Đề tài Vấn đề sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sinh viên hiện nay thực trạng và giải pháp (Phần 1)

pdf 9 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Vấn đề sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sinh viên hiện nay thực trạng và giải pháp (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_tai_van_de_su_dung_ngon_ngu_tieng_viet_trong_sinh_vien_hi.pdf

Nội dung text: Đề tài Vấn đề sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sinh viên hiện nay thực trạng và giải pháp (Phần 1)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP . S K C 0 0 0 2 8 1 MÃ SỐ: T2011 - 111 S K C 0 0 3 3 0 6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP MÃ SỐ: T2011-111 CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: ThS. ĐẶNG THỊ MINH TUẤN TP. Hoà Chí Minh, 2011
  3. 1 DANH SÁCH NHỮNG THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1. ThS. Đặng Thị Minh Tuấn 2. ThS. Trương Thị Mỹ Châu 3. CN. Nguyễn Thị Thủy
  4. 2 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng số 1.1: Độ tuổi Bảng số 1.2: Nghề nghiệp Bảng số 1.3: Trình độ học vấn Bảng số 2.1: Độ tuổi Bảng số 2.2: Giới tính Bảng số 2.3: Ngành học Bảng số 3: Nhận định về mức độ sử dụng các yếu tố trong tiếng Việt Bảng số 4: Nhận định về sử dụng tiếng Việt trong sinh viên hiện nay Bảng số 5: Tỷ lệ sinh viên các ngành sử dụng đúng từ ngữ, ngữ pháp, chính tả, phong cách văn bản trong tiếng Việt Bảng số 6: Đánh giá mức độ phổ biến của việc sử dụng tiếng nước ngoài trong sinh viên hiện nay Bảng số 6.1: Lý do sử dụng tiếng nước ngoài trong sinh viên Bảng số 7: Nhận định về loại hình ngôn ngữ “teen” Bảng số 7.1: Lý do sinh viên chọn loại hình ngôn ngữ “teen” Bảng số 7.2: Đánh giá về mức độ sử dụng ngôn ngữ “teen” trong sinh viên Bảng 7.3: Thói quen sử dụng ngôn ngữ “teen” của sinh viên Bảng số 8: Nhận định về hiện tượng lai căng, pha trộn, biến đổi ngôn ngữ trong sinh viên hiện nay Bảng số 9: Thái độ với giữ gìn và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong sinh viên hiện nay Bảng số 10: Ý kiến về việc thực hiện điều chỉnh, chuẩn hóa cách sử dụng tiếng Việt trong sinh viên hiện nay
  5. 3 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 4 3.1. Mục đích của đề tài 4 3.2. Nhiệm vụ của đề tài 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 5 5.1. Cơ sở lý luận 5 5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 5 6. Đóng góp mới của đề tài 5 7. Kết cấu của đề tài 6 Chương 1: TIẾNG VIỆT VÀ NHỮNG YÊU CẦU CHUNG CỦA VIỆC SỬ DỤNGTIẾNG VIỆT 7 1.1. Đặc điểm của tiếng Việt 7 1.1.1. Các đơn vị tiếng Việt. 7 1.1.2. Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt 12 1.2 Những yêu cầu chung của việc sử dụng tiếng Việt 15 Chương 2: SỬ DỤNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY 18 2.1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY 18 2.1.1. Sinh viên và các biểu hiện sử dụng ngôn ngữ trong sinh viên 18 2.1.2. Thông tin chung về phương pháp nghiên cứu, địa bàn và đối tượng khảo sát 2.1.2.1. Phương pháp nghiên cứu 22 2.1.2.2. Địa bàn khảo sát 23 2.1.1.3 Đối tượng khảo sát 23
  6. 4 2.2. NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY 29 2.2.1. Nguyên nhân của sự biến đổi về sử dụng tiếng Việt trong sinh viên hiện nay 29 2.2.2. Một số giải pháp giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong sinh viên hiện nay 33 PHẦN KẾT LUẬN 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
  7. 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tiếng Việt của người Việt Nam là một ngôn ngữ phong phú, giàu và đẹp. Ngay từ xa xưa, người Việt Nam đã có ý thức quý trọng tiếng mẹ đẻ của mình cũng như luôn chú ý trau chuốt, đề cao cái hay, cái đẹp trong lời ăn tiếng nói. Điều đó đã trở thành tư tưởng có tính chất chính thống trong thâm tâm của bao thế hệ người Việt. Hết thế hệ này đến thế hệ khác đã ra sức vun đắp, bảo vệ, nâng niu tiếng nói, chữ viết của dân tộc. Đó là vua Trần Duệ Tông xuống chiếu cho quân dân không được bắt chước tiếng nói của nước Chiêm, nước Lào; đó là Nguyễn Trãi với chủ trương người nước ta không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm và Chân Lạp để làm ngôn ngữ và y phục nước ta; đó là vua Quang Trung - Nguyễn Huệ muốn đưa tiếng Việt và chữ Nôm lên làm ngôn ngữ và văn tự chính thức quốc gia thay thế chữ Hán Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và luôn nhắc nhở việc giáo dục nhân dân phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Ngày nay, quá trình hội nhập với sự phát triển của thế giới, sự giao thoa văn hóa xã hội đòi hỏi ngôn ngữ phải có những thay đổi để đáp ứng các nhu cầu giao tiếp mới. Đứng trước những biến đổi của xã hội, tiếng Việt cũng dần dần xuất hiện những hiện tượng mới mẻ. Những từ ngữ, cách diễn đạt mới được hình thành để thêm vào những khái niệm, ngữ nghĩa mà trong vốn tiếng Việt trước đây còn thiếu vắng. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập, toàn cầu hóa, quốc tế hóa, bùng nổ công nghệ thông tin và kỹ thuật số như hiện nay, bên cạnh những mặt tích
