Di dân ngoaị tỉnh vào thành phố Hà Nội: Vấn đề đăṭ ra và giải pháp
Bạn đang xem tài liệu "Di dân ngoaị tỉnh vào thành phố Hà Nội: Vấn đề đăṭ ra và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- di_dan_ngoai_tinh_vao_thanh_pho_ha_noi_van_de_dat_ra_va_giai.pdf
Nội dung text: Di dân ngoaị tỉnh vào thành phố Hà Nội: Vấn đề đăṭ ra và giải pháp
- Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 173-180 Di dân ngoaị tỉnh vào thành phố Hà Nôị: Vấn đề đăṭ ra và giải pháp TS. Đinh Văn Thông* Khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 25 tháng 8 năm 2010 Tóm tắt. Dòng người di cư từ nông thôn ra các thành phố lớn ngày càng tăng. Đây là một vấn đề lớn mà chúng ta đang phải đối mặt, đặc biệt là thủ đô Hà Nội. Một mặt, dòng người di cư vào Hà Nội có những mặt tác động tích cực như: góp phần đáp ứng nhu cầu về các loại lao động mà Hà Nội đang cần và qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, tình trạng di dân tự do cũng đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết như: vấn đề gia tăng sức ép về việc làm cho thành phố; quá tải về việc sử dụng các công trình cơ sở hạ tầng. Bài viết xin đề cập tới hai nhóm giải pháp cơ bản: thứ nhất là nhóm giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực; thứ hai là nhóm giải pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của hiện tượng di dân vào Hà Nội. * 1. Giớ i thiêụ nhất định. Về các nguyên nhân của hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị có thể đưa ra Dòng người di cư từ nông thôn ra các thành hai nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất, đó là phố lớn ngày càng mạnh mẽ, với tốc độ chóng nguyên nhân kinh tế: hầu hết các nhà kinh tế mặt, quy mô ngày càng lớn đã và đang tác động học, các nhà xã hội học đều nhất trí cho rằng không nhỏ đến mỗi gia đình và từng quốc gia. hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị có Đây cũng là vấn đề lớn mà Việt Nam đang phải thể được giải thích chủ yếu bằng nguyên nhân đối mặt, nhất là ở các đô thị lớn như Thủ đô Hà kinh tế. Những nhân tố thuộc nhóm nguyên Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. nhân này không chỉ bao gồm bởi lực đẩy quen Ngày nay, đã có rất nhiều lý thuyết nghiên thuộc từ nơi xuất cư như: thiếu đất canh tác, cứu về hiện tượng di dân. Di dân, hiểu theo thiếu việc làm, thu nhập thấp mà còn bởi lực nghĩa rộng là sự dịch chuyển bất kỳ của con hút từ những nơi nhập cư: cơ hội việc làm có người trong một không gian và thời gian nhất tính ổn định, thu nhập cao Các nghiên cứu định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời cho thấy: tiền lương, thu nhập, việc làm, mức hay vĩnh viễn. Hiểu theo nghĩa hẹp di dân là sự độ thất nghiệp đều ảnh hưởng đến việc đưa ra di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này quyết định di cư của người dân. Thứ hai, đến một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập nguyên nhân phi kinh tế, như: vấn đề chất nơi cư trú mới trong một không gian, thời gian lượng cuộc sống, những người di dân muốn có cuộc sống tốt hơn thông qua cuộc sống ở thành ___ thị, nơi có ánh đèn rực rỡ của thành phố, nơi đó * ĐT: (84) 916593668 có các phương tiện giao thông, phương tiện E-mail: thongdv@vnu.edu.vn 173
