hàng năm, cứ trước lại tưởng nhớ các vị thần Chăm kể lại: Ngày ngày khai hội một hơm, linh, tổ tiên và tổ chức trước, lễ hội Katê cĩ thể người Raglai lại từ buơn những hoạt động vui kéo dài đến nửa tháng, làng trên núi, rước các chơi giải trí. Cuối thu, nhưng ngày nay đã được di vật xuống làng Chăm. khi mùa màng đã thu rút xuống chỉ cịn ba Trước lễ hội chính một hoạch xong, theo lịch ngày. Ngày đầu tiên ngày, cả hai dân tộc của người Chăm là ngày dành để chuẩn bị quần cùng làm lễ rước y phục 1 tháng 7 (tương ứng áo cho các thần linh. về đền thờ trong làng. Lễ vào khoảng cuối tháng 9 Ngày thứ hai rước quần thỉnh y phục gồm các Dương lịch), các làng áo lên tháp cho các thần. tiết mục đàn hát ca ngợi Chăm lại rộn ràng vui Ngày thứ ba, dành cho cơng đức của các vua, Tết Katê. cúng tế thần làng và tổ dâng lễ vật và khấn Hư thực chuyện di chức trị chơi, cúng tế tại mừng thần kéo dài đến vật vua Chăm gia đình. khuya mới chấm dứt. Theo ơng Phú Trạm - Nhà nghiên cứu Phú Sau lễ hội, di vật Inrasara, một nhà nghiên Trạm cho biết, theo lại theo họ về bảo quản, cứu văn hĩa Chăm, hội truyền thuyết, người thờ cúng trong một ngơi viên Hội văn nghệ dân Raglai vốn là con út của nhà riêng. Qua nhiều gian Việt Nam: Trước vua, là em của người đời, ngày nay vẫn cịn đây, ngày Tết của người Chăm. Trong thực tế, nhiều bảo vật của các vị Chăm là một dịp lễ khác qua nhiều lần trải qua vua được gìn giữ như áo, được tiến hành vào đầu thăng trầm trong hàng thắt lưng Để "đến hẹn tháng tư (lịch Chăm). trăm năm lịch sử, các vị lại lên", mùa Tết Katê Đây mới là ngày lễ vua người Chăm đã phải năm sau, anh em người cĩ ý nghĩa xua đuổi cái nhiều phen lánh nạn. Chăm - Raglai lại cùng xấu của năm cũ, đĩn Khi rời quê nhà lánh nhau sum họp. Cũng ở mừng cái may mắn của nạn, khơng muốn tháp bị một số nơi, tục lệ này năm mới. Tuy nhiên, do hoang phế nên phải gửi khơng cịn. quy mơ của lễ hội Katê lại vương miện, mũ mão, Ơng Phú Trạm kể lại lớn hơn, lại cĩ thêm quần áo cho người câu chuyện ở chính ngơi phần lên tháp tiến hành Raglai, vốn là tộc người làng quê hương ơng: các nghi thức, nên sống ở miền núi, trong Làng Chăm Chakleng, lễ Katê được biết đến các bản làng cĩ đường xã Mỹ Nghiệp, thị trấn Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 28
  27. Phước Dân, huyện Ninh thiếu nữ trong đội múa qua đoạn đường khoảng Phước, tỉnh Ninh Thuận. đã chờ sẵn trước sân đền 4 km từ thơn Phước Trong làng cĩ đền thờ thờ làng. Đồng tới khu vực tháp một vị tướng tài người Đúng 7 giờ sáng, sau Poklong Garai, đội rước Chăm nhưng y phục của màn trình diễn của các lễ cịn phải leo qua hàng vị tướng lại được gửi thiếu nữ với tiết mục vừa trăm bậc thang dẫn lên mãi tại một làng người múa quạt vừa đội bình chân tháp. Hàng vạn Raglai trên đèo Krơng hoa trên đầu mà bình người dân địa phương và Pha (thuộc huyện Ninh khơng hề ngả nghiêng, lễ khách du lịch đã đợi sẵn Sơn, cách đĩ khoảng rước y phục từ làng lên đồn rước lễ từ dưới 30km). Hàng trăm năm tháp bắt đầu. chân đồi. khơng sao, đến một mùa Đi đầu đồn rước là Những nghi thức Katê gần đây, người huyền bí Raglai của làng đĩ sau lễ cờ Tổ quốc và đồn nhạc hội xin với các già làng cơng người Raglai, tiếp Lễ Katê cuốn hút được gửi lại y phục cho đến là các thầy trong ban khách thập phương tới được ở đền làng Chăm điều hành. Kiệu đặt y tham dự khơng chỉ để luơn vì người ở làng phục của các thần được ngắm nhìn bức tranh Raglai cùng họ với hộ tống xung quanh bởi sinh hoạt cộng đồng người Chăm đến nay đều các bức trướng, lọng che nhiều màu sắc, khơng đã khơng cịn ở nhà, nắng, cờ lễ hội và đội chỉ vì những điệu múa khơng cĩ điều kiện đi lại thiếu nữ múa quạt. huyền ảo của các vũ nữ hàng năm. Mùa katê Đồn người gồm dân hay tiếng kèn saranai, năm sau đĩ, lễ hội ở làng làng và khách thập tiếng trống ginăng bập quê ơng Phúc Trạm vắng phương kéo dài theo sau bùng Katê cịn huyền bĩng áo xanh của người trên đường làng dẫn lên ảo với những lời khấn anh em Raglai. tháp Chăm trong tiếng nguyện, những nghi thức nhạc do đội nhạc lễ vừa hành lễ độc đáo và đầy Lễ Katê - bức tranh chất huyền bí. nhiều sắc màu đi vừa cử hành. Cờ đỏ sao vàng của cờ Tổ Trên sân tháp hướng Từ 5 giờ sáng ngày lễ quốc, áo tím nẹp xanh về phía tháp chính, sau chính, dân làng Chăm đã của người Raglai, áo phần tặng quà và chúc bắt đầu làm lễ xin rước y trắng khăn đỏ của đàn mừng của chính quyền phục từ đền thờ làng lên ơng người Chăm và địa phương, sẽ là phần tháp Chăm. Trong khi vị muơn vàn sắc tía của trình diễn điệu múa quạt cả sư (Pơ Dhia) làm lễ trang phục truyền thống của các thiếu nữ người khấn tại đền thờ làng, phụ nữ Chăm tạo thành Chăm và các nhạc cơng đồn rước gồm các thầy một bức tranh khổng lồ Raglai trình diễn điệu trong ban tế lễ, dàn nhạc nhiều màu sắc. nhạc dân tộc. người Chăm và người Raglai, các nam thanh Tại cụm tháp chính Kết thúc phần múa niên khiêng kiệu, các của tỉnh Ninh Thuận, hát, lễ cúng xin phép Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 29