  8. 6 cực, sự trong sáng, giàu đẹp của ngôn ngữ Việt gặp phải tác động không nhỏ của những biểu hiện tiêu cực. Không ít cách nói, cách viết khác lạ làm mất đi ít nhiều bản sắc vốn có của tiếng Việt, đặc biệt là trong giới trẻ. Hiện tượng sử dụng không đúng ngữ pháp, chính tả và hiện tượng lai căng tiếng nói, chữ viết của nước ngoài ngày một tăng trong giới trẻ đã gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với ngôn ngữ Việt. Thậm chí, có người còn lo ngại rằng, đến lúc tiếng Việt bị biến thể trong tư duy của những người trẻ. Tiếng mẹ đẻ vốn là một đặc trưng sống còn của một dân tộc. Một quốc gia hoàn toàn tự do độc lập thì ngôn ngữ của quốc gia ấy cũng phải độc lập, không được pha trộn, lai tạp với ngôn ngữ của các quốc gia khác. Để có một cái nhìn toàn diện hơn về sự biến đổi của ngôn ngữ tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay, nhất là đối với sinh viên và góp phần khẳng định sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt với tất cả lòng tự hào của người con đất Việt, nhóm tác giả chọn đề tài: “Vấn đề sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sinh viên hiện nay - thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề sử dụng, bảo vệ và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt là vấn đề được khá nhiều học giả, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu từ nhiều năm nay. Đặc biệt là trong những năm gần đây, khi đất nước ta mở cửa hội nhập với thế giới, hiện tượng sử dụng không đúng ngữ pháp, chính tả và hiện tượng lai căng tiếng nói, chữ viết nước ngoài ngày một tăng. Từng chữ, từng âm, từng cách viết, cách đọc đều bị thay đổi một cách kỳ lạ mà người ta vẫn biện minh theo suy nghĩ của mình là “đa dạng hóa” tiếng Việt. Chính điều này càng làm cho các tác giả, các nhà khoa học quan tâm sâu sắc hơn đến vấn đề sử dụng, bảo vệ và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong nhân dân đặc biệt là trong giới trẻ với nhiều khía cạnh khác nhau.
  9. 7 Nghiên cứu tiếng Việt ở góc độ ngôn ngữ học và thực hành ngôn ngữ có những công trình như: Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa của tác giả Cao Xuân Hạo, Nxb. Giáo dục, Hà nội, 2007; Ngữ pháp tiếng Việt tập 1 và tập 2 của tác giả Diệp Quang Ban, Nxb. Giáo dục, Hà nội, 2006 - 2007. Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng tiếng Việt chính xác, hiệu quả, có những công trình của tác giả Lê Trung Hoa như: Mẹo luật chính tả, Nxb. Sở Văn hóa - Thông tin Long An, 1984 và được Nxb. Trẻ tái bản năm 1994, 1998, 2001, 2004; Sổ tay mẹo luật chính tả, Nxb, Trẻ, Hà nội, 1986, tái bản năm 1995, 2001, 2003, 2005; Sửa lỗi ngữ pháp, Nxb. Giáo dục, 1990; Làm thế nào để viết đúng hỏi, ngã?, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, 2001. Nghiên cứu sự bảo vệ và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong các giai đoạn lịch sử có các công trình như: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ của thủ tướng Phạm Văn Đồng, Hội thảo khoa học năm 1979 ở Hà nội và một số bài báo của các tác giả khác như Hoàng Cúc, Vũ Khúc Gần đây nhất là hội thảo khoa học toàn quốc Giữ gìn và phát triển sự trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay được tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 với 91 báo cáo và tham luận từ 25 tỉnh thành, cơ sở đào tạo và nghiên cứu phản ánh những tình cảm thiết tha, lòng quý trọng tiếng Việt cũng như sự bức xúc, nỗi lo lắng về tình trạng thiếu lành mạnh trong sinh hoạt ngôn ngữ ở không ít người đang diễn ra trong xã hội; đồng thời phản ánh chiều sâu của tư duy khoa học về tiếng Việt và góp phần cải tạo thực tiễn lệch lạc của việc sử dụng tiếng Việt với mong muốn tiếng Việt được phát triển bền vững trong một môi trường nhiều thách thức như hiện nay. Tuy nhiên, trong tình hình phát triển hiện nay, vấn đề sử dụng, bảo vệ và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong giới trẻ, đặc biệt là trong sinh viên vẫn