- 174 Đ.V. Thông / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 173-180 thông tin đại chúng được hiện đại hóa, nơi có Xem xét về đặc điểm tự nhiên: Thành phố hệ thống giáo dục, y tế, dịch vụ phát triển. Vấn Hà Nội nằm ở đồng bằng Bắc Bộ trù phú (diện đề về phong tục tập quán và các nhân tố xã hội tích Hà Nội mở rộng lên tới 3.324, 92 km2). Hà khác cũng tác động sâu sắc tới quá trình di dân Nội mở rộng hiện nay có một hệ thống sông hồ từ nông thôn ra thành thị, ví dụ như những dày đặc, thuận tiện cho giao thông đường thủy người di dân muốn thoát khỏi những ràng buộc cũng như các hoạt động nuôi trồng thủy sản truyền thống, những phong tục tập quán cổ hủ, nước ngọt. Với vị trí và địa thế thuận lợi, Hà lạc hậu ở nông thôn; vấn đề đi học của con cái Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và và đoàn tụ gia đình cũng là những lực hút của khoa học lớn; là đầu mối giao thông quan trọng dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. của cả nước. Khí hậu nhiệt đới gió mùa ở Hà Nội tiêu biểu cho khí hậu Bắc Bộ: mùa hè nóng ẩm và mưa nhiều, mùa đông lạnh khô và mưa 2. Thực trạng di dân đến Hà Nội ít, nhiệt độ trung bình là 23,60C, độ ẩm trung bình là 79%, lượng mưa trung bình hàng năm là Sở dĩ người dân thường đổ về Hà Nội (cũng 1,800 mm/năm. Hà Nội có hai dạng địa hình như các thành phố lớn khác) vì những nguyên chính là đồng bằng và đồi núi. Địa hình đồng nhân sau: Thứ nhất, do nông nghiệp nước ta có bằng chủ yếu thuộc địa phận Hà Nội cũ và một những bước phát triển vượt bậc trong việc tăng số huyện phía Đông của Hà Tây cũ, chiếm năng suất và sản lượng dẫn tới hiện tượng “dư khoảng 3/4 diện tích tự nhiên. Phần lớn địa hình thừa” lao động. Hơn 50% số người di dân lâu đồi núi thuộc địa phận các huyện Sóc Sơn, Ba dài và 90% di dân mùa vụ di chuyển đến các Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức [3]. thành phố lớn vì nguyên nhân này [2]. Đặc biệt Về đặc điểm kinh tế - xã hội: Hà Nội là một là vùng đồng bằng sông Hồng “đất chật người thành phố lớn và đông dân, có mật độ dân số đông”, thời gian dư thừa lao động chiếm tới 30 cao. Theo số liệu thống kê ngày 1/4/2009, dân - 40%, đồng thời mật độ dân số đông, diện tích số Hà Nội vào canh tác có hạn. Điều đó tất yếu dẫn đến việc khoảng “Thủ đô Hà Nội là trung tâm một bộ phận người lao động phải ra đi tìm việc 6.448.837 chính trị - kinh tế - văn hóa lớn ở các thành phố lớn nhằm tăng thêm thu nhập. người (chiếm của cả nước, với những lợi thế Sự khác biệt về tiền lương và thu nhập giữa các khoảng 7,5% về điều kiện tự nhiên và xã hội, vùng, đặc biêt giữa nông thôn và thành thị là dân số cả thực sự đã trở thành lực hút yếu tố thúc đẩy quá trình di dân tới đô thị. Họ nước), mật độ của dòng di dân ngoại tỉnh. chấp nhận những công việc nặng nhọc, vất vả dân số trung Trong năm 2010, số người di để mưu sinh và có tiền gửi về cho gia đình. bình là 1926 cư vào Hà Nội đã là con số 2 Thứ hai, Hà Nội (cũng như Thành phố Hồ người/km 52.588 người.” Chí Minh và các đô thị lớn khác) là miền đất (cao gấp 7,4 hứa của nhiều người về môi trường giáo dục lần so với cả nước). Hà Nội hiện có trên 4,000 và đào tạo, với điều kiện y tế và chăm sóc sức di tích và danh thắng, trong đó xếp hạng quốc khỏe tốt, đời sống văn hóa tinh thần phong gia trên 900 di tích và danh thắng; có hàng trăm phú, đa dạng các phương tiện thông tin đại đền, chùa, công trình kiến trúc, danh thắng nổi chúng và dịch vụ tiện ích khác Họ đến đây tiếng, nhiều lễ hội, ẩm thực phong phú, các làng để học tập, làm việc, mưu