  28. thần Siva cho mở cửa với lời mời hơn 30 vị Cũng theo ơng Phú tháp được cử hành với lễ thần), bà bĩng thì rĩt Trạm, các giáo sỹ người vật là rượu, trứng, trầu rượu, dâng lễ vật lên Chăm thường "giấu cau và nước thánh (nước thần linh. nghề", vì vậy khơng ít pha trầm). Đọc xong Trong khi đĩ, bà con nghi lễ, tập tục kỳ bí của những lời cầu khấn bằng người Chăm ở phía người Chăm hoặc khơng tiếng Chăm, một vị trong ngồi tháp cũng bày đồ được giải thích, hoặc đã ban tế lễ hắt lọ nước cúng ra trên bãi cỏ để dần mai một. Ơng nêu ra thánh lên phù điêu thần cúng tế, cầu mong thần một ví dụ: "Khơng ít Siva trên vịm cửa tháp, linh ban cho một năm trường hợp, các giáo sỹ xin phép được mở cửa mới mưa thuận giĩ hịa, khi khơng cĩ người kế tháp để ban tế vào hành ban cho gia đình và tục đã thả trơi sơng hàng lễ. người thân được may trăm cuốn kinh sách quý. Theo quan niệm của mắn, khỏe mạnh Vì theo quan niệm của người Chăm, đền tháp là họ, sách là của thánh Tuy nhiên, những thần, nếu giáo sỹ khơng nơi trú ngụ của thần linh, nghi thức bên trong tháp vì vậy trong lễ hội lớn dùng nữa thì phải thả như đã nêu trên chỉ được trơi sơng trả thần linh". nhất trong năm này, phải các giáo sỹ trong ban tế cĩ nghi thức tắm cho lễ chứng kiến và mơ tả Nhiều thế kỷ trước, tượng. Nước thánh được lại cho người khác biết, sách "Đại Nam nhất vảy lên mình tượng, chứ chưa từng nhà thống chí" đã viết: "Tục trong khi những người nghiên cứu, hay du Chăm thì hàng năm cứ xung quanh nhảy múa, khách nào được chiêm tháng 10, tức như tháng hát và hứng nước rỏ từ ngưỡng. giêng của Kinh là Tết. tượng thần rớt xuống để Đến kỳ thì sắm đủ cỗ bơi lên cơ thể mình cầu Vì vậy, chưa từng cĩ bàn cúng tiên tổ, hội may mắn. Ban tế lễ tiếp bức ảnh hay cuốn video khách khứa bạn bè". tục cử hành buổi lễ với nào được thực hiện trong Nhiều thế kỷ sau, những các nghi thức tiếp theo là các tháp Chàm nơi thờ phong tục này vẫn được mặc y phục cho tượng, các vị vua. "Ngay cả đến người Chăm giữ vẹn đại lễ với nghi thức dâng tơi là một người Chăm, nguyên lễ vật, lễ tạ, lễ ban ơn. lại là một người nghiên cứu văn hĩa, nhưng Mai Minh Trong tất cả các khơng phải là người cĩ 05020223239p0c1023/huyen bước hành lễ, đều cĩ đặc nhiệm vụ nên cũng chưa -bi-tet-kate-cua-nguoi- trưng là thầy cả sư đọc lần nào trong đời được cham.htm kinh, thầy kéo đàn hát chiêm ngưỡng phía bên các bài hát lần lượt mời trong tháp Chàm, dù đã các vị thần về chứng nhiều lần năn nỉ được giám dự lễ (tổng cộng cĩ vào bên trong", ơng Phú khoảng hơn 30 bài hát Trạm nĩi. trong buổi lễ tương ứng Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 30
  29. LỄ HỘI RAMƯWAN CỦA NGƯỜI CHĂM HỒI GIÁO Đình Hy ằng năm, cứ đến cuối tháng địa (ghurrăk) để tảo mộ và cúng. Những 8, suốt tháng 9 (tháng tu sĩ Hồi giáo chủ lễ, cầu kinh Coran H Ramadan, tính theo lịch bằng tiếng Ả Rập, vị phụ tế vẩy nước Hồi giáo, trong bài viết này thể hiện thánh lên từng viên đá (bia mộ). Mỗi ngày tháng theo lịch Hồi giáo), người dịng họ cĩ một nghĩa địa riêng, tất cả Chăm Hồi giáo tổ chức lễ hội thành viên trong dịng họ đều kính cẩn Ramưwan. Theo các sử liệu, Hồi giáo cúng bái, cầu khấn mời tổ tiên về hưởng du nhập vào người Chăm sau thế kỷ X. mùa Ramưwan với con cháu. Kết thúc Quá trình đĩ lại gặp tín ngưỡng bản địa phần cúng, ở mỗi ngơi mộ đều để dưới thờ Mẫu (Pơ Inư Nưgar) và Bàlamơn đá bia một miếng trầu. Người Chăm giáo trước đĩ, nên đã cĩ những biến đổi Hồi giáo cĩ tập quán khi chết, chơn đầu về lễ nghi cúng kính so với các vùng quay về hướng Bắc, nghiêng mặt về Hồi giáo khác ở Đơng Nam Á, Trung hướng Tây. Trên ngơi mộ cĩ 2 viên đá. Á, Trung Đơng và Hồi giáo được Lễ tảo mộ và cúng kính được xem như người Chăm gọi là đạo Bàni (cũ), cịn là sự hành hương của người Chăm về nguyên mẫu gọi là đạo Islam (mới). với tổ tiên, ơng bà. Tìm hiểu sâu lễ này thì đây là tháng 2. Cúng gia tiên: sau phần tảo mộ và nhịn ăn, chay niệm của các tu sĩ Hồi cúng mời, họ về nhà, gia chủ chuẩn bị giáo và là dịp để tín đồ người Chăm Hồi một chỗ trang trọng trên giường hoặc giáo cúng gia tiên để tưởng nhớ người phảng, trải chiếu mới bày trầu cau, trà, thân đã mất, đồng thời tổ chức ca múa hoa quả (chỗ này chính là nơi tổ tiên về nhạc dân gian vui hội ở tất cả các làng ngự). Khi lễ vật và người phục vụ đã Chăm Hồi giáo. chuẩn bị xong, vị chủ lễ là thầy Achar Theo thống kê hiện nay, làng Chăm (1 chức sắc Hồi giáo), hoặc người thơng Hồi giáo, tại tỉnh Ninh Thuận cĩ 08 hiểu, thuộc Kinh thánh làm lễ tẩy trần. làng. Tại tỉnh Bình Thuận cĩ 07 làng. Mọi người chỉnh tể trang phục. Vị chủ Ngồi ra cịn ở vùng Châu Đốc, Châu lễ khấn nguyện và vẽ bùa, tồn gia đình Giang (tỉnh An Giang) và tại quận Phú bắt đầu cúng. Lễ vật cúng thường cĩ 2 Nhuận thành phố Hồ Chí Minh. loại được chưng lên các mâm cĩ chân Nhìn chung ở các làng Chăm, lễ hội cao đĩ là: mâm lễ ngọt gồm: bánh trái, Ramưwan diễn ra trình tự như sau: chè và mâm lễ mặn cĩ cơm, canh, cá, thịt dê, gà, và trầu cau, trầm hương (tín 1. Tảo mộ: vào những ngày cuối đồ Hồi giáo kiêng ăn thịt con heo, con cùng của tháng 8, tín đồ Chăm mặc dơng, kiêng uống rượu). trang phục truyền thống mang theo lễ vật, trẻ em xách nước đi đến các nghĩa Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 31
  30. Tuần tự, lễ vật được dâng nhiều đợt, sát sinh và cúng tổ tiên ở trong làng. mỗi đợt 2 mâm thức ngọt và thức mặn Đến ngày thứ 20, người ta làm lễ Ơn và gia chủ khấn mời tên 1 vị thần, vị tổ trũn, lễ vật và hình thức cúng như các lễ tiên và cầu phù hộ cho tồn gia tộc, tồn khác, song sau lễ này, tín đồ bên ngồi làng xĩm, tín đồ. dâng gạo vào Thánh Đường với ý nghĩa Trong những ngày này, về phần hội, hành hương đến Thánh địa La Meca, bố tuỳ theo khả năng các làng để cĩ tổ thí người nghèo chức văn nghệ dân gian, thi dệt vải, đội Đến đêm thứ 30, thân nhân các chức nước, thi cày bằng bị, các trị chơi thể sắc Hồi giáo đem phần gạo được chia từ thao tạo ra khơng khí vui nhộn để Thánh Đường về nấu cơm để rạng sáng bước vào tháng chay tịnh. Đây là dịp hơm sau dâng lên Thánh Đường, phần thu hút đơng đúc mọi người, mọi dân cịn lại mời tất cả mọi người trong làng tộc khác đến chung vui, cĩ năm mỗi cùng đến ăn. Thực phẩm cĩ trứng, muối làng thu hút hàng ngàn người đi lễ hội. mè 3. Lễ chay niệm: Sáng ngày thứ 31 này, tại Thánh Cuối ngày 30 tháng 8, các chức sắc Đường, tồn thể chức sắc, tu sĩ và tín đồ Hồi giáo vào hẳn trong Thánh Đường trong cả làng làm lễ kết thúc tháng ơn luyện kinh Coran và chay tịnh. Lúc Ramưwan, họ đọc kinh cầu an lành cho này đơng đảo tín đồ đội mâm lễ vật đến muơn người. Sau đĩ mọi người về lại Thánh Đường để dự khai lễ Ramưwan. gia đình mình mở đầu cho một năm mới Kể từ đây, các chức sắc ở, sinh hoạt sau tháng chay tịnh Ramưwan. trong Thánh Đường 1 tháng. Mỗi ngày Lễ hội Ramưwan của cộng đồng đêm họ cầu kinh 5 lần với những quy người Chăm Hồi giáo, cũng như lễ hội tắc chặt chẽ. Trong vịng 1 tháng này, Katê của người Chăm Bàlamơn cĩ ý cĩ 4 ngày thứ 6 làm lễ cầu kinh, giảng nghĩa văn hố truyền thống cũng như kinh và 4 đêm thứ 5 vừa cầu kinh vừa giá trị tâm linh, tình cảm, đồn kết cộng cầu nguyện tổ tiên bằng những bài đồng, dân tộc, tương tự ngày tết riêng. Nguyên Đán của người Kinh, nên cĩ Tục lệ trong tháng chay tịnh nhiều người gọi là tết. Nhân dịp này, Ramưwan là: 15 ngày đầu tín đồ trong mọi người đều phấn khởi, cùng nhau làng hồn tồn khơng được phép sát cầu nguyện cho mọi người bình yên, sinh, các gia đình khơng được cúng xĩm làng thanh tịnh, ai cũng lấy tình kính (theo quan niệm tổ tiên cũng đang thương yêu để đối xử với nhau, chia sẻ chay tịnh). Chỉ đến ngày thứ 15, sau khi khĩ khăn lẫn nhau theo truyền thống làm lễ Muk trũn, tín đồ mới được phép bao đời truyền lại. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 32
  31. PHONG TỤC THẢ DIỀU CỦA ĐỒNG BÀO CHĂM àng năm, vào thứ bảy của tháng 11 (lịch Chăm), một dịng tộc "Yang In" ở Ninh Thuần mặc bộ đồ truyền thống dân tộc tập trung đến một H bãi đất rộng đầu làng - nơi vừa dựng sẵn một cái rạp vuơng nhỏ để thực hiện nghi lễ thả diều. Lễ tục này đồng bào Chăm gọi là Papăn kalang Pơ Yang In để phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, hạnh phúc, mùa màng bội thu. Cánh diều đựợc thiết kế theo giới tính diều đực và diều cái. Diều đực hình thoi, cĩ hai túi trịn, tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam. Khung thân dài 1,5 mét, cánh dài 0,6 mét, rộng 1,4 mét, được làm bằng tre và buộc dây mây. Mặt trước cánh dán giấy đỏ, mặt sau dán tờ giấy ghi ngày con cháu thực hành nghi lễ và sử lược về Ngài Pơ Yang In do ơng Kadhar thảo bằng chữ Chăm. Diều đực đựợc gắn sáo hai tầng và ba cái đuơi dài chừng 5 mét bằng lá buơng to bản. Dây buộc diều là dây màu (dây rừng) được tết vận thừng, dài từ 