cầu một cuộc sống nghề truyền thống. Với đặc điểm đó, Hà Nội trở tốt đẹp hơn, sau đó lại kéo theo gia đình, thành một trung tâm du lịch lớn, du khách có người thân nhập cư để đoàn tụ. dịp khám phá nhiều công trình kiến trúc văn Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị - kinh hóa - nghệ thuật được xây dựng qua nhiều thế tế - văn hóa lớn của cả nước, với những lợi thế hệ trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, thực sự Hà Nội là trung tâm và đầu mối giao thông của đã trở thành lực hút của dòng di dân ngoại tỉnh. cả nước, từ đó có thể đi khắp mọi miền đất
- Đ.V. Thông / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 173-180 175 nước bằng bất cứ phương tiện nào. Đường bộ của thành phố. Trong lĩnh vực công nghiệp, Hà có hệ thống phương tiện giao thông công cộng Nội đã xây dựng hoàn chỉnh 9 khu công nghiệp (xe bus, taxi) phủ khắp thành phố, giao thông cá và 11 cụm công nghiệp nhỏ và vừa. Nhiều sản nhân (xe máy, ô tô), có các quốc lộ lớn chạy phẩm công nghiệp, trong đó có một số sản qua thành phố, như: QL1, QL2, QL3 Ngoài phẩm mới của ngành công nghiệp điện tử, công ra, Hà Nội cũng là đầu mối của tuyến giao nghiệp phần mềm, chế tạo khuôn mẫu đã thông đường sắt và đường hàng không trong đứng vững trên thị trường. Thời gian tới, Hà nước và quốc tế. Nội sẽ tiếp tục chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế Thành phố Hà Nội có khoảng 70 trường Đại theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông học, 20 trường cao đẳng 60 trường trung cấp, nghiệp, phát triển các ngành, các lĩnh vực và dạy nghề, nhiều trung tâm đào tạo của nước sản phẩm công nghệ cao Với những đặc điểm ngoài. Hàng năm có rất nhiều học sinh, sinh và lợi thế đó, Hà Nội thực sự là mảnh đất hấp viên tập trung về đây học tập. dẫn dân nhập cư. Hà Nội là một trong hai đầu tàu kinh tế của Số liệu thống kê về tỷ lệ và số lượng người cả nước, với các ngành dịch vụ, du lịch và bảo di cư vào Hà Nội thời gian qua được tổng kết hiểm giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế qua bảng số liệu sau (bảng 1): Bảng 1: Tỷ lệ và số lượng người di cư đến Hà Nội (2001 - 2010) 2010 Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 (*) Tỷ lệ tăng dân số 0,59 0,66 0,68 0,73 0,81 1,08 1,36 1,31 1,43 1,55 cơ học (%) Số người 16.985 19.570 20.768 22.964 26.245 35.218 46.240 44.540 48.620 52.588 Nguồn: Số liệu thống kê dân số Hà Nội qua các năm (*) số dự báo Từ bảng số liệu trên có thể thấy quy mô và 10,88%. Như vậy, di dân chủ yếu là người tốc độ của lượng người di dân vào Hà Nội qua trong độ tuổi lao động trẻ, khỏe. Hiện tượng các năm ngày càng tăng, chẳng hạn năm 2001 này có thể là do yêu cầu đối với lao động di cư, số người di cư vào Hà Nội là 16.985 người thì tính cạnh tranh trên thị trường lao động và một đến năm 2007 là 46.240 người, con số đó đã là phần tâm lý người trẻ thường thích sống ở các 52.588 người vào năm 2010. Như vậy, xu thế thành phố lớn. Nhìn về tổng thể, nam có xu chung trong những năm tới là số lượng người hướng di cư nhiều hơn đôi chút so với nữ. Tuy lao động ngoại tỉnh vào Hà Nội vẫn tăng lên nhiên, nhìn vào từng nhóm tuổi thì nữ chiếm ưu một cách nhanh chóng. Hiện tượng này nếu thế hơn ở các nhóm tuổi trên 30; còn ở các không có sự quản lý, điều tiết chặt chẽ sẽ gây ra nhóm tuổi dưới 30 số di dân nam nhiều hơn số những vấn đề phức tạp trong đời sống kinh tế di dân nữ. Sự gia tăng tỷ lệ nữ so với nam giới xã hội cho Thủ đô trong những năm tới. ở độ tuổi trên 30 trong số di dân có thể liên Phân tích về cơ cấu dân cư và lao động di quan tới việc đoàn tụ gia đình cũng như sự phát cư tới Hà Nội, thực tế đã cho thấy rằng, khoảng triển nhanh chóng của các loại hình kinh tế dịch 85% người di dân thuộc độ tuổi từ 15-29 tuổi, vụ đặc biệt cao nhất là ở độ tuổi từ 20-24 tuổi Về trình độ học vấn và chuyên môn kỹ chiếm 37,14% và độ tuổi từ 15-19 tuổi chiếm thuật, có thể thấy rằng, trình độ học vấn của 28,27%, tiếp theo là độ tuổi 25 - 29 tuổi chiếm người di dân lâu dài tương đối khá, không hề
- 176 Đ.V. Thông / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 173-180 thua kém với dân sở tại. Còn trình độ của nhóm đẩy sự phát trỉên đa dạng của các lĩnh vực và di dân mùa vụ thì thấp hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ các ngành nghề, dịch vụ, có ý nghĩa đối với sự những người di dân có trình độ học vấn phổ tăng trưởng kinh tế của quá trình đô thị hóa và thông cũng chiếm tới hơn 70%; chất lượng của công nghiệp dân số không những được đánh giá qua trình độ hóa. Chính học vấn phổ thông mà còn qua các cấp đào tạo “Những người di cư tới Hà Nội những người về chuyên môn. Số người di cư ra Hà Nội có góp phần bổ sung nguồn lực lao di cư tới Hà một bộ phận khá lớn là không có trình độ động, thúc đẩy sự phát triển đa chuyên môn kỹ thuật, họ làm việc theo thời vụ Nội để tìm dạng của các ngành kinh tế, sự hoặc không có nghề nghiệp cố định. Đây cũng kiếm việc tăng trưởng chung của toàn là một vấn đề đòi hỏi các nhà quản lý phải quan làm đã góp thành phố.” tâm. Thực tế cũng cho thấy số lao động giản phần bổ đơn vào Hà Nội chiếm một tỷ lệ khá cao và họ sung nguồn lực lao động cho thành phố, đặc làm đủ các nghề: nghề xây dựng và sản xuất thủ biệt là thúc đẩy phát triển ngành kinh tế dịch công; đạp xích lô và xe ôm, thu gom phế liệu, vụ, ngoài ra họ tham gia vào phát triển khu vực dịch vụ trong các nhà hàng Những người lao phi kết cấu góp phần thỏa mãn nhu cầu về các động này thường tập trung chờ việc ở các tụ ngành nghề như: mộc, nề, rèn ; cung cấp các điểm mà người ta quen gọi là các chợ lao động, mặt hàng lương thực và thực phẩm Hơn nữa, họ có thể thuê nhà trọ hoặc có nhiều người nghỉ họ cũng tham gia vào lĩnh vực hoạt động lao qua đêm ngay trên vỉa hè, lề đường một cách động phổ thông mà nhà nước chưa bao quát tạm bợ. Họ làm thuê bất cứ nghề gì, kể cả việc được trong quá trình đô thị hóa như: xích lô, nặng nhọc với tiền công thấp. Số lao động buôn bán rau, hoa quả, bán gạo, thường là nữ, họ đưa vận chuyển hàng hóa, chuyên chở hành khách lương thực, thực phẩm từ các tỉnh ngoài vào Hà và nhiều hình thức hoạt động lao động khác. Nội thuê nhà trọ gần chợ để tiện buôn bán. Nhìn chung, tác động tích cực của di dân ngoại Theo con số ước tính của Ban quản lý chợ tỉnh vào Hà Nội tới quá trình phát triển kinh tế - Đồng Xuân, số lao động này ở trọ quanh chợ có xã hội của thủ đô tuy không xác định được khoảng 500 người, họ đến từ vùng nông thôn chính xác, nhưng rõ ràng vai trò của nó là thuộc một số tỉnh ở sát Hà Nội như Hà Tây không thể phủ nhận. Người dân di cư ngoại tỉnh (cũ), Hưng Yên, Hải Dương Thu nhập của họ vào Hà Nội với mục đích tìm kiếm việc làm, sau khi trừ đi các khoản ăn uống và chi phí thiết tăng thu nhập. Tính năng động trong việc