50-100 mét, cuộn trong khung gỗ hình chữ H. Diều cái chỉ lớn bằng 1/3 diều đực, khơng cĩ túi, khơng dán giấy viết sự tích Poo Yang, sáo diều một tầng. Ơng Kadhar dâng lễ vật gồm cĩ: chuối, trứng, trầu cau, rượu, thịt dê hay chè xơi và làm phép mời Ngài Pơ Yang In về chứng giám cho lịng thành của con cháu. Lễ vật này tượng trưng cho sự thịnh vượng phát đạt của con cháu trong một năm làm ăn. Trong khơng khí đượm mùi trầm hương từ chiếc lư đồng tỏa ra, bà Pajâu nâng cánh diều từ trong rạp đi ra rồi thả dây. Chiếc diều đã được gắn ống sáo nên khi lên cao, gặp giĩ mạnh phát ra âm thanh vi vu. Đồng bào cho rằng diều lượn càng uyển chuyển, tiếng sáo càng thanh chứng tỏ sự hưởng ứng của các bậc thần linh càng nhiều. Ở dưới đất, Kadha vừa kéo đàn kanhi vừa hát bài ca về Pơ Patao Yang In và Chay Tathun Con cháu dịng tộc Yang In thả diều từ sáng đến tối mịt mới thu diều về, bĩc giấy, cắt khung để sang năm mang ra dán giấy tiếp tục thả. Theo quan niệm của đồng bào Chăm, cánh diều sẽ là sợi dây liên lạc hai thế giới âm, dương để báo cáo tình hình làm ăn cũng như sức khỏe của con cháu cho tổ tiên biết, đồng thời cầu xin tổ tiên ban phúc lành năm tới. Cánh diều quê vừa mang giá trị văn hĩa dân tộc, vừa gợi nét thanh bình hiện vẫn được đồng bào Chăm bảo lưu. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 33
  32. THÁP CHĂM VÀ ĐIÊU KHẮC CHĂM Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 34
  33. ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN MINH ẤN ĐỘ ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH VĂN MINH CHAMPA 1. Ảnh hưởng của chữ viết Ấn Độ những vật liệu khác như giấy, tre, vải, đến lịch sử chữ viết Champa. da Ấn Độ là một quốc gia sớm cĩ Nĩi đến chữ viết Champa là nĩi đến chữ viết. Nhờ những khám phá về khảo chữ Akhar Thrah, một loại chữ được cổ học đã xác định được ngay từ nền dùng phổ biến cho đến ngày này vẫn văn hĩa Harappa chữ viết đã được sử cịn lưu truyền. dụng phổ biến trong cơng việc hành Từ chữ Akhar Thrah, người Champa chính cũng như thường ngày. đã biến hĩa thêm nét thành nhiều chữ Đến khoảng thế kỉ V TCN, ở Ấn Độ viết khác nhau, cĩ chức năng sử dụng xuất hiện một loại chữ khác gọi là chữ vào những mục đích khác nhau. Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏng Đĩ là: theo chữ viết vùng Lưỡng Hà. Sau đĩ lại xuất hiện chữ Brami, một loại chữ Akhar Yok : chữ bí ẩn. được sử dụng rộng rãi. Các văn bia của Akhar Atwơr : chữ treo, chữ tắt. Asoka đều viết bằng loại này. Trên cơ Akhar Kalimưng : chữ con nhện, sở chữ Brami, người Ấn Độ lại đặt ra chữ thấu. chữ Davanagari cĩ cách viết đơn giản thuận tiện hơn. Đĩ là thứ chữ mới để Ngồi ra cịn cĩ chữ chỉ thấy trên viết tiếng Sanskrit. Đến nay ở Ấn Độ và bia kí là : Nepan vẫn dùng loại chữ này. Akhar Hayap Như vậy, nền văn minh Ấn Độ đã Akhar Rik sáng tạo ra ít nhất là 4 loại chữ viết Tất cả các kiểu chữ và biến thể khác nhau. Akhar (chữ viết) đĩ điều bắt nguồn từ Champa sớm tiếp xúc với nền văn một trong những chữ viết ở miền Nam minh Ấn Độ, đã tiếp nhận văn tự Ấn Độ Ấn Độ thuộc hệ văn tự Brami. ngay từ ngày lập quốc. Một đặc điểm Qua những lần biến thể chữ viết của chữ viết Champa là ghi chép trên ngày càng phù hợp với âm tiết của tiếng bia đá, nội dung bia kí thường phản ánh Champa . Sự tiếp nhận văn tự Ấn Độ để việc dâng tế thần linh, tường thuật lại tạo nên Akhar Thrah là một bước phát biến cố đã xảy ra đối với vương triều, triển mới của lịch sử ngơn ngữ Champa. ca ngợi cơng đức của thần linh và bậc Bởi vì, người Ấn Độ nếu khơng cĩ sự minh vương tiền nhiệm. Văn bia được hướng dẫn cần thiết sẽ khơng đọc được khắc chữ từ thế kỉ IV đến thế kỉ XV Akhar Thrah. bằng cả văn tự Chăm cổ và Sanskrit. Trên cơ sở chữ phạn và lấy dạng nét Sau thế kỉ XV, người Champa khơng cong của chữ phạn, người Chăm đã xây viết chữ lên bia đá nữa mà viết trên dựng thành một hệ thống văn tự Chăm Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 35