tìm yếu khác, hàng tháng tiết kiệm được khoảng kiếm việc làm của họ rất cao, tùy thuộc vào 400-500 nghìn đồng. trình độ chuyên môn, sức khỏe, khả năng của mỗi người để sẵn sàng tham gia vào các lĩnh 3. Vấn đề và giải pháp đối với dòng di cư vào vực khác nhau. Do đó, những người lao động Hà Nội này đã bù đắp cho nguồn lực lao động ở Hà Nội khi tham gia vào những công việc mang tính Qua thực trạng trên, chúng ta có thể đưa ra đánh chất lao động giản đơn, hoặc lao động nặng giá tổng thể và khách quan về tình trạng di dân nhọc nhưng rất cần thiết cho đời sống kinh tế, tự do đến Hà Nội. Di dân ngoại tỉnh đến Hà Nội xã hội. có mặt tác động tích cực, nhưng mặt khác nó Bên cạnh những mặt tích cực, tình trạng di cũng đặt ra những vấn đề khó khăn và phức tạp dân tự do tới Hà Nội tìm việc làm cũng đang trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đặt ra những vấn đề cấp bách trong quá trình đô. Những tác động tích cực có thể thấy: ở mức phát triển kinh tế xã hội. Bài viết đưa ra những vấn đề cấp bách nổi bật sau: thứ nhất, là vấn để độ nhất định, di dân vào Hà Nội góp phần thúc
- Đ.V. Thông / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 173-180 177 gia tăng sức ép về việc làm cho Thủ đô. Tình rác đó. Như vậy, dân số đông với tốc độ tăng trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở Hà Nội thực quá nhanh, trong khi khả năng xử lý rác thải tế đã tồn tại chưa đáp ứng được đang đặt ra một vấn đề lớn nay lại càng “Tình trạng di cư tự do đã khiến về tình trạng ô nhiễm vệ sinh môi trường của gia tăng do Hà Nội phải đối mặt với sức ép thành phố. tình trạng di thiếu việc làm, tình trạng quá tải - Nước sinh hoạt, mặc dù có những cải thiện dân ngoại về hệ thống cấp nước, nhưng lượng nước sạch về sử dụng công trình hạ tầng cơ thành vào bình quân đầu người của thành phố vẫn không sở và đặc biệt là vấn nạn ô nhiễm thành phố. tăng. Hiện nay, một số mạch nước ngầm của môi trường nghiêm trọng ” Đồng thời thành phố cũng bị ô nhiễm do khai thác quá tải đây cũng là nguyên nhân dẫn tới những mặt tiêu và không tuân thủ quy trình công nghệ khai cực khác phát sinh, tạo ra gánh nặng về mặt thác. kinh tế, xã hội cho thành phố. Thứ hai, là gây - Không khí và tiếng ồn, cùng với quá trình quá tải về sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở: đô thị hóa, với sự phát triển của công nghiệp và Những năm trở lại đây, Hà Nội tuy đã được giao thông vận tải đã làm tăng các loại khí gây Nhà nước chú ý đầu tư về cơ sở hạ tầng, về điều độc hại trong thành phố. Sự ô nhiễm trong các kiện nhà ở nhưng vẫn tồn tại hiện tượng thiếu khu vực gần nhà máy và các trục giao thông và không đồng bộ. Thực tế quỹ nhà ở, công chính vượt quá giới hạn cho phép, trung bình trình công cộng mới xây dựng mặc dù tăng trong 1m3 không khí ở Hà Nội có 80 µg bụi khí nhanh nhưng không đáp ứng được nhu cầu đô PM10, vượt tiêu chuẩn quy định 50 µg/ m3, bụi thị hóa (trường học, chăm sóc sức khỏe, cấp khí SO2 cũng vượt tiêu chuẩn châu Âu 20 µg/ thoát nước, điện sinh hoạt và vệ sinh môi m3, nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép trường đô thị). Các vấn đề này càng trở nên 2,5 lần [4]. trầm trọng hơn khi thêm vào đó khối lượng lớn Người lao động di dân thường sống trong người di cư ngoại tỉnh tới Hà Nội. những ngôi nhà tạm bợ, mà điển hình là các khu Về nhà ở, trong những năm gần đây, Hà nhà ở ven chân cầu Long Biên, họ làm đủ mọi Nội đã xây dựng mới hàng triệu m2 nhà để phục nghề như bán hàng rong, khuân vác, đánh giày, vụ nhu cầu của nhân dân. Song dân số đô thị xe ôm Hiện nay, Hà Nội đang phải chịu cảnh tăng nhanh đã làm giảm diện tích bình quân nhà buôn bán và làm các nghề dịch vụ tự phát lấn ở. Bên cạnh đó, hiện nay nhiều khu nhà hư hỏng chiếm lòng đường, hè phố, gây cản trở giao và xuống cấp, không an toàn hoặc đã hết hạn sử thông và mất trật tự đô thị. Ngoài ra, đã và đang dụng. Người di dân tự do vào Hà Nội thì vấn đề xuất hiện nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội từ tình nhà ở là vấn đề lo ngại nhất, đặc biệt với một số trạng những người di dân ngoại tỉnh về Hà Nội. người di dân mùa vụ do không đủ tiền thuê nhà. Vấn đề lớn thứ ba là tình trạng gây mất trật Họ thường tập trung ở các vỉa hè hoặc ở các khu tự công cộng và gia tăng sức ép về quản lý cho nhà trọ rẻ tiền, điều kiện ăn ở rất khó khăn. các cấp chính quyền. Các cuộc điều tra cho Về môi trường, quá trình đô thị hóa diến ra thấy, những người di chuyển về Hà Nội có nhanh và điều đó cũng tất yếu dẫn tới mâu những hạn chế nhất định về chuyên môn, tay thuẫn giữa môi trường và sự gia tăng dân số. nghề nên phần đông trong số họ phải làm đủ Những mâu thuẫn đó đã tác động không tốt tới các loại công việc. Cuộc sống tạm bợ qua ngày đời sống của người dân thành phố, ví dụ như: của những người lang thang và di dân tự do - Chất thải sinh hoạt, mức gia tăng dân số hình thành nên các tụ điểm chợ lao động như: quá nhanh hiện nay luôn gắn với việc ô nhiễm cầu Mai Động, Ngã tư Sở, dốc Minh Khai môi trường và gây bất lợi cho hệ sinh thái. Hà gây mất trật tự công cộng và mỹ quan thành Nội mỗi ngày có khoảng gần 2.000 m3 rác thải, phố. Sau khi làm việc căng thẳng và mệt mỏi, trong khi chỉ giải quyết được khoảng 50% số người lao động thường tập trung qua đêm ở các
- 178 Đ.V. Thông / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 173-180 xóm lao động và nhà trọ bình dân rẻ tiền. Điều viết xin đê cập đến những nhóm giải pháp cơ kiện nghỉ ngơi và sinh sống trong các khu vực bản sau: này không được đảm bảo. Do tính chất công - Thứ nhất là nhóm giải pháp nhằm phát việc, hàng ngày họ phải tiếp xúc với nhiều tầng huy những ảnh hưởng tích cực của di dân ngoại lớp trong xã hội, dễ dàng tiếp thu cả cái tốt và tỉnh vào Hà Nội. Vấn đề này cần đặt ra một cái xấu. Vì vậy, ở họ rất dễ mắc các tệ nạn xã cách cơ bản và là trách nhiệm của cả các cấp hội gây ảnh hưởng cho vấn đề an ninh trật tự và chính quyền trung ương và địa phương, bao khó khăn cho các nhà quản lý. gồm những yếu tố sau: Trên đây những vấn đề cấp bách đặt ra do + Cần phải có chiến lược quy hoạch mở tình trạng di dân tự do vào Hà Nội để kiếm việc rộng thành phố Hà Nội, phát triển các khu đô làm. Vậy, giải pháp để quản lý tình trạng di dân thị vệ tinh, thông qua đó giảm áp lực cho sự gia ngoại tỉnh đến Hà Nội được đặt ra như thế nào? tăng dân số quá mức ở khu vực nội thành, đồng Có một thực tế rằng, di dân ngoại tỉnh vào thời tạo thế phát triển về kinh tế và xã hội cho các thành phố lớn nói chung và Hà Nội nói Thủ đô trong tương lai. riêng là một xu thế tất yếu. Hiện tượng di dân + Chủ động thu hút và quản lý luồng di dân xuất phát từ sự chênh lệch mức sống giữa nông vào các ngành nghề phù hợp. Di dân ngoại tỉnh thôn và thành thị. Ngoài những nguyên nhân vào các đô thị