  34. cổ để ghi chép tiếng nĩi của mình, gồm ngày nay. Bên cạnh việc tiếp nhận văn 16 nguyên âm, 31 phụ âm, khoảng 32 học Ấn Độ trực tiếp vào những thời dấu âm sắc và chính tả. . điểm Hindu giáo ảnh h ưởng sâu sắc. 2. Ảnh hưởng của sử thi Ấn Độ Sau này, dịng chảy của văn học Ấn Độ trong văn học Champa. vẫn đến được với Champa qua trung gian là Malaysia, một quốc gia cũng Ấn Độ cĩ hai bộ sử thi rất đồ sộ ảnh hưởng văn minh Ấn Độ. là Mahabharata và Ramayana. Hai bộ sử thi này được truyền miệng từ nửa Dĩ nhiên khi đến Champa, những đầu thiên niên kỉ I TCN rồi được chép dịng tư tưởng cũng cĩ khác để phù hợp, lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỉ đầu với cuộc sống và sinh hoạt Champa. Đĩ cơng nguyên thì được dịch ra tiếng là những thể loại văn học dân gian, với Sanskrit. . những bài hát lễ, hát giao duyên, những kinh văn, bài xướng ca được biểu diễn Người Champa đã đĩn nhận hai bộ vào dịp lễ quan trọng liên quan đến sử thi theo cách tư duy của họ và phù Hindu giáo. hợp với tâm lí của cộng đồng. Văn học Champa khá phát triển với nhiều thể 3. Ảnh hưởng của tơn giáo Ấn loại phong phú như : Thần thoại, sử thi, Độ đến Champa. truyện cổ, thơ ca, văn xuơi, văn vần Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều Thơ ca Champa rất dồi dào âm điệu, tơn giáo, trong đĩ quan trọng nhất là nội dung trữ tình và thường là thơ lục Bàlamơn giáo về sau là Hindu giáo và bát gieo vần lục tứ và bát lục. Bên cạnh Phật giáo. Ngồi ra cịn cĩ một số tơn văn học viết, văn học dân gian của giáo khác như đạo Jain, đạo Xích. người Chăm cũng khá phát triển dưới Bàlamơn giáo sớm được truyền bá ở nhiều thể loại và phản ánh nhiều nội Đơng Nam Á và một thời kì dài độc tơn dung về tâm lí dân tộc và các khía cạnh làm quốc giáo. Ở Ấn Độ Bàlamơn chia xã hội. hạng người ra thành giai cấp rất chặt Đặc điểm của văn học thành văn của chẽ. Champa là phản ánh thời cuộc, khắc - Braman (Bàlamơn) là đẳng cấp của họa nhiều mặt của đời sống xã hội, ca những người làm nghề tơn giáo. ngợi tình yêu lứa đơi, tình yêu gia đình - Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến và quê hương. Nhưng các tác phẩm cĩ sĩ. giá trị cao về nghệ thuật và nội dung thường khuyết danh người sáng tác. - Vaisya là đẳng cấp của những Điều này, nĩi lên các tác phẩm đĩ là do người bình dân làm các nghề như chăn quá trình sáng tác của cả cộng đồng và nuơi, làm ruộng, buơn bán, một số nghề qua các thế hệ nối tiếp cùng tham gia thủ cơng. sáng tác. - Suđra là đẳng cấp của những Những bản trường ca anh hùng người cùng khổ, vốn là con cháu của cũng khá phong phú, được sáng tác liên các bộ lạc bại trận khơng cĩ tư liệu sản tục, phổ biến rộng rãi và lưu truyền đến xuất. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 36
  35. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của thống giáo lí chặt chẽ nên khi đến chế độ đẳng cấp là sự phân hĩa giai cấp, Champa nĩ dễ bị xâm nhập vào tín sự phân cơng về nghề nghiệp và sự ngưỡng dân gian bản địa. Do vậy, phân biệt về bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamơn giáo ở Champa thiên nhiều về Bàlamơn thì dùng uy lực của thần linh nghi thức cúng lễ ở đền tháp và những để giải thích hiện tượng xã hội ấy. lễ hội dân gian hơn là chú tâm học tập Nếu như Bàlamơn giáo ở Ấn Độ kinh kệ. nghiêm khắc bao nhiêu thì ở Champa 4. Ảnh hưởng của kiến trúc, chế độ đẳng cấp rất mờ nhạt. Vì điêu khắc Ấn Độ đến nghệ thuật xây Bàlamơn giáo khơng những là quốc dựng tháp Champa. giáo mà cịn là hệ tư tưởng của giai cấp Thời cổ trung đại Ấn Độ đã cĩ thống trị, tơn giáo của đẳng cấp trên. Do một nền nghệ thuật phong phú đặc sắc, vậy, Bàlamơn giáo chỉ ảnh hưởng trong bao gồm nhiều mặt, trong đĩ nổi bật cung đình, dịng dõi quý tộc mà thơi. nhất là ngành kiến trúc, điêu khắc. Thời Champa tiếp nhận tư tưởng Bàlamơn Harappa, nhà cửa chỉ mới xây bằng giáo của Ấn Độ kết hợp với tín ngưỡng gạch, đến vương triều Morya nghệ thuật địa phương làm cho sắc thái của tơn kiến trúc đá mới bắt đầu phát triển mà giáo cĩ sự biến sắc rõ ràng. các cơng trình tiêu biểu là cung điện, Trong ba vị thần tối cao của chùa tháp, chùa tháp, trụ đá. Bàlamơn giáo là Braman, Siva, Visnu, Như vậy, tất cả những cơng trình thì thần Siva được coi trọng hơn cả, thể cơng cộng, cơng trình tơn giáo đều làm hiện qua vị trí nơi đặt tượng thần, bằng vật liệu bền, thể hiện sức mạnh uy thường là gian điện chính, nơi trung quyền của nhà vua và vương triều. Nĩi tâm, điều này thấy rõ ở các đền tháp chung nghệ thuật tạo hình Ấn Độ phần Champa. lớn nhằm vào đề tài tơn giáo, nhưng vì Tơn giáo Ấn Độ ảnh hưởng khá bắt nguồn từ cuộc sống thực tế, nên tính mạnh mẽ ở Champa từ niềm tin, tư hiện thực vẫn thể hiện rất rõ nét, ví dụ tưởng, tư duy về kĩ thuật, đến trang tượng nhiều tay nhiều đầu là phỏng theo phục đời thường. Dĩ nhiên cũng bị dân tư thế của đội múa trong đền chùa và gian hĩa nhiều nên trở thành bản sắc cung đình. riêng của Champa. Khi các tơn giáo Ấn Độ, vượt biên Bên cạnh niềm tin vào các vị thần giới qua các eo biển mà truyền qua Tích Ấn Độ, người Champa cịn thờ phụng Lan, Java, Cao Miên, Thailand, nhiều vị thần khác cĩ nguồn gốc siêu Mianmar, Tây Tạng, Khotan, nhiên hay những cơng thần khai quốc. Turkestan, Mơng Cổ, Trung Hoa thì Việc nhân thần hĩa được thờ phượng nghệ thuật Ấn Độ cũng lan tràn theo cùng với các thần linh Ấn Độ là điều vào các xứ đĩ. hiếm hoi chỉ thấy ở Champa. Champa cũng đĩn nhận dịng chảy Cĩ lẽ ngày từ Ấn Độ, Bàlamơn của nền văn minh Ấn Độ từ biển đơng. khơng cĩ người sáng lập, khơng hệ Một điều dễ nhận thấy kiến trúc đi cùng Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 37