lớn cũng như vào Hà Nội là một kinh tế, còn có những nguyên nhân phi kinh tế xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của khác mà chúng ta đã thấy ở trên. Vì vậy, các đất nước. Do vậy, cần có những biện pháp chủ nhà nghiên cứu, các nhà quản lý cần phải nắm động nhằm tổ chức thu hút lực lượng lao động bắt tính quy luật nội tại của hiện tượng di dân theo nhu cầu của thị trường thay vì hạn chế để vận dụng vào việc hoạch định các chính bằng các rào cản hành chính. Là một trong sách, biện những trung tâm kinh tế lớn của cả nước, tốc độ pháp điều “Các giải pháp quản lý và điều tiết tăng trưởng kinh tế của Hà Nội trong những tiết vì mục phải có tính đồng bộ cao, phải năm qua là khá cao (trên 10%). Bên cạnh khu tiêu phát mang tính hiệu quả cả về mặt kinh vực công nghiệp hiện đại, thì các hoạt động triển. Quan tế và xã hội, đảm bảo phát huy ảnh dịch vụ đời sống như các công việc nội trợ, điểm ở đây hưởng tích cực, đồng thời, hạn chế chăm sóc trẻ em, vận tải nhỏ, buôn bán nhỏ là không để những mặt hạn chế của tình trạng là các hoạt động mang tính truyền thống. Do quá trình di di dân ngoại tỉnh vào Hà Nội.” vậy, một trong những giải pháp vừa mang tính dân ngoại chất cấp bách, vừa mang tính chất lâu dài là tỉnh (đặc biệt là di dân mang tính chất thời vụ) phải hình thành và phát triển các loại hình dịch vào Hà Nội trở thành một quá trình tự phát, vụ để đáp ứng các nhu cầu kể trên. Việc phát nhưng đồng thời không nên duy ý chí, quản lý triển các loại hình dịch vụ có tổ chức thông qua quá trình này bằng mệnh lệnh hành chính một các trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm, ,các cách cứng nhắc. Chúng ta không thể cưỡng chế loại hình doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện thu nó bằng các biện pháp hành chính, nhưng cũng hút và quản lý hiệu quả hơn tình trạng di dân không khuyến khích hoặc từ chối hiện tượng ngoại tỉnh về Hà Nội, tránh được tình trạng tự này, một cách buông xuôi, tự phát. Vấn đề quản phát như hiện nay. lý và điều tiết hiện tượng di dân ngoại tỉnh vào + Hoàn thiện chính sách quản lý nhân khẩu, Hà Nội liên quan tới nhiều ngành, nhiều lĩnh hộ khẩu. Trước kia, trong cơ chế tập trung bao vực và các cấp quản lý. Do đó, các giải pháp cấp, việc nhập khẩu vào Hà Nội được quản lý quản lý và điều tiết tình trạng di dân ngoại tỉnh chặt chẽ không chỉ vì lý do an ninh mà còn vì lý vào Hà Nội phải có tính đồng bộ cao, phải do kinh tế như chế độ phân phối lương thực - mang tính hiệu quả cả về mặt kinh tế và xã hội, thực phẩm Hiện nay, khi chuyển sang cơ chế cả về trước mắt cũng như lâu dài. Ở đây, bài thị trường việc lưu chuyển lao động cũng linh
- Đ.V. Thông / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 173-180 179 hoạt và đa dạng hơn. Nhu cầu về các loại lao còn kém. Vì vậy, cần phải có các chương trình động đa dạng hơn. Do đó, việc quản lý nhân tuyên truyền nếp sống văn minh thông qua các khẩu hộ khẩu không phải chỉ là việc thực hiện phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, các thủ tục hành chính, mà còn cần lưu ý đến cũng cần có những chế tài và hình thức xử phạt các yếu tố kinh tế, xã hội khác như nhu cầu có hành chính đủ nghiêm minh đối với họ nhằm việc làm và đảm bảo đời sống - quyền cơ bản xây dựng nếp sống văn minh đô thị ngày càng của người dân. tốt hơn. - Thứ hai là nhóm giải pháp nhằm hạn chế + Thành lập các trung tâm