  36. với tơn giáo. Hầu hết, các cơng trình động sống của cung đình, tầng đề là kiến trúc ở Champa đều phục vụ cho tầng âm chỉ gia cố nền mĩng cho vững nhu cầu tơn giáo, dù cho những tác chắc khơng cĩ trang trí. phẩm điêu khắc, kiến trúc đạt được giá Mỗi một ngơi tháp chỉ cĩ một lối trị mỹ thuật cao so với đương đại cũng vào chính cũng là vị trí đặt các nhân đều nĩi lên đề tài tơn giáo. thần (Vua được thần thành hĩa), đồng Trong suốt chiều dài lịch sử thời là thực hành các nghi lễ chính thức Champa, vương triều nào khi lên nắm vào những ngày lễ trong đại của quyền đều cho xây dựng hoặc trùng tu Bàlamơn giáo. Các mặt cịn lại đều là cơng trình tơn giáo để chứng tỏ sự tồn cửa giả và đĩng kín. tại của vương triều mình, phơ trương Hình thể của một tháp Champa bao sức mạnh quốc gia, nhưng quan trọng giờ cũng thu nhỏ dần khi càng lên cao. hơn cả vẫn nhằm vào mục đích tạ ơn Trên chĩp đỉnh thường đặt một Linga. thần linh qua việc dâng lễ vật cúng cho Người Champa đã tiếp thu kĩ thuật xây đền tháp. Vì đã phù trợ sức mạnh và dựng tháp từ Ấn Độ, nhưng qua bàn tay chiến thắng cho vương triều. kĩ sư Champa các khối tháp trở nên hài Như các quốc gia trong khu vực hịa, cứng rắn, mạnh mẽ, dễ gần gũi Đơng Nam Á cùng chịu ảnh hưởng văn nhưng đầy bí hiểm. Quan sát tháp ở bất minh Ấn Độ, vật liệu cơ bản và chủ yếu cứ vị trí đâu và vào lúc nào cũng thấy để xây dựng đền tháp là gạch và đá. Cĩ nét uy nghiêm tráng lệ. thể nĩi, Champa là bậc thầy về kĩ thuật 5. Ảnh hưởng của lịch pháp Ấn chế tác gạch, trải qua bao thế kỉ, những Độ đến cách tính lịch của Champa. tháp gạch Champa vẫn cịn tươi rĩi, màu sắc ánh hồng, vàng, kết dính với Từ rất sớm người Ấn Độ đã biết nhau một cách kì lạ mà nhiều nhà khoa chia một năm làm 12 tháng, mỗi tháng học cịn chưa thể giải mã hết. 30 ngày, mỗi ngày 30 giờ, cứ 5 năm thì thêm 1 tháng nhuận. Các nhà thiên văn Trên tổng thể thân tháp bằng gạch, học Ấn Độ cổ đại đã biết được quả đất những thợ điêu khắc đã chạm trỗ hoa và mặt trăng đều hình cầu, biết được văn, những con vật thiên liêng của quỹ đạo của mặt trăng và tính được các Hindu giáo hay cảnh sinh hoạt trong kì trăng trịn trăng khuyết. Họ cịn phân cung đình, rất sinh động và chân thật. biệt 5 hành tinh Hỏa-Thủy-Mộc-Kim- Đặc điểm của gạch Champa là mềm, Thổ, biết được một số chịm sao và sự xốp nên khi dựng xong hình thể, dáng vận hành của các ngơi sao chính. Tác tháp hồn chỉnh, sau đĩ sẽ chạm, khắc, phẩm thiên văn học cổ nhất của Ấn Độ khảm lên tháp những mơtip mà nhà vua là quyển Siddhantas ra đời vào khoảng và quần chúng nhân dân muốn gởi gắm thế kỉ V TCN. vào. Người Champa đã sớm tiếp thu và Tháp Champa thường gồm 3 tầng, biết cách tính lịch pháp. Khơng những tầng trên cùng là đặt các vị thần quốc thế các học giả trong triều đình Champa giáo, tầng giữa thường diễn tả hoạt lúc bấy giờ đã nghiên cứu và tính khá Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 38
  37. thạo vị trí di chuyển theo thời gian của một hệ thống lịch mới gọi chung là lịch các hành tinh để định thời gian một âm dương. cách chính xác. Như vậy, bên cạnh lịch Tây, người Từ ngày đầu dựng nước Champa đã Champa cịn cĩ 4 loại cách tính lịch tiếp thu hệ thống lịch Saka của Ấn Độ khác trong hoạt động tơn giáo. Chính một cách chủ động. Trong tiếng điều này, mặc nhiên gây khĩ khăn lớn Champa lịch gọi là Sakawi hay Takawi. trong cộng đồng vì thiếu sự thống nhất Một năm của người Champa là 12 về ngày tháng hành lễ và kiên cự trong tháng, một tuần cĩ 7 ngày. Cách tính lễ cưới, ma chay. Sự phân bố dân cư trên dựa vào sự vận hành của mặt trăng theo địa bàn tơn giáo kéo theo sự phân và của các chịm sao. hĩa khu vực sử dụng lịch pháp. Lịch pháp được ứng dụng khá rộng Kết luận. rãi trong nơng nghiệp để biết sự biến Từ thế kỉ II-XV, văn hĩa Champa đổi của tiết trời mà gieo trồng và chọn đậm nét ảnh hưởng văn minh Ấn Độ. giống vật nuơi cho thích hợp. Đồng thời Trong những năm đầu cơng nguyên văn Champa vốn là cư dân hoạt động mạnh minh Ấn Độ cũng từng lan tỏa đến Việt mẽ trên con đường hàng hải quốc tế, Nam. Điển hình là sự xuất hiện trung nên lịch được ứng dụng để xem ngày, tâm Phật giáo Luy Lâu ở Bắc Ninh. Tuy giờ dự đốn bão tố trước khi ra khơi. nhiên, do sự đơ hộ của Trung Quốc, Bên cạnh đĩ, mỗi một mùa tương người Việt bị nền văn minh Trung Hoa ứng với một kiểu thời tiết, đều diễn ra thống trị sâu sắc. những lễ hội cĩ tính chất cộng đồng Sự gặp gỡ của nền văn minh Trung như lễ Rija Nagar, lễ hội Kate để cầu Quốc và nền văn minh Ấn Độ thể hiện mưa thuận giĩ hịa, quốc thái dân an. rõ ràng ở Việt Nam và Champa trong tổ Hiện nay, người Champa quần cư chức đời sống kinh tế, chính trị, văn hĩa theo cộng đồng tơn giáo, nên lịch pháp xã hội. cũng theo lịch tơn giáo vì thực hành Khi Việt Nam, từng bước thốt khỏi theo lễ thức tơn giáo. Với ba nhĩm sự thống trị của Trung Quốc cũng là Chăm cơ bản tương ứng với 3 loại lịch giai đoạn Champa đã đạt được nhiều riêng và tất nhiên trong sinh hoạt cũng thành tựu văn minh. Trước nhu cầu phát sử dung Tây lịch. triển kinh tế đất nước và khắc phục - Người Chăm Braman cĩ Sakawi những gánh nặng do chính sách khai Ahier. thác thời Bắc thuộc để lại Việt Nam đã - Người Chăm Bani cĩ Sakawi kiến thiết lại đất nước. Awar. Các vương triều Việt Nam đã thi - Người Chăm Islam cĩ Sakawi hành một chính sách thống nhất và liên Islam. tục. Đĩ là chính sách Nam tiến, đã từng bước đẩy lùi nền văn minh Ấn Độ ở Trong vương triều Po Rome, đã cĩ Đơng Nam Á mà Champa là một đại sự kết hợp lịch Ahier và Awar tạo thành diện. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 39
  38. Cĩ thể nĩi rằng, sự sụp đổ của nền trong sử thi Mahabrata hay các thần hộ văn minh Champa là sự sụp đổ của nền pháp. văn minh Ấn Độ trước nền văn minh Về tơn giáo, khi tiếp nhận Hindu Trung Hoa. Vương quốc Champa khơng giáo ở từ Ấn Độ và một thời gian lâu cịn tồn tại nữa, nhưng những giá trị đặc dài trở thành quốc giáo thống trị trong sắc nhất của văn minh Champa vẫn cịn suốt lịch sử Champa. Hindu giáo trở bảo tồn và được các tộc người hậu duệ thành hệ tư tưởng chính trị để quản lí Champa lưu truyền. đất nước. Như các quốc gia cùng ảnh hưởng Quá trình tiếp biến Hindu giáo đã văn minh Ấn Độ, các Stupa tức Bimon làm cho nĩ khác với chính quốc rất Kalan (theo tiếng Chăm). Là ngơi đền nhiều điểm. Như Champa khơng cĩ sự thiêng liêng của quốc gia thờ các vị phân chia đẳng cấp nghiêm khắc như thần cĩ nguồn gốc Ấn Độ như Brahma, Ấn Độ. Mặc nhiên, ở Champa xuất hiện Siva, Visnu, Ganesa, Nandin cùng các nhiều bí ẩn, nghi lễ, nghi thức tơn giáo nhân thần. mới mà khơng hề tìm thấy ở Ấn Độ. Vì Ảnh hưởng về kĩ thuật xây dựng đền trước khi du nhập tơn giáo ở bên ngồi, tháp như việc chọn các vật liệu cĩ tính Champa là một nước nơng nghiệp. Bởi năng bền vững, các mơtip, các hình thể thế, họ gắn những nghi lễ nơng nghiệp tháp. Ví dụ : tháp Po Klong Garai ở gắn vào niềm tin tơn giáo tạo ra nhiều thành phố Phan Rang. Bên cạnh một nghi lễ mới trong quá trình thực hành tháp chính cịn cĩ hai ngơi tháp phụ là nghi thức tơn giáo. nơi để dâng lễ cĩ mái tháp hình yên Càng đặc sắc, khi dịng tư tưởng ngựa hay mái thuyền biểu tượng của Islam giáo mới du nhập đã kết hợp, hịa ngọn núi thiên liêng Meru ở Ấn Độ. lẫn với Bàlamơn tạo nên Bàni giáo. Cĩ Nét đặc sắc của đền tháp Champa là lẽ rằng, trên thế giới chẳng cĩ nơi nào ảnh hưởng kiến trúc Ấn Độ nhưng vẫn mà hai ý thức hệ tư tưởng hịa lẫn vào cĩ nét riêng, độc đáo chỉ thấy ở nhau được như ở Champa. Các tơn giáo Champa. Cĩ giống chăng là các tượng tồn tại song song với nhau. Đây là sự thần được thờ phượng trong các ngơi minh chứng cho tính dung hợp và khả tháp. năng tiếp biến những luồn văn hĩa từ Cịn điêu khắc của các đền tháp bên ngồi. Champa, ngồi hình tượng ngọn lửa ở Về văn học, trước khi tiếp thu văn các gĩc tháp ( như hình tượng rồng học Ấn Độ, văn học dân gian đã khá chầu nguyệt ở các ngơi đình người phát triển ở Champa như thần thoại, cổ Việt), cĩ nhiều hình tượng trang trí rất tích. Tiếp xúc với văn học Ấn Độ và sinh động, phổ biến hơn cả là những nét sau là Malaysia đã làm cho nền văn học chạm khắc trực tiếp lên thân tháp quan bác học Champa phát triển. Thể loại cảnh sinh hoạt, múa hát trong cung đình văn học này, thể hiện qua các bài minh của các vũ nữ Apsara, các nhân vật văn, các bài xướng ca, các câu thần chú được ghi trên bia đá. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 40