hỗ trợ việc làm những mặt tiêu cực của tình trạng di dân ngoại cho người di dân. Đây là một giải pháp nhằm tỉnh vào Hà Nội. Ở đây có thể nêu lên những tạo điều kiện giúp người di dân tìm kiếm việc giải pháp cụ thể sau: làm, cũng như tăng cường quản lý người di dân + Cần phải quy hoạch nơi ở và nơi giao vào làm việc tại Hà Nội; đồng thời từng bước dịch việc làm cho người di dân theo mùa vụ. hình thành nên thị trường lao động phù hợp Đối với người di cư mùa vụ làm việc ở Hà Nội giúp nhà quản lý thực hiện tốt chức năng của thì vấn đề thông tin việc làm đóng một vai trò mình. quan trọng. Tuy nhiên, nhà ở lại là một vấn đề Tóm lại, tình trạng di dân các tỉnh ngoại khó khăn đối với họ. Do vậy, việc hỗ trợ về chỗ thành vào Hà Nội là một tất yếu khách quan. ở cho người di cư, ví dụ như: dịch vụ cho thuê Phân tích thực trạng trên, bài viết không chỉ chỉ phòng trọ giá rẻ, quy hoạch khu trọ cho người ra được nguyên nhân cơ bản, những vấn đề cấp di dân và nơi giao dịch việc làm là giải pháp bách về mặt kinh tế - xã hội mà vấn đề này thiết thực cho người di dân, đồng thời đem lại đang đặt ra. Qua đó, bài viết còn đặt ra yêu cầu hiệu quả tốt hơn cho nhà quản lý. cấp bách cần có những giải pháp hữu hiệu + Xây dựng và thực hiện các chính sách xã nhằm quản lý tình trạng, để đảm bảo Thủ đô Hà hội. Việc xây dựng các chính sách xã hội và đưa vào thực tế đối với người lao động đang là Nội phát triển một cách bền vững, xứng đáng là một yêu cầu thiết yếu hiện nay. Các chính sách Thủ đô nghìn năm văn hiến. đó nhằm giải quyết hàng loạt các vấn đề như: hỗ trợ việc làm, trợ cấp thất nghiệp, xóa đói Tài liệu tham khảo giảm nghèo, bảo hiểm y tế giúp cho người lao động có điều kiện thực hiện các quyền cơ [1] Micheal. P. Todaro (1998), Kinh tế học cho các bản của công dân, tạo điều kiện cho họ tham gia nước thế giới thứ ba, NXB Giáo dục tốt hơn vào thị trường lao động. [2] TS. Phạm Qúy Thọ - Mối quan hệ giữa di dân nông + Giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thôn - Hà Nội với vấn đề việc làm và mức sống thức cộng đồng, xây dựng nếp sống văn minh (2000). đô thị cho người di cư. Một vấn đề bức xúc [3] website: trong hoạt động của người dân di cư theo mùa [4] website: vụ là ý thức cộng đồng cũng như những hành ARTICLE/1790/2007-04-02.html động tự phát của họ làm mất mỹ quan đô thị
- Đ.V. Thông / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 173-180 180 Migration into the city of Hanoi: Problems and solutions Dr. Dinh Van Thong Faculty of Political Economy, University of Economics and Business, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract. The flows of urban to rural migration is increasing rapidly. This is a big challenge confronted by the big cities in Vietnam especially Ha Noi. On one side, the flows of urban to rural migration impact positively on Ha Noi such as satisfying the demands for laborers that the City is in bad need of and contributing to the socio economic development. On the other side, the migration has put pressure on the City and required to be tackled such as growing demand for employment, and overloaded use of infrastructure works. In this article, the author suggested two types of solutions including: firstly, the solutions to promote positive impacts and secondly the solutions to limit negative influences that go along with the migration in the city of Ha Noi.