  39. Sự ảnh hưởng của văn học Ấn Độ rõ ngày. Nên vấn đề ngày, giờ tốt xấu rất nét nhất là bộ sử thi Mahabrarata và được chú ý trong đời sống. Ramayana, sự đứt đoạn, mất liên hệ qua Sự tiếp nhận lịch Saka của Ấn Độ lại cũng làm phai mờ sức truyền bá văn được ghi chép rõ ràng trên các bia kí học Ấn Độ. được tìm thấy. Tuy nhiên cách chuyển Về sau văn học Champa tiếp xúc lịch Saka để phù hợp với điều kiện thực qua con đường Mã Lai đã đưa văn học tế như thế nào thì ít được biết đến. Bởi Champa đạt nhiều thành tựu và để lại những tri thức về thiên văn học của nhiều tác phẩm cĩ gia trị như Deva Champa chưa được nghiên cứu nhiều. Mano, Ariya Nai Mai Mang Kah. Người Champa đã chuyển lịch Saka Những sáng tác văn học Chăm về sau sang Sakawi để phục vụ cho việc tiến vẫn giữ được nét đặc sắc riêng. hành các lễ hội dân gian, nghi lễ trong Về văn tự, quá trình cải biên chữ nơng nghiệp, đặc biệt là ngày hành lễ Brami của Ấn Độ đến Akhar Thrah tơn giáo. Champa là cả một thời gian lâu dài. Vai Tĩm lại, nền văn minh Ấn Độ một trị của Akhar Thrah rất quan trọng, là thời huy hồng khắp Đơng Nam Á đã loại chữ viết được dùng phổ biến và để lại nhiều di sản giá trị tuyệt vời về rộng rãi trong quần chúng, ghi chép tất mặt nghệ thuật. Trên cơ sở văn minh cả các cơng việc hành chính của vương Ấn Độ, người Champa đã tiếp thu cĩ triều, chép sử, sáng tác văn chương. chọn lọc và sáng tạo thành nét văn hĩa Điểm mới của Akhar Thrah là từ mẫu riêng, độc đáo cho riêng mình. Nền văn chữ Brami qua sự cải biến để ghi âm minh Champa ảnh hưởng sâu sắc văn tiết Champa. Và trên thế giới chỉ cịn minh Ấn Độ từ ý thức hệ quản lí thần người Chăm sử dụng hệ thống chữ dân với thuyết nhân thần. Akhar Thrah do họ sáng tạo ra. Sự giao lưu, tiếp biến văn hĩa dễ Ngày nay, Akhar thrah đang được nhận diện nhất là nghệ thuật điêu khắc sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, và kiến trúc ở các đền tháp cổ nằm khắp bởi sự cải biên làm mất đi tính trong miền Trung Việt Nam. Và nét Bàlamơn sáng của ngơn ngữ, chỉ vì mục đích đơn giáo cịn hiện hữu đến cách thức tổ chức giản hĩa để đưa vào giảng dạy trong xã hội. học đường, điều này làm cho chữ viết Chăm mất đi tính thống nhất và tạo ra Văn minh Ấn Độ đã được tiếp nhận cách viết khác nhau trong cùng một một cách hịa bình và hài hịa với văn ngơn ngữ. hĩa bản địa tạo nên văn minh Champa rực rỡ trong lịch sử Về lịch pháp, rất quan trọng đối với nghề làm nơng nghiệp và đi biển hàng Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 41
  40. THÁP CHÀM Ở PHAN RANG Tỉnh Ninh Thuận cịn nhiều di tích kiến trúc cổ của người Chăm là các tháp, các làng nghề truyền thống. Hiện nay, tỉnh cịn ba tháp cổ là: tháp Pơklơng Garai, tháp Hịa Lai, tháp Pơrơmê được Bộ Văn hĩa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia, nơi đây vẫn là điều bí ẩn đối với nến kiến trúc đương đại Tháp PơKlơng Garai Di tích tháp PơKlơng Garai được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, nằm trên đồi Trầu thuộc phường Đơ Vinh, cách trung tâm thị xã Phan Rang - Tháp Chàm 9 km về hướng tây bắc. Đây là một cơng trình độc đáo, được cơng nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật và điêu khắc Chăm. Tháp PơKlơng Garai gồm nhiều cơng trình lớn nhỏ khác nhau, nhưng hiện nay cịn lại ba ngơi tháp xây bằng gạch Chăm. Đĩ là tháp Cổng (cao 8,56m), tháp Lửa (cao 9,31m) và tháp Chính- tháp thờ vua PơKlơng Garai (cao 21,59m, mỗi cạnh rộng hơn 10m). Bố cục và cấu trúc của mỗi tháp là cả một cơng trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Mỗi cạnh, mỗi tầng và mỗi mặt của từng tháp được chạm khắc trang trí bằng các hoạ tiết gốm, đá với đủ loại hình người, hình đuơi rồng, hình lá, hình bị thần. Tất cả cơng trình chạm trổ, điêu khắc đều phản ánh đầy đủ ý nghĩa về nghệ thuật và tơn giáo của người Chăm Tháp Hịa Lai Cụm tháp Hịa Lai cịn cĩ tên là Ba Tháp, nằm ven quốc lộ 1A, cách Phan Rang 14km về phía bắc, được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ IX. Cụm tháp được các nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá là kiến trúc tháp cổ và đẹp nhất của dân tộc Champa. Đáng tiếc là ngày nay tháp chính đã bị sụp đổ, chỉ cịn lại tháp Bắc và tháp Nam, nhưng cũng trong tình trạng hoang tàn. Một thân tháp hình khối lập phương khỏe khoắn, nhơ lên từ một phần bệ vuơng và đỡ cả hệ thống các tầng tháp nhỏ dần. Các tháp cịn lưu lại những hoa văn được điêu khắc rất tỉ mỉ, tinh xảo và tuyệt đẹp trên vịm cửa, trụ ốp, diềm mái Tháp Pơrơmê Được coi là phiên bản của tháp PơKlơng Garai. Cĩ thể thấy sự thừa hưởng cĩ tính sáng tạo rất rõ nét ở cơng trình nghệ thuật kiến trúc này. Trong đĩ, Linga tám tay với khuơn mặt của vua thần hĩa Pơrơmê là một ví dụ. Hình bà Thu Chí (bà Trinh Nữ), vợ của vua ở miếu thờ với bộ ngực trịn, đầy đặn, nở nang và đơi mắt vơ cùng sống động của một cơ gái Chăm cũng nĩi lên điều đĩ. Thư mục chuyên đề Văn hĩa Chăm 42